Ma thổi đèn - Thiên hạ bá xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.3 - Chương 52: ÔNG GIÀ KHANG-BA





      Mùa đông năm 1970, tôi và đồng đội là Đô, cùng nữ cán bộ thăm dò địa chất là Lạc Ninh thoát khỏi vực sâu chết chóc là nhờ đội tuần tra của binh trạm cứu sống. Nhiệt độ dưới lòng đất và mặt đất chênh lệch quá lớn khiến chúng tôi đều sốt cao hôn mê bất tỉnh, rồi được đưa vào quân y viện của phân khu.


      Bệnh tình của Lạc Ninh ngày càng xấu , ngày thứ ba buộc phải chuyển viện, sau đó thế nào tôi , cũng biết tin tức gì về ấy nữa. Tôi và Đô chỉ sốt cao hai hôm, truyền dịch vài hôm, ăn vài bữa cơm bệnh viện rồi bình phục.


      Nằm viện đến ngày thứ sáu Từ là cán Ban tuyên truyền sư đoàn đến tìm chúng tôi. , từ khi sư đoàn vào núi Côn Luân, có tôi và Đô là hai người đầu tiên lập công hạng ba, nên muốn chụp ảnh để về tuyên truyền trong phạm vi sư đoàn nhắm khích lệ tinh thần cách mạng của các chiến sĩ.


      Bấy giờ tâm trạng của tôi được tốt lắm, chỉ mong sớm được ra viện. Cả tiểu đội chỉ còn hai chúng tôi sống sót, muốn sớm trở về đại đội để tránh phải hằng ngày nằm giường hễ nhắm mắt là lại chập chờn hiền ra bóng dáng các đồng đội hy sinh.


      Cán Từ chủ lực của sư đoàn chúng tôi sắp vào núi Côn Luân, chụp ảnh chúng tôi xong đến ngay binh trạm ở suối Bất Động tìm đội tiền trạm.


      Nghe suối Bất Động, tôi lập tức phấn chấn, vì đại đội tôi chính là đội tiền trạm của sư đoàn, tôi bèn bàn với Từ để với bệnh viện trả sớm hai chúng tôi trở lại dòng thác đấu tranh cách mạng.


      Từ rất thông cảm, ngay hôm đó cả ba chúng tôi lên xe tải chở quân nhu cho binh trạm, theo đường quốc lộ tiến vào núi Côn Luân. Nửa đường bỗng có tuyết rơi, khắp bầu trời là mây đen, tuyết lơn rơi lả tả, bạt ngàn trắng xóa.


      đời này chẳng có nghề nào mạo hiểm hơn nghề lái xe hai con đường Thanh Tạng và Xuyên Tạng. Tiếng xích chống trơn trượt nghe mà kinh hãi, tiếng vải bạt và lá cờ cắm trước mũi xe đánh gió phần phật, gió lạnh cắt da luồn vào xe khiến chúng tôi thể ngồi cụm lại với nhau cho ấm, nước trong bi đông bị đóng băng, hai hàm răng va nhau lập cập, khó khăn lắm mới về đến suối Bất Động, chúng tôi lập tức chạy vào ngồi vây lấy lò lửa để sưởi ấm.


      Từ là người miền Nam, vóc người và thể chất có thể là tạm được nhưng so với lính đại đội cơ sở chúng tôi, vẫn hơi mảnh khảnh. Nhưng cũng như đại đa số thanh niên thời kỳ đó, trong dòng máu luôn rạo rực động lực kỳ lạ, chúng tôi mới hơi ấm chút, hoắng lên thu xếp chụp ảnh cho tôi và Đô.


      Chúng tôi nhờ hộ mới về được binh trạm, nên chỉ còn cách nghe theo sắp xếp. Tôi lấy cuốn Mao tuyển ra, đứng bên lò lửa làm bộ say sưa đọc. Từ bấm máy, đèn chớp cái khiến tôi loá mắt suýt đánh rơi cả sách vào lò lửa.


      Từ : "Đồng chí Nhất ạ, chưa cần tráng phim in ra ảnh, với kinh nghiệm của minh, tôi dám khẳng định bức ảnh này cực đẹp, vì vẻ mặt đồng chí khi đọc trước tác của Mao chủ tịch rất chăm chú."


      Tôi vội khiêm tốn : "Tôi ấy à, hễ mà cứ học tập Mao chủ tịch chẳng nhớ mình là ai đâu, hoàn toàn quên mất là mình chụp ảnh ấy chứ. Ẳnh đẹp là do kỹ thuật chụp của mới đúng."


      Đô đứng bên cạnh : "Tư thế của Nhất quả thực quá chuẩn, tôi cũng bắt chước ấy là chuẩn rồi, mai kia ra thông báo, Từ cũng cho chúng tôi lời nhận xét là "chăm chỉ cần cù" nhé?"


      Từ cười: "Thế hợp, mấy chữ này người khác dùng rồi, còn cụm từ "quên ăn quên ngủ" là dùng để hình dung đồng chí Lôi Phong, theo tôi, hai nên lấy mấy chữ "miệt mài chăm chú" , được ?"


      chuyện đại đội trưởng của chúng tôi trở về. quê ở Tứ Xuyên, là lính kỳ cựu. Nghe cả tiểu đội chỉ còn hai chúng tôi sống sót trở về đơn vị, bèn đội cả gió tuyết về đây. Tôi và Đô vội đứng nghiêm chào.


      Đại đội trưởng thụi cho chúng tôi mấy quả vào ngực, : "Trở về là tốt rồi, tiếc là, chỉ đạo viên và các đồng chí kia... thôi... nữa. Hai cậu mau ăn cơm . Tổ cụ nó, lát còn nhiệm vụ khẩn cấp nữa chứ." xong, vội quay người ra luôn.


      Tôi, Đô và cả cán Từ nghe có nhiệm vụ khẩn cấp, lại thấy đại đội trưởng vội vã như thế, biết là xảy ra chuyện gì đó, nhưng lúc này tiện dò hỏi, đành khẩn trương ăn cơm. Khi ăn mới nhận ra rằng đa số chiến sĩ đội tiền trạm đều có ở đây, ra là tiếp sau chúng tôi, đội tiền trạm lại chia thành vài phân đội vào núi Côn Luân. Binh tram suối Bất Đông giờ trống vắng, chẳng còn lại mấy người.


      Tôi cảm thấy bầu khí có nét căng thẳng, bèn hỏi thông tin viên Trần Tinh xem chuyện là thế nào. ra cách đây ba ngày, quả núi gần đây lại có dư chấn động đất. Ban đầu là hai người dân chăn nuôi gia súc vào chùa Đại Phượng Hoàng bỏ hoang núi để tránh tuyết, động đất khiến bò của họ sợ hãi cũng chạy cả vào trong chùa. Sau chùa có cái hồ nước thối hình như hồ này cũng như suối Bất Đông, vào mùa đông, nước đóng băng. Hai người chăn bò ấy chính mắt nhìn thấy cánh tay to mọc đầy lông xanh thò lên từ dưới hồ tóm lấy con bò Yak Tây Tạng kéo xuống. Cả hai vội chạy đến để cứu con vật, nhưng khi kéo được lên con bò biến thành... đống thịt khô. Chỉ trước sau mấy phút, con sót lại cũng chỉ còn bộ da và thịt khô. Bà con chăn nuôi sợ quá, cho rằng có ma, bèn báo cáo bộ đội.


      Chuyện của người dân chăn nuôi, quân giải phóng thể quan tâm. Cấp bèn tập hợp những nhân lực cơ động thành đội hỗn hợp, do hai người kia dẫn đến chùa Đại Phượng Hoàng để xem xem cái gì phá hoạn nền tảng của chủ nghĩa xã hôi. Hồi đó có phong trào rầm rộ săn chó sói, tất cả các động vật có hại cho dân chăn nuôi đều trong diện bị săn bắn.


      Nhưng các chiến sĩ này, kể cả hai người dân, hai ngày hai đêm mà sống chết thế nào, thông tin hoàn toàn gián đoạn. Binh trạm suối Bất Đông bèn báo cáo lên cấp . Cấp rất coi trọng việc này nên ra chỉ thị, ý rằng chủ nghĩa đế quốc từ bỏ dã tâm tiêu diệt chúng ta, tình hình đấu tranh giai cấp rất phức tạp, rất có thể hai người dân chăn nuôi kia báo cáo láo chứ thực ra chúng là bọn đặc vụ, đặc biệt là nhiệm vụ của đội tiền trạm ở núi Côn Luân này lại hết sức mẫn cảm, cho nên phải lập tức cử bộ đội tiếp ứng ngay.


      Ở binh trạm chẳng còn mấy người, hơn nữa vẫn cần để lại số người trông coi vật tư, các binh trạm khác lại ở quá xa, trong thời gian ngắn khó có thể tiếp ứng. Nhưng quân lệnh như sơn, nhất thiết phải phục tùng mệnh lệnh cấp , đại đội trưởng còn cách nào khác đành cử người gác thay hai người, trong đó có cả đại đội trưởng, vậy là gom được ba người, thêm tôi và Đô, cán Từ và lính công binh xung phong bắt đặc vụ, lại có nhân viên địa chất phản xạ nhanh nhậy cũng tham gia, tổng cộng tám người. Tuy vẫn cảm thấy lực lượng quá mỏng nhưng liệu còn cách nào khắc? thể chờ các đơn vị khác tăng viện được, đành cứ thế mà xuất phát thôi.


      Bên ngoài tuyết rơi vừa phải, chúng tôi vừa ra khỏi binh trạm gặp ngay vị lạt ma cao tuổi. Vị lạt ma già này tu ở chùa núi, thường đến binh trạm dùng dầu bơ đổi lấy ít muối tinh. Đại đội trưởng nghĩ rằng ông cụ quan hệ rất tốt với bộ đội, lại thuộc địa hình vùng này, bèn nhờ ông dẫn đường.


      Vị lạt ma già vừa nghe chúng tôi định đến chùa Đại Phượng Hoàng liền tỏ ra rất kinh hãi. Chuyện này dân địa phương đều biết cả, lẽ nào bộ đội đều hay? Vị lạt ma vẫn nhớ chùa Đại Phượng Hoàng được xây vào những năm Càn Long, thờ bảo tượng Kim Cang đại uy đức. Nhưng 50 năm sau bỏ hoang vì hẻm núi ấy là nơi mà vài nghìn năm trước quốc vương Lĩnh quốc "Thế giới Chế địch Bảo châu Đại vương" (tức là Cách Táp Nhĩ vương)" niêm phong ngôi mộ cổ bí hiểm của Ma quốc, là cấm địa của Mật tông.


      Đại đội trưởng cho là vậy, : "Sao lại mộ cổ gì gì thế? Tây Tạng chỉ toàn là thiên táng chứ làm gì có mộ cổ? Chắc chắn là bọn đặc vụ khốn kiếp láo để dọa người ta. Sao các người chịu động não nhỉ? Cách Táp Cách Tiếc cái gì, tôi chả tin!"


      Vị lạt ma già giao thiệp với người Hán lâu, tiếng Trung Quốc rất sõi, thấy thủ trưởng bộ đội tin, liền quyết định cùng chúng tôi vì e chúng tôi làm kinh động đến hồ ma, núi dữ. Dân tộc Tạng rất sùng bái núi cao hồ lớn, trong mắt họ, núi và hồ đều là hóa thân của thần linh, ngoài núi thần và hồ thánh ra, là núi tà ác, hồ quỷ dữ, nhưng những nơi này đều bị Phật pháp trấn rồi. Lạt ma lo những người Hán chúng tôi biết rốt cuộc gây ra những phiền hà gì, nhưng ông ra miệng, chỉ là xin dẫn đường hỗ trợ bộ đội thôi.


      Đại đội trưởng thấy lạt ma bằng lòng dẫn đường đương nhiên đồng ý, : "Được thôi!" Rồi dẫn phân đội tập hợp lâm thời chúng tôi từ binh trạm suối Bất Đông xuất phát.


      Tôi đứng bên nghe họ chuyện, nghĩ bụng, đại đội trưởng là người giỏi chiến đấu, tuy trước khi đến Côn Luân được tập huấn về chính sách dân tộc nhưng trình độ hiểu biết về những nơi cổ xưa và thần bí ở Tây Tạng còn quá thấp.


      Hồi đó tôi còn trẻ nhưng cũng biết, ở vùng đất Tạng, năm hình thức táng là thủy, hỏa, địa, thiên, tháp cùng tồn tại mấy nghìn năm. phải có hình thức chôn xuống đất, nhưng hình thức đó là rất khác thường, ở Tây Tạng chôn xuống đất, đắp thành mồ là rất xấu xa, người ta rất kỵ, chỉ những ai mắc tội năng chết rồi mới bị chôn xuống đất, mãi mãi được chuyển kiếp. Chưa biết chừng trong chùa Đại Phượng Hoàng, có ngôi mộ như thế cũng nên.


