Q.4 - Chương 21: CHÚA CỦA HỒ NƯỚC Minh Thúc vẫn còn do dự, cảm thấy Shirley Dương có chút phức tạp hóa vấn đề, đường rành rành ra đấy , lại cứ bắt phải leo lên cái tảng nham thạch dốc đứng kia. Tôi và Tuyền béo biết Shirley Dương xưa nay rất nghiêm túc thận trọng trong những chuyện này, chưa đùa cợt bao giờ, sốt sắng bảo mọi người phải tránh xa ra, chắc chắn là phát ra mối nguy hiểm nào đó rồi, huống hồ tôi nghe nàng cũng nhận ra ngay, con đường núi kia quả thực quá trơn nhẵn, ngay cả cỏ dại cũng có, chắc chắn phải đường cho người . Chúng tôi ở giữa hồ nước, rất gần con đường nhẵn bóng như gương kia, bất kể có con mãnh thú nào từ phía lao xuống, đều có cách nào chống đỡ được. Tôi bèn cuống quýt dùng cả tay lẫn chân kéo Minh Thúc và A Hương bơi về phía tảng nham thạch màu xanh lục ở bên trái hồ nước. Xung quanh cái hồ này tuy có rừng cây rậm rạp, nhưng chỗ có thể lên bờ lại nhiều, ngoài con đường trơn nhẵn dị thường kia, hai bên còn lại đều là những vách núi cheo leo trông lên thấy đỉnh, cộng với tảng nham thạch lớn màu xanh, cao chừng mười mấy mét ở bên trái, muốn leo lên cũng phải tốn ít sức lực. Chúng tôi bơi tới chân tảng nham thạch, vừa mới đưa tay chạm vào vách đá lạnh ngắt, bên tai nghe thấy tiếng đá vụn bị chà xát vang lên ở đầu bên kia của con đường núi, dường như có con vật to lớn nhanh nhẹn bò ra từ sâu trong rừng núi rậm rì. Mọi người đều ngẩn ra, thanh kia đến quá nhanh. Loài động vật có thể dùng cơ thể mài nhẵn cả con đường núi ấy nếu phải mãng xà khổng lồ cũng là mãnh thú sống sâu trong núi Côn Luân như cá sấu long vương, bất kể là gì, hẳn cho chúng tôi nếm đủ. Cả bọn liền gấp rút dùng cuốc chim leo núi móc vào tảng đá leo lên. Truyện "Ma Thổi Đèn " Hiềm nỗi vách đá có rất nhiều rêu, vừa trơn vừa dốc, cuốc chim có tác dụng mấy. Phi hổ trảo của Shirley Dương lại ở trong túi chưa lấy ra, đành phải tìm dây thừng leo núi thắt vòng, sử dụng kỹ thuật thòng dây cổ ngựa nàng học được ở Texas, tung lên quàng vào mỏm đá nhô ra. Thân thủ của Minh Thúc nom hề giống người hơn năm mươi tuổi chút nào, y như con vượn già, quả hổ danh là tay thủy thủ lão luyện biển. Khi phải chạy trốn giữ mạng lão nhanh chân hơn bất cứ ai, sột soạt vài cái là giật dây, tranh bò lên cái bục tự nhiên giữa lưng chừng khối đá trước rồi. Tôi và Tuyền béo, Shirley Dương ở phía dưới nâng A Hương, Minh Thúc ở đưa tay xuống kéo con nuôi. Sau khi Shirley Dương leo lên, mỏm đá mắc vòng dây thừng lung lay, Tuyền béo giật cái cả dây lẫn đá rơi tõm xuống nước. Shirley Dương chuẩn bị thắt lại dây thừng, tôi và Tuyền béo nghe thấy sau lưng vang lên tiếng "ùm" lớn, có thứ gì đó từ núi vừa trườn xuống, lặn sâu dưới mặt hồ. Shirley Dương và Minh Thúc liền nhanh chóng thòng dây thừng xuống đón chúng tôi. Minh Thúc vừa rồi đứng cao trông thấy con quái vật dưới nước. Lão khọm này xưa nay có cái tật, có khả năng là triệu chứng của bệnh liệt rung Parkinson giai đoạn đầu, hễ căng thẳng là tay cực run, bất kể cầm thứ gì, đều nắm chặt, sớm muộn gì rồi cũng thả rơi ra. Lúc này cũng thể, trong tay lão cầm đinh găm, định bụng cố định nó vào vách đá cho chặt, đột nhiên run run đánh rơi xuống nước. Tôi và Tuyền béo vừa mới bắt được sợi dây, ngờ còn chưa dùng sức kéo, cả cái dây lẫn đinh găm đều rơi cả xuống. Hai chúng tôi chỉ còn nước tức điên lên chửi lão đồ ngây ngây ngẩn ngẩn, đúng là vô tích . Shirley Dương định lấy sợi dây thừng khác ra, nhưng lập tức nhận ra kịp nữa, liền chỉ xuống dưới mặt nước :" Mau chui vào trong hang đá dưới nước trốn cái !". Tôi và Tuyền béo biết con quái vật dưới nước kia rốt cuộc là con gì, chỉ chắc chắn là thứ khó xơi. Trong chớp mắt nó lù lù xuất . Hai thằng bất đắc dĩ đành phải nín thở lặn xuống đáy. Hồ nước này sâu, nước trong vắt, những khối nham thạch bên dưới trắng tinh. Đáy hồ có vài lỗ thấm nước, ngoài ra còn có mấy cái hang lõm rất sâu, có thể là thủng lỗ chỗ. Địa mạo nơi này, trước khi ngập nước bị phong hóa, trở thành hồ nước đặc biệt. Trải qua hàng ngàn vạn năm vật đổi sao dời, những tảng nham thạch phong hóa chìm xuống đáy nước, có lẽ khi hồ này hết tuổi thọ, những hố lõm do gió bào mòn sụp xuống, nước của cả vùng hồ trong núi này xối thẳng xuống, tạo nên thác nước trong lòng đất. Truyện "Ma Thổi Đèn " Dưới nước, cá mú tùm lum cả, ngoài những con cá da trơn râu trắng số lượng đông nhất ra, còn có lác đác cá vảy đỏ nứt bụng và cá đuôi dài vây đen nữa, biết do vụ nổ vừa nãy ở Cánh cửa tai họa, hay là do con quái vật đột ngột trườn xuống hồ, chúng ràng rất bị kinh động, láo nháo bơi vào hang lẩn tránh. Cá râu trắng, trước khi cơ thể lớn lên đến kích cỡ như thế, có lẽ từng là phân chi của loài cá trê, chắc chắn thích nghi được với môi trường ngầm dưới lòng đất, sau cơn kinh hoảng ào ào chui vào trong Cánh cửa tai họa lại lũ lượt bơi về, có lẽ thà mạo hiểm cho con quái vật ăn thịt, còn hơn rời xa vùng hồ ấm áp thoải mái này. Tôi vừa lặn xuống dưới nước, phát ra trong bầy cá bơi hoảng loạn, có con vật dài chừng năm sáu mét, bốn chân ngắn, thân mình vằn vện đen trắng, trông giống con thằn lằn lớn, lại như quả ngư lôi, vừa cắm xuống dưới đáy nước liền lao mạnh về phía chúng tôi. Trong đầu tôi đột nhiên ra tên của mãnh thú, giao long vằn, con vật thích nóng sợ lạnh. Năm 1972 em bộ đội thi công dưới sông băng Mectabuchal ở núi Côn Luân, từng đào được xác đóng băng của con mãnh thú này, có người muốn đem làm tiêu bản, nhưng sau đó vì sao mà thành công. Bấy giờ chúng tôi còn rong ruổi mấy trăm dặm đường núi tới tham quan xác nó nữa. Đúng là xong rồi, của nợ này còn dữ hơn cả cá sấu long vương, da thô thịt chắc, đến cả súng đạn cũng khó mà làm gì nổi nó. Tuyền béo và tôi thấy con giao long vằn lao đến vùn vụt, hơi hốt hoảng, nhưng lập tức lặn xuống dưới tảng nham thạch hình thù kỳ dị chọc thẳng lên dưới đáy hồ, cái đầu hình tam giác cứng chắc của con giao long va vào tảng đá, tảng đá trắng giòn lập tức vỡ ra vô số khối đá vụn, nó lại tức khí lao vọt lên . Tôi chột dạ, xong rồi, nó định lao ra khỏi mặt nước tấn công Shirley Dương và bố con Minh Thúc tảng đá. Bỗng thấy bọt nước bắn tung tóe, con giao long lại xuống dưới hồ rơi đánh ùm cái, xem ra với sức bật vừa rồi, chưa đủ để nó chạm tới con mồi ở tảng nham thạch. Con giao long ngay sau đó lại cuộn tròn xông xxuống phía dưới, nhưng có vẻ như nó xác định mục tiêu cố định, cứ đâm chỗ nọ chọc chỗ kia, loay hoay trong hồ. Bầy cá chưa kịp lẩn tránh, bị nó nhai ngấu nghiến hết cả. Tôi nhân cơ hội đón lấy bình dưỡng khí của Tuyền béo hít hai hơi. Hai thằng nhân lúc rối ren lẩn vào cái hang ở đáy hồ. Trong hang cũng nêm chặt những con cá tị nạn, hai thằng chúng tôi với đàn cá chẳng ai để ý đến ai nữa, đứa nào lo phận đứa ấy. Tôi mau chóng hiểu ra ý đồ của con giao long vằn kia, nó ngừng quẫy trong hồ, là muốn đuổi những con cá nấp trong hang ra, những con cá râu trắng quả nhiên kinh hãi chịu nổi, từ trong hang bơi vọt ra xung quanh. Con giao long liền nhân cơ hội ấy mà đại khai sát giới, như thể nó có mối thâm thù huyết hận với bầy cá này hay sao ấy, chứ tuyệt đối chỉ đơn thuần là ăn cho no bụng. Trước đó bầy cá râu trắng kết thành ngư trận, có lẽ là để phòng ngự trước con thiên địch tàn bạo này. Nước hồ trong suốt mau chóng bị máu cá nhuốm đỏ, xác cá bị cắn nát trôi lập lờ khắp nơi. Tôi và Tuyền béo nấp trong động trông mà thấy rùng mình, muốn nhân cơ hội chuồn ra chân tảng đá để bò lên, có điều bò lên ít nhất cũng phải mất mấy phút, chẳng may giữa đường đụng phải con giao long vằn vện hai mắt đỏ ngầu này toi đời, tốc độ bơi trong nước của nó còn nhanh hơn cả ngư lôi, nếu thể dựa vào địa hình có lợi để né tránh, bất luận là ở đất liền hay ở dưới nước cũng thể có cơ hội sống sót, thôi đành nán lại dưới đáy hồ nhẫn nại đợi thời cơ vậy. Oxy trong bình dưỡng khí Tuyền béo mang theo còn nhiều nữa, trong lúc để ý, đáy hồ đột nhiên xuất cảnh tượng thảm khốc. Con giao long đuổi theo cắn đớp loạn xị bầy cá, vừa vặn bơi tới trước cửa hang chúng tôi náu mình. Bấy giờ chỉ thấy trong khoảng nước lẫn máu tươi có bóng trắng vụt qua. Con cá râu trắng già ở đáy hồ xuất từ lúc nào. Nó oằn mình, quật đầu, húc cú thô bạo vào cái bụng mềm yếu nhất mình con giao long. Con giao long bị húc lộn nhào trong nước, oằn cả thân mình quái dị, nhưng lập tức lao thẳng đến, đớp ngay vào sống lưng con cá già râu trắng. Loài cá râu trắng này tuy có vảy, nhưng da nó lại có những vảy thịt lăn tăn như vệt sóng, hết sức rắn chắc, nhất là con cá này già, thân hình to lớn, vảy thịt của nó càng rắn chắc bội phần. Con giao long cậy có răng nhọn, da dày, móng sắc, con cá râu trắng già kia sống lâu năm, kinh nghiệm phong phú, thân hình vừa dài vừa to, vảy thịt kiên cố, có bị cắn mấy phát cũng đến nỗi chí mạng, đôi bên quấn lấy nhau, nhất thời khó mà chia tách ra được. Cả vùng hồ như có xoáy nước lớn, nhưng do nước từ lòng núi đổ vào rất nhiều, lượng nước thấm qua các lỗ thấm ở đáy hồ cũng ít, bao nhiêu máu me tuôn ra tới đâu là bị cuốn tới đó, nước trong hồ vì thế mà vẫn trong suốt sáng trắng. Tôi và Tuyền béo nhìn thấy hiểu ra ngay đây chẳng khác nào cuộc giao tranh giữa hai con hổ dữ, quyết chiến vì tranh giành đất sống. Nhưng vì sao chúng lại quyết chiến mất còn ác liệt như vậy? Phải chăng vì chất nước đặc biệt của hồ? Hay là vì thù oán giữa hai loài thiên