Q.1 - Chương 10: Răng Vàng Trong quán lẩu ở phố Đông Tứ, thực khách đông kín, hơi nước bốc lên nghi ngút những nồi lẩu, tiếng cụng ly chúc tụng vang lên ngớt. Chúng tôi chọn bàn trống trong góc khuất, Răng Vàng liên tục rót rượu, tôi nhủ, chắc định chuốc cho mình say rồi moi thông tin đây, liền vội ngăn lại: “Kim gia, cái thứ Nhị Oa Đầu này nặng quá, thằng em đây tửu lượng kém, xin uống bia vậy!” Vừa ăn vừa trò chuyện, chốc lát chủ đề quay lại chuyện đổ đấu, Răng Vàng há miệng ra lấy ngón tay gõ vào cái răng vàng ấy, rồi : “Hai ông xem, cái răng vàng này tôi mua ở Phan Gia Viên đấy, nhổ ra trong miệng bánh tông, vàng Phật Lang thời tiền Minh đấy nhé. Tôi nỡ bán , đành tự nhổ răng mình trồng vào đấy chứ.” Thằng cha này cũng là, bữa cơm mà toàn mấy chuyện tởm lợm, càng nghĩ càng thấy buồn nôn, có muốn để người ta ăn nữa đây, tiếc tiền cứ thẳng ra cho xong, tôi chuyển chủ đề, sang chuyện khác. Tiền đè tay lũ nô tỳ, nghệ giỏi áp người trong nghề, chúng tôi chuyện lan man về nghệ coi mộ huyệt phong thủy, lại kể mấy chuyện hồi làm lính công binh ở núi Côn Luân, Răng Vàng nghe mà cứ tấm tắc khen hay, phục tôi sát đất. Trước khi bị Quốc dân đảng bắt lính, bố Răng Vàng là đồ đệ của cao thủ đổ đấu họ Sái người Hồ Nam, biết rất nhiều ngón nghề đào mồ trộm mả, nhưng phép tìm mộ huyệt chưa học được. Bởi ngay bản thân Sái tiên sinh, sư phụ ông ta, cũng đâu có hiểu thuật phong thủy này. Sau năm Dân quốc thứ mười hai, Lý Ấp Tử, nông dân thành Lạc Dương, mới phát minh ra xẻng Lạc Dương. Trước đấy, xẻng Lạc Dương còn chưa lưu hành, phái trộm mộ của bọn họ chủ yếu là dùng mũi ngửi, để duy trì độ nhạy của mũi, những thứ như đồ cay và bia rượu, họ đều phải kiêng hết. Truyện "Ma Thổi Đèn " Người ta dùng xẻng sắt xiên xuống đất rồi rút ra đưa lên mũi ngửi các thứ mùi xẻng xắt mang từ dưới đất lên, ngoài ra còn dựa vào cảm giác ở tay khi đào đất nữa, dưới đất trống rỗng, hay có gỗ, có gạch ngói, cảm giác chắc chắn là khác nhau. Thực ra cách này cũng na ná như nguyên lý đào đất của xẻng Lạc Dương, chỉ có điều đằng là dùng mũi ngửi, đằng là dùng mắt nhìn. Đất mà xẻng Lạc Dương mang lên có thể quan sát thành phần thổ nhưỡng, nếu có mảnh sứ, mảnh vải, miếng gỗ hay vàng bạc đồng chì sắt thiếc hay thủy ngân gì, hay cả đất nện, gạch ngói vân vân, những thứ ấy đều chứng minh dưới đất có mộ huyệt, đồng thời cũng có thể dựa vào các đầu mối ấy ước đoán niên đại cùng kết cấu bố cục của mộ cổ bên dưới. Có điều thuật ngửi đất kia đến đời Răng Vàng thất truyền, bố hai chân tàn phế, bản thân hen suyễn bẩm sinh, vậy nên làm Mô Kim Hiệu úy nữa. Người làm nghề này thông thường đều thấy ít đồ , chính là dựa vào chút nhãn lực đó mà buôn đồ cổ. Tôi bảo đùa rằng tay nghề của ông tổ nhà vẫn hơi thấp, tôi nghe người lớn trong nhà kể chuyện đổ đấu, cao thủ đích thực cần dùng xẻng sắt hay xẻng Lạc Dương làm gì, toàn cách đần độn cả, người có bản lĩnh chỉ cần đến nơi, nhìn qua cái là biết ngay dưới đất có mộ cổ hay , chôn ở vị trí nào, kết cấu ra sao. Phàm nơi nào phong thủy cực tốt, ắt có mộ lớn, người được chôn trong ấy, sinh thời chẳng hạng tầm thường, trong mộ chắc toàn là bảo bối. Đại hành gia chân chính đều coi khinh mấy thứ như xẻng Lạc Dương, bởi nếu đất đai đủ khô ráo, hiệu quả cũng giảm rệt, đặc biệt là ở vùng Giang Nam trù phú, lượng mưa nhiều, hàng bao mộ cổ đều chìm ngập trong nước ngầm, tầng đất ở chỗ ấy bị xối cho nát be nát bét ra rồi. Răng Vàng nghe tôi khua môi múa mép hồi lại càng sùng bái: “Bác Nhất à! Em phục bác rồi, vẫn có câu gì ấy nhỉ, sớm nghe đạo chiều chết được rồi vậy, được nghe cao luận của bác, coi như em uổng sống đến chừng này tuổi. Nhân tài vừa hiểu thuật phong thủy, lại từng làm công binh, hiểu biết về thổ mộc công trình như bác đây, đúng là chỉ có thể gặp mà chẳng thể cầu, có bản lĩnh như bác mà làm Mô Kim Hiệu úy tiếc lắm!” Tôi lắc đầu: “Chuyện thất đức ấy, tôi muốn làm, những điều tôi vừa nãy đều nghe nội tôi kể đó thôi, ông cụ năm xưa cũng từng làm Mô Kim Hiệu úy, kết quả là gặp phải bánh tông bự, suýt nữa đền mạng đấy.” Răng Vàng nguy hiểm chắc chắn là có, nhưng thủ vài cái móng lừa đen vào mình là yên tâm ngay, vả lại vẫn có câu trộm cũng có đạo, cái tiếng đổ đấu được tốt cũng đều do cái bọn trộm vặt hạ lưu làm hỏng thôi, cái ngữ chúng nó căn bản đâu phải người trong nghề, biết quy củ, chỗ nào cũng phá hoại sao người ta căm cho được? Lịch sử của nghề đổ đấu này truy nguyên ra, e cũng dưới ba ngàn năm, xưa kia từ thời Tam Quốc, Tào Tháo có đám quân chuyên đào lấy của cải trong mộ cổ để sung quân phí, thế nên chúng ta mới gọi nghề này là làm Mô Kim Hiệu úy. Trước giải phóng, nghề đổ đấu cả thảy phân ra làm bốn lưu phái Đông Tây Nam Bắc, đến những năm 80, nhân tài rơi rụng, chẳng còn lại được mấy người, vài người sót lại cũng đều rửa tay gác kiếm chẳng làm nữa rồi. Đám ranh bây giờ toàn lũ trai làng nhàn hạ, kéo bè kéo lũ đào mồ quật mả, nào có biết các quy định “hai lấy ”, “ba hương ba lạy thổi đèn mò vàng” của nhà nghề, ôi, biết bao đồ quý giá đều bị hủy hoại tay chúng cả. Răng Vàng cảm khái hồi, đoạn lại với chúng tôi: “Thằng em đây cắm ở Phan Gia Viên chơi mấy món này bao năm rồi, hai ông sau này có thứ gì hay, em có thể phụ trách liên lạc bên mua, giá cả hai ông cứ tự bàn bạc, nếu thành cho em ít hoa hồng là được rồi!” Tuyền béo cứ mải ăn uống, lúc này cũng khá no, bỗng nhiên nhớ ra điều gì, liền lấy miếng ngọc trong người đưa cho Răng Vàng giám định xem được bao nhiêu tiền. Răng Vàng coi lúc, lại đưa lên cánh mũi ngửi vài phát, phán rằng: “ Béo, miếng ngọc của bác là ngọc tốt đấy, chí ít cũng dưới ngàn năm lịch sử đâu, ừm… khả năng còn sớm hơn nữa, có lẽ là trước cả thời Đường. Chữ viết phía phải chữ Hán, là gì thằng em cũng nhìn ra được, nhưng chắc chắn đáng giá ít đâu, nhưng trước khi định được giá cụ thể thế nào, ông giữ lại chứ đừng ra tay sớm quá, kẻo lỗ lớn đấy. Miếng ngọc này sao ông lại có vậy?” Nhắc đến lịch sử gia đình, Tuyền béo liền trở nên hứng khởi: “Lai lịch của miếng ngọc này à, kẻ ra dài lắm. Thôi tôi cứ kể vắn tắt thế này, miếng ngọc này bố tôi được ông bạn hồi tham gia cuộc bạo động Hoàng Ma tặng cho, ông bạn bố tôi bấy giờ là thủ trưởng đứng đầu bộ tư lệnh quân dã chiến, lúc mang quân vào Tân Cương, đội quân của ông ta gặp phải nhóm thổ phỉ, bọn này cũng là muốn chết, quân cảnh vệ hộ tống lãnh đạo cấp cao nhất của quân giải phóng lẽ nào toàn ăn cơm ? Chẳng đến năm sáu phút, hơn trăm tên thổ phỉ bị tiêu diệt sạch, khi thu dọn chiến trường, quân lính phát ra miếng ngọc này người tên đầu sỏ, ông ta liền lấy luôn làm quà lưu niệm đem tặng bố tôi. Còn chuyện trước đó của nó thế nào, tôi cũng lắm.” Chúng tôi cứ thế ăn nhậu cho đến hơn mười hai giờ đêm mới rã đám, trước lúc ra về, Răng Vàng tặng cho hai chúng tôi mỗi người món đồ cong như móc câu, dài hơn tấc, đen bóng cứng nhắc, bên còn khắc hai chứ Triện, xem dạng chữ có lẽ là hai chữ “Mô Kim”. Món đồ này niên đại xa xưa, chắc là cổ vật, đầu bị đục lỗ, luồn dây đỏ qua, có thể đeo lên cổ làm đồ trang sức. Răng Vàng : “ em mình mới gặp mà như quen biết từ lâu, hai chiếc bùa hộ mệnh làm bằng vuốt con tê tê này, hai bác cứ giữ làm kỷ niệm, khi nào rảnh rỗi đến Phan Gia Viên tìm thằng em, “nước trôi mãi, non còn đứng trông”, em ta còn gặp lại nhiều.” Tôi và Tuyền béo quay về căn phòng thuê ở gần Sùng Văn môn, vì uống quá nhiều, đặt lưng xuống là hai thằng nằm mê mệt luôn đến giữa trưa hôm sau. Sau khi tỉnh giấc, nằm giường nhìn trần nhà thấp lè tè, tôi nghĩ ngợi rất nhiều, cái nghề trộm mộ này, đối với tôi thực ra chẳng lấy gì làm lạ, tôi chắc mình tìm được số lăng mộ lớn. Tiền chẳng phải thứ quan trọng nhất với tôi, có thể tôi chẳng bận tâm là có tiền hay , nhưng cuộc sống luôn đầy rẫy những mâu thuẫn, tôi của ngày hôm nay lại quá cần đến tiền. Bố mẹ đều được nhà nước cấp dưỡng, tôi có gánh nặng gia đình, tôi no cả nhà cũng chẳng ai chết đói, nhưng những đồng đội hy sinh chiến trường sao, cha mẹ họ có ai phụng dưỡng, săn sóc? Tiền khám bệnh uống thuốc, tiền học phí của em , em trai họ, dựa vào mấy đồng tiền tuất còn chẳng đủ mua lấy con cá gỗ. chiến trường, hình như ngoài tôi ra, ai cũng có lý do để tuyệt đối thể chết, nhưng kẻ sống sót cuối cùng lại là tôi, cái mạng này của tôi được đổi lại bởi chính mạng sống của hàng bao chiến hữu, giờ tôi phải làm gì cho họ đây? Lúc này, Tuyền béo cũng tỉnh, dụi dụi hai con mắt, thấy tôi ngây ra nhìn lên trần nhà, liền : “Này Nhất! Cậu nghĩ gì thế? Thực ra cậu tớ cũng biết, tối qua nghe mấy lời thằng cha răng vàng nên giờ động lòng chứ gì? Tớ cũng thấy ngứa ngáy lắm, em mình rốt cuộc thế nào, tớ chờ nghe câu của cậu thôi đấy!” Tôi lấy chiếc bùa hộ mệnh Răng Vàng tặng ra: “Tuyền béo này! Cậu chớ coi thằng cha ấy là người tốt, nó cũng là con buôn thôi, có ăn mới nhúng tay vào. Cái móng vuốt này, các Mô Kim Hiệu úy, thuộc hạ của Tào Tháo thời Tam Quốc vẫn thường đeo, thứ quý giá như vậy lẽ nào lại tặng em mình dễ thế? Nó biết tỏng bản lĩnh của chúng ta rồi, định kiếm chút lợi lộc từ đó đây.” Tuyền béo bực mình: “Khốn nạn! Sớm biết bợm chẳng tốt đẹp gì, lát ông đến Phan Gia Viên bẻ phăng cái răng bựa của bợm, ông quăng hố xí!” Tuy vậy, nhưng chúng tôi bàn bạc, thấy vẫn nên lợi dụng nhau hơn, tạm thời chưa trở mặt với thằng cha ấy vội, tôi có khuyết điểm là quá bộp chộp, làm việc nghĩ mấy tới hậu quả, thấy con đường trộm mộ này có thể được, Mao chủ tịch bất kỳ việc gì thế giới này đều có hai mặt, việc tốt có thể biến thành việc xấu và ngược lại, đó chính là phép biện chứng. Trong lăng mộ của các bậc đế vương khanh tướng có vô số của cải báu vật, nhưng có thể những thứ ấy chỉ thuộc về chủ mộ thôi hay sao? Chẳng phải đều bóc lột của nhân dân hay sao, của lấy từ dân, theo lẽ phải dùng cho dân, sao có thể để chúng vĩnh viễn ngủ yên dưới đất với đám xương khô ấy được. Muốn làm gì phải làm lớn, lăng mộ trong dân gian cũng chẳng nhằm nhò gì, đa số là chẳng có gì đáng tiền, vả lại thó đồ của nhân dân tổn hại đức lắm. Tôi từng nghe ông nội giảng về quy củ của Mô Kim Hiệu úy, khác hẳn với bọn giặc trộm mộ. Bọn ấy toàn lũ khó chơi bời, thó bừa, xuống tay quá tuyệt tình, mặc xác ông là trung thần hay lương tướng, kệ thây ông là quan lại hay dân đen, bới được ông nào xơi ông ấy, chẳng có quy củ gì, mà có cũng chỉ là mấy tên nông dân tự nghĩ ra, căn bản chẳng ra thể thống gì. Mô Kim Hiệu úy lại khác, phàm là khai quật mộ lớn, họ đều phải thắp cây nến bên trong địa cung của hầm mộ, đặt ở góc đông nam. Sau đó mới mở quan tài “mô kim”, vật quý giá nhất của người chết, luôn mang người, số mộ chủ là bậc vương hầu trở lên, miệng đều ngậm ngọc châu, mình đắp vàng ngọc, trước ngực còn có ngọc hộ tâm,trong tay chắp ngọc như ý, thậm chí cả hậu môn cũng được nhét bảo thạch. Lúc động thủ, được làm tổn hại đến di hài người chết, phải nhàng sờ nắn từ đỉnh đầu đến gót chân, sau cùng nhất quyết phải để lại cho người chết vài món bảo vật, trong lúc đó, nếu như ngọn nến ở góc đông nam hầm mộ bị tắt, phải trả ngay những thứ cầm được về chỗ cũ, kính cẩn rập đầu ba lạy, rồi men theo đường cũ mà chuồn ra. Bởi theo truyền thuyết trong số ngôi mộ có hồn ma, còn vì sao những hồn ma ấy vào cõi luân hồi, cứ ở trong mộ cả trăm năm ngàn năm khó mà giải thích được, rất có thể là vì nỡ rời xa vinh hoa phú quý khi còn sống, chết rồi vẫn ngày ngày trông coi đống của cải, gặp phải chủ mộ của hơn mạng như vầy, chớ có gượng cướp đồ của nó. Cuối cùng, tôi với Tuyền béo quyết định, thế dứt khoát làm Mô Kim Hiệu úy cho xong, cái gì mà tự vấn lương tâm, cứ coi như bị chó nó ăn hết lương tâm rồi , mà , chỉ bị sen hết nửa thôi, à… mà vẫn đúng. Cứ thử nhìn từ góc độ khác xem, giờ là thập niên tám mươi rồi, chẳng phải đều kêu gọi cống hiến đó sao? Giờ cũng đến lúc để bọn vương