Q.4 - Chương 11: TIẾN VÀO KELAMER Lòng tôi trĩu xuống, vội dập tắt đầu thuốc, chạy qua xem sao. Cái móng lừa đen vừa vặn dùng hết, Shirley Dương nhổ cái gai thịt màu đen trong ngón tay của lạt ma ra, là vật gì. Da dẻ lạt ma trở lại bình thường, song sắt mặt mỗi lúc xanh xao, thử dò hơi thở của ông, tuy yếu ớt, những vẫn bình ổn, nhưng có giữ được tính mạng hay chưa thể chắc được. Tôi nhặt chiếc gai thịt dưới đất lên xem, phía sau còn có vài cục thịt màu đen bé xíu, đây có lẽ chính là cái dằm đâm vào tay lạt ma. Vật này chẳng lành, giữ lại ắt may, liền tiện tay vứt vào trong đống lửa đốt , cả đống lông tóc đen hôi thối nồng nặc cũng giữ lại sợi nào, tất cả đều thiêu hủy sạch. Cuối cùng, tôi lại gọi A Hương lại, xem mình lạt mà còn có chỗ nào bất thường , xong xuôi hết cả mới yên tâm. Đêm hôm đó tôi hề chợp được mắt, ngày hôm sau Thiết bổng Lạt ma mới tỉnh lại, trông ủ dột rã rời, trong đêm tựa hồ già hai chục tuổi, cánh tay phải hoàn toàn thể cử động. Thị lực ông hình như cũng bị ảnh hưởng nặng, cái chính là khí huyết suy kiệt, nhúc nhích được. Với tình trạng sức khỏe giờ của lạt ma, nếu muốn hồi phục lại, ít nhất cũng phải hơn năm. Như vậy, ông thực thể tiếp tục tiến vào vùng cao như khe Kelamer trong núi Côn Luận được nữa. Lạt ma cũng biết đây là ý trời, cho dù có gắng gượng , cũng trở thành gánh nặng cho người khác. Nhưng điều ông lo lắng nhất, chính là việc tìm người hát sử thi thiên bẩm khác quả thực quá khó, cuối cùng ông bàn với tôi, hãy cứ để ông cùng chúng tôi tới Kelamer, nhưng ông vào núi, mà ở cửa núi đợi chúng tôi quay lại. Ngoài ra trong thời gian chúng tôi chuẩn bị, ông cố gắng dùng tiếng Hán thuật lại số nội dung liên quan đến Ma quốc trong trường thi Thế giới Chế định Bảo châu Hùng sư Đại vương cho Shirley Dương nghe. Cũng may Shirley Dương có khả năng nghe qua là bao giờ quên, chắc chắn nhớ được phần lớn, đến khi tìm tháp ma Ma quốc trong Phượng hoàng thần cung, có lẽ dùng đến. Để lạt ma có thể nghỉ thêm vài ngày, tôi bảo Minh Thúc mang theo người của lão ta đến vùng Gazebochinh gần Kelamer trước, trang thiết bị cũng sắp được vận chuyển tới đó. Gần đó là vùng bình nguyên hoang dã và khu người, có rất nhiều bọn săn trộm. Ngoài việc mua vũ khí đạn dược từ tay chúng ra, đội tiên phong còn có nhiệm vụ tìm hướng dẫn viên thích hợp, thuê cửu vạn, tóm lại công tác chuẩn bị còn rất nhiều việc phải làm. Tôi, Tuyền béo và Shirley Dương, đợi sau khi bệnh tình của lạt ma thuyên giảm rồi lên đường. Cách núi Côn Luân vẫn còn xa, mà có người chết, người bị thương, điều này như phủ bóng đen u ám lên con đường phía trước của chúng tôi. Minh Thúc kiên quyết phản đối, cho rằng nếu hành động cùng hành động, thể chia đôi đường được. Tôi biết lão khọm Hồng Kông này chắc chắn sợ chúng tôi bỏ rơi lão để làm mình, song thế nào lão cũng chịu nghe, đành phải đẩy Tuyền béo cùng hội của lão, coi như làm con tin, lúc ấy lão khọm mới yên tâm. Tôi sợ Tuyền béo chịu, đành gạt cậu ta, bảo phái cậu ta làm trưởng quan liên lạc, bốn người bọn Minh Thúc do cậu ta chỉ huy, Tuyền béo vừa nghe thấy được làm lãnh đạo, liền mừng ra mặt đồng ý ngay. Kiến thức của Minh Thúc về hàng hải rất rộng, song vào núi đổ đấu, cần vật tư gì, cần hướng đạo ra làm sao lão ta chẳng biết mô tê gì, Peter Hoàng tuy có tham gia chiến tranh du kích trong rừng mấy năm, song căn bản hiểu đổ đấu nghĩa là gì, mà từ trước đến giờ cũng chưa đến Đại lục, cho nên đám người họ đương nhiên đều nghe theo Tuyền béo hết. Trước khi dẫn bọn Minh Thúc xuất phát, Tuyền béo nắm chặt bàn tay tôi : "Nhất này, tình bạn giữa tôi và cậu lâu nay chẳng thể nào đong đếm được, chỉ biết nó cao hơn núi, sâu hơn biển. Lần này tôi dẫn bộ đội vào khai phá căn cứ địa mới trước, lâu ngày nàng dâu cũng trở thành mẹ chồng, chức vụ phó tư lệnh của béo tôi đây cuối cùng cũng được về đúng chỗ, song lại nỡ chia tay các cậu, trong lòng biết là nên vui hay nên buồn, tóm lại cảm xúc phức tạp, quả thực biết gì hơn." Tôi với Tuyền béo: "Nếu quả thực biết gì hơn, cớ sao mà... mẹ kiếp lắm thế? Đoàn chúng ta trước giờ quan quân bình đẳng, cậu đừng diễn cái bộ quan cách với hội Minh Thúc, đương nhiên lão khọm Hồng Kông ấy mà dám giở trò cậu cũng cần khách sáo làm gì!" Sau khi dặn dò hồi, chúng tôi mới tiễn họ lên đường. Đợi đến khi Thiết bổng Lạt ma có thể cử động, đầu tiên phải làm pháp độ vong cho A Đông, sau đó tôi và Shirley Dương cùng ông cưỡi bò Yak từ từ đến Semge zangbo đáp xe ô tô. Dọc đường Thiết bổng Lạt ma ngừng kể cho Shirley Dương những bài sử ca về đền Ma quốc, Shirley Dương vừa nghe vừa ghi chép vào sổ, như vậy nên chúng tôi đến Gazebochinh muộn hơn hội Tuyền béo hai mươi ngày. Tuyền béo và Minh Thúc ngóng đợi lâu, thấy cuối cùng chúng tôi cũng đến, lập tức sắp xếp cho chúng tôi nghỉ ngơi ăn cơm. Chúng tôi tá túc trong ngôi nhà dân du mục. Trước khi ăn cơm tối, Minh Thúc báo cho chúng tôi tình hình chuẩn bị đến đâu. Trong số dân du mục ở đây có người đàn ông tên là Xư-chê, chưa đến bốn mươi, người đàn ông Khang Ba điển hình, rất thông minh nhanh nhẹn, tên của ta có nghĩa là "Mồng ". Bọn Minh Thúc thuê Xư-chê làm hướng đạo, bởi ta là người duy nhất trong vùng từng vào Kelamer. Ngoài ra còn có mười lăm con bò Yak, sáu con ngựa, và năm người cửu vạn. Từ Gazebochinh tiến vào Kelamer, phải băng qua vùng bình nguyên hoang dã có rất nhiều khe hẻm, điều kiện giao thông kém, gần đó chỉ có chiếc xe tải kiểu cũ, truyền động hai bánh, lái vào rồi đừng hòng ra được. Dải bình nguyên hoang dã kia ngay đến cả bọn săn trộm cũng muốn tới, cho nên muốn thồ đống vật tư lớn như vậy vào, chỉ còn cách dùng bò Yak mà thôi. Trang thiết bị vận chuyển từ Bắc Kinh đến đều ra Răng Vàng đặt mua theo lời dặn dò của Shirley Dương, nay chuẩn bị xong xuôi, bất cứ lúc nào cũng có thể xuất phát. Tôi hỏi Minh Thúc vũ khí thế nào, chúng ta thể chỉ mang theo mỗi hai cây súng Remington với hơn bảy mươi viên đạn được, vào núi Côn Luân cơ mà, dã thú ở đó nhiều lắm. Minh Thúc dẫn tôi và Shirley Dương ra phía sau căn lều nhà người dân du mục, Tuyền béo và Peter Hoàng ở bên trong kiểm tra súng ống, ngắn dài có cả. Súng lục kiểu loại tương đối đồng nhất, đều là của bọn săn trộm đánh hàng từ khu vực Đông Nam Á sang, có khả năng là đồ của quân đội Mỹ sót lại. Súng lục bán tự động M1911 của Mỹ, kiểu dáng hơi cũ, song đường kính nòng súng đủ lớn, sử dụng loại đạn 45 ACP, tính năng ổn định, có thể coi là kinh điển trong kinh điển của súng lục quân dụng dùng trong quân đội Mỹ, kiệt tác của John Browning, là loại vũ khí phòng thân tuyệt đối hữu hiệu. Truyện "Ma Thổi Đèn " Súng trường hơi kém hơn, chỉ có hai cây súng thể thao nòng kiểu dáng khác nhau, có cái nào cầm sướng tay, nhưng cộng thêm hai khẩu Remington cũng đủ dùng, suy cho cùng chỉ là đổ đấu thôi, phải đánh trận. Tôi lại xem tiếp các trang thiết bị khác, quả thực đều đủ cả, những có quần áo Allison của đoàn leo núi Mỹ, thậm chí ngay cả thiết bị lặn cũng được đưa đến. Hệ thống nước ngầm do tuyết tan dưới chân núi Côn Luân hình thành rất chằng chịt phức tạp, những thứ này chuẩn bị trước vẫn hơn, cái quan trọng nhất vẫn là những khí giới truyền thống như móng lừa đen, gạo nếp, thám trảo... , cái gì mua được thị trường đều được đặt làm cả, có những thứ này, thấy tự tin hơn nhiều. Tôi để lại ít tiền, nhờ dân bản địa chăm sóc cho lạt ma, đợi sau khi chúng tôi ra khỏi Kelamer, đón ông . Nếu sau hai tháng vẫn thấy quay lại, nhờ họ đưa lạt mà về chùa nào đó gần đây để dưỡng bệnh. Dân Tây Tạng có đức tin hết sức kiền thành, cho dù tôi nhờ vả, họ cũng chăm sóc tốt cho lạt ma. Tôi thấy mọi thứ được chuẩn bị xong xuôi, bèn quyết định sớm mai lên đường. Đêm hôm ấy, Minh Thúc mời mọi người tập trung ăn cơm, nơi đây nằm ở giao điểm giữa ba vùng Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, nét văn hóa ẩm thực cũng hòa trộn đặc điểm của ba vùng. Bữa tối của chúng tôi hết sức thịnh soạn, lưỡi bò Yak trộn nguội, trùng thảo xào thịt, bánh bao Tây Tạng, phổi nhồi, lòng nhồi, cơm rưới sữa bò, sườn cừu nướng, gân dê xào nhân sâm, tsamba bơ, ai nấy đều uống rất nhiều rượu ủ từ men lúa mì Thanh Khoa. Minh Thúc uống hơi lâng lâng, mấy câu ăn nhập gì, lại còn là hy vọng đây phải bữa tối cuối cùng. Nghe lão thế, cả đoàn đều mất hứng, ăn nhanh cho xong bữa rồi về ngủ. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi bèn từ biệt Thiết bổng Lạt ma, chuẩn bị tập hợp xuất phát. Thiết bổng Lạt ma quàng lên vai tôi dải khăn hatha: "Bồ Tát phù hộ, mong mọi người đường tới Phượng hoàng thần cung may mắn bằng ăn." Tôi ôm chặt lấy lạt ma, định gì với ông, song trong lòng xúc động vô cùng, thốt lên được lời nào. Đoàn người lùa lũ bò ngựa về hướng Tây Bắc. Vùng cao nguyên phía Bắc Tây Tạng ở sâu trong lục địa, khí hậu lạnh khô, nhiệt độ và lượng mưa biến đổi theo đồ thị hình sin, mùa đông lạnh mà dài, mùa hè mát mà ngắn. Thời tiết lúc này cuối hè, là thời điểm nhiệt độ ổn định nhất trong năm. Bình nguyên hoang vu này chính là vùng heo hút người được gọi là "Chiho", tuy có con người sinh sống, nhưng sinh vật sống hoang dã trong tự nhiên khá nhiều, chim thú từng đàn, thú hoang chốc chốc lại xuất rồi biến mất tăm, ngọn núi đằng xa trải dài tít tắp. Phía sau núi nối liền với bầu trời xanh ngắt, còn phía trước núi là khoảng trắng xóa, song vì khoảng cách quá xa, nên nhìn là tuyết, hay là những đám mây đùn lại phía chân trời, chỉ cảm giác nơi đây gian ngợp mắt, toát ra vẻ thần bí khó hình dung được. được năm ngày, hết khu vực hoang nguyên, đương nhiên, vùng núi sắp sửa tiến vào còn hoang vu heo hút hơn cả vùng hoang nguyên chúng tôi vừa vượt qua. Trước cửa núi có cái hồ, trong hồ có rất nhiều chim nước cổ đen, có người kinh động mà chúng bỗng kết thành bầy lớn bay về phương Nam. Lũ chim này phải loài chim di cư theo mùa, chúng rời khỏi hồ, có thể do tuyết lở trong núi khiến chúng kinh hãi; còn nguyên nhân nữa, có thể là dấu hiệu trước của đợt rét ẩm sắp đến. Có tay cửu vạn mê tín rằng đây là tín hiệu mấy tốt lành, khuyên chúng tôi quay lại, song chúng tôi quyết ý , gì lay chuyển được. Tôi và hướng đạo Xư-chê bàn bạc với nhau chút, nơi đây so với mực nước biển rất cao, nếu tiếp tục leo lên núi, trong đoàn có người thể chịu được. Trong núi này, sông băng cổ nhiều đếm xuể, tuyết lại tích tụ lượng lớn, trong sơn cốc rất dễ khiến gây ra tuyết lở, song Xư-chê từ theo sư thầy vào núi Kelamer hái thuốc, hết sức thông thạo vùng này, biết ở chỗ nào là đất trũng, hố sâu, có thể qua an toàn, bèn bảo mọi người tạm thời ở cửa núi nghỉ ngơi lát, hai mươi phút sau dẫn đoàn vào "Tàng cốt câu" 1. Dọc đường Shirley Dương chỉ chăm chú chỉnh lý lại tư liệu truyền miệng của Thiết bổng Lạt ma, đồng thời tranh thủ phục chế tấm bản đổ Kinh Thánh của cha cố Bồ Đào Nha, cuối cùng cũng tìm ra được ít manh mối. Lúc này nghe bước tiếp theo qua "Tàng cốt câu" gì đó, liền hỏi Xư-chê, nơi ấy vì sao lại có tên là "Tàng cốt câu"? Cất giấu xương cốt của ai? Mạch núi này gọi là Kelamer, có nghĩa là gì? Xư-chê : "Tàng cốt câu có xương người hay . Sở dĩ gọi như thế bởi đó là nơi muông thú tự sát, hàng năm đều có vô số dê vàng, bò rừng, gấu ngựa Tây Tạng chạy tới đó tự sát. Xương thú hoang chất đầy đáy khe. Người cam đảm lắm cũng dám tới đó ban đêm. Còn tên Kelamer, có nghĩa là biển tai họa, còn vì sao lại đặt cho nơi ấy cái tên may mắn như vậy, dẫu là người du mục có chòm râu dài nhất chăng nữa, cũng thể biết đâu." Tôi và Shirley Dương nhìn nhau, đều định tìm câu trả lời từ nét mặt đối phương, song nàng cũng giống tôi, chẳng thể nào tưởng tượng ra chân tướng chứaa sau câu chuyện cổ xưa này. tượng động vật hoang dã kéo bầy kéo lũ tự sát tập thể cũng có ở nhiều nơi thế giới, nhiều nhất là sinh vật dưới biển, song xưa nay dường như chưa từng nghe thấy có chuyện đủ các loại động vật kéo đến nơi cùng tự sát. Vả lại ở nơi đất Tạng sùng bái núi cao hồ rộng này, sao lại lấy cái tên hề may mắn "vùng biển tai họa" để đặt tên cho vùng núi này cơ chứ? Những điều này quả thực có đôi chút khó hiểu. Xư-chê giải thích, truyền thuyết Tàng cốt câu được bô lão của bao nhiêu đời trước kể lại, mỗi khi mặt trăng tròn như cái chậu, các loài thú hoang trong núi ngước nhìn mặt trăng và nhảy từ cao xuông xuống khe núi ngã chết, lấy cái chết của chúng để làm nguôi cơn thịnh nộ của thần linh; còn có truyền thuyết khác kể thế này, phàm là những con vật nhảy xuống khe sâu mà chết, đều có thể thoát khỏi vòng súc sinh, đầu thai làm người. Truyện "Ma Thổi Đèn " Song cho đến nay, những người còn sống vẫn chưa ai thấy có con thú hoang nào nhảy xuống khe cả, cũng chẳng truyền thuyết xa xưa kia là hay giả, những ở Tàng cốt câu vẫn còn có thể thấy vô số xương cố thú hoang, đến đêm có lửa ma trơi lập lòe, hơn nữa địa hình nơi đây cũng khá phức tạp, nối liền với dòng sông băng cổ xưa ở Thần loa câu. Chỗ bốn ngọn núi tuyết vây quanh mà các vị muốn tìm, chính là ở sông băng trong Thần loa câu, tới đó, ước chừng phải hơn năm ngày đường nữa. Địa hình Thần loa câu phức tạp hiếm thấy, miền cao nguyên phía Bắc Tây Tạng này đất rộng người thưa, môi trường sống khắc nghiệt, các cùng lân cận quanh khu vực Kelamer dường như đều là khu vực người ở, phần lớn hiếm thấy dấu chân con người đặt tới. Bản thân Xư-chê cũng mới chỉ qua Thần loa câu hái thuốc, còn như vào sâu hơn nữa cũng chưa từng. Kelamer có nhiều núi tuyết và sông băng cổ, song có bốn ngọn núi tuyết vây quanh chỉ có sông băng ở Thần loa câu, việc mà Xư-chê có thể làm, cũng chỉ là dẫn chúng tôi tới chỗ ấy mà thôi. Đoàn thám hiểm nghỉ độ nửa tiếng ở cửa núi, sau đó tiếp tục hành trình. Những người thể lực kém, hô hấp khó khăn đều cưỡi lưng ngựa, Xư-chê đeo lại súng săn và dao găm Tây Tạng, rồi rút ra túi da đựng đầy rượu Thanh Khoa, tu ừng ực mấy ngụm, sau đó vung roi da lên trời phất liền ba phát, để báo với sơn thần, đoạn với mọi người: "Muốn vào Tàng cốt câu, phải vượt qua dốc Cả-chinh trước , thôi!" đoạn, tay lắc ống chuyển kinh, tay quất roi da, tiên phong dẫn đường vào núi. Đoàn người ngựa còn lại phía sau , rẽ nganh quẹo phải hồi, cuối cùng cũng tới dốc Cả-chinh, địa danh tuy có chữ dốc, song đem so với những núi cao vách đá cheo leo cũng hề thua kém là bao. Nơi đây mây mù giăng kín, đám đàn ông Khanh Ba bọn Xư-chê thấy làm sao, nhưng Minh Thúc dường như thể chịu đựng được nữa. Trước