địch? Chúng tôi tài nào luận đoán ra được, nhưng muốn thoát khỏi mặt hồ phải tranh thủ ngay lúc này, liền chia nhau hít hết số oxy còn lại trong bình dưỡng khí, tránh xa cuộc ác chiến giữa con giao long vằn và con cá già râu trắng, men theo rìa nham thạch, bơi lên khỏi mặt nước. Shirley Dương từ tảng đá quan sát tình hình dưới hồ, còn nhìn hơn chúng tôi nhiều, thấy chúng tôi nhân cơ hội bơi lên, liền thả dây thừng xuống, lần này dám để cho Minh Thúc giúp tay nữa. Khi tôi leo được lên tảng đá, quay lại nhìn xuống, con cá già chiếm thế thượng phong, húc con giao long xuống dưới đáy hồ, miệng con giao long hộc cả bọt máu, trông chừng thể chống chọi được nữa. Đợi đến khi tôi leo hẳn lên tảng nham thạch, phát ra tình thế đột ngột thay đổi, từ con đường núi kia lại có con giao long to hơn nữa bò ra, con cá già râu trắng chỉ chăm chú đối đầu đằng trước, mà hề phòng bị phía sau, con giao long vằn kia lẻn tới đớp chặt lấy mang cá, lôi nó vào trong hang động lớn nhất ở sâu dưới đáy hồ. Truyện "Ma Thổi Đèn " Xem chừng cuộc ác chiến tranh đoạt vương vị ở hồ nước này sắp đến hồi kết thúc, Tuyền béo vuốt nước mặt :" Đợi chúng cắn nhau xong, ta còn phải tranh thủ thời gian xuống vớt ít thịt cá. Minh Thúc vứt cả túi thực phẩm sau bức tường thủy tinh rồi, bằng tối nay chúng ta chết đói cả lũ". Tôi với cậu ta :" Dưới nước nguy hiểm lắm, đừng vì con săn sắt mà thả con cá rô như thế. Trong ba lô của tôi còn đồ ăn đấy, ta có thể dựa theo cách năm xưa chủ tịch dạy chúng ta, lúc bận ăn khô, lúc rảnh ăn nhão, lúc bận rảnh, ăn nửa khô nửa nhão, mọi người ăn tiết kiệm chút, có thể đối phó được hai ba ngày". Tuyền béo :" Có thực mới vực được đạo bố ạ. Lát nữa tôi thế nào cũng phải bắt cá, trong chốn rừng thiêng núi độc này làm gì có lúc nào nhàn rỗi, có khi sắp tới lại đụng phải con gì cũng nên, chết xuống phủ làm ma đói cũng vẫn bị bắt nạt thôi". Shirley Dương chăm chú theo dõi động tĩnh dưới hồ, ràng vẫn cảm thấy cuộc ác chiến dưới hồ vẫn chưa kết thúc, nghe thấy tôi với Tuyền béo chuyện, bèn lên tiếng :" Cá ở đây thể ăn đâu. Năm xưa cư dân ở thành Ác La Hải đều biến mất chỉ trong đêm, người bên ngoài hiểu có chuyện gì xảy ra. Những câu chuyện xoay quanh hủy diệt của thành Ác La Hải nhiều lắm, nhưng ở Tây Tạng quả thực từ xưa có tục ăn cá, vả lại cả bầy cá râu trắng to thế này cũng quả thực rất cổ quái, chúng ta tốt nhất đừng tự chuốc phiền phức ..." Trong dòng nước giữa hồ, bỗng nhiên xuất hàng vạn con cá râu trắng, ních kín lại với nhau, dường như muốn xuống đáy hồ giải cứu con cá già. Bấy giờ sắc trời muộn, hoàng hôn nhá nhem, để xem cho hơn, tôi leo lên chõ cao nhất tảng đá. Cảnh vật ra đằng sau tảng đá còn khiến người ta giật mình choáng ngợp hơn cả trận kịch chiến của bầy cá giữa hồ. Phía sau tảng nham thạch là vùng đất trũng thấp hơn so với mặt hồ, có tòa thành cổ bằng nham thạch bị phong hóa thủng lỗ chỗ như tổ ong, ít nhất cũng có mười mấy tầng, chót vót cắm giữa vùng đất trũng, vây quanh toàn là những tảng nham thạch trắng ơn ởn, các hốc lỗ bên nhiều đếm xuể. Khu vực này khác hẳn với vùng rừng rậm thâm u xung quanh, có bóng cây lụn cỏ nào cả. nóc tòa thành trông như tổ ong kia, có quả nhãn cầu làm bằng khối đá lớn, lẽ nào đây chính là thành Ác La Hải trong truyền thuyết cổ xưa? Vậy nhưng tôi hề cảm thấy vui mừng chút nào vì lặn lội vạn dặm trường tới đích, mà ngược lại tóc gáy dựng hết cả lên, bởi điều khiến người ta rợn người là, trong tòa thành này những đèn đuốc sáng trưng, mà còn rặt mùi chết chóc nặng nề. Ráng chiều trùm lên thành Ác La Hải lốm đốm ánh đèn như những vì sao, làn sương mơ hồ nửa hư nửa thực bao trùm khiến cảnh tượng trở nên mờ ảo vô cùng. Có vẻ như cư dân trong tòa thành cổ này đốt đèn, chuẩn bị đón bóng đêm buông xuống, nhưng trong thành lại im lìm vắng lặng như chết, có chút cảm giác có sống nào. Mới nhìn qua, tôi vã cả mồ hôi, tương truyền cư dân trong thành này đều mất tích cách kỳ lạ, những tín đồ Luân Hồi tông đời sau cũng tuyệt diệt cách đây mấy trăm năm rồi, trong thành sao lại có thể có ánh sáng của đèn đuốc cho được? Mà tòa thành có thể chứa hàng vạn người lại có mảy may động tĩnh gì, xem chừng nó phải là "thành chết" mà là tòa "Thành ma". Đúng lúc tôi kinh ngạc khôn cùng, những người còn lại cũng lục tục leo lên đỉnh tảng nham thạch. Tất cả đều giống tôi, nhìn thấy tòa thành cổ sót lại giữa hai thế giới sống và chết, đều ngây người ra hồi lâu được lời nào. Tương truyền thành cổ Pompeii thời La Mã bị phá hủy chỉ trong đêm do núi lửa phun trào. Trong các đợt khai quật khảo cổ sau này, người ta phát ra cư dân trong thành khi chết đều giữ nguyên bộ dạng sinh hoạt bình thường trong nhà, trạng thái của tòa thành Pompeii vĩnh viễn ngưng kết lại trong khoảnh khắc bị hủy diệt ấy. Vậy mà tòa thành cổ trước mắt chúng tôi, cư dân sống trong đó dường như bốc hơi đâu hết cả, chỉ còn mỗi tòa thành lỗ chỗ như tổ ong, đèn đuốc thắp sáng, đứng sừng sững trong sắc chiều bảng lảng. Nó được giữ lại hoàn hảo như vậy, khiến người ta cảm thấy dường như nó thoát ra khỏi xiềng xích của thời gian, trong mấy ngàn năm nay chưa từng có bất kỳ thay đổi nào. Rốt cuộc trong thành xảy ra tai họa gì? Chúng tôi đều khỏi nghĩ đây là "thành ma ảo giác", có điều hỏi A Hương lại nhận được câu trả lời phủ định, nơi này đích thực tồn tại hẳn hoi, hoàn toàn phải là "thành ma ảo giác" do vong linh của người chết dựng nên. Chúng tôi bàn bạc xem phải vào thành thế nào, bỗng nghe thấy tiếng nước hồ dưới kia sôi lên cuồn cuộn. Trời vẫn chưa tối hẳn, từ cao nhìn xuống, cả vùng hồ trong suốt như pha lê trước mắt, con cá già râu trắng và hai con giao long sau hồi ác chiến phân thắng bại, hàng ngàn hàng vạn con cá râu trắng gắng hết sức mình dùng cơ thể húc vào con giao long, để giúp đỡ cụ cố của chúng. đỉnh đầu của cá râu trắng đều có vết chàm đỏ, chỗ đó dường như là rắn chắc nhất của chúng, mỗi con trung bình đều dài tầm nửa mét, nếu lao vụt về phía trước có thể đủ húc cho người ta hộc máu ra. Đôi giao long vằn kia tuy hung bạo, ngoan cường, bị tám chín con cá lớn húc vào cũng cảm thấy gì, nhưng hàng vạn con cá lớn cùng lúc tấn công điên cuồng tài nào đỡ được, huống hồ con cá già lại nhân cơ hội phản công, đôi giao long chống trả được, đành chuồn vào rừng rậm bờ hồ, quật cây cối nghiêng ngả, chỉ trong giây lát mất tăm mất tích. Con cá già bị thương khắp mình nổi lên mặt hồ, vây thịt bị con giao long cắn đứt, hai mang cũng bị xé rách mảng lớn. Các con cá con cá cháu của nó vây quanh lại, há miệng ngậm chặt vết thương, cá râu trắng tụ tập lại càng ngày càng nhiều, thoáng cái, lần nữa vây thành ngư trận, cả khoảng bóng đen sì ngợp mắt, che kín hết mặt hồ. Tôi trông vòng ngư trận từ từ chìm xuống đáy hồ, bụng nghĩ giữa cá râu trắng và giao long vằn chắc chắn thường xuyên xảy ra xung đột quyết liệt. Giao long vằn dường như chỉ muốn giết sạch bầy cá này, mà chỉ để săn mồi ăn cho no bụng, nhưng bầy cá có cá chúa thống soái, giao long vằn tuy lợi hại, cũng khó mà ăn hiếp được. Lẽ nào mâu thuẫn giữa chúng, chỉ là do xuất phát từ ham muốn chiếm đoạt khu hồ phong hóa hiếm thấy này sao? Khu hồ này rốt cuộc có chỗ nào đặc biệt?Điều này có lẽ liên quan tới rất nhiều bí mật cổ xưa, có điều trước mắt cần để ý bấy nhiêu thứ ấy làm gì, tranh thủ trời còn chưa tối hẳn, tiến vào thành Ác La Hải cái
Q.4 - Chương 22: ĐẦU BÓ Shirley Dương hỏi tôi xem có phải trực tiếp tiến vào thành .Trong thành ràng là sáng đèn,nhưng lại im lặng đến kỳ lạ,bấy nhiêu vẻ quái dị như vậy,thực khiến người ta nhìn mà phát hãi. Tôi với Shirley Dương:" vào hang cọp sao bắt được cọp con.A Hương trong tòa thành này có thứ gì sạch ,tôi nghĩ bao mươi sáu kế của ta thất bại cũng thất bại rồi,giờ chẳng còn gì phải sợ cả.Chỉ có điều tòa thành cổ này quả thực từ trong ra ngoài đều toát lên luồng tà khí,dường như còn chứa số bí mật khó tưởng tượng,chúng ta chỉ còn cách bất chấp cái vẻ quái gở đó,thẳng tiến là thẳng tiến thôi!" Vậy là mọi người xốc lại đồ đạc vật dụng,tìm đường vào thành. Tòa thành cổ trông như cái tổ ong lớn,lún sâu vào đất,tường thành màu trắng vây quanh dường như chỉ để làm cảnh, có mấy tác dụng phòng ngự quân ,nhưng quy mô rất lớn,muốn vòng xuống cũng phải tốn rất nhiều sức.Có rất nhiều làn sương mỏng kỳ lạ chờn vờn trong thành.Các căn nhà ở nơi đây toàn là những hang động trong tổ ong nối thông với nhau.Chúng tôi sợ lạc đường, dám mạo hiểm vào,chỉ đứng ở ngoài nhìn vào mấy cái động,càng nhìn càng thấy khiếp vía. Trong thành bóng người,nhưng mười nhà có tới bảy tám nhà đốt đèn,mà đều phải loại đèn trường minh vĩnh cửu gì,toàn dùng nhiên liệu cổ xưa chế từ phân khô của thú hoang kết hợp với hỗn hợp mỡ dầu,vẻ như vừa mới được thắp lên chưa lâu.Hơn nữa thành trì động huyệt tuy cổ xưa,lại tuyệt nhiên bị tàn phá như những di tích cổ ngàn năm, số đồ vật và da thú bên trong trông như mới,còn có những chén uống rượu bằng nửa hộp sọ mài nhẵn bóng.Thời gian nơi đây quả thực như đông kết lại,có lẽ dây phút ngưng đọng định hình này chính là khoảnh khắc cư dân trong tòa thành này biến mất. Chúng tôi bàn bạc chút,đều thấy là giữa đêm đen cứ lung tung trong thành rất dễ lạc đường.Vả lại đường phố Ác La Hải,và cả những công trình quan trọng của tòa thành như trung tâm hành chính,giáo dục,thờ tự,có khả năng đều nằm sâu trong