công quý tộc bóc lột nhân dân lao động kia cống hiến chút ít rồi. Nhưng cái bọn ma quỷ ấy giác ngộ kém lắm, chẳng mong chúng tự bò ra cống hiến đâu, mấy việc này, thôi để chúng tôi lo giúp vậy, vòi tiền bọn giai cấp phong kiến thống trị, thu dọn từng cái đĩa bạc âu vàng, phân chia ruộng đất, kể ra công việc cũng mấy rảnh rang. Phương hướng chiến lược xác định, mục tiêu chiến thuật cụ thể và thực ra làm sao còn cần phải bàn bạc kỹ lưỡng. Ba vùng Hà Nam, Hồ Nam, Thiểm Tây là nơi phong trào trộm mộ thịnh nhất, mộ cổ dễ tìm, vả lại nơi đông người hành bất tiện, ngoài ra còn phải che giấu bằng việc cày cấy, lợp nhà, muốn làm tốt nhất đến những nơi rừng sâu núi thẳm, vắng dấu chân người mà làm. Nếu đến rừng sâu núi thẳm, xét trong những ngôi mộ lớn mà tôi từng gặp, chắc chắn phải xếp ngôi ở núi Tim Trâu đứng hàng đầu, hồi lên núi về nông thôn ấy tôi hẵng còn quá trẻ, chẳng hiểu biết gì, dựa vào từng trải của tôi nay mà phán đoán, ngôi mộ ấy có lẽ trước thời Bắc Tống, thời thịnh Đường, đa số chuộng lấy núi làm lăng, nếp ấy kéo dài cho đến tận đầu thời Tống, sau thời Nam Tống, quốc lực dần suy vi, từ ấy chẳng còn lăng mộ hoàng gia nào dám làm công trình lớn như vậy nữa. Tuyền béo hỏi: "Chẳng phải cậu bảo trong núi Tim Trâu có ma đấy ư? Tìm chỗ nào có ma mà làm, em ta đối phó với người rừng hay gấu chó cũng chẳng sao, nhưng gặp phải ma chẳng biết nên ra tay thế nào đâu đấy nhé!” Tôi bảo: “Thứ nhất, đời này có ma, những gì lần trước tớ với cậu có thể chỉ là ảo giác do sốt cao; thứ hai, đây là lần đầu tiên mình hành động, nhất thiết phải vào núi. Cậu còn nhớ ở làng Yến Tử có rất nhiều nhà cổ vật ? Mình cứ lên thu mua lấy vài cái mang về bán , đỡ phải tốn sức đắn đo làm gì.” Ngày hôm ấy, chúng tôi chia nhau chuẩn bị, Tuyền béo xử lý hết đống băng cát xét tồn đọng, còn tôi chợ đồ cũ mua số dụng cụ cần thiết như đèn pin, găng tay, khẩu trang, nến, dây thừng, bình nước… Cái làm tôi sướng ngất ngây chính là mua được hai chiếc xẻng công binh của Đức, tôi cầm xẻng trong tay, cảm giác cứ như gặp lại bạn cũ vậy. Loại xẻng công binh này vốn dĩ được trang bị cho sư đoàn đột kích vùng núi của Đức trong thế chiến thứ hai, sau bị quân Liên Xô đoạt được rất nhiều, hồi quan hệ Trung – Xô còn hữu hảo, phần được mang vào lãnh thổ Trung Quốc. Xẻng công binh của Đức rất tiện, có thể gấp lại treo ở thắt lưng, hơn nữa chất thép rất tốt, đừng là chỉ có đào đất phạt đá, đến khi nguy cấp, có thể dùng làm binh khí, vung cái là có thể chém phăng nửa cái đầu của kẻ thù như chơi. Chỉ tiếc điều là mua được mặt nạ phòng độc, năm xưa hồi cả nước tiến hành “ba phòng chống”, dân chúng cũng được phân phát ít mặt nạ phòng độc loại Sáu , thỉnh thoảng vẫn thấy bán ở chợ đồ cũ, nhưng hôm nay hơi xui nên mua được, đành để tính sau vậy. Ngoài ra còn thiếu số thứ, những thứ ấy đợi đến trại Cương Cương chuẩn bị sau vậy. Tổng cộng tiêu hơn nghìn năm trăm tệ, chủ yếu là vì hai chiếc xẻng quá đắt, sáu trăm tệ chiếc, giá như cắt cổ. Cuối cùng người tôi chỉ còn lại sáu tệ, vậy ổn, hết tiền mua vé tàu rồi! Cũng may Tuyền béo bán tống bán tháo hết đống băng cát xét, trả lại phòng trọ, bán nốt chiếc xe xích lô, cộng lại cũng hòm hòm được tiền lộ phí. Hai thằng ra mua vé tàu luôn trong đêm, năm xưa khi rời nơi ấy tôi còn chưa đầy mười tám, giờ mười mấy năm quay lại rồi, cứ nghĩ sắp được thấy lại bà con nhiều năm gặp, chúng tôi thấy hơi xúc động trong lòng.
Q.1 - Chương 11: Hắc phong khẩu – Dã nhân câu Tàu xuất phát lúc hai giờ chiều hôm sau, chúng tôi hồi hộp, thao thức suốt đêm, tôi hỏi Tuyền béo xem tổng cộng còn bao nhiêu tiền, Tuyền béo đếm lúc rồi bảo vẫn còn trăm rưỡi, chút tiền này cũng đủ tiền ăn và lộ phí quay về. Tôi nghĩ luc thấy như vậy được, hai chúng tôi mười mấy năm quay về đó, mang người thăm bà con, phải chút nào, phải nghĩ cách gì kiếm ít tiền mua quà cho bà con mới được. Tuyền béo , hay cứ bán quách miếng ngọc của cậu ta lấy ngàn hay tám trăm gì cũng được. Tôi liền bảo: "Cậu cứ giữ lại , tiên sư nhà cậu hơi tí nhăm nhe cái món ông bố để lại, bán rồi là lấy lại được đâu, rồi có lúc hối cũng kịp đấy chứ." Cuối cùng tôi cũng tìm ra thứ đáng tiền chút, tôi có cái đồng hồ cơ hiệu Eagle, là mẫu hàng giới hạn sản xuất, cung cấp có định mức, có tiền cũng chưa chắc mua được, giá thị trường hồi bấy giờ cũng phải hơn hai trăm tệ. Tôi đến Phan Gia viên bán đồng hồ cho tên Răng Vàng, thằng cha này cái gì cũng mua sất, vừa nghe thấy bảo chúng tôi sắp Nội Mông, nó còn tài trợ cho bọn tôi trăm tệ, và hẹn với bọn tôi khi nào tìm được đồ, để nó liên lạc với bên mua. Những năm tám mươi, ba trăm tệ đó đủ cho gia đình phổ thông sống xa xỉ độ hai ba tháng, là số tiền rất lớn. Cầm ba trăm tệ này, tôi mua khá nhiều đồ ăn, mấy loại như mứt, kẹo sữa, đồ hộp, sô la, trà, những thứ ở vùng núi người ta hiếm khi được ăn, còn lại bao nhiêu tiền đổi hết sang phiếu lương thực toàn quốc ở chợ đen. Hành trình hai ngày hai đêm trong tâm trạng tràn trề mong đợi ràng là có chút rề rà chậm chạp, đến ga lại còn phải ngồi xe kéo ngày, sau đó đường núi thêm ngày đêm nữa. Chúng tôi vào trong núi, chưa được ngày tài nào cất chân lên nổi nữa. Đồ mang theo quá nặng, mỗi người gần như phải địu đến hơn năm mươi cân, tôi cố nghiến răng cũng vẫn gắng gượng được, nhưng Tuyền béo quả thực nổi nữa, ngồi dưới gốc cây to, thở hổn hển, ra hơi. Truyện "Ma Thổi Đèn " Cũng may gặp được tay kế toán trong làng ra ngoài làm việc, hồi bọn tôi tới đây lao động, nó mới là thằng trống choai, cả ngày lẽo đẽo sau mông chúng tôi chơi đùa, mở miệng ra là gọi " Nhất", " Tuyền béo". Kế Toán thấy chúng tôi mang theo nhiều hành lý, vội chạy về làng gọi mấy người dắt lừa ra đón, những người có tuổi bọn tôi đều quen cả, còn hai con bé mười hai, mười ba tuổi kia, chắc sau khi chúng tôi rời mới ra đời. Cả hai đều gọi tôi bằng "chú", tôi nghe mà cứ thấy ngượng nghịu cả người. Tôi hỏi Kế Toán: "Sao trong làng thấy em đàn ông đàn ang nhỉ?" Kế Toán đáp lời: "Những người có sức khoẻ trong làng đều theo đoàn khảo cổ làm việc rồi, sau cái vụ động đất lớn ở Đường Sơn hồi năm bảy sáu ấy, tuy chỗ ấy cách bọn em ở đây mười vạn tám ngàn dặm, nhưng cùng thuộc dải địa chấn, động đất làm cả quả núi Tim Trâu trong Lạt Ma câu tách ra, bên trong có nguyên ngôi mộ lớn như toà cung điện ấy, mấy người bạo gan trong làng đều chạy vào đó khuân đồ ra, cái chỗ ấy đồ tốt ngập lên tận đầu ấy chứ, kết quả chẳng hiểu sao lại đến tai chính quyền huyện, đoàn khảo cổ cũng theo tới luôn. Thấy bảo đó là lăng mộ của bà Tiêu Thái hậu nước Đại Liêu, còm gom hết đồ tốt trong nhà mọi người mang , cho giữ lại thứ nào. Đội khảo cổ cũng bỏ qua mấy thứ trong núi Tim Trâu, hình như bảo bên dưới còn có nhiều đồ tốt có thể đào lên. Vậy là họ thuê dân lao động trong làng làm hết, được ăn được uống no nê, lại còn trả ngày ba tệ. Cứ thế làm đến mấy năm rồi vẫn chưa xong, bao nhiêu người vẫn ở trong đó làm đấy." Tôi với Tuyền béo nghe vậy suýt hộc máu mồm, đúng là dám động thổ đầu thái tuế rồi, cả phật gia mà cũng vỗ mông từ. Nhưng cũng hết cách, thể tranh địa bàn với bọn đoàn khảo cổ Cục Văn vật ấy được. đến rồi cứ ở lại chơi vài ngày rồi tính tiếp, lúc về nghĩ cách kiếm chỗ khác cũng được, dù gì mộ cổ lớn có phải chỉ có mỗi ngôi ở núi Tim Trâu đâu. Lúc sắp về tới làng, bà con biết tin đều đứng đợi trước cửa, mọi người xúm xít cả lại, ân cần thăm hỏi. Yến Tử dắt theo con tới vừa khóc vừa : "Ôi trời ơi! Nhất, Tuyền béo! Chúng tôi nhớ các chết mất! Sao bao nhiêu năm như vậy mà chẳng thư từ gì vậy?". Bố Yến Tử ôm chặt lấy bọn tôi: "Hai thằng ranh này, biến là biến mất tăm mất tích, đợt này mà ở lại hai ba năm, tao chẳng cho thằng nào đâu hết!" Tôi và Tuyền béo đều khóc. Tuyền béo ở đây những sáu bảy năm, còn tôi chỉ ở có năm, nhưng người dân nơi đây thà chất phác, sống ở đây, mọi người mãi mãi coi như người thân. Nơi đây vẫn như trước kia, chẳng có gì thay đổi, có điện, có đường quốc lộ, ít người cả đời vẫn chưa nhìn thấy đèn điện thế nào. Tôi càng nghĩ càng thấy buồn, thầm nhủ đợi khi có tiền, nhát định xây con đường lớn cho dân làng, nhưng đến khi nào bọn tôi mới có tiền đây? Lúc này, ông bí thư chi ủy già trong làng cũng được dìu tới, chưa đến nơi vang: "Những đứa con của Chủ tịch quay lại rồi sao? Chủ tịch giờ thế nào rồi? Đại Cách mạng Văn hoá làm tới đâu rồi?" Tôi nghe mà thấy rầu rĩ, ông chủ tịch giờ có khoẻ , tôi biết làm sao được. Tôi vội chạy đến đỡ cánh tay của ông già: "Chủ tịch vẫn khoẻ ạ, giờ ngày nào cụ cũng nằm trong nhà tưởng niệm, bà con ai nhớ cụ, mua vé là có thể vào thăm cụ thôi. À, mà đúng rồi! Cách mạng Văn hoá kết thúc từ lâu rồi ông ạ, giờ đồng chí Tiểu Bình lãnh dạo mọi người cải cách mở cửa kia ạ!" Ông già hình như nghe thấy tôi gì, kéo dài giọng hỏi lớn: "Sao? Đồng chí Tiểu Minh làm gì hả?" Yến Tử đứng bên cạnh nhắc tôi: "Đừng nghe ông cụ nữa, cũng chẳng biết làm sao, năm bảy ba ông cụ điếc luôn, chẳng nghe gì, lại còn lẩm cẩm nữa." Giờ tôi mới hiểu, hoá ra là như vậy. Tôi to vào tai ông cụ: "Bí thư chi uỷ ơi! Con mang cho cụ nhiều đồ ăn ngon lắm, lát con đưa cụ, cụ để ăn dần nhé!" Mọi người vừa vừa trò chuyện, thoắt cái vào làng, ông bí thư chi uỷ còn lớn phía sau: "Các con ơi! Chúng mày có về nhớ báo cáo với cụ chủ tịch, làng chúng ta kiên quyết ủng hộ công cuộc Đại Cách mạng Văn hoá giai cấp vô sản... phải làm thế nào cứ làm thế!" Buổi tối, chiếc bàn con đặt giường đất nhà Yến Tử bày đầy gà rừng xào, đùi nai hun khói, giữa bàn còn đặt nồi canh dưa thịt lớn, chồng của Yến Tử trước kia cũng quen biết với chúng tôi cả, bận này chàng làm việc ở núi Tim Trâu, tạm thời chưa gặp được. Bố Yến Tử ngồi cùng chúng tôi uống rượu tán chuyện, tôi nhắc đến ngôi mộ cổ ở núi Tim Trâu, rồi tiện hỏi luôn ông xem trong dãy núi lớn này còn mộ quý tộc thời xưa hay . Từ xưa đến giờ, người vùng cao luôn cho trộm mộ là nghề làm thêm, hề có vấn đề đạo đức gì ở đây hết cả, miền Bắc là như vậy, vùng Tương Tây miền Nam còn coi cướp của giết người là nghề phụ, người dân nơi ấy ban ngày làm nông, đến tối làm cướp, náu trong rừng, chuyên giết khách buôn tỉnh ngoài qua đấy, xưa nay chưa từng để ai sống sót trở về. Đó cũng là do hoàn cảnh sinh tồn của cả trăm ngàn năm dồn ép, gần núi nhiều củi đốt, gần sông lắm cá ăn, ở nơi sơn cùng thuỷ tận ăn mộ cổ, ăn những kẻ qua đường. Chỉ cần chung quanh có mộ cổ, thế nào cũng có người đến quật lên. Ở miền biên viễn, phép vua thua lệ làng, tuy những lẽ ấy đứng ở góc độ pháp luật mà xét chẳng ai có thể biện bạch cho thông. Mộ cổ ở đây phần lớn niên đại lâu đời, trải bao cuộc bãi bể nương dâu, sớm chẳng còn dấu hiệu gì rệt, nếu cũng bị người dân đào sạch từ lâu rồi. Truyện "Ma Thổi Đèn " Bố Yến Tử kể rằng rất lâu về trước, hồi còn chưa giải phóng, làng này cũng từng có vài tay "trộm mộ" nghiệp dư trẻ tuổi, hồi ấy còn chưa biết núi Tim Trâu có mộ, bọn họ tìm tới nơi được nhắc tới trong truyền thuyết đào mộ lấy vàng, két quả chẳng hiểu gặp phải cái gì, tất cả đều có về, chú của Yến Tử chính là trong số đó. Nơi được nhắc đến trong truyền thuyết ấy, bố Yến Tử cũng biết vị trí đại khái của nó, nhưng trước giờ đều dám đến. Nhắc đến chuyện xưa, ông cụ đắm mình trong dòng hồi ức, châm điếu thuốc Yabuli, bập bập môi hút mấy hơi, trầm tư lúc lâu mới cất tiếng: "Chúng bay định tìm mộ cổ, gần khu này ngoài núi Tim Trâu ra chẳng còn đâu, nhưng nghe các cụ kể, từ đây theo hướng Bắc, băng qua rừng Đoàn Sơn tiến vào núi, năm ngày đường, ở Hắc Phong khẩu giáo biên giới Trung Mông có Dã Nhân câu, tương truyền nơi ấy toàn là lăng mộ của vương công quý tộc nước Kim, có điều nơi đó vắng người, lại có người rừng lui tới, chúng bây liệu có gan ?" Cái tên Dã Nhân câu ngày xưa tôi cũng từng nghe , nhưng chưa từng nghe bảo ở đó có mộ cổ, nhóm trộm mộ lần đó rốt cuộc