      Mười năm sau tôi mới hoàn toàn hiểu ra rằng cách chôn xuống đất ở Tây Tạng đơn giản như tôi nghĩ. Thời cổ có rất nhiều quý tộc chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, họ cũng thích cách chôn xuống đất. núi Mộ Nhật ở Tây Nam Quỳnh Kết có rất nhiều quần thể mộ táng các Tán thổ của nhiều triều đại nước Thổ Phồn vào thế kỷ 7-8. Có khoảng ba mươi ngôi mộ người ta thường gọi chung là "mộ Tạng vương", thân vuông, nóc tron, cao đến vài chục mét, xây bằng đá và đất nên, trong đó có mộ vị vua nổi tiếng nhất là Tùng Tán Can Bố. Có rất nhiều người rằng hình thức này là tháp táng, nhưng thực chất nó chẳng khác gì lăng xây trong núi thời nhà Đường.


      Nhưng vào thời kỳ đó thể phát ngôn những điều này trong bộ đôi, là quân nhân cách mạng phải phục tùng mệnh lệnh của chỉ huy, cấp bảo sao cứ làm vậy.


      Từ chỗ chúng tôi đến chùa Đại Phượng Hoàng trong núi xa lắm, nhưng có đường cho xe chạy, phải vượt đường núi gập ghềnh rất khó . Chênh lệch độ cao rất lớn, cứ cách mươi dặm khí hậu lại thay đổi, núi có tuyết nhưng dưới núi quanh năm lại như mùa xuân. Khu vực quanh chùa Đại Phượng Hoàng hoang vắng vốn có dân cứ, nhưng vì trước núi có bãi cỏ hoang quanh năm xanh tốt, nên thỉnh thoảng cũng có vài dân du mục người Tạng đến cắt cỏ để dùng cho mùa xuân khó khăn. Nghe núi ở đây tốt, hồ cũng tốt, trước kia thường có người và súc vật mất tích cách khó hiểu cho nên dân chăn nuôi thường cố hạn chế đến đó. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Lạt ma dắt theo con ngựa già thồ các vật dụng trước dẫn đường. chừng nửa ngày, vòng qua vài chỗ ngoặt, trời bỗng đổ trận mưa tuyết rất lớn. Mây đen nặng nề sà xuống thấp, những bông tuyết dài như lông ngỗng rơi ngập trời đất, dãy núi Côn Luân nhấp nhô vươn trải trông như những con sóng trắng xóa đóng băng, phóng tầm mắt nhìn xa, khắp nơi sương tuyết mịt mùng, lung linh trắng bạc. Cảnh tượng tuyết bay lả tả tuy đẹp nhưng lại khiến những người trèo đèo vượt núi gặp phải rất nhiều khó khăn.


      Cán Từ và nhân viên địa chất Lư Vệ Quốc là hai thành viên có thể lực hơi đuối trong đoàn, càng lên cao, trời càng sẫm lại, hai người họ đều hẹn mà cùng xuất phản ứng cao nguyên. Có lẽ còn phải vượt qua quả núi phía trước mới đến được chùa Đại Phượng Hoàng ở hẻm núi. Đại đội trưởng bèn hạ lệnh tìm chỗ để mọi người nghỉ ngơi tránh gió và ăn chút cho có sức, sau đó mạch đến tận mục tiêu. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Vậy là phân đội chúng tôi tạm dừng lại, nữ quân y cùng tên là Cả Hồng, người dân tộc Tạng Đức Khâm, vốn tên là Cơ Ma, tiếng Tạng có nghĩa là tinh tú. Cả Hồng khám cho cán Từ và Lư Vệ Quốc, sao cả, có lẽ vì liên tục quá lâu nên chức năng hô hấp hơi bị suy giảm. Chỗ này là hẻm núi trũng, cao lắm, uống vài bát trà bơ là có thể giảm bớt phản ứng cao nguyên, rồi nghỉ lát vấn đề gì hết, phải uống thuốc.


      Vị lạt ma tìm chỗ khuất gió sau tảng đá to, xếp đá lên làm bếp, dùng phân trâu khô đốt lửa rồi đun trà bơ chia cho mọi người, cuối cùng chia đến tôi và Đô. Lạt ma tay lắc cái Chuyển kinh luân, tay cầm trà rót vào bát, rồi : "Cha xi ta lơ!"


      Tôi lạnh cóng, vội cảm ơn lạt ma, sau đó ngửa cổ uống hơi cạn sạch cả bát rồi chùi mép. Trước kia tôi cho rằng cái thứ nước uống bát nháo nấu bằng vừng, muối, bơ... chẳng ngon lành gì, vậy mà giữa trời băng tuyết được uống bát nóng hổi bỗng cảm thấy đời này chẳng thể có thứ gì ngon hơn nữa.


      Y tá Cơ Ma thấy tôi uống hết ngay, bèn xin lạt ma đưa cho cái ấm trà rót thêm cho tôi bát: "Uống chậm thôi, kẻo bỏng lưỡi. Thói quen uống trà của người Tạng là uống hết sạch, phải chừa lại ít mới chứng tỏ rằng mình đàng hoàng rộng rãi!" mỉm cười với tôi rồi quay giúp lạt ma rót trà.


      Tôi nhìn theo , với Đô ngồi bên cạnh: "Tôi thấy y tá Cơ Ma tốt đấy, đối xử với các đồng chí ấm áp như mùa xuân, giống chị tôi lắm cơ."


      Đô ngạc nhiên: "Ô, còn bà chị ở quê à? Sao thấy nhắc đến bao giờ nhỉ? Trông người thế nào? Cho tôi xem ảnh với?"


      Tôi định với Đô rằng tôi nằm mơ mới có bà chị xinh đẹp thân thương đến thế... .bỗng thấy thông tín viên đứng gác gọi to: "Có tình hình bất ổn!" Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tất cả mọi người vây quanh đống lửa đều như bị điện giật, co chân đá tuyết dập ngay lửa rồi nằm rạp xuống, đồng thời phát ra những tiếng lên quy lát lách cách đanh gọn, nhưng chỉ thấy bốn bề tuyết trắng tung bay, màn đêm tối mịt, tiếng gió lạnh heo hút thổi vút qua.


      Đại đội trưởng nằm rạp tuyết cảnh giác nhìn kỹ khắp xung quanh, rồi mắng mỏ: "Bất ổn cái quái gì hử? Thằng Trần Tinh đụt kia, dám hoang báo tình hình, coi chừng ông cho mày ăn đạn đấy, tin hử?"


      Thông tín viên Trần Tinh khẽ, kêu oan: "Đại đội trưởng ơi, tôi lấy đầu ra bảo đảm, tôi quả hề nhìn nhầm, vừa nãy mấy ánh đèn xanh ở đỉnh núi kia lóe lên."


      Tôi với đại đội trưởng: "Hay là bọn đặc vụ phát tín hiệu thông tin liên lạc, giống như trong vở "Bí mật đứng gác ở Dương Thành" ấy, chưa chúng ta có bị lộ , cứ cho tôi trinh sát xem sao."


      Đại đội trưởng gật đầu: "Được thôi! Cậu phải thấp người, và cẩn thận đấy, tốt nhất bắt sống thằng về đây. Ơ kìa... có vẻ ổn."


      Cách chúng tôi vài chục mét phía trước có năm ánh đèn xanh lè. Vì trời tối, khắp nơi bị tuyết phủ nên rất khó nhận ra địa hình chỗ đó. Năm ngọn đèn xanh cứ chầm chậm dập dờn dịch chuyển cùng gió tuyết, lúc sáng lúc tối như ma trơi, rồi vòng quanh chúng tôi.


      Chúng tôi đều giương súng bán tự động ngắm vào mục tiêu, nhưng đại đội trưởng khi chưa làm tình hình được nổ súng. Lúc này, con ngựa già của vị lạt ma bỗng hí vang và đá hậu liên tục. Lạt ma vội bước lại giữ cương, vuốt bờm và niệm kinh vỗ về, sau đó với chúng tôi: "Thần hộ pháp cai quản chăn nuôi bị kinh động. Sói đấy."


      Tôi nhìn năm đốm sáng xanh chập chờn lúc lúc mấy, chẳng lẽ trong đó có con sói mắt? Khi mới đến Côn Luân, tôi nghe người lính già ở binh trạm rằng, ở đồng cỏ Mô Chiên gần đây có vua sói trắng mắt. Nhưng dạo này quân dân phối hợp săn bắn được rất nhiều chó sói nên đàn sói biệt tăm tích, ngờ lại trốn vào núi. Chúng bất ngờ xuất e chẳng phải dấu hiệu tốt lành, đem tai họa gì đến đây.


      Ba con sói quanh chúng tôi mấy vòng, đại đội trưởng bảo Đô bắn chỉ thiên phát để xua , kẻo chúng dụ thêm đồng bọn đến đông hơn, gây ra những phiền hà cần thiết, nhiệm vụ bức thiết lúc này phải là giết sói mà là cứu các đồng chí mất tích. Đô bắn phát lên trời, tiếng súng độc nhất vô nhị của khẩu bán tự động kiểu 56 do Trung Quốc sản xuất xé tan bầu trời đêm.


      Hình như mấy con sói biết quân nhân chúng tôi có vũ khí lợi hai nên dám nán lại lâu, liền biến mất hút vào gió tuyết trong đêm tối. Đại đội trưởng có lẽ tiểu đội kia đường trở về bị bầy sói tấn công, nhưng rồi lại nghĩ khả năng này lớn, vì có trong tay hơn chục khẩu súng bán tự động dẫu có bao nhiêu con sói cũng dám đến gần. Lúc này thời tiết xấu, kẻ địch đáng sợ hơn đàn sói là bọn đặc vụ thâm nhập vùng núi, có nhiều mối đe dọa tiềm , cần nhanh chóng tìm ra phân đội mất tích kia.


      Chúng tôi lập tức lên đường, vượt qua sườn núi lớn, rồi xuống cái dốc rất dốc, bên dưới là đồng cỏ hoang. Ở đây có tuyết, nhiệt độ cao hơn chút nhưng vẫn rất lạnh, khắp chốn cỏ héo xác xơ, chùa Đại Phượng Hoàng điêu tàn hoang vắng khuất sau những vạt cỏ dại.


      Xung quanh đồng cỏ là rừng cây cổ thụ chen lấn, diện tích . Với quân số ít, nếu sục tìm vùng rộng như thế này cũng phải chuyện dễ. Chúng tôi chia thành hai tổ, đại đội trưởng, thông tín viên, đầu bếp, nhân viên địa chất Lư Vệ Quốc và y tá Cả Hồng là tổ, những người còn lại gồm Đô, lạt ma, cán Từ và tôi là tổ hai, tổng cộng bốn người, đại đội trưởng phân công tôi phụ trách tổ hai.


      Hai tổ chia nhau sục tìm hai cánh phải trái. Tôi dẫn tổ hai gạt cỏ dại cao ngang đầu, cầm súng dò dẫm tiến lên phía trước. Gạt cỏ sang bên, có thể lờ mờ nhận ra con đường cổ xưa lát đá, dấu vết của chùa miếu đời Thanh. Nghĩ rằng dấu hiệu này có thể giúp nhận biết phương hướng, tôi bèn bước lên nhưng vị lạt ma nắm lấy tôi kéo lại : " lính trẻ à, đường này phải để cho người ."


      để cho người để cho ma chắc? Nghĩ vậy, tôi bèn với lạt ma: " Giang sơn của nhân dân nhân dân làm chủ, đường của nhân dân nhân dân , ở Trung Quốc dù đường lớn đường bé đều là đường chủ nghĩa xã hội tất, sao lại được ?"


      Cán bộ Từ cảm thấy tôi vậy quá căng, bèn can tôi: "Đồng chí ở địa phương phối hợp với chúng ta làm nhiệm vụ, ta nên lắng nghe ý kiến của họ hơn."


      Lạt ma lục cái túi đeo sặc sỡ lấy ra cây côn sắt cũ kỹ, : "Tôi bốn chục năm làm Thiết bổng Lạt ma cho hai đời Phật sống, nên biết rất việc ở miếu này, con đường này thể , các chỉ việc sau tôi là được. Ngôi miếu hoang này có lai lịch bình thường đâu." rồi ông chệch sang bên, vừa vừa ê a tụng niệm: "Nặc, Kim Cang hàng phục tà ma giả, thần thông diệu thiện tứ thập ngũ, cấp ngã chính tu dĩ thành tựu, vu chư oán địch phát xuất tướng, nhất thiết ma nạn sử giai tức... "


      Chúng tôi chẳng ai hiểu ông niệm cái chú gì, đành sau, hỏi cho có chuyện: "Lão đồng chí.. lạt ma Ake này, ông dường như rất am thuộc ngôi miếu này, ông có thể kể xem tại sao nơi này ngày xưa xây xong ít lâu lại bỏ hoang ?"


      Nghe hỏi thế, lạt ma dừng bước quay lại, khuôn mặt già nua chợt gợi lên nét u ám: "Nghe Quỷ mẫu cuối cùng của Ma quốc và chiếc bát Đại thiền Diệt pháp Kích được chôn ở núi này, ngay Kim Cang đại uy đức được thờ ở đây cũng trấn nổi nó. tình náo động kinh quá, người và gia súc ở đây chết rất nhiều, thể bỏ hoang".