kia, những người ở nội địa lên đây, thích ứng được với phản ứng cao nguyên, ở này quá sáu mươi ngày là chết, bởi khí áp nơi đây khiến quả tim dần dần to ra, sau thời gian dài vượt qua ngưỡng chịu đựng của cơ thể, về sau tuy có thể thông qua các liệu pháp y học giảm tình trạng này, nhưng vẫn rất nguy hiểm. Trước đó, tôi cứ thấy là lạ, theo lý mà hạng người như lão Minh, tiền quá đủ tiêu, sao lại nỡ vác cái thân già vào núi Côn Luân, cố sống cố chết tìm cho ra cái Băng xuyên thủy tinh thi kia. Sau hỏi Hàn Thục Na mới biết, hóa ra sản nghiệp nay của lão này chỉ còn lại ngôi nhà ở Bắc Kinh và mấy món đồ cổ kia thôi, gia tài bị hai thằng quý tử ở Hồng Kông chơi bạc thua sạch rồi, lại còn ôm về món nợ lớn nữa. Lão muốn nhân lúc chân tay còn hoạt bát, làm thêm vụ lớn, bằng sau này chầu trời, hai thằng con trai và con nuôi của lão chắc phải ăn cá gỗ mất. Sau khi biết chuyện này, tôi cũng có đôi phần thông cảm với lão. Tôi lo tiếp tục lên cao nữa, có khi xảy ra chẳng lành với Minh Thúc và A Hương, liền chạy đuổi theo Xư-chê phía trước, hỏi xem phải bao xa nữa mới tới Tàng cốt câu. Xư-chê đột nhiên dừng bước, vẫy tôi, chỉ xéo xuống phía dưới, ra hiệu bảo tôi qua đó xem xem. Tôi nhìn theo hướng chỉ, đúng lúc đó làn gió núi thổi bạt những đụn mây phủ xung quanh, bên dưới lộ ra cái khe sâu hút, từ cao nhìn xuống chỉ thấy màn sương mênh mông, trải dài vô tận. Chưa việc từ này nhảy xuống, chỉ nhìn thôi, có cảm giác khiếp hãi, nếu mây mù đỉnh núi dày hơn nữa, người am thuộc địa hình nơi đây chắc chắn tiếp tục về phía trước, rồi hẫng chân ngã xuống khe sâu phía dưới kia tan xương nát thịt. Phía dưới chính là Tàng cốt câu, vị trí chúng tôi đứng là nơi vô số thú hoang nhảy xuống tự tử trong truyền thuyết, người bản địa gọi là Yểm thú đài. Xư-chê đưa túi da đựng rượu Thanh Khoa cho tôi, bảo tôi uống lấy vài ngụm, xua cái rét của gió núi , đoạn với tôi: "Từ giờ tôi gọi chú là Tu-chí được , tu-chí trong tiếng Tạng có nghĩa là Kim Cang dũng cảm, chỉ có những dũng sĩ chân chính mới dám đứng Yểm thú đài nhìn xuống Tàng cốt câu. Chú em Tu-chí này, chú cừ lắm đấy!" Tôi uống hai hụm rượu, há miệng cười với Xư-chê, nghĩ bụng ông chưa biết thôi, vừa nhìn xuống dưới kia, bụng dạ thằng em đây lộn tùng phèo lên rồi. Bây giờ phải đường vòng xuống dưới, vẫn có thể ra khỏi Tàng cốt câu trước khi trời tối. Chúng tôi định xua đàn bò Yak, gió lại nổi lên, những đám mây dày hơn đỉnh đầu từ từ dạt ra, ngọn núi tuyết sừng sững cao ngất xuất giữa biển mây bát ngát. Ngọn núi tuyết màu bạc như ở trời này, gần tới mức cơ hồ có thể chạm tay được, chẳng trách người dân bản địa rằng: "Lên tới dốc Cả-chinh, vươn tay tóm trời cao." Xư-chê và năm người cửu vạn đều nhìn quen, còn đám người từ nội địa đến ít khi thấy núi tuyết chúng tôi đều đứng ngây ra nhìn, bồi hồi lúc, cho tới mãi khi dải mây khác trôi tới che khuất ngọn núi tuyết mới dùng dằng bước , vừa vừa ngoái cổ lại nhìn. Đứng trước lối vào Tàng cốt câu, tôi xem lại đồng hồ. Do tính toán tốc độ chuẩn, nên giờ kịp băng qua khe sâu này trước khi trời tối. Xem chừng chỉ còn cách dựng trại qua đêm ở ngoài khe, đợi sáng sớm hôm sau hẵng khởi hành. Song lối vào Tàng cốt câu cũng cao bốn nghìn năm trăm mét so với mặt nước biển, ban nãy khi qua dốc Cả-chinh, số người thể lực kém có phản ứng cao nguyên rất mạnh, uống thuốc rồi mà cũng đỡ hơn là bao, buộc phải tìm nơi nào đó thấp hơn để họ nghỉ đêm, nên chỉ còn cách tiến vào Tàng cốt câu thôi. Xư-chê , những chuyện kiểu như ở đây có thú hoang tự sát hay có ma đều là truyền thuyết từ xa xưa rồi, thực tôi cũng tin, nhưng chúng ta tiến vào khe này khi trời tối vẫn nguy hiểm đấy. Nơi đây tuy lo tuyết lở, song vách núi hai bên đều có những tảng đá lỏng lẻo, dù chỉ viên rơi xuống, đầu có đội nồi sắt cũng bị xuyên thủng, đó là chuyện; thứ hai là trong đâu từng có hàng ngàn hàng vạn dã thú chết , xương trắng chồng chất, lân tinh lập lòe, bò Yak và ngựa dễ bị kinh sợ. Cái giống bò Yak này, tuy thường ngày trông có vẻ thà đôn hậu, song chúng mà điên lên, ở nơi chật hẹp như Tàng cốt câu này, cả bọn bị chúng giẫm chết hết đó. Tôi trông nhà Minh Thúc ba người nằm sấp lưng ngựa, cảm thấy hơi khó xử, cuối cùng vẫn là Shirley Dương nghĩ ra được giải pháp dung hòa, để cho bò Yak ở phía trước, người ngựa ở phía sau. Trong Tàng cốt câu có ít cây khô, dựng trại phía sau cây bớt nguy hiểm, sau đó mấy người lại thảo luận tiếp số chi tiết khác, cuối cùng quyết định tiến vào khe sâu dựng trại. Sau khi tiến vào Tàng cốt câu cao chưa đến ba nghìn mét so với mặt nước biển, những người hô hấp khó khăn cuối cùng cũng có cơ hội thở đều. Ở đây sở dĩ gọi là "khe" chứ phải "thung lũng" là bởi địa hình quá chật hẹp, hai bên đều là vách núi thẳng đứng như dùng dao dùng rìu cắt phạt, ngẩng đầu ngước nhìn lên , chỉ thấy bầu trời như sợi chỉ dài. Trong khi núi, đâu đâu cũng thấy cỏ mọc tùm lum, đá nhô lởm chởm, xem trong đó quả nhiên có vô số xương tàn, đa số là sừng trâu và sừng dê, những thứ này dẫu trăm ngàn năm cũng thể mục được. Nghe môi trường bên Thần loa câu thông với nơi này lại hoàn toàn giống ở đây. Ở đó rừng nguyên sinh rậm rạp, thực vật quý hiếm sinh sôi, đặc biệt trong núi có rất nhiều cây thuốc, cho nên còn có cái tên là Dược Sơn. chừng phần tư quãng đường, màn đêm bắt đầu buông xuống, nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm ra nơi thích hợp để dựng trại, lũ bò Yak bắt đầu bực bội. Để an toàn, chúng tôi đành tìm đến nơi có mấy cây khô tập trung gần đấy rồi dừng lại dựng lều, đun nước nấu cơm. Mọi người ngồi quay bên đống lửa ăn cơm nhắm rượu. Xư-chê hứng chí kể cho cả đoàn nghe câu chuyện dân gian Tây Tạng. Tôi ăn vội vài miếng, rồi rời khỏi chỗ lửa trại, mình ngồi ở gốc cây cách đấy xa hút thuốc. Hút chưa được hai hơi, bị Shirley Dương tới giật và giẫm tắt: "Hút thuốc cao nguyên rất nguy hiểm đến sức khỏe, cho hút nữa. Tôi có việc cần tìm bàn bạc đây!" Tôi vốn định với Shirley Dương là sao cứ cướp giật y như bọn phát xít vậy, nhừng liền dập tắt ý nghĩ đó, bởi từ khi tiến vào Tang cốt câu, tôi có cảm giác rất kỳ lạ. Nhất định Shirley Dương cũng thấy có vết tích nào đó bất bình thường, cho nên mới tới tìm tôi bàn bạc. Việc này can hệ đến an toàn và tính mạng của mọi người, tốt nhất là đùa cợt, vào việc chính quan trọng hơn. Truyện "Ma Thổi Đèn " Quả nhiên Shirley Dương đến tìm tôi vì việc này. Chính là số lượng lớn hài cốt của thú hoang trong khe sâu khiến chú ý. Những chiếc sừng trâu, sừng dê cho đến xương sọ gấu vỡ vụn, trông ra niên đại cách nay gần nhất cũng đến hai ba trăm năm, nếu quả đúng như trong truyền thuyết, vậy vì sao những năm gần đây còn có thú hoang nhảy xuống khe này tự sát nữa. Tôi ngẫm nghĩ lúc rồi mới , truyền thuyết từ thời xưa, có thể chỉ giữ được cái bóng của chân tướng thôi, thể coi là việc có được. Những con thú hoang nhảy vách xuống tìm cái chết, có thể bị bầy soi bao vây, cũng có thể vì bị yếu tố tự nhiên nào đó cám dỗ. Những việc đó tuy thể lý giải, song quả thực là có tồn tại thế giới này, có điều tôi nghĩ chắc nó xảy ra ở đây. Nửa cuốn tàn thư ông nội tôi để lại cho tôi là sách do cao thủ Mô kim cuối đời Thanh viết ra, bên trong cũng lại có đoạn nhắc tới bố cục kết cấu của lầu ma chín tầng ở Tây Tạng. Có lẽ trong những năm tháng trước đây, cũng từng có Mô kim Hiệu úy đổ đấu lầu ma chín tầng rồi. Loại mộ táng dưới hình thức tháp ma này, chắc chắn có hai rãnh tuẫn táng hình con rồng có quy mô như nhau. Tàng cốt câu mà chúng ta ở bên trong đây có lẽ chính là trong hai rãnh đó, dư nghiệt Luân Hồi tông của Ma quốc, có thể từng là nơi diễn ra những lễ tế bí mật hiếm người biết đến. Tôi đá nửa khúc cây khô có hình đầu người mặt quỷ ba mắt hết sức mờ nhạt ở cạnh chân. Ít nhất nó cũng là thứ có mấy trăm năm tuổi, sắp phong hóa hết rồi. Từ lúc vào Tàng cốt câu, tôi thấy mấy chỗ có ký totem kiểu thế này, đây có thể coi là tin vui đối với chúng tôi, chứng tỏ khoảng cách từ chỗ chúng tôi hạ trại cho tới Phượng hoàng thần cung còn xa nữa. Tôi cùng Shirley Dương tìm hiểm bố cục của rãnh cúng tế này và vị trí cảu tháp ma, bỗng có tiếng hô thất thanh của đám người ngồi vây bên đống lửa vọng đến, nghe có vẻ hết sức hoảng hốt và hỗn loạn. Tôi vội quay đầu lại nhìn, cảnh tượng trước mắt khiến người ta dám tin là , trong ánh trăng mờ ảo, con gấu ngựa Tây Tạng thân hình to lớn vô cùng, nhe răng giơ vuốt nhảy từ độ cao hơn nghìn mét xuống. -------------------------------- 1 Tức "khe hẻm giấu xương cốt"
Q.4 - Chương 12: HOẢNG HỐT Gấu ngựa Tây Tạng có hơi khác so với gấu thường, so mặt mũi chúng có đôi phần giống mặt ngựa, nhìn rất xấu xí hung dữ, nên mới có tên gọi như vậy. Con gấu ngựa rơi từ phía đỉnh đầu chúng tôi xuống khua khoắng móng vuốt dưới ánh trăng, lộn nhào đụng vào tảng đá nhô ra vách núi. Tàng cốt câu vốn là khe nứt ra từ dốc Cả-chinh, vách núi hai bên chật hẹp lại dốc đứng, khiến con gấu ngựa đụng vào tảng đá bên này bị hất chếch , văng xuống lùm cây gai cằn cỗi mọc vách núi bên kia. Sức rơi của vật nặng nghìn cân mạnh phải biết, lập tức khiến bụi cây khô gãy gục, con gấu bị cành cây chọc thủng lỗ lớn ở bụng, còn chưa rơi xuống đất mà ruột lòi ra, uỳnh uỵch lăn tiếp, cuốn theo ít đá vụn và cành khô. Người ngồi phía dưới đều ngây ra kinh hãi, quên mất phải né tránh. Trong khoảnh khắc đứng tim ấy, may có người chợt hét lớn: "Mau nấp ra phía sau! Áp sát lưng vào vách núi, chớ cử động!" Tuyền béo, Xư-chê và Peter Hoàng mới giật mình nhớ ra, vội kéo ba người nhà Minh Thúc và đám cửu vạn chân tay mềm oặt vì run sợ, nháo nhào chạy ra phía sau cây cổ thụ bên rìa vách núi náu mình. Gần như cùng lúc, con gấu ngựa cũng đập mình xuống đáy khe. Tôi với Shirley Dương ngồi cách đó khá xa mà vẫn cảm thấy luồng gió thổi thốc vào mặt. con gấu thân thể nặng nề giống như quả bom tấn, làm mặt đất xung quanh rung chuyển mấy chập. Quay lại nhìn, thấy nó nát bét, biến thành mớ máu thịt hỗn độn. Tiếp đó, từ cao đá vụn lở lại trút xuống ào ào, sức mạnh đúng như a Xư-chê miêu tả, viên đá từ độ cao nghìn mét lao xuống, dù chỉ bé bằng cái móng tay, cũng đủ để đập chết người. Mọi người nép chặt vào vách núi phía sau mấy câu cổ thụ, dám cựa quậy, cũng hết chỗ tránh rồi, chỉ còn biết cầu xin Bồ Tát phù hộ mà thôi. May là chỗ con gấu ngựa nhảy xuống tự sát cách chúng tôi khá xa, có ai thương vong. Tất cẩ đều biết rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, lẽ nào truyền thuyết xa xưa thành ? Hay phương thức tế lễ kia lại được khôi phục? Nhưng Luân Hồi tông diệt vong mấy trăm năm trước, đâu còn tồn tại đời nữa, con gấu ngựa Tây Tạng này... Truyện "Ma Thổi Đèn " Đá vụn cao rơi xuống thưa dần, may là đàn bò Yak và ngựa đều kinh hãi bỏ chạy, mà trái lại đều tròn mắt ngây ra. Đúng lúc chúng tôi tưởng mọi chuyện kết thúc, Tuyền béo lại bất ngờ chỉ tay lên cao : "Ối mẹ ơi, đội cảm tử quân... lại tới rồi!" Tôi còn chưa kịp ngẩng đầu lên nhìn, lại có con thú hoang rơi sập xuống, chiếc sừng cắm phập vào lưng con ngựa của chúng tôi với đà lao khủng khiếp. Con ngựa lập tức gẫy xương gục chết. Định thần lại mới nhìn , vừa rơi xuống chết chính là con dê núi Côn Luân sừng dài cổ trắng. Sau đó lại liên tiếp có mười mấy con dê khác từ đỉnh khe lao xuống, khiến lũ ngựa nhất loạn kinh hoảng, bắt đầu có mấy con hí vang, giật đứt dây thừng nhốn nháo phi qua đám bò Yak, men theo dài khe ngoằn ngoèo, điên cuồng lao về phía trước. Lũ bò Yak phản ứng chậm chạp hơn cũng nổi điên, hùng hục chạy theo đám ngựa lồng. Tiếng vó ngựa vó bò lộp cộp, cùng tiếng rống hỗn loạn mỗi lúc xa trong khe sâu hun hút, chỉ còn vọng lại những thành rầm rập trầm đục. Đám Xư-chê vốn định ăn cơm uống rượu xong mới dỡ hành lý xuống, thành ra đồ đạc thiết bị vẫn còn nằm cả lưng bò, mà quan trọng nhất chính là nước gừng tươi. có nước gừng thể đục băng được. Mặc dù chúng tôi có thuốc nổ để phòng xa, nhưng dùng thuốc nổ sông bằng có khác nào tự tìm đến cái chết. Ngoài ra đối với người Tây Tạng, bò Yak rất quý. Nhà Xư-chê thuộc hàng khá giả trong vùng mà bất quá cũng chỉ có ba con bò Yak và hơn hai mươi con dê; lúc mất cả mười mấy con bò, tổn thất vô cùng lớn. Chúng tôi thấy bên còn thú hoang nhảy xuống nữa, bèn bất chấp nguy hiểm, chia làm hai đội, tôi và Xư-chê, cộng thêm Tuyền béo, nắm chắc vũ khí, lập tức xuất phát đuổi theo đàn bò phía trước, những người còn lại thu dọn hành trang, rồi theo sau. Chúng tôi men theo Tàng cốt câu khúc khuỷu tiến về phía trước, dưới đất lổn nhổn dấu chân bò ngựa giẫm đạp giày xéo, lẫn lỗn ít xương khô vùi lấp trong bùn đất bị hất tung lên. Những mảnh xương mục ruỗng từ lâu, thi thoảng lại phát ra ánh lân quang như ngọn lửa ma trơi. khó tưởng tưởng ra cảnh đem rùng rợn xa xưa trong khe này với xương trắng chồng chất khắp nơi và ánh lửa ma trơi lập lòe. Hai bên khe cỏ dại mọc um tùm cao quá nửa thân người, lác đác lẫn với cây khô và dây leo, quanh cảnh quả hết sức tiêu điều lạnh lẽo. Chúng tôi rượt đuổi chặng khá xa, xung quanh có động tĩnh gì, nghe có tiếng vó bò vó ngựa, cũng thấy ánh đèn của người phía sau, đành dừng lại nghỉ. Xư-chê rút túi da đựng rượu ra, ba người lần lượt uống mấy ngụm lớn cho thêm phần can đảm, Tuyền béo lại rít hơi thuốc phả ra vòng khói. Tôi hỏi Xư-chê xem chuyện con gấu ngựa và lũ dê sừng dài nhảy xuống khe tự sát là thế nào, bao năm nay có xảy ra đâu, sao lại xảy ra vào đúng lúc chúng ta tới. Xư-chê lắc đầu: "Tôi cũng gần mười năm nay tới đây rồi, người khác lại càng . Trước kia ngoài nghe kể những truyền thuyết xa xưa, quả thực chưa ai tận mắt chứng kiến, vì sao chúng ta với tới lại đột nhiên bắt gặp việc quái đản này." Ba người chúng tôi bàn bạc hồi lâu, rồi lại theo khe núi tới tìm đàn bò Yak và ngựa. Chúng tôi cũng biết trong thời gian ngắn thể đuổi kịp nữa, lại e cách đoàn người phía sau quá xa, vạn nhất có biến gì kịp tiếp ứng nên đành chậm lại. Phía trước mặt mỗi lúc um tùm rập rạp, Xư-chê đột nhiên dừng lại, cảnh giác chỉ tay vào lùm cỏ dại bên đường. mùi rất lạ bốc lên, từa tựa mùi xác rữa lẫn mùi thú rừng hôi hám, tanh sặc sụa. Tuyền béo vác súng trường thể thao, tôi cầm khẩu Remington, trong tay Xư-chê là cây súng săn vẫn quen dùng, đều sẵn sang vào tư thế chiến đấu, chuẩn bị vạch cỏ dại ra xem bên trong có gì. Còn chưa đợi chúng tôi áp sát, từ lùm cỏ đột nhiên vọt ra con sói cái, từ cao vồ xuống, định đánh