bị hại bởi thứ gì, đừng tôi và bố Yến Tử biết, mà cả cái làng này cũng tịnh chẳng ai hay. Trong rừng sâu núi thẳm, nguy hiểm quả thực quá nhiều, các loại mãnh thú, thậm chí là cả thời tiết thay đổi, môi trường tự nhiên đều có thể lấy tính mạng người ta, nếu đụng phải vũng lầy (thực ra là dạng đâm lầy hình thành bởi lớp lá khô sau khi bị nước mưa bào mòn, nát rữa), sẩy chân sa xuống đấy, dẫu có là thần phật cũng chẳng thể thoát ra được. Chúng tôi quyết chí tìm, bố Yến Tử cũng can nổi, trong làng chưa ai thực từng tới Dã Nhân câu ở Hắc Phong khẩu cả, mà chỉ biết vị trí đại khái thôi. Vì nơi ấy giáp biên giới, cũng có người sinh sống. Dân làng dẫu vào núi săn bắt hay kiếm lâm sản cũng chẳng thể xa đến vậy. Cộng với bố Yến Tử có tuổi rồi, lại mắc bệnh thấp khớp, thể lên núi được nữa. Yến Tử bây giờ lại mang thai cháu thứ hai, cũng thể xa được. Thanh niên trai tráng trong làng đều đến làm việc ở khe Lạt Ma, trong quãng thời gian ngắn chắc về. Bố Yến Tử : "Tao đích thân dẫn chúng bay , trước sau cứ thấy yên tâm, thực ra Dã Nhân câu nguy hiểm phải ở người rừng, mà cái chính là địa hình nó phức tạp, vừa đến mùa đông là có bão tuyết, vào đó rất dễ lạc đường. Có điều giờ là đầu thu, cần lo chuyện này, chúng bay có nhất định phai đem theo mấy con chó tốt, lại phải tìm người dẫn đường giỏi, làng mình mấy năm nay có nuôi mấy con chó ngao, bận này cho chúng bay mang hết." Chó ngao phải chỉ riêng chó ngao Tây Tạng, ở vùng Đông Bắc người ta cũng gọi loại chó dữ có thể hình to lớn là chó ngao, hoàn toàn giống với chó ngao Tây Tạng. Những dân chăn nuôi, săn bắt sống trong thảo nguyên rừng sâu miền Bắc, hay bị lũ dã thú như sói đàn và gấu đen uy hiếp, dựa vào chó săn thông thường rát khó đối phó, họ bèn học theo cách nuôi ngao ở Tây Tạng mà nuôi chó ngao. Tục ngữ có câu "chín chó ngao", ý câu ấy phải bảo trong chín con chó cho ra được con ngao. Phải là chó mẹ có giống tốt, đẻ ra lứa chín con, đem chín con chó con ấy nhốt xuống dưới hầm đất từ khi còn đỏ hỏn, cho ăn uống, để chúng tàn sát lẫn nhau, cuối cùng con suy nhất sống sót chính là ngao. Chó ngao bản tính dũng mãnh vô cùng, ba con chó ngao đủ để xé tan xác con gấu người trưởng thành. Cả làng tổng cộng có ba con ngao, cộng thêm năm con chó săn tốt nhất, tất cả còn giao cho chúng tôi, bố Yến Tử lại giới thiệu cho chúng tôi người dẫn đường tên là Tử. Tử mới mười chín tuổi, là người Ngạc Luân Xuân, dân tộc rất ít gặp, trong lớp thợ săn trẻ của làng, ai xuất sắc đựơc hơn Tử. là tay súng thần nổi tiếng trong vùng, chớ thấy còn trẻ mà coi thường, từ Tử theo cha vào rừng săn, trong rừng có chuỵen gì là biết cả, ba con chó ngao trong làng có đến hai con là do đích tay Tử nuôi nấng. Trước khi xuất phát, tôi lại nhờ Yến Tử giúp chuẩn bị số thứ, như lồng chim, gạo nếp, móng lừa đen. xà beng, thùng dấm to và rượu trắng. Sau khi thu xếp xong xuôi, bố Yến Tử cứ dặn dặn lại quả thực tìm thấy đừng miễn cưỡng, di sớm về sớm, rồi tiễn chúng tôi ra tận khu Đoàn Sơn mới quay về. Tôi tương đối tự tin mình có thể tìm ra mộ cổ, chỉ cần đến được Dã Nhân câu, có mộ đành chịu, còn nếu có , tôi nhất định tìm được. Chuyện đào mồ trộm mả này, tôi học được ít từ sách vở, còn phần nhiều là hồi trước nghe ông nội kể. ông nội tôi, Hồ Quốc Hoa, từng làm sĩ quan cho quân phiệt cũ, thuộc hạ của ông có mấy tay lính từng theo tên đại đạo Đông Lăng Tôn Điện , từng nhiều lần tham gia khai quật lăng mộ lớn, kinh nghiệm rất phong phú, những điều ông tôi biết được, đa phần đều nghe họ kể mà ra cả. Xưa nay trộm mộ thường phân làm hai loại: quan trộm và dân trộm, quan trộm là loại ngang nhiên đốt đuốc vác gậy đào xới, chuyên chọn lăng mộ vua chúa mà ra tay. Sở Bá Vương Hạng Vũ cuối đời Tần, có thể coi là ông tổ của dòng trộm quan vậy, còn như Mô kim Hiệu uý thời Tam Quốc, bất quá chỉ là hệ thống hoá lại dòng trộm quan, hình thành nên dây chuyền tác nghiệp mà thôi. Trong dân gian cũng phân ra hai loại nghiệp dư và chuyên nghiệp, bọn nghiệp dư có thứ nào đào thứ nấy, dân chuyên nghiệp hơn chút chỉ tìm mộ đám vương công quý tộc, mộ hơn chẳng thèm để mắt. Mấu chốt của việc trộm mộ nằm ở chỗ có tìm được mộ cổ hay . Đây là ngành học cực kỳ uyên thâm. Trung Quốc trải qua mấy ngàn năm thay triều đổi đại, biến hoá thịnh suy, cách xây dựng và chọn vị trí cho lăng mộ đế vương đều giống nhau. Thời Tần Hán, làm sao dưới phỏng theo làm vậy, phần nhiều là mộ hình đấu úp, đấu úp tức là chỉ hình dạng giống cái ụ đất, như đem cái đấu đong gạo mà lật úp lại đậy lên vậy, bốn bề thấy góc cạnh, đỉnh cùng là sân vuông nho , hơi giống kim tự tháp Ai Cập, chỉ có điều lăng mộ Trung Quốc nhiều hơn cạnh, so với kim tự tháp của nền "văn minh thất lạc" Maya phát ở Nam Mỹ giống nhau đến kinh người. Giữa chúng có quan hệ thế nào, chẳng ai đoán ra được. Thời Đường mở núi làm lăng, công trình kỹ vĩ, khí thế hào hùng, điều này cũng liên quan đến quốc lực Đại Đường thời bấy giờ, lăng vua chúa đời Đường đâu đâu cũng toát lên phong thái của đế quốc đệ nhất thiên hạ, duy ngã độc tôn. Quãng thời gian từ thời Nam Tống đến cuối Minh đầu Thanh, hoạ đao binh liên tiếp diễn ra, mấy đợt thiên tai lớn nhất trong lịch sử cổ đại Trung Quốc cũng đều xảy ra vào thưòi kỳ này, sức nước suy yếu, quy mô lăng tẩm của quý tộc vương công cũng chẳng đuợc xa hoa như trước nữa. Sau nữa đến đời Thanh, thời kỳ Khang Hy, Càn Long sức sản xuất và nền kinh tế đất nước được khôi phục mạnh mẽ. Phong cách kiến trúc của các lăng mộ cũng vì thế mà thay đổi, chú trọng hơn đến kiến trúc mặt đất, kết hợp với vườn cảnh và tông miếu tế tự. Do tiếp thu kinh nghiệm chống trộm của các triều đại trước, kết cấu của địa cung mộ thời Thanh kiên cố vô cùng, là loại khó xơi nhất. Nhưng suy cho cùng, bất kể là triều đại nào, hình thức mộ táng hàng ngàn năm nay của Trung Quốc đều dựa vào bố cục ngũ hành phong thuỷ diễn dịch từ sáu mươi tư quẻ của Phục Hy, đều mong chiếm trọn hình thế của thiên hạ, tuy muôn hình vạn trạng mà chung căn nguyên. Xét đến ngọn nguồn bất quá cũng chỉ là cầu đến tám chữ "trong vòng tạo hoá, trời người thể" mà thôi. Văn hoá mộ táng là nét đặc sắc của nền văn minh Trung Hoa, có ảnh hưởng rất lớn đén các dân tộc thiểu số như Mông Cổ, Hồi Khất, Thổ Phồn, Kim Xỉ, Ô Tôn, Tiên Ti, Xa Dân, Nữ Chân, Đảng Hạng... Cách thức, bố cục lăng tẩm của họ đều mô phỏng theo hình thức của Trung Nguyên, nhưng quá bán chỉ là bắt chước được bề ngoài mà thôi. Có thể , chỉ cần biết cách xem xét mạch hướng của núi non sông ngòi trong thiên hạ mộ cổ dẫu có chôn giấu sâu hơn nữa cũng dễ dàng tìm ra. Cứ tiếp tục thẳng về phía trước chính là rừng nguyên sinh bạt ngàn vô tận, Tử dắt tám con chó to trước dẫn đường, Tuyền béo kéo theo con ngựa lùn chở lều bạt và các trang bị khác, tôi xách súng săn phía sau. Ba người tiến vào trong dãy non cao núi thẳm của vùng biên giới Trung Mông. Tuyền béo vừa vừa hỏi Tử ở phía trước: " em này, người rừng ở Dã Nhân câu rốt cuộc là thế nào vậy? Người rừng nó ra làm sao? em thấy bao giờ chưa?" Tử quay lại đáp: "Em cũng biết người rừng là thế nào, nghe ba em mấy năm lại đây rất nhiều người thấy nó, nhưng chẳng có ai bắt sống được cả, chết cũng chẳng thấy xác đâu, người thấy rồi cũng chẳng được rốt cuộc hình dạng nó thế nào." Tôi ở phía sau cười : "Tiên sư Tuyền béo, dốt ơi là dốt, nghe cái tên là phải biết ngay chứ, người rừng tức là người sinh ra trong rừng chứ còn gì, từ rày phải học hành cho cẩn thận nghe chưa! Mà có biết người sinh ra trong rừng là sao ? Tức là có thể từ trong đất mọc ra, cũng có thể từ cây đơm xuống, thế nào cũng phải do người ta tạo ra." Câu chuyện về người rừng ở Thần Nông Giá, Tứ Xuyên, có từ lâu, hồi tôi còn ở trong quân ngũ từng nghe kể. Nghe có chiến sĩ Giải phóng quân từng bắn chết ngườ rừng ở Thần Nông Giá, thi thể nó rơi xuống vách núi cheo leo hàng vạn trượng, cuối cùng cũng chẳng rốt cuộc là người rừng hay là người, hay chỉ là con đười ươi mọc đầy lông. Hầu hết tất cả những nhân chứng từng nhìn thấy người rừng đều nhất loạt khẳng định: người rừng cao to khoẻ mạnh, khắp mình mọc đầy lớp lông tóc đen dài. Nghe Tử kể, Dã Nhân câu ở Hắc Phong khẩu trước kia gọi là Dã Nhân câu, mà gọi là "Tử Nhân câu", nhưng truy về xa xưa hơn nữa khe ấy cũng chẳng phải gọi là khe người chết, mà được gọi là "Bổng Nguyệt câu", vốn là khu mộ địa của quý tộc nước Kim. Về sau khi quân Mông Cổ đại phá quân chủ lực của nước Kim tại Hắc Phong khẩu, thấy chất cao như núi. Người Mông Cổ đem xác chết ném xuống khe này, cả khe núi gần như bị lấp đầy, thế nên người nơi đây mới gọi là "Tử Nhân câu". Sau nữa có người nhìn thấy quanh đây có người rừng, đồn qua đồn lại cuối cùng "Tử Nhân câu" được thay thế bằng tên "Dã Nhân câu". Người rừng cũng chẳng có gì đáng sợ, có lợi hại hơn nữa tì cũng liệu đọ được với lũ chó ngao này ? Trong đầu tôi bỗng chốc nảy ra ý tưởng, biết ngoài chợ người rừng bán đươc bao nhiêu tiền? Nhưng lập tức lại nghĩ làm như vậy vô nhân đạo, tốt nhất nên đụng tới vật sống, vẫn nên tập trung tư tưởng vào đào mộ cổ hơn. Do có ngựa nên thể trèo qua ngọn núi nào quá dốc, gặp núi lớn đành phải vòng, đoạn đường này chúng tôi cực kỳ chậm. Cũng may rừng nguyên sinh vào thu cảnh sắc tươi đẹp, muôn nẻo ngàn non rải màu lá cây đỏ vàng chen lẫn, khiến người ta đắm nhìn mà quên di mệt mỏi. Thi thoảng lại thấy nơi xa xa trong rừng chạy ra vài con trĩ, con thỏ, hươu bào hay hoẵng, Tử liền để mặc cho mấy con chó đuổi theo bắt. Đến tối chúng tôi dựng lều nghỉ ngơi, hái ít nấm cỏ hương liệu trong rừng, đốt lửa trại đun nướng. Tôi và Tuyền béo đều ăn no đời, bao ngày nay được ăn bữa thịt rừng nào thịnh soạn thế đâu. đường trong núi, nếu mang chó theo chỉ có thể ngủ cây, chúng tôi dẫn theo ba con ngao lớn lại thêm năm con chó săn to nữa, lực lượng như vậy trong rừng gần như là chẳng có đối thủ, trừ phi gặp phải ba con gấu người trở lên. Tử chó ngao là khắc tinh của gấu người, gấu người trong rừng chỉ cần nghe thấy tiếng chó ngao sủa lập tức lánh xa, cho nên đêm ấy chúng tôi ngủ cả trong lều, lũ chó săn trung thành nằm xung quanh canh gác, chẳng có gì phải lo cả, lũ chó ấy so với con người đáng tin cậy hơn nhiều. Tính tình của Tử xông xáo hơn hẳn Yến Tử hồi trẻ, thuộc tuýp người phải nghe đe phải sợ, đường nào, ăn thứ gì, mọi việc phải răm rắp nghe theo nàng hết, ai bảo là người dẫn đường cơ chứ, mấy con chó kia cũng đều nghe Tử cả. Tuy tôi quen làm đại đội trưởng, nhưng trước mặt cũng chỉ biết gắng nhịn làm binh nhất quèn mà thôi. Có điều Tử cũng tài tình, săn bắn, tìm đường, kiếm nước suối, phân biệt nấm nào có độc nấm nào , ở trong rừng sâu phải tìm mộc nhĩ, nấm hương, quả hồng, quả phỉ, đẳng sâm, ngũ vị tử... thế nào, hầu như thứ gì cũng biết. Hơn nữa, trong núi có những loài vật tôi cũng chẳng biết tên gọi là gì, cả đời chưa bao giờ thấy, vậy mà Tử đều kể ra vanh vách, đây là con gì, sống ở chỗ nào, thức ăn chính là cái gì, dùng bẫy gì để bắt sống. Tôi với Tuyền béo mắt tròn mắt dẹt lắng nghe, chỉ thốt lên được hai tiếng: "Bái phục!" Người Ngạc Luân Xuân là những thợ săn bẩm sinh. Ba chữ "Ngạc Luân Xuân" là tên chính phủ gọi dân tộc này, thực ra chuẩn xác lắm, có lúc họ cũng tự xưng là "Ngạc Nhi Xuân" hay "Nga Lạc Xuân", có nghĩa là kẻ săn hươu lãng du trong núi rừng bát ngát. Bọn họ quanh năm rong ruổi trong khu rừng già Tiểu Hưng An Lĩnh, sống cuộc sống săn bắt du mục. Hồi Trung Quốc vừa giải phóng, dân số Ngạc Luân Xuân sót lại chẳng quá ngàn, nhà nước cho họ rời khỏi rừng già khắc nghiệt, để sống định cư chỗ, nhưng dân tộc họ có lòng sùng kính và ngưỡng vọng gần như thần hoá đối với cuộc sống du cư săn bắn của tổ tiên. Họ tôn thờ đạo Shaman, sùng bái thiên nhiên, tuy sống định cư nhưng vẫn thường xuyên vào rừng săn bắn. đường, ai cũng kiệm lời, có cũng chỉ vài câu ngắn