    2. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.3 - Chương 53: QUỶ MẪU KÍCH BÁT ĐỒ





      Chúng tôi tiến dần về ngôi miếu cổ phía trước sục tìm, trong vạt cỏ dại thấy bất cứ dấu chân người nào. Ngoài cỏ lác và đá rải rác, thỉnh thoảng trông thấy vài mảnh xương động vật trăng trắng lấp ló trong đất, nhìn kỹ có cả xương các con vật to lớn là gấu ngựa Tạng và bò Yak, là chết già ở đây hay bị mãnh thú ăn thịt rồi bỏ lại nữa.


      đường đến đầu núi có tòa miếu cổ, lạt ma kể vắt tắt câu chuyện liên quan đến ngôi miếu. Truyền thuyết xa xưa của đất Tạng kể rằng Đại vương Thế giới Chế địch Bảo Châu nhận ủy thác của công chúa Gia Địa (tức Trung Quốc), được giúp đỡ của Liên Hoa Sinh đại sư, tiêu diệt được phi nấp trong núi Côn Luân. Trong thiên trường truyền miệng lưu truyền mấy nghìn năm cũng có miêu tả tỉ mỉ, phi nhắc đến trong thơ vốn là Quỷ mẫu của Ma quốc chuyển kiếp.


      Từ thời cổ, hẻm núi cách suối thần Côn Luân xa là nơi bị nguyền rủa, người chăn nuôi và gia súc qua đây thường mất tích cách khó hiểu. Phật sống ở địa phương từng chỉ lần sai Thiết bổng lạt ma và Hộ pháp Kim Cang đến núi điều tra nguyên nhân, nhưng vẫn tìm ra manh mối.


      Cho đến thời Càn Long, trận lở núi nghiêm trọng xảy ra. Có người phát thấy ngôi mộ cổ vô danh lộ ra ở dốc núi, có vị trí tựa núi nhìn hồ, cửa đá ở hầm mộ sập, mở toang hoác. người dân chăn nuôi nào dám vào mà chỉ đứng ngoài ngó nhìn, thấy bên trong có ít gỗ hàng rào lâu đời.


      nửa con đường đá bên ngoài mộ ngập bên dưới hồ, các tượng đá gồm tượng người, tượng thú như dê, hổ... dùng để trấn mộ đều bị hư hỏng, cũng thấy văn bia ghi ghép hoặc đánh dấu gì hết, cho nên thể biết ai là người nằm trong mộ, những người nán lại lâu bên mộ thường gặp tai bay vạ gió.


      Phật sống cử lạt ma vào ngôi mộ lộ ra đó để lục soát, có moi được số xương người, các thứ khác đều bị mục nát hết, ngoài ra còn đào được tấm bia đá bên khắc bức "Quỷ mẫu kích bát đồ" là cảnh trong truyền thuyết thượng cổ của miền đất Tạng.


      Dân địa phương cho rằng mọi tai họa xảy ra trước đây chắc chắn đều có liên quan đến mụ phi Quỷ mẫu của Ma quốc này, và có lẽ đây là nơi táng thân cuối cùng của mụ. Về sau triều đình biết chuyện, bèn chi tiền bạc để xây ở đây ngôi miếu thờ Kim Cang đại uy đức nhằm quét sạch tà ma, và còn mời Phật sống cử người đến chủ trì mọi việc lớn trong miếu.


      Sau khi chùa Đại Phượng Hoàng khánh thành, có thời ngớt khói hương, ít dân chăn nuôi từ ngàn dặm xa xôi đến thăm núi, ngắm hồ. Nhưng các chuyện kỳ quái vẫn liên tiếp xảy ra, nhiều người lần nào nhìn thấy ban đếm có người vận áo xanh xuất gần hồ, vài hôm sau nhất định có người chết đuối ở hồ đó. Và nạn nhân ấy dù béo hay gầy, hễ chìm xuống nước rồi, dù được cứu lên ngày, đều chỉ còn da bọc xương, thịt da khô đét, trông nhăn nheo như vỏ cây.


      chỉ lần có người chứng kiến từ dưới hồ thò lên cánh tay xanh to bằng bánh xe tóm lấy gia súc bờ lôi xuống. Các vị lạt ma bèn chặn nhánh sông hòng làm cho hồ cạn nước để tìm nguyên nhân, nhưng chỉ thấy đáy hồ xương cốt chất chồng. Họ tụng kinh và làm pháp nhưng đều có tác dụng, đành lấy đá đậy kín ngôi mộ cổ, rồi bỏ chùa ra . Tây Tạng là đất Phật giáo phồn thịnh, việc bỏ chùa là rất hiếm thấy. Kể từ đó mọi người đều nhắc nhở nhau tránh xa cái khu cấm địa ấy.


      Những chuyện xưa cũ này, ngoài các vị lạt ma cao tuổi ra, kỳ dư mọi người dần quên lãng, cho nên lại bắt đầu có người đến bãi cỏ hoang này cắt cỏ mùa đông, vì cho là tiện lợi. Đoạn đường đá mà chúng tôi phát ra là những phiến đá khắc kinh văn, năm xưa dùng để bịt vết nứt của ngôi mộ cổ, bên khắc "Đại nhật kinh sớ" của Mật tông, được phép giẫm lên. Lạt ma kể đến đây, lắc đầu thở dài, hạ giọng : "Ôi, ngày nay chẳng còn mấy ai coi lời đức Phật là gì nữa." Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Đô nghe chuyện kỳ quái như thế, liền khẽ hỏi tôi: " Nhất, những chuyện ông ấy kể liệu có ? Hay là nhăng cuội cũng nên?"


      Tôi tỏ thái độ gì. Nghĩ đến chuyện mấy hôm trước núi lửa dưới chân núi Côn Luân hoạt động liên tục rồi gây nên trận động đất lớn, có lẽ lại làm ngôi mộ cổ này nứt toác cũng nên. Nhưng từ thời Càn Long, mọi thứ trong mộ này sạch bách, bây giờ chỉ còn là ngôi mộ bỏ trống. Tôi chỉ biết nơi nào có mộ bỏ trống đều chẳng nên nán lại lâu, còn về các truyền thuyết kỳ lạ ở ngôi miếu chịu hiểu ra sao.


      Để manh mối bỏ sót dấu vết, bốn chúng tôi dàn hàng ngang và giữ khoảng cách nhất định tiến đến phía trước bức tường đổ của ngôi chùa cổ, nhưng vẫn chưa phát ra gì đáng ngờ. Lúc này tổ của đại đội trưởng từ bãi cỏ bước ra, cũng tìm thấy gì. Hai tổ liền tạm thời hợp nhất rồi tiến vào chùa Đại Phượng Hoàng.


      Ngôi chùa hư hỏng nặng, chỉ còn lại vài mảng tường nứt nẻ đổ nát nhưng vẫn có thể nhận ra quy mô của nó năm xưa. Lúc này vầng trăng tròn to ló ra khỏi tầng mây xám dày nặng, ánh trăng sáng như ban ngày chiếu khắp cả tòa miếu đổ nát. triền núi, tuyết lớn vẫn ngừng rơi, gió rét tràn đến thấm cái lạnh vào tận phổi, phủ tạng dường như đóng băng, chúng tôi đâu còn tâm trạng nào mà thưởng thức cảnh đẹp kỳ lạ vừa có tuyết bay vừa có trăng soi này nữa.


      Bộ đội đóng ở địa phương có câu vè như thế này: "Qua Côn Luân, nào Quỷ môn, đến suối Bất Đông nước vẫn tuôn, nước mắt đóng thành hòn, sài lang chết cóng hẻm Côn Luân." Hẻm núi có ngôi miếu hoang này chính là cái cổng hút gió, gió lạnh kèm theo bụi băng từ bốn phương rót về đây, vang lên những thanh nghẹn ngào kỳ lạ, quanh quẩn mãi bầu trời ở bãi cỏ hoang trước chùa. Kỳ là nhất là nhiệt độ nơi này rất thấp mà cây xanh xung quanh đây vẫn sinh tồn, nước hồ vẫn đóng băng, và cũng có cá hoặc thủy tảo gì hết. Tương truyền rằng vào thời cổ, ở đây có gió thổi nhưng vẫn có sóng to, nước hồ cạn từ lâu, chỉ còn lại vũng nước nho , cho nên bị coi là kiếp trước của "hồ ma Lapangcho."


      Sau khi cả phân đội đều bước vào trong tường bao của ngôi chùa cổ, đại đội trưởng liền mời lạt ma giới thiệu lượt về chùa và địa hình xung quanh. Sau khi nắm được thông tin cơ bản, chia quân thành hai tổ, đích thân dẫn tổ ra khu vực cửa vào mộ cổ ở phía sau chùa, tổ hai phụ trách tìm kiếm trong chùa và khu vực vũng nước bên cạnh, nếu gặp kẻ địch hãy nổ súng uy hiếp, nhưng trước khi nổ súng phải xác định tình hình , nên xảy ra xung đột cần thiết. Nếu đến sáng vẫn tìm thấy tiểu đội mất tích kia đành chờ cấp điều động cả trung đoàn ở phân khu xuống tìm kiếm cứu hộ vậy.


      Phân công xong, dẫn tổ xuyên qua gian nhà đổ. Thực ra ngôi mộ cổ ở sau chùa lớn, chỉ bằng hai gian nhà dân. Chúng tôi nhìn thấy các phiến đá khắc kinh văn ở phía trước cửa chùa, là vì động đất khiến mặt đất bị nứt to, địa tầng của cả dốc núi giãn ra và liền vào với đầu kia của mộ thất.


      Chúng tôi cũng dám chậm trễ, bèn nhờ lạt ma dẫn lối sục sạp khắp trong ngoài chùa lượt. Ở vị trí chính giữa, chúng tôi thấy pho tượng gãy nát, thân mình có nhiều tay, đầu là đầu trâu với nét mặt hung ác phẫn nộ, chính là tượng Kim Cang đại uy đức trấn ác phù thiện.


      Dưới tượng Kim Vang có khối đá dày hơn mét, đào được từ ngôi mộ cổ phía sau miếu, trông rất cũ kỹ nham nhở. Tôi găng tay bông, phủ lớp bụi bề mặt, thấy có các hình khắc. Tôi, Đô và cán Từ rất tò mò muốn xem Quỷ mẫu hình dáng ra sao. Thấy hình chạm khắc đá mờ gần hết, màu, nhưng đường nét vẫn còn rành mạch, có thể nhận ra được bảy tám phần. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      phụ nữ khỏa thân, có ba mắt sáu tay, toàn thân đeo đầy đồ trang sức kỳ cục, đường nét uốn lượn, hình như có liên quan đến thần rắn. Ở hai bên bày hai cái bát to. Thân bát khắc hoa văn hình cánh ve sầu, trong bát có đứa trẻ béo đen ngồi. Nó cũng có ba mắt sáu tay, tay cầm cây gậy ngắn hình con rắn, gõ vào bát. Nền bức vẽ là vô số xương đầu trâu chất đống.


      Có lẽ vì bị chôn dưới đất nên nửa dưới mặt đá rỗ nham nhở và đen xỉn, chỉ nhìn nửa của bức vẽ. Chúng tôi thấy lạ xem, chứ ai thấy Quỷ mẫu đáng sợ cả. Cán Từ : "Hình vẽ này tôn trong phụ nữ, may mà thế lực phong kiến tàn ác bị lật đổ, hàng triệu nông nô Tây Tạng vươn mình và được giải phóng, tất cả đều là nhờ Mao Chủ tịch."


      Tôi đương nhiên rồi, cho nên chúng ta uống nước nhớ nguồn, được quên lời dạy của Mao chủ tịch, phải từng giờ từng phút đề cao đấu tranh giai cấp. xong mấy câu cho hợp cảnh, tôi bèn quay sang hỏi Lạt ma xem Quỷ mẫu là nhân vật như thế nào.


      Lạt ma dẫn chúng tôi ra hồ nước ở sau miếu, ông vừa vừa đọc thần chú kinh văn, rồi kể về lai lịch của Quỷ mẫu. ra trong tích về vua hùng trong bản trường thi, kẻ địch lớn nhất của Lĩnh quốc chính là Ma quốc. Quỷ mẫu là nhân vật có địa vị cao nhất trong Ma quốc, gần như là hoàng hậu, chuyên trách việc luân chuyển đầu thai cho quốc vương Ma quốc sau khi chết. Quỷ mẫu sau mỗi lần chết cũng chuyển lại kiếp phục sinh. Muốn tiêu diệt sạch cả họ quốc vương Ma quốc phải diệt được Quỷ mẫu, nếu cơn ác mộng của Lĩnh quốc kéo dài mãi. Vào thời đại ấy, trong con mắt của mọi người, cái chết cũng được chia ra rất nhiều tầng bậc, cái chết của Quỷ mẫu phải là diệt vong triệt để chấm dứt vòng luân hồi. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      đến những chuyện này, tôi chẳng muốn nghe mấy bèn rảo bước lên, nhưng lại chợt nhớ ra cái lầu ma chín tầng nằm sau dưới băng là mộ của quý tộc Ma quốc, ở đây lại có mụ Quỷ mẫu gì đó, phải chăng chứng tỏ khu vực rộng lớn quanh đây từng là khu lăng mộ của Ma quốc?