tổ ong lớn kia.Tòa thành với ngàn vạn hộ dân cư này là kết cấu hoàn toàn khác thành trì bình thường,nên cách yên ổn nhất trước mắt là đợi sáng mai nhìn kết cấu tổ ong ở ngoại vi ,rồi tìm đường tắt thâm nhập vào đàn tế,quyết thể lỗ mãng bừa vào được.Lúc cần phải làm thằng khốn nạn,tự nhiên mặt khốn nạn,song lúc cần phải cẩn thận cũng quyết được manh động. Chúng tôi vốn định tới tường thành ở đó qua đêm,nhưng khi qua hang động ở chân tương,Tuyền béo như chó săn đánh hơi thấy con mồi,khịt khịt mũi :"Mùi gì thơm thế nhỉ?Hình như nhà ai hầm thịt bò.Kệ thây thằng Ma Vương chứ,cái này quả là gãi đúng chỗ ngứa của ông béo mày rồi!" Nghe Tuyền béo ,bản thân tôi dường như cũng ngửi thấy mùi thơm của thịt bò hầm tỏa ra từ cái động kia,mà tôi rầu rĩ vì thực phẩm còn ít ỏi, đủ phân phát.Vừa nãy ở ven hò là có thể đối phó được hai ba ngày,cũng chỉ để an ủi đồng bào thôi,chứ thực ra nào có đủ ăn bữa đâu.Giờ này lại ngửi thấy mùi thịt,đương nhiên phải vào đó xem thế nào rồi.Vậy là liền cùng Tuyền béo dẫn đầu đoàn tiến vào căn phòng trong hang. chiếc nồi đá trong phòng quả thực hầm như thịt bò Yak,hơi nước cuộn lên sùng sục,mùi thơm sực mũi, là ngon đáo để. Tuyền béo nuốt nước bọt, với tôi:"Nhất này,ta đúng là ước gì được nấy nhỉ,cứ bảo pho mát thơm ngon,nhưng chẳng bằng món ăn tsampa Tây Tạng,mà tsampa tuy ngon,nhưng ăn lại no lâu bằng thịt bò Yak.Nồi thịt bò này được chuẩn bị cho mình đấy nhỉ?Thứ này...có thể ăn được chứ? Trong tòa thành cổ bóng người,lại có thịt bò hầm vừa chín tới,quả thực khó mà dùng lý lẽ thông thường để dò đoán được.Tôi nhớ vụ cải tạo lao động thời Cách mạng Văn hóa,ở trong núi Tim Trâu có thế chín rồng chầu sen ngọc từng ăn phải hoa quả rởm của con mụ già,đây liệu có phải là thành phố ma của những u hồn ?Toàn là bùa mê thuốc lú,ếch nhái,giun đất đánh lừa con mắt,ăn vào là đau bụng chăng?Nghĩ đến đây,tôi bần thần cả người,trong lòng tuy rất muốn lực miếng thịt bò chín nhừ to đánh chén bữa,nhưng lý trí mách bảo,thứ thịt này lai lịch bất minh, ăn hơn,trông giống thịt bò đấy,nhưng ai dám chắc phải là thịt người chứ. Minh Thúc lúc này đói hóp cả bụng.Lão và Tuyền béo đều hau háu nhìn những miếng thịt bò trong nồi,cứ nhìn chằm chằm như thế cả hai chắc no mắt lắm rồi. Tôi hỏi Shirley Dương nhìn nhận thế nào về nồi thịt này,Shirley Dương lắc đầu cách rất dứt khoát,lại hỏi A Hương để xác nhận lại lần nữa,nồi thịt hầm này,thực là nồi thịt , hề giả mạo chút nào. Tuyền béo nghe A Hương vậy,chẳng đợi được nữa,cũng chẳng sợ nóng bỏng,thò tay bấu lấy miếng thịt bò bỏ vào mồm:"Tôi xả thân vì nghĩa,nếm trước hộ các đồng chí,trong thịt này có thuốc độc gì nó ngấm vào người tôi trước."Cậu ta vừa ăn vừa ,mà chưa hết câu, ăn bảy tám miếng thịt vào bụng rồi,muốn ngăn lại cũng ngăn nổi. Chúng tôi chờ lúc,xem chừng Tuyền béo ăn xong có vấn đề gì,lúc ấy cậu ta xực vơi nửa nồi thịt bò,chờ thêm nữa mả mẹ nó đến rau cũng chẳng còn mà húp ấy chứ.Nếu có độc, có gì mà dám ăn,thế là mọi người hạ quyết tâm thà chết cũng chịu làm ma đói,dùng do lính dù xọc thịt bò trong nồi nhấc ra ăn. Tôi ăn đột nhiên nhớ ra việc,liền với Minh Thúc:"Ngày mai,trời vừa sáng là ta phải tiến sâu vào trong tổ ong lớn kia.Liệu phải đối mặt với những nguy hiểm gì còn chưa biết,tôi đoán cũng chẳng yên bình gì đâu.Bác và A Hương cứ ở lại ngoài thành cho an toàn,đợi chúng tôi xong việc ra đón hai bố con." Minh Thúc mồm nhét mấy miếng thịt bò,muốn lắm nhưng được,vội vàng nuốt chửng luôn nghẹn ứ ở cổ họng, lúc lâu sau mới với tôi:"Chúng ta sớm muộn cũng là người nhà,sao lại khách sáo thế? và A Hương tuy có bản lĩnh lẵm,nhưng vẫn có thể giúp chú phần nào cơ mà." Lúc trước Minh Thúc gả A Hương cho tôi,nhưng đấy là chuyện bàn riêng giữa hai người,tôi chưa hề đồng ý.Bây giờ lão ta lại sớm muộn gì cũng là người nhà gì gì đó,Shirley Dương nghe thấy bèn lập tức hỏi:"Cái gì người nhà cơ?Bác định làm thông gia với nhà Nhất này á?" Minh Thúc đáp:"Đúng rồi, thấy chú Nhất nhân phẩm quá tốt,mà trai khôn dựng vợ, lớn gả chồng, lại là người lớn, phải lo cho chúng thôi.Con nuôi gả được cho chú ấy coi như có thể trông cậy được cả đời rồi, chết cũng nhắm mắt,cũng coi như có gì khuất tất với bộ mẹ ruột của A Hương." Tôi vội ngắt lời lão:"Hàng ngàn năm trở lại đây,máu của nhân dân lao động Trung Quốc chảy thành sông thành bể,có đấu tranh có thất bại,có thất bại rồi lại có đấu tranh,cho đến khi giành được thắng lợi cuối cùng mới thôi,tất cả cũng là vì lật đổ ba ngọn núi lớn đè mình nhân dân Trung Quốc. nửa quãng đời của tôi được thay đổi,đến giờ lại muốn sắp đặt cuộc hôn nhân trọn gói của chế độ phong kiến cho tôi sao?Muốn tôi phải chịu khổ, cổ hai tròng à?Tôi kiên quyết phản đối,ai mà còn nhắc lại, cẩn thận với tôi đấy!" Lúc này,Tuyền béo kịp ăn no.Cậu chàng vốn chỉ lo thiên hạ loạn,nghe thấy chúng tôi qua lại như vậy,lập tức chõ mõm vào cho thêm phần rôm rả,bảo Minh Thúc:"Ông bác Minh của tôi ơi,bác mặc kệ thằng Nhất này ,bác có nhã ý gả vợ cho ,có khác nào miếng bánh từ trời rơi tọt vào mồm đâu,thế mà còn ỉ ôi chê nhân bánh được mới chứ.Chẳng bằng bác nhượng lại A Hương cho tôi,bố mẹ tôi mất sớm,tôi ở rể cho nhà bác OK ?Sau này tôi hiếu kính với bác như với bố đẻ,đợi sau khi bác lên nóc tủ ngồi rồi,tôi đảm bảo khóc kêu bác dọc đượng từ Thiên An Môn tới Bát Bảo Sơn.Tôi thề có Mao chủ tịch,tôi gọi mãi ngập ngừng,muốn bi thương thế nào ...mẹ kiếp bi thương như thế!" Nghe Tuyền béo giỡn với Minh Thúc tôi suýt nữa phì cả đống thịt trong mồm ra.Nhưng đúng lúc đó trong hang chợt vọng ra tiếng bò Yak kêu,cắt đứt tiếng cười của mọi người.Tiếng bò Yak đất Tạng vốn dĩ chẳng có gì là lạ,có điều vang lên trong tòa thành cổ im ắng này,lại ngay lúc chúng tôi vừa ăn thịt bò xong,gai ốc ai nấy cứ nổi hết cả lên. Tôi bảo Shirley Dương ở lại trông chừng Minh Thúc và A Hương,rồi vẫy tay gọi Tuyền béo.Hai chúng tôi cầm vũ khí,soi đèn pin mắt sói tiến sâu vào bên trong.Ban nãy mới vào đây tôi đáo mắt qua lượt,thấy kết cấu động này cũng giống với các căn phòng khác,chỉ có điều dường như có nhiều hơn cánh cửa đá,giờ tới sát cửa đá,mới cảm thấy tình hình ổn. cửa đá nhẵn thín,có vết bàn tay người bằng máu,như thể có người tay dính đẫm máu,lúc ra vội vàng kéo cửa vậy.Tôi sờ vào đó,thấy vết máu dường như vẫn còn rất mới. Tôi gật đầu về phía Tuyền béo,Tuyền béo lui lại hai bước,tôi tiến lên tấn công,dùng vai đẩy cánh cửa ra,giơ súng chĩa vào bên trong.,nhưng hề phát có tung tích ai cả.Chỉ thấy khắp vách tường nhoe nhoét máu tươi,chiếc bàn đá và cột gỗ ở giữa cũng có màu đỏ tươi,bên chất cả đống thịt bò Yak tươi rói,và mấy tấm da bò bê bết máu còn phả hơi nóng,giống như da mới lột.Chỗ này chắc là lò mổ súc vật trong thành. Tôi và Tuyền béo vừa ăn thịt bò hầm xong,trong cổ đều cảm thấy hơi buồn nôn,bỗng nhiên phát ra đầu mình có thứ gì đó,vội ngẩng phắt lên. cái đầu bò to gấp hai gấp ba lần đầu con bò Yak bình thường treo ngược đó.Cái đầu bò có da,hai mắt tròn xoe trờn trừng,đầm đìa máu,hai lỗ mũi vẫn còn phả hơi,qua nửa cái lưỡi thè lè ra ngoài,trông như còn sống,thở ra tiếng trầm đục về phía chúng tôi. Tuyền béo dương súng lên định bắn.Trong lúc luống cuống tôi thấy tuy cái đầu bò này hết sức quái dị,nhưng có vẻ định hại chúng tôi,bèn ngăn Tuyền béo lại ,quan sát kỹ xem đầu con bò Yak này rốt cuộc là làm sao. Con bò Yak còn sống bị lột hết da mặt sau đó mới đem ra chọc mổ, kiểu giết thịt như vậy chúng tôi thấy trong các bức bích họa ở miếu Luân Hồi, thành thử cũng chẳng có gì lạ cả. Cách thức này là được kế thừa từ thuở xa xưa, hàm ý phải giải phóng linh hồn con bò trước , rồi mới có thể yên tâm ăn thịt của nó. Trong cái lò mổ này có giàn gỗ lớn, hai bên trước và sau đều có thể kéo ra thụt vào được, như vậy kẹp con bò ở giữa, dẫu nó có khỏe đến mức nào cũng cựa quậy nổi, đồ tể cứ việc tùy ý mổ xẻ. Thân con bò Yak bị kẹp vào giữa giá gỗ be bét máu, lớp da mình chưa lột, đuôi vẫn còn động đậy, phía trước khoang ngực của con bò đầu có chiếc rìu lớn dùng để chặt đầu đặt mặt đất. Còn chiếc đầu bò bị trep lơ lửng bằng sợi dây thừng, con mắt vẫn còn đảo đưa, tựa như con bò vừa bị chém trong nháy mắt. Thời gian ở đây đột nhiên ngưng đọng như thế, trôi, và cho đến tận bây giờ, con bò Yak này vẫn bị đóng cứng lại trong khoảnh khắc trước khi chấm dứt hoàn toàn sống. Sau khi đầu lìa khỏi cổ mà vẫn sống thêm mấy giây, thậm chí là mấy phút, là chuyện rất hay gặp ở động vật. Con gà bị chặt đầu vẫn còn chạy được thêm vòng. Thời xa xưa có những tử tù chịu hình phạt chặt đầu, đầu rơi xuống đất, nhưng nếu có người gọi tên, cái đầu của tử từ vẫn phản ứng lại được, ấy là bởi hệ thống thần kinh chưa chết hoàn toàn. Tuy nhiên tình trạng đó chỉ diễn ra trong nháy mắt, còn từ lúc tôi và Tuyền béo phát ra con bò Yak chưa chết hẳn này tới giờ, nó vẫn ở nguyên trong ranh giới sống chết như vậy, lẽ nào cứ thế mấy nghìn năm rồi? chỉ có cái đầu bò xui xẻo này như vậy, mà tất cả lùm cây ngọn cỏ trong tòa thành Ác La Hải này, cả đèn đuốc thắp sáng, cả các tác phẩm còn dở dang, bò Yak bị mổ xẻ, thịt bò hầm chín, vết bàn tay máu chưa khô cửa đá, tất cả đều rơi vào trạng thái bất động trong mấy giây cuối cùng, toàn bộ tòa thành trống rỗng bóng người, mọi điều này liệu có liên quan gì đến tai họa hủy diệt Ác La Hải ? Đó là tai họa kiểu gì, mà lại có sức mạnh khủng khiếp đến như vậy? Truyện "Ma Thổi Đèn " Nghĩ đến những thứ ăn vừa nãy, có khi là nồi thịt bò hầm mấy nghìn năm rồi, chúng tôi sao tránh khỏi lợm giọng. Mọi tượng trong tòa thành này quả thực rất khó hiểu, thôi cứ rút ra bên ngoài cho an toàn , đợi đến sáng sớm mai hẵng tiến vào tòa thành chính trông như tổ ong kia. Thế rồi tôi và Tuyền béo gọi mọi người, cùng mang đồ đạc men theo đường cũ quay lại. Tôi ngẩng đầu lên nhìn bầu , màn đêm buông xuống từ lâu, nhưng ánh sáng trong thành Ác La Hải vẫn giống như lúc tôi vừa phát , vẫn như dưới sắc chiều bảng lảng, tuy đèn đuốc thắp sáng khắp nơi, mà lại có vẻ mơ hồ mờ mịt vô cùng, có lẽ ngay cả ánh sáng của thời khắc tòa cổ thành bị hủy diệt cũng vĩnh viễn ngưng đọng. Nếu phải A Hương xác nhận, tôi chắc chắn cho rằng đây là tòa thành ma