gọn, sớm lên đường, tối nghỉ ngơi, liền sáu bảy ngày trời trong rừng nguyên sinh, cuối cùng cũng đến Hắc Phong khẩu giáp biên giới Trung Mông. Rừng ở Hắc Phong khẩu rậm rạp đến khó tưởng, vào sâu bên trong dường như có chỗ nào đứng chân, toàn những loài cây chịu rét như bạch hoa, bạch dương, thông biển, thông rụng lá; dưới đất, cành khô lá rụng lớp nọ chồng lên lớp kia, giãm bước thụt bước. Người còn đỡ, chứ ngựa thồ cồng kềnh, thường bị sụt chân xuống dưới, lắm lúc chẳng thể nhấc chân lên được, lúc ấy chúng tôi đành phải gồng hết sức mình, kẻ xô người kéo, cứ thể vừa đẩy vừa , từng bước tiến về phía trước. Cũng chẳng biết lớp đất dưới cùng được bao nhiêu năm rồi, cành lá mục nát và xác của lũ động vật bị kẹt chết bên trong, bốc lên từng đợt mùi thối rữa. Mùi xú uế ấy hòa với mùi hoa thơm, mùi thông biển càng trở nên kỳ cục, mới đầu hơi khó ngửi, nhưng ngửi nhiều lại khiến người ta thấy nghiện. Đến Hắc Phong khẩu, những việc còn lại là của tôi rồi. Chúng tôi tìm được hẻm núi, nơi đây chắc hẳn là Dã Nhân câu trong truyền thuyết. Bề ngoài nơi đây có gì đặc biệt, cũng chẳng hiểm yếu như ở khe Lạt Ma, nhưng đấy chỉ là cảm giác trực quan. Tử xem chừng trong hẻm núi này chắc chắn có vũng lầy, nhất thiết phải nhìn cho rồi mới bước tiếp, sa vào cái vũng ấy thoát ra được đâu. Nếu muốn xuống Dã Nhân câu, mỗi người phải chuẩn bị cây gậy gỗ dò đường, lớp lá phía dưới thực quá sâu, còn ghê hơn cả đầm lầy, cũng may giờ phải mùa mưa, nếu đừng hòng xuống. Truyện "Ma Thổi Đèn " Dã Nhân câu thuộc khúc của dãy Đại Hưng An Lĩnh, thế núi hai bên thoai thoải, cả hẻm núi nhìn thông hướng Nam Bắc, hai đằng Đông Tây đều là đồi núi, trong năm, thời gian ánh mặt trời chiếu vào khu chính giữa rất ngắn, có vẻ u tĩnh mịch. Trong hẻm núi chất đầy lá cây cỏ dại mục nát, ngoài những lùm cây thấp lè tè thưa thớt, chẳng mọc bất cứ loại cây gì. Rời khỏi hẻm núi, cây cối lại càng thưa hơn, rừng nguyên sinh đến đây là hết, về phía trước hơn hai trăm dặm nữa chính là thảo nguyên Ngoại Mông bát ngát. Lúc này hoàng hôn sắp xuống, vầng dương đỏ máu treo cuối vòm trời. Chúng tôi leo lên sườn núi, phóng mắt nhìn xa, chỉ thấy mặt trời tựa hồ sắp rụng, trải khắp phía chân trời xa xăm là những đám mây đỏ nặng, cả bầu như bị nhuốm bởi những gam màu sơn dầu đậm đặc; rừng cây um tùm phủ che dãy núi trải dài trùng điệp, cõi thảo nguyên mênh mông phía trước giờ trở nên mờ ảo mông lung trong tầm mắt. là núi thẳm biển xanh, tàn dương đỏ máu. Tuyền béo ngắm nhìn cảnh đẹp, trong lòng hân hoan: "Nhất! Cảnh ở đây đẹp quá! Mình chuyến này chẳng uổng công!" Điều tôi băn khoăn nhất chính là ngôi mộ cổ trong Dã Nhân câu. Tôi quan sát kỹ lưỡng địa hình quanh vùng, rồi đối chiếu với cuốn Thập lục tự dương phong thuỷ bí thuật, sau đó lại lấy la bàn ra xác định phương vị bát quái, trong lòng ngầm reo: "Coi như tìm đến nơi rồi, mẹ tiên sư, trong hẻm núi này ắt có mộ cổ của bọn quý tộc." Dã Nhân câu, tên gốc là "Bổng Nguyệt câu", địa thế nơi đây vững chắc hào hùng, có khí thế nuốt trôi vạn vật, bên là thảo nguyên, bên kia nối liền với dãy Đại Hưng An Lĩnh, đại thảo nguyên Mông Cổ như biển cả mênh mang, còn Bổng Nguyệt câu như dòng suối lớn đổ dồn ra biển. Tuy phong thuỷ nơi đây đủ để mai táng đế vương, nhưng táng quan lớn như đại tướng quân hay vương gia vạn hộ dư sức, đợi đến khi trăng trôi giữa trời, ánh trăng chỉ đường cho chúng tôi đến vị trí của cổ mộ
Q.1 - Chương 12: Bổng nguyệt câu Bóng xế chếch tây, mặt trời dần chìm xuống phía dưới đường chân trời, cả khu rừng sắp bị màn đêm lấn nuốt. Nơi đây sở dĩ từng được gọi là "Bổng Nguyệt câu", bởi khi trăng nhô lên chính giữa khoảng trời của hẻm núi, nằm ở nơi sâu nhất dưới đây ngẩng đầu lên nhìn trời, ánh sáng xung quanh tầm mắt gây cho người ta ảo giác, hai ngọn núi cao ngút tựa hồ như hai cánh tay khổng lồ vươn lên nâng vầng trăng sáng. Thứ mà người chết trong huyệt mộ nơi này muốn có được chính là dòng khí lành, tinh hoa của nhật nguyệt, trong cuốn sách phong thủy ông tôi để lại, ở chương chữ "Thiên" có giải thích tường tận, tuy số đoạn nội dung câu chữ hiểu mấy, nhưng khi kết hợp quan sát thực tế cũng khó suy đoán ra được tám chín phần. Truyện "Ma Thổi Đèn " Nếu như Dã Nhân câu bị cành lá, cỏ khô mục nát phủ kín, có thể trực tiếp tìm đến vị trí trung tâm, nhưng giờ đành phải đợi đến đêm khi mặt trăng nhô lên cao mới có thể lần theo hướng trăng soi xuống đáy hốc núi kiếm tìm mộ cổ. Chủ yếu vẫn là nhân lực của chúng tôi có hạn, làm việc được nhầm lẫn, nếu lượng công việc lớn lắm. Giờ này vẫn còn lâu mới đến nửa đêm, chúng tôi liền dựng lều dưới gốc cây lớn sườn núi, buộc ngựa vào cây cho ăn cỏ, sau đó đốt lửa trại đun nước nấu cơm. Bữa tối nay là con hươu con do lũ chó săn bắt được. Con hươu này hình dạng có chút kỳ quái, thân mình quá lớn của nó lấm tấm những đốm hoa mai, chân sau thô lạ thường, tai to mà có sừng, chắc là con cái. Tử nhìn thấy lũ chó săn tha con hươu kỳ quái về, vội chạy tới lật xác con hươu lên kiểm tra vùng bụng loang lổ vết máu, sau đó Tử lại gang mõm con hươu ra, dường như tìm thứ gì đó, cuối cùng cũng tìm được. Tử tức tối đá vào mình con hươu mấy phát, rồi chửi lũ chó: "Cái lũ vô dụng này, cả ngày chỉ biết có ăn, chẳng trông mong gì được ở chúng mày đâu, hôm nay cho con nào ăn gì hết!" Tuyền béo đứng bên cạnh lấy làm lạ, bèn hỏi Tử: "Tìm gì thế hở em?" Tử vừa rút dao nhọn lột da hươu, vừa đáp lời: " Tuyền béo chắc chưa thấy loài này bao giờ đâu nhỉ? Con này là con hươu xạ, ở rốn con xạ cái có xạ hương, ôi mẹ ơi nó đáng giá lắm, nhưng mà cái thứ này nó cũng quái lắm cơ, hễ thấy có người muốn bắt nó nó cắn luôn lấy rốn, nhai nát bét. Mẹ cha cái lũ chó săn, chúng nó mà nhanh hơn tí nữa mình có hòn xạ hương rồi." Tuyền béo nghe xong, liền ngồi tựa vào gốc cây, sau đó cúi đầu cong lưng, dùng sức ấn đầu xuống chỗ cái bụng. Tôi vỗ vào đầu cậu ta: "Mẹ bố nhà cậu làm cái gì thế? Cậu tưởng cậu là hươu à, mình có thể tự cắn rốn mình được sao, với lại rốn cậu toàn là đất, đáng tiền đâu." Tuyền béo bực đáp: " bậy nào, tôi ngứa lưng, cọ vào thân cây vài phát thôi, cậu định cắn rốn có!" Chúng tôi đấu khẩu vài câu rồi chia nhau dọn đồ, tôi tìm củi khô, còn Tuyền béo giúp Tử nướng thịt. Chúng tôi chỉ nướng cái chân sau của con hươu là đủ ăn, còn gan ruột đem vất cho năm con chó săn, Tử khẩu xà tâm phật, tuy vừa nãy có cho mấy con chó săn này, giờ lại sợ chúng đủ ăn. Ba con chó ngao đều cao ngạo ngồi chồm hỗm đằng xa, căn bản buồn liếc nhìn những con chó săn tầm thường tranh nhau mớ gan ruột, Tử đem hai chân trước con hươu phát cho hai con ngao, còn lại cái chân sau nữa cho con ngao to nhất tên là Hổ Tử. Ba người chúng tôi ngồi quanh lửa trại ăn thịt nướng, Tử đưa cho chúng tôi mỗi người con dao con và cái bát làm bằng đá muối, đùi hươu gá giàn lửa lật lật lại, lấy dao con cắt từng lát thịt bỏ vào bát, chà cái là có luôn vị mặn. Bữa này ăn rất nhanh, tôi chỉ chăm chăm nghĩ về ngôi mộ cổ, nên cũng chẳng phân biệt nổi thịt hươu xạ khác với thịt hươu thường thế nào. Ăn xong, trăng cũng lên, lợi dụng ánh trăng có thể thấy trời mây trôi rất nhanh, chứng tỏ đêm nay có gió to, thấy suýt soát đến giờ, ba chúng tôi liền chống gậy xuống Dã Nhân câu, để mấy con chó săn ở lại trông lều trại. Cứ lên bước, chúng tôi lại phải dùng gậy chọc mạnh vào mặt đất phía trước, xem xem có vũng lầy hay . Tình hình bên dưới Dã Nhân câu khá hơn nhiều so với những gì chúng tôi dự đoán, tuy có chỗ lá rụng ngập đến quá bắp vế, nhưng chưa hình thành vũng lầy, xem ra nếu muốn đào mộ cổ, trước tiên phải xử lý lớp lá rụng phủ mộ . Tôi ngẩng đầu nhìn bóng trăng trời, rồi lấy la bàn ra đối chiếu, lại nhìn quanh hai bên hẻm núi hồi, sau cùng cũng xác định được vị trí, hẻm núi này khả năng có rất nhiều mộ cổ, nhưng ngôi mộ quan trọng nhất, cũng là mộ của quý tộc có địa vị nhất, nằm ngay dưới chân chúng tôi. Cắm cây gậy gỗ xuống làm dấu, đêm nay về lều đánh giấc no nê cho lại sức, sáng sớm mai bắt tay quật mộ, chốn rừng sâu núi thẳm này, mấy trăm dặm xung quanh đều có ai khác, cần thiết phải lén lén lút lút ban đêm hành . Vừa trở lại, tôi vừa kể cho Tuyền béo chuyện trộm mộ, làm cái nghề này nên tìm hiểu thêm những chuyện này, thể chỉ dựa vào sức, đào linh tinh được, từ khi chúng tôi bắt đầu vào núi, tôi ngừng kể cho cậu ta rồi. Từ xưa đến nay ở Trung Quốc, kiện trộm mộ sớm nhất được ghi chép lại xảy ra cách đây chừng ba nghìn năm về trước, đó là thời nhà Chu, chính là nhà Chu trong Tam Hoàng Ngũ Đế, Hạ Hậu Thương Chu, nhà Chu cũng chia làm hai thời kỳ, Đông Chu và Tây Chu, chính là vương triều được mấy người bọn Khương Thái Công phò tá, cơ nghiệp những hơn tám trăm năm, trong sách Phong Thần Diễn Nghĩa, thời ấy, tổng cộng có ghi chép về hai vụ trộm mộ lớn, là mộ của Chu U Vương bị trộm, trong mộ của Chu U Vương phát ra thi thể trần truồng trông y như còn sống của đôi trai trẻ, làm bọn trộm sợ hãi quay người chạy thục mạng; còn trong mộ vua Thang đào lên được cái mai rùa lớn, bên khắc toàn chữ Giáp Cốt. Tuyền béo : "Nhất ơi là Nhất, cậu đừng có kể mấy cái chuyện vô bổ này nữa, cứ xem trong mộ có ma quỷ gì hay ? Có phải đối phó làm sao? Mà còn lần trước cậu ma quỷ thổi đèn cái gì đó, tôi nghe sao cứ quái quái thế nào ấy?" Tử hỏi: "Ma thổi đèn cái gì? Có phải ma thuốc phiện thổi đèn người Đông Bắc chúng tôi vẫn hay ?" Tôi đáp: " phải là cái thứ ở Đông Bắc đâu, mà là hành vi mê tín của các Mô kim Hiệu úy, thực ra cũng chưa chắc vô dụng, chất lượng khí trong hầm mộ tốt, nếu nến cháy nổi, người vào đấy chắc chắn là trúng độc mà chết, mấy điều này có thể giải thích dưới góc độ khoa học được. Với lại trong mộ cổ làm sao có ma được? Đó đều là truyền thuyết mê tín, mà cho dù có nữa chúng ta cũng phải lo, tôi chuẩn bị hết mấy món kỵ tà như móng lừa đen, gạo nếp đây cả rồi. Tóm lại câu, trộm mộ đừng tin tà ma, nếu sợ ma đừng có trộm mộ." Tuyền béo chợt hiểu ra: "Ôi dào, cậu bảo Yến Tử mất cả ngảy chuẩn bị mấy thứ ấy là để tránh tà à? Tôi lại cứ tưởng cậu oai lắm, sợ ma nữa chứ, đúng rồi, thế dấm với lồng chim là để làm gì thế?" Tôi định trả lời, bỗng nghe thấy núi vọng xuống tiếng chó sủa nhặng xị, ba chúng tôi trong lòng trĩu xuống, nghĩ bụng chắc là phải có người rừng hay dã thú đến tấn công lều chứ? Có điều ở đó có ba con chó ngao, bọn dã thú dù cho ăn phải gan hùm gan báo cũng chẳng dám đến gây , rốt cuộc là thứ gì làm mấy con chó sủa nhặng lên? Chúng tôi vội vã rảo bước trở lên sườn núi. Về đến bên lều, cảnh tượng máu me ra trước mắt, con ngựa lùn buộc ở gốc cây hiểu bị loài thú dữ nào tấn công, rách toang cả bụng, ruột lòi ra đống, nó vẫn chưa tắt thở, nằm co giật mặt đất, xem chừng sắp chết đến nơi. Truyện "Ma Thổi Đèn " Mấy con chó săn vây quanh con ngựa, sủa lên điên loạn, dường như gặp phải vật gì kinh khủng lắm, trong tiếng kêu toát lên kinh hãi bất an. Theo lý mà , ngựa và chó là bạn tốt, con ngựa kia quyết phải do lũ chó cắn, vậy là do loài dã thú nào làm? Ba con chó ngao to, năm con chó săn khỏe vây bủa xung quanh, vậy mà thể bắt được con thú tới hành hung sao? Nhìn quanh bốn phía, chẳng hề thấy có bóng dáng con thú hoang nào, chỉ có ngọn núi trống chơ tĩnh mịch, thi thoảng đám lá cây rừng lại xao xác bởi những ngọn gió khuya, bàn tay nắm chặt súng săn của chúng tôi chẳng biết tự lúc nào ướt sũng mồ hôi. Miệng con ngựa phì ra bọt máu, lỗ mũi phả ra hơi trắng đục, tuy ruột lòi ra ngoài nhưng trong chốc lát cũng chưa chết hẳn được. Tử ngắm vào đầu con ngựa bắn phát súng, kết thúc đau đớn trước khi chết của nó. Tôi đột nhiên phát ra ruột con ngựa động đậy, phải co giật do phản ứng sinh lý, mà hình như là bị cái gì đó kéo xuống dưới đất, cái ấy nấp ngay phía dưới xác con ngựa. Tôi vội vã kéo Tử lại phía sau bước, tình hình lúc đó, Tử và Tuyền béo đều