      Khu vực phía sau ngôi miếu đổ nát lại càng hoang vắng tiêu điều, vị lạt ma cũng chưa từng vào, mọi người lập tức đề cao cảnh giác. Tôi vốn quen phớt tỉnh tất cả, nhưng trong hoàn cảnh này, bước chân vùng đất hoang tồn tại trong truyền thuyết thượng cổ, toàn thân cũng khó tránh khỏi bị căng cứng. Khoảnh hồ phía sau miếu giờ đây chỉ còn vũng nước, chính là nơi mà hai người dân chăn nuôi báo cáo rằng trâu của họ bị kéo xuống. mặt đất vẫn còn nhiều dấu vết lôi kéo giằng co, có vẻ gì là do đặc vụ cố ý tạo ra.


      Nước hồ gần như là màu đen, tanh thối nhức mũi, bốn chúng tôi đứng bên hồ đều dám thở mạnh vì thối quá. Đô chỉ vào mảng đen trong nước, với tôi: "Hình như là cái mũ bộ đội."


      Đô chĩa súng trường có lắp lưỡi lê, định khều cái vật trông giống mũ da lông cừu kia lên xem. Tôi vừa định ngăn lại bỗng thấy vùng nước thối dưới hồ khẽ động đây, hình như có cánh tay người rất to, màu xanh, từ từ nhô lên định tóm Đô kéo xuống. Tôi lập tức giương khẩu súng trường bán tự động lên đạn, ngón tay chưa kịp đặt vào cò bỗng tôi nghe thấy loạt đạn nổ dồn dập từ hướng Tây Bắc vọng đến..

    3. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.3 - Chương 54: ĐÊM TRĂNG TÌM SÓI





      Tôi giương súng chậm nửa nhịp, Đô bị bàn tay to dưới nước thò lên kia tóm chặt, may nhờ có lạt ma nhanh lẹ, tay túm thắt lưng ta, tay kia vung thiết bổng vụt mạnh xuống nước. Thiết bổng Lạt ma tương đương với chức võ tăng hộ pháp ở các chùa chiền trong vùng nội địa. Cây thiết bổng được khắc đặc kín các câu chân ngôn thần chú của Mật tông, lại rất nặng, vụt xuống khiến cánh tay ma quái kia phải rụt lại. Vậy là cứu được Đô nửa người lao xuống nước.


      Thấy Đô được lạt ma kéo lên rồi, tôi giương súng bắn liền mấy phát xuống hồ, sau đó rút hai quả lựu đạn ném xuống. Lựu đạn nổ, nước bắn lên cao bằng nửa người, cũng chẳng có phá được thứ gì hay .


      Tôi và lạt ma kéo Đô lui về phía sau, hình như bị thương nặng, đau quá kêu rú lên. Tôi mắng luôn :" Chỉ được cái to xác, mẹ kiếp, gào gì mà gào? Cao hơn mét chín, sao cứ kêu um lên như đàn bà thế? Có dính tí nước thối thôi chứ làm sao đâu?"


      Nhưng xong tôi bỗng cảm thấy đúng. Cái áo choàng của Đô dính nước bẩn đen sì, nửa người như quả bóng xẹp hơi, hoàn toàn bẹp nhũn, vừa nãy còn gào to, mấy giây sau đau được nữa, những giọt mồ hôi to như hạt đỗ túa ra trán rồi lăn xuống. Lạt ma thấy thế vội moi trong túi ra cái lọ sứ, cởi quân phục của Đô ra rồi rắc thuốc bột màu đỏ lên người .


      Tôi thấy bên vai của Đô héo quắt biến thành lớp vỏ cây khô, cứ như là xác chết bị mất hết huyết dịch. Đầu óc tôi như rỗng , chẳng biết nên làm gì nữa. thuốc của lạt ma có hiệu nghiệm , nếu cấp cứu muộn chắc Đô bỏ mạng mất, phải gọi ngay y tá Cơ Ma! Lúc này tôi mới sực nhớ ra, vừa nãy nghe thấy năm sáu phát súng trường bán tự động nổ ở hướng Tây Bắc. Chắc tổ của đại đội trưởng cũng gặp phải nguy hiểm rồi, sao lúc này tiếng súng bên đó lại im bặt?


      Tôi định chạy sang bên đó xem sao, nhưng Đô bị thương rất nặng, và cũng chưa dưới hồ nước có vật gì, bị lựu đạn tiêu diệt chưa. Khi chưa xác định ràng, nếu chỉ để lạt ma ở lại đây e chưa chắc thương binh được an toàn. Tôi đành ở lại cố thủ và chờ chi viện, mong sao bên đại đội trưởng cũng nghe thấy động tĩnh bên này và nhanh chóng chạy lại.


      Tôi dìu Đô lánh vào sau mảnh tường đổ mới phát ra cán Từ biến mất. Cho rằng ta gặp bất trắc gì đó, tôi muốn chạy ra tìm, lạt ma bảo tôi rằng bộ đội ấy thấy ngoài hồ nước có chuyện bèn quay người chạy luôn, chắc lúc này ra đến cửa chùa rồi. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tôi tức điên lên chửi :" Tổ sư thằng khốn nạn, ngày thường cứ ra vẻ như mỗi mình làm cách mạng ấy, đến lúc hệ trọng đào ngũ, còn chưa đánh xong phát rắm chuồn mẹ nó rồi. Ông mà còn sống trở về phải vạch cái bộ mặt đểu giả của loại hèn hạ, giả bộ tích cực bợ đít chủ nghĩa xét lại kia ra!"


      Đứng sau bức tường, tôi ghé đầu ra ngó nghiêng quan sát. Nước bẩn trong hồ bị lựu đạn nổ chẳng còn lại là mấy. Hình như dưới nước có gì cả, thế cái của nợ lúc nãy kéo Đô xuống là thứ gì? Tôi hỏi lạt ma, liệu có phải là ma nước ?


      Lạt ma lắc đầu :" . Chùa miếu là nơi thiêng liêng nhất thế gian, dù ở đây hoang phế cũng thể có ma quỷ, những người chết ở đây đều được siêu thoát hoàn toàn".


      Tôi nghĩ bụng, lúc nơi đây chịu lời nguyền, lúc là nơi thiêng liêng, ông tự mâu thuẫn còn gì? Bèn hỏi :" Lúc này cơn nguy cấp, đây là chúng ta riêng với nhau thôi nhé, nếu phải là vong hồn quấy nhiễu chắc phải có sơn tinh thủy quái gì đó đúng ?"


      Lạt ma chẳng bận tâm đến câu hỏi của tôi, hướng về chỗ Đô bị thương ngất xỉu mà niệm chú Bát bộ Mật tông kỳ sinh chuyển sơn :" Nặc! Hồng nhân hồng mã địa quát vương, hồng trường mâu thủ trung ác, thân phê hồng đoạn đại phi phong, quyến diệc như thị bất tư nghị, phồn hương tế dĩ chư diệu dục. Hắc nhân hắc mã tà ma vương, thân phê hắc đoạn đại phi phong, bắc trường mâu thủ trung ác, quyến diệc như thị bất tư nghị, phồn hương tế dĩ chư diệu dục. Lam nhân lam mã hải long vương ..." Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tôi thấy ông cứ đọc mãi liên tục, lúc này dường như cách biệt với đời, để tâm đến những thanh xung quanh, thế thôi khỏi hỏi gì nữa vậy. Ánh trăng trong veo, gió lạnh thấu xương nhưng lòng tôi lại như có lửa đốt, tổ chúng tôi có kẻ đào ngũ, lại có người bị thương nặng, còn tổ thế nào, sau mấy tiếng súng vừa nãy cũng chẳng thấy động tĩnh gì nữa.


      Tôi đợi chừng hai phút thấy tổ của đại đội trưởng đến, nhịn nổi nữa, liền lên đạn khẩu súng bán tự động của Đô rồi đặt bên cạnh lạt ma, sau đó nhảy qua bức tường đổ ở phía sau để tìm tổ năm người của đại đội trưởng, nếu họ vẫn ổn tôi định bảo y tá Cơ Ma đến chữa vết thương cho Đô. Vừa định bước tôi chợt nhìn thấy bên bờ hồ có vật gì đó lấp lánh bèn đến nhặt lên, là cái hộp hình thù kỳ lạ, giống như máy ảnh nhưng chưa thấy loại nào bé như thế này, nhưng tôi hiểu ra ngay, mình nhìn thấy trong các bộ phim phản gián, đây là chiếc máy ảnh gián điệp. ra thằng chó cán Từ là đặc vụ, chắc đến địa điểm thi công bí mật của chúng tôi ở núi Côn Luân thu thập tin tình báo, rồi vô tình bị cuốn vào nhiệm vụ cứu hộ. Thấy nhiệm vụ này đầy nguy hiểm, chẳng tội gì mạo hiểm tính mạng vào những chuyện đâu nên bỏ chạy, tiếc rằng lại lòi đuôi cáo để lộ thân phận. Khi trở về tôi xử lý đến nơi mới được.


      Tôi tiện tay cầm máy ảnh lên bỏ vào túi áo, lại nghĩ chiến hữu to xác ngô nghê của mình từ nay dù chết cũng vĩnh viễn tàn phế, trong lòng thấy xót xa khôn tả. Cảnh vách đổ tường xiêu hoang tàn nơi đây càng khiến tôi bi phẫn, nước mắt bỗng giàn giụa. Vì chú ý dưới đất, tôi vấp phải tảng đá lẩn trong cỏ, lập tức đau điếng người, miệng hít hà liên tục, hai tay vừa xoa đầu gối vừa nhìn thử xem, hóa ra tảng đá ấy là bức tượng người nằm, nửa vùi trong đất, nhưng phần lộ ra ngoài hình như phải bằng đá hoàn toàn. Tôi ngấm ngầm sinh nghi, rồi lại ngửi thấy mùi thối khắm, ra pho tượng này gần như đến bảy chục phần trăm có máu có thịt, bề mặt mọc đầy lông xanh lục, mùi thối rữa xộc lên khiến tôi mở nổi mắt ra nữa.


      Thứ này là xác chết hay là tượng đá? Bên dưới trảng cỏ toàn đất bùn, hình như trước kia cũng là phần của cái hồ, nước cạn nên bị trơ ra. Tôi chọc báng súng vào, ngờ trong vũng bùn bỗng thò ra cánh tay to tướng tóm luôn hai chân tôi. Gay rồi, chính nó kéo Đô xuống nước, dù là người sống hay người chết cũng thể có cánh tay to như thế này, nếu bị nó lôi xuống nước chắc tôi cũng bị thứ gì đó trong nước hút cạn biến thành xác khô.


      Tôi mặc quân phục nặng nề, lại còn đeo thêm vài chục cân vũ khí trang bị nên thể né tránh, định dùng súng trường ngáng chặn bỗng thấy có người từ phía chếch trước mặt lao ra nhào đúng vào pho tượng đá, lập tức bị cái vật thể màu xanh trong trảng cỏ cuốn chặt.


      Dưới ánh trăng tôi nhìn thấy rất người đó chính là thông tín viên Trần Tinh. vừa ngã xuống liền bị kéo xuống bùn ngập tận đầu gối, hiểu sao Trần Tinh hề kêu la, chỉ lẳng lặng ra sức giãy giụa.


      Tôi cũng cố quẫy đạp bò ra khỏi đám cỏ để giải cứu Trần Tinh lại người nữa chạy đến, có ánh trăng nên tôi nhìn rất đó là đại đội trưởng người Tứ Xuyên của chúng tôi. hầm hầm xách súng chạy đến đứng bên cạnh tôi, liếc mắt nhìn cái rồi cũng chẳng gì, giương súng bắn liền ba phát vào Trần Tinh giãy giụa, sau đó chĩa nòng súng vào thái dương mình bóp cò.


      Bốn phát súng liên tiếp vang lên nơi chùa cổ hoang vắng dưới ánh trăng vốn là rất quái dị nhưng việc vừa xảy ra trong bụi cỏ còn quái dị gấp chục lần.


      Tôi há hốc mồm hồi lâu mãi vẫn ngậm lại được, tại sao đại đội trưởng lại bắn chết Trần Tinh, chẳng lẽ ta là đặc vụ của địch? Tại sao đại đội trưởng lại tự sát? Tôi ngờ ngợ cảm giác dường như có ai đó bị ma nhập rồi. Nhớ đến loạt tiếng súng trước đó, tôi bỗng thấy lo cho y tá Cơ Ma, cũng dám nhìn nét mặt của hai cái xác đại đội trưởng và Trần Tinh, cũng quên cả pho tượng đá cổ quái nằm đó, vội bật dậy xách súng chúi nòng xuống chạy về phía trước ngôi chùa.


      Những tượng người tượng thú lở lói đứng hai bên trảng cỏ cho thấy con đường này là thần đạo dẫn đến ngôi mộ cổ. Đúng ra nên gọi nó là "phần"; "mộ" là nấm mồ lấp đất kín, "phần" là gian khép kín. Cửa vào nhà mồ này vốn được bịt bằng các phiến đá chạm kinh văn nay sập, đất lèn toác ra lối vào đủ cho người lọt, bên trong tối om. Tôi chỉ mong tìm thấy y tá Cơ Ma, bèn bật đèn pin bước vào.