Q.4 - Chương 23: TUYẾN X vừa vừa kể sơ lược tình hình trong lò mổ cho Shirley Dương. cho rằng tòa thành này chỉ đơn giản là mất tích ở ngoài quỹ đạo thời gian, ví như thịt bò hầm chín trong nồi kia, quả thực vừa nhừ vừa ngon, ăn cho bằng hết, nó cũng xuất lại lần nữa, tất cả mọi thứ trong thành đều bị ngưng đọng ở khoảnh khắc nào đó, nếu chịu ảnh hưởng của ngoại lực vĩnh viễn xảy ra bất kỳ biến đổi nào. Ngoài ra còn có điểm rất dễ bỏ sót, mọi vật trong Ác La Hải hoàn toàn chỉ trong trạng thái bất động, chỉ có thể rằng nó vĩnh viễn bảo lưu hình thái đặc biệt, chứ phải do thời gian ngưng chảy, cho nên tạm thời phải phủ định giả thiết về hỗn loạn của thời gian và gian ở đây. Để cho tiện gọi tên, tạm thời ta hãy gọi khoảng khắc tựa như vĩnh hằng ở thành Ác La Hải này là "tuyến X", "X" là số chưa biết. Muốn giải bài toán "tuyến X", nhất định phải làm xem vào khoảnh khắc cuối cùng ở thành Ác La Hải xảy ra chuyện gì. Muốn vậy có lẽ phải đợi sau khi trời sáng, mới có thể tìm thấy được chân tướng việc ở sâu bên trong nó. Những việc kỳ quái trong thành khiến đầu tôi quay như chong chóng, nhưng nghe Shirley Dương phân tích, thấy tư duy của hết sức mạch lạc, thôi ở đời người giỏi hơn người là chuyện thường, có điều ở đời này hình như tôi có tố chất làm lãnh đạo, ấy thế nên cũng chẳng cần đến cái đầu như của nhân viên tham mưu làm gì. Chúng tôi từ vòng ngoài tường thành leo trở lên dải nham thạch xanh lục ven hồ, quay đầu lại nhìn thành Ác La Hải trong đêm. Tòa thành im lìm nằm lún dưới đất, đèn vẫn thắp lấp lánh, ánh sáng vẫn chập choạng như buổi hoàng hôn, xem ra đến sáng sớm mai, chắc vẫn vậy mà thôi. Chạy chạy lại hồi, Minh Thúc và A Hương đều mệt rã rời. Trong rừng lại có giao long ra vào, chúng tôi dám xuống dưới đó, đành phải tìm lấy chỗ kín gió dải nham thạch nghỉ ngơi, chuẩn bị để sớm mai tiến vào thành tìm hiểu chân tướng việc. Đêm đó, mọi người thay phiên nhau trực. Ngày hôm sau, trời vừa sáng, tôi phát Shirley Dương dậy từ lâu, chăm chú lật giở tấm bản đồ Kinh Thánh chúng tôi phát được ở miếu Luân Hồi. Tầng mây đỉnh đầu, rất dày, ánh nắng len qua kẽ mây rọi xuống đủ sáng, cả vùng rừng vây bọc giữa những dãy núi cheo leo hiểm trở vẫn hết sức tối tăm, thành Ác La Hải nằm dưới chân dải nham thạch tựa như tách biệt hẳn với thế giới, vẫn y nguyên như vậy, ánh đèn lấp lánh, im ắng đến kỳ lạ, toàn bộ dựng lại "tuyến X". Shirley Dương bảo rằng có dự cảm, nếu như hôm nay tìm ra bí mật của "tuyến X", e rằng mọi người vĩnh viễn rời khỏi sơn cốc đằng sau Cánh cửa tai họa này, nơi đây là chốn cùng đường tuyệt lộ rồi. Tấm bản đồ trong tay Shirley Dương rách tơi rách tả, cha sứ Bồ Đào Nha trộm biết được điều cơ mật của Luân Hồi tông định bụng khai quật kho báu, kế hoạch còn chưa thực được bị giết chết trong xung đột tôn giáo rồi. Chúng tôi mãi cũng sao phân biệt nổi được địa hình vẽ trong bản đồ rốt cuộc là "vùng đất chim đại bàng" hay là "Phượng Hoàng thần cung". Tôi bèn hỏi Shirley Dương, có phát gì mới ? Truyện "Ma Thổi Đèn " Shirley Dương đáp: "Đem so với địa hình quanh đây, có thể đoán rằng bản đồ trong Kinh Thánh chính là bản đồ Thần cung Phượng Hoàng - thành Ác La Hải, có điều cố gắng hết sức cũng chỉ phục nguyên được chưa tới ba mươi phần trăm, chắp vá chỗ này miếng, chỗ kia miếng, chẳng liền mạch nhau... Tuy nhiên nếu thời gian cho phép, tôi có thể căn cứ theo tình hình nơi đây, bổ sung thêm những phần thiếu khuyết, hoàn chỉnh lại nó." Nếu như có tấm bản đồ thành cổ, dù chỉ là góc để tham chiếu, cũng là giúp ích quá lớn đối với chúng tôi rồi. Tôi liền lấy lại tinh thần, rồi gọi Tuyền béo, Minh Thúc, A Hương từng người dậy, chia số thức ăn còn lại lấy gì làm nhiều nhặn cho mọi người, coi như bữa sáng. Ăn xong bữa này, còn chút lương thực dự trữ nào nữa, nêu như xuống hồ bắt cá, chỉ còn cách vào thành ăn thịt bò mà thôi. Khi tiến vào thành lần hai, Minh Thúc bàn với tôi, hay là vào thành nữa, chi bằng trèo đèo lội suối tìm lối thoát thân còn hơn, tòa thành cổ quái như vậy, hà tất phải mạo hiểm tấm thân vàng ngọc. Tôi giả vờ nghe, bụng nghĩ tôi, Tuyền béo và Shirley Dương vì muốn tìm cho ra căn nguyên của mật Phượng hoàng nên mới cố gắng vất vả như thế, khó khăn lắm mới tìm được tới đây, sao dễ dàng bỏ qua được, có chết chết ở sa trường, thèm chết đường tháo thân. Tôi liền lập tức rảo bước, tranh lên trước tiến vào thành. Truyện "Ma Thổi Đèn " Ngoài những thứ bị chúng tôi đụng chạm vào, những thứ khác ở đây hề suy suyển, ngay cả làn sương mỏng mờ trong thành cũng có gì thay đổi gì, Tuyền béo liền lao ngay vào lò mổ, cắt mấy miếng thịt bò "tươi mới" lớn để dự trữ. Đêm qua vốn định đợi đến lúc trời sáng, nhìn cho kết cấu của tổ ong sừng sững kia rồi mới vào trong tìm hiểu cho cặn kẽ, nhưng trong thành trời vẫn chạng vạng như vậy, ngước đầu nhìn lên, đèn đuốc trong tòa thành chủ giống như hàng trăm ngàn con đom đóm lặng lẽ bám lên tổ ong. Tổ ong chỉ lộ ra nửa , còn phần lớn phía dưới bị vùi sâu trong đất. Theo cách nhìn nhận về giá trị của người Ma quốc cơ quan quyền lực trọng yếu đều phải xây ở dưới đất, cho nên chúng tôi quanh chân thành, tìm dộng huyệt lớn nhất theo đó tiến vào tổ ong. Bên trong động huyệt chằng chịt, kết cấu phức tạp, giống hệt như tổ ong, mọi người khỏi nghi ngờ cư dân sống trong đây là người hay sâu bọ. Nhớ hồi khoảng cuối những năm sáu mươi đầu bảy mươi, nhân dân cả nước tiến hành đào hố sâu, tích trữ lương thực số lượng lớn, loại kiến trúc phòng bị ấy tôi cũng đào rồi, song so với đào thành Ác La Hải này, chẳng khác nào múa rìu qua mắt thợ. Có rất nhiều động huyệt hình thành cách tự nhiên, còn nếu chỉ dựa vào sức người và máy móc, khó tưởng tượng ra nổi người xưa có thể tạo ra loại công trình này. Chúng tôi tìm tới con đường lớn thông thẳng xuống đất, thông đạo này và hang hốc ở hai bên đều có đèn đuốc chiếu sáng. Cứ về phía trước quãng, Shirley Dương lại lấy bút ghi lại địa hình lên giấy, tốc độ vẽ phác của nàng cực nhanh, cứ vừa vừa vẽ, hề tốn chút thời gian nào, vẽ ra bản đồ tuyến đường giản đơn mà có tác dụng thiết thực. Tôi chốc chốc lại dùng đèn pin mắt sói soi vào các nhà hang ở hai bên, phần lớn đều có đèn và trống trơn, trong số hang, ở những chỗ ẩm thấp còn nhung nhúc gián to hơn con chuột túm tụm lại với nhau, lấy báng súng đập chúng cũng chết, càng sâu xuống phía dưới, số lượng nhà hang càng giảm, nhưng diện tích càng rộng thêm. Dưới cùng tòa thành tổ ong là hai cánh cửa đá lớn khép hờ, hai bên tả hữu của thông đạo là hai cửa hang, cửa hang lần lượt găm hai khối bảo thạch xanh trắng, dùng đèn pin soi vào bên trong, thấy hang bên trái rộng chừng mấy mươi mét vuông, vòm rất cao, trong sâu có bức tượng đầu quỷ mặt mũi xấu xí gớm ghiếc, dưới cổ khắc hàng bọ thất tinh, bốn góc hang thắp đèn mỡ bò, ánh sáng yếu ớt, ở giữa đặt tế phẩm là con bò đen, con ngựa trắng luộc, mọi thứ trong hang bên kia đại loại cũng như thế. Shirley Dương giở tấm bản đồ cổ ra, mảnh có vẽ hai địa điểm là "băng cung" và "hỏa cung", hoàn toàn khớp với nơi này, nhưng chỗ đáng lẽ ra phải đánh dấu là bên trong cánh cửa đá lớn ở tận cùng thông đạo lại bị tổn hoaị, chỉ nhìn được vài hình vẽ từa tựa xương động vật ở viền chỗ rách bản đồ. Còn nhớ trong Hắc hổ huyền đàn của Luân Hồi tông, tầng dưới cùng khối đá thủy tinh cũng có hình vẽ tương tự vậy, liệu những xương cốt này có liên quan gì đến mất tích của cư dân thành Ác La Hải ? Tôi đẩy cánh cửa đá ở tận cùng thông đạo ra cách đầy hồ nghi. Vừa bước vào liền lập tức cảm thấy lạnh buốt đến tận tim phổi, nghĩ bụng trong này tà khí nặng quá,vừa ẩm vừa lạnh, hoàn toàn khác với mấy tầng . Trước mắt tôi là gian thần điện dát vàng nạm ngọc, tuy có nhiều đèn đuốc, nhưng lại hết sức tối tăm, điện đường sâu hun hút, thành thử nhìn được bên trong như thế nào. Lúc này Shirley Dương và Tuyền béo cũng tiến vào theo. Tôi định tiếp tục tiến lên, phát ra Minh Thúc và A Hương đứng ở bên ngoài chịu vào. Tôi liền gọi bọn họ: "Vào thôi! Còn đứng đấy chờ cái gì?" A Hương nấp sau lưng Minh Thúc khẽ thầm gì đó vào tai lão, nghe xong, vẻ mặt lão hoảng loạn vô cùng. Tôi thấy lạ, bèn quay lại hỏi xem họ định giở trò gì. Minh Thúc đột nhiên rút súng lục ra chĩa vào tôi: "Đứng yên, cấm quay lại, quay lại tôi bắn đấy! Có ... có thứ gì bám lưng chú". Tôi dùng chân, đứng cách bố con Minh Thúc độ bảy tám bước chân, đối diện với nòng súng của Minh Thúc. Tôi hiểu rồi, chắc chắn A Hương là tôi bị thứ gì đó ám vào người, tôi với em này thù oán, em thể nào ám hại tôi được, Lẽ nào vì tôi đồng ý lấy em? Tuy nhiên A Hương dường như rất tốt bụng, chắc đến nỗi hãm hại tôi như thế, nhưng mà cũng mấy ai đoán đúng suy nghĩ của đàn bà đâu. Đầu óc tôi bắt đầu rối loạn, nhưng rồi đột nhiên nghĩ, chẳng lẽ người tôi quả thực có thứ gì đó? Sao tôi cảm nhận thấy nhỉ? Tôi lập tức tụng ra đoạn trong Mao tuyển: "Tác phong luôn gắn lý luận với thực tiễn, là tác phong có mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, và là tác phong tự phê bình." Chẳng làm sao cả, mình vẫn là mình, yên tâm . Minh Thúc lại với tôi: "Chú Nhất ạ! Giao tình giữa chú và bạc, thấy chú tiền đồ rộng mở, cho nên mới có ý hứa gả A Hương cho chú. Nhưng mà bây giờ chú quả thực có vấn đề đấy. A Hương nhìn nhầm đâu." Thành Ác La Hải này vượt xa so với điều thường thức và những gì con người ta có thể tưởng tượng ra được, việc gì cũng có thể xảy ra, vả lại tôi biết, sau khi vợ, thằng vệ sĩ cho đến thằng lái xe của Minh Thúc chết, lão thành ra con chim sợ cành cong, vì an toàn của bản thân mình, chắc chắn lão dám nổ súng. Có điều khi lão giơ súng lên, Tuyền béo và Shirley Dương đứng sau tôi cũng giơ hai khẩu súng trường thể thao lên nhằm thẳng vào đầu lão. Tôi huơ tay về phía sau, bảo họ bình tĩnh, nếu bên nhẫn nhịn được mà nổ súng trước, bất kể là ai đổ máu ở đây, đều là việc huynh đệ tương tàn đáng sợ nhất. Minh Thúc vừa nãy quả thực quá mức căng thẳng, lúc này cái đầu được mệnh danh là "Tiểu Gia Cát" của lão dần hồi phục, đương nhiên thấy thế cục, chỉ cần lão chỉ hơi có động tác gì lệch lạc, Tuyền béo và Shirley Dương chắc chắn chần chừ gì mà tặng cho đàu lão hai cái lỗ đạn. Lão muốn rút súng về, nhưng lại cảm thấy hơi cấn cá, định lảng , lắp ba lắp bắp chẳng ra hơi, mãi lâu sau mới giải thích rút súng ra là định bắn cái thứ lưng tôi. Chứ đời này làm gì có chuyện bố vợ bắn con rể. Nòng súng của Tuyền béo và Shirley Dương khiến tuyến phòng ngự tâm lý của lão tan rã, có cho ăn gan hùm, gan báo, cũng dám nổi súng. Thế rồi tôi trực tiếp hỏi A Hương rốt cuộc có chuyện gì, rốt cuộc nhìn thấy lưng tôi có thứ gì? A Hương : " Nhất ơi, em sợ lắm, vừa nãy quả thực em nhìn thấy lưng có thứ gì đó màu đen, nhưng là thứ gì, hình như là vòng xoáy màu đen". "Vòng xoáy màu đen?" Lẽ nào lời nguyền lưng tôi bắt đầu chuyển biến? Nhưng vì sao A Hương lại thấy thứ ấy lưng của Shirley Dương và Tuyền béo? Tôi vội chỉ tay vào sau cổ mình hỏi A Hương: "Ở đây á?" A Hương lắc đầu: " phải, ở trong ba lô của cơ... giờ vẫn còn ạ!" Tôi vội dỡ ba lô sau lưng xuống, phát hai lớp khóa mở ra, hình như trong thông đạo, Tuyền béo có móc thám trảo trong ba lô của tôi ra, định dò xem phía sau cửa đá có cơ quan cạm bẫy gì , quên chưa kéo khóa lại. Mắt của A Hương chỉ có thể nhìn thấy những chỗ bị che khuất, dù là nhìn thẳng hay có ánh sáng. Nhưng mà trong ba lô của tôi có thể có gì được kia chứ? Tôi đổ toàn bộ đồ đạc ra A Hương chỉ vào vật rồi : "Chính nó..." Lúc này Shirley Dương cũng bước tới nhìn: "Mật Phượng hoàng?' Viên ngọc này vốn dĩ gắn liền với đầu lâu của Hiến Vương thành khối, sau đó được chúng tôi đem về Bắc Kinh, qua bàn tay bóc tách khéo léo của người thợ mà vẫn khó phục nguyên được hình dạng cũ. Lúc này nhìn lại phát lớp ngọc thạch phủ bên ngoài dần dần tan rã, lộ ra viên ngọc bên trong, bản thân nó vốn có năng lượng thu hút khí hỗn độn, thứ A Hương nhìn thấy có lẽ là vật này. Xem ra mật Phượng Hoàng chắc chắn co chịu ảnh hưởng nào đó trong tòa thành cổ thần bí này, e là liên quan tới "tuyến X" khiến thời gian ngưng lạ kia. Có viên ngọc này trong tay, có lẽ chúng tôi có chìa khóa mở ra cánh cửa khép lại vô số những điều bí mật cổ xưa. Tuyền béo thấy chúng tôi có điều gì bất trắc, liền thừa cơ chạy tới giải trừ vũ khí của Minh Thúc, tiện tay tước luôn chiếc đồng hồ vàng Thụy Sĩ và viên ngọc nhuận phế của lão. Minh Thúc lần này coi như nằm trong tay Tuyền béo, dám ho he nửa lời. Tôi và Shirley Dương quan sát mật Phượng hoàng lượt. Rồi tôi gói viên ngọc lại cẩn thận, giải thích qua với Minh Thúc và A Hương, đại loại đây là vụ hiểu lầm, trong thành Ác La Hải này đến bóng ma còn chẳng có, chớ lo lắng làm gì, nếu vẫn yên tâm, định chia đội, xin cứ thự nhiên, ai cũng có chân cả, ai ngăn cản ai hết. Sau đó chúng tôi cùng tiến vào đại điện phía sau cửa đá, mỗi cây trụ đá đều có đèn, mấy trăm tấm da người bị căng ra dán kín tường. Trước đây, những bích họa chúng tôi từng thấy đều vẽ tường, hoặc đá gạch, còn ở nơi đây, những kiện quan trọng trong thành đều được dùng bốn màu đỏ, trắng, đen, xanh xăm da người. Đây cũng chính là những hình vẽ có nội dung duy nhất chúng tôi thấy trong thành Ác La Hải. Trong điện còn có số đồ tế cỡ lớn, sâu cuối điện là số tượng nữ khỏa thân. Shirley Dương chỉ nhìn qua lượt rồi : "Thông tin ghi chép những tấm da người này hết sức quan trọng. Tuy thể hiểu hết những ký hiệu này, nhưng nếu kết hợp những kiện trọng đại của Ma quốc ghi chép trong điện với phần nội dung liên quan tới cuộc chiến với Ma quốc trong trường thi Thế giới Chê địch Bảo châu Hùng sư Đại vương, chúng ta có thể hiểu được giai đoạn lịch sử cổ xưa ít người biết đến kia, đồng thời cũng có thể giải được phần lớn bài toán khó chúng ta vướng mắc." Lượng thông tin chúng tôi nắm được tuy ít, nhưng cho đến giờ bất quá cũng chỉ vài mảnh vụn vặt khó lắp ghép, chỉ Shirley Dương mới có thể tính toán vận dụng, về phương diện này tôi cũng chẳng giúp đỡ gì được nhiều, chỉ có thể giúp nàng đưa ra vài chủ ý. Thế rồi tôi bảo Minh Thúc và A Hương nghỉ ngơi, Tuyền béo phụ trách nướng thịt bò cho mọi người ăn đỡ đói, tôi và Shirley Dương ra phân tích những bức tranh da người kia, lần gỡ từng mối . Ác La Hải là tòa thành chính của Ma quốc, có thể chế chính quyền hoàn toàn khác với các quốc gia khác. Vào thời kỳ thịnh trị nhất, phạm vi thống trị của Ma quốc bao trùm khắp quanh vùng núi Côn Luân, đời nào có vua, mà trực tiếp do chủ thần "di cốt của thần Rắn" mà quốc gia này thờ cúng thống lĩnh, tất cả các quyết sách trọng đại, đều do thày cúng trong nước tiến hành tế lễ xuơng của thần Rắn, sau đó xem bói mà định ra. Thời kỳ xa xưa ấy, xem bói là hoạt động hết sức nghiêm túc và trọng đại, thể dễ dàng cử hành, phải cách mấy năm, thậm chí mười mấy năm mới có lần. Ma quốc có vua, đây là nguyên nhân khiến trong thành có hoàng cung mà chỉ có thần điện. Cái gọi là thành viên hoàng thất, đều là số thầy mo nắm quyền phát ngôn, nhưng địa vị của những người này ở trong nước cũng phải xếp sau vị trí thứ năm. Người Ma quốc cho rằng, xương của thần Rắn có vị trí tối cao; đứng ngay sau Tà thần này là động huyệt mai táng xương cốt của nó; thứ nữa, là con "Tịnh kiến A Hàm" (Rắn mắt lớn) có cục thịt màu đen đầu. Hình ảnh xuất nhiều nhất trong tranh chính là Quỷ mẫu được thường xuyên nhắc tới trong truyền thuyết Ma quốc. Tôn giáo của Ma quốc cho rằng, mỗi đời Quỷ mẫu đều là chuyển kiếp tái sinh, và bao giờ để lộ mặt mũi, mãi mãi phải che kín, là bởi đôi mắt của các mụ là "Ma nhãn" có thể đương đầu với "Phật nhãn". Phật nhãn vô biên, Ma nhãn vô giới, có điều hẳn dời Quỷ mẫu nào cũng có thể cóđược con mắt mị này. Truyện "Ma Thổi Đèn " Đứng dưới Quỷ mẫu mới là mấy thầy chủ tế nắm được vài tà thuật, đại khái là hình thái nguyên thủy của trùng thuật. Đương nhiên trùng thuật thời ấy, còn xa mới tạp như ở thời kỳ Hiến Vương, thể hại người cũng như trở nên vô hình, chủ yếu là dùng trong những cuộc cúng tế trọng đại. Phong tục chôn cất của người Ma quốc cũng rất đặc biệt, chỉ có thầy chủ tế trở lên mới có tư cách được chôn vào lầu ma chín tầng. Phần mộ cổ Ma quốc tôi thấy trong di tích chùa Đại Phượng hoàng ở núi Côn Luân chắc là huyệt mộ mai táng Quỷ mẫu đầu tiên được coi là con của Tà thần "Niệm hung hắc nhan" được táng trong tháp ma ở sông băng Long đỉnh. Tên gọi này được nhắc đến nhiều lần trong truyền thuyết về Cách Tát Nhĩ Vương. Trong số trường cảnh miêu tả chiến tranh, thậm chí còn có thể thấy tham gia của những bầy dã thú như sói, trong đó con sói trắng, có lẽ chính là Thủy tinh tự tại sơn, tuy nhiên địa vị của vua sói trắng và bọ ma tá phủ rất thấp, chỉ tương đương với nô mà thôi. Những truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ thời kỳ đó về cơ bản đều khoa trương và thần thánh hóa các đặc điểm của bộ lạc, muông thú, phong cho chúng thành thần linh của núi sông ao hồ, khác gì tuyền thuyết trước thời Hạ, Thương ở Trung Quốc. Trong tuyền thuyết về Cách Tát Nhĩ Vương có đoạn kể rằng, do " ma phương Bắc" (Ma quốc) xâm lược, ba nước Lĩnh địa, Nhung địa và Gia địa từng nhiều lần đối mặt với nguy cơ diệt chủng, cuối cùng cao nguyên xuất vị Chế địch Bảo châu Đại vương, lại có thêm Liên Hoa Sinh Đại sư hiệp trợ, thống lĩnh liên quân ba nước, giẫm gót tiến vào miền tuyết trắng phương Bắc để giết diệt ma, san bằng luôn Ma quốc. Ma quốc đột nhiên suy yếu, rất có khả năng là do thành Ác La Hải xảy ra tai họa hủy diệt.Song những tấm da người lại hề thấy ghi chép về việc này. Tôi và Shirley Dương xem xét, Tuyền béo vẫy tay gọi: "Có manh mối rồi lo gì tìm ra, ăn cơm xong hãy tiếp ." Tôi cũng cảm thấy cơn đói bụng quặn lên, bèn tạm gác mấy việc này, chạy ra ăn cơm . Ngoảnh nhìn vẫn thấy Shirley Dương bần thần ngắm mấy tấm da người cuối cùng, phải gọi mấy lần nàng mới quay ra. Nhưng Shirley Dương tới lấy thịt bò Tuyền béo nướng, mà thẳng ra chỗ A Hương, điệu bộ hờ hững, vừa như vô tình vừa lại cố ý, lấy tay gạt tóc A Hương ra, nhìn vào sau gáy. Sắc mặt của nàng thoáng đổi, rồi lại đến kiểm tra sau gáy Minh Thúc. Lão ta biết nàng định làm gì, nhưng cũng đành để yên cho Shirley Dương xem. Tôi vừa thấy vẻ mặt Shirley Dương và đôi môi bặm chặt, liên biết rằng có việc chẳng lành. Trước khi Shirley Dương phán đoán và đưa ra kết luận về chuyện hệ trọng, nàng đều có cử chỉ quen thuộc này. Quả nhiên Shirley Dương với tôi: "Tôi nghĩ chúng ta bị đôi mắt của A Hương đánh lừa rồi, tòa thành này quả thực là chân thực, nhưng đây phải thành Ác La Hải, mà là Quỷ động đáy..."