thấy, ba chúng tôi nhìn nhau, trong đầu đều nghĩ: liệu có phải là do người rừng gây ra? ở Dã Nhân câu, đương nhiên nghĩ tới người rừng đầu tiên, nhưng người rừng liệu có khỏe đến xé rách được cả bụng ngựa ra ? Cũng có thể nó dùng vũ khí, nhưng nếu biết chế tạo vũ khí phải người rừng rồi? Xem ra giả thiết do người rừng gây ra này thể đứng vững. Chẳng đợi chúng tôi kịp hiểu ra, nội tạng đất bị kéo cả xuống dưới xác con ngựa, tình hình bên dưới bị cơ thể con ngựa che khuất, hoàn toàn thấy gì. Phải chuyển xác con ngựa ra trước, tôi đung đưa cây súng săn trong tay, loại súng này tiên tiến hơn nhiều so với loại tôi dùng bắn con gấu người ở khe Lạt Ma mười mấy năm trước, nhưng loại súng hơi thể thao này nòng quá , khó mà gây ra những vết thương chí mạng đối với các loài thú lớn hung dữ. Có điều ở trong trường hợp này, có còn hơn , dù sao cũng tốt hơn là cầm mỗi ngọn đuốc. Có súng, có chó, mọi người ít nhiều cũng vững dạ, thế là ba người hợp sức đẩy xác con ngựa ra, trong đám cỏ, thình lình lộ ra cái hố sâu thấy đáy. Miệng hố chỉ to bằng miệng cái xô , người trưởng thành chẳng thể chui vào được, nội tạng con ngựa chính là bị cái gì đó lôi xuống hố này, lúc chúng tôi mới đến, cái hố bị lùm cỏ che khuất, chẳng ai phát ra cả, thấy xung quanh cỏ mọc um tùm, bèn cột ngựa ở đây luôn. Khi chúng tôi xuống dưới hẻm núi tìm mộ, thứ nấp dưới hố bất ngờ tấn công, xé rách bụng con ngựa, đám chó săn tuy hung dữ vô cùng, nhưng miệng hố lại bị xác con ngựa lấp lên, chỉ biết kêu sủa ngậu xị, mà chẳng làm được gì. Tôi cầm đèn pin soi xuống hố, chỉ thấy tối như hũ nút, biết sâu chừng nào, nhìn vết tích vách hố, kinh nghiệm làm lính công trình hơn ba năm giờ có chỗ dùng rồi, gần như có thể khẳng định, cái hố này phải do con người đào, là do con vật gì đó dùng móng đào bới, hơn nữa móng nó rất sắc nhọn, là loài bới đất rất giỏi, nếu làm sao có thể nhát xé rách toang bụng con ngựa ra được, nhưng rốt cuộc là loài động vật gì, thực chẳng thể đoán nổi, ngay cả Tử hiểu rừng núi như trong lòng bàn tay cũng lắc đầu, chưa từng thấy cũng chẳng từng được nghe về loài động vật nào như thế cả. Tôi đoán quanh đây thế nào cũng còn những hố khác nữa, xem ra Dã Nhân câu trông yên bình, phong cảnh tươi đẹp, kỳ thực lại tàng biết bao rủi ro nguy hiểm, chẳng trách nhóm trộm mộ mười năm trước chẳng có ai sống sót trở về, bọn họ có gặp phải loài quái thú hung tàn dưới lòng đất này hay ? Nơi này tiện ở lâu, chúng tôi quyết định đợi đến sáng, hành động ngay trong đêm, ba người phân thành hai nhóm, tôi và Tuyền béo dẫn theo năm con chó săn xuống hẻm núi đào mộ, Tử dắt ba con ngao lớn xung quanh tìm con quái thú tấn công chúng tôi, con quái ấy có ghê gớm hơn nữa cũng chẳng thể nào dũng mãnh bằng ba con chó ngao, bị động phòng thủ chẳng bằng chủ động tấn công, bên nào có chuyện, bắn súng báo hiệu, bên kia mau chóng đến chi viện. Lại , Tuyền béo dắt năm con chó săn, tôi cõng các công cụ lưng, thằng trước đứa sau, men theo con đường thăm dò ban nãy xuống dưới. Tôi rút hai chiếc xẻng công binh ra, mình cầm chiếc, ném cho Tuyền béo chiếc: "Tuyền béo, làm việc nhanh nhẹn chút, chỗ này hợp chôn sâu, cổ mộ dưới lớp lá chắc sâu lắm, bọn mình đào được đồ cổ càng sớm càng tốt, rồi mau chóng chuồn khỏi cái chỗ ma ám này về nhà, bán lấy tiền sửa đường cho bà con." Tuyền béo nhổ nước bọt vào hai bàn tay, : "Xem ông Tuyền béo ra tay đây!" Chiếc xẻng công binh Đức vung lên phập xuống, mỗi nhát lại hất tung đống bùn do lá khô cành mục rữa ra. Dã Nhân câu tuy có cây cối gì, nhưng mỗi khi trời nổi gió, lá cây khắp xung quanh lại được thổi dồn về, năm dài tháng đẵng, dần dần tích thành lớp lá khô rất dày. Tôi và Tuyền béo thay nhau xông trận, đào sâu xuống tầm sáu, bảy mét, cuối cùng cũng thấy đất sét, tôi lấy tay bấu lên nắm, đất rất mịn, hạt nào ra hạt đấy, bị vón cục, lấy đầu lưỡi nếm chút, hơi ngòn ngọt, đúng rồi, đây chính là nấm mộ, mộ thất chắc nằm tầm bốn năm mét phía dưới. Khi sắp đào đến hầm mộ phải thận trọng, số mộ bên trong có đặt các bẫy phòng trộm, mộ cổ thời Bắc Tống, Liêu, Kim giống thời Đường về trước, trước thời Đường, trong mộ đều đặt các bẫy như tên ngầm, đá tảng, đến thời Bắc Tống, kỹ thuật phòng trộm tương đối hoàn thiện, nhất là mộ của số quý tộc, thể lớn như mộ của vua chúa, số người động viên được cũng có hạn, đương nhiên điều này chỉ là tương đối mà thôi, đồ bên trong tuyệt đối thể là những thứ rẻ rúng được, nếu đâu thể xứng với miếng đất phong thủy đẹp thế này được. Truyện "Ma Thổi Đèn " Những ngôi mộ tương tự như mộ của người Kim cuối thời Bắc Tống này, thường sử dụng kỹ thuật phòng trộm "Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" tương đối thịnh hành vào thời bấy giờ, kết cấu kiểu này hết sức tiên tiến, hầm mộ trống rỗng, trần được rải lớp ngói lưu ly cực mỏng, bên đặt những túi dầu hỏa long của Tây Vực, nữa là lớp ngói lưu ly khác, sau cùng mới đắp nấm, chỉ cần bị ngoại lực tác động, nóc mộ vỡ tung, dầu hỏa long của Tây Vực gặp khí bốc cháy, thiêu rụi xương cốt và những đồ tùy táng bên trong, khiến bọn trộm mộ tay trắng ra về. Đương nhiên đây là biện pháp bất đắc dĩ, chủ nhân mộ chấp nhận đồng ư quy tận, cũng để cho thây cốt của mình bị bọn trộm mộ phá hoại, loại bẫy này chỉ thịnh hành thời gian vào thời Kim, Liêu, cuối thời Bắc Tống, sau đó lại xuất loại bẫy tiên tiến hơn, "Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" nhanh chóng bị thay thế. Thứ bẫy tầm thường này chẳng thể qua mắt nổi tôi, nhược điểm lớn nhất của nó chính là, đào từ mặt bên, ngói lưu ly đỉnh bị vỡ. Bởi vậy sau khi đào đến nấm mộ chúng tôi bắt đầu chuyển hướng, đào sâu sang bên cạnh, hai người làm hùng hục, toàn thân nóng bừng nhưng chẳng ai biết mệt, đào được cái hố lớn sâu sáu bảy mét cạnh mộ. Chẳng biết từ khi nào, trời sáng , Tử quay lại bảo chẳng tìm thấy gì ở xung quanh, giờ vào rừng săn chuẩn bị bữa trưa, khi nào làm xong sai chó gọi bọn tôi. Tử khỏi, hai chúng tôi tiếp tục đào bới, cuối cùng đào phải lớp đất cứng, cứng như đá, xẻng công binh phang xuống cũng chỉ để lại vệt màu trắng. Tuyền béo chửi lớn: "Tổ mẹ nó, sao lại có xi măng ở đây chứ? Biết trước mình mang thuốc nổ rồi, mẹ cha nó, thế này đào thế nào được?" Tôi : "Thuốc nổ chỉ có bọn nhà quê mới dùng thôi, đây là lớp đất dầm, nóc có bẫy bảo vệ, xung quanh vách mộ cũng thể bị người xây xem được, loại đất này được phối chế theo phương thức bí truyền của cung đình hồi ấy, bên trong có trộn nước cốt gạo nếp, còn cả nước đái trẻ con với đủ thứ bà lằng nhằng gì đấy, mẹ nhà nó, cứng hơn bê tông bây giờ nhiều. Công thức bí truyền này là của hoàng đế Bắc Tống, về sau Kim diệt Bắc Tống, mới lưu truyền tới tay bọn quý tộc người Kim." Tôi bê thùng dấm to tới, bảo Tuyền béo lấy gáo múc từng gáo tưới đẫm lên lớp đất dầm, đợi sau khi tưới hết cả thùng dấm, tường mộ cũng bị bào mòn kha khá rồi, đừng thấy dấm ăn mòn mạnh, nhưng đối với loại đất đầm phối chế theo công thức bí truyền này nó lại có công hiệu kỳ lạ, cái này gọi là vật nọ khắc vật kia, đợi đến lúc ấy, nếu đào tiếp chẳng khác nào đào đậu phụ cả. Làm đúng cách, quả nhiên hiệu nghiệm, hầm mộ sắp được mở ra. Hai người dương dương tự đắc, bỗng nghe trong rừng có tiếng súng vang lại, làm bầy chim đậu cây kinh hãi bay vút lên. Tuyền béo vội : "Tiếng súng của em tôi!". Tôi xách xẻng công binh và súng săn lên: "Mau xem sao!" Hai người bất chấp mệt mỏi, sải rộng bước chân, bước hẫng bước hụt chạy lớp lá rụng. Chúng tôi lần theo tiếng súng chạy vào sâu trong rừng, năm con chó săn cũng theo sát phía sau, chạy được quãng, bỗng thấy Tử dẫn ba con chó ngao lao về phía chúng tôi. Thấy Tử sao, tôi mới yên lòng: " em vừa nãy nổ súng à? Phát ra gì ư?" Sắc mặt Tử trắng bệch, thở hổn hển: "Ôi mẹ ơi... phát khiếp lên được, em phát thấy ở góc kia có mấy cái chòi, bước vào xem thử cái, sợ chết được, toàn là người chết, đen sì sì mục nát hết cả, lúc đầu em nhìn , cứ tưởng người rừng, nên mới nổ súng, cuối cùng rốt cuộc là xác của những người nào em cũng chẳng nhìn nữa." Tôi giờ mới vỡ lẽ, hóa ra trông Tử dữ dằn vậy thôi chứ kỳ thực cũng vẫn có điểm yếu, sợ nhất là xác chết, cứ tưởng trong rừng, ngay đến ông trời nàng cũng chỉ coi bằng cái vung cơ chứ. Có điều phát xác chết, lại có cả chòi cả lán ở nơi sơn cùng thủy tận biên giới Trung - Mông này, bản thân chuyện này thể tưởng tượng được rồi, dựng lều lợp lán chứng tỏ họ có sống ở đây, rốt cuộc những người chết ấy là ai? Sao họ lại đến tận nơi sâu thẳm dấu chân người thế này? Cứ trở vào xem sao , chừng có thể tìm ra manh mối gì chăng, trong lòng tôi lờ mờ cảm thấy những người chết này có liên quan đến nhóm trộm mộ mất tích ở đây năm xưa. Tử dẫn chúng tôi đến chỗ mấy cái chòi phát ra, chúng đều chỉ được dựng rất cẩu thả, chỉ dùng bùn và cỏ trộn lẫn đắp lên, cũng có ít gỗ, đều dựng chỗ cây cối rậm rạp nhất, màu sắc cũng rất tiệp với rừng cây, nếu đến gần khó lòng mà phát được. Tôi chui vào trong những cái chòi, thấy bên trong có khá nhiều da thú, trong góc quả nhiên có ba thi thể, thi thể mục rữa quá độ nên biến ra sắc đen, cơ bắp cơ hò nát cả, da dẻ khô đét, trong hốc mắt, lỗ mũi, chốc chốc lại có giòi bọ bò ra bò vào. Tôi nghĩ bụng chắc đây phải là người rừng ở Dã Nhân câu trong truyền thuyết đấy chứ! Tuyền béo cũng trèo lên xem, rồi : "Nhất này, tớ bảo đến Dã Nhân câu sao thấy dã nhân đâu, hóa ra chết rũ ở đây cả rồi à?" Tôi gật đầu bảo: "Lạ ở chỗ, công cụ của bọn người rừng này tiên tiến quá, cậu xem chúng còn mặc cả quần áo nữa, làm gì có người rừng nào mặc quần áo đâu chứ? Mà sao tớ thấy quần áo này quen thế biết?" Tôi phát ra quần áo thi thể trong cùng hình như có gì đó bằng kim loại, liền gỡ nó ra, lau lớp chất bẩn bên , giống như phù hiệu quân phục, nhưng tuyệt đối phải của quân đội Trung Quốc. Lúc này, Tuyền béo cũng tìm được thứ, cậu ta mò thấy thanh kiếm Nhật ở trong góc lều, thanh kiếm ấy lâu lắm rút ra rồi, Tuyền béo dùng đến là nhiều sức, cuối cùng "băng" tiếng rút bật thanh kiếm ra, chất thép cực tốt, bao năm rồi mà vẫn sáng bóng như gương, xem ra chủ nhân lúc sinh thời chắc thích nó lắm, khẳng định là thường xuyên lau chùi sạch . Tôi thấy thanh kiếm hiểu ra ngay, mẹ nhà nó hóa ra người rừng trong truyền thuyết chính là mấy tên quỷ Nhật Bản này đây! Tuyền béo lại nghĩ thông, người Nhật sau khi bại trận đầu hàng chẳng phải đều về nước rồi ư? Mấy thằng quỷ này sao vẫn về? Tôi bảo: "Điều này cũng lấy gì làm lạ, hiểu biết lịch sử của cậu quá ít, lộ ra cái bản chất bất học vô thuật của cậu rồi". Tuyền béo : "Cậu đừng có nhiều lời, mau xem xem, rốt cuộc chuyện gì?" Theo suy đoán của tôi, năm ấy, trước khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, đại quân cơ giới hóa của Liên Xô Nam tiến, tấn công quân Quan Đông đóng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, đánh cho đội quân cả triệu người được mệnh danh đội quân tinh nhuệ nhất của Nhật Bản này trận còn manh giáp, số thằng bị lạc mất đội ngũ, chạy vào tận rừng sâu, dám ra ngoài, lại mất liên lạc với thế giới bên ngoài, biết chuyện Nhật Bản chiến bại đầu hàng, cho nên cứ trốn mãi trong rừng, cho đến tận khi chết rũ ở đây. Có người nhìn thấy vài thằng quỷ Nhật nghi thần nghi quỷ, thập thò nấp, quần áo của chúng bẩn thỉu đến ra hình dáng, trong rừng sâu lại cũng cạo râu cắt tóc, vậy là coi chúng thành dã nhân luôn cũng nên. Thực ra tôi cũng chỉ suy đoán vô căn cứ, nguyên nhân thực là thế nào, trừ phi mấy thằng quỷ này sống lại tự mình khai ra, chứ vĩnh viễn cũng chẳng biết được chân tướng. Sau khi nghe tôi vậy, Tuyền béo và Tử đều vỡ lẽ cả. Tử : "Mấy thằng Nhật chắc chắn là lạc đường rồi, đừng tưởng đây là bìa rừng thôi nhé, nhưng lên phía Bắc chỉ toàn là thảo nguyên, và còn có cả đầm lầy nữa, phía Bắc căn bản thể ra được; phía Nam là rừng nguyên