cú bất ngờ, động tác vừa nhanh vừa mạnh mẽ. Xư-chê đầu động tác còn nhanh hơn, cần nổ súng, rút ngay con dao Tây Tạng ra chém "xoẹt" phát, bổ thẳng giữa mũi con sói cái, xẻ toác đôi đầu nó ra. Con sói chết ngay tại trận. Tôi và Tuyền béo đều tấm tắc khen ngợi đao pháp tuyệt, vừa nhanh lại vừa chuẩn. Xư-chê cười ha hả , năm xưa tôi là đội trưởng đội diệt sói của làng Kelamer, phải tự nhiên có được cái chức đấy đâu, con sói này định đánh úp chúng ta, hôm nay cho nó xúi quẩy. Đanh thao thao bất tuyệt bỗng Xư-chê dừng chuyện, giương súng lên, xem ra vẫn chưa hết sói phía sau lùm cỏ. Chúng tôi cùng chĩa súng gạt cỏ dại um tùm ra, chỉ thấy vách núi lộ ra của hang lớn, bên trong lúc nhúc lũ lông lá. Ánh trăng mờ ảo soi vào, ra là ổ sói con sợ hãi co rúm lại với nhau. Có thể con sói mẹ hồi nãy bị đàn bò Yak lồng lên làm cho kinh hãi, lại thấy người qua, mới lao ra định sát thương con người để bảo vệ đàn con. Xư-chê xưa nay luôn kè kè bịch rượu, giờ này ngà ngà hơi men, máu sát sinh bốc lên, liền rút con dao Tây Tạng định chui vào trong hang đâm chết hết lũ sói con kia. Tuyền béo ban nãy khi con sói mẹ bất ngờ đánh úp vốn chưa kịp thể gì, vội chạy lên trước, ngăn Xư-chê: "Giết gà cần gì dao mổ trâu chứ. Xử lý lũ sói con này đâu cần phải tốn sức thế? Các vị cứ xem béo tôi đây!" rồi moi trong ngực áo ra túm chập ba kíp mìn, lấy điếu thuốc ngậm mồm châm lửa, vung tay ném vào hang. Chúng tôi vội tránh sang bên, mấy giây sau nghe nổ ầm trong hang, khói bốc ra ngùn ngụt. Đợi khói tan hết, chúng tôi nhảy vào hàng càn quét trận cuối cùng, con sói nào chưa chết bồi thêm nhát dao cho chết hẳn, kế đó mới để ý quan sát lòng hang rộng phát choáng, la liệt mảnh đồ đồng. Xem ra đây chính là nơi hành lễ bí mật trong Tàng cốt câu, nhưng vì sau này bị bầy sói chiếm cứ, thành ra rất nhiều dấu vết và vật dụng bị phá hủy cả, cách nào nhận ra được nữa. Ngoài ra, trong hang còn có rất nhiều xương động vật, số còn mới, bị gặm nham nhở, chứng tỏ bọn sói dựa vào địa hình đặc biệt trong Tàng cốt câu này để sinh tồn. Do quen rượt đuổi săn mồi cao nguyên, chúng nghĩ ra cách dồn con mồi chạy tới đỉnh dốc Cả-chinh. Ở đây, nếu biết trước, đứng từ xa rất khó phát ra dốc núi có rãnh sâu, lao tới đó có muốn dừng lại cũng muộn rồi. Bầy sói từ vùng thảo nguyên bị đuổi về vùng núi này, cơ bản là sa vào bước đường cùng, ngờ lại biết lợi dùng nơi tế lễ cổ xưa kia để sống sót. Ra khỏi hang sói, Tuyền béo và Xư-chê cao hứng bàn luận hết sức sôi nổi. Có lẽ khi lũ sói đói dồn bầy dê sừng dài lên núi, con gấu ngựa xấu số lẩm cẩm thế nào bị cuốn theo thôi, chứ con gấu to vật đó mà lâm vào bước đường cùng, nổi điên lên mười mấy con sói đói chưa chắc làm gì được nó. Nhưng đấy là khi cùng đường mạt lộ thôi, còn bình thường e là nó cũng muốn tránh bầy sói, chẳng qua hôm nay gặp vận xúi quẩy mới rơi xuống khe sâu, thân mình giập nát thành nhân bánh thịt gấu. Tôi cũng định chõ mồm góp chuyện vài câu, nhưng sực nghĩ biết cả đàn sói vây đuổi thú rừng dốc Cả-chinh này có bao nhiêu con, sợ là nhất định sắp từ phía sau quành về Tàng côt câu rồi. Vì theo lời Xư-chê, phía trước Tàng cốt câu liền với sông băng cổ Thần loa câu, địa hình dốc đứng, chỉ duy nhất có thể vào theo đường này, nên để quay về tha lũ dê ngã chết đàn sói thể đến từ hướng trước mặt chúng tôi được. Lũ bò Yak và ngựa ở phía trước vậy là bị bầy sói tập kích, song đám người phía sau chúng tôi có chuẩn bị gì. Tôi từng đương đầu với sói dữ Tây Tạng, cái ngữ ấy xuất quỷ nhập thần, quả thực hết sức giảo hoạt, nếu bọn Minh Thúc mà bị chúng đánh lén, khó đảm bảo có thương vong. Tôi suy nghĩ này với Tuyền béo và Xư-chê, cả ba lập tức quyết định quay lại. Suy cho cùng mạng người là quan trọng, tạm thời mặc xác lũ bò Yak kia vậy. Tuy nhiên mới được đoạn liền thông thấy ánh đèn thấp thoáng, ra hội Shirley Dương đuổi kịp chúng tôi. Bọn họ từ xa nghe tiếng nổ, tưởng chúng tôi gặp phải nguy hiểm gì, nên vội chạy tới tiếp ứng. Tôi thấy cả hai nhóm tập hợp lại chỗ, bấy giờ mới yên tâm. Nhưng Xư-chê đột nhiên lại giương súng, ra là có mấy con sói dữ xuất . Chúng dừng lại ở khoảng cách nằm ngoài tầm súng, tiến lên nữa. Trong bóng đêm, chỉ thấp thoáng thấy đôi mắt xanh lè và những cái bóng lờ mờ. Những người có vũ khí đều lăm lăm súng, chuẩn bị bắn. Tôi vội ngăn lại: "Bọn sói thăm dò hỏa lực đấy. Chúng ta chỉ có hai cây súng trường có thể bắn mục tiêu ở cự ly xa, hẵng khoan nổ súng vội, đợi chúng tiến sát lại gần rồi cùng lia cho loạt hơn!" Dù sao chúng tôi cũng khá đông, súng ống lại nhiều, cứ cho là lũ soi quanh vùng này có tập hợp hết lại, bất quá cũng chỉ mấy mươi con, chỉ cần sớm đề phòng cũng cần phải sợ chúng. Đúng lúc ấy, đằng xa đột nhiên nổi lên cái bóng trắng, lông tóc lất phất trong gió đêm. Tôi sững người, lập tức nhớ đến cái đem ở ngôi miếu nát trong chùa Đại Phượng Hoàng, cảnh tưởng ác chiến với bầy sói vẫn còn sờ sờ trước mắt, tựa như mới xảy ra ngày hôm qua. Mẹ kiếp, phải oan gia đối đầu thế này. Vậy là cách đúng mười năm, ở chốn sâu trong núi Côn Luân giáp ranh giữa ba vùng Tây Tạng, Thanh Hải, Tân Cương này, lại gặp phải con sói chúa lông trắng, ngờ nó vẫn còn sống. Vừa nãy chúng tôi giết bao nhiêu sói con như thế, hận thù đôi bên ắt hẳn càng thêm sâu sắc. Tôi khẽ hỏi Tuyền bèo: "Cậu nổ súng từ khoảng cách này liệu có chắc ăn ? Giết giặc trước hết phải nhắm tướng mà diệt, cậu bắn chết con sói chúa, những con còn lại thể uy hiếp chúng ta được. Tốt nhất làm sao nổ được phát khử nó luôn ấy." Tuyền béo cười đáp: "Chuyện vặt! Tư lệnh Nhất đợi lột lấy tấm da lông trắng nhé!" v ừa dứt lời liền giương cây súng trường trong tay ngắm chuẩn, ngón tay đặt sẵn sàng lên cò súng. Tôi khấp khởi mừng thầm, phen này nếu trừ khử được nó tại đây, cũng coi như trị khỏi được khối tâm bệnh của tôi. Nhưng đúng lúc Tuyền béo rê súng theo mục tiêu, chuẩn bị bóp cò, con sói trắng kịp lánh vào góc chết của đường đạn, cả bầy sói cũng theo đó lẩn mất trong bóng tối. Tuyền béo tức tối chửi đổng tiếng, đành hạ súng xuống. Lũ sói biết nếu lao từ trong cái khe chật hẹp kia ra chắc chắn dính đạn, nên lẳng lặng rút lui. Nhưng tôi biết tỏng bọn chúng cực kỳ căm hận, bỏ lúc này chỉ là tạm thời tránh mà thôi, nhất định vẫn luôn rình rập chờ cơ hội để tấn công chút do dự. Chúng tôi có muốn cũng truy đuổi được, cả đoàn đành tiếp tục tiến lên, trước mắt phải lo tìm lũ bò ngựa chạy mất hút . Lòng vòng trong Tàng cốt câu mãi, ai nấy mệt mỏi rã rời, cuối cùng cũng tìm thấy lũ bò Yak gặm cỏ dốc núi bên cửa khe. Xư-chê và năm gã cửu vạn thấy đàn bò Yak bình yên vô mừng phát điên, quên cả mệt nhọc, vội vội vàng vàng chạy thẳng lên sườn núi, bọn tôi từ từ phía sau. Bất chợt cả đám đều sững người, cảnh tượng trước mắt e là còn ly kỳ hơn cả lúc con gấu ngựa rơi uỳnh uỵch từ trời xuống, sáu người nằm bên cạnh đàn bò chính là hội Xư-chê. Bọn họ dường như kinh hãi quá độ, nên đều ngã lăn cả ra đất, toàn thân run lẩy bẩy. Người khác đành, còn tay cứng cỏi vung dao chém sói chẳng chút cau mày như Xư-chê làm sao phải kinh sợ đến mức ấy được? Trông thế nằm của bọn phải ngã xiên xẹo loạn xà ngầu, mà cùng châu đầu về hướng, úp mặt sát đất, toàn thân run lẩy bẩy, tôi càng cảm thấy kỳ lạ, lẽ nào phải vì sợ hãi quá độ mà dang sụp lại ai đó? Có điều từ lúc mấy người này phăm phăm chạy lên sườn núi đến giờ bất quá cũng chưa tới phút, thoắt cái như vậy, có thể xảy ra chuyện gì kia chứ? Tôi vừa tới vừa nghĩ mông lung, cảm thấy vô cùng khó hiểu, vừa kịp bước ra khỏi khe sâu chật hẹp. Chỉ thấy bầu trời phía Bắc lóe lên hai quầng sáng trắng mờ ảo, lấp lánh rung rinh. Quầng sáng kỳ dị viền khít lấy đỉnh núi tuyết sáng bạc, ánh sáng thần thánh tựa hai vầng nhật nguyệt lồng vào nhau cùng rọi khắp bầu trời. Đây hẳn là ánh Phật quang nghìn năm mới xuất lần núi ngọc ở Côn Luân chỉ ai có cơ duyên mới được gặp mà tôi từng nghe đến từ rất lâu rồi. Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi choáng ngợp trước cảnh tượng thần thánh này, nên tuy phải là người theo đạo Phật, cũng muốn lập tức quỳ xuống tham bái. Lúc những người ở phía sau lục đục lên tới nơi, còn chưa kịp nhìn cho , ánh sáng thần kỳ lẩn mất vào màn đêm, thành ra bọn Minh Thúc chỉ được thoáng thấy tẹo, cứ đấm ngực giậm chân tiếc rẻ vì lên kịp. Shirley Dương cũng có thoáng thấy, liền bảo với mọi người chớ tiếc nuối làm gì, phải là Phật quang nghìn năm mới xuất lần đâu, chỉ là tượng phóng điện đồng bộ xảy ra trong tầng mây, là do mây dưới núi tuyết quá dày, ban đêm dễ xảy ra tượng đó, chứ Phật quang nghìn năm mới xuất lần làm gì gặp dễ dàng như vậy được. Nhưng hội Xư-chê vẫn đinh ninh đó là ánh Phật quang thần thánh, cứ hễ trông thấy là được cát tường như ý. Xư-chê bảo chúng tôi, ở Kelamer rất hay thấy những ánh Phật quang thế này, còn đúng là ánh Phật quang rực rỡ ngàn năm mới xuất phải ở núi tuyết Kawaboge Vân Nam, quê nhà xa xôi của mới có. Nghe ánh Phật quang đó từng xuất trong có mấy giây cách đây cả nghìn năm về trước, và được vẽ trong bức Thập tướng tự tại đồ 1 còn lưu truyền đến giờ. Có vị Phật sống tiên đoán rằng, tượng này xuất trong mười năm sắp tới đây, khi ấy rất đông tín đồ chẳng quản vạn dặm xa xôi nườm nượp tìm tới chân núi chầu bái. Riêng đám cửu vạn, vừa nãy được sụp lạy Phâth quang, giờ đều tỏ ra phấn khích, hoan hỉ hết sức, tíu tít chạy dồn bò ngựa, kiểm lại trang thiết bị, may cũng tổn thất mấy, xong xuôi cả đoàn lại tiếp. Đến lúc trời sáng tìm được chỗ tương đối bằng phẳng ở sườn núi để dựng trại, nghỉ ngơi ngày đêm cho hồi phục tinh thần khí lực, chuẩn bị tiến vào sông băng Thần loa câu. Lũ sói dữ kia mãi chẳng thấy tăm hơi đâu, những e là vẫn lảng vảng theo dõi, cho nên chúng tôi giây cũng được lơi là khinh suất, nhất là khi sắp sửa tiến vào nơi nguy hiểm và thần bí bội phần, Thần loa câu. Sông băng cổ trong Thần loa câu có độ cao tương đối lớn so với mực nước biển độc nhất vô nhị thế giới, nơi thấp nhất chỉ có hai nghìn tám trăm mét. Dòng sông băng len lỏi giữa hai ngọn núi tuyết lớn, khu vực hạ lưu ăn sâu chừng vài cây số vào vùng rừng nguyên sinh rậm rạp, cây cối cao chọc trời, kỳ hoa dị thảo nhiều vô số kể, có thể là cả nguồn tài nguyên động thực vật phong phúc của dải núi cao hàn đới. Tiến vào khu rừng rập ở Thần loa câu tình trạng thiếu ô xy cao nguyên là chuyện phải lo, những cũng vì thế hết khó khăn. Nơi nay căn bản có đường , bò Yak và ngựa theo sông băng xuống được, lại còn có đoạn phải vượt qua dốc băng lớn nữa. Xem ra chỉ có cách dựng trại ở đây, dự tính ban đầu chỉ để hai tay cửu vạn ở lại trông nom, những người còn lại vác vật dụng tiến vào sông băng, nhưng do vẫn còn mối lo bị sói dữ tấn công, nên đành tăng số người ở lại trông coi lên, bằng chẳng có cách nào bảo vệ được lều trại và bò ngựa. Tôi cũng định để hội Xư-chê vào núi, vì trước mắt còn chưa biết đối mặt với những nguy hiểm gì, quả thực muốn liên lụy đến người khác. Nhưng sau khi được chiêm ngưỡng ánh Phật quang, đức tin càng được củng cố, ta cứ nhất mực muốn theo giúp sức, cho rằng khai quật lầu ma của Ma quốc là việc tích góp công đức, nếu như thành công, thôi định đưa thằng út ở nhà vào chùa làm lạt ma tu hành nữa. Chúng tôi bàn bạc hồi lâu, cuối cùng đành bảo năm người cửu vạn ở lại trông nom bò ngựa. Bọn họ ai cũng có súng săn, và đều là những tay bắn sói cừ khôi. Ngoài ra chúng tôi còn để lại cho họ thêm ít kíp thuốc nổ. Tám người còn lại lập thành đội, mặc quần áo lặn ở trong, khoác áo leo núi ra ngoài, đội mũ léo núi, phân chia vũ khí đạn dược. Hai cây súng trường thể thao giao cho Tuyền béo và Shirley Dương. Tôi và Peter Hoàng dùng súng Remington, Xư-chê dùng súng săn. Ngoại trừ A Hương, mỗi người còn nhận khẩu M1911, đeo thêm các thiết bị thiết yếu, sửa soạn xong là xuất phát ngay. Cửa sông băng Thần loa câu, người bản địa gọi là dốc băng lớn, lúc xuống rất dễ, chủ yếu là những đoạn dốc khoảng bốn mươi đến sáu mươi độ, cứ bám dây thừng, như đứng cầu trượt trượt xuống là được, có điều quay lên e là tốn ít sức lực. Xư-chê đưa chúng tôi đến chỗ xuống dốc dễ nhất. Dốc băng lớn trông thoai thoải phẳng lì, nhưng bên dưới có rất nhiều kẽ và hố, vô ý xui xẻo giẫm vỡ lớp băng mỏng ở bề mặt rơi xuống là chết toi. Chỉ có vùng hẹp mà năm xưa an Xư-chê theo các nhà sư vào Thần loa câu hái thuốc phát ra là tương đối an toàn. Chúng tôi thả ba sợi dây cáp dài xuống dốc băng. Xư-chê dẫn đầu trượt xuống, mọi người lần lượt theo sau, rất nhanh chóng xuống được Thần loa câu bên dưới dốc băng cách thuận lợi. Tôi giương ống nhòm quan sát xung quanh, chỉ thấy núi rừng bạt ngàn, mênh mông vô tận. Dải sông băng này chắc chuộc loại hình phức hợp, gồm dòng chính là sông băng cổ, cộng thêm các dòng mới hình thành về sau do tuyết lở ở những thời kỳ khác nhau. Toàn bộ dải sông băng có rừng rậm bao bọc, phân cách, hang băng, rãnh băng, khe băng cho đến thác băng ở đây nhiều vô số kể, trong khoảng rừng có độ cao so với mực nước biển thấp hơn nữa, băng tan chảy thành suối, có trời mới biết tháp ma được chôn ở đâu. Tuy phải khắp nơi đều dễ có tuyết lở nguy hiểm, nhưng dù sao cũng thể gây tiếng động quá lớn, làm kinh động sơn thần núi tuyết, Xư-chê nhắc mọi người nên khóa hết chốt an toàn của vũ khí, tuyệt tối ai được phép nổ súng, nếu có thú rừng tấn công, chúng ta dùng vũ khí lạnh mà đối phó. Chúng tôi theo sông băng tiến vào rừng, vừa vừa quan sát địa hình. Mãi vài trăm năm về trước, Luân Hồi tông còn thường xuyên phái người tới đây cử hành tế lễ, có lẽ vẫn còn dấu tích. Theo cuốn kinh mật truyền của Luân Hồi tông, điểm tế lễ có lẽ nằm ở nơi có bốn ngọn núi tuyết chầu quanh, chính là Phượng hoàng thần cung mà phong thủy Mật tông nhắc đến. Chúng tôi trong rừng được hai hôm, hôm nay vẫn cứ thế tiếp. Dọc đường Xư-chê kể cho mọi người nghe truyền thuyết về Thần loa câu, và những chuyện gặp phải năm xưa khi tới đây hái thuốc. Theo truyền thuyết của nhà Phật, thuở xưa nơi đây vốn là vũng biển ăn sâu vào đất liền, dưới đáy có con ốc khổng lồ thành tinh, có phép thần thông, khiến bao sinh linh phải chịu cảnh lầm than, mãi đến khi Phật tổ dùng Phật pháp đội đáy biển thành núi cao, mới có thể hàng phục được nó. Con tinh ốc biển bằng lòng quy y cửa Phật, cuối cùng trở thành vị hộ pháp thần, cái bỏ trút lại của nó chính là sông băng Thần loa câu này. Truyền thuyết này được ghi chép trong bất kỳ kinh thư nào, có thể chỉ chuyện bịa đặt của cổ nhân, nhưng tính chất rất giống các truyền thuyết Phật giáo khác. Đạo Phật là tôn giáo bao dung nhất, bất kể là nghiệt ác ma gì, chỉ cần buông lưỡi dao sát sinh, lập tức có thể thành Phật, cho nên các truyền thuyết trong kinh Phật kể rất nhiều chuyện thu nạp ma quỷ làm hộ pháp thần. Vẫn chuyện trò, trước mặt xuất thác băng lớn, Xư-chê làm hiệu bảo dừng lại, chỉ tay : "Cái mỏm băng phía trước, nằm dưới chân thác kia kìa, mười mấy năm trước tôi đứng ở đó trông lên phát ra cây linh chi trân châu có tám mươi tám vị, bèn cố trèo thác băng để hái, nhưng địa hình nơi đây hiểm trở, chẳng những ngắt được cây linh chi,, còn suýt bị ngã chết đấy. Nơi có bốn ngọn núi tuyết chầu quanh mà mọi người muốn tìm, chính là ở trước mặt đó. Hồi tôi lên hái thuốc nhìn tận mắt, xung quanh vừa khéo có bốn ngọn núi tuyết khổng lồ. Núi tuyết ở Kelamer rất nhiều, đằng Đông đằng Tây nhìn đâu cũng thấy, nhưng liền kề với nhau dễ kiếm ra đâu, cứ như tôi thấy biết, chỉ có chỗ này là có địa hình như thế thôi. Có điều năm xưa tôi cũng chưa dám vào thung lũng, vì truyền thuyết kể đấy chính là nơi ở giữa biển tai họa, mấy người chúng ta muốn tiến vào cần phải hết sức thận trọng mới được." Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi cũng nhìn ra khí tượng nơi đây quả tầm thường, riêng lớp tuyết tích tụ đến hơn ngàn vạn tấn kia khiến người ta cảm thấy ớn lạnh. May mà dải rừng kẹp giữa hai dòng sông băng rất rộng, chỉ cần vòng qua thác băng, theo đường rừng, xảy ra chuyện gì bất trắc phải gây kinh động chắc gặp tuyết lở. hết khu rừng là dải sông băng uốn lượn, dốc dần lên cao, xem ra mấy nghìn mấy vạn năm trước chỗ này phải chốn núi cao hồ băng gì, mà là thung lũng lớn. Vùng đất quả nhiên có bốn ngọn núi tuyết cao ngất vây quanh, làm thành dải trập trùng, chính là Long đỉnh nằm sông lưng của trời đất, tháp ma thờ cúng Tà thần rất có khả năng đóng băng ở lòng sông. Mọi người thấy cuối cùng cũng có manh mối, tinh thần phấn chấn hẳn, hăm hở bước nhanh, muốn tranh thủ tìm thấy lầu ma chín tầng trước khi trời tối. Mặt sông bằng trơn dị thường, giống y tấm gương. Peter Hoàng từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ chỉ ở phương Nam, chưa bén mảng đến nơi băng tuyết như thế này bao giờ, cứ hễ nhanh tí tẹo là lại ngã phệt xuống, sợ là sắp nứt xương cụt đến nơi, miễn cưỡng nhờ Tuyền béo và Xư-chê dìu . Cả đoàn vẫn tiến lên, bỗng tôi điểm quân số thấy thiếu mật Hàn Thục Na, ở đây khe băng, hố băng, hang băng nhan nhản, nếu quả thực rơi xuống đó phiền phức lắm. Rơi xuống hang băng còn có thể cứu, chứ lọt vào khe băng cách nào leo lên được, mà băng có vết chân, theo dấu lần lại đường cũ vô cùng khó. Ở bên dưới mấy ngọn núi tuyết, càng dám gọi to tên chị ta, cho dù là A Hương cũng có khả năng nhìn xuyên qua băng được. Mọi người đành bảo Peter Hoàng đứng yên tại chỗ để ý xem sao, còn tất cả tản ra, theo hướng cũ quay lại kiểm tra, ngoặt ngoặt lại hai lần mới phát ra hố băng bị giẫm vỡ, bên dưới là hang băng hình cái đấu (chỉ khe băng kẹp dưới sông băng, hình như cái đấu). Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu vào, thấy hang băng sâu chừng bảy tám mét, Hàn Thục Na nằm phía dưới, hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi khẽ tiếng gọi tên chị ta, nhưng thấy có phản ứng gì. ai biết chị ta đứng thế nào mà lại rẽ vào chỗ này, Minh Thúc thấy vợ ngã xuống hang, sống chết còn chưa biết thế nào, cứ bấn loạn hết cả lên. Tôi trấn an lão, bảo chớ lo lắng, chỗ này sâu, người Hàn Thục Na có đồ bảo hộ, cùng lắm là ngất do quá sợ hãi, để từ từ kéo chị ta lên, đâu rồi khắc vào đó. Tôi soạn dây thừng chuẩn bị đu xuống, Shirley Dương ném cây pháo sáng cho tôi nhìn địa hình, tránh giẫm vỡ kẽ băng thông với hố này. ngờ cây pháo sáng vừa bùng lên giữa ba bề bốn bên quanh vách băng, tất cả nhìn xuống, cùng thốt lên tiếng "ối trời". Hóa ra, vách băng có biết bao nhiêu người mặc cổ phục chết cứng trong đó, cùng tư thế cúi đầu, đứng thành vòng tròn vây quanh, nom như vẫn còn sống sờ sờ, lẳng lặng nhìn Hàn Thục Na hôn mê bất tỉnh. Thứ chúng tôi có thể thấy được, chỉ nằm ở lớp băng ngoài cùng, sâu bên trong biết còn có bao nhiêu thây ma đông cứng nữa. -------------------------------- Nguyên chú: theo giáo lý của Phật giáo Tây Tạng, Thập tượng tự tại đồ là dạng bức vẽ có sức mạnh cực kỳ thần bí, được cấu thành bởi bảy chữ Phạn và mặt trăng, mặt trời cũng với mười loại ký hiệu hình tròn... Năm sắc màu trong bức họa tượng trưng cho năm nguyên tố cơ bản trong vũ trụ: đất, nước, gió, lửa, khí; mười ký hiệu kia lại tượng trung cho các bộ phận của cơ thể người và các bộ phận của thế giới vật chất; tất cả năm trong hệ thống quan hệ biện chứng hết sức phức tạp.
.4 - Chương 13: Xác ướp kim thân Tuyết sơn Chúng tôi đứng cả mặt sông dòm vào, xem ra cái hang này tự nhiên hình thành, các xác chết đóng băng xếp trong đó tư thế đều bí hiểm, đầu cúi mắt nhìn xuống hơi xéo góc. Tuyền béo thấy thế cười xỉa : "Chết đến đít rồi mà vẫn quên liếc xuống đất tìm ví tiền." Tôi xua tay về phía mọi người, ra hiệu chớ bàn luận, phải cấp tốc cứu Hàn Thục Na lên , thế nào , tà khí dưới hang chắc hết sức nặng nề, chẳng phải là nơi đất lành chim đậu gì đâu. Thế là mấy người cuống quýt thòng dây, tôi cầm cây đục băng, theo dây trượt xuống, Shirley Dương trượt bám theo. Hai chúng tôi bận tâm đám người chết trong vách băng xung quanh, lập tức kiểm tra tình hình Hàn Thục Na, bên ngoài có thương tích gì ghê gớm, chỉ thấy mặt xước dăm vết do trượt băng cứng, và ngất lịm thôi. Tôi lấy viên tiêu thạch 1 ra, đưa qua mũi Hàn Thục Na, chị ta lập tức hắt hơi, bừng tỉnh. Tôi hỏi chị ta có bị thương ở đâu , chị ta lắc đầu. ra ban nãy dây giày tuột, chị ta cúi xuống thắt lại, xong xuôi mọi người được quãng, lúc ấy ai nấy hết sức vui mừng vì cuối cùng cũng tìm được Long đỉnh, nên nhất thời phát ra có người rớt đoàn. Hàn Thục Na cố chạy đuổi theo, chẳng may chệch khỏi tuyến đường an toàn, giẫm vỡ vỏ băng ngã xuống dưới. Trong hang tối om, chị ta bật đèn pin lên soi, định phát tán tín hiệu cầu cứu, nhưng còn chưa kịp mở miệng phát ra xung quanh toàn xác ướp cổ. Tuy chị ta hàng ngàng tiếp xúc với ít cổ thi, song tình huống lúc này quá đặc biệt, hề được chuẩn bị tâm lý, mới sợ quá ngất lịm . Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi thấy Hàn Thục Na bị thương, vậy là yên tâm, liền chiếu đèn pin xung quan sát những thi thể trong hang băng, thấy rất khác với những người đồng chúng tôi gặp trong thiên cung ở mộ Hiến Vương. Những thi thể này dường như là người sống bị đóng băng cứng trong hang, nên nhìn rất sống động, sâu bên trong là từng lớp từng lớp những cỗ cổ thi đứng cúi đầu, nhiều khó đếm xuể, số lượng nhất định dưới vài chục cỗ, trang phục người đều của thời cổ, nhưng phải phục sức của người Ma quốc. Shirley Dương móc chốt vào người Hàn Thục Na, chuẩn bị bảo bọn Minh Thúc, Tuyền béo kéo lên. Còn lúi húi cài cài móc móc, bỗng cả hai hét lên tiếng kinh hoàng, nhảy giật về phía sau, cứ như nhìn thấy rắn độc dưới chân vậy. Tội vội cúi đầu, rọi đèn pin mặt băng nhẵn bóng. Dưới lớp băng lờ mờ cái bóng đen nằm co tròn, nhìn thoáng cứ ngỡ là con tôm hùm đông lạnh siêu đại. Tôi bảo Shirley Dương: "Sợ cái gì chứ? Chỉ là người chết đóng băng thôi mà, nhưng sao tư thế kỳ dị nhỉ?" Shirley Dương nhún vai : " Tôi kịp thấy gì đâu, vừa rồi là bị chị Thục Na làm cho giật mình đấy chứ." Hàn Thục Na : "Thoạt nhìn thấy cái bóng ấy, người co tròn, tôi nghĩ ngay đến hình dạng của thai nhi, nhưng lại nghĩ, đời này làm gì có cái thai nhi nào to thế, nên mới hãi quá nhảy dựng cả lên." Tôi bảo Hàn Thục Na cứ lên trước, chị ta ở dưới này cũng vô tích , chỉ tổ làm vướng chân. Chị ta lên được rồi, tôi và Shirley Dương ở dưới hố băng trao đổi qua dăm câu, đoán đây có thể là huyệt mộ của giáo chủ Luân Hồi tông. Sông băng chôn tháp ma thờ Tà thần chắc chắn là thánh địa trong mắt tín đồ Luân Hồi tông đời sau. Nhiều đời tông chủ và tín đồ của giáo phái này, sau khi chết đều được táng ở đây. Hang băng này chính là trong những ngôi mộ táng đó. Cái bóng đen co quắp bên dưới kia, có lẽ là vị giáo chủ, còn đám người vây xung quanh đây đều là tín đồ bị tuẫn táng. Trong lòng sông băng lượn quanh lầu mà chín tầng biết còn có bao nhiêu hang mộ như thế này nữa, có khi phải khai quật thi thể của lão giáo chủ dưới đống băng này lên, xem đống đồ bồi táng của lão có tiết lộ thông tin gì . Hai chúng tôi bàn xong trèo khỏi hang băng, lại kế hoạch với mọi người. Vị trí chúng tôi đứng lúc này có thể là chỗ hợp lưu của bốn dòng sông băng xuất phát từ bốn ngọn núi tuyết, hình thành nên dải băng vừa rộng lại vừa dày, địa hình khá gồ ghề lồi lõm, rãnh băng khe băng đan xen chằng chịt. Khi xây dựng tháp ma, trong Mật tông thậm chí còn chưa định hình hệ thống lý luận phong thủy, e là áp dụng được thuật phân kim định huyệt, thà đào bừa xác lão giáo chủ Luân Hồi tông này trước, dựa vào đó xem xem tháp ma quả thực nằm chỗ nào, còn hơn tìm rờ rẫm như mò kim đáy bể thế này. Đám Minh Thúc có kinh nghiệm về mặt này, đương nhiên tôi sao răm rắp nghe vậy. Sắp xếp xong xuôi, bọn tôi cắm cái cán cờ cạnh hang băng vừa rồi làm mốc, dựng lều ngay tại chỗ. Peter Hoàng và Xư-chê lĩnh nhiệm vụ canh gác, đề phòng lũ sói đánh úp. Minh Thúc và Hàn Thục Na lo cơm nước cho cả đoàn. Ăn cơm xong, tôi dắt A Hương, cùng Shirley Dương và Tuyền béo xuống lại hang băng tiến hành khai quật. Trời ngả chiều muộn, trong rừng cây phía xa vẳng tới những tiếng hú ai oán của bầy sói hoang, xem chừng con sói chúa tập hợp được bầy, có thể kéo đến đây bất cứ lúc nào. Tôi nghe tiếng sói tru, chợt nhớ đến y tá Cơ Ma, căm giận sôi gan. Tôi dặn dò Xư-chê và Peter Hoàng đề phòng cẩn thận, rồi mới chuyển khí giới xuống hang băng. Minh Thúc ngồi bên treo cây đèn huỳnh quang cho sáng. Lão này là tay lái buôn cổ thi lõi đời, thấy dưới lớp băng cổ có cỗ thây ma tư thế quái dị như vậy, nhất định hiếu kỳ, chắc nghĩ chừng đào được Băng xuyên thủy tinh thi giá trị liên thành khác cũng nên, cùng Hàn Thục Na ngồi chằm chằm theo dõi. Dắt theo A Hương bên cạnh quả thực tiện hơn thắp nến nhiều, có điều A Hương nhát gan, đề phòng bé sợ quá á khẩu, chúng tôi vẫn dựa theo lệ cũ, thắp cây nến mỡ bò ở góc Đông Nam hang băng. Theo chỉ đạo của tôi, Tuyền béo rót nước gừng vào cái bình phun, xịt đẫm xuống mặt băng, xong rồi từ từ ngồi đợi cho nước gừng ngấm. Những thây ma đông cứng trong vách cúi đầu chòng chọc nhìn chúng tôi chuẩn bị đục băng, khác gì đám đông tò mò, nhưng trông hết sức lạnh lẽo vô hồn. Tuyền béo bực mình chửi: "Con bà nó chứ, là khó chịu, hay ta kiếm tấm vải che lại, tôi nổi hết gai ốc lên rồi đây này." Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi bảo Tuyền béo: "Cậu là đàn bà con hay sao mà sợ bị người khác nhìn, cứ xem như đám tử thi kia tồn tại là được chứ gì... " Tôi mồm vậy, chứ trong bụng cũng cảm thấy hang băng này tà mị vô cùng, xưa nay chưa gặp kiểu bồi táng thế này bao giờ, chủ mộ có áo quan, lại nằm co y như con tôm đông lạnh, quả thực rất khó trước lát nữa rốt cuộc đào được thứ gì. Shirley Dương có lẽ thấy tôi hơi băn khoăn, liền : "Trong Luân Hồi tông duy trì rất nhiều truyền thống tà giáo của Ma quốc. Sử thi về hùng vương có Ma quốc là đất nước sùng bái hang động và vực sâu, đám xác bồi táng quanh vách hang này đều như trong tư thế cúi nhìn xuống vực sâu, đại khái chắc có liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo của họ, cần phải lấy làm lạ." Đợi lúc, thấy nước gừng thấm khá sâu, chúng tôi bèn dùng cây dùi đục băng thọc xuống. Nước gừng vốn là khắc tinh của băng, dẫu có là băng đen đông tụ từ hàng vạn năm trước cũng phải bở ra, nữa là lớp băng dày này lắm, nên chẳng mấy chốc chúng tôi đục được ô vuông vắn, nhấc nắp ra, bên dưới có băng đóng cứng, mà đến lớp bong bóng cá gói thi thể bên trong. Nhìn thấy cỗ thi thể, mọi người đều cảm thấ có đôi phần kỳ lạ, A Hương sợ quá run lẩy bẩy, Shirley Dương phải ôm chặt lấy, hỏi xem có phát ra thứ gì . A Hương lắc đầu, chỉ nổi là khủng khiếp quá mà thôi. Tôi quay đầu lại nhìn cây nến, thấy vẫn cháy bình thường, xem ra có vấn đề gì, bấy giờ mới nín thở xem xét thi thể lộ ra dưới lớp băng. Lúc trước khi chưa phá vỡ mặt băng, chỉ thấy cái bóng lờ mờ màu đen, giờ nhìn kỹ lại, ra là thây ma to lớn, trắng toát, phải là loại lông trắng mọc tua tủa như bị thi biến, mà tựa như là bọc trong lớn kén dày cứng, đôi chỗ hơi bong tróc có ánh vàng chóe lộ ra, cứ như bên trong là khối vàng ròng vậy. Tư thế hay tay ôm đầu gối, thân mình co tròn như vậy rất có thể liên quan đến tôn chỉ của Luân Hồi tông, cho rằng người ta sau khi chết lại đầu thai, nên thi thể mới phải bó tròn lại như thai nhi trong bụng mẹ. Minh Thúc ở bên cũng nhìn thấy rất , hí hửng: "Ồ, là xác ướp Tuyết sơn, khá lắm, khá lắm, cỗ xác ướp kim thân Tuyết sơn này phải hơn triệu tệ đấy... tiếc là niên đại gần quá, cổ hơn chút nữa cũng chẳng thua kém Băng xuyên thủy tinh thi mấy đâu." Tôi ngẩng đầu lên hỏi lão: "Xác ướp kim thân Tuyết sơn gì?" Đối với thể loại cổ vật này, bọn tôi đều am hiểu bằng vợ chồng Minh Thúc. Minh Thúc lúc này cũng leo xuống hố băng để nhìn cho hơn. Lão giơ kính lúp soi soi lại hồi lâu, lại thò tay sờ cái vỏ kén màu trắng bao bọc thi thể, rồi liếm ngón tay bảo: " sai, chắc chắn là xác ướp kim thân Tuyết Sơn rồi!" Phương thức xử lý thi thể kiểu này hết sức lằng nhằng, đầu tiên phải nắn xác chết theo tư thế đặc biệt, rồi đặt vào quách đá, đổ ngập muối, để yên chừng ba tháng cho muối ngấm hẳn, thi thể cạn kiệt nước, sạch hoàn toàn cặn bã, bấy giờ liền tiếp tục phết lớp vật chất tựa như bùn, chế từ đàn gỗ, hương liệu, bùn và các loại dược liệu khác. Dần dần, vật chất này trở nên đông kết, cứng chắc, những chỗ khuyết lõm hoặc nhăn nhúm, như mắt, má, hoặc thậm chí là dạ dày bên trong, tự trương nở theo tỉ lệ tự nhiên, khiến thi thể lấy lại được vẻ đầy đặn hài hòa, dùng sơn nhũ vàng quét khắp lượt, đây chính là kim thân, xong xuôi lại phủ thêm lượt muối nữa. Chỉ những người kẻ thân phận hết sức cao quý mới có tư cách hưởng kiểu đãi ngộ này mà thôi. Tôi và Tuyền béo thộn mặt ra nghe, ngờ gói bánh tông mà có thể rắc rối phức tạp đến vậy. Minh Thúc bảo chúng tôi chuyển cái xác ướp lên, nhưng sờ tay vào mới thấy nó dính chắc vào băng, chịu dịch chuyển được, lấy đèn pin rọi sâu vào, có vẻ láo nháo tựa như bên dưới có rất nhiều thứ, nhưng cách lớp băng nhìn ra được. Tôi bèn lôi bình xịt ra, phun tiếp nước gừng, đợi lúc, đoán chừng đủ lâu, khoan phụp xuống. ngờ từ lỗ băng vỡ dưới mũi khoan phụt lên luồng lửa lớn màu xanh lam, kèm theo tiếng rít chói tai, vọt thẳng lên trời. Theo kinh sách Luân Hồi tông miêu tả, ngọn lửa xanh lam giống lửa thường, Luân Hồi tông gọi là "Vô lượng nghiệp hỏa", chính là ngọn lửa hung ác có thể thiêu rụi cả linh hồn trong truyền thuyết. ngờ, bên dưới xác ướp kim thân Tuyết sơn này lại giấu cạm bẫy cổ xưa, tàn ác đến thế. Cũng may Tuyền béo nhanh tay nhanh mắt, đúng khoảnh khắc ngọn lửa phụt lên, kịp đẩy Minh Thúc sang bên, tôi và Shirley Dương cũng giật A Hương ngược ra phía sau tránh. Mọi người co cụm lại trong góc hố băng, chỉ thấy đầu lưỡi khô rát, dường như nước trong cơ thể bốc hơi với tốc độ khủng khiếp. Trong hố băng chật hẹp, tiếng rít chói tai của ngọn lửa nghe càng kinh hồn táng đởm. Tất cả mấy người chúng tôi đều trở nên bất động, chỉ mong sau ngọn lửa quỷ quái này mau mau biến , nếu để kéo dài thêm chốc nữa, khí tươi mới tràn được xuống hang, người ở đây cũng chẳng thể gắng gượng được bao lâu. Tiếng rít của Vô lượng nghiệp hỏa cuối cùng cũng dứt, mọi người quay ra nhìn nhau, may ai bị thương, chỉ có Minh Thúc đội mũ leo núi, trong cơn hoảng loạn vô ý cụng đầu vào vách băng, phúc bảy mươi đời nhà lão là hề hấn gì. Xác ướp kim thân trong hố băng bị Vô lượng nghiệp hỏa thiêu rụi chỉ còn nấm tro đen sì, sau cơn hoảng hồn chẳng ai còn tâm trí nào nhìn đến nữa, chợt phía có tiếng hô hoán, nghe giọng hẳn là Xư-chê. Hay đàn sói nhân lúc tối trời mò đến, nhưng sao thấy ai nổ súng? Tôi nghĩ ngợi nhiều nữa, leo vội lên, liền thấy Peter Hoàng và Xư-chê luống cuống cấp cứu cho Hàn Thục Na. Tôi lại gần nhìn, rùng mình lạnh toát cả người, khuôn mặt Hàn Thục Na bị ngọn lửa đốt trụi. Có lẻ lúc đấy chị ta khom người cúi xem, vừa vặn lúc ngọn lửa bắn phụt lên, cả khuôn mặt coi như hứng trọn, mũi, mắt đều còn, môi cũng mất, giữa khối tro than đen sì chỉ còn lại hai hàm răng trắng ởn và cái lưỡi đen kịp bên trong, trông phát hãi. Hàn Thục Na nằm vật bất động mặt sông băng, Xư-chê nhìn tôi lắc đầu, xem ra chị ta chết tại chỗ rồi. Tôi thấy Hàn Thục Na chết thê thảm, trong lòng cũng nặng trĩu, liền lấy tấm thảm đạy cái xác lại, tránh để Minh Thúc khỏi nhìn thấy, e chịu đựng nổi. Bấy giờ Minh Thúc cùng mấy người còn lại mới lục tục leo lên, đưa mắt nhìn chúng tôi, lại nhìn thi thể đắp thảm nằm dưới đất, định hỏi vợ đâu, phát ra mớ tóc xoăn lòa xòa bên dưới tấm thảm. Hàn Thục Na bị thiêu rụi mặt mày, nhưng ngọn lửa còn chừa lại mái tóc. Minh Thúc vừa nhác thấy, hiểu ngay xảy ra việc gì, thân mình lảo đảo, suýt ngã ngất. Peter Hoàng vội đỡ lấy lão ta. Tôi đánh mắt về phía Shirley Dương, bảo đưa A Hương vào lều trước. Tuy biết tình cảm của A Hương đối với mẹ nuôi thế nào, song bé này gan thỏ đế, nhìn thấy các xác có khuôn mặt kia chắc chắn sợ hãi mà đổ bệnh. Tôi nỡ nhìn Minh Thúc đau thương quá độ, nhưng cũng chẳng thể nghĩ ra cách nào an ủi lão ta, đành kéo Xư-chê ra bên bàn bạc, xem liệu có thể dắt lão, A Hương, Peter Hoàng về trước hay . Ở sông băng Long đỉnh này, bất trắc rình rập từng bước, bọn họ mà cứ tiếp tục với bọn tôi, khó có thể đảm bảo xảy ra tai ương gì nữa. Xư-chê tỏ ra khó xử , người an hem Tu-chí này, lúc này có muốn cũng được nữa rồi. Chú xem mây trời dày đặc thế kia, lúc mới đến cửa vào Kelamer chúng ta trông thấy lũ chim nước cổ đen kia nháo nhác bay , e là đợt rét ẩm sắp ập tới rồi. Ở vùng núi tuyết này, mỗi ngọn đều có đủ bốn mùa, thời tiết thay đổi cực kỳ đột ngột, dự đoán được, trong năm chỉ có ngày nào gió , mưa tuyết mới tiến vào nổi sông băng. Quãng tháng Năm là thích hợp nhất, nay là trung tuần tháng Chín, bình thường là khoảng thời gian thuận lợi đấy, những thời tiết núi tuyết khó lường, thay đổi là thay đổi luôn, sợ đầy hai tiếng nữa tuyết lớn xuống mất. Nơi đây tuy đến nỗi gặp phải cảnh tuyết giăng mù trời mù đất kín cả đường , nhưng sông băng ở Long đỉnh địa hình lại vô cùng phức tạp, thời viễn cổ có thể từng là hồ nước khổng lồ giữa núi, cho nên mới có tên là biển tai họa. Sau đó trải qua cuộc vận động tại sơn, hình thành nên dãy núi Himalaya, khiến độ cao so với mực nước biển tăng lên, nhiệt độ sụt xuống, cả vùng hồ rộng lớn biến thành sông băng, lâu lâu lại có tuyết lở khiến sông băng ngày dày thêm, địa hình ngày thêm phức tạp. Vào mùa hè, băng tan ra kể, mặt băng mỏng ở nhiều chỗ, nên Hàn Thục Na mới giẫm vỡ hố băng. Vào mùa lạnh, nhiệt độ xuống thấp, tình huống ấy xảy ra. Còn ở thời điểm này, mặt băng có biết bao nhiêu kẽ băng, hố băng, rãnh băng rình rập. sông băng, nếu chưa có tuyết còn ổn, nhưng khí trong núi xuất đợt rét ẩm, tuyết lớn đổ xuống, chỉ đến hai ba tiếng đồng đồ phủ dày khắp nơi, chẳng may thụt ngã vào những chỗ băng yếu toi đời. Xư-chê dù có kinh nghiệm mấy, cũng dám dẫn đoàn mạo hiểm vào lúc này, huống hồ lũ sói cũng theo vào núi, lỡ xảy ra chuyện, bọn chúng chắc chắn thừa cơ đục nước béo cò, thành ra muốn quay lại cũng phải đợi sau khi qua đợt tuyết, sông băng cứng chắc mới có thể được. Tôi bàn bạc với Xư-chê, chợt có thứ gì lành lạnh táp vào mặt, ra tuyết rơi. Tôi vội quay lại tập hợp mọi người, tình hình trước mắt. Nếu ai muốn quay trở lại, ít nhất phải đợi sau hai ngày nữa, riêng tôi, Tuyền béo và Shirley Dương quyết bằng mọi giá rồi, bới cho cái tháp tà ma của Ma quốc chống ngược lên giời, bọn tôi quyết dừng, đừng là có mưa tuyết, có mưa dao nữa cũng rút lui. Minh Thúc nước mắt giàn giụa, tuôn ra toàn những câu đại loại như lão với Hàn Thục Na nhau thực lòng, lúc khốn khó hiểm nguy cũng chưa từng xa lìa, cơn tỉnh cơn say đều má ấp môi kề. Tôi và Tuyền béo tưởng lão này còn đau lòng quá độ nên bắt đầu nhảm, định cất lời khuyên lơn, bảo lão nghỉ ngơi cho lại sức, nào ngờ đến đó nghe lão đốp câu: "Làm gì có chuyện trộm được gà mà phải tốn thóc, lần này sống chết gì tôi cũng phải cố , moi được Băng xuyên thủy tinh thi nhất định về!" Đoạn lão quay sang dặn dò chúng tôi, nếu lão có mệnh hệ gì, bọn tôi cũng phải hứa dắt A Hương trở về an toàn. Tôi thấy Minh Thúc u mê cố chấp quá, chẳng biết lại thế nào, nghĩ bụng mình với Tuyền béo, Răng Vàng, thằng nào cũng thế thôi, nhiều khi hỏng việc phải vì đủ mưu trí, cũng phải vì đủ to gan, kỳ thực chẳng qua là vì thấy cái lợi mà mê mụ đầu óc. Cái đạo lý này bọn tôi đều biết, nhưng cứ rơi vào hoàn cảnh đó là quên tiệt, suy cho cùng bọn tôi đều là người trần mắt thịt, làm gì có đôi mắt Phật nhìn thấu cõi vô thủy vô chung, mà trước đây lại còn nghèo rớt nữa. Chúng tôi bàn bạc xong trời gần trưa, tuyết bắt đầu rơi lớn, tiếng hú của bầy sói lởn vởn xa xa trong gió tuyết. Chúng tôi đặt thi thể của Hàn Thục Na cạnh trại, đắo tấm thảm, Tuyền béo và Peter Hoàng lo đục băng làm gạch, chất quanh lều để chắn gió và đề phòng lũ sói tấn công. Tôi và Shirley Dương lại leo xuống hố băng, hy vọng kiếm được chút manh mối để xác định vị trí lấu ma chín tầng, những mong có thể quật được nó trước tối mai. Trong mồ mả của Ma quốc đều có loại bọ trong suốt mà Mật tông gọi là tá phủ, kẻ nào tiến lại gần bị Vô lượng nghiệp hỏa thiêu thành tro bụi. Tuy nhiên trước khi lên Tây Tạng, chúng tôi sớm nghĩ ra cách ứng phó rồi. cao nguyên khí hậu khô lạnh, nước trong bình đóng băng rất nhanh, căn bản thể sử dụng được, nhưng đổ nước gừng vào bình xịt khí áp có thể đủ sức dập tắt những ngọn lửa tá phủ ma quái. Riêng cột lửa màu xanh lam khổng lồ xuất trong hang băng đặt kim thân của giáo chủ Luân Hồi tông này khiến chúng tôi hoàn toàn bất ngờ. Shirley Dương xem xét lúc, đoán đây có thể là cái bẫy cổ xưa, Luân Hồi tông biết sử dụng lửa ma của Ma quốc, chỉ là phỏng theo Vô lượng nghiệp hỏa đó chế tạo cái máy phun lửa nhân tạo mà thôi. Phía dưới xác kim thân là gian kín, nhồi lượng lớn các loại mật dược. Trong môi trường tuyệt đối kín bưng, năm này qua năm khác, mật dược quyện dần với khí tù đọng tạo nên dạng khí đặc biệt, nếu xác ướp kim thân Tuyết sơn bị xâm phạm, môi trường kín bị phá vỡ, thứ khí nén kia phụt ra thành luồng lửa cực kỳ nóng. Chủ mộ thà để cho thân xác mình bị thiêu ra tro, còn hơn bị người bên ngoài vào quấy nhiễu. Sâu tít trong hang, sau bức tường băng bị lửa làm tan chảy, còn hang băng lớn hơn nữa. Chúng tôi phát ra gian phòng khuất, xem chừng chính là nơi cất đồ bồi táng của chủ mộ. Ở chính giữa gian phòng có đặt tòa tháp ba tầng, tượng trưng cho ba cõi trời, dưới đất, nhân gian, chiều cao mét rưỡi, chất liệu bằng vàng ròng, khảm vô số ngọc trai, trông long lánh rực rỡ đến chói cả mắt. Shirley Dương đặt mấy ống đèn huỳnh quang chiếu sáng ở bốn góc, tôi dùng thám trảo cạy cửa tháp. Tầng giữa tòa tháp có hơn mười hộp báu hộ thân kiểu như hộp Ka U2, và rất nhiều các loại châu báu như san hô trắng đỏ, vân thạch, mã não... Tầng dưới tượng trưng cho mặt đất, để những thứ như lương thực, lá chè, muối, quả khô, thảo dược. Tầng cùng có bộ áo bào dệt bằng sợi vàng, và những bức tượng điêu khắc tinh xảo. Chúng tôi thấy bức điêu khắc có quét sơn màu đỉnh tháp nhìn tương tự như bức bích họa mắt bạc trong hang miếu Luân Hồi ở di tích Cổ Cách, cũng vẫn dùng các con thú kỳ dị để biểu thị tọa độ phương vị, ở giữa có xiêm y trong suốt gần như lõa thể, đó chắc là Băng xuyên thủy tinh thi. Dựa vào vị trí đặt tòa tháp bồi táng, so với những gì miêu tả lại trong cuốn cổ kinh, tháp ma thờ Tà thần nằm phía Tây của hố băng này, ngoài bán kính ba mươi mét. sông băng Long đỉnh, ít nhất cũng phải có hơn trăm, thậm chí mấy trăm khu huyệt mộ của các đời giáo chủ Luân Hồi tông, lăng mộ mà chúng tôi phát ra đây chỉ là trong số đó mà thôi. Các huyệt mộ đều được sắp xếp theo bản đồ tinh tú của Mật tông, vây quanh lầu ma chín tầng từ thời Ma quốc truyền lại. cần phải tìm nhiều nữa, có vật tham chiếu này, kết hợp với những ghi chép trong cổ kinh, ngày mai chắc chắn có thể tìm thấy mục tiêu cuối cùng. vách tường trong căn phòng băng này có khắc rất nhiều hình tượng ác quỷ, xem chừng của nả trong tháp đều bị nguyền rủa. Tôi nghĩ thiên hạ có câu: "Nam Xang thóc lúa đầy đồng, Bụt no Bụt chẳng mơ mòng oản chiêm", cứ khuân tất đống châu báu trong này cũng chẳng sao cả, có điều còn việc lớn trước mắt, tâm trạng nào mà để ý đến những thứ xanh đỏ tím vàng, thành ra tôi và Shirley Dương để các thứ yên vị ở đó, lại leo trở lên mặt sông băng. Tôi sắp đặt để mọi người được luân phiên nghỉ ngơi, tôi và Xư-chê trực ca đầu tiên. Hai chúng tôi dựa lưng vào vách băng, vừa để ý quan sát động tĩnh xung quanh, vừa làm vài ngụm rượu cho nóng người. Vừa mới hồi nãy bọn sói hãy còn lởn vởn, bây giờ gió tuyết mù mịt thiên địa thế này, Xư-chê nếu đêm nay chúng mà tấn công, chắc lủi vào rừng trốn bão tuyết rồi. Tôi thấy Xư-chê rành rẽ bản tính của loài sói, lại nghe từng làm đội trưởng đội diệt sói của làng Kelamer, khỏi nổi cơn tò mò, bèn mở lời ướm hỏi. Xư-chê bèn kể chuyện hồi xưa, trước khi giải phóng, tổ tiên nhà ta đều làm việc cho đầu mục. Dạo còn bé tí, năm lên bảy tuổi, có lần bầy sói cắn chết liều mấy mươi con dê, chuyện này hết sức bất thường, gã đầu mục ngờ có kẻ nào đắc tội với sơn thần, mới đem ông nội ra lột da, rồi bắt cả tế thần, cả nhà vì thế phải chạy trốn xa cả ngàn dặm tới tận Kelamer sinh sống. đường trốn chạy, cha bị đoàn người ngựa đuổi theo giết chết. Xư-chê kể ngắt quãng, được đoạn lại dừng lại trầm ngâm hồi lâu, tôi thấy muốn nữa, cũng gặng hỏi. Lúc này đêm về khuya, tuyết phủ mặt đất mỗi lúc dày, trong ánh lửa bập bùng, có thể nhìn thấy xa mặt tuyết có chỗ hơi nhô lên, đó chính là nơi đặt thi thể Hàn Thục Na. Bỗng nhiên cái khối tuyết nhô cao đó khẽ nhích động, tôi vội lăm lăm súng, giơ đèn pin ra soi, bụng bảo dạ e là có con sói đói nào mò đến trộm ăn xác chết, nhưng ngay lập tức nhận ra phải vậy. Hàn Thục Na chân tay cứng đơ chầm chậm bò ra khỏi đống tuyết, ánh sáng đèn pin xuyên qua màn đen phập phù gió tuyết, vừa vặn soi lên bộ mặt còn mảnh da nào, đen ngòm như tro than, chỉ thấy nổi hai hàm răng trắng ởn của chị ta. -------------------------------- Truyện "Ma Thổi Đèn " 1 Kali nitrat. 2 Ka U hay còn gọi là Ghau: lại hộp , bên trong có đặt tượng Phật, hoặc các mẩu giấy có chép kinh văn, hoặc mảnh áo, hạt xá lị của Phật... Người Tây Tạng thường đeo cổ để cầu nguyện