      Lạt ma có nhà mồ này trống , quan tài và xác đều bị đốt. Tôi nhìn quanh thấy đúng là như thế. Chỉ toàn đất đá bừa bãi chất chồng, có thứ gì khác từ ngoài đưa vào.


      thấy Cả Hồng, đầu bếp và cả nhân viên địa chất đâu, tôi đành quay ra ngoài. Nơi này tuy trũng thấp nhưng vẫn là cao nguyên, tôi vận động liên tục nên tim đập thình thịch như trống làng, miệng thở hồng hộc. Đêm ấy trăng tròn cách lạ lùng, gian văng vẳng những tiếng khóc nghẹn ngào thút thít, thể nhận ra là tiếng quỷ khóc, tiếng gió hay tiếng sói hú trăng. Nếu đúng là đàn sói bị dồn lên núi quả dễ đối phó, tốt nhất là để thằng chó cán Từ gặp phải lũ sói giữa đường.


      Đối diện với ngôi mộ cổ là gò núi dựng đứng nhô cao, hết đường , tôi bước quanh quẩn bên ngôi mộ, lẽ nào những người kia bỗng dưng biến mất? Tôi cố ngẫm nghĩ xem sao, bỗng nhìn thấy người lính nằm vật bên cái hồ cạn nước ở dưới hốc. Tôi vội bước đến gần, ra chính là nữ y tá Cơ Ma, hiểu tại sao bị ngất xỉu ở đây, bên cạnh cái huyệt rất sâu, tối quá thể ước lượng được.


      Tôi vội đỡ Cơ Ma dậy, tay bấm vào huyệt nhân trung để tỉnh lại, hỏi xem nguyên nhân là sao. Cơ Ma đứt quãng, đại ý là, đại đội trưởng dẫn đầu tổ của họ lục tìm khắp trong hầm mộ nhưng thấy dấu vết gì, đành tiếp tục điều tra ở xung quanh. nhân viên địa chất Lư Vệ Quốc thấy ở cuối dốc có cái huyệt, quan sát vết đứt ở mạch đất, hình như là do mấy hôm trước động đất nên mới lộ ra cái huyệt này, thấy bên trong có dấu vết bàn tay con người xây dựng. Đại đội trưởng bảo Cơ Ma đứng , rồi dẫn mấy người còn lại xuống. Họ vừa xuống nghe thấy súng nổ chập. Cơ Ma cho rằng dưới đó có chuyện bèn rút súng lục chạy xuống trợ chiến. Nhưng chẳng qua chỉ là thần hồn nát thần tính, họ nhìn thấy cái xác cổ nằm thạch đài được tạo hình chó sói nằm. đầu bếp ít kinh nghiệm chiến đấu thực tế, kiềm chế nổi, ngỡ đó là kẻ địch, bèn chĩa súng vào cái xác bắn luôn mấy phát. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Nghe đến đây tôi nghĩ đó chính là mấy phát súng lúc đầu nghe thấy. Tôi hỏi y tá Cơ Ma sau đó ra sao, Lư Vệ Quốc và đầu bếp còn sống .


      Cơ Ma lắc đầu tỏ ý " biết". đầu bếp bắn vào cái xác cổ xưa, bị đại đội trưởng mắng cho trận. Sau ba phát súng, bỗng nhiên thấy từ mỗi lỗ bị đạn bắn thủng xì ra ngọn lửa ma, ngọn thứ nhất chui vào tai đầu bếp. Cơ Ma mình suốt đời thể quên tiếng thét thảm thiết của ta. Ông nội Cơ Ma là người hát sử thi của miền hoang mạc, hồi được nghe kể rằng kẻ tử thù của đại vương Thế giới Chế địch Bảo châu, tức quốc vương Ma quốc, có sở hữu vài loại bọ ma tá phủ từng đốt cháy vô số sinh linh, về sau bị đại sư Liên Hoa Sinh dùng nước của hồ thánh trút vào mới trừ diệt được.


      Cơ Ma định bảo đầu bếp dù thấy trong người khó chịu đến đâu cũng tuyệt đối được há mồm kêu, hễ kêu lập tức bị con bọ tá phủ thiêu đốt, nếu kêu cố chịu đựng may ra có thể sống thêm được lúc. Nhưng quá muộn, đầu bếp Tôn bị đốt thành than trong khoảnh khắc, những người khác lập tức bỏ chạy ra ngoài, trong lúc hỗn loạn Trần Tinh xô ngã Cơ Ma. Các chuyện sau đó .


      Tôi bỗng rùng mình, quả nhiên đây là mộ ma quỷ của quỷ tộc Ma quốc. Có lẽ giống như mộ tử mẫu, mộ của Quỷ mẫu bị phá hủy, ngôi mộ này ở gần bên đến nay mới lộ ra. Có lẽ tá phủ mà họ đó cũng như thứ côn trùng phát ra lửa ma mà chúng tôi từng gặp, nhưng có vẻ giống mà lại giống. Đại đội trưởng, thông tín viên và đầu bếp chết, Lư Vệ Quốc thấy đâu, có lẽ vẫn còn trong hầm mộ chưa ra. Tôi đứng ngoài cửa mộ gọi mấy tiếng nhưng thấy đáp lời.


      Dù sao cũng thể bỏ mặc ấy. Tôi và Cơ Ma bàn cách tránh những con sâu ma tá phủ, đoạn định xuống tìm Lư Vệ Quốc. Cơ Ma bỗng đẩy tôi cái, bụp bụp hai tiếng nổ khẽ, đó là tiếng đầu đạn xuyên thủng áo bông, Cơ Ma ôm ngực đổ vật xuống.


      Tim tôi đau nhói lên, ấy vì cứu tôi mà phải bỏ mạng, nhưng chưa kịp cảm thấy đau đớn sau gáy bị họng súng giá lạnh gí vào. giọng quen thuộc vang lên:" Này, ở đây có cái hang, mẹ kiếp, đàn sói bao vây, mày hãy vào trước mở đường, để chúng ta vào trong đó nấp".


      Nghe rất , giọng này là của đặc vụ - cán Từ. Khi nãy bỏ trốn, dọc đường thấy chó sói tụ tập nên thể chạy trở lại. nhận ra khi bỏ chạy bị thất lạc cái thứ kia, định quay lại giết chúng tôi đê diệt khẩu, vừa rồi bắn chết người, nhưng nhìn thấy cái hang rất sâu bên trong ra sao, nên chưa vội giết tôi mà bắt dò đường chịu trận thay.


      Tôi chưa kịp nghĩ gì họng súng lại dúi vào tôi nhát, cán Từ đứng sau :" Mau vào , đàn sói sắp đến nơi rồi, mày mau đừng trách tao nể! Mày chớ coi thường khẩu súng giảm thanh này, đạn năm li sáu thể xuyên qua đầu nhưng nằm trong óc, mày chết từ từ trong đau đớn con ạ".


      Tôi thể làm gì khác, đành nén mình, chui vào hang. Ở chính giữa huyệt mộ đốm lửa xanh.

    4. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.3 - Chương 55: CHIẾC KA U CỦA CƠ MA





      Ngôi mộ cổ này lấp kín mà vẫn chừa ra gian nhất định trong lòng đất. Lần theo vết nứt bên xuống, thấy đốm lửa xanh ấy ngập tràn quỷ khí, trông chỉ bé hơn cái móng tay, hễ ánh lửa khẽ chao là trong khí lập tức lan tỏa thứ khí u đặc biệt. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Cái thứ gọi là tá phủ màu xanh xanh này tôi lạ gì, quen nhau cả rồi. Mấy hôm trước tôi bị chúng dồn ép phải nhảy xuống hồ mới may mắn thoát khỏi chết cháy. Tôi chầm chậm bước xuống mộ thất, kinh nghiệm lần trước cho thấy con bọ tá phủ thiêu đốt những vật thể có sinh mệnh, phàm là cơ thể sống, hễ đụng phải nó lập tức bị đốt ra tro. Nhược điểm duy nhất của nó là sợ nước.


      Nòng súng ngắn giảm thanh giá lạnh gí vào sau gáy nhắc tôi phải tiếp tục bước lên phía trước, tiếng sói hú ngoài kia mỗi lúc gần. Như bản năng, tôi sờ vào cái bi đông nước ở thắt lưng, song chợt thấy tuyệt vọng vì nước trong đó đóng băng từ lâu, thể té ra được.


      Cán Từ cũng nhận ra hang này vốn là ngôi mộ cổ, bên trong có đốm lửa ma trơi khẽ đung đưa. khẽ làu bàu kêu xúi quẩy, nấp sau lưng tôi và lia đèn pin xem xét tình hình trong mộ thất, nếu có ma chuồn cho sớm để tìm chỗ nấp khác.


      Tôi vừa xuống vừa nhìn theo ánh đèn pin của cán Từ, cũng nắm được cấu tạo bên trong của mộ thất. Nó rộng mười mấy mét vuông là cùng, ở giữa có thạch đài, là nơi đặt xác. Thạch đài tạo hình con sói to nằm phục, bên thi thể mặc trang phục kỳ dị, đầu đeo mặt nạ trắng tinh, được tô màu kỳ lạ như mặt hề cười, thân mình chằng buộc lưới bạc đứt nát, áo lót mờ mờ thể nhận ra, chân tay đều bị bọc bằng da thú, cho nên toàn thân hở chỗ nào cả. Chỉ nhìn lướt lần, cái xác này gây ấn tượng rất sâu đối với tôi.


      Bên dưới thạch đài hình chó sói có cái bát đá tựa hình cái chậu, bên trong có thi thể bé và ngắn ngủn. Có lẽ là đứa trẻ. Nó cũng đeo mặt nạ và choàng lưới bạc nát, cách bao bọc giống như cái xác to nằm.


      Dưới nền mộ thất có rất nhiều tro đen, xem chừng tiểu đội mấy hôm trước ra về bị đốt cháy chết sạch ở đây rồi. Nếu biết nguồn cơn mà ứng cứu chỉ cần cái nháy mắt cũng đủ khiến cả mười mấy người chết cháy. Trong hầm mộ này đại khái có ba con bọ lửa, hai con bị hãm trong thi thể đại đội trưởng và thông tín viên, ở đây chỉ còn con, có lẽ chính nó đốt chết đầu bếp họ Tôn.


      Tôi nắm hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi, tiếp tục bị ép bước đến giữa mộ thất. Tay cán Từ do dự đứng gần cửa mộ, tiếng sói hú hình như ở ngay bên ngoài, bây giờ muốn ra cũng kịp, nhưng lại thấy trong này là chốn ma quỷ, chưa đến lúc bất đắc dĩ muốn vào.


      Tôi bỗng thấy ánh lửa ma lùi về góc hầm mộ, ánh đèn pin của cán Từ cũng chiếu theo, lúc này mới biết nó phát ra từ con bọ lửa mà là từ Lư Vệ Quốc ở viện địa chất. Vẻ mặt cực kỳ đau khổ, hai tay ngớt cào vào ngực, hễ há miệng là luồng ánh sáng xanh lam lạnh lẽo phun ra. Tôi vội hỏi :" Vệ Quốc, sao thế này?"


      Lư Vệ Quốc bất lực nhìn tôi, rồi bỗng khuỵu xuống đất, ho rất dữ. Mỗi lần ho là thổ ra bãi tro đỏ sẫm, hình như nội tạng và khí quản của bị đốt cháy. chẳng ho được lâu co rúm lại lăn ra đất, lửa từ trong người cháy ra đốt thành đống tro đen.


      Cháy tàn rồi từ trong đống tro đen ấy bay vọt lên đốm lửa xanh, chao liệng thoăn thoắt. Trong mộ thất trống trải vang lên tiếng vo ve tựa như tiếng côn trùng vỗ cánh.


      Tôi vội lùi ngay lại để tránh con bọ ma tá phủ ấy tấn công, nhưng cán Từ vừa rồi cũng chứng kiến tất cả, liền đấy vào lưng tôi cái. Tôi đề phòng gì, chân đứng vững nên ngã nhào về phía con bọ ma tá phủ. Mặc dù thân thể mất trọng tâm thể khống chế, nhưng trong lòng tôi lại hiểu rất , chỉ cần đụng phải bọ ma chút thôi là hết đời ngay tắp lự.


      Tình thế quá gấp, tôi liều cắn lưỡi, rồi phun cả bụm máu tươi vào con bọ ma tá phủ phía trước. Con trùng phát ta ánh lửa xanh rất yếu liền bị hụm máu của tôi dập tắt. Tối quá nhìn chết chưa, tôi cầm chiếc bi đông nước đóng băng đập bừa chập xuống nền đất phía trước.


      Cán Từ ở phía sau :" Hồ Bát Nhất giỏi ! Thân thủ rất cừ! Hãy đẩy cái thạch đài đặt xác kia ra chặn cửa, mau lên! Có nghe thấy tiếng sói hả?"


      Tôi vẫn chưa kịp hoàn hồn, ngoảnh lại nhìn cán Từ, nghĩ bụng thằng chó này coi mình như con ở, lát thế nào ông cũng phải rình cơ hội trừ khử mày mới được. Đột nhiên tôi bỗng nhìn thấy ở khoảng tối phía sau cán Từ có cái mặt to trăng trắng.Cái mặt trắng nhợt mọc đầy lông, chỉ có mắt lóe ra tia sáng xanh lạnh lẽo, nó chính là vua sói mắt, quỷ sứ máu trắng thảo nguyên khiến dân chăn nuôi vĩnh viễn yên giấc.