sinh, có chó dẫn đường, đến thợ săn già có kinh nghiệm nhất cũng đừng hòng ra được, là đáng đời!" Tôi lục tìm đồ đạc của mấy xác chết này, định xem có thứ gì giá trị , bới được nửa, tôi bỗng chợt nghĩ, nhóm trộm mộ đến đây cuối những năm bốn mươi liệu có phải gặp bọn quỷ Nhật này, rồi bị chúng sát hại ? Khả năng này có lẽ là có, bọn họ cũng đâu thể ngờ lại gặp quỷ Nhật Bản ở chỗn hoang vắng này cơ chứ. nghĩ ngợi miên man, bỗng phát ra cuốn sổ tay trong ba lô quân dụng, bên trong viết chi chít chữ Nhật, trang giấy ngả vàng, nét chữ bên vẫn còn đọc được, nhưng trong ba chúng tôi chẳng ai biết tiếng Nhật cả, cũng may trong cuốn sổ cũng có ít chữ Hán, đành luận bừa ra vậy, có điều nghĩa của chữ Hán trong tiếng Nhật so với nghĩa Trung cách nhau quá xa, có số từ thậm chí nghĩa còn hoàn toàn tương phản. Lấy ví dụ: từ "lưu thủ" viết bằng chữ Hán trong tiếng Nhật so với nghĩa của mặt chữ Hán khác nhau trời vực, là " ra ngoài", cho dù là như vậy, nhưng nếu chắp những từ ấy lại, vẫn sơ sơ hiểu được nửa, cộng thêm với vài suy đoán chủ quan của chúng tôi, nội dung đại khái là: "Chủ lực của quân Quan Đông ở Đông Ninh bị quân đội Liên Xô đánh tan, thiếu tá Tịnh Mộc dẫn theo tiểu đội còn sống sót (trong sư đoàn giáp chủng của quân Quan Đông, biên chế của tiểu đội từ 120 đến 200 binh lính), chạy tới cứ điểm bí mật dưới đất ở Hắc Phong khẩu, chuẩn bị tập hợp quân Quan Đông còn lại, quyết trận tử chiến cuối cùng với người Liên Xô, hy sinh báo đáp Thiên Hoàng. Kết quả là khi gần tới nơi giẫm phải vũng lầy, tên lính duy nhất biết vị trí của cứ điểm và người dẫn đường đều chết ngập trong đó, những người còn lại tìm thấy lối vào căn cứ bí mật, định quay trở về lại lạc đường, cũng có thiết bị liên lạc, nên đành ở lại trong rừng sâu, cứ thế thấm thoắt hơn ba chục năm trời, từng người từng người kế nhau mà chết... sau đó chẳng còn ai..." Đoán chừng người viết những dòng này khi viết đến đây chết. Tôi vất cuốn nhật ký sang bên, giờ chẳng hơi đâu xem mấy thứ mục nát này làm gì, vách mộ trong hẻm núi chắc bị ăn mòn kha khá rồi, phải mau quay lại, lấy đồ rồi chuồn, mặc kệ mấy thằng quỷ Nhật này ở đây, dù sao chúng cũng sắp rữa hết cả rồi. Tuyền béo thanh kiếm này giờ thuộc về cậu ta, ngày xưa nhà cậu ta có đến mấy thanh kiếm sĩ quan Nhật, hồi Cách mạng Văn hóa bị tịch thu hết cả, cậu ta vẫn muốn sưu tầm thanh. Tôi khuyên Tuyền béo đây là loại kiếm bị cấm sử dụng, đem được lên tàu, đợi khi nào về chợ đồ cổ ở Bắc Kinh xem thử có hay , rồi mua cho cậu ta thanh mới.
Q.1 - Chương 13: Ma thổi đèn Ba người chúng tôi trở lại mộ cổ trong Dã Nhân câu, công việc cũng sắp hoàn thành, chỉ chém xuống mấy nhát vách mộ vỡ ra lỗ lớn, tôi cầm đèn pin soi vào, gian bên trong cũng , khoảng cách giữa cái lỗ này và nền hầm mộ chênh nhau chừng hơn mét, Tuyền béo mừng rỡ, xắn ống tay áo lên định chui xuống, tôi vội túm cậu ta kéo lại, : "Cậu muốn chết à? bắt mấy con chim sẻ về đây, cho chim sẻ vào lồng trước, thả xuống dưới mộ xem chất lượng khí thế nào !" Truyện "Ma Thổi Đèn " Bắt chim sẻ trong rừng rất dễ, chẳng như ở những nơi đông đúc dân cư, lũ chim thành tinh cả, ở đây chỉ cần dùng loại bẫy đơn giản nhất, rắc vài hạt gạo tấm, úp cái nồi nấu cơm lên , người nấp đằng xa, thấy chim sẻ chui vào dưới nồi ăn gạo, giật dây cho que gỗ chống bật ra, nồi ụp xuống, vậy là bắt được rồi. lần bắt được luôn ba con, tôi tóm con cho vào lồng, bên buộc sợi dây rồi thả xuống hầm mộ, hút hai điếu thuốc, ước chừng thời gian cũng xấp xỉ, bèn kéo lồng chim lên, thấy hai mắt con sẻ trợn ngược, ngắc ngoải sống nổi nữa rồi. Ngôi mộ này bị bịt kín dưới đất mấy trăm năm, khí bên trong lưu thông, thi thể hễ trước khi thối rữa đều trướng lên, chứa đầy thi khí, sau đó da thịt nội tạng mới bắt đầu phân hủy từ trong ra ngoài, tuy trong hầm mộ có môi trường chân đúng nghĩa, nhưng nếu như thông gió, mùi thối rữa của xác chết vẫn bị nén bên trong, mấy trăm năm sau cũng chẳng tan hết, kể cả có thi khí, chỉ riêng khí hàng trăm năm được lưu thông, cũng hình thành nên khí độc có hại cho sức khỏe, khi hít phải khí độc ấy, chóng mặt choáng váng, nặng trúng độc mà chết, trừ phi có trang bị mặt nạ phòng độc, bằng ở khâu này tuyệt đối được có chút bất cẩn nào. Xem ra ngôi mộ còn cần thời gian để gió rừng thổi sạch khí độc , nên chúng tôi trở về triền dốc ăn ít lương khô thịt khô, tối qua cả đêm ngủ, hôm nay lại làm bao nhiêu việc, mọi người đều mệt lử, nhưng cứ nghĩ đến đồ đạc trong mộ bao nhiêu mệt mỏi cũng tan biến đâu hết. Đây là lần đầu tiên chúng tôi hành động, tốt nhất là kiếm ra được chút gì đáng tiền, hiểu biết của tôi về trộm mộ trước kia chỉ dừng lại ở giai đoạn lý thuyết, hôm nay thực hành, cũng thể coi là khó, đương nhiên điều này cũng có liên quan đến mục tiêu chúng tôi chọn lựa, người Nữ Chân nước Kim bấy giờ còn là dân tộc chưa được khai hóa, ngôi mộ này họ xây dựng gần như hoàn toàn phỏng theo hình thức của Bắc Tống, quy mô rất , có lẽ cũng do thợ thuyền người Tống bị bắt xây nên, dù sao công nghệ "Đỉnh lưu ly lửa rồng giữ báu" rất ư phức tạp, có tay nghề cao khó lòng dựng lên được, sai lệch chút, là thiêu chết người xây mộ bên trong rồi. Ăn hết lương khô, nhìn sắc trời cũng còn sớm, có lẽ khí trong mộ cũng lưu thông kha khá rồi, chúng tôi đều lo tối nay lại bị con quái vật dưới hố tấn công, nóng lòng lấy đồ cho nhanh rồi chuồn sớm, vậy là mang theo đồ đạc, trở xuống Dã Nhân câu lần nữa. Lần này vẫn phải thả chim sẻ xuống trước, kéo lồng lên thấy chim vẫn tung tăng nhảy nhót, xem ra còn vấn đề gì nữa, tôi và Tuyền béo uống mấy ngụm rượu trắng cho vững dạ, đeo khẩu trang, găng tay, cổ treo bùa Mô Kim, ngực nhét móng lừa đen và gạo nếp, tay cầm đèn pin, xẻng công binh đeo ở hông, rồi bắt đầu xuống mộ. Tử thấy vậy vội rối rít giữ chặt tôi : "Cho em vào xem với, em bằng từng này rồi mà vẫn chưa biết trong mộ cổ nó ra làm sao cả?" Tôi đáp: "Trong mộ cổ chẳng có gì cả, có mỗi cái xác với đồ tùy táng thôi, có gì đáng xem đâu, thực ra cũng là nàng dâu lần đầu lên kiệu thôi, trước kia bao giờ vào đâu. Với lại, em chẳng phải sợ người chết lắm ư? Sao giờ lại sợ thế?" Tử vốn hiếu kỳ, giờ thấy tôi với Tuyền béo ra bộ thần bí, lại càng tò mò hơn, quyết đòi xuống bằng được. Tôi ngẫm nghĩ, dẫu sao nơi đây núi non hoang dại, cũng chẳng cần có người canh chừng (trộm mộ rất ít khi mình hành , thông thường đều là nhóm ba người, người đào đất, vì cạnh hố thể chất đầy đất lên được, nên lại phải có người chuyên chuyển đất, người còn lại đứng xa canh chừng), để cho Tử vào tham quan cũng chẳng có vấn đề gì, tôi tìm cho Tử cái khẩu trang đeo vào, rồi dặn dò vài câu, vào trong ngàn vạn lần được gỡ khẩu trang ra, thứ nhất chất lượng khí trong đây tốt, thứ hai hơi thở của người sống được để lại trong mộ, may mắn, thứ ba được thở vào xác chết, ngộ nhỡ quỷ nhập tràng rắc rối to. Tuy đều là truyền thuyết mê tín, nhưng những quy định này có từ mấy ngàn năm trước, bất kể thế nào cũng đều có cái lý nhất định, cẩn tắc vô ưu, tất cả mọi chuyện cứ theo lệ xưa mà làm là được rồi. Tuyền béo sốt ruột lắm rồi: "Hồ Bát Nhất! Cậu trở nên lắm lời thế từ lúc nào vậy, dám xuống để bố Tuyền béo đây tự xuống, mấy người đợi đếm tiền ." Tôi đáp: "Mẹ nhà cậu, để cậu xuống đến quan quách cũng chẳng tìm được ấy chứ, được rồi, đừng đấu khẩu nữa, trời sắp tối rồi, mau làm việc thôi." Cái lỗ chúng tôi đào vách cách nền hầm mộ chỉ tầm mét, chẳng cần dây thừng, trực tiếp nhảy xuống là được, chân tôi vừa chạm đất, trong lòng khỏi hơi căng thẳng, cuối cùng cũng vào được rồi. Diện tích hầm mộ lớn, nhiều lắm là ba mươi mét vuông, xem ra được thiết kế chiếu theo trạch viện ở của người sống, có buồng chính, buồng sau và hai buồng bên. Vị trí chúng tôi tiến vào là trong hai buồng bên đó, quan tài đặt ở giữa buồng chính. có bệ đặt quan tài, giữa nhà đào cái hố nông, quan tài đen sì sì đặt trong đó, lồi nửa lên , đây là ngôi mộ trong mộ. Ở góc buồng có mấy bộ hài cốt, đầu lâu đều nứt lõm xuống, ràng là vết tích do bị vật cùn đập mạnh vào, có thể đều là bọn tù binh hoặc thê thiếp đầy tớ bị tuẫn táng, chúng tôi làm khảo cổ, nên cũng chẳng màng đến những thứ ấy. Tử bỗng kéo tay tôi: " Nhất, coi tường còn có tranh này." Tôi soi đèn pin vào bức tường Tử chỉ, quả nhiên có bức phù điêu màu, nhân vật trong tranh hình dáng cổ xưa, sống động như . Niên đại lâu, mà sắc màu vẫn còn tươi tắn, có điều khí trong hầm mộ được lưu thông, chẳng bao lâu nữa những bức bích họa này cũng phai màu thôi. Tuyền béo tán: "Xem ra người chết trong mộ này thời cổ đại có thể còn là họa sĩ nữa!" Tôi mắng cậu ta, đừng có thùng rỗng kêu to, thời Đường Tống, trong mộ vương hầu đa số đều có bích họa, dùng thuật lại những kiện lớn của chủ mộ lúc sinh thời, chúng ta xem thử coi người chôn trong đây là nhân vật thế nào? Bích họa thảy có tám bức, chúng tôi lần lượt xem hết, những bức tranh này, có bức vẽ cảnh săn trong rừng, có bức là cảnh cùng bạn bè uống rượu trong cung điện, có bức vẽ cảnh xuất quân đánh trận, có bức tả lại cảnh áp giải tù binh, bức cuối cùng vẽ cảnh gia tước phong hầu, trong mỗi bức tranh đều có người đàn ông mặc áo lông chồn, chắc chính là người được chôn cất ở đây, xem ra đây là ngôi mộ tướng quân, ít nhất cũng là Vạn hộ hầu. Năm xưa, quân Kim Nam hạ diệt Tống, cướp bóc vô số vàng bạc châu báu, vị tướng Kim này chừng đem theo cả chiến lợi phẩm xuống lòng đất cũng nên, đằng nào cũng đều là báu vật của người Hán chúng tôi, vậy chúng tôi cũng khách sáo làm gì nữa. Trước tiên, chúng tôi quanh hầm mộ lượt, hai buồng bên toàn là âu sành chậu sứ, buồng sau có bốn bộ xương ngựa và số binh khí giáp trụ, ngoài ra còn gì nữa, xem ra người Kim hậu táng, tôi ít nhiều cũng hơi thất vọng, thắp ngọn nến ở góc Đông Nam, ba người cùng tới trước quan tài trong buồng chính, có gì hay chỉ còn trông cả vào đây vậy. Thể tích quan tài khá lớn, gỗ lim sơn đen, bên vẽ hoa văn màu vàng kim, màu sắc và tạo hình đều vô cùng cổ quái, chắc là có liên quan đến tô tem của dân tộc Nữ Chân, tôi rờ lên tấm ván quan tài, rất chắc chắn, người nghèo thông thường bao giờ dùng nổi loại quan tài dày dặn như vậy, được cỗ bằng gỗ mỏng thôi tốt lắm rồi, người nào túng hơn nữa chỉ bó vào chiếu cói rồi chôn bừa đâu đấy. Cực phẩm trong các loại gỗ quan tài chính là lõi trầm mộc (gỗ mun), tức là thụ tâm, cây gỗ mun từ lúc mọc đến khi trưởng thành, chí ít phải mất mấy ngàn năm, thứ cực phẩm này chỉ có thể gặp mà thể cầu, chỉ có hoàng thất mới được hưởng dụng, thi thể người chết đặt trong lõi cây chôn dưới đất, thi thể vĩnh viễn thối rữa, đáng giá hơn quan tài pha lê chống phân hủy, hiệu quả hơn chức năng giữ tươi của tủ lạnh, kế đó là loại gỗ đoạn, gỗ bách nghìn năm, thụ tâm càng dày càng có giá, thứ nhất ngăn cho xác khỏi thối rữa, thứ hai có mối mọt, có thể ngăn kiến hay giòi bọ đục khoét, giống gỗ thông thường, chẳng được bao lâu bị mối mọt ăn hết, chủ mộ nào cũng đều muốn thi thể của mình bị lũ sâu bọ ăn cả, chỉ nghĩ đến thôi thấy tởm lợm rồi, vì vậy cầu đối với gỗ quan tài của các quý tộc xưa nay đều rất nghiêm khắc. Chất gỗ của cái quan tài trước mặt chúng tôi đây tuy được như hoàng thân quốc thích, nhưng cũng được coi là xa xỉ lắm rồi, tôi đưa lưỡi xẻng công binh ke vào rãnh nắp, lấy sức nạy lên, nào ngờ đinh đóng rất chắc, hai lần nghiến răng nghiến lợi bẩy lên mà cũng được. Tuyền béo liền nhảy vào trợ giúp, hai người hợp sức, cuối cùng quan tài phát ra vài tiếng "cạch, cạch, cạch", cuối cùng cũng nạy ra được khe lớn, chúng tôi lại thay đổi vị trí, nạy từng cái đinh lên . Trong hầm mộ rất khô, vách mộ làm bằng chất liệu đặc biệt có khả năng chống thấm rất tốt, ngói lưu ly đỉnh mộ cũng thấm nước, cả lại phần lớn lượng nước mưa ở Dã Nhân câu đều được lớp lá rụng hút hết, vậy nên bụi bặm trong quan tài rất