Q.4 - Chương 14: NÔ LỆ NGHIỆT Khuôn mặt bị Vô lượng nghiệp hỏa thiêu trụi trông như cái hốc đen sì của chị ta hướng về phía tôi như gắng gượng mở miệng để phát ra tiếng gì đó, nhưng cái miệng còn môi chỉ có thể há hốc ra mà thôi. Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi định gọi Xư-Chê ngồi cạnh cùng ra đó xem là xảy ra chuyện gì, liệu xưa nay vùng núi Kelamer này từng có việc nào tương tự như xác người chết cháy mà còn có thể đứng dậy . Có điều ngoảnh đầu lại nhìn, Xư-Chê mới ngồi đó chuyện với tôi đâu mất, chỉ thấy gió lạnh trong đêm băng giá tạt từng mảng tuyết lớn ù ù xối vào vách tường. Trong lòng như cũng buốt lạnh vì gió tuyết, tôi bất chợt rùng mình, nhổm cả người dậy, đưa mắt nhìn kỹ, vẫn thấy Xư-Chê ôm súng săn ngồi ngay cạnh, đưa túi da lên miệng, ừng ực nốc rượu Thanh Khoa, lại dõi mắt nhìn ra chỗ đặt thi thể Hàn Thục Na, đống tuyết vẫn im lìm hề động tĩnh. ra ban nãy tôi ngủ gật, chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi, mà nằm mơ ác mộng rồi. Nếu ban ngày nghĩ sao, đêm chiêm bao làm vậy, cũng có gì lạ, có điều cảm giác kinh hãi của tôi trong giấc mơ rất thực, liệu có phải là dự cảm hết sức vi diệu nào đó? Xư-Chê đưa tôi túi rượu: "Mới vài câu, chú ngủ rồi, hôm nay chắc là mệt hả? Tôi hâm nóng rượu, uống vài ngụm , thần linh trong rượu Thanh Khoa giúp chú rũ bỏ thân xác mệt mỏi này!" Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi đón lấy túi rượu dốc uống hai ngụm lớn rồi bật đạy, vẫn muốn ra xem kỹ, phải tận mắt xác nhận thi thể của Hàn Thục Na chỗ đống tuyết hề có biến đổi gì tôi mới yên tâm được. ngờ vừa nhổm lên, nghe sau vách băng vang lên tiếng "phụt" dài, quả pháo sáng bay vút lên trung. Lúc dựng trại bọn tôi đặt vài quả pháo sáng xung quanh, để đề phòng lũ sói dữ tấn công. Pháo sáng đều được bố trí sau mấy gò băng, từ bên ngoài muốn vào doanh trại buộc phải vượt qua mấy cái gò đó. Quả pháo sáng có gắn cây fud , khiến nó có thể treo lơ lửng cao lúc. Gió lạnh phập phù, quả pháo sáng trắng dật dờ trong bầu trời đêm, soi sáng cả dải sông băng ngập tuyết bằng thứ sáng trắng chấp chới, nhìn lóa cả mắt. Giữa màn gió tuyết mênh mông, mười mấy con sói lớn ra lố nhố. Chúng tiến rất gần bờ tường băng mà chúng tôi chất lên, chỉ còn cách chừng mười mấy mét đổ lại, bọn này quả nhiên lợi dụng đêm mưa tuyết mò đến tấn công. Lúc trứơc, chúng tôi để ý phân tích kết cấu sông băng rồi, ở đây mùa này rất lâu có tuyết, tiếng nổ của loại súng hạng chắc dễ gây lở tuyết núi xuống, thế nên tôi dứt khoát rút khẩu M 1911 ra, kéo chốt quy lát, bắn phát mở màn, Xư-Chê cũng giơ khẩu súng săn, nhắm chuẩn vào bầy sói dữ vừa lẳng lặng mò đến, nổ đoàng phát tiếp theo. Bầy sói lặng lẽ áp sát vào, chủ ý có thể là đợi tới chân vách băng đột kích bấy ngờ, ai dè bị pháo sáng bắn lên, lóa hết cả mắt, luống cuống nằm rạp cả mặt tuyết, thành ra những cái bia cho chúng tôi ngắm bắn. Bọn Tuyền béo nghe thấy tiếng súng cũng vơ vũ khí lập tức chạy ra tương trợ, súng ngắn súng dài nhất lề bắn ra, giết chết ngay lúc mười mấy con sói, ba con sói lớn còn lại thấy tình hình ổn, liền quay đầu rút lui, liên tiếp bị Tuyền béo hạ gục. Xác sói nằm chỏng chơ trước bờ tường bwng, mặt tuyết trắng tinh loang lổ vệt máu. Tuyền béo vừa hạ thủ con sói cuối cùng, quả pháo sáng lơ lửng giưa trời cũng mờ dần, màn tối lại trùm xuống dải sông băng, chỉ nghe tiếng gió hú chập chờn ai oán. Ở dải Phượng hoàng thần cung sông băng Long đỉnh này, gió dồn cả ở dưới thấp, các khe hình thành giữa núi tuyết này với núi tuyết khác đều là những đường hút gió, càng lên cao sức gió càng yếu, tới đỉnh núi tuyết hầu như gió lặng hẳn. Con sông băng khác nào lòng giếng đựng gió hình cái phễu, lại thêm tuyết lớn bạt ngàn, khiến tầm nghe tầm nhìn xung quanh đây rất thấp. Tuyền béo ngồi chồm hổm tránh gió dưới bờ tường băng bảo tôi: "Nhất này, vừa rồi em ta dạy cho lũ sói kia bài học, chắc lũ khốn dám bén mảng nữa đâu. Vậy là có thể ăn ngon ngủ yên nhỉ, tôi về lều ngủ tiếp đây, có chuyện gì cứ gọi! Lúc này nằm mơ cưới được vợ, mới cưới được nửa bị đánh thức, phải mơ tiếp tập hai vậy..." Tôi bảo Tuyền béo chớ có chủ quan khinh địch, đợi thắng lợi hoàn toàn ngủ cũng chưa muộn kia mà, giờ chiến còn lâu mới kết thúc, bao giờ chúng ta lột được da con sói chúa lông trắng, treo lên cây cờ, lũ sói mấy con đầu đàn, mới nguy hiểm nữa. Xư-Chê cũng lên tiếng: "Người em Tu-chí đúng, bọn sói này giảo quyệt lắm, cần phải đề phòng chúng giả thu hút chúng ta ở đây, để bọn khác vòng sau lưng. Lũ sói đó xáp vào gần rồi thể dùng súng nữa. sợ là em ta dễ bắn vào nhau mất. Nghe Xư-Chê nhắc, chúng tôi mới ngẫm ra, khả năng đó là rất cao. Xư-Chê quá am hiểu tập tính của bầy sói, qua cuộc va chạm vừa rồi có thể thấy bầy sói nhất định chia quân ra cắt đường rút phía sau chúng tôi. Lều trại của chúng tôi lại dựng bên huyệt mộ của giáo chủ Luân Hồi tông, cách hai bên đoạn xa đều có khe băng, dễ gì vượt qua, tuy trước mặt sau lưng đều bố trí pháo sáng, sợ là cũng thể trông cậy cả vào tác dụng của pháo sáng được. Mọi người hội ý nhanh, quyết định thà đón đầu chặn đánh trước khi lũ sói kịp lẩn ra phía sau tấn công, bất ngờ ra đòn, còn hơn cố thủ tại chỗ, chịu đựng bọn chúng quấy nhiễu cả đêm, ngủ cũng yên giấc. Xư-Chê đoán đội quân chủ lực của bầy sói ở phía sau chúng tôi, từ hướng đó đến đây ngược gió, chúng phát giác ra tiếng súng và mùi người, hẳn muốn nhân lúc chúng tôi sướng rên lên vì chiến thắng, quên tâm lý phòng ngừa mà tản ra nghỉ, bất thình lình ập tới. Chúng tô phải lựa chỗ sơ ý của chúng mà đánh lừa, hành động chớp nhoáng, chứ cứ rề rà để chúng phát ra có biến, e là đêm nay khó mà diệt gọn kẻ địch. Shirley Dương lũ só đánh hơi nhạy lắm, chúng ta lại ở đầu gió, rất dễ bại lộ, phải làm cách nào mới lừa được chúng? Xư-Chê trả lời, lăng mình nhảy qua bức tường băng, xềnh xệch kéo xác con sói ở gần nhất lại, bảo chúng tôi quệt ít máu sói lên trán. Theo truyền thuyết của người dân bản địa, trong muôn loài, chỉ trán người có linh hồn cư ngụ quanh vùng trán, sói dữ là ma đói A Tu La, mũi và mắt bọn chúng đều mù điếc với cơ thể người, nhưng lại nhìn thấy linh hồn người, mà sau khi người và động vật chết phải ngày đêm linh hồn mới lìa khỏi thân xác, trong máu con sói vừa chết này vẫn còn linh hồn sói, lấy máu nó bôi lên trán che khuất linh hồn người, làm cách này có thể mê hoặc đánh lừa được chúng. Tôi nghĩ bụng truyền thuyết chưa chắc là , nhưng bôi lên trán thứ máu sói nồng nặc tanh ngòm này quả lá át được mùi cơ thể, bèn nghe a Xư-Chê, lấy dao găm lính dù thọc vào cổ con sói. Con sói này vừa chết chưa đầy máy phút, máu chưa đông, hơi nóng vẫn còn bốc lên hôi hổi. Mỗi người lấy ba ngón tay quệt máu, bôi ngang qua trán, rồi mang vũ khí, tắt hết đèn đóm, mò mẫm về phía dốc băng ở đằng sau. Dốc băng này nằm ở khoảng chính giữa sông băng Long đỉnh, sông băng cổ này có rất nhiều dốc băng trồi lên thụt xuống kiểu như thế. Khi mới tới chúng tôi để ý, chỉ cảm thấy những dốc băng nhô cao che chắn gió tuyết rất tốt, nên quyết định dựng lều trại ở chân dốc. Đến khi tôi và Shirley Dương leo xuống hố băng, xác định vị trí của tháp ma chính tầng rồi, liền cảm thấy dốc băng này có gì đó bình thường, rất có thể là nơi mai táng Băng xuyên thủy tinh thi. Mọi người che chắn cho Minh Thúc và A Hương ở giữa, nằm sấp phủ phục băng tuyết ngay dưới mỏm dốc, trang bị của chúng tôi đủ để ứng phó với môi trường ở nơi địa cực nên cũng lo. Dải Long đỉnh quá cao, vả lại có câu "ngưng gió nóng, ngưng tuyết lạnh", đợt rét ẩm thực phải sau khi tuyết ngừng rơi mới bắt đầu, thành ra trước khi tuyết ngưng bầy sói nhất định phải rút vào rừng, bằng chết cóng. Vì vậy tuy trời đổ tuyết lớn, nhưng đến nỗi lạnh lắm, có điều nằm sấp băng tuyết phải là việc dễ chịu gì. Tôi chỉ ngón trỏ xuống, ra hiệu mọi người dừng lại. Tôi và a Xư-Chê bịt kín mũi miệng, chỉ để lộ vệt máu sói trán, lần lượt nhô dầu ra khỏi mỏm dốc, nhìn xuống phía chân dốc bên kia ngóng xem có động tĩnh gì , nếu bầy sói tới tấn công chúng bắt buộc phải ngang qua đây. Mặt sông băng tăm tối, khắp nơi chỉ thấy tuyết bay kín trời, tôi quan sát mãi phát ra thứ gì, bầu trời dày đặc mây đen, có chút ánh sáng nào chiếu xuống, nhìn mọi thứ đều mù mờ . Bấy giờ a Xư-Chê mới giật giật tay áo tôi, chỉ tay về phía dưới chân dốc. Tôi chăm chú nhìn theo, liền thấy trong màn đêm mịt mù gió tuyết, có vài sợi ánh sáng xanh xánh le lói lây động. Tuyết rơi dày, nếu Xư-Chê chỉ cho tôi, tự tôi e là chẳng thể trông thấy được. Tôi bật đèn pin, để nấc sáng yếu nhất, hươ tay xuống phía dưới làm hiệu, ý rằng phát ra lũ sói mai phục, chuẩn bị tác chiến thôi. Bỗng Xư-Chê nằm phục mặt băng nhảy bật dậy, lao xuống chân dốc, chạy thẳng vào trong bóng đêm nơi có những tia sáng xanh le lói. Tôi chưng hửng chưa hiểu ra làm sao, lẽ có biến cố gì chăng? Nhưng cũng thể để mặc Xư-Chê mình mạo hiểm được, bèn vội vã ôm lăm lăm khẩu M 1911, chiếu đèn pin mắt sói chạy theo. Chỉ loáng thoáng nghe có tiếng gọi giật của bọn Tuyền béo và Shirley Dương "quay lại mau! Hai người định làm gì vậy?" Xư-Chê chạy lúc dừng bước, tôi cũng dừng lại theo, định hỏi là chuyện gì, thấy bảy tám con sói lớn nằm la liệt mặt tuyết, cổ họng đều bị hàm răng sắc nhọn cắt đứt, máu tươi cứ thế ồng ộc tuôn, vài con còn thoi thóp, lườm chúng tôi với ánh mắt cay nghiệt, song máu chảy nhiều quá, thể nào động đậy được nữa. Thần Chết đến thăm chúng bất cứ lúc nào. Ánh xanh biếc chúng tôi nhìn thấy từ mỏm dốc băng chính là mắt chúng. Xư-Chê ngồi xổm nhìn vết thương cổ con sói : "Con sói chúa lông trắng gây ra đấy, đêm nay chúng tới nữa đâu." đoạn rút con dao Tây Tạng chọc cho những con còn thoi thóp chết hẳn, rồi cùng chúng tôi trở về phía sau dốc băng. Chúng tôi thông báo tình hình cho mọi người biết, ai nấy đều cảm thấy khó hiểu. ràng ngay từ đầu chúng tôi tính rất chuẩn xác, lũ sói định tấn công chúng tôi từ phía sau, nhưng biết xảy ra việc gì mà con sói chúa cắn chết nhiều đồng loại như thế, sau nữa lại lẳng lặng rút lui, khiến cả người thuộc làu bản tínhcủa loài sói như Xư-Chê cũng thể hiểu nổi lý do. Shirley Dương giậm giậm dốc băng dưới chân, dưới lớp băng này chín mươi chín phần trăm có Tháp ma chín tầng chúng ta cần tìm. Theo phong tục Ma quốc, chỉ có quốc chủ và Tà thần mới được an táng trong tháp, còn lại dù có địa vị cao như giáo chủ Luân Hồi tông cũng đủ tư cách, chỉ có thể được an táng ở trong hang băng xung quanh thánh địa. Trong trường thi ca ngợi thế giới Chế địch Bảo châu Hùng sư Đại vương, sói trắng là nô lệ nghiệt của Ma quốc, Chế địch Bảo châu Đại vương từng dẫn quân chiến đấu biết bao lần với bầy sói dữ do con sói chúa cầm đầu. Tuy Ma quốc diệt vong từ xưa rồi, nhưng mối giao kèo tối cổ giữa quốc vương và bầy sói chưa mất hiệu lực, thành ra lời nguyền cũ vẫn còn đè nặng lưng loài sói. Có thể con sói chúa phát ra tháp ma thờ cúng Tà thần nằm dưới dốc băng này, ký ức xa xăm trỗi dậy, mới cắn chết mấy con sói để tế lễ. Chuyện này hơi giống truyền thuyết cổ về sói của thổ dân bên châu Mỹ, phải chăng ở Kelamer này cũng như thế? Nghe Shirley Dương vậy, tôi mới sực nhớ thấy trong mộ thất ở chùa Đại Phượng hoàng núi Côn Luân tấm da sói khổng lồ và những bức phù điêu biểu thị cảnh sai khiển lũ nô lệ sói, cho nên khả năng như Shirley Dương phỏng đoán là có thể lắm. Đêm nay nếu bị lũ sói tấn công nữa có thể yên tâm ngủ, ngày mai còn phải khai quật Băng xuyên thủy tinh thi, mọ người cùng lần lượt quay về lều trại nghỉ. Tôi đột nhiên nhớ đến cơn ác mộng ban nãy, cứ cảm thấy kiểm tra thi thể Hà Thục Na có điều gì đó rất ổn, nhưng tốt nhất nên bảo Minh Thúc câu, để tránh lão hiểu lầm lôi thôi. Tiện thể tôi khuyên lão tốt nhất nên hỏa táng thi thể của chị ta ngay trong đêm nay, mang tro về là được rồi. Minh Thúc đầu óc mụ mị cả rồi, định bằng lòng bị Xư-Chê cực lực phản đối. Hà Thục Na từ lúc chết đến giờ còn chưa đủ ngày đêm, linh hồn chưa lìa khỏi xác, nếu hỏa táng bằng ngọn lửa dữ, sợ là linh hồn người ta bị đày đọa khốn khổ vô cùng, tốt cho người chết, lại gây họa cho người sống chúng ta. Tục ngữ có câu, nhập gia tùy tục, tuy bọn tôi đều tin mớ quan niệm này, nhưng cũng tiện phản đối, đành đến đứng trước chỗ dặt thi thể của chị ta xem xét. Tôi hỏi Minh Thúc liệu có thể phủ tấm thảm lên xác nữa, mà buộc chặt lại, làm như vậy chỉ có lợi chứ có hại. Lão ta trầm ngâm lúc, mới gật đầu đồng ý. Tôi gạt ụ tuyết cái xác, vừa thò tay xuống chạm vào tấm thảm, đột nhiên lạnh toát cả người. Tấm thảm vông lên thành hình cung, bên trong trống rỗng, thi thể phía dưới cánh mà bay. Tôi giật phắt tấm thảm ra, chẳng biết từ lúc nào phiá dưới xuất cái hố băng to lắm, nhưng ở sâu phía dưới nữa lại có khe băng rất lớn. Lẽ nào thi thể Hà Thục Na rớt xuống dưới ấy? Mọi người nhao ra quanh miệng hố xem xét. Tôi chĩa đèn pin mắt sói soi, phát ra dưới vực băng sâu hút, có bóng người thoáng chạy vụt qua, lẫn nhanh vào chỗ tối. Tôi vội lia đèn theo, thấy vách băng thẳng tuột bên trong khe băng ấy, có phụ nữ thoan thoắt bám tay chân vào mà di chuyển. Tuy chị ta quay lưng lại, nhưng nhìn mái tóc chúng tôi nhận ra ngay chính là Hàn Thục Na. Truyện "Ma Thổi Đèn " Tuyền béo giương súng định bắn, tôi vội cản lại, lớn tiếng gọi: "Hàn Thục Na! Chị định đâu vậy?" Hàn Thục Na ràng nghe thấy tiếng chúng tôi, cũng cảm nhận được có mấy chiếc đèn pin soi vào, liền từ từ quay đầu lại. Khuôn mặt vốn bị đốt thành tro đen ngòm của chị ta thấy đâu nữa, thay vào đó là mảng trắng bệch chỉ có hai hàm răng, chẳng có mắt mũi gì cả. Hà Thục Na bám vách đá thẳng đứng dưới khe băng quay đầu lại, khuôn mặt trắng toát. Khoảng cách từ chỗ chị ta đến chỗ chúng tôi xa gần hết mức chiếu sáng của đèn pin, để nhìn hơn, tôi trườn qua cả mép hố băng, vươn người thò đèn pin soi xuống dưới, tuy chỉ thấy mờ mờ, nhưng cũng cảm nhận được là "người phụ nữ" vách băng kia còn là người nữa. Minh Thúc cũng rọi đèn pin xem, nhác thấy khuôn mặt Hà Thục Na sững sờ, chân tay lập tức mềm oặt, chiếc đèn pin rời tay lăn thẳng xuống khe băng. Nếu có Peter Hoàng kịp kéo lại, lão ta cũng rơi hút xuống bên dưới rồi. Hàn Thục Na đột nhiên mọc đâu ra khuôn mặt trắng bệch, bị chiếc đèn pin rơi xuống làm cho kinh sợ, tức tốc bò xuống phía dưới vực băng đen thẳm, mất hút trong bóng tối. Chúng tôi cúi người nhìn theo, định ước lượng độ sâu của vực băng, nhưng chỉ thấy sau khi rơi xuống, chiếc đèn pin nhanh chóng chỉ còn là đốm sáng lăn , mỗi lúc cuối cùng bị nuốt vào khối đen đông đặc bên dưới. Tôi và Tuyền béo thấy vực băng sâu hun hút như đáy, bất giác nhớ đến động quỷ năm xưa. Shirley Dương lập tức mắc móc cố định cuộn dây thừng leo núi lên mình, với tôi: "Chúng ta mau đuổi theo!". Xem bộ dạng của Shirley Dương, có vẻ muốn xuống vực băng đuổi theo Hà Thục Na. Tôi thoắt nghĩ ra, liền hiểu ý của Shirley Dương, thi thể của Hàn Thục Na xảy ra thay đổi gì, tuy chị ta vừa thấy mọi người chạy trốn xuống chỗ sâu trong vực băng, nhưng đó chính là hướng chếch thẳng xuống lầu ma chín tầng dưới dốc băng, lẽ nào chị ta lại chạy thẳng xuống chỗ có Băng xuyên thủy tinh thi? Phải tìm được chị ta trước khi việc tồi tệ hơn, tôi cũng lập tức chuẩn bị dây thừng, cùng Shirley Dương bật hết cả nguồn sáng mình, bám dây đu xuống. Mặt băng trong vực trơn lạ thường, căn bản có điểm đỡ để chống chân. Đèn ống huỳnh quang xanh lét và đèn chiếu chiến thuật mình rọi lên vách băng trơn nhẵn như gương, hắt ra những tia sáng kỳ ảo, khiến cảm giác hết sức chơi vơi, vừa tụt xuống độ sâu mười mấy mét, đánh mất hoàn toàn cảm giác phương hướng. Chúng tôi đàn phải tạm dừng lại để định vị phương hướng. Vực băng chật hẹp này sâu hun hút tựa như vô tận vậy. Shirley Dương cái vực này ít nhất cũng còn sâu mấy trăm mét nữa, chỗ sâu nhất có thể là mạch nước sót lại của cái hồ gọi là biển tai họa kia, đèn pin của Minh Thúc rơi xuống nước, nên mới thấy đâu nữa. đoạn liền ném cây đèn huỳnh quang xanh lét mới biến ra khỏi tầm mắt. Chúng tôi áp tai lên vách băng nghe ngóng, thấp thoáng có thể nghe thấy tiếng nước chảy vọng lên. Hàn Thục Na di chuyển chếch xuống phía dưới, chúng tôi thả dây theo chiều thẳng đứng, muốn đuổi theo chị ta, bắt buộc phải đu dây sang ngang. Chúng tôi thử làm vậy, song vách băng quá trơn, rất khó di chuyển, cuối cùng tính dùng đến dụng cụ, định găm cuốc leo núi vào vách băng, mượn lực dịch chuyển vào trong, có điều vừa bổ cuốc vào thấy băng vỡ liên tục, sợ là vực băng có tượng rạn nứt. Sông băng Long đỉnh nằm ở độ cao đặc biệt so với mực nước biển, thuộc loại sông băng có độ cao thấp, hằng năm đều có thời kì tan chảy bề mặt kéo dài chừng hai ba tháng, riêng lớp băng dày hàng trăm mét ở giữa xưa nay vẫn vậy, hề suy suyển. Chúng tôi tới đây vào thời điểm thích hợp cho lắm, đúng vào cuối mùa băng tan và trước khi rét ẩm ập đến, quãng thời gian sông băng giòn yếu nhất, trong lòng sông băng lại có vô số khe băng, hốc băng, hố băng tự nhiên và hơn mấy trăm mọ huyệt Luân Hồi tông, y như bước vào tổ ong vò vẽ. Ngày thường chẳng làm gì, tháng Chín là lúc băng dễ vỡ nhất, tuy mấy nghìn năm nay chưa có biến động địa chất nào quá lớn, nhưng ở vùng biển tai họa người ta chắc chắn thể lường được bất trắc có thể xảy ra lúc nào. là vậy, nhưng các vật hiên tượng đều có mặt này mặt nọ, thời kỳ sông băng yếu giòn dễ vỡ nhát lại chính là lúc cực kỳ thuận lợi để khai quật lầu ma chín tầng nằm sâu dưới kia, còn như bắt tay hành động sau đợt rét ẩm, tốn công tốn sức hơn nhiều. Bọn Minh Thúc, Tuyền béo ngồi cũng nóng ruột cho an toàn của chúng tôi, lớn tiếng gọi vọng xuống, bảo thôi quay lại , đừng đuổi theo nữa, nguy hiểm lắm. Bên ngoài cứ gào ầm ĩ cảm thấy gì, nhưng tiếng gọi gió theo thốc xuống chỗ bọn tôi khiến cả vách băng cơ hồ run rẩy, tôi và Shirley Dương vội rọi đèn chiếu ngược lên chớ có to mồm gọi xuống nữa, kẻo vách băng nứt sập xuống chôn sống bọn tôi ở chỗ lạnh lẽo đen ngòm này mất. Tốc độ di chuyển của chúng tôi vách băng chậm hơn nhiều so với tưởng tượng ban đầu, lại còn ngang được, vực sâu tối tăm phức tạp thế này, dụng binh trọng cái thần tốc, giờ tuột mất thời cơ rồi, thể đuổi kịp Hàn Thục Na được nữa. Shirley Dương nản chí lắc đầu nhìn tôi, xem ra đành bỏ cuộc, tốt nhất hẵng tạm leo trở lên nghĩa cách khác vậy. Chúng tôi giật giật dây, chuẩn bị quay lên, rồi dùng đèn pin vạch hình chữ thập cho người bên thấy. Bọn Tuyền béo hiểu ý, lập tức hỗ trợ tôi và Shirley Dương từ từ lên, do có chỗ trụ chân, mỗi khi va vào vách băng lại bị văng ra, thân mình làm chủ được quay tròn vòng giữa khoảng . lúc bị xoay người như thế, tôi chợt thấy phụ nữ bò trong chỗ tối đen ở mé đối diện. Nửa thân dưới của chị ta khuất trong khe nứt, chỉ thò ra phần thân , khuôn mặt là mảng trắng hếu trống trơn, nhe ra độc hai hàm răng, nhìn đến mái tóc và bộ đồ màu vàng mình chị ta đích thị là Hàn Thục Na rồi. Tôi vốn tưởng chị ta xuống vực sâu, nào ngờ kịp bò lên cách chúng tôi xa, lẩn lút trong cái khe khuất tầm mắt. Đúng lúc bọn tôi định quau lên , thôi đuổi theo nữa, chị ta lại đột ngột xuất , vậy là muốn cái gì đây? Tôi giật tay Shirley Dương, cùng dừng lại. Shirley Dương thấy Hàn Thục Na trong kẽ băng bò ra, cũng hết sức bất ngờ. Cánh tay tôi buộc sẵn đèn pin, chỉ cần giơ ra là luồng sáng rọi thẳng về phía Hàn Thục Na. Trong vực băng sâu lạnh, kể cả đèn pin mắt sói cũng chỉ có thể soi sáng trong phạm vi quá hai mươi mét thôi, nhưng cự ly như vậy là đủ vừa soi tới kẽ băng có Hàn Thục Na thò ra. "Hàn Thục Na", trước khi chúng tôi điều tra ra chị ta biến thành thứ quái quỷ gì hẵng cứ tạm gọi như vậy , dường như hề có bất kỳ phản ứng gì với luồng sáng rọi vào, vẫn nằm sấp kẽ băng, lộ nửa thân người, tuyệt đối bất động. Khuôn mặt Hàn Thục Na có mắt mũi, hai hàm răng cứ nhe ra cách vô hồn, thành ra bọn tôi cũng chẳng biết chị ta buồn hay tức giận, đôi bên cứ ngây đờ ra. hồi sau tôi trấn tĩnh lại, của nợ kia nhấy định phải là người nữa rồi, cũng phải cái thây ma bình thường, có điều bất kể nó là cái mẹ gì, sợ cũng chẳng có ý định tử tế đâu. Tôi rút khẩu M1911 ra lăm le định bắn, còn chưa kịp mở khóa an toàn thấy bị vỗ vào vai. Shirley Dương ở sau lưng tôi cảnh báo: "Dừng tay, vách băng nứt vỡ rabây giờ". Chưa đợi tôi kip thu súng về, Hàn Thục Na có mặt kia bất thình lình lao như tia điện, vụt ra khỏi khe băng náu mình, dang rộng tay chân, xoẹt xoẹt bò thoăn thoắt về phía tôi như con thằn lằn khổng lồ. Tôi và Shirley Dương thấy tình hình ổn, dám chủ quan, liền dốc sức kéo dây vội vã thoát khỏi vực, nghĩ cách tốt nhất làm sao dụ được Hàn Thục Na lên sông băng. Tốc độ leo dây của chúng tôi nhanh, Hàn Thục Na bò vách băng còn nhanh hơn, cách miệng vực chưa đầy năm sáu mét, khuôn mặt trắng nhởn của Hàn Thục Na suýt soát chạm mũi giày của Shirley Dương. Tuyền béo và Xư-Chê ở bên thấy tình thế, đếm xỉa Minh Thúc cố cản, chĩa súng thẳng vào hố băng, bắn đoàng ngay mặt Hàn Thục Na. Tôi ngoái xuống, thấy khuôn mặt bềnh bệch của Hàn Thục Na thủng ra hai cái lỗ, cơ thể bị xung lực của đạn đánh bật rơi xuống quãng mấy mét mắc lại. Từ chỗ đó chị ta lại ngước bộ mặt trống trơn có mắt mũi lên, hai lỗ đạn lập tức liền lại. Vực sâu cũng bị tiếng súng làm cho rúng động, những tảng băng vỡ ào ào rơi. Dường như cũng biết sợ nguy hiểm, Hàn Thục Na lẩn nhanh vào cái kẽ. Tôi và Shirley Dương cũng vừa vặn lên tới nơi, đưa mắt nhìn lại, thấy vài khối băng lở to tướng bịt kín cái kẽ kia, có muốn đươi theo tìm Hàn Thục Na lần nữa cũng hết cơ hội rồi. Mà lòng sông băng này nhằng nhịt phức tạp như cái tổ ong, ai biết được chị ta lại từ đâu đó chui ra, trong khi đó súng đạn dương như có tác dụng gì đối với chị ta. Giữa đêm tối mù mịt, lại chứng kiến chuyện hoang đường đến thế, thời khắc chỉ vừa qua nửa đêm, khá lâu nữa mới sáng, gió tuyết cũng khó dự đoán lúc nào ngừng, xem ra đêm nay đừng mong yên giấc ngủ yên. Mọi người lấp kín hố băng, trở và trong lều nằm cho ấm, trằn trọc thao thức, tuy mệt bã nhưng chẳng ai ngủ được, bèn ngồi dậy bàn luận chuyện Hàn Thục Na. Peter Hoàng : "Có lẽ chị ấy chưa chết, chỉ là bị trọng thương, chôn trong tuyết lại tự nhiên sống dậy..." Tuyền béo cãi: "Làm gì có chuyện, Peter Hoàng ông đừng có bừa thiếu suy nghĩ. Chúng ta ai cũng đều tận mắt nhìn thấy, đầu cháy rụi mất phần ba, như thế mà còn chưa chết sợ là thiên hạ này chẳng có ai chết cả. Trông cái mặt quá nửa mọc lông trắng ơn ởn của bà ấy, cam đoan là biến thành cuơng thi Tuyết sơn rồi, quả này rất rất khó đối phó đấy!" Tôi giữ yên lặng, chưa mở miệng, cảm thấy việc rất quái lạ chứ thể đơn giản như vậy được. Shirley Dương hỏi A Huong có thấy điểm gì đặc biệt , mới hay A Hương từ đầu đến cuối dám mở mắt ra nhìn. Cả đám mỗi người lý, tranh luận hồi lâu đâu vào đâu, cuối cùng Xư-Chê đột nhiên vỗ tay đánh đét, lúc các vị lạt ma Tây Tàng luận thiền cũng rất hay làm động tác này, tỏ ý tỉnh ngộ, hoặc giả đó là cách khiến ký ức của mình thêm sâu hơn. Hồi trẻ Xư-Chê thường xuyên theo các lạt ma vào núi hái thuốc, nên cũng có thói quen ấy, ràng là nhớ ra điều gì đó. Cả đám bọn tôi lập tức hết xôn xao để nghe Xư-Chê : "Chị ta đúng là bị Di lặc tuyết nhập rồi. Hai năm về trước cũng có mấy đồng chí của Viện Địa trắc bị như vậy, nhưng ở vách Ma Kiết núi Côn Luân kia, quanh vùng Kelamer này chưa thấy bao giờ. Di lặc tuyết ở Côn Luân so với ác quỷ phải là đáng sợ hơn rất nhiều. Thi thể của Hàn Thục Na bị nhập vào mỗi lúc to lớn..." Xư-Chê định kể chuyện Di lặc tuyết hại người và súc vật ở núi Côn Luân ra sao, đột nhiên ngậm miệng, thoắt cái vẻ mặt dường như đông cứng lại. Bọn Minh Thúc, Peter Hoàng A Hương, ngồi bên cạnh cũng khác gì, ánh mắt dồn cả lên mảng trần lều sau lưng chúng tôi, như thể trông thấy thứ gì hết sức khủng khiếp. Tôi vội quay đầu lại nhìn, thấy mặt vài bạt in hai dấu bàn tay to lù lù, từ bên ngoài ấn vào, ở khoảng giữa lại có dấu tròn tròn cũng rất lớn, hình dạng giống như bộ mặt người nhưng lại phẳng, tỉ lệ gấp đôi của người thường, thứ quái đản đó dường như định xé toạc vải bạt để chui vào lều. Hai bàn tay to tướng phát hãi quều quào sồn sột đè xuống khiến căn lều kêu răng rắc, chỉ chực đổ sập
Q.4 - Chương 15: LỜI NGUYỀN LINH CÁI Căn lều sắp bị người khổng lồ bên ngoài làm rách toạc, lẽ đấy chính là "Di lặc tuyết" Xư-Chê vừa ? Để tránh nổ súng bắn rách căn lều, tôi tiện tay vớ lấy cây gậy leo núi duới đất chọc lên phát, ai dè chẳng thấy cảm giác gì, cái mặt to tuớng kia duờng như chỉ là vóc dáng huyền hồ có thân xác , đâm ra cây gậy chọc lên chỉ được mỗi tác dùng làm vạt lều bị lõm phẳng lại. Minh Thúc bủn rủn tay chân, định chui ra khỏi lều chạy tháo thân. Tôi lập tức túm chân lão ta giật lại, ấn nắm bẹp xuống đất. Di lặc tuyết ngoài kia là thứ gì, ngoài mấy chuyện Xư-Chê kể lại, bọn tôi đều mù tịt cả, cũng may lều bạt tạm thời chặn được nó, giờ này còn mạo hiểm chạy ra ngoài, có khác nào đâm đầu vào chỗ chết. Tuyền béo bắt chước tôi, cũng nhặt cán cờ cắm để xác định vị trí sông băng chọc hai nhát vào khuôn mặt đó, thấy có tác dụng gì, tiện tay vớ khẩu Remington, bất chấp bạt lều bị bắn nát, gí sát vào nổ đoàng phát ở cự ly gần. Của nợ bên ngoài trúng đạn, khí thế mới giảm sút phần nào. Vải bạt nóc lều thủng lỗ chỗ vì loạt đạn của Tuyền béo, lộ ra rất nhiều thứ gì trắng vụn, na ná như tuyết bên ngoài, có vẻ như tôi chạm trán người tuyết khổng lồ vậy. Tuyền béo nổ súng liên tiếp, Peter Hoàng và Xư-Chê cũng bắn loạn xị, chẳng biết kết quả thế nào. Đột nhiên cột chống gãy đánh "rắc", cả căn lều đổ sập, trùm kín cả đám bảy người bọn tôi trong mớ bùng nhùng. Tôi nghĩ bụng kiểu này toi đời, khung lều gãy lìa, người trong lều chen chúc tay đè lên đùi, đừng là thoát được ra, muốn giãy giụa đứng lên cũng khó khăn lắm rồi. Tuy nghĩ như vậy, nhưng chân tay tôi vẫn khua hết sức, rốt cuộc cũng đẩy người đè lên mình sang bên, nhanh chóng chui ra ngoài. Ngưòi còn chưa đứng lên, tôi rút khẩu M1911 ra. Bên ngoài gió rét căm căm, hoa tuyết nhảy múa rối loạn, tuyệt nhiên thấy gì. Liền đó Xư-Chê, Shirley Dương và Tuyền béo cũng lần luợt chui ra, chĩa súng khắp tứ phía thăm dò kẻ địch. Vẫn phải công nhận Xư-Chê thông thạo cùng sông băng đồng tuyết, liếc cái là giơ súng ngắm chuẩn bắn luôn, chúng tôi cũng quay cả sang ngắm theo hướng đó. Đêm qua, màn tối sông băng Long đỉnh tan, mây đen sầm sì bầu trời cùng hình dáng bốn ngọn núi tuyết lờ mờ nổi dần. Giữa cảnh sắc nhợt nhạt ban mai, chợt thấp thoáng cái bóng trắng lừng lững đội gió tuyết chạy biến ở phía xa xăm trắng mù trắng mịt. Đó chính là Di lặc tuyết ban nãy tấn công căn lều, nếu phải Xư-Chê tinh mắt, trong trời tuyết mịt mùng, nhìn ra bóng dáng nó vô cùng khó. Tôi, Tuyền béo, Xư-Chê vừa nổ súng, vừa đạp tuyết chạy đuổi theo, khiến Shirley Dương đứng sau phát hoảng, gào với theo: "đừng đuổi nữa, cẩn thận có khe băng duói tuyết đấy..." Nhưng giọng nàng lập tức lẫn vào trong làn gió tuyết thổi bạt về phía sau. Tuyết sông băng phủ ngập quá báp chân, chạy chưa quá muời mét cái bóng trắng khổng lồ đột nhiên chìm xuống, biến mất tăm mất tích bình nguyên mênh mông. Chúng tôi đuổi tới nơi, liền phát ra cái hố rất sâu, rất có thể liền với vực băng lúc truớc, và đều thông tới lầu ma chín tầng duới hốc băng. Di lặc tuyết khi lẩn xuống đây, chúng tôi cũng bó tay, chẳng còn cách nào bắt nó, đành đứng quanh miệng hố chửi ầm ĩ mấy câu rồi mới hằm hằm quay về. Tôi và Tuyền béo thắc mắc với Xư-Chê, sao Di lặc tuyết chiếm thế thuợng hong mà lại tự động bỏ chạy truớc, rốt cuộc nó là con gì vậy? Sao chưa đến mấy tiếng đồng hồ, thi thể của người đàn bà lại hóa ra bộ dạng như thế. Xư-Chê giờ phải là lúc kể chuyện, chúng ta đàn ông đàn ang còn chịu được, chứ trong đoàn còn có hai , và già, lều lán tan tành cả rồi, thể để họ đội tuyết đứng sông băng như vậy được, tìm chỗ khuất gió dựng trại cái , sau hãy chuyện Di lặc tuyết vẫn chưa muộn. Cứ yên tâm , trời còn sáng là nó chui ra đâu. Sợ nhất là đên đêm nay tuyết vẫn chưa ngừng rơi, lũ sói chịu rút, chúng ta mắc kẹt cả đằng truớc lẫn đằng sau, thế là đủ chết rồi đấy. Chúng tôi trở lại chỗ căn lều sập, trời sáng bảnh, tuyết vẫn rơi, xa hết sức nguy hiểm, mà ở gần xung quanh chỉ có mấy ụ tuyết nhấp nhô, căn bản có chỗ nào có thể dung thân được. Shirley Dương giờ chỉ có đúng cách, đó là bắt tay khai quật tháp ma chín tầng luôn, đầu tiên là đào lớp băng cùng cái , rồi chui cả xuống đáy mà tránh gió tuyết. Đốt đóng lửa bên duới, khí lưu bốc lên chặn tuyết ở lối vào, đủ để lối vào bị vùi lấp, vả lại bầy sói sợ lửa, cũng dám lỗ mãng tới xâm phạm. Chúng tôi rối rít khen kế này quá hay, ngoài trời băng tuyết buốt giá, rét cóng khổ sở, ai nấy đều muốn mau chóng khai quật lầu ma chín tầng, bất kể bên trong đó có quái quỷ gì nữa cũng có chỗ đánh giấc lúc cho lại người là được, đợi khi tinh thần sức lực hồi phục dồi dào, khoẻ khoắn, đào hơi lôi cái Băng xuyên thủy tinh thi ra, rồi nhân lúc có đợt rét ẩm, sông băng cứng chắc là có thể thu quân rút lui. Mọi người là làm, liền chuyển trang thiết bị vật tư sang phía khuất gió duới chân dốc, gạt ra đống tuyết lơn, bấy giờ lớp băng màu lam mới lộ ra. Chúng tôi quét nuớc gừng lên như lần truớc, đợi nước gừng ngấm rồi bắt đầu đào khoét. Xư-Chê tranh thủ kể lại cho chúng tôi câu chuyện được nghe từ hai năm truớc, tuy cũng xảy ra ở vùng núi sâu trong dẫy Côn Luân, song lại cách Kelamer rất xa. Dân gian Tây Tạng lưu truyền câu chuyện cổ hãi hùng, kể rằng núi tuyết, cứ vào những đêm tối trời lại có loài quái sống trong băng kéo nhau cuớp xác tuơi mới chết. Chúng rúc vào lớp áo quần mình xác chết khiến xác chết lập tức huyển sang màu trắng, nếu tiếp tục bắt được ngưòi súc vật còn sống để ăn, chúng mỗi lúc lớn phổng lên, nhưng cũng teo rất nhanh vì tiêu hao ngừng, chỉ nội trong hai ba ngày có người sống ăn, bầy quái lại tản ra, và lại chui xuống sông băng náu, cho đến khi đánh hơi thêm được xác người mới chết. Lũ này thích chui rúc trong khe trong hốc nới băng tuyết, chỉ xuất lúc đêm hôm khuya khoắt, hơn bảy trăm năm trước từng gây nhiều đại hoạ, giết chết vô số người và súc vật. Trong các kinh sách ở nhà chùa có bộ Chí tôn tông Keba Đại sư truyện, ghi lại viêc này rất tưòng tận. Tôi hỏi Xư-Chê: " ra Di lặc tuyết phải là con, mà là bầy à? Hàng bao nhiêu con cùng tụ tập lại á?" Xư-Chê gật đầu , đúng đấy, nhiều nhất cái xác có đến mười mấy con cùng chui vào, chúng hút ăn máu và thịt người chết, rồi béo ú ra y như đống thịt mỡ lặc lè, nhìn giống như người tuyết phì nộn vậy, nên dân địa phương mới gọi là "Di lặc tuyết". Đại hoạ Di lặc tuyết gây ra là chuyện quá xa xưa, nên người ta cũng hầu như quên cả rồi. Có điều hai năm trước đây từng xảy ra chuyện hết sức quái đản tà mị, làm chết nhiều người lắm. Bấy giờ có đoàn địa trắc vào núi Côn Luân, đào được mấy con người tuyết béo mẫm trong đóng tuyết, còn chưa kịp tìm hiểu tình hình, bị lũ hình nhân trắng phớ kia xô xuống hang tuyết, cả đoàn muời con người, cuối cùng chỉ còn có hai kẻ trở về. Truớc đó lâu, chính tại khu vực đoàn địa trắc gặp nạn có lở tuyết, khiến đoàn leo núi đa quốc gia mất liên lạc với bên ngoài. Các vị sư tu hành lâu năm ở ngôi chùa gần đó , đám ngưòi tuyết béo núc mà đội địa trắc gặp phải có thể chính là thi thể của những người leo núi bị Di lặc tuyết nhập vào. Chính quyền kêu gọi dân chúng tìm đoàn leo núi mất tích kia và cả xác các thành viên của đoàn leo núi mất tích kia và cả xác các thành viên của đoàn địa trắc, vậy là dân du mục và các vị lạt ma khắp các vùng quanh đó, cùng với quân đội , tổng cộng trăm mấy chục con người cùng tiến vào núi tuyết đúng năm ngày trời lặn lội tìm kiếm, kết quả tay trắng quay về. Nhuợc điểm duy nhất của Di lặc tuyết là chúng chỉ có thể xuất hiền vào ban đêm, ban ngày cho dù mưa tuyết đầy trời chúng cũng dám lộ mình, ngoài ra, sách Chí tôn tông Keba Đại sư truyện cũng có nhắc tới điểm, là bọn này còn đặc biệt sợ muối hột. Xư-Chê bảo chúng tôi:" Nhưng bây giờ chúng có muối hột, muối tinh cũng chỉ còn chút ít, mà ban đêm chắc chắcn Di lặc tuyết lại mò đến đấy. Bầy sói e là cũng trốn quanh quất trong khe băng nào đó gần đây tránh gió tuyết rình thời cơ tấn công, xem ra đêm nay sông băng này có màn kịch hay đây". Tuyền béo cầm súng lăm lăm lên giọng: "Đáng tiếc là mấy thứ hàng họ này được thuận tay, mà hoàn cảnh cũng bất lợi cho chúng ta quá, chứ mình Tuyền béo tôi cũng dám tay bo với nó, Di lặc tuyết cái mẹ gì, vào tay tôi và tôi véo cho nó gầy ngay!" Trước mắt dường như chỉ còn cách khai quật tháp ma,xem bên dưới tình hình ra sao, rất có thể tận dụng luôn hố đào làm công chiến đấu, bấy giờ mới tính thêm được. Chẳng mấy chốc, nước gừng tươi thấm sâu, mọi người lập tức xúm vào đục băng. Đào được chừng năm, sáu mét thấy khối lớn trông như gỗ kỳ liên viên bách, kết cấu tổ hợp ghép từ những súc gỗ vuông, tròn cộng với đất đầm. Đến đây, xử lý cái mớ thổ mộc hỗn độn này còn phiền phức hơn cả đập phá băng cứng, nhưng cũng may chúng tôi có đông người, đều chân tay nhanh nhẹn, dụng cụ lại đầy đủ, chưa đến nửa giờ đồng hồ khai quật được tầng của tòa tháp ma. Để phòng ngừa có thể có bọ tá phủ và Vô luợng nghiệp hoả, chúng tôi chuẩn bị hết sức kỹ càng, ngờ tầng đầu tiên của toà tháp có gì, chui được vào quan sát, thấy bên trong giống gian phòng thấp tè có kết cấu đất, gố, dựng chủ yếu từ những cây gỗ đen và đất đầm xám xịt. Nhìn khắp chỉ thấy chiêc mâm băng cực lớn đặt ngay nền đất, vừa mỏng vừa trong veo, mặt khắc hình tượng thần, xem ra muốn tiếp tục đào xuống duới, phải đập vỡ chiếc mâm băng này rồi. Shirley Dương lại gần xem xét tuợng thần, đây là hình tuợng võ tuớng đầu sói mình người, mặc chiến giáp. Đầu sói màu trắng, áo giáp màu bạc, hình như tôi trông thấy ở đâu đó. ngẫm nghĩ, bọn Minh Thúc cũng lục tục kéo vào. Nóng lòng tìm chỗ nghỉ ngơi, Xư-Chê và Tuyền béo lấy cây đục bắt tay vào phá luôn chiêc mâm, nghe tiếng vang giống đục vào băng chút nào, bèn tháo găng tay sờ thử... ra là khối thuỷ tinh tròn. Truyện "Ma Thổi Đèn " Truyện "Ma Thổi Đèn " Minh Thúc cũng xán lại xem hôi Tuyền béo tác nghiệp. Bấy giờ mấy ngọn đèn pin đều rọi cả lên mặt mâm, vừa thấy hình tuợng đầu sói mình người, lão lập tức biến sắc, cuống quýt lấy cuốn kinh Luân Hồi tông ra, chỉ vị võ tuớng đầu sói mâm thủy tinh , thể phá vỡ khối thuỷ tinh này được, trong đó có lời nguyền của nô sói trắng Ma quốc, hễ mà phá vỡ nó, lời nguyền thoát ra. Tôi lắc đầu tỏ ra tin, trong Thập lục tự duơng phong thuỷ bí thuật cũng có giảng giải về các bố trí của tháp ma chín tầng, tôi cũng thấy loại tháp này trong núi lửa, tầng đầu tiên thể có chốt bẫy gì được. Chiếc mâm thuỷ tinh tròn này chắc là loại trang sức của tháp táng, được gọi là "Linh cái", ở những chỗ nối liền các tầng đều có. Tôi vẫn còn lơ mơ "lời nguyền" và " chốt bẫy" có gì khác nhau, nhưng lúc này dù có tin lời Minh Thúc cũng muộn, chiếc mâm thủy tinh khắc nô đầu sói bị mấy phát đục làm nứt. Chỉ trong nháy mắt, vết nứt lan rộng hết mức, chỉ cần chạm khẽ thôi là cái mâm tan tành. Để so với những chốt bẫy hiểm đọc, lời nguyền vô hình còn khiến cho người ta ăn đủ hơn ấy chứ. lúc phân vân, thấy Shirley Dương tiến lại, gõ lên mâm thuỷ tinh Linh cái, làm nó vỡ vụn ra. Tôi biết nàng xưa nay là người cực kỳ cẩn trọng, làm như vậy chắc hẳn biết muời muơi, thành thử cũng yên tâm phần nào. Sau khi khối thuỷ tinh hình tròn vơc tan, quả nhiên chẳng có gì xảy ra. Tuyền béo hậm hực bảo Minh Thúc toàn chuyện bé xé ra to, cứ thấp tha thấp thỏm kiểu đó rất dễ làm ngưòi khác vỡ tim, tai hoạ còn trầm trọng gấp mấy lần lời nguyền và chốt bẫy ấy chứ. Shirley Dương bảo chúng tôi: "Minh Thúc sai, chỉ có điều chiếc mâm thuỷ tinh ở tầng này là giả, thứ chứa đựng lời nguyền nằm ở nơi sâu nhất kia. Toà tháp ma thờ xác Tà thần này cũng được nhắc đến trong trường thi Chế địch Bảo châu Đại vưong. Trong toà tháp, bên cạnh Tà thần ở tầng trệt, có thờ nô sói chúa màu bạc tên là "Thuỷ tinh tự tại sơn", hễ có ngưòi đến gần, đại quân của con sói này từ trời giáng xuống, ăn sống nuốt tươi kẻ xâm nhập." Thần sói thuỷ tinh tự tại sơn là nô của Ma quốc, trong hệ thống thần thoại Tây tạng cổ sơ có rất nhiều chuyện liên quan đến nó. Thuỷ tinh tự tại sơn lúc sống vốn là con sói trắng to lớn lừng lững, sói tổ của loài sói dữ trong cùng núi Côn Luân, nhưng danh hiệu này mãi sau khi nó chết mới có. Truyền thuyết kể con sói trắng bị Liên Hoa Sinh Đại sư giết chết, xác liền hoá thành khối thuỷ tinh băng sơn lồ, nên mới gọi là "Thuỷ tinh tự tại sơn". Trong khối "Thuỷ tinh tự tại sơn" do xác sói trắng hoá thành này chứa đựng lời nguyền cay nghiệt của vong hồn nô, bất kỳ kẻ nào có ý đồ tiếp cận đều chết có chỗ chôn. Ma quốc là dân tộc sùng bái vực sâu và động huyệt, Băng xuyên thủy tinh thi được coi là biểu trưng của Tà thần chắc chắn nằm ở tầng sâu nhất của tháp ma chín tầng. Shirley Dương nhắc nhở chúng tôi, lúc nào đào đến đáy, cần hết sức cẩn thận, chớ làm tổn hại đến Thuỷ tinh tự tại sơn mà rước hoạ vào thân. Sông băng Long đỉnh xưa kia là vùng hồ nuớc mênh mông, toà tháp ma rất có thể nằm chính hòn đảo giữa hồ. Đất xung quanh toà tháp ma đều đông cứng hoặc là nham thạch, xa ra phía ngoài là sông băng sâu dày, phần đáy tháp có khi còn thông sang vực băng có Di lặc tuyết náu mình, càng đào sâu xuống càng nguy hiểm. Chúng tôi tính toán xong xuôi, lần luợt đào xuống thêm được hai tầng nữa. Ở đây có người tuẫn táng, chỉ có số đầu bò xếp thành hình gò Mã Ni, trơ ra những cái sọ trắng nhờ và sừng tua tủa, đây có lẽ là xuất phát từ sùng bái đối với loài bò, bởi cao nguyên này, bất cứ phần nào cơ thể bò Yak cũng đều là báu vật. Khắp các miên đất Tây Tạng cổ, bất luận là ở bộ tộc nào, đều có điểm này là tương đối đồng nhất. So với toà tháp bồi táng phải là xa hoa giàu có tột đỉnh của giáo chủ Luân Hồi tông trong hố băng lúc truớc, toà tháp ma chín tầng trống trơn này khiến cho chúng tôi khỏi thất vọng. Đào bới hồi, mọi người đều mệt lử, đành quay lên tầng cung, đốt lửa sưởi và nấu cơm, rồi chui vào trong túi ngủ đánh giấc. Hai giờ chiều tôi gọi cả bọn dậy, phải tranh thủ trước khi trời tối đào xuống chỗ sâu nhất. Nếu làm nhanh, chúng tôi có thể rút khỏi sông băng Long đỉnh truớc khi đợt rét ẩm kéo về. Mọi người ai nấy đều trang bị công cụ vũ khí, Minh Thúc moi trong túi ra con mèo sứ hoa muời ba ria tổ tiên để lại, kiểm tra thấy hề bị rụng mất nửa sợi ria nào mới đặt xuống đất, kéo A Huơng lại cùng vái mấy vái. Tôi và Tuyền béo tò mò đứng cạnh xem cho vui. Tôi hỏi lão: "Ria mèo sứ chưa đứt, có phải chứng tỏ chúng ta có thể mã đáo thành công, rút lui an toàn ?" Minh Thúc đáp: "Đuơng nhiên rồi, cái này thiêng lắm, chắc chắn mã đáo thành công, rút lui an toàn chứ, cho nên tổ tiên nhà tôi mới có câu, đủ ria đủ bóng." Lão xong, giao con mèo sứ lại cho A Huơng, bảo cất giữ cẩn thận, còn mình tiếp tục lấy ba lô lấy ra chiếc ấn đồng có khắc mấy chữ "Thiên quan tứ phúc, bách vô cấm kỵ", chuẩn bị để lúc nào đào được Băng xuyên thủy tinh thi dùng đến. Tôi thấy chiếc ấn mới nhớ ra, thứ này là hàng nhái, chẳng có tác dụng khỉ gì. May mà trước khi rời Bắc Kinh, Shirley Dương nhờ người chuyển bộ "Tinh quan đính thi châm" ba muơi sáu chiếc kim từ Mỹ tới, món cổ vật các Mô kim Hiệu úy thời Đường vẫn sử dụng, sau này bị lưu lạc ra hải ngoại, có bộ đồ này chắc cũng đủ để ứng phó tạm rồi. Trong lúc tôi còn bần thần mọi người chuẩn bị xong xuôi. Tôi, Tuyền béo, Peter Hoàng và Xư-Chê bốn người chia làm hai tổ, mỗi tổ đào tầng, cứ lần lượt phân chia, uớc chừng nội trong ba giờ đồng hồ đào tới tầng thứ chín. Tầng tháp thứ ba treo đầy những lá phướn ma chữ, chỉ vẽ các vằn sao, chia làm năm loại màu: đỏ, lam, trắng lục, đen, trong đó phướn màu đen nhiều nhất, phuớn màu lam ít nhất. Theo những ghi chép của Luân Hồi tông về Ma quốc những màu sắc này lần luợt có ý nghĩa tuợng trưng khác nhau, đỏ là máu, lam là trời, trắng là mạch núi, xanh lục là nguồn nước, màu đen tuợng trưng cho vực sâu. Nhìn màu sắc của những lá phướn ma này, có thể thấy tín nguỡng Ma quốc rất khác biệt với các tôn giáo khác, trong thế giới quan, vũ trụ quan của họ, màu đen càng nhiều động huyệt càng sâu, sức mạnh càng lớn. Tôi bảo Tuyền béo giật hết những lá phuớn ma quái đản rối mắt này xuống, tấp đống để nhóm lửa, rồi tiếp tục xuống tầng bốn. Tầng tháp này có vô số khối đá tròn như quả trứng khắc đầy kí hiệu khác nhau, đây rất có thể là các khối đá chép kinh trong truyền thuyết, chắc là có giá trị với dân khảo cổ, còn trong mắt chúng tôi chỉ là đống đá vụn hơn kém. Xem hết tầng này đến tầng khác, dường như ngoài khối thủy tinh gọi là Linh cái kia ra, chẳng thấy có thứ gì khác giá trị. Bọn tôi trong bụng đều chắc mẩm lần ra được chút ít manh mối liên quan đến thần điện của Ma quốc, nhưng xuống được đến đây rồi khỏi có chút thất vọng. Cứ như vậy đào hết tầng này đến tầng khác, mãi đến khi đào tới tầng thứ tám, mới phát tầng này khác hẳn các tầng kia. Ở đây cũng có chiếc mâm thủy tinh linh cái, lúc vừa nạy được mâm Linh cái ra chẳng phát gì, nhưng vừa chui xuống tôi cảm thấy ngay là bất ổn, xung quanh có rất nhiều bóng người, bèn vội tay chiếu đèn pin mắt sói, tay rút khẩu M1911 ra. Mười chín cái xác đàn ông vóc dáng lừng lững. cùng tư thế ngồi, quây thành vòng tròn. Do trong tháp ma xưa nay lúc nào cũng băng giá, thành thử những thi thể này chẳng khác gì người sống, chỉ có điều mặt mũi đen nhẻm, đen nhèm, trang phục lại càng kì dị, trông rất giống người đồng trong thiên cung mộ Hiến Vương. Shirley Dương chui xuống liền sau tôi, trông thấy những cái xác ngồi này liền bảo: "Họ có thể là thầy tế hoặc hộ pháp tự nguyện tuẫn táng sau khi xác thủy tinh nhập liệm. Cẩn thận tầng này có mai phục!" Truyện "Ma Thổi Đèn " Tôi giơ tay ra hiệu, bảo bọn Tuyền béo định chui xuống dừng lại, mời A Hương xuống trước, dùng đôi mắt bản năng quan sát lượt xem xem tầng này có thứ gì sạch . A Hương sợ suýt khóc, miễn cưỡng đưa mắt nhìn mười mấy cái xác cổ cách khó khăn, rồi lắc đầu ra ý rằng có gì cả. Tôi vẫn dám khinh suất, chừng mấy cái xác hộ pháp trong tháp ma này đều có thứ bị có thể đốt linh hồn ra tro, đó mới là vlnh thực , lỡ chạm vào người tí chút rồi chịu chết cách gì dập tắt được. Tòa lầu ma chín tầng quan trọng bậc nhất này, khai quật quả thực hơi quá thuận lợi, càng như vậy, càng khiến người ta cảm giác có nhiều nguy cơ. Dẫu sao đây cũng là tầng thứ tám rồi, nước gừng vẫn còn nhiều, nên tôi bảo Tuyền béo chỉ cần giữ lại ít để phòng bị, còn lại đem ra phun cả lên đám xác cổ, lại gom hết nước trong các bình lại, vẩy đẫm tầng tám, chỗ nào chỗ nấy đều dầm dề, bấy giờ mới cảm thấy yên lòng mà khai quật xác Tà thần ở tầng dưới cùng. Hắc chiết tử, xẻng băng, gậy gộc đều được bọn tôi đem ra nạy bật tấm ván gỗ đen sì, bên dưới liền lộ ra gian hình vuông tối tăm, cũng được xây bằng gỗ, đất và đá. Vứt liên tiếp bảy tám ống đền huỳnh quang xuống, trong đó mới sáng hơn chút. Chúng tôi ai dám mạo hiểm trèo xuống, ngồi hết cả lượt miệng hố quan sát. Minh Thúc sốt sắng muốn xem Băng xuyên thủy tinh thi mà lão ngày đêm mơ tưởng kia rốt cuộc hình thù thế nào, chen hẳn lên phía trước, ngắm nghía hồi lâu, càng nhìn càng thấy kinh hãi, phía dưới kia làm gì có xác Tà thần nào chứ? Tầng cuối cùng chỉ có hai khối thủy tinh hình tròn kích thước bằng nhau, khối màu trắng, khối màu lam, đặt bục đá, có ánh đèn huỳnh quanh soi vào phát sáng lấp lánh, có thể thấy bản đồ sao nổi lên bề mặt, ngoài ra tuyệt nhiên có gì hơn. Hai khối tinh thể thiên nhiên này ràng thể nào là Băng xuyên thủy tinh thi được, cũng thể nào là Thủy tinh tự tại sơn chứa lời nguyền được, bởi chúng chỉ to bằng nắm tay người. Tuyền béo thấy vậy vội an ủi Minh Thúc, bảo tuy chưa tìm thấy chính chủ, nhưng hai món này xem ra cũng đáng cả đống tiền, coi như chúng ta chuyến này phải về tay rồi còn gì. Tôi bảo Minh Thúc gian tầng dưới này tối quá, chúng ta đứng đây quan sát sợ nhìn hết được các chỗ khuất, cứ phải xuống tận nơi xem kỹ mới biết được, có lẽ nó được giấu trong chỗ nào đó chăng. Cái gì muốn đến cứ đến, phen này làm cho trắng đen quyết thôi. Vậy là mọi người lục tục trèo xuống tầng cuối cùng, bên dưới nữa là nền tháp. Loại mộ tháp này giống như Phật tháp hay địa cung trong chùa, đây chắc tận cùng rồi. Chúng tôi nhấc hai khối thủy tinh màu lam và trắng ra, thấy bục đá có thể chuyển dịch. mình Tuyền béo đẩy bục đá sang bên, phía dưới có hố đất nông đặt khối đáthủy tinh lớn song rất mỏng. Bề mặt thủy tinh vằn vện lớp lớp rất tự nhiên, trông như những vệt nước lăn tăn, có khắc thần tướng đầu sói mình người, mặt mày bặm trợn hung dữ, đầu đội mũ trụ trắng, mình mặc áo giáp bào trắng, tay cầm trường mâu có dải lụa màu bạc, tư thế nhảy từ xuống hết sức oai phong lẫm liệt. Shirley Dương vừa trông thấy vội cảnh báo ai được làm bừa, đây chính là Thủy tinh tự tại sơn chứa lời nguyền của nô trong truyền thuyết, tuy thực hư rốt cuộc như thế nào chưa , nhưng những vệt sóng trong đá thủy tinh này hết sức kỳ dị, tựa hồ như bị khóa lại ở bên trong. Khối thủy tinh này khi nứt ra, cả dải núi tuyết cũng như sông băng Long đỉnh có lẽ đều có nguy cơ sụp đổ...