      Bắt đầu từ năm 1969, nhằm vững bước cách mạng thúc đẩy sản xuất, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, phong trào tiêu diệt chó sói với quy mô lớn được phát động. Khi mua hàng ở hợp tác xã cung tiêu, có thể cầm tấm da sói đến "tiêu" như tiền mặt, đổi lấy các mặt hàng nhu yếu phẩm sinh hoạt. Còn địa phương miễn là đánh bắt chó sói, có thể mời bộ đội hiệp trợ, cần người có người, cần súng được súng. Lũ chó sói bị giết, hoặc tản , những con còn lại đều hiểu rằng ngày tận thế của chúng còn xa nữa, thần Ma nguyệt bảo vệ hàm răng sói kiêu hãnh của chúng nữa.


      Những con sói đói cuối cùng còn sống sót đều buộc phải trốn vào vùng núi mà chúng quen sinh sống. Nơi đây giá rét, thiếu dưỡng khí, có nhiều dã thú để săn mồi, sớm muộn gì cũng phải chết ở núi Côn Luân. Song có điều thế này, sói Tây Tạng bao giờ vào các chùa miếu, nguyên nhân tại sao ai giải thích nổi.


      Nhưng những con sói này cùng đường mạt lộ rồi, đánh hơi thấy có người chết, chúng liều phá điều cấm kỵ ngàn năm để xông vào di chỉ chùa Đại Phượng Hoàng.


      Tôi bỗng nảy ra ý, bèn đứng tại chỗ hỏi cán Từ :" Từ có nghe là nếu bị sói bám vai phải làm gì ?"


      Cán Từ sững người, khua khẩu súng lục :" Sói bám vai cái gì? Tao bảo mày chuyển cái thạch đài hình chó sói kia ra chặn cửa cơ mà, mau làm , còn lần khân tao cho ..." chưa hết câu con sói trắng ở phía sau đứng dựng lên. Con sói vốn rất to, khi chồm dậy nó còn cao hơn cả cán Từ, hai chân trước đặt lên vai nhe răng, chảy đầy rớt dãi.


      Cán Từ bỗng thấy bị cái gì đó tì lên vai, lại ngửi thấy mùi tanh, bèn ngoảnh lại nhìn theo bản năng, lập tức cái cổ hở ra trước mặt vua sói chột, hàm răng nhọn sắc liền bập luôn vào. đến nước này rồi dù tay cầm súng, cũng hành động gì được. Hai chân cán Từ giãy loạn lên, súng cũng văng xuống đất, ngay bây giờ thôi bị con sói đói uống cạn máu tươi, gặm sạch da thịt, chỉ để lại bộ xương.


      Thấy cơ hội đến, tôi lập tức lách sang bên cạnh chạy ra, khi chạy qua bên cạnh cán Từ, tôi như hét vào tai :" Khi sói bám vai đừng có ngu mà quay đầu lại, nếu quay lại đến thần Phật cũng chẳng cứu được đâu".


      Đám lông bạc trước ngực con sói trắng nhuốm đầy máu, nó đói quá rồi nên mặc kệ mọi chuyện diễn ra xung quanh. Tôi vội chạy vọt ra khỏi mộ, lập tức nhìn thấy vầng trăng tròn treo cao, phía dưới, hai con sói quanh xác của nữ y tá Cơ Ma. kỳ lạ, lũ sói đói lả, Cơ Ma vừa mới chết, sao chúng xông vào xé xác luôn? Tôi biết loài sói vốn đa nghi, chắc chắn chúng cảm thấy điều gì đó bất thường nên mới chần chừ do dự. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Chắc hai con sói già này là tham mưu của vua sói, ngày thường chẳng bao giờ rời sếp nửa bước, càng là loại sói này càng đa nghi, mồi ngon đưa đến tận miệng nhưng chúng lại dám ăn. Tôi nghĩ, hay là Cơ Ma vẫn còn sống? Chẳng biết có bao nhiêu con sói vào ngôi miếu cổ rồi? Lạt ma và Đô giờ thế nào? Vừa nghĩ đến đây hai con sói già phát ra có mặt của tôi, khẽ gầm gừ rồi lao thẳng đến. Tôi nhặt ngay khẩu súng trường trước đó bị rơi mặt đất lập tức bắn gục con lao đến đầu tiên.


      Nhưng cùng lúc đó con sói thứ hai vồ tôi ngã ngửa ra. Nó tuy già nhưng suy cho cùng vẫn là dã thú, hơn nữa còn kinh nghiệm đầy mình, cũng biết khẩu bán tự động kiểu 56 rất lợi hại bèn cắn chặt báng súng, hai chân trước cào loạn xạ vào ngực tôi, xé toạc mấy mảng to chiếc áo bông. Trời giá lạnh, miệng sói phả ra hơi nước trắng, mũi tôi xộc lên mùi sói hôi nồng nặc.


      Tôi và con sói quần nhau hồi bất phân thắng bại. Chợt có mấy tiếng súng vang lên, con sói từ từ nhả báng súng ra. Chỉ thấy trước mặt tôi là Cơ Ma cầm súng, họng súng vẫn bốc khói.


      Tôi vừa mừng vừa sợ, vội đứng bật dậy hỏi :" Cả Hồng vẫn còn sống đấy ư? bị thằng đặc vụ bắn trúng rồi kia mà?"


      Cơ Ma moi từ trong cổ áo quân phục lấy ra vật trang sức đeo cổ :" Từ khi vào bộ đội tôi đeo cái Ka U này nữa, hôm nay trước khi lên đường tôi nằm mơ thấy gặp chó sói nên mới đeo". Cơ Ma bị ngã vào đá, viên đạn của khẩu súng giảm thanh mới chỉ bắn trúng chiếc Ka U khiến nó vỡ đôi. trúng đạn nhưng vì va đập quá mạnh nên tạm thời ngất lịm .


      Ka U là bùa hộ thân của người Tây Tạng, có hai loại, cho nam, cho nữ, phân biệt ràng. Ka U nữ thường to và tròn, bên ngoài làm bằng bạc, bên trong đặt tượng Phật hoặc lời thần chú, nút Kim Cang, hay vài vật kỵ tà khác nữa, có cái còn đặt cả xá lợi. Ka U của Cơ Ma chứa đá cửu nhãn, mã não và răng sói từ mấy trăm năm trước để lại. Tương truyền đó là răng của vua sói chỉ thủ lĩnh mới được sử dụng, chắc hai con sói già kia ngửi thấy mùi của tiên vương nên mới do dự chưa dám cắn ngay. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tôi nạp đầy đạn cho khẩu bán tự động, sau đó dẫn Cơ Ma tìm lạt ma và Đô bên hồ, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì hết, họ có an toàn . Rải rác các triền núi xung quanh lập lòe những ánh mắt chó sói xanh lè, thể đếm xiết xem có bao nhiêu con, vậy là lũ sói đều chạy theo vua sói đến khu vực này rồi. Nhưng vầng trăng sáng vẫn treo cao, chúng cứ chạy vài bước lại dừng rồi ngẩng lên hú trăng, mỗi lần hú, cơ thể dường như lại được bơm thêm chút điên cuồng.


      Thấy đàn sói vây khắp bốn bề, tôi chỉ còn cách rảo bước nhanh, nhưng Cơ Ma được mấy bước bỗng dừng lại có lẽ mình bị chấn thương sọ não, vì thấy trước mắt cứ tối sầm lại. Tôi vừa quay lại định dìu , bỗng nhìn thấy dưới ánh trăng sáng bạc, con sói trắng to bự lặng lẽ ngồi chồm hỗm phía sau cách chúng tôi độ ba chục mét, con mắt độc nhất của nó nhìn xoáy vào chúng tôi đầy hiểm ác. Ánh trăng sáng trong và gió lạnh cắt da khiến bộ lông trắng của nó trông giống như lá cờ trắng phất phơ đón gió. Tôi vội giương súng nhưng vừa ngẩng đầu lên thấy nó biến mất dưới ánh trăng.


      Hồi xưa thực tế sản xuất ở Đông Bắc, tôi từng nghe những tay thợ săn trong làng rằng sói mọc lông trắng là sói thành tinh. Môi trường sinh tồn khắc nghiệt ở Tây Tạng khiến chó sói xảo quyệt hung tàn đến cực độ, vì ở đây sói bao giờ được con người chào đón, gặp người bị người đánh đuổi đằng người, gặp chó bị chó cắn đuổi đằng chó, muốn sống sót trong cái khe hẹp của thiên nhiên này cần phải có ý chí và sức mạnh cơ bắp ghê gớm.


      Tôi biết đàn sói dùng sách lược gì để đối phó với chúng tôi, việc cần thiết duy nhất lúc này là phải nhanh chóng tập kết với lạt ma và Đô, dựa vào những bức tường đổ của ngôi miếu hoang mà cố cầm cự đến khi trời sáng. Dù viện binh đến được khi trời sáng, đàn sói cũng chạy vào rừng sâu.


      Tôi tay cầm súng, ngừng quan sát xung quanh, cảnh giác lũ sói đến tập kích, tay đỡ nữ y tá Cơ Ma, khẩn trương di chuyển vào bức tường đổ mà lạt ma và Đô nấp. Cơ Ma lúc này đỡ chóng mặt, tay vẫn lăm lăm khẩu súng lục. Chúng tôi vòng qua trảng cỏ dại nơi đại đội trưởng và cậu thông tín viên chết về đến bức tường đổ màu đỏ. Mấy mảnh tường này chỉ cao đến ngực, tôi đỡ Cơ Ma lên bức tường, rồi cùng trèo sang.


      Lạt ma chăm sóc Đô bị thương, thấy tôi đưa Cơ Ma về, thốt lên :" Tường thọ Phật và bà chúa hành tốt lành phù hộ, đại quân trẻ tuổi Puse cứu được Kemalamo về rồi". xong ông ngước mắt nhìn lên vầng trăng sáng, bất kể là phái Geju ( Bạch Giáo), phái Gelu ( Hoàng Giáo) hay phái Yuma ( Hồng Giáo) cũng đều cho rằng vũ trụ dưới ánh trăng viên mãn chính là chốn "tĩnh địa hành". Những nơi có cỏ rậm sương mù bao phủ đều là địa ngục tối tăm, các pháp thần Ma nguyệt để cho nơi vốn rất thiêng liêng biến thành chốn đầy rẫy tai ương kiếp nạn, quỷ ma hoành hành, ô trọc đến mạt kiếp, rốt cuộc là trừng phạt người nào vậy?


      Tôi lo lắng hỏi lạt ma :" Ngoài kia đàn sói vây bè lại với nhau, chúng ta có nhiều đạn, phải đốt lửa lên mới xua chúng được, kẻo chưa đến sáng làm mồi cho lũ sói đói này rồi".


      Lạt ma than thở :" Điên loạn cả rồi, ngày nay sói cũng dám vào chùa để ăn thịt người cơ đấy!". rồi ông dắt con ngựa già của mình vào bên tường, những tiếng sói hú ở khắp nơi khiến nó sợ run lẩy bẩy. Có lẽ bọn sói ở các bãi chăn nuôi dưới chân núi Côn Luân đều tập trung tại bên ngoài ngôi chùa này. Lạt ma và con ngựa của ông chưa bao giờ nghe thấy nhiều sói hú trăng đến vậy. Những con sói đói bị dồn đến bước đường cùng cần biết ai là đệ tử hữu duyên của Phật tổ, lúc này dù có niệm kinh cũng vô ích mà thôi.


      Lạt ma lấy những mảnh phân trâu khô và gỗ lõi ra, nhóm đống lửa phía trong bức tường đổ. Chỗ chúng tôi ngồi là gian điện phụ đổ nát, xung quanh tường nham nhở vây lại thành ô, có bức còn khá cao, cây xà lớn đổ sập vẫn đè lên, bên khác có tấm bia đá khắc kinh Tạng trấn chùa với hàng chữ " Đại bảo pháp vương thánh chỉ". Tấm bia vỡ nát này cao dưới năm mét, đàn sói rất khó xông vào từ hai phía này, nhưng cũng phải đề phòng chúng công kênh nhau trèo lên cao rồi nhảy xuống.


      Cơ Ma nhìn vết thương của Đô, nom vẻ mặt đủ biết phen này lành ít dữ nhiều. Tôi nhặt mấy mẩu gỗ rui mè trong đống đổ nát thả vào đống lửa khiến nó bốc to hơn, sau đó cầm khẩu súng bán tự động của Đô đưa cho Cơ Ma, chia nhau đứng gác ở hai mặt tường thấp

    5. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Q.3 - Chương 56: TINH ĐỊA HÀNH





      iếng sói hú bỗng thưa , tôi ngó ra ngoài tường, lũ sói từ triền núi xuống gần chùa mỗi lúc đông. Có vài con qua lại giữa các bức tường đổ, có lẽ chúng nhìn thấy ánh lửa ở trong này nhưng dám tự tiện hành động khi chưa có hiệu lệnh của vua sói, chỉ dám quanh ngôi chùa đổ mà thôi.