nhiều, vừa rồi động cái khiến bụi bặm bay mù, tuy đeo khẩu trang, nhưng chúng tôi vẫn bị sặc đến ho sù sụ, trở về có thế nào cũng phải chuẩn bị mấy cái mặt nạ phòng độc, nếu sớm muộn gì cũng mang bệnh vào thân. Tuyền béo định đẩy nắp quan tài ra, tôi đột nhiên muốn dọa cậu ta phát, chơi khăm vố, bèn giữ cánh tay cậu ta lại bảo: "Tuyền béo, cậu đoán xem trong quan tài có gì?" Tuyền béo đáp: "Tôi biết sao được, đằng nào thứ lấy được trong này có thể đổi thành Nhân dân tệ... còn đổi được phiếu lương thực nữa." Tôi cố ý hạ thấp giọng : "Ngày trước, tôi có nghe ông nội kể câu chuyện trong sách Thái Bình quảng ký, trong đó cũng kể về hai kẻ trộm mộ, béo gầy, bọn họ đào được cái quan tài lớn trong mộ cổ, bất luận bọn họ lấy đao chém búa bổ, cỗ quan tài vẫn chẳng hề suy chuyển, tên béo biết niệm 'Đại Bi chú', đứng trước quan tài niệm đoạn, kết quả nắp quan tài tự động mở ra khe hở... bên trong thò ra cánh tay mọc đầy lông xanh..." Tuyền béo chẳng sợ gì, nhưng Tử khiếp vía, vội nấp ngay ra sau lưng Tuyền béo: " Nhất, đừng kể linh tinh thế nữa, phải biết đây là đâu chứ, định dọa chết người ta à?" Tuyền béo biết tôi chỉ muốn dọa, ngoài chứng sợ độ cao ra cậu ta đúng là chẳng sợ gì hết, hồi đó đánh nhau với mấy thằng khác ở trường, cậu ta cũng thuộc hàng cao thủ, lúc này, mặt Tuyền béo chẳng có vẻ gì sợ hãi, mảy may kinh động trước dọa nạt của tôi, điệu bộ oai phong lẫm liệt : " em Tử ơi, đừng có nghe cậu ta, thằng oắt này định dọa à, mà nhìn Tuyền béo này là ai, mẹ kiếp, ông mày sợ cái quái gì nào, em cứ để cậu ta kể tiếp !" Tôi liền tiếp tục: "Cánh tay mọc đầy lông xanh kia, móng tay dài hơn ba tấc, vươn cái chụp được tên béo niệm 'Đại Bi chú', kéo vào trong, nắp quan tài lập tức khép lại, chỉ nghe bên trong phát ra tiếng gào thảm thiết, làm tên còn lại sợ vãi linh hồn quay đầu chạy mất..." Tuyền béo nhe răng cười khan mấy tiếng, điệu cười có chút gượng gạo, xem chừng trong bụng cũng bắt đầu sờ sợ rồi, nhưng vẫn cứ ra vẻ hảo hán, bước lên phía trước hợp sức đẩy nắp quan tài với tôi, kết quả là chúng tôi dùng sức quá mạnh, đẩy cái lật luôn cả nắp quan tài xuống đất, những thứ trong quan tài gọn ngay trong tầm mắt. Bên trong là thi thể người đàn ông cao lớn, nước trong cơ thể bốc hơi hết, chỉ còn lại lớp da khô đanh màu tím đỏ bọc lấy cái khung xương, gần ngàn năm, đây có thể xem là giữ được tương đối hoàn hảo rồi, tuy ngũ quan sụt lún, mắt mũi đều biến thành những hốc lõm đen sì, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra gương mặt, người này chừng bốn năm mươi tuổi, đầu đội mũ Triều thiên, mình mặc áo bào thêu sợi vàng, màu hồng viền xanh, chân ủng Đạp Vân, hai tay đặt ngang trước ngực. Truyện "Ma Thổi Đèn " Truyện "Ma Thổi Đèn " Tử ở sau lưng Tuyền béo thò đầu ra nhìn vào bên trong cái, kinh hãi hét lên: "Ối mẹ ơi! Ghê quá!" vội vàng ngoảnh chỗ khác, dám nhìn lại. nàng thét lên như thế, tóc gáy tôi cũng dựng ngược lên theo, nhưng quan quách bật cả ra rồi, còn có thể quay đầu bỏ chạy sao? Đánh liều phen vậy, tôi chắp tay vái thi thể trong quan tài ba vái: "Chúng con thiếu ăn thiếu mặc, vạn bất đắc dĩ mới đến đây mượn ông vài món đồ đổi lấy ít tiền cầm cự qua ngày, có đắc tội xin chớ trách, đằng nào ông cần lên trời lên trời, cần xuống đất xuống đất, cần đâu đó rồi, cát bụi lại trở về với cát bụi, bạc tiền châu báu đều là vật ngoài thân, sinh mang tới, chết chẳng cầm , ông giữ lại của cải cũng chẳng ích gì, bọn con là trộm cũng có đạo, lấy đồ rồi, nhất định đem phần lớn xây cầu sửa đường, cải thiện cuộc sống nhân dân, noi gương đồng chí Lôi Phong, ghét ràng, quên nguồn gốc, giữ vững lập trường..." Tôi vẫn còn nửa đoạn nữa chưa kịp hết, Tuyền béo nhẫn nại thêm được nữa, liền thò tay vào quan tài mò loạn lên, tôi vội vàng nhắc nhở: "Mẹ kiếp, cậu tay thôi, đừng có làm hỏng cái xác!" Tuyền béo nào chịu nghe lời, từ lúc vào trong hầm mộ đến giờ chẳng phát ra thứ gì đáng tiền cả, ngoài mấy cái bình cái chum mẻ vỡ ra, chỉ toàn hài cốt của người và súc vật bồi táng, tốn bao công sức, giờ chỉ còn trông mong vào mỗi cái quan tài này có thứ gì khả dĩ hay thôi. Tôi thấy có khuyên nữa cũng vô ích, liền dứt khoát im lặng cho đỡ phí nước bọt, cùng cậu ta lục các thứ trong quan tài, cạnh xác chết vẫn là mấy món đồ sứ, hồi ấy tôi hiểu gì lắm về đồ cổ, nhất là đồ gốm sứ, chỉ thấy vài món sứ hoa xanh thời Bắc Tống, đối với lịch sử, công nghệ, giá trị của đồ sứ tôi nhất loạt đều biết gì cả, chỉ biết vàng có giá ngọc vô giá, cứ cắm mắt cắm mũi tìm mấy miếng ngọc cổ, tiện tay vất hết đồ sứ sang bên, trời cao thương xót, cuối cùng cũng tìm được hai miếng ngọc bích trong tay xác chết, ngọc màu cánh trả, chạm thành hai con như hình con ngài, giống bướm mà phải bướm. Chúng tôi ngắm đôi ngọc bích lúc lâu, cũng chẳng ra được nó là thứ gì, tôi chỉ biết đây có thể là phỉ thúy, đồ từ trước thời Tống, chắc là thứ quý, nếu sao khi chết chủ mộ vẫn còn giữ chắc trong tay? Đoán chừng thế nào cũng được mấy vạn tệ đây, vậy đâu có ít, cả nước bấy giờ cũng đâu được mấy tay "vạn phú", cụ thể đáng bao nhiêu tiền khi về còn phải để Răng Vàng giám định xem , rồi liên lạc với mấy tay buôn Hồng Công, Đài Loan gì đó mà bán. Tuyền béo vẫn chưa thỏa mãn, định cậy miệng xác chết xem có răng vàng hay , tôi bảo cứ tạm thế này là được rồi, làm gì cũng đừng quá cạn tàu ráo máng, để lại cho người ta chút gì đấy, chúng tôi lại lựa lấy mấy món đồ sứ đẹp mắt trong quan tài, mấy món màu, hoa văn đặt nguyên vào chỗ cũ. Lấy đồ xong, tôi với Tuyền béo khênh nắp quan tài lên đậy trở lại, lần này tuy được trúng quả đậm như dự định, nhưng cũng hẳn là tay trắng ra về, tôi với Tử và Tuyền béo: "Tạm thế , chúng ta mau rời khỏi đây thôi, trát lại vách mộ cho tử tế rồi dẹp đường trở về!". Dứt lời liền quay người định trở ra, nào ngờ đột nhiên phát ra ngọn nến góc tường lẳng lặng tắt ngóm từ bao giờ
Q.1 - Chương 14: Xích hống Tuyền béo và Tử cũng trông thấy, tuy hai người đều đeo khẩu trang, nhưng phần trán lộ ra bên ngoài ướt đẫm mồ hôi lạnh, khắp người tôi cũng vã hết mồ hôi, tôi có chút hối hận lúc thảo luận chuyện trộm mộ thổi phồng chuyện "ma thổi đèn" lên rùng rợn như thế. Tôi quay lại nhìn chiếc quan tài phía sau, nắp quan được chúng tôi đóng đinh cẩn thận, chẳng hề động tĩnh, lẽ nào thế gian này có ma quỷ hay sao? Tử đứng cạnh tôi sợ nhất là ma và xác chết, lập tức đưa tay định tháo khẩu trang ra, tôi vội giữ tay nàng lại : " được tháo khẩu trang ra, định làm gì thế hả?" Tử định huýt sáo gọi lũ chó săn vào, tôi vỗ vỗ vai : "Đừng sợ, vẫn chưa đến lúc, với lại chó nào cắn được ma chứ!" Tuyền béo bước tới kiểm tra cây nến dưới đất, ngoảnh lại hỏi tôi: "Nhất ơi, nến này bao tiền cây thế?" Tôi mua nến ở Bắc Kinh, giá bao nhiêu, lúc tôi mua mấy thứ cũng để ý, chắc tầm hai hào cây gì đó. Tuyền béo quở trách: "Cậu mua loại năm hào cây đấy chứ? Thứ quan trọng như vầy sao có thể mua hàng rẻ tiền được?" Tôi gãi đầu: "Vậy lần sau để tớ mua hàng nhập khẩu vậy, Mỹ, Nhật hay Đức, cái nào đắt mua cái ấy, có điều giờ nến tắt rồi, cậu cũng đừng có xong chuyện mới vênh mặt lên làm Gia Cát Lượng, chúng ta có nên đặt lại đồ vào chỗ cũ ?" Quần quật nãy giờ mới thó được mấy món, giờ lại phải trả hết về chỗ cũ, trong lòng tôi và Tuyền béo đều thấy chẳng cam tâm, cơm chưa nên cơm cháo chưa ra cháo, lẽ nào lại để công cốc công cò như vậy? Tuyền béo mặc kệ, bảo dẫu ma có ra, cậu ta vung xẻng đập cho nó phải bới đất tìm răng, mấy món đồ này ông Tuyền béo thu hết, nếu muốn trả lại, trừ phi có con ma ra quỳ lạy, còn khướt. Tử lại nghĩ cứ trả hết lại tốt hơn, vì mấy người chúng tôi đều biết pháp thuật bắt ma trừ tà, ngộ nhỡ ma quỷ lên cả ba người từng đứa từng đứa , đừng ai nghĩ sống sót mà ra khỏi nấm mồ này. Tôi còn chưa gì, hai người bọn họ cãi nhau, cuối cùng đều đồng ý với cách làm chiết trung của tôi, thắp lại ngọn nến, rồi trả hú họa mấy đồ gốm sứ trở lại, xem nến có tắt nữa hay , nếu như vẫn tắt, chúng ta lại trả về thêm món nữa, nếu quả thực vẫn chưa được, chỉ lấy hai miếng ngọc, những món đồ sứ khác đều để lại hết. Truyện "Ma Thổi Đèn " Có thể vừa nãy nến tắt là vì có gió núi từ ngoài thổi vào mà thôi, nếu mang được gì về, chắng những uổng phen vất vả, mà còn mất hết cả thể diện nữa. Tuyền béo bỗng vỗ đùi đánh đét: "Hay! Tớ thấy thế hay đấy, cứ làm vậy , tớ để mấy cái đồ sứ này vào trước, cậu ra thắp nến lên, nếu còn tắt nữa, coi như mình thấy là xong!" Chuyện mặc cả với người chết này, chắc tôi là người đầu tiên nghĩ ra, nếu các vị Mô kim Hiệu úy ngày xưa dưới địa phủ có hay, thế nào cũng nổi khùng đội mồ dậy bóp chết tôi cho xem, là xấu hổ với sư tổ quá, có điều giờ cải cách mở cửa, ta phải thuận theo dòng chảy lịch sử, thể cứ giữ khư khư những quy củ truyền thống cứng nhắc kia được, kinh tế là phải năng động, đầu óc bảo thủ kinh tế năng động thế nào được? Tôi vừa viện cớ gỡ tội cho mình vừa lấy diêm thắp lại cây nến ở góc tường, lúc này Tuyền béo đặt chiếc bình sứ hoa văn ba màu lên quan tài, cậu ta muốn bớt việc, lười mở lại nắp săng, trực tiếp đặt luôn bình hoa lên đó, đoạn quay lại bảo tôi: "Lần này chắc vấn đề gì chứ, nến có tắt đâu? Mình diễn màn sáu vớ 'Sa Gia Bang' thôi nhỉ?" Tôi đột nhiên phát có điều bất thường, căng thẳng, nghe Tuyền béo , nhất thời phản ứng kịp, hỏi ngược lại: "Màn sáu cái mẹ gì?" Tuyền béo vỗ vào đầu tôi cái: "Nghĩ cái quái gì thế? Màn sáu, vở 'Sa Gia Bang', tức là ù té quyền ấy!" Tôi chẳng còn tâm tư để ý cậu ta gì, chỉ dùng tay ra hiệu im lặng, rồi chỉ vào ngọn nến mặt đất, khẽ: "Ngọn lửa của cây nến... mẹ nó, sao lại màu xanh thế này? Ngọn lửa phát ra những tia sáng xanh biếc, ánh sáng xanh làm mặt mọi người đều xanh lét, Tử và Tuyền béo cũng nhổm tới xem, thấy tình cảnh này, đều ngơ ngác nhìn nhau, cất nổi tiếng, ngọn lửa xanh lấp lóe hai ba phát rồi phụt tắt mà hề có bất kỳ tác động ngoại lực nào. Tôi biết ngay là ổn, xui xẻo quá, lần đầu tiên mò vàng mò ngay phải "bánh tông bự", tôi tay kéo cánh tay Tử, tay kia kéo Tuyền béo chạy ra miệng hố, bất luận thế nào cứ ra ngoài rồi hẵng tính, tôi muốn ở lại nơi này làm đồ tuẫn táng cho lũ rợ nước Kim. Thấy sắp đến lối ra, đột nhiên đằng sau luồng gió mạnh ập tới, nếu tránh né, ắt bị thúc giữa người, ba bọn tôi vội vã cúi đầu nằm rạp xuống đất, thoạt tiên là tiếng "vù", chiếc bình sứ hoa Tuyền béo đặt quan tài bay vụt qua đầu chúng tôi, văng vào mép hang vỡ thành vô số những mạt bụi, tiếp sau đó lại vang lên tiếng "rầm" lớn, hóa ra nắp quan tài được đóng đinh lại giờ bị găm vào vách hầm mộ có miệng hang làm lối ra vào. Vách mộ là đất đầm được điều phối bằng phương pháp bí truyền trong cung đình Bắc Tống, chắc như bàn thạch, nắp quan tài cũng cực kỳ dày và nặng, bị sức mạnh khó mà tưởng tượng nổi ném vù , ngay ngắn ghim chặt vào vách mộ, lối ra bị bịt kín, muốn lấy xẻng công binh phá ván cũng phải tốn ít công sức, đâu phải chốc lát là xong. Nắp quan tài bay găm vào vách, sức mạnh ấy lớn biết chừng nào, vừa rồi nếu chậm giây lát, bị đập trúng đầu, liệu mạng còn hay ? Tuyền béo tuy to gan, nhưng giờ phút này cũng sợ mất mật: "Nhất ơi! Cậu mau thương lượng với nó , mình để lại thêm cho nó vài món, trở mặt ra tay thế này đôi bên đều chẳng có lợi... Dĩ hòa vi quý vẫn hơn mà!" Lần đầu tiên ra quân bất lợi, lửa giận trong lòng bùng lên, tôi lại phạm phải tật cũ, trở nên nóng nảy xung động, xoay người lại chắn cho Tử phía sau, tay móc ra chiếc móng lừa đen để trong ngực, tay xách xẻng công binh lên, với Tuyền béo: "Thương lượng cái đít ấy, cửa bưng kín rồi, ràng là muốn bắt mình ở lại bồi táng, hôm nay hai miếng ngọc cổ này ông Nhất đây lấy là cái chắc, con bà nó, xem đứa nào ác hơn đứa nào, ra con, ông liều với loại quỷ quái nhà mày!" Lúc này chiếc quan tài mất nắp trong buồng chính dựng đứng lên, lớp da khô đét vốn dĩ màu đỏ tím của xác chết bên trong, chẳng hiểu tự lúc nào, mọc ra lớp lông đỏ dày dày... Thấy thế, tôi thở ra hơi lạnh toát, ý định xông lên liều mình vừa nãy giờ tiêu tan nửa, trước từng nghe cương thi có thể mọc lông trắng lông đen, gọi là "bạch hung", "hắc hung", còn nghe truyền thuyết có loại thi độc mọc ra lông xanh, cái thứ lông đỏ kia là cái gì vậy? Đây lẽ nào là con xích hống (1) trong truyền thuyết? Loại mãnh thú sinh sống thảo nguyên Mông Cổ này mình cứng như sắt, thích đào hang ở dưới đất, giờ còn nhiều nữa, chỉ được nghe đồn đại về nó mà thôi, lẽ nào ngôi mộ này chính là ổ của nó? Lần này quá sơ suất, vốn tưởng cái mộ thế này, chỉ cần tránh khỏi lớp bẫy bên là xong, ai ngờ xuống dưới đây lại gặp "bánh tông lông đỏ bự", chúng tôi mang súng săn, cái lỗ đào ra giờ bị bịt kín như bưng thế kia, chẳng thể nào gọi lũ chó đến trợ giúp được, chó săn và súng săn là những vật phòng thân quan trọng nhất trong rừng sâu, vậy mà giờ chỉ có thể dựa vào chiếc xẻng công binh kiểu Đức và móng lừa đen để đấu với nó phen mà thôi. Con xích hống lông đỏ khắp cả mặt, thể nhìn diện mạo thế nào, lông xù lên từng đám như con đười ươi lông đỏ, hai cánh tay nó rung lên, từ trong quan tài nhảy bật ra, nhảy cái xa tới hơn hai mét, tiếng động mà ập tới nhanh như gió, chỉ vài bước nhảy đến trước mặt chúng tôi, vươn mười cái móng sắc nhọn như dao bổ nhào tới. ngờ động tác của con xích hống này lại mau lẹ đến vậy, tình thế bây giờ ngàn cân treo sợi tóc, hơi đâu đắn đo gì nhiều, trong đấu trường hẹp, có chỗ lùi chân, chỉ có thể tiến lên nghênh chiến, lấy công làm thủ, tôi và Tuyền béo đều chung suy nghĩ, kệ xác nó là con gì, cứ đập cho bẹp ra rồi tính tiếp, cả hai cùng hô vang tiếng, rồi vung xẻng công binh lên, lao vào bổ đầu dằn mặt con xích hống. Động tác của con quái vật nhanh như chớp, hai tay quét ngang, chúng tôi chỉ thấy tay mình bị sức mạnh to lớn quật vào, lòng bàn tay tê dại thể nắm lại được nữa, hai chiếc xẻng giống như hai chiếc lá bị cuồng phong cuốn vút lên cao, leng keng hai tiếng rồi cắm vào đỉnh ngói lưu ly của hầm mộ, bên tuy tối om, nhưng chỉ nghe thanh cũng đoán được, bị va chạm mạnh như thế, lớp ngói lưu ly kia bất cứ lúc nào cũng có thể sụp xuống. Dầu hỏa long của Tây Vực tuyệt phải trò đùa, khi để vãi xuống, trong hầm mộ ngọc nát đá tan, ngôi mộ này coi như hủy là cái chắc, giờ muốn tẩu thoát, bắt buộc phải kết thúc trận chiến trong thời gian ngắn nhất, có điều đánh tay thế này đâu có dễ? Mọi người mất vũ khí, giờ chỉ có thể nghĩ cách mà tránh né những cú tấn công của con quái vật, rồi cùng chạy vào buồng sau, nơi đặt xương ngựa và giáp trụ. Hầm mộ vốn có đèn, hoàn toàn dưa vào ánh sáng của đèn pin, chạy như vậy lại càng thể nhìn dưới chân có gì, khi chỉ còn cách buồng trong vài bước chân, Tuyền béo bất cẩn giẫm phải chiếc bình cạnh tường, "á" lên tiếng ngã nhào ra đất. Con xích hống lao lên áp sát chúng tôi như hình với bóng, nó rú lên tiếng nghe như tiếng rên khóc của loài mèo về đêm, nhảy bổ về phía Tuyền béo, tiếng kêu thê lương thảm thiết của nó vang vọng trong hầm mộ chật hẹp, kinh khủng mà chói tai đến thể tả bằng lời, khiến người ta hồn xiêu phách lạc, mình nổi da gà. Tôi từng thề chỉ lần, bao giờ để cho bất kỳ chiến hữu nào phải chết trước mặt mình, giờ thấy tính mạng của Tuyền béo nguy trong gang tấc, nào còn nghĩ đến hiểm nguy, tôi nhảy lên đá mạnh, trúng ngay giữa ngực con quái vật, cước này như đá phải ván thép, làm tôi đau đến xuýt xoa, cũng may là bị gãy chân. Con xích hống bị tấn công, bèn bỏ mặc Tuyền béo, tức khắc giơ bộ vuốt quái quỷ chọc xuống đầu tôi, tôi ném thẳng cái đèn pin trong tay vào mặt con quái, lộn nhào cái chui qua nách nó, tránh khỏi bộ vuốt sắc như dao, bấy giờ chỗ tôi đứng là góc chết, hai vách tường và con xích hống chổng lưng về phía tôi tạo thành hình tam giác vây kín tôi ở giữa, nếu để nó có cơ hội quay người lại, rồi bổ nhào tới tôi vạn lần khó mà chống nổi. Những trò liều mạng cả đời tôi chơi biết bao lần rồi, càng cùng đường tuyệt lộ, lại càng cần bình tĩnh quyết đoán, thứ "bánh tông lông đỏ bự" này thực ra có da có thịt, chẳng qua có sức khỏe kinh người mà thôi, đao thương bất nhập, nhưng cũng đâu phải ma phải quỷ, tôi sợ chó gì nó. Lúc ấy lại càng nghĩ ngợi gì nhiều, tôi xông tới nhún người nhảy lên lưng nó, trong mũi xộc lên toàn mùi tanh thối, may mà đeo khẩu trang, bằng chắc chưa kịp ra tay bị sặc chết rồi. có đèn pin, hầm mộ tối như hũ nút, chẳng nhìn thấy gì, tứ chi con xích hống cứng nhắc, thể với ra phía sau bắt tôi, đành phải ngừng lắc người hòng hất văng tôi xuống. tay tôi ghì chặt cổ con xích hống, tay kia cầm móng lừa đen định nhét vào mồm nó, tôi ấn loạn mặt nó mãi mà thấy mồm đâu, ngược lại bị nó lắc cho hoa mắt chóng mặt, thầm nhủ ổn, chỉ lắc thêm vài phát nữa là tôi rơi xuống mất. Trong bóng tối bỗng lóe lên ánh đèn, tôi cứ ngỡ là mình hoa mắt, định thần lại nhìn, hóa ra Tuyền béo và Tử ngậm đèn pin trong mồm, hai tay vác cây lang nha bổng xông ra từ buồng trong, bọn họ định liều mạng chắc, tôi nhảy vội xuống khỏi lưng con xích hống. Cây lang nha bổng kia nặng tới mấy chục cân, là vũ khí đơn binh loại siêu trọng thời "vũ khí lạnh", lúc mới vào trong cổ mộ, chúng tôi thấy nó với mấy thứ binh khí khác, cùng giáp trụ, xương ngựa đều chất cả sàn buồng sau, đoán chừng đều là vật thường dùng của chủ mộ khi ra trận lúc sinh thời. những binh khí này tuy mọc đầy mốc xanh, nhưng lang nha bổng phải loại binh khí dựa vào mũi nhọn sắc bén để sát thương địch, thuần túy là dùng sức mạnh lợi dụng trọng lượng đến tấn công kẻ địch. Tử và Tuyền béo lần lượt ở hai bên phải trái, bốn cánh tay nâng lang nha bổng, coi như chày kình đánh chuông chùa, thúc mạnh vào ngực con xích hống, lang nha bổng hàng chục cân cộng với sức đẩy do hai người chạy tới, xung lực quả thực , húc uỳnh cái, làm con xích hống ngã lộn xuống đất. Cú vừa rồi cả hai người họ dùng quá sức, mệt bở hơi tai, tôi dường như nghe thấy cả tiếng đập thình thịch dội ra từ lồng ngực họ. Tôi đứng bên cạnh khen: "Đánh hay lắm! ngờ chú lại khỏe thế, lúc về tính công cho..." Vừa dứt lời, con xích hống từ dưới đất bật người lên như lò xo, tôi cao giọng chửi lớn: "Mẹ mày, tưởng đốt khống sém, chém chết sao, Tuyền béo đâu, oánh cho nó phát nhớ đời xem nào, đập thẳng vào đầu nó ấy!" Tuyền béo điên lên, cú này chẳng cần Tử giúp sức, mình vận hết sức bình sinh nhấc cây lang nha bổng lên cắm thẳng về phía con xích hống, nào ngờ lần này chẳng thành công, đúng lúc con xích hống nhảy chồm tới, va chạm làm cây lang nha bổng văng vào buồng sau, Tuyền béo cũng bị ngã giập cả mông, hai lòng bàn tay rách toác, đau đến gào lên oai oái. Tôi thầm tính toán, xẻng công binh găm lại nóc mộ, nếu muốn đập cái nắp quan tài bịt kín lối ra kia , vừa hay có thể dùng lang nha bổng mà đập, vào buồng trong lấy lang nha bổng trước, đánh lạc hướng con xích hống, đập vỡ nắp quan tài xông ra, bên ngoài trời cao đất rộng, lại có chó săn súng săn, quần thảo thế nào cũng được, ở trong hầm mộ chật hẹp này làm sao mà giở ra được. Tôi kéo Tuyền béo ngồi bẹp dưới đất dậy, ba người chạy vào buồng sau của ngôi mộ cổ, buồng sau chính là gian phụ, so với gian chính còn thấp hơn bậc, tôi vừa bước xuống liền dùng đèn pin soi bốn phía xung quanh, chỉ thấy lang nha bổng bị sức mạnh khủng khiếp của con xích hống văng đập vào vách tường, tạo thành lỗ hổng lớn. Sao là lỗ hổng mà phải là đường nứt, lẽ nào phía sau còn có gian nữa hay sao? Từng nghe số mộ cổ bên trong còn giấu hầm mộ khác, phải chăng đây chính là mật thất? Lần này đúng là toét mắt nhận ra rồi. Bên trong cái lỗ do cây lang nha bổng tạo ra tường tối đen kìn kịt, đèn pin soi vào chỉ thấy sâu thăm thẳm, dường như gian rất rộng, là đường hầm khá dài. Tôi ngạc nhiên sửng sốt, con xích hống lao thẳng vào gian sau cuốn theo luồng gió lạnh buốt, ba bọn tôi dám lơ là, lập tức xoay lang nha bổng lại định đẩy con thú ra, lao khỏi gian sau đập bay nắp quan tài, nào ngờ sức lực của con quái thú hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng, hai tay vung lên, sức mạnh dưới ngàn cân, ba bọn tôi tuy dốc hết sức, nhưng lang nha bổng vẫn bị đánh văng ra, xoay tròn vòng , lại lần nữa đập trúng vách tường sau lưng. Lần này, cái lỗ tường vỡ tung ra còn lớn hơn lúc đầu, bấy giờ mọi người cùng đường mạt lộ, đành phải lui vào mật thất sau bức tường, nhấc lang nha bổng lên chuẩn bị chiến đấu tiếp. Nhưng con xích hống lại truy đuổi được, chỉ lòng vòng trong gian sau, tôi thở dài hơi, lấy đèn pin soi lên mặt của Tuyền béo và Tử, ngoài vết rách toác tay của Tuyền béo ra, hai người đều bị thương gì nữa. Ngẫm lại cuộc chiến đấu ác liệt trong hầm mộ vừa rồi, tuy chỉ có mấy phút ngắn ngủi, nhưng đúng là có thể lượn hai vòng phía trước Quỷ môn quan rồi. Tử bỗng : "Mọi người xem xem, tường sao lại còn có chữ này! Viết cái gì vậy nhỉ?" Chúng tôi lần theo ánh đèn pin của Tử nhìn lên tường, chỉ thấy có cái biển chỉ đường màu đỏ, có viết hàng chữ lớn "CĂN CỨ HẮC PHONG KHẨU, KHO NGẦM GENA, BIÊN GIỚI MÃN MÔNG" Tôi với Tuyền béo nhìn nhau: "Căn cứ bí mật của quân Quan Đông?" Chẳng ngờ rằng đường hầm dẫn tới căn cứ quan trọng của bọn quỷ Nhật lại chỉ cách gian sau ngôi mộ cổ có bức tường, nếu lệch nửa mét nữa vào trong, ngôi mộ này sớm được khai quật từ lâu rồi. Nếu phải lang nha bổng đập vào vách mộ, có thể vĩnh viễn cũng có ai phát ra căn cứ quân sâu dưới lòng đất này được. Còn chưa kịp nhìn kỹ, bức tường ngăn cách giữa đường hầm của căn cứ và gian sau của ngôi mộ bỗng đổ đánh rầm tiếng, con xích hống từ sau bức tường đổ nát nhảy vọt vào. Tuyền béo chửi rủa: "Con cụ nhà mày, cứ dính bố mày như đỉa thế à?" đoạn lại vác lang nha bổng định lao tới. Tôi vội ngăn Tuyền béo lại: "Đừng liều với nó làm gì, tìm đường chạy , rồi tính cách sau!". Cả ba cùng chạy vào trong, đường hầm rất rộng rãi, mặt đường bằng xi măng, hoàn toàn có thể cho xe thiết giáp qua, chỉ có điều đường hầm này vừa dài vừa rộng, có chỗ nào nấp hay chướng ngại vật gì, con xích hống lại lao rất nhanh, chỉ nháy mắt nhảy tới sau lưng mọi người. Tôi định ném móng lừa đen ra chặn nó lại, liền rờ tay lên người tìm loạn xạ, bỗng sờ thấy trong túi còn đống gạo nếp, nghe các Mô kim Hiệu úy ngày xưa vào trong mộ cổ đều phải đem theo gạo nếp, nếu trúng phải hơi xác chết dùng để trừ độc, giờ cũng có thể coi là ám khí mà giã vào mặt con ác thú phát. Truyện "Ma Thổi Đèn " Truyện "Ma Thổi Đèn " Chỉ thấy sau lưng ập đến từng trận gió lạnh buốt, mùi hôi sặc mũi, tôi vốc nắm gạo nếp trong túi vung ngược tay ra sau ném vào con ác ôn, nắm gạo to bắn tóe ra như tiên nữ rải hoa văng cả vào mặt con vật, nó hoàn toàn để tâm, chỉ khựng lại cái, rồi nhảy bổ tới. Lúc này chúng tôi chạy đến cuối đường hầm trong căn cứ ngầm, cánh cửa sắt lớn của kho Gena (kho hàng) hé mở ngay trước mắt, chắc là quân Quan Đông rút lui cực kỳ vội vã, cửa sắt khóa, nhưng ba chục năm trời đóng mở, ổ bi sắp han rỉ hết rồi, ba chúng tôi chạy vào trong kho, người nào người nấy đều phùng má trợn mắt, dốc hết sức bình sinh kéo cửa lại, cuối cùng cũng đóng được cánh cửa sắt nặng nề trước khi con xích hống nhảy đến. Con xích hống có mình đồng da sắt cũng chẳng thể nào nhảy vào đây được, thậm chí cả tiếng nó đập cửa bên trong cũng nghe thấy gì. Loại cửa kho quân này đều được thiết kế để chống sóng xung kích của những vụ nổ lớn, giữa ván thép ván sắt còn thêm hai lớp đệm bông, có thể hấp thu xung lực. Năm xưa bọn Nhật bị quân Mỹ thả bom biến thành chim sợ cành cong, ngay cả cứ điểm dưới đất cũng được xây theo cấu tạo chống bom hàng cỡ lớn. Con quái thú kia dẫu có lợi hại hơn nữa, cũng thể đọ với bom đạn của quân đội Mỹ được. Chúng tôi ở đây coi như tạm thời an toàn rồi, nhưng thoát ra thế nào cũng là việc phải suy tính nát óc.