Q.4 - Chương 24: THÀNH ÁC LA HẲI ĐÍCH THỰC Shirley Dương nhận định cách chắc chắn rằng tòa thành cổ như tổ ong lớn mà chúng tôi ở bên trong, phải là thành Ác La Hải đích thực, mà là Quỷ động đáy, đồng thời bảo tôi và Tuyền béo qua xem gáy bố con Minh Thúc. Tôi nghĩ bụng thành cổ và quỷ động phải khác nhau trời vực chứ nhỉ? MÀ thành Ác La Hải nơi thời gian ngưng nghỉ và quỷ động sâu đáy đầy rẫy lời nguyền, đều là những nơi tồn tại ngoài tầm hiểu biết thông thường, cho nên cũng chẳng có gì quá kỳ lạ. Tôi qua vén cổ áo sau gáy Minh Thúc lên, quả nhiên thấy gáy lão ta có vết hình tròn màu đỏ nhàn nhạt giống như nốt phát ban tấy lên từ bên trong, vẫn còn rất mờ nhạt, nếu cố ý nhìn, tuyệt đối rất khó phát . Toi lại kiểm tra cổ A Hương, tình hình cũng giống y như ở cổ Minh Thúc. Đây chính là dấu ấn nguyền rủa của Quỷ động đáy, tuy mới chỉ là bắt đầu, còn chưa quá , nhưng nội trong hai tháng, nó dần lên, và hình thành dấu ấn trông vừa giống vòng xoáy, vừa giống nhãn cầu. Người gánh chịu lời nguyền rủa độc ác này, cũng giống như chúng tôi, tầm bốn mươi tuổi, hồng cầu trong máu dần dần giảm , máu trong huyết quản dần biến thành thứ nước đặc màu vàng, giày vò con người ta đau đớn như ma đói dưới địa ngục. Nhưng hai bố con Minh Thúc hơn tháng trở lại đây lúc nào cũng ở bên chúng tôi, thể nào tự mình tới sa mạc đen Taklamakan ở Tân Cương được, lẽ nào vì cha con họ nhìn thấy tòa thành tổ ong này, nên mới ứng vào lời nguyền khủng khiếp ấy? Minh Thúc đầu óc mụ mị hết cả, biết chúng tôi gì, nhưng nghe thấy những từ kiểu như "nguyền rủa", "quỷ động", cũng lập tức có dự cảm chẳng lành, bèn rốt ráo hỏi tôi. Tôi nhất thời có thời giờ để ý đến lão ta, bèn bảo Tuyền béo kể qua loa cho lão nghe lượt, đồng thời bảo lão chuẩn bị sẵn tâm lý. Cháy nhà hàng xóm vỗ tay reo mừng, Tuyền béo cười khẩy rất đểu giả, ôm vai Minh Thúc bảo: "Lần này ta coi như cá nằm thớt với nhau cả rồi, hehe, bọn tôi thoát được, hai vị cũng đừng hòng chạy nổi, muốn tách đoàn cũng đừng hòng. Mà cái bài "Tôi luộc trứng cho bà con" nó hát thế nào ấy nhỉ? À đúng rồi, cái này gọi là phải người nhà, mà hơn cả người nhà đấy ạ, bác đoán thế nào, nó là như thế như thế..." Trong luc Tuyền béo thêm mắm dặm muối kể lại câu chuyện về Quỷ động đáy cho Minh Thúc nghe, tôi kéo Shirley Dương ra bên, hỏi nàng xem rốt cuộc vì sao lại phát ra việc này, vì sao lại mọi người bị đôi mắt A Hương gạt. Shirley Dương dẫn tôi tới trước mấy bức bích họa tấm da người cuối cùng, trỏ tay cho tôi xem nghi thức hiến tế xương của thần Rắn. Hóa ra nơi chôn cất xương thần Rắn. Hóa ra nơi chôn cất xương thần Rắn, chính là Quỷ động mà chúng tôi nhìn thấy ở dưới chân núi thần Traklama ở sa mạc đen. Những tấm bích họa da nguời này thực chỉ xương thần Rắn ở Tây vực, nhưng kết hợp với trường thi Thế giới Chế địch Bảo châu Đại vương khó gì có thể đưa ra phán đoán như vậy. Ở miền Bắc xa xôi của dãy núi Côn Luân, có hang động là Sengkenanun cất giấu kho báu có năm chiếc hộp, lần lượt dùng để đặt hài cốt của thần Rắn. Thần Rắn có hai thần tích, là sau khi xác thịt tan rữa chỉ còn lại bộ xương, đại não vẫn giữ nguyên sức mạnh "ảo hóa vô biên"; thứ hai là con mắt lớn mọc đầu có thể khiến linh hồn nó trường sinh bất tử, nằm ở tận cùng trời đất và thời gian. Nó giống như Phượng hoàng, có thể tái sinh ngay trong thây cốt của mình. Con mắt lớn của thần Rắn có thể mở ra thông đạo tới cõi "ảo hóa vô biên", cũng chính là con mắt thứ sáu " Vô giới ma nhãn" mà kinh Phật miêu tả. Nếu giải thích theo khoa học, e rằng cõi "ảo hóa vô biên" này chính là gian số ảo mà các chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu tượng và Chứng bệnh Đặc biệt Kansas Hoa Kỳ vẫn nghiên cứu lâu này. Trong truyền thuyết thần thoại, mật Phượng hoàng là mắt của thần Rắn, nhưng chưa có ai tận mắt chứng kiến gian số ảo thực có xá cốt hay , điều này chẳng có cách nào xác định được, có lẽ xá cốt chỉ là vật mang tính tượng trưng nào đó. Trong bức bích họa da người miêu tả nghi thức cuối cùng, tổ tiên của người Ma quốc lấy con mắt của thần Rắn, đồng thời nắm được bí mật của nó, sau đó di chuyển tới tận Kelamer ở núi Côn Luân, lập nên hệ thống thần quyền tôn giáo rộng lớn. Mỗi khi trong nước có Quỷ Mẫu có đôi mắt quỷ, liền mở thông đạo trong mắt ra, tiến hành nghi thức tế lễ phức tạp, đem các nô lệ bị bắt trong chiến tranh ra cúng tế xà cốt. Phàm những nô lệ dùng mắt thịt nhìn thấy "ảo hóa vô biên" đều bị đóng dấu ấn nhãn cầu, sau đó đem nuôi ở trong chuồng như súc vật, cho đến khi máu của họ bị "ảo hóa vô biên" hút sạch, bấy giờ các tín đồ ăn hết thịt của họ. Chỉ những kẻ có đức tin bảo thủ như vậy mới được coi là những thiện nam tín nữ trong sạch, kiên trì tu đạo, được hạnh phúc, hoan lạc và quyền lực trong kiếp này, ở kiếp sau cũng được sở hữu phép thần thông xuất chúng, điều này hoàn toàn khớp với nội dung trong giáo nghĩa của Luân Hồi tông sau này. Ở số nước lân cận Ma quốc, vô số người dân bị trở thành vật cúng tế xà cốt, nhưng các thầy chủ tế của Ma quốc đều giỏi sai khiến dã thú và côn trùng, cac nước xung quanh khó bề đối địch. Cho mãi đến khi Cách Tát Nhĩ Vương bắt tay với Liên Hoa Sinh Đại sư, phái dũng sĩ trà trộn vào Ma Vực, dùng kế đoạt viên bảo châu mật Phượng Hoàng kia, thêm nữa là sau đó lâu, thành Ác La Hải của Ma quốc đột nhiên bị hủy diệt cách thần bí, lực lượng đôi bên lập tức đảo ngược, liên quân (trong trường thi gọi là "hùng sư") quét sạch sào huyệt của ma. tích của Chế địch Bảo châu Đại vương vẫn được những người hát sử thi cao nguyên miền tuyết phủ xướng ca cho đến tận ngày nay. Mật Phượng hoàng rất có thể được truyền vào Trung Nguyên trong thời đại sóng gió kia, nếu Chu Văn Vương bói rằng nếu Chu Văn Vương bói rằng vật này là vật sinh trường sinh bất tử, cũng có thể rằng ấy là có đạo lý vậy. Truyện "Ma Thổi Đèn " Cho đến giờ, lai lịch mật Phượng hoàng về cơ bản làm , nhưng thành Ác La Hải mà chúng tôi đứng ở đây là thế nào? Người ở đây đâu cả rồi? Vì sao thời gian trong thành ngưng đọng lại ở khoảnh khắc? Shirley Dương : "Cư dân trong thành đâu, điều này có lẽ chỉ có họ mới biết thôi. Nhất, tôi nhớ lúc ở trong tháp ma chín tầng từng nhắc, Băng Xuyên thủy tinh thi kia dường như thiếu thứ gì đó, Luân Hồi tông chẳng quản gian khó để đào tháp ma và Cánh cửa tai họa, những việc ấy là vì cái gì? Lúc đó tình thế rôi loạn, chúng ta kịp nghĩ cho kỹ, giờ nhớ lại, cỗ Băng Xuyên thủy tinh thi kia hình như có mắt và óc phải. Tôi chỉ nhớ mang máng, da thịt của xác thủy tinh trong suốt chỉ có lục phủ ngũ tạng màu đỏ bên trong, giống như khối mã não đỏ tươi. Hóa ra Luân Hồi tông moi não và con mắt ma của cái xác, đặt vào phía sau Cánh cửa tai họa? Luân Hồi tông tìm ra nơi mai táng xà cốt, nhưng lại có thể tạo ra thông đạo, hoặc giả có thể là "hình ảnh trong gương" được chăng? Shirley Dương , phải xem đến tận phần nghi thức cuối cùng trong bức bích họa da người, mới hiểu tường tận được. Luân Hồi tông muốn kế tục nghi lễ cúng tế của tổ tiên, liền mở tòa thành cổ vốn biến mất thế gian này ra. Tòa thành này là ký ức lúc sinh thời của Quỷ mẫu, lấy ví dụ, trong lò mổ có con bò Yak vừa bị chặt đầu, thịt bò hầm chín, vết tay đẫm máu còn chưa khô cửa, có lẽ phải xảy ra trong cùng thời đoạn, mà đều là những mảnh vụn chắp vá có ấn tượng sâu sắc in lại trong mắt của Quỷ mẫu, và mụ ta sử dụng đôi mắt ma mị tạo ra tòa thành ký ức thông qua " gian số ảo". Ngay cả Thiết bổng Lạt ma cũng phải thừa nhận A Hương có đôi mắt nhạy như thú hoang, làm chúng tôi nảy sinh cảm giác dựa dẫm và tin cậy mù quáng đối với em này, nhưng A Hương căn bản thể nào biết tòa thành cổ này lại được xây trong " gian số ảo" thông qua ký ức. Tuy mắt quỷ lợi dụng năng lượng của Quỷ động, sáng tạo ra tòa thành ảo ảnh, song nó lại cũng tồn tại cách chân thực khách quan, giống như Quỷ động đáy trong sa mạc đen, người trông thấy nó đều trở thành vật cúng tế cho xà cốt. Có thể rời khỏi đó bất cứ lúc nào, nhưng lúc sắp chết vẫn thuộc về nơi đây, có chạy tới cùng trời cuối đất cũng thể nào thoát khỏi. Quỷ động là cơn ác mộng vĩnh cửu vậy! Minh Thúc nghe những lời phét lác của Tuyền béo sợ bạt vía, liền chạy tới hỏi tôi xem có đúng . Tôi giải thích đơn giản những lời Shirley Dương cho lão ta nghe lượt. Lão liền trưng bộ mặt như khóc đám ma với tôi: "Chú Nhất ơi ời chú Nhất ơi, ai ngờ thể lại ra nông nỗi này, tôi làm trâu làm ngựa, giống như con chó giằng giật khổ sở cả đời, mà nào ngờ đến lúc sắp chết rồi cũng lại giống như con chó, làm đồ cúng cho xà cốt cơ chứ. Ôi chú ơi, tôi coi như xong rồi, nhưng A Hương đáng thương kia tuổi mới đôi mươi, tôi có lỗi với cha mẹ ruột của em nó, chết nhắm mắt được đâu chú ơi..." Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi với mọi nguời: "tuy bác Minh Thúc và A Hương bị cuốn vào vụ này, đồng thời tòa thành này cũng phải là thành Ác La Hải thực , nhưng vật luôn có hai mặt của nó. Nếu tới đây, chúng ta cũng có cách nào thấy được các bức bích họa da người ghi chép chân tướng của Ma quốc, như vậy chứng tỏ chúng ta chưa đến nỗi mạt kiếp. Vậy sau đây, tiếp sau đây..." Shirley Dương tiếp lời tôi , tiếp sau đây chỉ cần tìm ra di tích của Ác La Hải đích thực, tiến hành nghi thức tương phản trong đàn tế ở tận trong cùng tòa thành, lại dùng mật Phượng hoàng đóng "ảo hóa vô biên", lời nguyền này chấm dứt ngay sau đó. Tôi tin đời này lại có lời nguyền gì, mà cho rằng lời nguyền của Quỷ động này rất có khả năng là virus lây lan qua mắt, loại víu gây bệnh chỉ tồn tại trong " gian số ảo", cắt đứt mối liên hệ giữa chúng, là con đường trực tiếp nhất, hiệu quả nhất. Minh Thúc vừa nghe bảo có cách cứu chữa, lập tức phấn chấn tinh thần, vội hỏi làm thế nào mới có thể tìm thấy di tích thành Ác La Hải đích thực, việc này tối quan trọng, có thể giữ được tính mạng hay , đều phụ thuộc cả vào nó. Bấy giờ tôi cũng tỉnh ngộ, biết chỉ cần đột phá mắt xích, cả dây xích cũng rời ra, liền lập tức vẫy gọi mọi người quay trở lên phía , trở về dải nham thạch ngoài thành. Vậy là cả nhóm thu dọn đồ đạc, vội vàng men theo đường cũ quay về. Hai bên dải nham thạch, bên là thành Ác La Hải bảng lảng sắc chiều, nhưng chỉ là ký ức của Quỷ Mẫu; bên là hồ phong hóa với làn nước trong vắt, có thể nhìn thấy bầy cá râu trắng dài va fnhững hang hốc lỗ chỗ chi chít dưới đáy hồ. Tương truyền thành Ác La Hải nằm phía sau Cánh cửa tai họa, hình dạng chân thực của thành này có lẽ hoàn toàn giống như thành cổ trong ký ức kia, được xây dựng bằng những khối nham thạch thiên nhieen khổng lồ bị phong hóa. Tất cả mọi người dõi nhìn những hang hốc tựa như tổ ong duới đáy hồ, chợt đều hiểu ra, do Ma quốc sùng bái vực sâu và động huyệt, cho nên hang hốc dưới thành đều chìm xuống dưới đất, bị nước nhấn chìm. Mấy nghìn năm bãi bể nương dâu, giờ biến thành khoảnh hồ phong hóa sáng như gương. Còn như truyền thuyết cho rằng cư dân trong thành hóa thành cá, có lẽ chỉ là câu chuyện mua vui mà thôi, bảo rằng khi mặt đất lún xuống họ chết vaflàm mồi cho cá, xem ra còn thuyết phục hơn. Truyền thuyết lại kể rằng giao long và cá đều rất thích vầy ngọc, lũ giao long vằn đen trắng hung mãnh kia sở dĩ ngừng tấn công bầy cá ttrong hồ là do muốn chiếm đoạt viên ngọc chính là đôi mắt Quỷ mẫu mà người Luân Hồi tông đem để dưới đáy hồ. Đương nhiên trước khi tận mắt chứng kiên, tất cả chỉ dừng lại ở giai đoạn suy đoán, nhưng có điều có thể khẳng định, muốn tìm tới đàn tế, phải mạo hiểm chui được vào cái hang lớn nhất dưới hồ. Đứng tảng nham thạch màu lục nhìn xuống, hang lớn nhất duới đáy hồ đen như mực, biết rốt cuộc sâu đến thế nào, đem so với tòa thành ảo ảnh, ghép lại từ những mảnh vụn ký ức kia, khó để thấy chính con mắt đá khổng lồ đỉnh tổ ong rơi xuống và tạo nên nó. Khi thành Ác La Hải sụp đổ, tảng đá nặng hàng tấn kia thụi vỡ nóc của thành chủ, xuyên thẳng xuống dưới. Qua kết cấu chúng tôi vừa thấy trong thành, có thể thấy phía dưới sụp đổ tan hoang, nhưng tảng đá lớn kia cũng chưa chắc găm xuống quá sâu, nước hồ cũng hề hình thành nên dòng chảy ngầm hay xoáy nước lớn, bất quá chỉ là ngấm xuống qua các kẽ hở của thành trì đổ nát, những dấu tích này chứng tỏ nước hồ sâu lắm. Có điều nếu muốn tiến xuống điện thần và đàn tế còn sâu hơn cả tổ ong kia, phải xuyên qua nham động phong hóa có thể đổ sập bất kì lúc nào. Có thể việc xuống dưới đó thực chẳng khác gì đùa giỡn với mạng sống của mình. Lúc này dấu ấn sau gáy Minh Thúc đậm lên nhiều so với ban nãy, xem ra thời gian còn lại cho chúng tôi hết sức có hạn, với độ tuổi của lão, trừ phi có thể bỏ chạy tới bờ bên kia đại dương như giáo sư Trần, còn nếu cứ ở quanh quẩn khi di tích thành cổ này e rằng sống nổi quá hai ba ngày. Minh Thúc nước mắt giàn giụa, cứ làu bà làu bàu với chúng tôi ,rằng là xuống chết, mà xuống khác nào gí đầu vào nòng súng. Ngoài vũ khí đạn dược cần thiết, thiết bị chiếu sáng, nhiên liệu đốt cháy, dược phẩm và áo chống rét ra, những thứ còn lại chúng tôi đều bỏ hết. Theo phán đóan của chúng tôi, do di chỉ cũ bị nước nhấn chìm, cho nên bộ não của Băng xuyên thủy tinh thi chắc chắn được Luân Hồi tông chôn ở phía dưới thành ảo ảnh, còn đôi mắt của nó, có lẽ ở ngay dưới di chỉ thành Ác La Hải đích thực, nhưng khả năng lớn nhất, nó bị vua cá nuốt vào bụng. Mấy điều này đương nhiên quan trọng, chỉ cần men theo phế tích, lặn xuống đàn tế ở dưới đất là được. Nhưng đàn tế của Ma quốc, trải qua bao tháng năm dằng dặc liệu có còn nguyên vẹn hay khó mà biết chắc được. Tôi với Tuyền béo và Shirley Dương: "Trước kia khi ta tiến vào Tây Tạng, tôi có mời vị sư huynh bói cho quẻ, trong đó có câu "gặp nước mới có thể đắc Trung đạo", câu này khi trước tôi còn nửa tin nửa ngờ, song giờ nhìn lại, có lời nào ứng nghiệm, chuyến lần này ắt chẳng về tay đâu." Tuyền béo ": Hoa thơm chưa chắc đẹp, người làm giỏi chưa chắc giỏi, tôi chẳng gì nữa đâu, đấy lúc nào đến nơi, hai vị cứ đợi xem tôi thế nào. Quỷ động hay ma động tôi mặc xác, dù gì ta cũng phải về tay trắng, có trân châu mã não gì nữa, cũng chắc chắn phải đục khoét mà mang về, chớ có dông dài thêm nữa, thôi, xuống nước thôi!" đoạn liền ngậm thiết bị thở vào mồm, kéo kính lặn, bật thẳng tưng nhảy xuống hồ phong hóa, làm bọt nước bắn tung lên tựa vô số hạt ngọc trai trắng muốt, kinh động tới bầy cá bơi lượn trong hồ, khiến chúng lũ lượt lẩn lách khắp nơi. Shirley Dương bảo tôi: "Ngày xưa nếu tôi đòi sa mạc Tân Cương, có lẽ dẫn đến những việc thế này. Tôi biết và béo rất rộng lượng phóng khoáng, những lời xin lỗi hay cảm ơn tôi cũng nữa, song tôi vẫn muốn dặn câu, phải hết sức cẩn thận, vào giờ khắc cuối cùng, nhất thiết Truyện "Ma Thổi Đèn " được sơ ý." Tôi gật đầu với Shirley Dương, nàng cũng từ tảng nham thạch nhảy xuống hồ, tôi dặn dò cha con Minh Thúc đứng sau đôi câu, bảo họ đứng đây chờ , đợi sau khi chúng tôi hoàng thành công việc quay lại đón hai bố con dứt lời cũng tung người nhảy xuống dưới hồ. Ngư trận dưới hồ vẫn còn di chuyển từ từ quanh tường thủy tinh và hề tản ra khi ba người liên tiếp nhảy xuống nước.
Q.4 - Chương 25: THẤT LẠC Tôi vừa mới xuống hồ tụ tập với Tuyền béo và Shirley Dương, còn chưa kịp triển khai hành động, Minh Thúc dắt A Hương nhảy xuống. Tôi bảo lão thế này chỉ thêm nhiễu loạn thôi, hai người cứ ở bên đợi là được rồi, xuống đây cho rắc rối thêm làm gì? Chúng ta lại có nhiều bình dưỡng khí. Minh Thúc kéo A Hương, giẫm ở mép nước với tôi: "Giời ạ... đừng nữa, vừa nãy ở kia thấy trong rừng có thứ gì đó động đậy, sợ hai con giao long kia lại giở thói, muốn xuống hồ ăn cá, định đứng bên nhắc nhở các chú, nhưng mà chân cứ mềm oặt cả ra, đứng vững, thành thử mới rớt xuống đây." Tôi quay đầu lại nhìn cánh rừng bên hồ, chỉ có gió hiu hiu thổi ra từ khe núi lay động cành cây, thấy có động tĩnh gì lạ thường, lập tức hiểu ra ngay. Việc sờ sờ trước mắt, lão chết tiệt lo chúng tôi lặn xuống lên nữa, tìm được đàn tế rồi tìm đường khác thoát thân, bỏ mặc hai bố con lão, mối lo này của lão đâu phải mới chỉ hai ngày. Họ xuống dưới đây rồi, tôi chẳng còn cách nào khác, cũng chẳng thể nào để mặc hộ ngâm mình dưới nước được, chỉ tội hai bố con nhà lão có mỗi kính lặn, có bình dưỡng khí, thôi làm theo cách cũ, dùng chung vậy. Vậy là mọi người xúm lại, bàn tính lượt, quyết định bơi xuống nham động bị tảng đá lớn đập vỡ, rồi xem chỗ nào nước ngấm nhiều nhất xuống chỗ đó. Chúng tôi định lặn xuống, bỗng thấy cá trong hồ đột nhiên nháo nhác, những con cá khác bơi loạn xạ như lũ nhặng mát đầu, lẩn vào trong nham động ở đáy hồ là trốn tiết trong đó ra nữa, còn hàng vạn con cá râu trắng kết thành ngư trận cũng hơi có chút run rẩy, dường như hết sức căng thẳng. Tôi lập tức cảm thấy có chẳng lành, thầm nghĩ, xem ra lão Minh này đúng là thằng phe địch nhảy vào hội bọn tôi, giúp được gì, lại còn thối mồm. Ý nghĩ ấy vừa xuất trong đầu, ngư trận trong hồ có bộ phận bị tan rã, dường như con cá râu trắng già bên trong kia bị thương quá nặng, thể giữ lũ cá con nữa, mà lũ cá râu trắng cũng cảm thấy lão tổ tông nhà chúng sắp toi đời đến nơi rồi, đội hình cũng theo đó mà tan rã, nhưng vẫn còn bộ phận vây chặt thành đám, thà chết cũng tản ra, có điều quy mô dường như hơi chút. Tôi đoán khi ngư trận tan rã, hoặc giả thế yếu , con giao long núi nhanh chóng luồn qua, bỏ qua cơ hội cắn chết con cá già kia đâu. Rồi sau đó, trong khoảnh hồ yên tĩnh này, e rằng lại dấy lên luồng sát khí tanh tưởi, chẳng may đôi bên đánh nhau, giả như con cá già bị cắn chết, bọn tôi có muốn xuống nước cũng có cơ hội nữa. Thời cơ thể bỏ lỡ, tôi gấp rút giơ tay làm hiệu, mọi người nhát tề lặn xuống đáy hồ. Phần ngư trận còn lại di chuyển ra giữa hồ, chúng tôi vừa vặn bơi qua phiá dưới. Lũ cá râu trắng bâu lại xúm xít, con nào con nấy vẻ mặt vô hồn, hai mắt trơ khấc. Đương nhiên loài cá vốn bộc lộ tình cảm, nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng này trong cự ly gần dưới đáy nước, chúng tôi lại cảm thấy những con cá râu trắng giống như từng tốp tướng sĩ cảm tử sắp lâm trận, vẻ mặt trơ như gỗ đá của chúng càng làm tôn lên sắc màu bi tráng. Ở quãng sâu lắm dưới mặt nước hồ chính là miệng hang vỡ nóc thành tổ ong. Chúng tôi vừa lặn vào đó, nước hồ bị khuấy lên thành vòng xoáy, từng dòng nước lẫn máu me, thịt cá nát và vảy cá bị cuốn vào luồng nước ngầm phía dưới, xả vào trong hang động ở hai bên dải nham thạch phong hóa. Truyện "Ma Thổi Đèn " Tuyền béo giơ tay ra hiệu với tôi, xem ra phía bắt đầu đánh nhau, rồi cậu ta chỉ tay xuống phía dưới, con đường xuống bị quả cầu đá lồ bịt chặt, có điều thể trông ra bọ dạng ban đầu của con mắt nữa, bên có tầng tầng lớp lớp những con phù du trong suốt cùng các laọi cá tép liu riu nằm ở đoạn cuối của chuỗi thức ăn sinh vật tụ lại, chỉ có thể vòng sang mé bên mà lách qua. Vậy là mọi người lần lượt sử dụng thiết bị hô hấp, từ từ bơi về phía cửa hang ở mé bên, càng bơi sâu vào trong, càng thấy dòng nước ngầm chảy xuống dưới càng lớn. Trong thông đạo của nham động, Shirley Dương từng bước dò dẫm, xác định hướng nào có thể được. Trực tiếp bơi xuống dưới là nguy hiểm nhát, dải đá phong hóa hàng ngàn vạn năm này phải chịu đựng áp lực vô cùng lớn, thể nào chống chịu hơn nữa, chừng con mắt đầu chúng tôi có thể vỡ tung ra bất cứ lúc nào, và phải người chỉ có nước nát thành tương, để cho an toàn, chỉ có cách bơi xuống mé bên rồi quành lại mới là bảo đảm nhất. Cuối cùng chúng tôi lặn vào trong hang động hơn trăm mét vuông, có vẻ như là đại sảnh nào đó của thành cổ trước đây, hơi giống thàn điện, nóc có lỗ hổng lớn, bên trong ngập nước. Dòng nước ở đây tương đối ổn định,hang động dường như chỉ có lối vào bên , các đường khác đều bị đất cát, đá dăm bịt kín hết, tuy nước có thể ngấm qua, nhưng con người lại thể lách qua được, Mọi người đành giơ đèn chiếu soi quanh vòng, ôxy còn nhiều, nếu vẫn tìm ra đường khác, chỉ còn đường chết. Đúng lúc mọi người như chuột chạy cùng sào cảm thấy lo lắng vô cùng, nước hồ trong đại sảnh đột nhiên đục ngầu. Tôi ngẩng đầu lên nhìn, bất chợt cảm thấy có chẳng lành. Con cá già dài mười mấy mét bị hai con giao long hung dữ cắn chặt lấy chịu nhả ra, giãy giụa bơi vào đại sảnh ở đáy hồ nơi chúng tôi có mặt. Con giao long thân dài tầm bốn mét, tuy hơn nhiều so với cá râu trắng già, nhưng sức mạnh khủng khiếp vô cùng, nó vặn mình cái, cắn đứt mảng thịt mình con cá già. Con cá già bị thương khắp mình, quằn quại giãy chết, cứ thế lôi hai kẻ tử thù chìm xuống, chốc chốc lại lắc thân mình đập vào vách tường ở đáy nước, hy vọng có thể bứt chúng ra. Đôi bên quấn chặt lấy nhau, lăn tròn vào trong thần điện. Đối diện với những con vật khổng lồ này, sức mạnh của con người quả thực quá ư bé . Tôi đưa tay ra hiệu cho mọi người mau chóng tản ra, bơi lên mặt nước. Thần điện này tuy rộng rãi, cũng chịu nổi quăng quật của chúng. Có điều động tác dưới nước chậm chạp, đợi cho mọi người kịp tản ra, con cá già lôi theo hai con giao long đụng xuống đáy điện. Phần đáy của thần điện cũng là nham thạch phong hóa trắng muốt, con cá râu trắng mình to như con rồng kia, sau khi bị thương phát rồ, trở nên mạnh mẽ khủng khiếp, cái đầu nó lại cứng chắc vô cùng, đâm thẳng xuống làm vỡ ra cửa động lớn. Nhưng lớp nền đáy thần điện cũng rất chắc, đầu cá bị kẹp vào giữa có cách nào gỡ ra, muốn lao xuống dưới thể phát lực được, muốn rút đầu lại cũng chẳng xong, chỉ còn cách quẫy loạn đuôi lên, từng dòng máu đục lập tức nhuốm đỏ nước trong thần điện. Truyện "Ma Thổi Đèn " Mọi kế hoạch đều bị đảo lộn, chúng tôi sợ bị đuôi cá quất trúng trong lúc hỗn lọan, vội tản ra bốn góc né tránh. Vì mọi người đều tản ra, lại ở duới nước, tôi căn bản thể xác định xem những người còn lại còn sống hay , chỉ biết mình khấn nguyện xin bình an. Hai con giao long, thấy con cá già khốn đốn, mừng rơn như hóa dại, nhe nanh giơ vuốt lượn vòng, tính toán xem khợp vào chỗ nào để kết thúc tính mạng của con cá vua này. Chúng bị máu loang trong nước kích thích, giống như hít phải thuốc phiện, trông có vẻ hưng phấn hơi quá độ, có đau đớn chút cũng sao, lúc như thế bỗng đột nhiên phát ra trong điện có người, con liền quẫy đuôi đâm thẳng xuống như quả ngư lôi vằn đen trắng. Hốc rãnh ở đáy điện lúc này đều rạn nứt cả, nước và máu đục ngầu theo đó xối xuống, tầm nhìn lập tức lên. Tôi cầm đèn chiếu lia chập, chỉ thấy con giao long vằn lao ra, bổ thẳng về phía Shirley Dương và A Hương các chỗ tôi xa lắm. Hai người họ dùng chung bình dưỡng khí, nấp ở góc điện chờ thời cơ rút lui, nhưng kịp nữa rồi. Tôi định bơi qua cứu viện, nhưng thể nào nhanh bằng cong giao long lao như quả ngư lôi kia, vả lại cho dù có tới, mình tôi cũng đủ cho nó bõ dính răng. Tình thế vô cùng nguy cấp, đột nhiên áp lực của dòng nước ngầm tăng lên dữ dội, khối nhãn cầu đá nghìn cân kẹt giữa tổ ong cuối cùng cũng rơi xuống. Con giao long bổ nhào về phía Shirley Dương và A Hương cũng sững sờ trước tảng đá khổng lồ đột ngột rơi, quên cả né tránh, bị nện thẳng vào giữa thân. Lực đẩy trong nước hồ có hạn, tảng đá đổ xuống vốn kéo theo nước của cả hồ trút xuống, sau khi nện vào con giao long cũng chẳng hề chững lại, tức khắc xuyên vỡ nền điện dưới nước, tất cả mọi thứ trong điện đều bị xối xuống theo dòng nước khổng lồ. Truyện "Ma Thổi Đèn " Trong dòng nước, tôi chỉ cảm thấy đất trời điên đảo, cơ thể như rơi xuống Quỷ động đáy, bắt gặp gian lớn đến mức khó tưởng tượng, chỉ còn cách nín chặt mồm mũi đề phòng bị sặc. Trong cơn hoảng hốt, bỗng phát ra khoảng sáng trắng bên dưới đó, dường như sa vào trạng thái ảo giác với muôn vàn tia sáng rực rỡ lấp lánh, cũng biết những người còn lại bị xối đâu. Cơ thể tôi rơi xuống cái hồ, dải nham thạc thấp thoáng có ánh huỳnh quang mờ nhạt, song trông thực lắm, nhìn lên có hàng trăm cột nước lớn từ các nham động đỉnh đầu trút xuống. Bỗng nhiên cảm thấy có cánh tay kéo giữ mình, tôi định thần lại nhìn, ra là Tuyền béo; gặp người bạn sống chết có nhau, bát chợt cảm thấy an tâm hơn nhiều, liền vỗ đèn chiếu mũ cho sáng, tiếp tục tìm tung tích của ba người còn lại. Nuớc vẫn tiếp tục cuồn cuộn tuôn xuống suối sâu ở phía Đông, hơi thả lỏng chút là rất dễ bị xối trôi . Tôi và Tuyền béo đành bơi lên bờ hồ gần đó trước, lớn tiếng gọi hồi lâu, nhưng đều bị át trong tiếng nước xối xả. Minh Thúc, A Hương, Shirley Dương lúc này biết tăm tích nơi đâu. Tôi và Tuyền béo bàn bạc, chắc họ bị nước xối về hạ du rồi, phải mau chóng vòng xuống tìm, sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Thế giới dưới đất này địa hình địa mạo hết sức kỳ quái, nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi, vừa mới cất bước, thấy con phù du thủy sinh to cỡ chuồn chuồn ngô, khắp mình nhấp nhánh ánh huỳnh quang bay qua đầu, phải dài hơn sáu tấc, giống như linh hồn màu trắng bay múa trong trung. phút lơ là sơ ý, cộng thêm tinh thần hoảng hốt vì vừa lạc mất mấy người, chú ý dưới chân là dốc đá dăm, hai chúng tôi vừa giẫm lên trượt chân lăn tròn, còn chưa kịp phản ứng hẫng cái ngã từ cao xuống. Hai thằng lăn thêm chừng bảy tám mét, rơi vào cái đệm lớn bồng bềnh xốp xốp, nhát thời đầu óc quay cuồng, may mà chỗ này rất mềm, ngã xuống cùng đau, có điều đột nhiên thấy bất ổn, cảm giác tay như sờ lên tảng thịt, bèn vội trấn tĩnh, nhìn cho kỹ, hóa ra phải thịt. Tôi và Tuyền béo liếc nhìn nhau: "Tổ sư cái này tám phần mười là nấm rồi cậu ạ... nấm Đế vương cao bằng mười tầng lầu." Trong khoảng gian rộng rãi bên dưới, ở mép nước có vô số những con phù du lớn bay liệng. Sinh mạng của bọn này rất ngắn ngủi, sau khi ấu trùng dưới nước mọc cánh, chỉ sống được trong bầu chừng máy chục phút mà thôi. Trong khoảng thời gian đó, cớ thể chúng liên tục tiết vào khí loại bụi huỳnh quang đặc biệt. Sau khi chúng chết rồi, loại bụi này vẫn tiếp tục phát sáng thời gian, cho nên cả gian dưới mặt đất lúc này vẫn tràn ngập ánh huỳnh quang màu tráng mờ ảo nhiệm màu. Ở lâu chút, mắt chúng tôi dần thích ứng với ánh huỳnh quang ảm đạm nơi đây, thấy mọi vật xung quanh còn mơ hồ như ban đầu nữa. Tôi nhìn tấm đệm lớn mềm nhũn dưới thân mình, nó vừa giống cái ô lại vừa giống cái lọng, phần giữa ngả trắng, xung quanh đen sì, quả là cây nấm khổng lồ hiếm có, đường kính ắt dưới hai muơi mét. Loài nấm này sinh trưởng rất nhiều ở vùng ẩm thấp dưới lòng đất. Vừa nhìn thấy, tôi và Tuyền béo lập tức nhớ tới hồi cải tạo lao động ở dãy Hưng An Lĩnh. Hồi ấy lên núi hái mộc nhĩ, trời vừa đổ mưa xong, ngờ bước vào khe núi liền thấy cây nấm cao hơn cả cây thường, mọc sừng sững giữa rừng, hai đứa tôi cứ trầm trồ mãi thôi. Người trong thôn gọi nó là "nấm Hoàng đế", nêu may mắn tháng Tám hằng năm có thể thấy được hoặc hai lần, có điều thứ này mọc lên nhanh mà lụi cũng nhanh, buổi sớm mới nhìn thấy nó, chưa đến trưa có khi mất rồi. Vả lại xung quanh khu rừng có nấm Hoàng Đế rất nguy hiểm, vì mùi của nó rất quyến rũ, màu sắc lại phong phú, tính chất cũng muôn vể, lại vì hiếm, ít người biết tường tận, thành thử mọi người nhìn thấy cũng coi như chưa nhìn thấy, dám ăn, lại càng chẳng dám đụng vào, toàn phải vòng qua. Tôi với Tuyền béo, cây nấm này to bằng cây nấm em ta thấy ở Hưng An Lĩnh, nhưng cũng , chắc đều là loại Hoàng Đế cả. Lăn xuống từ dốc đá dăm ven hồ, giờ muốn leo lên chắc cũng thể được rồi, chỗ đá dăm kia quả thực dốc quá, cứ giẫm lên là trượt, trụ vững được, thôi đành leo xuống để thóat khỏi cây nấm Hoàng Đế này .