      Cách khoảng bốn chục mét thấy có đôi mắt sói như hai ngọn đèn xanh lét, tôi lập tức giương súng, ba điểm đường thẳng, ngắm chuẩn vào giữa hai ngọn đèn rồi bóp cò. Sau tiếng súng nổ trong đêm tĩnh mịch, hai ngọn đèn tắt lịm. Tuy thể xác định có bắn trúng mục tiêu nhưng phát súng này cũng có tác dụng cảnh cáo. Những ngày này lũ sói đồng cỏ hoang sợ nhất là tiếng súng bán tự động kiểu 56, chúng kinh hãi vì loại súng này là thứ thần khí có thể bắn nát linh hồn và lòng tự tin của chúng. Những con còn lại dám lảng vảng quanh đây nữa, lẩn hết vào trong màn đêm, nhưng những tiếng hú khe khẽ vẫn còn râm ran cho thấy chúng chỉ tạm rút lui chứ cam chịu dừng lại.


      Tôi thấy đàn sói lùi ra, dây thần kinh căn lên trong đầu cũng hơi chùng xuống, nhớ lại những chuyện vừa gặp phải sau chùa, liền cảm thấy vô cùng quái dị. Bức tượng người bằng đá nửa chìm nửa nổi mặt đất, phủ kín rêu xanh mủn nát đó là thế nào, thuận miệng tôi hỏi luôn lạt ma xem người và gia súc mất tích trước đây có liên quan gì đến nó .


      Nào ngờ lạt ma chưa hề nghe ở miếu này lại có tượng người mục nát bốc mùi tanh thối, liền bảo tôi kể lại tỉ mỉ cho ông nghe. Tôi nghĩ bụng ông hỏi tôi tôi biết hỏi ai đây? Cứ tưởng lạt ma biết rất mọi chuyện trong ngôi chùa này, ra cũng chỉ như ông già bình thường mà thôi. Tôi vừa để ý động tĩnh của đàn sói bên ngoài vừa kể lại tình hình lúc nãy.


      Nghe xong ông liền đọc mấy lần châm ngôn mười sáu chữ, rồi kinh ngạc :" Trước đây chỉ thấy hồn của Quỷ mẫu phi trong mộ này chịu tan , xây chùa, đặt tượng Kim Cang đại uy đức nhằm dùng tháp và ốc trắng để trấn áp tà ma. Nhưng bao năm nay, các đời nhà Phật đều phải bó tay, thực ngờ lại là do tượng đá trước mộ gây tội, nếu có chuyện đất nứt hồ sụt, bị đại quân trẻ tuổi Puse các vị trông thấy có lẽ mãi mãi ai tìm ra nó. Nếu nó tiếp tục sâu trăm năm nữa chỉ e thành mối hại lớn".


      Tôi chưa hiểu mấy :" Lạt ma Ake vừa , ý là làm sao? Đá thành tinh thế nào được? Tôi chỉ tiếc lúc đó có lựu đạn, nếu tôi cho nó nổ tung lên giời rồi".


      Lạt ma :" Người Hán các vị coi nơi này là hẻm núi Côn Luân, nhưng trong kinh Phật lại gọi nó là Rubegake, nghĩa là bông sen tám cánh được rồng và rùa nâng đỡ. Trời tựa như cái bánh xe tám trục, đất như bông sen tám cánh, chùa này nằm chính giữa bông sen. Núi Thiết Ma ở phía Đông có hình dạng như cơ quan sinh dục của bà La sát, địa hình phía Nam giống như Ma Kết săn mồi, nham thạch ở phía Tây trông như thủy quái ngó nghiêng, hồ ma ở phía Bắc khi chưa cạn nước trông như tấm gương rồng vỡ nát, xây chùa xây miếu mảnh đất với địa hình đẹp lạ thường này là để uy hiếp ma bốn phương, ấy là công đức viên mãn vậy".


      Nhưng hồ nước cạn khô, biến chốn này trở thành nơi hung thần du ngoạn. Trong hồ sinh ra cá Ma Kiệt ăn thịt người và gia súc, bầu trời quang đãng trở nên chật hẹp, ra con Bodo ( tên con thủy quái mà kinh Phật nhắc đến) nhập vào tượng người trong mộ cổ, dìm người xuống sông để hút lấy khí huyết.


      Tôi thấy nội dung lạt ma hình như là lý luận phong thủy của Mật tông, rất khác với cuốn tàn thư mà tôi đọc, có thể tôn chỉ trùng hợp nhưng cách biểu đạt lại khác nhau quá xa. Hồi đó tôi chưa nghiên cứu sâu về bí thuật phong thủy, nắm được các hình thế phong thủy quá phức tạp, cho nên hiểu ông những gì. Chỉ thấy cái từ "Bodo" mà ông nhắc đến, hình như cách đây lâu tôi nghe thấy ở đâu đó, bỗng sực nhớ ra rằng khi cùng đội tiền trạm đến suối Bất Đông, nghe các chiến sĩ vận tải . Ở hồ Thanh Hải có giống thủy quái ăn thịt người, những người từng nhìn thấy kể lại rằng trông nó tròn như cây gỗ, cũng có người bảo nó như con cá to, điểm trùng nhau duy nhất là nó có mùi tanh thối và xanh nhớt. Các lính ở Tây Tạng cho chúng tôi biết đó đều là con Bodo, giống ma nước này bám vào vật gì nó có hình thù như vật ấy. Nếu bắt được nó lập tức phải đập nát rồi đốt cháy, nếu , vì nó sống lâu năm, ngoại trừ đại bàng của Phật tổ ra thứ gì có thể khống chế nổi. Mọi người còn chưa bàn tán xong, đại đội trưởng nghe thấy liền mắng cho tới số.


      Tây Tạng có quá nhiều điều cấm kỵ và truyền thuyết, tôi thể biết thực hư, chỉ nghĩ bụng dù nó là gì nữa, cứ chờ trời sáng tìm cách đốt trụi là ổn, nhất định phải trả thù cho các chiến hữu.


      Lạt ma :" biết bao nhiêu người và gia súc chết ở hồ nước này rồi. Con Bodo nhập vào tượng đá, người bình thường khó mà đối phó nổi, phải mời đức Phật về, làm lễ thờ phụng, tiếp đến để hộ pháp tu hành bốn kiếp cõng vò muối, rắc muối chôn pho tượng người ấy , ba ngày sau đào lên đập nát rồi đốt bỏ, ấy mới là cách ổn thỏa nhất".


      Chúng tôi bàn bạc trời bỗng có đám mây đen dày nặng kéo đến che khuất mặt trăng. gian bên ngoài chùa ánh lửa chiếu tới lập tức biến thành màu đen tối mịt. Tôi, Cơ Ma và lạt ma ngay lập tức cảm thấy căng thẳng. Chúng tôi biết đàn sói hiểu rất đây là thời cơ tấn công tốt nhất, chúng nhất định ngại ngần gì mà xông vào nơi đây.


      Đâu đó cao vọng lại tiếng hú não nề, bi phẫn, ghê lạnh và ai oán đến khó tả. Đó là tiếng của vua sói lông trắng. Nó phát tín hiệu tấn công. Bốn bề xung quanh gió khuya ào ào, vô số ngọn đèn xanh lét nhấp nháy thôi. Tôi vội cầm mấy khúc củi quăng ra ngoài tường để tiện soi mục tiêu xạ kích.


      Tôi và Cơ Ma chia nhau trấn giữ ở hai mảng tường thấp nhất, hai khẩu súng trường bán tự động nhả đạn liên tục. Từng cặp đèn xanh bị tiêu diệt sáng lại được nữa, nhưng dưới hiệu lệnh của vua sói, lũ sói đói quyết sợ chết, vẫn nhanh nhẹn lượn qua lượn lại giữa các chướng ngại vật, vòng vây mỗi lúc dần.


      Tình huống này là thử thách rất lớn đối với tâm lý xạ thủ, phải kiên quyết hạ hết con này đến con khác, tuyệt đối để lũ sói đói đông đúc kia làm phân tán tinh thần, đồng thời phải chịu đựng được nỗi sợ hãi khi vòng vây dần siết chặt. Mây đen che khuất mặt trăng, tầm nhìn rất hạn chế, tôi bắn liền năm phát mà trúng đích, lúc trán vã mồ hôi bỗng nhìn thấy con sói to lao ra từ tấm bia "Đại bảo pháp vương thánh chỉ". hề do dự trước hỏa lực bên dưới, nó tung mình lao xuống con ngựa già nấp ở bên tường. Những cái răng sắc nhọn chĩa cả ra, nó sắp ngoạm vào gáy con ngựa đến nơi. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Lạt ma vung thiết bổng vụt luôn. Cây gậy sắt nặng trịch táng trúng mõm con sói. Nó gãy liền ba bốn cái răng cứng đanh, lộn mấy vòng rồi ngã vào đống lửa, lập tức bị lửa đốt cháy. Con ngựa quá sợ hãi, hí vang rồi lao về phía tôi, tôi vội cúi đầu, nó nhảy vọt qua bức tường thấp sau lưng tôi, lập tức nó bị mấy con sói to chầu sẵn ở bên ngoài vật ngã, kéo ra phía sau trảng cỏ dại.


      Lại con sói gầy bờm đen nhảy vào khu vực phòng ngự, nhào vào Đô bị thương bất tỉnh. Cơ Ma lập tức giương súng bắn chết luôn con sói đen. Liền đó lại có hai con khác nhảy vào, tôi định bắn chi viện cho mới ngớ ra súng hết đạn, đành sục lưỡi lê ba cạnh sang. Súng của Cơ Ma cũng hết đạn, ném xuống đất rút súng lục ra bắn,lạt ma niệm lục tự chân ngôn, vung thiết bổng vụt những con sói đói ngớt xông vào trong tường vây. Tiếng hò hét, tiềng gào hú, tiếng súng nổ, tiếng người và sói vật lộn hòa vào nhau, tạo thành mớ hỗn loạn trong những bức tường đổ nát của ngôi chùa cổ.


      Ba chúng tôi vốn phối hợp chi viện cho nhau, nhưng trong tình huống rối loạn nguy cấp này buộc phải tác chiến độc lập. Vũ khí thiết bổng của lạt ma phát huy tác dụng chưa từng có, tuy trông nặng nề cũ kỹ nhưng hễ vung lên là đều đập trúng đầu sói. Kể cũng lạ, hình như lũ sói kinh sợ khi nhìn thấy cây thiết bổng, lẽ ra có thể tránh nhưng lại cứ như bị chậm bước, thế là bị đập nát đầu ngay. mình lạt ma trấn giữ mảng tường khắc kinh văn, nữ y tá Cơ Ma lùi về bên Đô, bắn hạ những con sói đói lao đến gần.


      Tôi cầm súng trường đâm loạn xạ, thấy súng Cơ Ma hết đạn, cuống lên nạp đạn mới, tôi xọc lưỡi lê vào sườn con sói lao vào . Lưỡi lê chẳng khác gì cây dùi xuyên giáp có ba rãnh, xọc thẳng vào con sói gí xuống đất rồi đẩy vào tận chân tường khiến nó đau kêu lên được tiếng. Lại có con sói mặt có vết sẹo dài vượt tường tiến vào, há hai hàm răng nhọn sắc nhảy bổ vào tôi.


      Tôi định nhổ lưỡi lê xọc nó ngay , nhưng nhát đâm vừa rồi quá mạnh, lưỡi lê vẫn mắc ở xác con sói kia chưa rút ra được. Tôi chưa từng tham gia phong trào diệt sói, hồi ở Đông Bắc cũng chỉ thấy cáo, nên tôi thuộc tập tính loài sói, lần này bị bao vây cũng nhiều phần lúng túng, càng cuống càng rút được lưỡi lê ra.


      Quá nguy cấp, tôi đành buông súng nằm lăn ra đất tránh con sói mặt sẹo, nhưng vẫn hơi muộn, cái mũ quân dụng lông cừu bị nó vồ trúng, vuốt sói rạch bên tai tôi đường to, máu túa ra lập tức đóng thành băng. Con sói mặt sẹo vừa nhào qua đầu tôi vẫn chịu dừng. Nó bỏ qua tôi và đâm xổ vào lạt ma đứng đối diện. Lạt ma lia ngang thiết bổng vụt trúng xương bả vai, nó đau quá kêu rú lên và ngã sang bên. Con sói lúc nãy ngã vào đống lửa lúc này cháy thành than, khí sặc mùi hôi khét lẹt.


      Những con sói này đều là thành viên nòng cốt hung hãn nhất trong đàn, đa số những con sói đói khác còn loanh quanh ở ngoài rìa tường, tuy vua sói hạ lệnh nhưng những loạt đạn lúc nãy vẫn khiến chúng sợ mất vía, trước khi hoàn hồn vẫn dám ùa vào. Nếu cả lũ mấy trăm con sói cùng xông đến lúc, chúng tôi dù có ba đầu sáu tay cũng khó mà chống đỡ nổi.


      Tôi ngã nhoài mặt đất, định đứng bỗng thấy lưng mình dập xuống, ra bị con sói to dẫm lên, móng vuốt nó bấu vào vai. Tuy dám ngoái nhìn, nhưng bằng trực giác tôi hiểu rằng con sói to khác thường này chắc chắn là vua sói trắng chột mắt. Con sói trắng gần như thành tinh này chờ tiếng súng ngớt rồi mới nhảy vào. Nó biết nắm thời cơ rất chính xác, nghĩ mà phát ớn .


      Tôi ngừng tự nhủ: tuyệt đối ngoảnh đầu lại, nếu ngoảnh lại bị vua sói ngoạm cổ ngay, kết cục chẳng khác gì thằng cán Từ chó má kia. Con sói to đùng lưng tôi nhẫn nại chờ tôi ngoảnh lại để hút cạn máu tươi là thứ có hương vị ngon nhất trần đời.


      Đầu tôi ong ong, mặt áp sát mặt đất giá lạnh, dám hành động gì, bụng muốn phản kháng nhưng hai tay có bất cứ thứ vũ khí nào hết. Trong tình huống này, hai nắm đấm cứng như sắt của giai cấp vô sản cũng chẳng được mấy tác dụng.


      Đám mây đen che kín mặt trăng bị luồng khí cao xua tan, mặt trăng tiếp tục rải làn ánh sáng như thủy ngân xuống mặt đất, bãi cỏ hoang vu lại sáng lên như bạc.


      Lạt ma cũng rất chật vật, tuổi cao sức yếu, cây thiết bổng vụt mãi cũng chậm dần, bỗng lại bị con sói giàu kinh nghiệm cắn chặt thân cây thiết bổng, sao giằng ra được. Cả hai nhất quyết đọ sức ai chịu ai nhờ trăng sáng, ông thấy tôi bị con sói to đè xuống đất, định đến ứng cứu nhưng bản thân lại thể dứt ra đơợc, bèn co chân đá cái túi đến trước mặt tôi, :" Chiến binh trẻ tuổi Puse mau dùng Ngũ lôi kích côn của người Hán các vị !".


      Cái túi suýt nữa văng vào vai tôi, tôi băn khoăn hiểu "Ngũ lôi kích côn" là thứ gì. Nhưng thò tay sờ vào, tôi liền hiểu ra, đó là đai đeo vũ khí của Đô. Hôm đó mỗi chúng tôi được mang theo hai quả lựu đạn, tôi ném hai quả của mình xuống hồ nước phá ổ bùn hôi thối, còn của Đô vẫn chưa dùng đến. Sau khi Đô bị thương, lạt ma cởi ra hộ, nếu ông nhắc có lẽ tôi quên hẳn.


      Tức , tôi lấy ra quả lựu đạn, nhưng vì vẫn bị con sói đè vai nên dám làm động tác mạnh, kẻo lộ tẩy nó đớp mất. Cái khó ló cái khôn, tôi áp đai đeo vũ khí vào bên má rồi ngoảnh đầu lại. Con vật giống như ác quỷ tóc trắng đè lên tôi đúng là vua sói. Loáng cái nó ngoạm luôn cái đai vũ khí.


      Tôi liền giật ngay nụ xòe cháy chậm, quả lựu đạn lập tức xì khói trắng. Tôi định ném văng về đằng sau, chắc mẩm lựu đạn nổ khiến cả lũ sói sợ hãi tháo chạy. Vua sói ngoạn trúng cái đai vũ khí, tức điên lên, song bỗng thấy quả lựu đạn xì khói trắng và có những tiếng xèo xèo chẳng tốt lành gì, lại như muốn lấy mạng nó, bèn giơ chân đá tạt quả lựu đạn văng khỏi tay tôi.


      Quả lựu đạn lăn xa mấy, tôi chửi thầm, con sói này đúng là thành tinh mẹ nó rồi, tuy hiểu quả lựu đạn dùng để làm gì nhưng dựa vào kinh nghiệm sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt nó cảm thấy vật này nguy hiểm, phái tránh càng xa càng tốt. Cú tạt của nó khiến quả lựu đạn văng nhưng lại quá gần, nếu nổ tại đây hậu quả khó bề tưởng tượng, mảnh lựu đạn sát thương tất cả người và sói trong bốn bức tường này.


      Lúc này dù tôi muốn xả thân đè lên quả lựu đạn, e cũng khó mà làm được. Nghĩ đến cảnh tượng mọi người ở đây đều bị sát thương, lũ sói bên ngoài tràn vào xé xác cả bốn người, toàn thân tôi như bị đóng băng. Thời gian cứ từng giây trôi , chỉ chừng hai giây nữa lựu đạn nổ.


      Đúng khoảnh khắc cuối cùng, thần kinh căng ra chực đứt, con sói giằng co với lạt ma đoạt được cây thiết bổng, nhưng nó vận sức quá mạnh nên bị bật lùi về đằng sau, xê vào đúng chỗ quả lựu đạn sắp nổ. "Đoàng" tiếng, khói trắng bay mù mịt, phần lớn các mảnh vỡ đều găm vào con sói đen đủi. Nó chẳng khác gì cái túi rách trọng lượng bị sóng xung kích tung bắn lên cao chừng mét rồi rơi đánh phịch xuống đất.


      Mấy con sói đói ở trong này, kể cả vua sói, đều sững sờ rồi ào ào nhảy vọt ra ngoài dám ngoái cổ lại, thoắt cái mất hút trong màn đêm u tối. Lũ sói già yếu bên ngoài vốn kinh hãi vì tiếng súng, nghe thấy tiếng nổ và nhất là mùi diêm tiêu lan tỏa trong khí sau khi lựu đạn phát nổ, lại càng sợ mất mật, lập tức bỏ chạy tan tác. Trong trận này dã có mười mấy con sói ác ôn hung hãn nhất đàn bị tiêu diệt, trong thời gian tới chắc đàn sói chẳng thể gây nên chuyện gì ghê gớm nữa rồi.


      Tôi xoay người đứng dậy, cũng chẳng kịp ngó xem mình có bị thương , vội nhặt khẩu súng trường của Cơ Ma rơi đất, xọc lưỡi lê đâm chết mấy con sói bị thương nằm ở góc tường, xong rồi mới ngồi phịch xuống đất như kẻ hồn xiêu phách lạc, lúc lâu sau cũng chưa hồi sức. Lúc này mà đàn sói đánh trận hồi mã thương, dẫu toàn là bọn sói già sói yếu, chúng tôi cũng đành " ra trong vinh quang" vậy.


      Tôi thở hổn hển bỗng nghe lạt ma kêu toáng lên.Tôi vội gượng lại tinh thần, ra Cơ Ma ngã gục vũng máu. Vừa rồi tôi bị hoa mắt, giờ mới định thần trở lại, vội cùng với lạt ma đỡ Cơ Ma dậy. Vừa nhìn vết thương, tôi và lạt ma đều đờ người ra, ruột bị sói moi ra khúc lòng thòng bên ngoài quân phục, phần kết băng rồi.


      Tôi cuống đến trào cả nước mắt được nữa. May sao lạt ma học y thuật trong nhà chùa, liền cấp cứu ngay tại chỗ cho Cơ Ma, dò thử hơi thở, thấy mảnh như đường tơ, nhưng ít nhất vẫn còn sống.


      Tôi lại nhìn sang Đô, tuy bị thương nặng nhưng mất máu, lại sẵn có thể lực tốt, cho nên tạm thời đáng ngại mấy. Tôi hỏi lạt ma :" Liệu y tá Cả Hồng có trụ được đến sáng ?". Lúc này ngựa chết rồi, ở nơi núi đèo hoang vắng này chỉ còn tôi và lạt ma, dù sao cũng thể đưa hai thương binh nặng này được, chỉ còn cách chờ bộ đội tăng viện đến đây sớm. May mà đàn sói chạy trốn vào sâu trong núi.


      Vầng ngọc thố bầu xế, lạt ma nhìn mặt trăng bị núi che khuất nửa, :" Trời sắp sáng rồi, chỉ cần giữ ấm cho hai vị đại quân, chắc vẫn có thể cứu được. Đại quân trẻ tuổi Puse cứ yên tâm, tôi tụng kinh cầu Phật tổ phù hộ cho".


      Tôi lau nước mắt nước mũi ướt nhòe mặt, tỏ ra ngờ vực về cách bảo vệ tính mạng thương binh bằng việc tụng kinh. Lạt ma :" cứ trông nom đống lửa, cho nó cháy càng mạnh càng tốt, ánh lửa thu hút Hành Mẫu tốt lành đến đây. Tôi cầu nguyện, nếu Đức Phật mở mắt để người bị thương được bình an, tôi dành quãng đời còn lại quanh hồ Lamlaco 1, cho đến ngày sinh mệnh được giải thoát". Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Tôi thấy lạt ma hết sức trịnh trọng, lấy làm cảm kích, liền nhặt hết những áo quần có thể đắp được đắp cả lên người Cơ Ma và Đô, rồi ngồi sau bức tường chắn gió đốt đống lửa cháy rực, sau đó lấy thuốc bí truyền của lạt ma rắc lên vết thương. Những dải mây ở phía Đông bắt đầu chuyển sang màu hồng, ánh ban mai xuất . Lòng tôi ngổn ngang bao cảm xúc rối ren, ngồi ngây ra nhìn lạt ma xoay ống kinh văn, nghe ông tụng kinh Đại bạch tản cái tổng trì đà la nê, bỗng có cảm giác kỳ lạ như lắng nghe những thanh của đất trời. Truyện "Ma Thổi Đèn "


      Khoảng mười giờ trưa hôm đó, các em đại đội bạn đến tiếp ứng tìm thấy chúng tôi, bộ đội phong tỏa hẻm núi Côn Luân. Tôi, Cơ Ma và Đô đều được chuyển khẩn cấp. Lúc chia tay, tôi hỏi lạt ma rằng phải làm gì với con Boda ở hồ ma?Có phải làm như ông là mời đức Phật về rồi dùng muối vùi chôn nó, sau đó đốt cháy?


      Lạt ma gật đầu phải, ông còn mình đến hồ Lamlaco để cầu phúc cho những người bị thương, nhưng trước hết phải trở về để bẩm báo việc này với đức Phật , chúc đại quân mọi tốt lành, Phật tổ phù hộ cho các vị bình an như ý.


      Tôi với Tuyền béo và Shirley Dương :" Sau đó tôi theo bộ đội vào sâu trong núi Côn Luân thi công, Đô giờ vẫn còn sống, chỉ ngặt nỗi thành quân nhân tàn phế rồi, nữ y tá Cơ Ma tỉnh lại được nữa, thành người thực vật, khi có thời gian tôi đều đến thăm họ. Cái di tích chùa đổ nát và ngôi mộ cổ vẫn được giữ cho đến giờ. Nay hồi tưởng lại, các chi tiết khác cũng chẳng mấy quan trọng, chỉ đáng kể nhất là cái thi thể ở trong mộ, những áo quần, trang sức lạ lùng và nét thể của nó rất giống những bức tượng đồng và bích họa nhìn thấy trong mộ Hiến vương. Người dân tộc Tạng ở địa phương đều đó là mộ của Quỷ mẫu Ma quốc thời cổ, nhưng đó chỉ bắt nguồn từ truyền thuyết Quỷ mẫu có thể chuyển kiếp, vậy là chỉ có Quỷ mẫu. Lịch sử của Ma quốc chỉ tồn tại trong các bài trường thi truyền miệng, ai nhìn thấy Quỷ mẫu phi ăn mặc ra sao".


      Shirley Dương nghe xong câu chuyện tôi kể, với tôi :" Ở tòa thành mà bích họa miêu tả, có thờ tô tem là con mắt rất to, nhân vật trong đó cũng giống như thi thể trong ngôi mộ cổ nằm dưới chùa Đại Phượng Hoàng, có lẽ tòa thành ấy chính là đàn tế của Ma quốc. Chẳng giữa Ma quốc và quỷ động đáy có mối liên hệ gì mà người ta chưa biết đến ?"


      Xem chừng, sau khi về đến Bắc Kinh phải bận rộn đây, trước tiên phải bửa đầu Hiến vương ra xem Mộc trần châu trong đó có phải đồ xịn , ngoài ra còn phải nghĩ cách tìm cho ra nửa sau của bộ sách "Thập lục tự dương phong thủy bí thuật", từ đó mới có thể đọc hiểu các thông tin Long cốt về Mộc trần châu, cuối cùng, phải tìm được các tư liệu về vương triều Ma quốc bí mật kia. Bởi nếu sắp xếp được mười sáu chữ làm sao giải mã được Long cốt Thiên thư, những thông tin về Mộc trần châu đều nằm đó cả. Đến lúc đó làm cả ba việc cùng lúc, để xem xem có thể đột phá từ khâu nào. Cũng biết vị Thiết bổng Lạt ma ấy có còn khỏe , có lẽ tôi nên đến bên bờ hồ Lamlaco, "hồ treo trời", để tìm ông trò chuyện, dù ít dù nhiều cũng có thể tìm hiểu được số việc mà chúng tôi muốn biết.


      --------------------------------


      1 Nghĩa là "Hồ tiên nữ trời", là Thánh hồ giúp khỏi bệnh và bình phục ( chú thích của tác giả).

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :