Chương 17: Tầm Na chí dị 1 Hóa ra Điền Mộ Thanh đợi bên ngoài cửa miếu lâu mà thấy chúng tôi ra, sợ chúng tôi có chuyện nên đốt nến lên vào thạch thất để tìm. Tôi kinh hãi cúi đầu nhìn tấm gương rồi lại nhìn Điền Mộ Thanh, trong lòng nghĩ: “Hồn ma trong chiếc gương này quỳ lạy chúng tôi rồi biến mất là do nhìn thấy Điền Mộ Thanh vào ư?” Tôi thấy Điền Mộ Thanh có gì đó ổn, ta có thể nhận biết bức bích họa là của đời Đường đành, đến văn tự cổ trong Na miếu ta cũng đọc được, hồn ma trong gương đồng lại sợ ta. Rốt cuộc ta có can hệ gì với ngôi làng cổ này, là ma nữ trốn chạy ra từ ngôi làng này ư? Tôi nhìn chiếc gương thêm mấy lần nữa, thấy có gì khác lạ, chắc hồn ma trong đó tiêu tan rồi, giờ nó trở thành chiếc gương hết sức bình thường. Điền Mộ Thanh sớm nhìn thấy chiếc gương tôi cầm tay, mặt trắng bệch, đờ đẫn hỏi tôi: “Đây... đây là...” Tôi thấy sắc mặt Điền Mộ Thanh bỗng chốc thay đổi biết mình đoán sai, hỏi lại: “ nhận ra chiếc gương này?” Điền Mộ Thanh gật đầu rồi lại lắc đầu, gì nữa, chỉ đứng thất thần nhìn chiếc gương. Tôi biết Điền Mộ Thanh có số chuyện còn chưa với chúng tôi, nhưng có ý hại người. Tôi giao chiếc gương lại cho , ba người quay trở ra ngoài Na miếu. Mặt dày cõng Điếu bát lưng, tôi và Điền Mộ Thanh cầm đuốc soi đường, ra khỏi Na miếu nhằm hướng bắc thẳng tiến. Trong khu rừng dày đặc sương mù giăng mắc, toàn là những gốc đại thụ mấy người ôm xuể, cành cây chĩa ra chi chít. Vừa mới mưa xong nên trong rừng rất ẩm ướt, mùi gỗ cây mục nát bốc lên nồng nồng. Tôi nghĩ sơ đồ vẽ bức tường thể sai được, thẳng về hướng bắc chính là Thảo Hài Lĩnh, cứ theo la bàn là được. Tôi vừa vừa chuyện với Điền Mộ Thanh, tôi hỏi thẳng luôn ta: “ với tôi , trước đây từng tới thôn Thiên Cổ Dị Đế rồi phải ?” Điền Mộ Thanh trả lời: “Chưa... Sao lại hỏi vậy?” Tôi : “ giấu được người khác nhưng giấu được tôi đâu. cũng nghĩ xem tôi là ai. Định đối phó với tôi? vẫn còn non lắm.” Điền Mộ Thanh : “Tôi chẳng có ý đối phó với làm gì. đến đây rồi, có tin hay tùy, tin tôi cũng chẳng có cách nào khác.” Tôi biết nàng vẻ ngoài hiền dịu nhưng yếu đuối chút nào, đành phải hỏi: “ đến rồi đến rồi, có sao đâu.” Điền Mộ Thanh “Tôi hiểu tại sao lại nghi ngờ, có điều có những việc tôi biết phải sao, có cũng chẳng tin.” Tôi : “Muốn hay là tùy , tin hay là ở tôi. Tôi vẫn lựa chọn tin tưởng , nếu tôi bỏ mặc từ lâu rồi.” Điền Mộ Thanh lại : “Đúng là tôi chưa từng tới đây, nhưng lại có cảm giác rất quen thuộc với nơi này, giống như... giống như kiếp trước từng biết tới nơi này vậy.” Thấy nàng có vẻ như dối, tôi trong lòng kinh ngạc, miệng lại hỏi: “Làm gì có chuyện đầu thai chuyển thế...” Điền Mộ Thanh : “Tôi cũng tin. Nhưng tôi nhìn quang cảnh nơi đây như từng gặp, nhìn thấy quan tài dưới địa cung tôi lại có cảm giác sợ hãi vô cùng, nhưng lý giải nổi vì sao lại sợ. Lúc tàu nghe các chuyện ngôi mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ, tôi cũng hiểu vì sao mình lại có cảm giác muốn tới đây. Khi đến đây rồi tôi mới hiểu, đó chính là số mệnh của tôi, tôi có cảm giác mình thoát ra khỏi ngôi làng này.” Tôi an ủi nàng: “Tôi là do suốt ngày mơ thấy ác quỷ đến đòi mạng, thể tới đây đào mộ trộm bảo, ngờ dùng giấy dập lửa, rước họa vào thân. Còn trong cõi hư vô như có sợi dây vô hình kết nối với người làng cổ này. Hai chúng ta như châu chấu cùng sợi dây, nếu có chuyện chẳng ai thoát ra được, cũng đừng lo lắng quá, trời sập có tôi chống hộ . Con người tôi thường ngày ăn ngang tàng, nhưng chủ yếu đều là những câu tận đáy lòng, ruột để ngoài da, nếu có chỗ nào mạo phạm đừng để bụng nhé.” Điền Mộ Thanh : “Các cứu mạng tôi, tôi còn chưa biết phải báo đáp thế nào, sao mà trách được.” Chúng tôi ra được những lời này như trút được gánh nặng, nhưng tôi tin Điền Mộ Thanh từng chết ở ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế này, sau khi đầu thai chuyển thế lại quay lại, chuyện này chắc có nội tình gì đây, có điều tôi chưa tìm ra chân tướng mà thôi. Lúc này, tôi chỉ mong mau chóng tới Thảo Hài Lĩnh, mau chóng rời xa nơi quỷ quái này. Còn ngôi làng cổ đó từng xảy ra chuyện kỳ quái gì tôi còn quan tâm nữa, đó phải là việc tôi có thể đối phó được, chỉ mong là cả hội bị chết ở đây. Tôi và Mặt dày thay nhau cõng Điếu bát, Điền Mộ Thanh cầm đuốc soi đường. Ba người ngừng nghỉ, chỉ thấy trong lớp sương mù dày đặc từng hàng tùng bách lừng lững, xem ra chúng tôi sắp ra khỏi khu rừng rồi, nhưng trước mắt thấy hang động đâu, chỉ thấy tấm bia mọc lên giữa đám cỏ dại um tùm, bên khắc chi chít văn tự cổ. Điền Mộ Thanh tiến lên xem xét, đây chính là tấm bia đá Tầm Na. Cả ba chúng tôi nhìn nhau thất kinh. bản đồ tấm bia nằm ở phía nam ngôi làng, chúng tôi về hướng bắc tại sao lại tới đây được chứ? Hơn nữa từ chỗ Na miếu xuất hành, chúng tôi cũng chưa xa là mấy, cho dù tốc độ nhanh tới đâu cũng thể xa được như vậy. Mặt dày : “Hay là bọn mình lấy báu vật của thôn nên những hồn ma kia giữ chân bọn mình lại cho ra khỏi nơi này. Ghê gớm , bọn này định dùng chiêu lòng vòng này khiến tụi mình mệt chết đây.” Tôi : “Oan hồn giữ chân cùng lắm là lòng vòng tại chỗ thôi. Bọn mình gặp phải chuyện còn khó hiểu hơn, ràng là về hướng bắc lại xuất ở phía nam của làng, xung quanh tối đen như vậy, chỉ e có tới chết cũng ra khỏi nơi này.” 2 Chúng tôi cũng liệu trước là dễ ra khỏi nơi này, nhưng ngờ là về hướng bắc lại tới hướng nam như vậy. Tôi nhớ tấm bia Tầm Na, hẳn nó ghi chép lại những việc quan trọng của ngôi làng nên Điền Mộ Thanh đọc nội dung bia. Đêm tối mịt mùng, bia đá lại cao to lừng lững, Điền Mộ Thanh phải đứng lên lưng con bí hí mới đọc được chữ bia. Tấm bia ghi chép rất nhiều nội dung, Điền Mộ Thanh nhất thời cũng lý giải hết được. Chúng tôi đặt Điếu bát nằm lưng bí hí, thấy ta thở thoi thóp, chúng tôi khỏi lo lắng. Mặt dày thở dài thườn thượt, ta với Điếu bát: “Chỉ còn bước nữa thôi, bước nữa là ra khỏi đây rồi, kiểu gì cũng phải cố lên đấy, về tới nhà rồi mới được phép xuôi tay.” Tôi với ta: “ ấy thế này rồi ông mấy cũng có tác dụng gì, mà có nghe thấy cũng bị ông làm cho tức chết.” Mặt dày gân cổ cãi lại: “Người chỉ còn chút hơi tàn, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh rồi, chỉ có điều hồn chưa thôi, hồn mà người cũng chẳng còn. Cho dù ấy nghe thấy, nhưng vẫn phải để giữ hồn lại, chừng lại chết.” Tôi gật đầu tán thành: “Đúng là có cách như vậy. Bình thường trông ông rất quê mùa thô kệch, ngờ cũng biết điều này.” Mặt dày : “Cái này gọi là chân nhân bất lộ tướng, phải thép nguội mà là vàng ròng đấy.” Tôi : “Vừa rồi ông tới chuyện ma giữ chân khiến chúng ta ra được chỗ này, tôi nghĩ tới nghĩ lui cũng có lý. Tôi vẫn nhớ Lư mặt rỗ có dưới hồ Tiên Đôn có thôn làng, năm đó đói kém, người dân tới khu làng này trộm gạo, khi lấy ràng là gạo trắng phau phau, khi ra khỏi làng bỗng trở thành bùn đất. Đó chẳng phải là ma vùng này giở trò sao?” Mặt dày sợ chiếc vương miện vàng cũng biến thành đất, vội vàng mở chiếc túi da rắn ra xem, may là đồ ở trong vẫn còn nguyên. Tôi : “Người trộm gạo sau khi ra khỏi khu làng này gạo mới biến thành đất, bọn mình ra khỏi đây đâu, ông kiểm tra bây giờ cũng bằng thừa.” Mặt dày : “Lấy được mấy món này đâu phải dễ, mấy lần suýt bỏ mạng rồi, sau khi ra ngoài mà biến thành đất đúng là bắt nạt người quá đáng.” Tôi : “ thể lường trước tình huống xấu nhất, nếu nhầm vào trong chợ núi của thôn Thiên Cổ Dị Đế có tới chết cũng ra khỏi đây được.” Mặt dày lại hỏi: “Chợ núi? Ở đó bán gì vậy?” Tôi giải thích: “Chợ núi còn gọi là chợ ma, phải kiểu chợ phủ như dưới xuôi mình. Ở vùng Thiên Tân và Bắc Kinh có loại chợ canh tư họp, canh năm tan, bày hàng ở chợ đều là đồ có nguồn gốc, lai lịch bất minh, hai bên mua và bán đều thậm thà thậm thụt giấu giấu giếm giếm. Còn chợ ma núi là ám chỉ việc ông vào nơi thâm sơn cùng cốc bóng người nhưng lại gặp tường thành, nhà cửa, phố xá, miếu tự, cung điện, bảo tháp, hàng quán, người dân lại tấp nập rộn ràng, nhìn thấy mồn ngay trước mắt, nhưng chỉ cần trận gió thổi qua mọi thứ trở nên mờ nhạt, phút chốc đều bị gió thổi bay hết hóa thành mây khói, người lạc đứng đần người ra ko hiểu chuyện gì, đó chính là chợ ma, nếu lúc đó mà bước vào trong chỉ có nước tan biến cùng cái chợ đó luôn.” Mặt dày : “Hóa ra là vậy, hồi ở núi Kỳ Liên tôi cũng gặp tượng này rồi, nhìn thấy mà sờ được, nhưng khác hẳn với lần này của tụi mình.” Tôi chỉ tiện mồm vậy ngờ Mặt dày là gặp chuyện này núi Kỳ Liên, tôi tò mò hỏi ta thể ra sao, hai người qua lại chập cũng chẳng rút ra được điều gì, chỉ tổ sốt ruột hão. Tôi giao cho Mặt dày đứng dưới canh chừng động tĩnh, còn mình leo lên lưng bí hí xem Điền Mộ Thanh có đọc được gì . Điền Mộ Thanh đọc tấm bia từ nãy tới giờ cũng chỉ hiểu được nửa, chắt lọc nội dung quan trọng đọc cho tôi nghe. Mặt dày ở dưới cũng chăm chú lắng nghe. ngờ nội dung tấm bia này lại ly kỳ như vậy. Điền Mộ Thanh giải thích tấm bia ghi chép rất nhiều kiện. Na quốc là vương quốc cổ khởi nguồn từ thời Tây Chu, sùng bái quỷ thần, bị diệt vong vào thời hậu Xuân Thu chiến quốc. Những người dân còn sống sót lánh nạn vào trong rừng sâu, dần dần phát triển thành Na giáo, thủ lĩnh gọi là Na vương. Tới thời Tây Hán, từ Hoàng đế vương hầu cho tới người dân đều thịnh hành phong tục tế thần đuổi quỷ. Tôi nghe đến đoạn này cũng khác là mấy với những gì Điếu bát kể, nhưng nội dung tiếp theo là những chuyện mà ta hề biết. Điền Mộ Thanh đọc tiếp: “Việc Tầm Na diệt trừ ma quỷ quái được phân thành Cung Na, Thôn Na, Sơn Na, Thủy Na, Động Na. Từ Na có nghĩa trói buộc, từ cái tên thấy được ý nghĩa bắt ma bắt quỷ để chúng còn tác oai tác quái được nữa. Sau đó, Na giáo lợi dụng việc quỷ thần để kêu gọi người dân làm phản, tới thời Đông Hán bị triều đình trấn áp, Na giáo kéo nhau vào rừng sâu núi thẳm lánh nạn, rồi ở lại đó còn giao lưu với bên ngoài. Lâu dần còn liên quan gì tới phong tục Tầm Na vẫn được lưu truyền trong dân gian nữa. Ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế được xây dựng ở đây còn chứa bí mật rất lớn. Tương truyền, mỗi lần bầu trời xuất thiên cẩu ăn mặt trăng, chính là lúc khí mặt đất nặng nề nhất, người dân trong làng tổ chức lễ Tầm Na tế quỷ. Họ ném ác quỷ bị tước hết pháp thuật xuống hố tế lễ nhằm diệt trừ tận gốc mầm họa và khiến ác quỷ vạn kiếp thể siêu sinh. Hố tế lễ chính là cánh cửa thông tới “Đất quỷ”.” 3 Từ xưa, trong Na giáo rất phân biệt đẳng cấp, theo thứ tự bậc cao tới thấp là Na thần, Na vương, Na tướng, Na sỹ, Na dân. Hầu như ai biết “Đất quỷ” là nơi nào, thường ngày cũng cho phép người dân nhắc tới điều này, chỉ biết từ rất xưa rồi có vương quốc tên là Đất quỷ. Thời Tùy, Tùy Dương hoàng đế vô đạo, lê dân trăm họ chịu muôn vàn khổ cực. Tùy Dương hoàng đế tin vào đạo tiên, cho người xây dựng gian bảo điện nóc vàng bên bờ sông Hoàng Hà với ý đồ thỉnh mời tiên nhân xuống gặp mặt. Tiên đâu chẳng thấy, chỉ thấy Hoàng Hà mấy năm sau đó dịch bệnh liên miên, thiên tai ngớt, người dân đồn nhau có ma hoàng hoành hành, triều đình mời Na giáo tới bắt ma trừ tà. Na vương khi đó nghe ma hoàng gây họa cũng thể nhắm mắt làm ngơ, lệnh cho Na tướng Phùng Dị Nhân tới bờ sông Hoàng Hà để bắt ma. Phùng Dị Nhân từ lúc sinh ra to lớn hơn người, thân hình vạm vỡ, chân dài tay dài nên mới có tên gọi là Dị Nhân. ta đào được cỗ quan tài gần ngôi điện mái vàng, bên trong là con ma hoàng do người chết hóa thành, toàn thân mọc đầy lông trắng, máu thịt của nó có thể lây truyền dịch bệnh, Na vương chuẩn bị mổ bụng rút ruột trừ tà, bỗng trời đất tối sầm, nước sông Hoàng Hà dâng cao, có người nhìn thấy con cá khổng lồ nuốt chửng ma hoàng, cả gian điện mái vàng đều bị lún chìm xuống hố cát vì nước sông tràn vào, ngôi điện từ đó còn nhìn thấy ánh mặt trời. Tôi nghe Điền Mộ Thanh đọc tới đây nghĩ, đó chính là nơi mà lão Nghĩa mù tới. Năm xưa khi Đả thần tiên Dương Phương cùng Thống lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ rơi vào động cát, bản lĩnh như Thôi lão đạo cũng biết lai lịch của con cá và ngôi điện đó, giờ chuyện cũ tan như mây khói, người hóa thành cát bụi từ lâu, tôi có biết cũng đâu có tác dụng gì. Mất tập trung lúc khiến tôi bỏ lỡ mất đoạn, nghe Điền Mộ Thanh kể tiếp đoạn sau. Dị Nhân đại nạn chết, thoát ra được từ cơn nước lũ, mình quay lại núi Hùng Nhĩ ở Dự Tây. Ngờ đâu, sau cơn hồng thủy, trong vòng bán kính trăm cây số bóng người, đừng tới lương thực, ngay cả rễ cây, vỏ cây cũng đào đâu ra. Đành chịu đói đoạn đường dài, chuyện kể cũng trùng hợp, bỗng ta nhìn thấy cục thịt to nằm chình ình giữa đường, cục thịt hình tròn dài trắng nõn, chạm vào hình như nó còn động đậy. ta cũng biết đó là thứ gì, cứ nghĩ là thịt Tê hay Thái Tuế gì đó, vì lúc đó đói mờ mắt rồi nên đừng đó là thịt gì, cho dù là thịt người cũng dám ăn, nên lúc đó ăn luôn cục thịt giữa đường này. Phùng Dị Nhân sống sót trở về, cũng gì với dân làng về việc kia, cũng ai phát ra điều gì khác thường. Nhưng Na vương thay hết đời này sang đời khác, người dân trong làng có người chết, có trẻ em mới sinh ra, duy có ta là vẫn vậy, mấy chục năm trời qua vẫn già chết. đời này làm gì có bức tường nào chắn được gió, chuyện rồi cũng vỡ lở, đầu làng cuối xóm truyền nhau chuyện Phùng Dị Nhân ăn thịt tiên, nên trường sinh bất lão, sắp đắc đạo thành tiên rồi. Nhưng từ sau khi trở về làng hành tung của ta rất lạ, mỗi lần dân làng tổ chức bắt ma ta trốn biệt, bao giờ để cho mọi người nhìn thấy phần lưng của mình, trong làng thường xuyên có người bị mất tích. Sau đó các vị trưởng lão của Na giáo phát ra Phùng Dị Nhân năm nọ bên bờ sông Hoàng Hà phải ăn thịt tiên mà là ăn trứng của loài nhện đất. Loại nhện này chỉ có sáu chân, nằm trong năm loại côn trùng thường gặp. có thứ gì là chúng cắn nát được, Phùng Dị Nhân ăn phải số trứng đó biết được chôn dưới đất bao nhiêu năm, hút được long khí trong lòng đất và hắc đạo, có linh hồn có ý thức, thân thể bất diệt, được gọi là rồng đất. Nghe nó được chôn dưới sông từ khi nước sông Hoàng Hà vẫn còn trong suốt. Mọi người đều biết, nước sông Hoàng Hà đỏ đục phù sa, ai từng nhìn thấy nước sông trong suốt bao giờ chưa? Vậy mà nó từng thấy, thế cũng đủ biết là lâu đời như thế nào. Rồng đất vốn ưa ngủ, ngờ bị trận đại hồng thủy hất tung ra bên ngoài, vẫn còn nửa mê nửa tỉnh bị Phùng Dị Nhân nhìn nhầm là thịt rồi chén sạch. Hậu quả là ta như trúng phải lời nguyền, mãi già chết, đó là bởi nguyên khí của rồng đất dần chiếm dụng thân xác của ta. Phía sau đầu Phùng Dị Nhân mọc ra khuôn mặt nữa, miệng rộng tới mang tai. Hút máu ăn thịt người, những người dân trong làng bị mất tích là đều do ăn thịt. Tôi nghe tới đây chợt nhớ tới rồng đất trong Thông Thiên Lĩnh, nhưng hai con vật này hoàn toàn giống nhau chẳng qua chỉ chung tên gọi mà thôi. Điền Mộ Thanh lại đọc tới đoạn sau của tấm bia. Na vương nhân lúc rồng đất ngủ say sai người bắt Phùng Dị Nhân mổ bụng rút ruột, ngờ đâu trong bụng Phùng Dị Nhân lổn nhổn toàn là nhện đất, chúng bò ra ngoài và cắn chết vô số người dân. Oan hồn của rồng đất mãi siêu thoát được, nhập vào thân xác Phùng Dị Nhân tác quái, nơi nào qua có người và vật nào có thể sống sót. Dân làng Thiên Cổ Dị Đế có cách nào đối phó với con quái này, đành phải quỳ lạy nhận lỗi làm hỏng thân xác của quân vương, nay xin dùng chiếc áo ngọc và tượng vàng tổ chức hậu táng tại Huyền Sơn cung, những vật báu của Na giáo như vương miện vàng Lộc thủ bộ dao quan, cốc mã não đầu thú, gối dương, đai ngọc hoa văn hình rắn và mây, gậy sừng tê giác, gương đồng đúc hình chim thần, thanh Yểm Nhật kiếm của Việt vương... đều được tùy táng trong địa cung. Trong đó vương miện vàng, đai ngọc, gương đồng là đồ của phụ nữ khí quá nặng nên kèm theo thanh trượng bằng sừng tê giác, thanh bảo kiếm của Việt vương, gối dương, cốc mã não tùy táng cùng. Ngoài ra, Na vương còn cho xây dựng miếu thờ, mỗi năm dùng trâu đen, ngựa bạch, đồng nam đồng nữ cúng tế. Có vậy mới đem được thi thể Phùng Dị Nhân liệm vào quan tài, đặt trong địa cung dành cho các Na vương. Dòng cuối cùng của tấm bia viết “Lập bia tại đây, báo cho con cháu đời sau được dừng cúng tế, được vào địa cung. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba”. Mặt dày nghe say sưa, thấy Điền Mộ Thanh đọc nữa liền hỏi: “ là ly kỳ, tiếp theo thế nào?” Điền Mộ Thanh : “Văn bia chỉ tới đó thôi, đoạn sau hết rồi...” Tôi : “Cuối cùng cũng biết được gian chính diện trong hầm mộ là ai. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba, vậy là tấm bia được lập thời Đường Thái Tông tại vị, đáng lẽ ra nên bắt rồng đất... Tôi có cảm giác Phùng Dị Nhân sau khi ăn phải trứng rồng đất rồi chỉ còn cái xác hồn. Nên sau khi nhốt được thi thể của rồng đất vào trong địa cung văn bia ghi chép gì thêm, có điều chuyện này hiển nhiên là chưa kết thúc.” Mặt dày : “Sợ là sợ có kết cục, chẳng phải làm người ta sốt ruột chết.” Tôi nghĩ lúc rồi : “Na vương chắc chắn là chờ đợi cơ hội để đưa hồn trong địa cung tới hố tế lễ phía cuối thôn, khiến nó còn cơ hội quay trở lại, nhưng nửa chừng chắc có kiện gì đó, đoạn sau tôi thể đoán được.” 4 Điền Mộ Thanh với tôi và Mặt dày, có thể biết trong thôn Thiên Cổ Dị Đế sau đó xảy ra chuyện gì. Tới lúc này, tôi cũng còn lạ lẫm và kinh ngạc nữa, trông thấy nàng lục lọi tìm tòi trí nhớ, dường như có nhớ lại được chút ít, tôi : “ đừng vội, nhớ được bao nhiêu nhớ.” Điền Mộ Thanh gật đầu, hồi tưởng lại lúc rồi : “Rồng đất trúng kế hoãn binh, bị nhốt tới thời Đường Thiên Bảo năm thứ nhất gặp năm có thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tổ chức nghi lễ bắt ma, chuẩn bị đưa hồn bất tán của rồng đất về Đất quỷ, nhưng nghi lễ động Na tống quỷ rất nguy hiểm, chỉ cần có chút sơ suất toàn bộ cả thôn làng đều gặp họa. Đúng là ghét của nào trời trao của đó, con đường thông từ nơi tế lễ đến Đất quỷ chỉ xuất trong thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng. Trước nay làm lễ chưa từng xảy ra chuyện gì, vậy mà lần này lại xảy ra cố, cánh cửa thông với Đất quỷ sau khi mở ra lại đóng vào được, Na vương bất lực đành phải cho tất cả mọi người đeo mặt nạ vào cùng niệm chú cầu khấn thần linh, sau đó...” Tôi và Mặt dày người đứng phía dưới người đứng lưng bí hí chăm chú nghe Điền Mộ Thanh kể. Điền Mộ Thanh : “Sau đó... chuyện sau đó thế nào... tôi thực thể nhớ nổi nữa...” Mặt dày : “ sao lại thế chứ, chẳng phải khiến người ta sốt ruột chết mà cần đền mạng còn gì.” Tôi thắc mắc biết, trong lúc làm lễ xảy ra cố ngoài ý muốn gì? Khi cánh cửa thông với Đất quỷ thể đóng lại được Na vương cùng dân làng làm gì? Hai điểm này rất quan trọng. Tôi cố gắng suy luận, Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, trong đêm thiên cẩu ăn mặt trăng đó, chính là thời khắc toàn bộ thôn Thiên Cổ Dị Đế chìm xuống lòng hồ, nhưng thực tế làng này chẳng hề bị nhấn chìm, vì trong lúc làm lễ đuổi ma xảy ra cố, những chẳng đưa được hồn rồng đất về nơi Đất quỷ, mà cánh cửa nơi tế lễ cũng thể nào đóng lại được, trong tình thế bất đắc dĩ ấy, tính mạng của toàn bộ dân làng bị cướp đoạt, may mà dùng thôn làng chắn được cửa vào. Bọn tôi và Hoàng phật gia ngờ lạc vào thôn làng vốn biến mất từ lâu. Trước đó, khi nghỉ chân tại quán trọ bỏ hoang nơi Thảo Hài Lĩnh, chúng tôi từng nhìn thấy xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, có thể năm xưa trong lúc gặp nạn, ba người này cách thôn làng tương đối xa nên bị chìm xuống hồ, còn thôn Thiên Cổ Dị Đế và những vùng xung quanh bị rơi vào Đất quỷ từ năm Đường Thiên Bảo thứ nhất rồi. Đất quỷ có phải ám chỉ ti ? Tôi nhớ lại lúc mở quan tài gỗ trầm hương để xác chết nữ, nét mặt bọn Hoàng phật gia rất kinh ngạc, vì sao lại vậy? Xác chết đeo vương miện Lộc thủ bộ dao quan là ai? Tôi cứ có cảm giác xác chết này liên quan tới Điền Mộ Thanh, càng liên quan tới đêm thiên cẩu ăn mặt trăng định mệnh đó. Còn bức bích họa về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế trong mộ Liêu chắc chắn là cơn ác mộng gặp oan hồn trong mơ của nữ thần Saman khi còn sống. Nhưng tại sao tôi cũng bị vướng lời nguyền này tôi vẫn lý giải nổi. Tôi đem ý nghĩ đó với Điền Mộ Thanh và Mặt dày: “Bọn mình biết lối nào có thể thoát ra ngoài, chỉ còn cách tìm hiểu xem Thiên Bảo năm thứ nhất của đời Đường xảy ra chuyện gì rồi tính tiếp.” Mặt dày lại yên tâm vì phải lo chiếc vương miện và gương đồng biến thành bùn đất. ta chỉ lo thôn làng này rộng lớn, tầng tầng lớp lớp vây quanh mộ cổ Huyền Cung Sơn, hàng nghìn hàng vạn nóc nhà, nếu tìm từng căn cũng đơn giản. Tôi định lên tiếng bỗng thấy mùi xác chết bốc lên từ phía ngôi làng, cách xa như vậy mà vẫn ngửi thấy. Cả ba chúng tôi đều thất sắc, biết chắc là cương thi trong địa cung ra ngoài. Tôi : “Xác chết của Phùng Dị Nhân bị hồn ma của rồng đất nhập vào, nghìn năm trước Na giáo còn đối phó được với , bọn mình thể để bị hại, phải tìm chỗ trốn mau.” Mặt dày hỏi: “Trốn vào đâu? Quay về Na miếu à?” Tôi nghĩ cả bọn cứ loay hoay ở đây cũng phải là cách hay, bức tranh trong Na miếu có vẽ con đường màu đen, giống như là đường hầm nằm dưới thôn làng. Chúng tôi tìm kiếm xung quanh tấm bia, quả nhiên phát miệng hầm nằm cách đó xa, nếu cố tình tìm thể phát được. Đáng tiếc là tôi chú ý kỹ tấm bản đồ nên biết đường hầm này thông tới đâu. Tình thế quá khẩn cấp, chẳng thể nghĩ ngợi được nhiều, chúng tôi đốt đuốc vào bên trong. Miệng hầm tuy hẹp nhưng phía bên trong lại rộng rãi như đường hầm dẫn vào mộ, khắp nơi đầy hài cốt và đao kiếm, có dấu tích của giao tranh cho thấy trong làng xảy ra trận chiến rất ác liệt. Địa đạo dưới thôn làng ngoằn ngoèo uốn lượn với nhiều nhánh rẽ nhưng vào đều là ngõ cụt. Tôi để ý thấy hoa văn và gạch đá trong địa đạo đều giống nhau. Những lối cụt đều là hoa văn chìm, lối thông là hoa văn nổi được khắc đá. Chúng tôi nắm bắt được quy luật nên chỉ chọn những ngách có hoa văn nổi để , tới ngã ba, hai bên đều là hoa văn nổi, tôi nhất thời biết chọn bên nào, chúng tôi rẽ vào ngách hướng tây trước, ra hướng đó về phía hố tế lễ, nhưng được đoạn đường hầm sụt lở rất nghiêm trọng, phía trước bị đất đá chặn mất lối , nên đành phải quay lại sang ngách phía bên phải. được đoạn, chúng tôi gặp phiến đá chắn ngay trước mặt, nhưng có trục xoay, chúng tôi tiến lại đẩy tấm đá ra, phía trong là gian thạch thất, bốn phía bám đầy bụi bặm, tường có vẽ tranh, dưới đất có bộ hài cốt, bên cạnh là mấy chiếc rương gỗ nẹp đồng, vì bên trong lâu ngày lưu thông khí nên nồng nặc mùi ẩm mốc, trong này còn có bậc thang bằng đá. Tôi cứ nghĩ đây lại là hầm mộ nữa, nhưng tôi mau chóng ý thức được bọn tôi ở phía dưới ngôi làng. Có thể đây là gian mật thất ngầm của căn nhà nào đó trong thôn. Quay đầu nhìn những bức tranh tường, bất giác tim tôi đập thình thịch. 5 Mặt dày theo vào, nhìn thấy những bức bích họa đó cũng “Ối!” lên tiếng, lập tức đặt Điếu bát xuống đất, dài cổ cùng tôi ngắm nghía mấy bức tranh. Bích họa trong này có rất nhiều, xem ra liên quan gì tới nhau. Tôi nhìn thấy bức vẽ hoàng đế nhà Hán ban chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan cho vị Na tướng có thân hình lực lưỡng, mình mang áo giáp, mặt đeo mặt nạ, trời là vầng trăng, bức tranh này ràng là lên lai lịch của chiếc vương miện. Trong dân gian truyền rằng, chiếc vương miện là Vị Ương cung dùng mỗi lúc tế thần mặt trăng, hình dạng giống như sừng hươu, mỗi nhánh sừng đều có lá vàng, sau đó chiếc vương miện bị mất tích, hiểu sao lại xuất ở thôn Thiên Cổ Dị Đế này, xem ra là do hoàng thượng ban tặng. Bức tranh tiếp theo là hình chiếc đai ngọc có hoa văn rắn và mây, là vật báu được ghi chép tấm bia Tầm Na, những bảo vật khác như gậy bằng sừng tê giác, gương đồng đúc hình chim thần, thanh bảo kiếm của Việt vương, gối dương, mỗi cái đều có bức tranh riêng. Tôi : “Chỗ này chắc là nơi cất giữ báu vật của ngôi làng, mỗi cái đều có lai lịch ràng.” Mặt dày vội mở những chiếc rương ra, bên trong chẳng có gì, liền thắc mắc: “Sao có gì cả thế này?” Tôi : “Những báu vật của thôn Thiên Cổ Dị Đế này chúng ta đều nhìn thấy rồi, ngoài chiếc gương đồng ở trong Na miếu còn lại đều trong địa cung. Đương nhiên là thể có mặt ở đây được rồi.” Mặt dày : “Vậy cậu xem bức họa của chiếc gương và chiếc đai ngọc , sau này còn tiện ra giá.” Tôi xem hồi lâu, thông qua bức tranh được biết, chiếc đai ngọc do loạn quân đoạt được trong ngôi mộ của triều đại trước, chiếc đai có khóa, có thể ghép lại hoặc mở ra, khi nối lại thành vòng tròn, có hình chín con rắn cưỡi mây vờn xung quanh, tinh tế khéo léo tới mức khiến người ta nghĩ rằng nó là do quỷ thần tạo ra, xem ra nó cũng thua kém gì chiếc vương miện vàng. Lúc này, Điếu bát bỗng “ư” lên tiếng, chúng tôi vội đỡ ta ngồi dậy dựa vào chiếc rương gỗ. Thấy ta có chút ý thức, mặt trắng như tờ giấy mệt mỏi há miệng hớp hớp, chắc là do mất máu nhiều nên khát nước đây. Tôi vội lấy nước trong bi đông cho ta uống, Điếu bát rên lên: “Ôi giời... vừa nằm mơ mất cả tiền lẫn tình, thấy mình rơi vào hang động, rơi mạnh quá khiến mông vỡ làm đôi.” Tôi khuyên Điếu bát đừng nghĩ ngợi linh tinh, mông con người ta vốn là hai nửa mà. Điếu bát nghe thấy giọng của tôi, miễn cưỡng mở mắt ra nhìn, hỏi: “Đây là đâu? Về nhà rồi à?” Mặt dày hậm hực: “Nhà đâu mà nhà, ông nhắm mắt lại thế là xong chuyện, tôi cõng ông cả ngày rồi đấy.” Điếu bát ngạc nhiên đưa mắt nhìn xung quanh, nghiêng đầu thấy bộ xương khô bên cạnh, ta sợ quá hai mắt trợn tròn trắng dã, rồi lại lăn đùng ra ngất xỉu. Điếu bát thường ngày lắm chuyện, tôi vẫn bảo ta miệng đàn bà, liên hồi cho mồm lên da non, nhưng mối thâm tình của tôi với rất sâu nặng, giờ này tuy ta lại ngất xỉu nhưng cũng chỉ là do sợ quá, còn tỉnh táo hơn, tôi cũng yên tâm phần nào. Có điều Điền Mộ Thanh vừa sợ vừa mệt, cứ để ấy nghỉ ngơi, chỉ cần rồng đất đuổi theo tới đây nơi đây vẫn coi là an toàn. Mặt dày định chuyển bộ xương khô ra chỗ khác, người này chết hơn nghìn năm, mặc chiếc áo dài, mặt nạ rơi ngay bên cạnh, sau lưng đeo thanh kiếm đồng. Mặt dày chạm vào bộ xương khô, thanh kiếm rơi xuống sàn nhà phát ra tiếng kêu lạnh lẽo. Tôi cầm lấy thanh kiếm, cảm nhận được trọng lượng của nó trong lòng bàn tay, gọi Điền Mộ Thanh thắp đuốc tới gần, tôi rút thanh kiếm ra khỏi vỏ bao da cá mập, thân kiếm dài lắm, nhưng hề hoen rỉ, chi chít những hoa văn lục lăng khắc chìm, cân đối đẹp mắt, còn có hoa văn hình chim và chữ triện, lưỡi kiếm sắc ngọt. Trong quan tài của rồng đất có thanh bảo kiếm của Việt Vương, tương truyền đó là trong tám thanh kiếm của Việt Vương thời Xuân Thu chiến quốc, rơi vào tay người Na giáo và trở thành bảo vật trấn giáo. Còn thanh kiếm chúng tôi tìm thấy đây, mặc dù thể so sánh được với thanh Yểm Nhật nhưng cũng phải loại tầm thường. Tôi kiểm tra lại xem còn mấy viên thuốc súng, thanh kiếm đồng này có thể mang theo phòng thân, nghĩ vậy liền thu vào vỏ kiếm, giao cho Điền Mộ Thanh. Trong lúc Điền Mộ Thanh buộc lại thanh kiếm tôi liếc mắt nhìn thấy bức tranh chiếc gối dương, rồng đất nằm trong quan tài, mình mặc áo ngọc cũng gối đầu chiếc gối Phục hổ dương, tôi chột dạ, trong mộ cổ nhà Liêu cũng có chiếc gối dương như vậy. Tôi luống cuống đứng dậy, cầm đuốc xem xét kỹ càng bức tranh, phát gối Phục hổ dương hóa ra là có cặp. Điền Mộ Thanh và Mặt dày chuyện với tôi, tôi cũng thèm để ý, cứ đứng thất thần nhìn bức tranh. Theo những gì vẽ trong tranh gối Phục hổ dương có chiếc là gối chiếc là gối dương, là bảo vật thời Tây Hán. Hai người ở hai nơi khác nhau mà gối chiếc gối này để nằm ngủ hồn phách của họ có thể gặp nhau. chiếc gối ở trong quan tài của rồng đất, chiếc sau đó lưu lạc ra bên ngoài (cũng có thể nó chưa từng có mặt ở Thiên Cổ Dị Đế) tới tận nước Liêu. Công chúa nước Liêu, nữ thần Saman gối chiếc gối này để ngủ, đương nhiên gặp oan hồn của rồng đất trong cơn ác mộng. Vòng tròn đen bức bích họa trong mộ cổ nhà Liêu phải ám chỉ tượng thiên cẩu ăn mặt trăng, trước đây do tôi tự mặc định như vậy, giờ nghĩ lại mới thấy thiên cẩu và mặt trăng tách rời nhau, nếu thiên cẩu ăn mặt trăng phải tiếp xúc nhau chứ. Căn cứ tình hình trong bức tranh ràng là ngôi làng rơi vào vùng đất quỷ. Khi tôi cùng Trương Cự Oa, Sách Ni Nhi vào trong mộ cổ nhà Liêu, tôi ngã đập đầu vào chiếc gối mà Khiết Đan nằm, vì vậy mà tôi cũng gặp ác mộng và thấy được hồn bất tán của rồng đất. Nữ thần Saman Mang Cổ là người có thông linh, có thể nhìn thấy ngôi làng bị rơi vào Đất quỷ qua giấc mơ của mình, còn tôi chỉ có thể nhìn thấy oan hồn của rồng đất. Còn chuyện vì sao gối Phục hổ dương có thể khiến người kê nó nằm mơ tôi nghĩ chắc có nguyên do, nhưng đó là điều nằm ngoài tầm kiến thức của tôi. Mặt dày lại vỗ vai tôi: “Cậu lại gặp ma rồi à? Sao mà cứ đần mặt ra nhìn bức tranh mãi thế?” Tôi định thần lại mới thấy cánh tay cầm đuốc của tôi đầm đìa mồ hôi lạnh, liền trả lời: “Chỉ sợ là chúng ta gây họa lớn rồi!” 6 Mặt dày và Điền Mộ Thanh hiểu, hỏi tôi sao lại vậy, họa lớn tôi là gì? Tôi giải thích: “Oan hồn của rồng đất nhập vào thi thể Phùng Dị Nhân, nằm trong quan tài nghìn năm chưa ai động tới, nhất định là có liên quan tới chiếc gối Phục hổ dương. Bọn mình đào mộ lấy đồ cũng sao, quan trọng là làm kinh động tới rồng đất trong quan tài và dụ nó ra bên ngoài.” Mặt dày : “Tôi với cậu chỉ mở quan tài ra xem thôi mà, ra tay đâu. Chính bọn Hoàng phật gia gan to bằng trời, chưa tìm hiểu ràng lôi xác cương thi dậy để lấy thanh bảo kiếm, nếu tôi mà là người nằm đó tôi cũng chẳng tha cho nó.” Tôi : “Chuyện ai động vào rồng đất giờ quan trọng nữa rồi, thôn làng chặn lối vào đất quỷ hơn nghìn năm nay. Tôi chỉ e rồng đất mà ra được bên ngoài hình thế ở đây có thay đổi kinh khủng, có thể tới mức đá tan ngọc nát ấy chứ. Nên thể nán lại ở đây lâu, phải tranh thủ ra khỏi đây càng sớm càng tốt.” Mặt dày : “Ai mà muốn ra mẹ vợ người đó chết bất đắc kỳ tử. Nhưng dễ, để ra được đâu có dễ, theo hướng nào mới ra bên ngoài được chứ?” Tôi : “Bọn mình chịu đói chịu khát, vừa kinh vừa sợ, nếu cứ đâm đầu lung tung cũng chẳng trụ nổi mấy nỗi. Nhưng cũng thể ngâm mãi ở đây được...” Tôi ngước mắt nhìn về phía bậc thang đá nghĩ, biết chỗ đó thông tới đâu. Dưới này là hầm cất báu vật chắc phía đó cũng là nơi quan trọng. Tôi nghĩ đành phải tới đâu hay tới đó, cứ lên đó xem thế nào, cho dù đó là vực sâu núi thẳm cũng chỉ còn cách nhắm mắt mà nhảy xuống thôi. Chúng tôi lên theo hướng cầu thang, mở tấm nắp đậy bằng đá ra, phía là gian nhà to như đại điện, chia thành tiền sảnh hậu thất. Hành lang u dài hun hút. Đây chắc là kiến trúc lớn nhất của ngôi làng, nhưng do lâu ngày gỗ mục, mái nhà sập sệ, còn vẻ nguy nga tráng lệ như năm xưa nữa. Gian nhà lừng lững trong đám mây mù càng tăng thêm vẻ u kinh dị. Trong điện đường có bích họa vẽ hình kim đồng ngọc nữ dâng nước lửa hầu hạ, phủi lớp bụi bên màu sắc bức tranh vẫn còn tươi tắn lắm. Tôi biết loại tường này làm bằng đất sét đỏ, sau khi khô cứng như đá, để bao nhiêu năm cũng bị nứt, bên ngoài quét lớp nước phèn, dùng lòng trắng trứng trộn với bột rồi quét lên ngoài cùng, sau đó dùng khăn bông lau lau lại nhiều lần cho tới khi trơn bóng, người ta dùng đá màu làm màu vẽ tranh nên màu sắc bức tranh mới tươi tắn như vậy đến hàng nghìn năm. Tới tận bây giờ gian điện vẫn nguyên vẹn bị sập, tôi phát ra mùi xác chết ngày nặng hơn, nhưng đêm hôm thanh tịnh, tuyệt chút động tĩnh, liền vội giục ba người kia. Mặt dày lên tiếng hỏi: “Đây là đâu vậy?” Điền Mộ Thanh còn nhớ ký hiệu trong bức tranh tại miếu đường, nơi này chính là cung điện của Na vương, nằm ở vị trí phía tây thôn làng theo hướng từ tây sang đông, bước tiếp theo là tới hố tế lễ, đó chính là nơi đưa hồn ma về với Đất quỷ. Tới đó, tôi biết được tại đêm thiên cẩu ăn mặt trăng rốt cuộc xảy ra chuyện gì, tại sao lại thể đưa oan hồn của rồng đất tới Đất quỷ. Mặt dày nhớ tới bộ dạng của rồng đất cũng sợ hãi, vội vã đứng lên chuẩn bị . Tôi nhắc mọi người bước chân, sợ bị lộ nên tôi tắt đuốc thay bằng đèn pin soi đường. Đến trước cửa điện bỗng nghe thấy tiếng thở dài, ràng là tiếng , thanh nhàng dễ nghe, tôi nghe thấy mà cũng chợt xao động trong lòng, bật đèn pin lên thấy có với khuôn mặt rất xinh lấp ló bên ngoài, búi tóc cao, da trắng như tuyết, mặt tươi như hoa đào, ánh mắt đưa tình, nấp sau cánh cửa nghiêng đầu nhìn vào trong điện, cười với tôi. ta nhìn tôi cười khiến tôi thấy toàn thân như điện giật, tựa hồ bị hớp mất hồn. Điền Mộ Thanh tuy cũng xinh xắn nhưng có vẻ khiêu gợi như vậy, tôi hoàn toàn quên mất trong thôn này, ngoài chúng tôi ra còn ai khác nữa. đó lại cười rồi bỗng biến mất sau cánh cửa. Mặt dày nhìn lác cả mắt, quay sang hỏi tôi: “Cậu thấy , ta để vai trần đấy, hình như mặc áo.” Tôi chẳng để ý tới vai ta, nhưng nếu mà quần áo cũng đồi trụy quá, mà ta lạnh sao? Mặt dày đặt Điếu bát xuống, hai mắt dựng ngược quả quyết: “Tôi phải xem sao, trông ả giống người sống.” Điền Mộ Thanh thất kinh, kêu lên: “Các đừng , ở đây làm sao có người còn sống được.” Tôi : “Chắc chắn là người, tôi soi đèn vào mặt ta vẫn nhìn thấy bóng. Quần áo có vết khâu là tiên, đứng trước đèn có bóng là ma.” Mặt dày quay sang giải thích với Điền Mộ Thanh: “Xem ra ta cũng bị kẹt lại trong này giống như bọn mình. sợ ta, ta còn sợ hơn, la lên như thế chẳng phải làm người ta sợ chạy mất rồi .” Chúng tôi chuyện đó lại ló đầu vào, lần này chúng tôi nhìn quá ràng, đúng là rất xinh đẹp, lông mày đen răng trắng, hai mắt trong veo, hơi hé miệng như định gì đó, nhưng chỉ cười lên hai tiếng rồi lại trốn sau cánh cửa. Tôi và Mặt dày quyết tâm ra ngoài xem đó là ai. Thực tình tôi cũng thấy lạ, nhưng hiểu sao chẳng chịu nghe lời can ngăn của Điền Mộ Thanh mà cứ bước ra ngoài điện như tự chủ được. Điện Na vương là gian nhà to rộng, chính điện nằm phía trong cùng vì cả ngôi làng này đều vây xung quanh ngôi mộ cổ núi Huyền Cung nên gian nhà này quay mặt về hướng Tây, ra khỏi cửa là hướng chính tây, hai bên có hai hành lang, chúng tôi nhìn ra sau cánh cửa, thấy vẫn đứng ở đó trong lớp sương mù, nhưng vẫn chỉ nhìn thấy phần đầu, ta nhìn chúng tôi nửa như cười nửa như . Tôi tiến gần thêm vài bước, dùng đèn pin soi sáng bỗng điếng người, có khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần đó chỉ có mỗi cái đầu , mà có phần thân, dường như chỉ là chiếc đầu bay lơ lửng trong trung. Tôi và Mặt dày cùng thất kinh, nhưng cũng hẳn là sợ, chiếc đầu của này quá xinh đẹp, xem ra thể đột nhiên cắn người được, có gì phải sợ đâu. Mặt dày giơ tay ra định véo vào má cái, chiếc đầu đó ngay lập tức né tránh, chúng tôi lại áp sát, nhất định phải xem cho đó là thứ gì, ngờ đâu chiếc đầu của bỗng tiến sát về phía chúng tôi, lúc này mới nhìn phải chỉ có mỗi cái đầu, có điều cổ ta quá dài, bị che lấp trong lớp sương mù, mà cũng chẳng biết phần thân của ta đâu, khuôn mặt ta vẫn nở nụ cười ma mị, tôi và Mặt dày tâm thần mê mẩn, thể tự chủ được, cứ vậy bước theo ta sâu vào trong lớp sương mù.
Chương 18: Chiếc đèn lồng đầu người 1 Chúng tôi tâm thần hoảng hốt đột nhiên có người lôi giật chúng tôi lại, tôi giật mình lùi lại phía sau mấy bước, quay đầu nhìn lại hóa ra là Điền Mộ Thanh kéo tôi và Mặt dày lại. Điền Mộ Thanh lớn tiếng : “Các nhìn thấy nó phải là người sao?” Ý thức của tôi và Mặt dày giờ mới khôi phục trở lại, nhớ lại vừa rồi chúng tôi theo chiếc đầu của kia vào trong lớp sương mù, cũng biết ả dẫn chúng tôi tới đâu, nghĩ lại cũng thấy sởn tóc gáy. Mặt dày như chuẩn bị nghênh địch, cầm sẵn súng trong tay nhìn chăm chăm ra ngoài cửa điện, : “Trông bộ dạng ả cũng ổn đấy chứ, tại sao lại chỉ có mỗi cái đầu nhỉ?” Tôi : “Bên dưới cái đầu còn có cổ, còn phía dưới cổ có cái gì tôi nhìn ra. Thôn làng này hơn nghìn năm có người ở, tự dưng ở đâu xuất cái đầu biết cười, bọn mình còn như mất hồn theo nó nữa chứ.” Điền Mộ Thanh : “Hai mắt đờ dẫn theo nó, tôi cản sao cũng được, may mà tôi còn lôi được hai lại.” Mặt dày : “Tôi trông thấy cậu ta cứ sáng mắt lên theo ta, sợ cậu ta giở trò gì đó nên mới theo ngăn lại thôi.” Tôi lại: “Nước miếng nước dãi ông chảy tùm lum còn tôi?” Mặt dày : “Trước giờ tôi luôn biết coi chuyện thiệt thòi thành chuyện có lợi cho mình, thèm chấp cậu, tùy cậu tô vẽ.” Điền Mộ Thanh : “Hai người đừng có nhau nữa, chắc là do ma xui quỷ khiến thôi.” Tôi : “ phải là ma, chừng là đèn lồng đầu người đấy.” Mặt dày hiếu kỳ hỏi: “Cái đầu ả kia là đèn lồng ư? Chẳng phải còn có cổ sao?” Tôi kể: “Trước đây lão Nghĩa mù có kể cho tôi nghe chuyện người nửa đêm tỉnh dậy ra ngoài, tới nơi rừng núi hoang vu bỗng thấy cái đầu rất xinh đẹp. Chỉ cần tiến lại về phía cái đầu đừng có mong có cơ hội trở về. Vì phía sau khuôn mặt xinh đẹp đó còn có những bí khác, có thể là lão quái vật cầm chiếc que dài có chiếc đầu giống như đèn lồng vậy, lão ta dụ người tới nghĩa địa để ăn thịt.” Thực ra chuyện về đèn lồng đầu người này tôi cũng nhớ nghe ở đâu, chung cái thời đó người dân thường ngủ sớm, nhất là vào mùa đông, ngày ngắn lại lạnh, trời vừa tối nhà nhà lục đục tắt đèn đóng cửa ngủ. Thứ nhất, do trời lạnh đất đóng băng, chui vào chăn ấm là sướng nhất, hai nữa thắp đèn tốn dầu, dùng đèn điện tốn điện, đều là tiền cả. Thời buổi kiếm được đồng tiền dễ dàng gì, tiết kiệm được chút nào hay chút đó. Thứ ba là ăn no, ngủ sớm cho tiết kiệm được lương thực. Thanh niên trai tráng ngủ sớm được hò nhau tìm các cụ già nghe kể chuyện kim cổ. Cả lũ chen chúc giường, tắt hết đèn đóm, chuyên lựa mấy chuyện kinh dị để nghe, đặc biệt là những chuyện ma có cốt truyện tên tuổi đàng hoàng, càng ghê rợn càng muốn nghe, nghe xong rồi còn thi nhau hỏi: “Chuyện này có ?” Mặt dày trước đây cũng từng nghe những chuyện tương tự như vậy, gật đầu lia lịa: “Cái thứ ngoài cửa kia chắc chắn là đèn lồng đầu người rồi.” Điền Mộ Thanh thầm : “Tôi thấy ả kia đầu mày cuối mắt, giống như đầu người chết được buộc chiếc que dài.” Tôi : “ cần biết nó là thứ gì, đôi mắt ả ta có thể hút hồn, bọn mình được nhìn vào mắt ả.” Ba người chúng tôi vốn định về khu tế lễ ở phía tây thôn làng, nhưng lúc này ai cũng khiếp sợ, dám bước chân ra khỏi điện Na vương. Hơn nữa xung quanh khu tế lễ là cây cao rừng rậm, vào trong đó rất dễ bị lạc. Giờ chỉ còn lại hai lối , đó là khúc đường hầm bị sập dưới lòng đất và Thần đạo trước điện Na vương. Theo như nội dung trong bức bích họa, hai bên đường hầm trước điện Na vương có rất nhiều kỳ lân và tịch tà ( loài vật may mắn có hình dạng giống như sư tử), đầu có sừng là kỳ lân, có sừng là tịch tà, chúng được tạc bằng đá luôn có đôi có cặp, đặt đối xứng hai bên đường hầm. Kỳ lân có loại hai sừng, có loại sừng, đều có cách giải thích riêng nhưng tôi cho lắm, do trước đây mấy lưu tâm. Nhưng nhờ có hai hàng tượng đá này nên dù cây cỏ dại mọc um tùm cũng khó để tìm ra Thần đạo. Trước mắt chỉ còn duy nhất con đường này, đường này còn đường nào được nữa. Chúng tôi chần chừ chưa dám tiến lên lại nghe thấy tiếng cười, chiếc đầu kia lại thập thò ngoài cửa điện, vẫn nhìn thấy phần thân đâu. Mặt dày lần này dám nhìn vội cầm lấy súng, “Pằng, pằng” bắn liền hai phát. Khói thuốc đầu nòng súng còn chưa kịp tan chiếc đầu kia biến mất ngoài cánh cửa, phía bên ngoài chút động tĩnh. Tổng cộng còn bốn viên đạn, Mặt dày bắn hết phần đạn của mình, vứt toẹt khẩu súng săn xuống sàn nhà. Tôi giao khẩu súng của tôi cho ta, còn mình cầm lấy chiếc xẻng phòng thân, hỏi: “Ông bắn trúng nó rồi chứ?” Mặt dày lắc đầu nhìn nhưng khoảng cách gần như vậy, sức công phá mạnh hơn, thần tiên cũng tránh được. Tôi : “Chúng ta ra ngoài xem thế nào, nhưng được bước ra khỏi điện.” Mặt dày cầm chắc súng trong tay, cố bình tĩnh tiến lên vài bước. Tôi dặn Điền Mộ Thanh ở lại bên trong được đâu rồi thắp đuốc ra bên ngoài, chúng tôi nhìn khắp mà thấy vết máu, ngoài trời sương giăng dày đặc, khí u đầy chết chóc, chẳng nhìn thấy gì. Tôi bỗng nghe thấy phía có động tĩnh, vội ngước lên nhìn thấy chiếc đầu kia ở phía cửa điện, cúi mặt nhìn xuống chỗ chúng tôi. Cửa điện cao như vậy, cho dù cổ ả dài đến mấy sao mà vươn lên được đó. Tôi và Mặt dày đều sợ run hết cả người, đờ ra nhìn cái đầu, khi chạm vào ánh mắt của ả ta lại thấy tim đập thình thịch, tay chân thừa thãi thể làm chủ. Đúng lúc này trận gió nổi lên, ngoài điện bốc lên mùi tanh hôi của máu kèm theo những tiếng kêu la rên rỉ giống như cả bầy ma đói mò tới. Mùi máu tanh hôi buồn nôn xực lên mũi khiến tôi ngay lập tức tỉnh táo, chân tay luống cuống vội tránh, nhưng chiếc đầu của ả vẫn bám riết lấy tôi, chiếc cổ dài vươn ra chui theo vào trong điện. 2 Điền Mộ Thanh kêu lên thất thanh: “Mau đóng cửa điện lại!” Tôi và Mặt dày cùng rùng mình, mỗi người bên vội vàng đóng sập cửa lại. Cái đầu với khuôn mặt xinh đẹp chỉ ra trong sương mù bị chặn lại ở bên ngoài cửa điện. Cửa điện bằng gỗ, có chắn được cái thứ bên ngoài kia chúng tôi cũng dám chắc. Chúng tôi đứng bên trong, căng thẳng thắc thỏm mất vài phút, bên ngoài vẫn có động tĩnh gì, nhưng mùi máu tanh vẫn chưa tan. Mặt dày hỏi: “Sao bên ngoài đầy mùi máu thế nhỉ?” Tôi : “ ả ngoài điện kia đơn giản chỉ là cái đầu, chắc chắn phía sau ả ta còn những thứ khác nữa!” Mặt dày kinh hãi: “Giống đèn lồng đầu người như cậu kể à?” Tôi trả lời: “ lắm. Tôi dám nhìn, ả đó có thuật hút hồn, nếu nhìn vào mắt ả ta mình cứ theo ả như bị thôi miên.” Mặt dày : “Đó là do cậu háo sắc, đầu người có gì hay ho đâu, đúng là nhà quê chưa được mở mang tầm mắt, nhưng mà đúng là, tôi...” nghĩ tới bộ dạng chiếc đầu đèn lồng, ta cũng cảm thấy như người mất hồn, ta kìm nổi tò mò lại muốn ra ngoài xem sao. Tôi lôi Mặt dày lại bảo đừng sinh , được nghĩ tới cái đầu đó nữa, nếu lỡ kiềm chế được xông ra ngoài chỉ có toi mạng. Nhưng trong ngôi điện Na vương này cũng tối đen như mực, bên ngoài yên tĩnh đến kỳ lạ, trong thôn những còn ai mà đến cả côn trùng cũng có lấy con. Đứng bên trong chỉ cần hơi suy nghĩ chút là lại nghĩ tới cái đầu kia. Mặt dày gãi đầu : “Nghĩ gì bây giờ? Nếu nghĩ tới cái đầu đó tôi cũng chẳng nghĩ được việc gì cho nghiêm chỉnh, cứ nhắm mắt là toàn thấy thịt vịt quay thôi.” Tôi : “Đúng thế, tôi cũng đói rồi, thường khi đói quá người ta đều nghĩ tới những món ăn béo ngậy. Ông cứ tưởng tượng như bây giờ mình đói mờ mắt rồi, được ăn vịt quay, món vịt quay được đặt đám lá sen, lớp da bóng nhẫy được quay giòn vàng ruộm, phết lên lớp nước tương, thêm mấy cọng hành, cắn miếng mỡ ngập chân răng, gọi thêm bát cháo trắng ăn cho đỡ thèm.” Mặt dày nhắm mắt lại, vừa tưởng tượng vừa gật đầu: “Cậu là hiểu tôi, kiểu ăn này rất đúng ý tôi...” Tôi : “Món vịt quay muốn ngon đầu tiên vịt phải béo. Loại vịt trắng Nam Kinh là ngon nhất, vì chúng được nuôi bằng gạo; thứ nữa là lửa và nước ướp, khi quét lớp mật và gia vị lên mình vịt cho vào lò quay, lửa cũng phải ổn định, lửa chín, lửa lớn lại dễ cháy. Khi quay chín ra lò, vịt phải có màu vàng ruộm hơi sẫm như màu táo đỏ, bóng mỡ, thịt mềm da giòn, vậy mới gọi là thượng hạng. Đó là vịt nướng treo, tôi khoái món vịt nướng om hơn. Vịt nướng treo là nướng trực tiếp lửa, thường dùng loại củi táo đỏ, còn nướng om là tận dụng lửa ỉ, thường dùng thân mía làm cùi, vịt sau khi nướng chín có mùi thơm đặc biệt. Vịt nướng om ở tiệm Tiện Nghi Phường là tuyệt nhất, đáng tiếc là hồi đó nghèo, tổng cộng cũng chỉ mới ăn được hai, ba lần.” Mặt dày : “Chỉ cần bị chết ở nơi này, thoát khỏi đây chúng ta đều giàu rồi, muốn ăn gì chẳng được. Cậu thử tính xem, bay trời, chạy bờ, lội dưới nước, nhảy trong cỏ...” Hai chúng tôi ôm chiếc bụng rỗng nghĩ tới cảnh được ăn vịt quay cảm giác đói càng mãnh liệt hơn, nước miếng chảy ra đầy mồm, nhưng nhờ đó mà đầu óc tỉnh táo hơn. Thế mới thấy bản tính của con người là ăn và tình dục, nhưng ăn vẫn được xếp hàng hết, ăn no mặc ấm rồi mới có sức mà nghĩ tới chuyện trai được, khi con người ta đói mờ cả mắt rồi trong đầu chỉ nghĩ tới ăn, chuyện mây mưa xếp hàng thứ yếu. Trong điện tối om còn có cả sương mù, Điền Mộ Thanh đứng cách xa nhìn mặt ả kia, nhưng cũng biết tình thế hung hiểm, thấy tôi và Mặt dày dừng lại cũng yên tâm phần nào, liền hỏi: “ ả chỉ có cái đầu đó sao lại vào trong điện?” Tôi : “Cũng lạ nhỉ! Tường nhà tuy kiên cố, nhưng cánh cửa điện bằng gỗ, lại mục nát hỏng hóc, lẽ trong điện có thứ gì đó trừ tà? Nhưng cũng hẳn, vì đầu ả ta thò vào tới trong điện nhưng lại cứ muốn dụ chúng ta ra ngoài. Thường đầu xuôi đuôi lọt, đầu vào được bên trong rồi thân hình cũng vào được thôi, hơn nữa cửa điện to rộng thế kia, trừ phi thân thể phía sau ả ta quá to lớn, tài nào vào bên trong được.” Điền Mộ Thanh : “Bên ngoài thấy động tĩnh gì, hay là rồi?” Mặt dày nhớ lại cảnh vừa nãy vẫn bất giác rùng mình, : “Khoan hẵng ra ngoài, khuôn mặt ả ta thể nhìn được, chàng trai chất phác mộc mạc như tôi mà còn bị ta hớp hồn, chừng là hồ ly tinh ở ngôi mộ nào đó trong thôn biến thành đấy.” Ba người chúng tôi nhất thời dám ra ngoài cửa xem xét, dỏng tai lên nghe ngóng bên ngoài, nhưng tuyệt nhiên chút động tĩnh. Mặt dày thầm: “Hình như là rồi...” ta vừa dứt lời bỗng bên ngoài vọng lại tiếng khóc của người con kia, thanh vọng vào từ ngoài cửa điện, đập vào tai chúng tôi nghe thê lương ai oán. Bọn tôi nghe thấy tiếng khóc mà có cảm giác như có phiến đá to đè nặng ngực mình thể thở nổi. Cả bọn vội bịt tai lại, tiếng khóc , nhưng cảm giác vẫn hết sức khó chịu. lúc sau, tiếng khóc dần lại và im bặt, xung quanh lại trở về trạng thái tĩnh mịch đáng sợ. Chúng tôi lại chờ lúc lâu, thấy động tĩnh gì mới yên tâm chút. Tôi đánh mắt sang Mặt dày, hai người nhòm qua khe cửa nhìn ra bên ngoài lúc, thấy có gì khác thường liền mở cánh cửa ra, cần nhân cơ hội này chạy thoát, nhanh chóng tới hố tế lễ, bị nhốt mãi nơi quỷ quái này cũng phải là cách. Vừa mới hé cửa mùi máu hôi tanh lại xộc vào, chúng tôi thất kinh, biết là chiếc đầu kia vẫn còn ở bên ngoài, tôi vội vàng đóng cửa lại, chuẩn bị cài then nghe đánh “rầm” tiếng, cánh cửa bị va mạnh từ phía ngoài liền bật mở, cùng lúc đó là tiếng cười rùng rợn vang lên, cái đầu lại ra trong đám sương mù, từ từ tiến vào trong điện, dưới ánh lửa, chúng tôi nhìn thấy cổ của ả ta có màu đỏ bầm như gan lợn, tựa màu thịt bị lột lớp da bên ngoài. 3 Tôi vội giơ đuốc lên chĩa về phía cái đầu, Mặt dày nhân lúc cái đầu né sang bên nhanh chóng đóng cửa cài then. Toàn bộ phía trong phía ngoài điện Na vương lại màn im lặng tuyệt đối, chỉ nghe thấy tiếng hơi thở gấp gáp và tiếng tim đập thình thịch của chúng tôi. Mặt dày choáng váng : “Cậu nhìn thấy chứ, cổ của ả ta...?” Tôi đương nhiên nhìn thấy, nhưng biết đó là thứ quỷ quái gì. ả đó thò đầu ra từ trong lớp sương mù, chẳng nhìn thấy thân hình đâu. Nơi này bị rơi vào Đất quỷ từ thời Đường, có phải là bọn ma quỷ chui ra từ trong hang động ? Nhưng theo ghi chép bia đá, “Na” có nghĩa là trói buộc, cái hang lớn cuối thôn dường như thông với ti, Đại La Kim Tiên (người có quả vị tối cao của Tiên Tông) cũng đừng mơ chui ra được, vậy ả này là người trong thôn? Tôi nhìn sang phía Điền Mộ Thanh, thấy thần sắc của hoảng loạn, hiển nhiên là biết tình. Tôi lo sợ cánh cửa điện lại bị húc bật ra lần nữa, cũng cần phải lo nhiều, trước đó tôi cứ nghĩ cánh cửa gỗ của gian điện chỉ là gỗ bình thường, nhưng lúc sờ vào nó mới biết gỗ rất dày và kiên cố, ràng là trước khi sử dụng nó được ngâm dầu, sợ bị nước ngâm hay lửa thiêu, để lâu năm vẫn mối mọt. Phía bên ngoài vẫn im lặng như tờ, tôi lo ngại có nơi nào đó chưa được ổn thỏa nên cầm đuốc xem xét mọi ngóc ngách trong gian điện. Điện Na vương rộng bảy gian, sâu hai gian, tường làm bằng đất sét nện rất kiên cố, sử dụng giằng cột, xà ngang theo lối kiến trúc nhà cổ. Sáu cột chạm đất, phía dưới mái nhà rui gỗ chồng chéo lên nhau, cửa điện khắc rỗng hình cánh hoa và thú vật, xà gồ cột và xà dầm đều được cố định bằng mộng, rất khít chặt và vững như bàn thạch. Bố cục của điện Na vương hết sức hợp lý, kết cấu chặt chẽ, chỉ có vài chỗ ở góc mái điện có tượng sụt hỏng, những nơi khác tuy nhuốm màu thời gian nhưng vẫn còn rất kiên cố. May nhờ cánh cửa điện chắc chắn, lại được cài then cẩn thận, cái thứ ghê gớm ngoài cửa điện kia trước mắt chưa thể phá cửa vào trong được. Bên ngoài vẫn có động tĩnh gì, chúng tôi cũng chẳng dám mở cửa lần nữa, định bụng thoát ra ngoài qua đường hầm dưới thôn làng, đường hầm ngầm đó có thể thông tới chỗ bia đá, nhưng sau đó phải làm sao nữa? Lúc này, mùi máu tanh lại nồng nặc hơn, mặc dù đóng kín cửa điện mà vẫn khiến người ta muốn ói mửa. Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy có tiếng vừa cào vừa đẩy ngoài cửa, cánh cửa điện bị đẩy rung rinh, kêu lên từng hồi cọt kẹt, tiếng móng tay cào vào cửa nghe càng rợn người. Cả ba chúng tôi mặt đều thất sắc, lúc trước chỉ thấy chiếc đầu thò vào trong đám sương mù, xem ra là nó cũng có tay, lẽ là cương thi? Nghe cương thi cũng có nhiều loại khác nhau, vùng Quan Nội đất sâu nước nhiều, người chết chôn trong mộ những thi thể phân hủy mà móng tay, tóc còn tiếp tục mọc dài ra, đó là do địa khí tạo thành, nếu gặp loại cương thi như vậy có nạn hạn hán. Ở Quan Nội có phong tục, nếu vùng nào gặp hạn hán đều mời thầy dương tới xem mộ phần, nếu thầy chỉ vào ngôi mộ nào cho dù đó là mộ nhà ai đều phải quật lên, dùng roi dánh vào thi thể trong quan tài, sau đó đem hỏa táng; loại nữa là oan khí chưa tiêu hết, oan khí chính là phách, lại chết vào năm , ngày , giờ , thi thể có thể bò dậy vồ người; có trường hợp thi thể bị ma quỷ dưới đất nhập vào, ví dụ như hồ ly, sói lang v.v..., bọn chúng nhập vào thi thể người chết để dọa người, bắt gia đình phải giết gà mổ vịt cúng tế. Nhưng người chết da thịt trở nên nhăn nheo khô đét, cho dù là xác chết biết cũng thể nào có cảm xúc, thanh phát ra trong miệng cũng the thé như tiếng mèo kêu, nhưng như vậy cũng có gì là ghê gớm, dân đào trộm mộ chỉ cần dùng móng lừa đen hun lửa hồ lô là có thể đối phó được. Có điều, trong dân gian còn cách , nếu người chết là con , khi còn sống gặp nỗi oan mà chưa thể báo thù được, trước khi chết dặn dò lại người nhà khi khâm liệm mặc áo đỏ, miệng ngậm chiếc lược màu đen, để nằm sấp trong quan tài. Những trường hợp như vậy, xác chết những có thể lại được mà còn gọi là hồn quay trở về lấy mạng từng người trong gia đình kẻ thù, chỉ có loại cương thi này mới biết cười, nhưng nụ cười đó còn khó coi hơn là khóc rất nhiều, ai gặp phải nó đừng mong giữ được mạng sống. Trước đó tôi được nghe lão Nghĩa mù kể nhiều về chuyện cương thi, vốn quên gần hết, giờ bất chợt đều nhớ lại. Tôi nghĩ về điều đáng sợ này nghe thấy tiếng cào cửa ở bên ngoài ngày càng dồn dập hơn, chúng tôi nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài, nhưng nghe thanh như có hàng trăm cánh tay cào cửa, cũng chẳng hiểu là ở đâu ra, cứ như có con rết trăm chân bò cửa điện vậy, may mà cánh cửa gỗ tương đối kiên cố, những phần khắc rỗng đều có vật trang trí bằng đồng nên tuy tiếng cào cửa bên ngoài vẫn nổi lên ngớt nhưng mở được cửa. Tôi sợ hãi khủng khiếp, bụng nghĩ hảo hán tính đến cái thiệt trước mắt, giờ còn đợi đến lúc nào, nghĩ vậy tôi chuẩn bị gọi Điền Mộ Thanh và Mặt dày chuẩn bị đưa Điếu bát vào trong đường hầm phía dưới điện Na vương để trốn thoát. Ai ngờ cánh cửa điện tuy kiên cố nhưng chúng tôi lại quên béng mất để ý chiếc then cài, tuy là thanh gỗ to nhưng lại là loại gỗ bình thường, năm xưa sử dụng có thể vấn đề gì, nhưng giờ trải qua nhiều năm mục. Chúng tôi bỗng nghe thấy rầm tiếng, chiếc then cài bị gãy làm đôi, rơi xuống nền điện, cánh cửa theo đó cũng bật mở, mùi máu tanh hôi lập tức xộc vào, trong làn sương khói thê lương ảm đạm, chiếc đầu đó vươn vào trong điện về phía chúng tôi, há miệng ra thổi luồng gió . 4 Mùi máu tanh bốc vào trong điện nồng nặc khiến chúng tôi đều buồn nôn, tôi sợ trận gió đó thổi tắt ngọn đuốc nên vội tránh sang bên. Mặt dày luống cuống nhặt khẩu súng săn dưới đất lên, còn chưa kịp chĩa súng về phía chiếc đầu nó vòng sang bên cạnh ta, nhanh đến bất ngờ, giờ cũng chẳng kịp mà đóng cửa nữa. Điền Mộ Thanh trước giờ cũng tương đối bình tĩnh, nhưng từ lúc gặp chiếc đầu ma nữ này mặt biến sắc, xám xịt như người chết, sợ tới mức thụt lùi mấy bước liền. Tôi cũng sợ tới nỗi tay chân mềm nhũn cả ra, chiếc đầu ả ma nữ này rất xinh đẹp, ánh mắt lại lẳng lơ đưa tình, hai mắt nhìn vào ai như hớp được hồn người đó, nhưng chiếc cổ của nó còn đỏ hơn cả gan lợn, trông khủng khiếp. Kỳ lạ hơn là chiếc cổ của ả ta càng về phía dưới càng to hơn, mùi máu hôi tanh càng nặng hơn, nôm giống như cái lưỡi, phía đầu lưỡi mọc ra cái đầu. Tôi nghĩ bụng, khéo đây là cái lưỡi , vậy cái miệng bên ngoài cửa điện kia phải to biết nhường nào? Tôi càng nghĩ càng thấy sợ, bất giác lùi về phía sau, nhưng việc xảy ra quá nhanh, chiếc đầu ma nữ ngay lập tức tiến tới trước mặt chúng tôi, tôi nắm chặt bó đuốc trong tay huơ về phía chiếc đầu, ngờ nó há miệng cắn ngay vào bó đuốc, tôi bị chiếc đầu giật mạnh về phía nó, thể giữ bó đuốc lại được, văng ra xa tắt ngúm, trong điện bỗng chốc tối như hũ hút, có giơ tay ra trước mặt cũng nhìn thấy gì. Tôi bị lực kéo quái đản đó giật mạnh, mất thăng bằng ngã sóng soài ra sàn nhà, trong lòng sợ hãi, nhớ lại chuyện đèn lồng đầu người tôi vừa kể cho Điền Mộ Thanh và Mặt dày, nhưng đó là đầu treo cần lồng đèn, còn con quái vật ngoài cửa điện kia là đầu mọc ra từ lưỡi. Tứ bề tối đen, tôi mở to mắt hết cỡ cũng nhìn thấy gì, trong lòng hoảng loạn vô cùng, vội vàng tìm chiếc đèn pin, khi ánh sáng vừa xuất tôi cũng nhìn thấy chiếc lưỡi mọc đầu người kia lao tới phía tôi như hình với bóng. Tôi vội lăn người tránh sang bên, cảm nhận được đám thịt lạnh như băng có gai nhọn xoẹt qua người, suýt chút nữa tôi ngất xỉu vì mùi hôi thối và tanh tưởi tỏa ra từ chiếc lưỡi, nếu phải trong bụng trống rỗng giờ tôi nôn sạch bách ra rồi. Lúc này, Mặt dày cũng hoàn hồn, kịp bóp cò, ta lấy hết sức bình sinh nện báng súng vào cái lưỡi, cái thứ ở ngoài điện thu lưỡi về, ta bị đẩy bật ra phải đến bảy tám bước, đầu va mạnh vào chiếc cột, máu chảy đầm đìa. ta cứ để máu chảy vậy chẳng thèm lau, vừa chửi vừa nhảy dậy, nhưng trước mặt tối đen như mực, súng cũng chẳng biết văng ra góc nào, tiện tay sờ được chiếc cuốc chim, cứ vậy xông lên khua loạn xạ như con hổ điên. Tôi trông thấy tình hình như vậy, cũng biết sức mạnh ở đâu ra, đứng bật dậy, cầm chiếc xẻng cứ thế chém ngang chém dọc. Chiếc lưỡi ma quái phần lớn là ở phía ngoài điện, vươn vào tới chính giữa gian điện là hết cỡ, nó cố rướn sâu vào bên trong khiến gian điện rung lên bần bật, đất bụi trần điện rơi xuống lả tả, tường cũng sắp sập tới nơi, Điếu bát vẫn nằm dưới đất bất tỉnh. Nếu tôi và Mặt dày nhân cơ hội này chạy trốn vào phía trong cũng khó, như vậy tạm thời giữ được tính mạng của mình, nhưng thể nào bỏ lại Điếu bát, hai người tuy đều sợ hãi đến tột cùng, nhưng có cách nào để lùi bước, đành liều mạng cầm cự, được chút nào hay chút đó. Tôi cứ mong Điền Mộ Thanh lôi Điếu bát vào bên trong lánh nạn, nhưng tình thế quá nguy cấp, thở còn kịp thở, sức đâu mà mở miệng nữa chứ. Chiếc đầu ma nữ phát ra tiếng cười ma quái cứ vang vọng khắp nơi trong điện, hành tung ma quái, lúc lúc dưới, lúc trước lúc sau, lúc này chúng tôi có súng, cho dù có súng trong tay cũng chẳng bắn trúng được ả. Mặt dày mặt be bét máu, từng giọt từng giọt rơi xuống nền nhà, ta cũng chẳng thèm để ý, khắp người nổi gân cuồn cuộn, ra sức khua khoắng chiếc cuốc chim, bổ vào trong khí nghe vun vút, chỉ mong có thể ghim thẳng vào chiếc lưỡi kia, nhưng trong điện tối đen tối ngòm, ta chỉ dùng sức chẳng biết dùng trí làm sao mà chạm vào kẻ địch được, mấy lần suýt chút nữa bổ phải tôi, cuối cùng ta bổ cái phập vào cái cột, vì dùng lực quá mạnh nên lưỡi cuốc ăn vào hơi sâu, ta kê chân vào cột nghiến răng nghiến lợi giật ra mà được. Tôi thấy cái lưỡi kia lao về phía Mặt dày, vội cầm xẻng chém chiếc đầu ả ma nữ cái lưỡi, ngờ chiếc đầu đó chuyển hướng quá đột ngột, tôi còn chưa kịp nhìn kỹ thấy thân mình bị trói chặt, chiếc lưỡi kia cuốn chặt lấy tôi, tay chân tôi còn động đậy được nữa, cái đầu ả ma nữ vòng ra trước mặt tôi, khúc khích cười mấy tiếng liền, lúc này tôi thấy khuôn mặt ả ta là đáng hận, mùi tanh hôi xộc lên càng khiến tôi buồn nôn kinh khủng. Tôi cố hết sức né tránh, hiềm nỗi tay chân bị trói chặt động đậy được, chiếc lưỡi ngày càng thít chặt hơn, chiếc đèn pin rơi xuống đất vẫn còn sáng, chiếu thẳng vào cái đầu trước mặt tôi, hai khuôn mặt gần như sắp chạm vào nhau. Vì khoảng cách quá gần, nên nhìn thế nào cũng giống khuôn mặt của người còn sống, tôi cuống tới nỗi gân xanh trán giật lên từng hồi, toàn thân chỉ còn mỗi phần đầu là có thể động đậy được, tôi hét to lên: “Xem tao cắn đây!” tôi nhằm thẳng vào khuôn mặt ả ma nữ chuẩn bị cắn. 5 Tôi há to miệng chuẩn bị cho nhát vào cái đầu ma nữ tiến lại gần sát mặt mình, bỗng luồng sáng xanh xoẹt qua trước mặt, cái đầu ma nữ mọc nơi đầu lưỡi lắc lư vài cái rồi rơi xuống lăn lông lốc mặt sàn, khuôn mặt xinh xắn trở nên méo mó, hai mắt trợn ngược, co giật lúc rồi im bặt động đậy nữa, khuôn mặt ngay lập tức chảy sệ, xuất phân hủy. Cái lưỡi có vẻ rất đau đớn, vội rụt lại ra phía sau, tôi thấy cơ thể mình được thả ra, rơi bịch xuống sàn nhà, cảm giác như xương khớp toàn thân đều bị gãy. Hóa ra Điền Mộ Thanh nhìn thấy bộ dạng của ả ma nữ sợ quá, lùi lại nấp phía sau chiếc cột, trông thấy tôi ở thế bất lợi, vội nghĩ cách tiếp ứng, trong lúc luống cuống có gì dùng nấy, cầm chặt lấy thanh kiếm đồng trong tay chém thẳng vào chiếc lưỡi cuốn chặt lấy tôi. Thanh kiếm này lợi hại tới mức có thể chém được rồng nhưng cũng rất sắc bén, nhát kiếm chém đứt cái đầu. Tôi thấy xấu hổ, lại để Điền Mộ Thanh ra tay cứu mình lần nữa. Thấy bên ngoài còn động tĩnh gì, tôi nhịn đau nhặt chiếc đèn pin lên, Mặt dày lúc này cũng mới rút được chiếc cuốc chim ra khỏi cột. Ba người cùng lượn vòng quỷ môn quan về, nỗi sợ hãi khủng khiếp đó lan tỏa toàn thân, lúc sau vẫn chưa ai thốt được lên lời. Sàn nhà nhầy nhụa máu, mùi hôi tanh sặc sụa, nhan nhản là những mảnh xác người chết, bên ngoài điện cũng từng đống xác người nát vụn, lớp sương mù trắng bạc trước đó giờ chuyển thành màu đỏ của máu. Tôi và Điền Mộ Thanh băng bó vết thương cho Mặt dày, lớp sương máu bên ngoài điện vẫn chưa tan, chúng tôi khỏi sợ hãi, biết trong thôn làn này chẳng có chỗ nào là an toàn, nhưng cũng chẳng ai muốn ở lại cái nơi khắp nơi đều là xác chết này chút nào. Mặt dày nhặt khẩu súng săn lên, tôi cõng Điếu bát, Điền Mộ Thanh cầm đèn pin, cả bọn vội vội vàng vàng về phía đường hầm phía tây ngôi làng. Nhưng địa thế ngôi làng đều bố trí xung quanh núi Huyền Cung, nhà dân phần lớn đều là các hang đá, phân bố theo sườn núi, bên trong quét lớp vôi, dựng mái lợp ngói, chia thành hai gian trước và sau, phía dưới đốt củi, phía sau là phòng ngủ, phía trước đắp lũy giống như bức tường bình phong, chỉ có kích thước khác nhau, còn hình dạng nghìn cái như . Số nhà trong thôn nhiều, khoảng hơn mười nghìn người, dân làng đều tin vào tôn giáo được truyền lại hơn hai nghìn năm, xung quanh đắp thành lũy bằng đất để tránh kẻ địch, nơi đây là thành trì cổ kể cũng ngoa. Nhà cửa ở phía Tây ngôi làng có dấu tích bị hủy hoại, những mái nhà cao thấp trong sương mờ, tuy cỏ dại mọc um tùm, trong khí nồng nặc mùi ẩm móc và hôi thối, xương người rải rác khắp nơi cho thấy nơi đây có sống, nhưng chúng tôi luôn có cảm giác vẫn còn người sinh sống ở đây, phải là ảo giác mà hoàn toàn có thể cảm nhận được hồn phách của những người chết vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Tôi vừa vừa hỏi Điền Mộ Thanh, tại sao mỗi lần nhìn thấy chiếc đầu ma nữ kia đều hoảng sợ như vậy? Điền Mộ Thanh cũng giấu giếm chúng tôi nữa, kể: “Năm xưa, người dân trong làng cố hết sức để đưa rồng đất tới Đất quỷ, nhưng trong lúc hành lễ xảy ra cố, cả thôn làng đều gặp nạn diệt vong, tất cả là đều do người phụ nữ kia.” Tôi giật mình: “Dường như nó là con quái vật được hình thành từ rất nhiều oan hồn của người chết, chiếc đầu ma nữ mọc đầu lưỡi rất xinh đẹp chuyên dụ người tới miệng quái để ăn thịt, lẽ ả ta đó cũng là phụ nữ trong làng?” Điền Mộ Thanh gật đầu, : “Ả ta là Na bà của thôn.” Tôi và Mặt dày nghe thấy đều lấy làm lạ, chiếc đầu đó trông vẫn còn trẻ trung, dung mạo khác thường, sao lại gọi là Na bà? Điền Mộ Thanh : “Trong Na giáo có phân Na bà và Na ông, giống như nam thần và nữ thần của làng, kể tuổi tác, địa vị của họ rất cao.” Năm xưa, khi Phùng Dị Nhân ăn phải trứng rồng đất, qua mấy chục năm mà vẫn già, đợi khi dân làng phát ra thành xác chết biết . Dân làng lập kế bắt được tại điện Na vương, mổ bụng rút ruột tại chỗ, tính lấy cục thịt rồng đất trong bụng ta ra nhưng rồng đất và thi thể của Phùng Dị Nhân hợp nhất làm , những tiêu diệt được rồng đất mà người dân trong làng bị chết ít, đành phải chịu hậu táng tại núi Huyền Cung, dựng miếu cúng tế, mỗi năm đều dâng tế đồng nam đồng nữ, cùng trâu đen ngựa trắng, cứ vậy thầm lặng chờ đợi thời cơ để đem oan hồn và thi thể của rồng đất vào hố tế lễ, đưa về Đất quỷ. Lúc đó, trong thôn chia thành hai phe phái, phái theo Na vương thờ Na thần, tuân thủ các nghi lễ do tổ tiên truyền lại, phái này chiếm khoảng tám mươi phần trăm dân làng; sau đó xuất thêm phái nữa do Na bà cầm đầu, phái này thấy Phùng Dị Nhân ăn thịt rồng đất trở nên trường sinh bất lão, trong khi mình thờ Na thần cả đời mà vẫn phải chịu theo quy luật sinh lão bệnh tử, chẳng thu được chút lợi lộc gì, vì vậy sinh hai lòng, mưu giúp rồng đất sống lại. Những người theo phái của Na bà biết tin ngày mười ba tháng bảy năm Nguyên Bảo thứ ba có thiên cẩu ăn mặt trăng, lúc đó cánh cổng phía tây thôn làng được mở. Họ mưu ngăn chặn Na vương đưa rồng đất vào nơi muôn kiếp có ngày tái sinh đó. Buổi chiều hôm ấy, nhân lúc mọi người hành lễ, Na bà cầm đầu hơn ba trăm người nổi dậy tạo phản, họ kéo đến Na miếu phá hủy tượng thần, sau đó chia thành nhiều nhánh đánh úp giết Na vương. Có bé tay cầm chiếc gương đồng trốn được vào phía sau miếu nên thoát được tai nạn đẫm máu đó, nhưng vì tuổi sức yếu đủ sức đẩy cánh cửa đá để ra ngoài nên cuối cùng vẫn bị chết ở trong. Những người theo Na bà tạo phản nhiều, lại hành đột xuất, kế hoạch được chặt chẽ, làm sao thực được việc trọng đại như vậy chứ? Cuối cùng phân nửa trong số bọn họ bị giết, còn lại bị bắt làm tù binh. Na vương nổi giận lôi đình, chiếu theo quy định của Na giáo phán tội tử hình, tất cả bọn họ đều chịu hình phạt lăng trì tàn khốc, người cầm đầu nổi loạn là Na bà cũng bị bắt, cả gia đình nhà ta hơn mười người già trẻ lớn bé đều bị trói lên cột hành hình, người dân trong làng lột hết quần áo của họ, dùng vỏ trai được mài sắc để xẻo thịt. Ngày hôm đó, khắp thôn Thiên Cổ Dị Đế máu chảy thành suối, khắp nơi dậy lên tiếng kêu la gào thét kinh thiên động địa. 6 Tôi nghe kể mà cũng thấy ớn lạnh, thiết nghĩ vỏ trai cho dù sắc đến mấy cũng bằng lưỡi dao, dùng nó để xẻo thịt cảm giác thế nào chứ? Nhưng Na giáo từ xưa đều thờ Na thần, những người tạo phản to gan dám phá hủy Na miếu, chuyện bại lộ tất thể có kết quả tốt được, hình phạt dùng vỏ trai xẻo thịt cho đến chết chính là hình phạt “ngàn đao vạn quả” tàn khốc. Điền Mộ Thanh kể, ngày hôm đó Na bà bị chịu hình phạt tùng xẻo, toàn thân máu thịt be bét, đau đớn mà thể chết ngay lập tức, ta chịu nổi hình phạt tàn khốc đó, khóc lóc van xin ban cho cái chết nhanh chóng, dân làng lại muốn ta phải chịu khổ sở thêm chút nữa nên xẻo thịt liên tục trong hai ngày, chỉ giữ lại cái đầu. Tất cả thịt xẻo được đều vứt xuống khe đất phía đông của làng mà chôn, để mặc cho diều tha quạ mổ. Vì phát sinh cố này nên tại thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng, toàn bộ thôn làng bị rơi vào Đất quỷ, người dân trong làng đều trở thành vật tế, xương thịt kẻ phản loạn chất cao thành núi, oan hồn tiêu tán được biến thành khối thịt tay chân, chỉ có cái miệng, nó thường lè lưỡi ra dụ những thanh niên trẻ tuổi vào trong thôn để ăn thịt, vừa rồi chiếc đầu bị cắt đứt, oán khí bên trong thoát ra ngoài biến thành làn sương mù bằng máu. Điền Mộ Thanh dần dần nhớ lại từng việc , quang cảnh đại nạn năm xưa của làng dần dần ra. Tôi chỉ thấy lạ là tại sao ấy lại sợ Na bà đến vậy? Tôi có bụng thắc mắc muốn hỏi, chưa kịp thốt thành lời thấy Điền Mộ Thanh rảo nhanh bước chân, xăm xăm tiến về phía trước, tôi gọi thế nào ấy cũng nghe, sắc mặt có phần cổ quái. Lúc này, ấy tới Thần đạo, phía trước lăng tẩm và đàn tế đều lát đá phiến, hai bên có tượng hình thú bằng đá. Chúng tôi vác Điếu bát theo sát phía sau, chỉ thấy mờ ảo trong làn sương là những cành cây gầy guộc, những hình bóng quái dị đan xen vào nhau, những tượng thú hai bên đường sứt mẻ nguyên vẹn khiến hình thù trở nên quái dị, cái vỡ, cái đổ nằm nghiêng ngả trong bụi cỏ dại, có những tấm bia đá bên cạnh khắc nổi hình ác thú, nhưng chữ bia phai mờ nhìn , mùi hôi thối của xác chết ngừng bốc ra từ phía mộ cổ. Tôi và Mặt dày thay nhau cõng Điếu bát, mệt mỏi rã rời, mắt hoa lên từng chặp, ai cũng là mình thể gắng gượng được mấy nữa rồi. Mặt dày chỉ về phía Điền Mộ Thanh, thấp giọng : “Cậu thấy chứ, ấy cứ như biến thành người hoàn toàn khác vậy.” Tôi : “Mắt mũi ông kiểu gì thế, giờ mới phát ra à?” Mặt dày : “Tôi với cậu mà còn mệt thế này rồi, ấy chạy như điên, cứ như gà bị chọc tiết vậy, hay là bị chiếc đầu đèn lồng kia dọa cho sợ quá rồi.” Tôi : “ phải, có thể ấy nhìn thấy mặt Na bà nên nhớ lại toàn bộ câu chuyện của năm xưa.” Mặt dày : “ nàng kiếp trước ở thôn này, tôi vẫn tin lắm, có chuyện này à? nàng là Na bà chuyển thế?” Tôi : “Ông biết dùng đầu mà suy nghĩ à, nếu là Na bà chuyển thế làm sao hồn còn xuất trong thôn được chứ.” Mặt dày : “Đúng là đồ quạ đậu lưng lợn, chỉ nhìn thấy người khác đen thôi. Nếu cái đầu của cậu phải để làm cảnh cậu thử xem, ấy... ấy là ai?” Tôi : “Chuyện lục đạo luân hồi thực ra rất khó , nó thuộc phạm vi kiến thức của chúng ta. Nhưng nếu ông hỏi tôi ấy là ai tôi cũng có thể đoán được tám chín phần. Tôi dám chắc từng sống ở ngôi làng bị ám lời nguyền này.” Mặt dày hỏi: “ từng ở trong thôn này? Mấy chuyện tầm thường này cần cậu tôi cũng biết, tôi hỏi cậu, ấy là người hay là ma?” Tôi : “ ấy là người hay là ma? Ông hỏi đúng điểm trọng tâm rồi đấy. Tôi nghĩ ấy phải là ma, tôi có phải đem mắt theo đâu mà nhìn thấy, bọn mình cùng ma đoạn đường dài như vậy còn phát ra à? Nhưng tôi lại thấy ấy cũng phải là người.” 7 Mặt dày : “ thế cũng bằng , cậu năng cho bình thường chút được à?” Tôi : “Ông nghe tôi cho hết . Thôn làng này biến mất hơn nghìn năm nay, con người sống được mấy nỗi? ấy chẳng qua cũng khoảng hai mươi ba tuổi là cùng, tại sao lại biết được những việc xảy ra lâu như vậy?” Mặt dày : “Hiểu rồi, bọn mình mắc lừa ả ta! Tôi thường vì bản tính thà chất phác mà toàn bị thiệt thòi, tôi hay tin người mà, ruột để ngoài da, nhưng toàn phải đón nhận những mũi tên xuyên tim mình thôi. Cậu thử xem, mục đích của ta là gì chứ?” Tôi : “Tôi tin những gì ấy đều là , chỉ có điều còn những uẩn khúc mà chúng ta chưa nghĩ ra, hoặc là dám nghĩ tới.” Mặt dày hỏi: “Vậy ta vẫn là người của thôn Thiên Cổ Dị Đế này? ta ăn trứng rồng đất trường sinh bất lão chắc, biến thành quái vật giống Phùng Dị Nhân rồi sao?” Tôi phản đối: “Tuyệt đối phải! Thế mới bảo cái đầu của ông mọc thừa rồi mà lại. Ông thử động não xem từ lúc chúng ta xuống mộ cổ của ngôi làng này tới giờ xảy ra những chuyện gì rồi?” Mặt dày vẫn chưa hiểu: “Xảy ra chuyện gì ư? đụng phải bọn Hoàng phật gia, suýt chút nữa chết trong hầm mộ, cũng biết là hên hay xui mà bị chết ở trong đó, nhưng bị kẹt lại trong thôn, tất cả những chuyện này đều liên quan tới ta? Cậu đừng có vòng vo Tam Quốc nữa được , toẹt ra xem nào.” Tôi : “Ông chỉ biết mà biết hai, biết hai mà biết ba. Nếu ông chịu để tâm chút nghĩ ra ngay thôi.” Mặt dày : “ lẽ ta là Na bà, sau khi chết thảm phần đầu ở lại trong thôn thành đèn lồng đầu người, phần thân thoát ra bên ngoài biết lượm đâu được cái đầu gắn vào, giờ quay trở lại đây? Vậy ta định làm gì?” Tôi : “ ấy phải là Na bà, cũng phải Na vương, thậm chí phải là bất kỳ người dân nào trong thôn này. Nhưng có câu ông đoán đúng rồi đấy. Trong ngày toàn thôn bị tiêu diệt ấy thoát ra bên ngoài. Ban đầu tôi đoán ra được ấy là ai, cho đến khi vào đến Na miếu. Ông còn nhớ hồn ma trong chiếc gương đồng , bé khi nhìn thấy ấy quỳ xuống lạy...” Mặt dày : “Đúng là có chuyện đó, ý cậu là hồn ma trong chiếc gương khi còn sống là người hầu của ta?” Tôi : “Sao ông vẫn chưa hiểu ra vấn đề nhỉ, trong gương đồng có ma. Chỉ là, trước khi toàn thôn bị diệt vong, bé trốn vào trong gian phòng đá sau miếu đường, cuối cùng bị chết trong đó, xác chết soi vào chiếc gương đó hàng nghìn năm thay đổi. Chiếc gương đồng đó là báu vật có linh khí, nhưng thành hình, giờ có thân xác của bé nên muốn tích bóng để thành hình, biến thành hồn ma, bé định bóp cổ chết bọn mình thực ra là chiếc gương đồng, liên quan gì tới bé chết trong thạch thất cả. Giờ ông hiểu rồi chứ?” Mặt dày gãi đầu: “Đại khái cũng hiểu, nhưng mà... cậu định bảo tôi hiểu chuyện gì cơ?” Tôi gắt lên: “Đồ đầu đất, tôi đến thế rồi mà ông vẫn ù ù cạc cạc. Tôi hỏi ông, tại sao hồn ma trong gương đồng nhìn thấy ấy quỳ xuống lạy sau đó biến mất luôn?” Mặt dày lắp bắp: “Cái đó... là vì sao? Tôi chưa nghĩ tới, tại sao nó lại sợ ấy? Nhưng tôi thấy ấy ăn hòa nhã lắm mà, thấu tình đạt lý lại nhàng nữa, gặp phải bọn thô lỗ như tụi mình chắc cũng nhiều, trông ấy như vậy có gì đáng sợ đâu?” Tôi giải thích: “Ông vẫn chưa hiểu gì cả, vì ấy là chủ nhân của chiếc gương, nô tỳ nhìn thấy chủ có ai dám quỳ ?” Mặt dày : “Lòng vòng hồi hóa ra là vậy. ấy đòi lại chiếc gương chứ? Nếu vậy còn đau hơn là bẻ gãy xương sườn tôi, tôi tám trăm lần đồng ý, mà chưa chắc ta giành được với tôi, tới lúc đó cậu về phe ai? Theo phong cách của cậu tôi nghi ngờ cậu những bàng quan quản mà có khi còn ham sắc bỏ bạn, theo phe người ngoài.” Tôi : “Giờ là lúc nào rồi mà ông còn nghĩ tới mấy thứ chẳng liên quan đó, ông nghĩ xem chủ nhân chiếc gương đồng là ai? Người đó căn bản phải là người!” Mặt dày : “ là người là ma chắc? Lúc nãy cậu vừa bảo ta phải là ma mà, giờ vậy phải tự vả vào mồm mình?” Tôi : “Ở trong thôn này chỉ có người. Theo ghi chép trong những bức bích họa ở kho báu trong tầng hầm dưới điện Na vương gương đồng từ lâu vẫn được thờ trong Na miếu, đó là nơi để ở sao? Nên tôi nghĩ ấy là...” tôi tới đây cũng hơi run run, hạ thấp giọng hơn nữa mới tiếp: “ ấy chính là Na thần!”
Chương 19: Thần sống chuyển thể 1 Tôi và Mặt dày nhớ lại lúc qua động Ngư Khốc, chúng tôi có nhắc tới Hồng Quân lão tổ là con giun đất thành tinh, như vậy cho thấy chưa nguyên hình là tiên, nguyên hình rồi là quái, tất cả đều do cách nhìn của mình mà thôi. Thần tiên trong thôn Thiên Cổ Dị Đế này liệu có chân ? Thân hình của ấy là gì? Mặt dày : “ ta dẫn chúng ta tới đây chắc chẳng có ý tốt gì đâu, chờ tới được nơi tế lễ nguyên hình, rồi ăn thịt người!” Tôi , Điền Mộ Thanh cũng có ý giấu chúng tôi, tôi chỉ nghĩ ra làm sao mà ấy có thể thoát ra khỏi thôn, tại sao trông lại giống như người bình thường, về lại nơi này là để đưa thôn làng về nơi Đất quỷ sao? Tôi muốn trong lúc mình còn sống phải hỏi cho ràng, nhưng Điền Mộ Thanh quá nhanh, chớp mắt khuất trong đám sương mù, những bức tượng đá hai bên thần đạo vẫn nối tiếp dứt mà bóng Điền Mộ Thanh thấy đâu. Mặt dày hỏi: “Cậu vẫn còn thèo à? Nếu ta đúng là ma quỷ lúc đó phải tính sao?” Tôi : “Mấy lời lúc trong sơn động tuy là sai, nhưng sau đó tôi có nghĩ lại, Hồng Quân lão tổ là con giun đất sao? Đừng quên con người cũng là do khỉ biến thành, trong chuyện này chẳng có ai có tư cách ai cả.” Mặt dày : “Nghe cũng có lý, cậu xem ta như vậy là có ý gì?” Tôi : “Tôi thấy ấy định đưa cả thôn này về nơi Đất quỷ, nếu như vậy chẳng ai có thể sống được, phải bắt ấy ghìm cương trước vực.” Chúng tôi cố gắng tiếp, nhưng toàn thân mệt mỏi rã rời, còn phải thay nhau cõng Điếu bát, hai chân nặng như đeo chì, thần đạo tuy dài nhưng cỏ dại mọc um tùm, đường gập ghềnh khó , muốn nhanh cũng được. Chúng tôi thêm lúc nữa, phía trước xuất gian điện Di Lặc được dựng lên mô đất. Trước đây, người ta hay gọi những cung điện xây mô đất là điện Di Lặc, nhưng trong Na giáo có phong tục này, tôi gọi là điện Di Lặc chỉ do hình dáng giống như điện Di Lặc, phía trước rộng tầm chín gian. Thời xưa, khi tới diện tích nhà cửa thường hình dung bằng cách so sánh nó rộng bằng mấy gian nhà, theo phong tục, điện đường thường rộng chín gian. gian rộng trượng [1] , chín gian là chín trượng, quy mô rất lớn. [1] 1 trượng: tương đương 3,45 mét. Ngôi đại điện này bốn bên đều là đất sét hỗn hợp được quét vôi, mái hiên to, ngói đen, trong đám sương mù. Xung quanh bên ngoài là ba tầng cầu thang, tầng là bảy mươi hai tấm đá, tầng giữa là trăm linh tám tấm đá, tầng cuối là trăm tám mươi tấm. Lúc ở thôn Phi Tiên tôi được nghe ông cụ Chu tới bố cục này, nó phù hợp với số ngày. Khi tới gần, thấy hai cánh cửa được mở, bên trong tối đen tối mù, sặc mùi mốc và phân hủy như mùi đất nghĩa địa. Tôi giơ cao bó đuốc vào bên trong điện Di Lặc trước. Mặt dày cõng Điếu bát theo sau. Cột bên trong điện đều sát tường, chính giữa là hố đất vuông vắn, bốn phía đều có khảm thờ lõm vào bên trong, các xác chết đeo mặt nạ vỏ cây nằm ngổn ngang trong khám thờ, chồng chất như núi, bậc thang bằng đá vừa dài vừa hẹp được dựng những cột gỗ men theo bờ tường xuống tận phía đáy hố tế lễ. Khi mở cửa điện, sương khói bên ngoài theo vào mập mờ dưới ánh đuốc, khiến những hình ảnh kỳ quái các bức bích họa giống như đằng vân giá vũ, cảm giác như đứng ở cửu thiên bảo điện. Khắp nơi trong điện đều có để đèn đồng, nến bên trong mới chỉ thắp được nửa, chúng tôi tiện tay thắp lên vài ngọn nến. Gian điện vừa sáng lên, tôi thấy bên nóc điện sập thủng lỗ to, cả hai chúng tôi đều kinh ngạc, quay sang hỏi đối phương: “Vật gì có thể xuyên thủng mái điện như vậy, hơn nữa lại là từ xuống.” Ý nghĩ này vừa thoáng qua, tôi bất giác nhìn xuống hố tế lễ, dưới ánh đuốc chập chờn, tôi nhìn thấy bóng mờ ảo của Điền Mộ Thanh thẳng xuống đáy hố tế. Tôi chẳng nghĩ nhiều, vội vàng đuổi theo. Cột chống cầu thang mục nát, mỗi bước đều chao đảo phát ra tiếng kêu cọt kẹt, có nhiều đoạn sập. Hố tế lễ có đường kính khoảng ba mươi mét, sâu chừng hơn mười mét, xuống tới nơi còn nhìn ánh sáng cao nữa, dưới hố vừa thâm u vừa tối tăm lạnh lẽo, nó ngừng hút hết thân nhiệt của con người, có cột đá thò ngang ra, lơ lửng giữa hố, phía đầu thanh xà ngang bằng đá là chiếc bàn đá hình đầu thú ngẩng cao đầu trong trung, trông rất nguy hiểm, dọc đường khắp nơi đều nhìn thấy xác chết của dân làng năm xưa, có những xác chết bị bong mặt nạ, phần mặt nạ khô đét, dường như bị hố tế lễ hút hết sinh khí, chiếc xà ngang bằng đá nhô ra lơ lửng trong trung, có số cột gỗ đóng vòng sắt bên , biết chúng được sử dụng bao nhiêu lần, mặt bàn đá là những vết máu đen kịt lại, hiển nhiên đây chính là bàn mổ tế lễ. Chúng tôi bước lên bàn mổ, trông Điền Mộ Thanh như người mất hồn, cánh tay cầm đuốc chút động đậy, nhìn xuống dưới, tôi lôi vội lấy , Điền Mộ Thanh rùng mình quay lại nhìn chúng tôi. Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: “Những chuyện xảy ra trong thôn đều nhớ lại cả rồi à?” Điền Mộ Thanh lúc này trở lại bình thường, gật đầu cũng lắc đầu, hình như mặc định lời tôi hỏi. Vẻ mặt cũng bớt phần kỳ quái. Tôi lại hỏi : “ định chết cho xong chuyện chắc?” Mặt dày nhắc tôi: “Cậu đừng có tiến lại gần quá, cẩn thận ta nguyên hình ăn thịt người đấy!” Điền Mộ Thanh hỏi: “ nguyên hình? Các ... thế là ý gì?” Tôi : “Nếu phải là thần quái trong Na miếu sao có thể nhớ lại chuyện hàng nghìn năm trước?” Điền Mộ Thanh : “Na giáo từ xưa thờ thần, là những vị thần có da có thịt đàng hoàng.” 2 Việc này tôi và Mặt dày nghĩ tới, nhưng khi nghe Điền Mộ Thanh đích thân ra, chúng tôi vẫn khỏi sởn gai ốc. Điền Mộ Thanh chọn lọc những nội dung quan trọng trong những ký ức mà mình nhớ lại để kể cho chúng tôi nghe. Tổ tiên người dân tộc Na lần vào trong núi sâu nhặt được bốn chiếc mặt nạ quỷ bằng đồng, dựa vào những hoa văn khắc chiếc mặt nạ đồng đó để chiêu thần khiển quỷ, khai lập ra Na giáo sơ khai. Sau đó, trong lần tế lễ làm hỏng mặt nạ đồng, từ đó Na giáo dùng mặt nạ bằng vỏ cây để thay thế rồi lưu truyền lại cho đời sau. Ngoài thôn Thiên Cổ Dị Đế ra mặt nạ của thầy cúng Na thường làm bằng gỗ cây long não. Từ thời Hán, thôn làng dưới chân núi Thảo Hài Lĩnh vẫn duy trì được huyết mạch chính thống của Na thần, Na vương đứng đầu Na giáo, nhưng Na vương còn có Na thần, mỗi đời Na thần đều là những trẻ trung xinh đẹp. Trong thôn có tứ đại gia tộc đều thuộc tông hệ, bốn vị tộc trưởng của bốn gia tộc đều là trưởng lão của Na giáo, mỗi đời Na thần đều được chọn từ bốn gia tộc này. Cứ cách mười mấy hai chục năm, trong thôn lại tổ chức nghi lễ tế động, tương truyền, Đất quỷ là vương quốc cổ, bốn chiếc mặt nạ đồng là vật dụng tế lễ của họ, vì ngôn ngữ, văn tự, lễ tiết của Đất quỷ khác với hậu thế nên chỉ dựa vào hoa văn mặt nạ hình mặt quỷ để gọi đó là Đất quỷ, cũng giống những quốc gia cổ thời Hạ, Thương như Hổ Phương, Xà Phương v.v... đều căn cứ vào thần vật của họ để đặt tên nước. Tương truyền hơn nghìn năm trước, vương quốc Đất quỷ xảy ra đại loạn, mười người chết đến bảy tám người, những người may mắn sống sót trốn chạy tới vùng sa mạc phía Bắc, từ đó còn trở lại trung nguyên. Sau đó, Chu thiên tử xuất binh chinh phục, Đất quỷ chính thức bị diệt vong. Nghe , chiếc gương đồng có hồn phách của thầy phù thủy của Đất quỷ, còn hố tế lễ dưới thôn theo truyền thuyết Na giáo lại có thể thông với Đất quỷ, vì lúc đó người dân tin rằng Đất quỷ biến mất từ lâu. Thực tình, tổ tiên Na giáo chỉ biết những điều đó qua chiếc mặt nạ có được từ Đất quỷ, vì vậy mới có nơi tế lễ như thế này. Mỗi năm khi thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tiến hành nghi lễ tế máu, đem những ác quỷ thể độ hóa được nữa tống khứ tới Đất quỷ. Địa vị của Na thần tại thôn Thiên Cổ Dị Đế tuy cao hơn Na vương, nhưng thực chất chỉ là vật phẩm cúng tế mà thôi. đời Na thần chết trong tứ đại gia tộc xuất vị thần khác, chỉ cần được lựa chọn, ngay lập tức đón vào ở trong Na miếu, được tiếp xúc với người dân, khi Na thần chết thân xác chỉ là cái vỏ, sau lễ tế Na thần tiếp tục chuyển thế, tứ đại gia tộc chọn ra vỏ thân xác chuẩn bị cho lần tế lễ sau, cứ luân hồi như vậy. Ai được Na thần chọn làm thân xác để trú ngụ trán xuất vết chàm màu đỏ hình mặt trăng. Nghe , năm xưa khi xuất đại dịch, Na giáo dùng mặt nạ đồng để trừ tà đuổi bệnh dịch, kết quả bốn chiếc mặt nạ đồng đều bị hỏng, Na thần vĩnh viễn ở lại thân xác của bốn người đó, thoát được ra nữa, và họ chính là tổ tiên của tứ đại gia tộc thần sống trong thôn. Tôi thấy trán Điền Mộ Thanh cũng có vết chàm màu đỏ rất mờ rất , để ý thấy, nhưng phải ai cũng có. Chắc chắn là thi thể nữ trong chiếc quan tài bằng gỗ trầm hương cũng là thần sống của thôn, bọn Hoàng phật gia đều biết mặt Điền Mộ Thanh, khi chúng mở nắp quan tài nét mặt cả bọn đều toát lên vẻ kinh ngạc chắc là vì nhìn thấy vết chàm trán thi thể cũng giống như của Điền Mộ Thanh. Khi tôi và Điếu bát gặp thi thể trong đường hầm bắt đầu phân hủy, mặt khô đét nên còn nhìn thấy vết chàm nữa. Điền Mộ Thanh với chúng tôi, đại Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, Na bà xúi giục người dân nổi loạn, những người muốn tôn thờ rồng đất làm thần, họ mưu cản trở việc đưa rồng đất về Đất quỷ nên trốn vào Na miếu dùng vải da bịt chết Na thần, tuy sau đó chúng đều bị bắt và giết, nhưng khi cánh cửa thông với Đất quỷ được mở ra, trong thôn dâng được Na thần lên, Na vương đành dùng phương thức vẫn dùng trước đó, đặt thi thể của Na thần vào trong quan tài, phía đầu quan tài để cánh cửa cho linh hồn có thể ra vào, đó cũng là chuẩn bị sẵn cho Na thần, chờ khi chọn được vị Na thần kế tiếp đưa quan tài vào an táng tại địa cung. Na vương sắp xếp cho tứ đại gia tộc thoát ra bên ngoài để đảm bảo huyết mạch thần tộc cổ xưa để lại, những người dân khác trong làng đều đeo mặt nạ vỏ cây tiếp tục cầu khấn tiến hành nghi lễ động Na, toàn bộ ngôi làng rơi vào cảnh hỗn độn, cuối cùng Na vương quyết định dùng chính ngôi làng này để lấp cánh cửa thông với Đất quỷ. Tứ đại gia tộc sau khi trốn thoát ra ngoài ngừng tìm cách đưa Na thần về làng, mong kết thúc được buổi tế lễ đẫm máu đó và khiến cánh cửa thông với Đất quỷ có thể đóng lại hoàn toàn và biến mất. Nào ngờ, Na bà và những oan hồn chết thảm biến thành khối thịt lảng vảng trong thôn, quên nhiệm vụ bảo vệ thi thể của rồng đất, những người vào trong thôn theo hướng thần đạo đều bị con quái vật này ăn thịt. Vì niên đại quá lâu, qua nhiều lần luân chuyển, người thuộc tứ đại gia tộc ngày càng ít , chuyện xảy ra trong thôn cũng còn nhớ nữa. Điền Mộ Thanh trước đó hoàn toàn biết gì, cho tới khi đến đây mới dần nhớ lại, là thần sống đời thứ năm mươi ba của thôn. Những người trước đều hoàn thành được nghi lễ. Kể cũng may mắn, lúc ở điện Na vương, Điền Mộ Thanh vô tình chặt được đầu của Na bà, nếu chúng tôi chết tại điện Na vương mà biết vì sao mình chết. Nếu ấy hoàn thành nghi thức tế lễ cả thôn này rơi hẳn vào trong Đất quỷ. tới đây, thần sắc ta trở nên kỳ lạ. 3 Nét mặt Điền Mộ Thanh cổ quái đến khó hiểu, tiến từng bước lên bàn tế, dường như Na thần trong hồi sinh, chuẩn bị hoàn thành nghi lễ từ cổ xưa còn dang dở. Tôi chợt rùng mình sợ hãi, thể giương mắt lên nhìn Điền Mộ Thanh vào chỗ chết, tôi xông lên giật lấy thanh kiếm đồng trong tay Điền Mộ Thanh. định vứt thanh kiếm xuống dưới Điền Mộ Thanh chợt quay lại giành thanh kiếm, hai người tranh qua tranh lại khiến thanh kiếm rơi xuống đáy hố tế lễ, Điền Mộ Thanh loạng choạng lùi về sau mấy bước, trông như người mất hồn. Tôi vội đỡ lấy Điền Mộ Thanh, dìu dựa vào chiếc cột, hai mắt vẫn đờ dẫn, toàn thân ngừng run lên bần bật, được lời nào. Mặt dày hỏi tôi tình hình Điền Mộ Thanh lúc này thế nào? Tôi giải thích: “ ấy bị ma nhập, con ma đó muốn ấy nhảy xuống hố tế.” Mặt dày lại hỏi: “Có cứu được ấy ?” Tôi trả lời: “ cứu được cũng phải cứu, theo tôi hiểu, Đất quỷ chính là ti, chung là chỗ ở của con người sau khi chết. Ngôi làng chắn cánh cửa thông với ti, nếu nghi lễ tế máu được hoàn tất cả thôn làng này thành phủ. Tuy người dân ở đây chết từ lâu, nhưng bọn mình vẫn chưa thoát ra được.” Mặt dày hiểu ra vấn đề, : “Vậy thể để cho ấy chết được, nếu bọn mình thành người tùy táng rồi.” Tôi : “ làm vật tùy táng cũng thể thấy chết mà cứu. ấy là người bằng da bằng thịt, nếu chết có cách gì mà sống lại được.” Mặt dày : “ vậy, như tình cảnh này của cậu, tôi và Điếu bát đều giống như tượng đất qua sông, mình còn chưa cứu được mình nữa là cứu ai.” Tôi : “Bây giờ mà tuyệt vọng vẫn hơi sớm. Ngôi làng này vẫn chưa hoàn toàn biến mất, nếu bọn mình vào được đây, nếu có đường vào thể nào cũng có đường ra.” Điền Mộ Thanh lên tiếng: “Các ... mặc kệ tôi, tôi chết ở đây lời nguyền hủy diệt thôn năm xưa thể nào hóa giải được...” Mặt dày sốt ruột hỏi: “Trong thôn có đường nào thông ra ngoài, bọn mình phải theo hướng nào đây?” Tôi nhìn Điền Mộ Thanh, thần sắc cổ quái biến mất, trở về với vẻ bình thường, tôi liền hỏi: “ thấy đỡ hơn chưa?” Điền Mộ Thanh : “ hiểu sao cảm giác nghẹt thở như lúc ở điện Na vương lại quay lại, tôi bỗng thấy sợ vô cùng, nhưng giờ tỉnh táo hơn rồi.” Mặt dày : “Có gì đó ổn, chỗ này hình như khác với lúc nãy, tôi ngửi thấy mùi gì đó.” Tôi hít hít vài lần, trong hố tế u lạnh lẽo này có mùi máu tanh, nhưng xung quanh tối đen nhìn thấy gì cả. bàn mổ còn mấy ngọn nến cỡ lớn, chúng tôi liền thắp sáng lên thấy trong hố tế đầy sương mù bằng máu. Khi chém đứt đầu Na bà, oan khí biến thành sương máu, lúc đó chúng tôi sợ đến sởn tóc gáy, nhưng ngờ chúng theo đến tận đây. Tôi nghĩ bụng trong điện có sương máu xuất e là lành ít dữ nhiều, nhất định phải có đường ra khỏi đây, chỉ có điều chúng tôi vẫn chưa tìm ra lối thoát. Nếu bị chết ở nơi này còn hi vọng gì nữa. Tôi vừa nghĩ vậy chân bị ai đó túm chặt, bàn tay đó vừa lạnh vừa cứng, móng tay cứng như vuốt sắt, cổ chân đau buốt, tôi cúi đầu xuống nhìn thấy xác chết người dân bàn mổ tóm lấy chân tôi, mặt nạ của người đó bị rơi từ lâu, khuôn mặt khô đét như củi, miệng há to phát ra tiếng kêu chát chúa như tiếng chim ăn đêm, nghe giống xác chết nữ mà chúng tôi gặp trong hầm mộ. Tôi luống cuống sợ hãi, cầm xẻng phang vào cánh tay khô, người dân đó chết trong hố tế lâu, thi thể khô rốc, cánh tay bị chém đứt làm đôi nhưng phần tay gãy vẫn túm lấy tôi thả ra, tôi vội lắc mạnh rảy cánh tay đó ra, cổ chân bị thây ma đó túm sứt mảng da, máu chảy đầm đìa. Xác chết gãy tay đó vẫn ngừng phát ra tiếng kêu the thé, tay còn lại giơ ra định tiếp tục tóm lấy tôi, may mà Mặt dày bên cạnh ra tay nhanh, cầm báng súng phang thẳng vào đầu xác chết, chỉ nghe thấy “bụp” tiếng, cái đầu vỡ ra nát bét, có cảnh da thịt hỗn độn mà chỉ thấy làn khói đỏ như máu bay ra nhập vào xác chết khác bên cạnh, chỉ thấy xác chết đó động đậy vài cái rồi đứng bật dậy. Mặt dày chưa đợi xác chết đó đứng dậy hẳn bắn phát đạn trúng đầu. Xác chết loạng choạng rồi đổ ập xuống đất, làn sương khói màu đỏ đó lại tiếp tục nhập vào xác chết khác. Mặt dày đâm ra luống cuống, lập cập bắn phát súng thứ hai trúng vào ngực xác chết đó. Xác chết lại ngã bật ra phía sau, nhưng như kiểu có chút cảm giác gì, lại bò dậy giơ hai tay ra chực bắt người. Mặt dày sờ vào túi quần thấy trống mới sực nhớ ra là hết đạn, đành phải vứt khẩu súng xuống, rút cuốc chim ra, định bổ lỗ thủng đầu vào xác chết, ngờ xác chết giơ tay nắm vào cán cuốc, Mặt dày bổ tiếp được mà giằng lại cũng xong. Thấy hai người giằng co phân thắng bại, tôi tiến gần dí bó đuốc vào mặt xác chết. Mặt dày tranh thủ giằng lại chiếc cuốc chim bổ nhát trúng đầu chiếc xác chết, cả người và cuốc chim ngã ngửa ra phía sau. Đám sương bằng máu kia lại bay ra, lởn vởn trong trung mãi tan, lượn lờ như con rắn biết bay, bỗng chúng tản ra thành nhiều đám , nhập vào những xác chết mặt đất. 4 Những xác chết đó lần lượt đứng dậy, thi nhau ra phía thanh xà đá, tất cả đều nhắm vào Điền Mộ Thanh. Tôi biết hồn ma của Na bà nhập vào những xác chết đó, mà những người dân chết trong hố tế này phải đến hàng trăm hàng nghìn người, chúng tôi bị kẹt bàn mổ bằng đá lơ lửng trong trung thế này, làm sao mà chống cự nổi? Chẳng đợi chúng tôi suy nghĩ, bọn xác chết lũ lượt kéo đến, may thanh đá cũng hẹp, chúng tôi dùng đuốc đánh trả, miễn cưỡng chặn được đám xác chết, nhưng giờ này ai cũng sức cùng lực kiệt, e chẳng chống đỡ được mấy nỗi, lùi lại chỉ có nước nhảy xuống hố tế, dưới đó đen ngòm, như cái động đáy. Phải giải thích tại sao nó chỉ gọi là hố tế mà phải là động tế chắc là vì bên dưới có đáy. Trong phong tục của Na giáo, thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng, hố tế biến thành cánh cửa thông với Đất quỷ, kể từ đêm đại họa diệt thôn đẫm máu đó, cánh cửa này chưa từng được đóng lại. Phía bàn mổ bằng đá có cái đầu há to miệng, mặt hướng lên , máu tươi chảy xuống cái miệng này, rồi xuyên qua đó rơi xuống hố tế, nhưng biết dưới đáy hố kia thông về đâu. Tôi thấy những hồn nhập vào xác chết kia đều sợ lửa, hơn nữa xác chết đều khô đét nên di chuyển rất chậm, trong đầu nảy ra ý định tìm cơ hội chạy ra khỏi nơi này, tìm căn nhà nào đó kiên cố chút để lánh nạn, có thể tránh được đợt tấn công này. Ý nghĩ đó vừa xuất , bỗng thấy xác chết nhả đám khói màu đỏ ra, thi thể ngay lập tức đổ ập xuống, tôi ngửi thấy mùi hôi tanh xộc lên, suýt chút nữa bó đuốc bị ngọn gió thổi tắt, tôi vội vàng né tránh nhưng đám khói đó cứ quây lấy tôi tha, xem ra nó định nhập vào người sống. Tôi và Mặt dày thất kinh, tấm bàn mổ này lơ lửng trong trung, trong lúc né tránh nếu cẩn thận bị rơi xuống hố tế bên dưới như chơi, cho dù bên dưới là gì rơi xuống đó cũng đủ gãy xương mà chết, tình thế trước mắt biết phải giải quyết thế nào. Điền Mộ Thanh bỗng kêu lên: “Mau đeo mặt nạ vỏ cây vào!” Tôi nghe vậy chững lại lúc rồi lập tức nghĩ tới chiếc mặt nạ hình mặt quỷ, có vẽ hai màu đỏ và đen, hình thù ký quái, vốn dùng để trừ tà ma. Quả đúng như vậy, tôi thấy đám khói đỏ đó ngay lập tức nhập vào những xác chết đeo mặt nạ, gặp phải những xác chết có mặt nạ chúng chỉ bay vòng qua rồi tránh . Ba chúng tôi vội vàng nhặt những chiếc mặt nạ đeo vào, dùng đuốc xua đuổi những xác chết kia. Tôi tính dùng đuốc đẩy lùi các xác chết rồi theo đường cũ ra khỏi chỗ này, quay trở lại điện Na vương. Đó là kiến trúc kiên cố nhất trong làng, phía dưới còn có địa đạo, có thể rút lui. Còn tiếp theo phải làm thế nào giờ này cũng thể tính được. sau khi quyết định như vậy, tôi vừa định cõng Điếu bát để rút lui thấy sau lưng mình phát ra tiếng kêu the thé. Cả ba chúng tôi chỉ lấy mặt nạ đeo cho mình để đối phó với bọn xác chết, bất chợt nghe thấy tiếng kêu như vậy đồng loạt giật mình run bắn. Vì phía sau lưng chúng tôi có xác chết người dân nhưng còn có Điếu bát, cả ba bận đối phó với xác chết mà quên mất đeo mặt nạ cho Điếu bát. Tôi quay đầu lại, thấy Điếu bát đứng dậy, miệng lẩm bẩm phát ra những thanh khó hiểu, nét mặt thâm u, ngũ quan đơ cứng, ánh mắt vô hồn như mắt người chết. Điếu bát bị Na bà nhập vào người, bỗng há to miệng kêu lên những tiếng rất khó nghe, tay giơ ra hướng về phía Điền Mộ Thanh. Tôi đơ cứng người tại chỗ, khi nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Điền Mộ Thanh chợt tỉnh, vội giơ xẻng lên định đánh vào đầu Điếu bát, nhưng vừa giơ lên vội dừng lại. Tôi biết cho dù đó là ai khi bị hồn ma của Na bà nhập vào còn ý thức nữa, chỉ biết tấn công người sống, đánh vỡ đầu thể đuổi được hồn ma đó . Nhưng Điếu bát và tôi lại là huynh đệ thâm tình, tôi đành xuống tay với , nhưng lại thể giương mắt nhìn Điền Mộ Thanh bị giết. Bất đắc dĩ đành nhảy vào đè Điếu bát ngã xuống đất, đồng thời gạt mạnh tay, đẩy được hai cánh tay Điếu bát chuẩn bị bóp cổ tôi. Tôi cảm nhận được cánh tay đó cứng như thép, mùi máu tanh hôi thể chịu đựng nổi. Mặt dày thấy tôi gặp tình thế nguy hiểm chạy tới định giải nguy cho tôi, giơ bó đuốc dí vào mặt Điếu bát. Tuy tôi biết Điếu bát giờ chỉ như xác chết di động, nhưng cũng nỡ lòng nào để ta bị đuốc đốt cháy mặt, vội ôm cả Điếu bát lộn mấy vòng để tránh. Mặt dày bị hẫng, ngã chúi xuống đất. Lúc này đám người dân kia lại ồ ạt xông lên chỗ phiến đá bàn mổ. Mặt dày và Điền Mộ Thanh vội dùng đuốc chống đỡ, cũng chẳng còn tâm trí đâu mà quản việc phía sau lưng, Mặt dày kêu lớn: “Điếu bát còn nữa rồi, nếu cậu muốn sống phải mạnh tay lên mới được.” Tôi bị Điếu bát bóp cổ, lăn ra bên viền bàn mổ, cảm nhận được hai cánh tay đối phương siết càng ngày càng chặt hơn, mắt tôi hoa lên, trước mắt màu tối đen nhìn thấy gì, vào tình thế thể gắng gượng thêm, nếu đánh lại khó giữ toàn tính mệnh, nhưng vừa rồi trong lúc hỗn loạn, chiếc xẻng văng đâu biết, đành phải tay đánh trả tay quờ quạng tìm xẻng, nhưng mò mãi vẫn thấy. 5 Tôi bị Điếu bát bóp cứng nơi cổ họng, thể giãy giụa được, trong lòng tuyệt vọng vô cùng, mơ màng thấy khuôn mặt quen thuộc của Điếu bát giờ trở nên lạnh lùng, méo mó biến dạng như những xác chết người dân kia. Trong phút chốc, tôi nhớ lại cảnh bọn Hoàng phật gia gặp phải thi biến trong hầm mộ, xác chết nữ trong quan tài gỗ mun, cũng là do hồn bất tán, bọn thổ phỉ tháo chiếc mặt nạ thi thể nữ xuống ngay lập tức ngồi dậy bắt người. Xem ra chiếc mặt nạ vỏ cây này những đuổi được rắn rết côn trùng mà có thể trấn ma trừ tà. Ý nghĩ này lóe lên trong đầu, như bầu trời gạn sạch được mây đen, tôi tháo chiếc mặt nạ của mình ra úp vào mặt Điếu bát. Điếu bát kêu ré lên vội vàng lùi lại phía sau, từ bàn mổ lộn cổ xuống dưới hố đất, tôi kịp với lấy , bên dưới đen ngòm, người rơi xuống dưới nghe thấy chút thanh nào. Lòng tôi nặng trĩu, biết đây phải là lúc để buồn rầu nhưng vẫn kìm nổi lòng mình, nước mắt lăn dài mặt. Tôi nghiến răng đứng dậy, nhặt chiếc mặt nạ khác đeo vào, tay cầm bó đuốc, gọi hai người kia lên phía . Mặt dày thấy Điếu bát chết cũng phát điên lên, đẩy loạn xạ bọn xác chết xuống bên dưới. Xác chết người dân tuy nhiều, nhưng phân nửa đều đeo mặt nạ, phần còn lại khô đét, dù bị đám sương máu kia nhập vào nhưng di chuyển chậm chạp linh hoạt, hành lang bên miệng hố tế lại chật hẹp nên bọn chúng thể đổ dồn lên lúc được. Tôi thấy có cơ hội để thoát lên đại điện phía hố tế, trong lòng tăng thêm dũng khí, ba người vừa tiến lên đám dân bị ma nhập cũng ùa tới. Mặt dày vội khua đuốc về phía chúng, tên bị đánh trúng mặt kêu thét lên vội lùi lại phía sau. Mặt dày hăng tiết liên tục khua đuốc, đè cổ cáci xác bên miệng hố rồi đánh vỡ đầu, đám khói đỏ bay ra, xác chết cũng trở nên bất động. Nhưng Mặt dày ra tay quá đà, bó đuốc va vào bức tường đất phát ra tiếng kêu như gõ vào tường sắt, bó đuốc gãy làm đôi. Chúng tôi vừa thất kinh vừa thấy lạ. Hố tế ràng là chiếc hố bằng đất hình chữ nhật, xung quanh phải đất hỗn hợp, tại sao lại có thể phát ra thanh đó? Bàn mổ chính là thanh đá nhô ra miệng hố, phần chôn trong tường. Chỗ tường bị cán đuốc va vào có phần nhô ra khỏi tường, bên bị bụi đất che phủ. Lúc chúng tôi từ đại điện xuống, vì mải đuổi theo Điền Mộ Thanh nên chú ý thấy những điều khác lạ bên dưới. Giờ mới phát ra có vật thể rất to lớn được dựng ở đó, hiển nhiên nó phải là gạch, nhưng vì bị đất bụi che phủ nhiều năm nên nhìn ra đó là vật gì. Chúng tôi còn chưa kịp định thần thấy phiến đá dưới chân mình rung lên, phát ra tiếng kêu rắc rắc như chuẩn bị gãy. Hóa ra vật thể kỳ lạ kia rất nặng, đè lên thanh đá gần như sắp sập. ngọn đuốc của Mặt dày làm đảo lộn tình thế, vật thể to lớn đó trượt về phía chúng tôi. Trong lúc di chuyển, đám bụi bặm bên bị bong ra, chúng tôi nhìn thấy đó là quả bom, là loại bom chuyên dụng của máy bay thả bom, lớp vỏ hoen rỉ nặng, còn nhận biết được các chi tiết nữa, xem ra đó là loại bom phiên bản cũ. Tôi có nghe mọi người kể, núi Thông Mã trước đó là chiến trường, thời kháng chiến thống thất và thời nội chiến nơi đây chiến diễn ra rất khốc liệt, nhiều người dân nhặt được vỏ bom ở quanh vùng này. Chắc quả bom này rơi từ xuống nên làm thủng lỗ nóc điện, đầu quả bom chúc xuống dưới, rơi trúng hố tế này. Trái bom này phải của quân Nhật là của quân Mỹ. Khu vực hồ Tiên Đôn hay xuất mây mù, thả nhầm tọa độ vào đây cũng có gì là lạ. Quả bom này ít ra cũng phải bảy tám trăm cân, năm đó rơi xuống đây bị nổ chắc do trục trặc kỹ thuật, nếu gặp lúc cái số nó phải chết có khi chỉ cần chạm vào nó cũng phát nổ. Loại bom hàng sau khi được thả xuống mấy chục năm sau vẫn có nguy cơ phát nổ. Nghe kể ở những lâm trường vùng Đông Bắc phát thấy những quả bom do quân Nhật để lại, có người thu về để bán đồng nát, vì quả bom rất to tiện di chuyển nên dùng búa để nện, tính chia thành mấy mảnh cho la kéo về, ai ngờ vừa nện nhát búa quả bom phát nổ, cả người lẫn la đều nổ banh xác, còn gây ra vụ cháy rừng. Tôi biết vừa rồi bó đuốc của Mặt dày va vào quả bom chút nào, may nó mà phát nổ cả ba chúng tôi tan tành xác pháo, tôi khỏi toát mồ hôi trán, bỗng ý nghĩ lóe lên. Quả bom này cũng có thể rơi xuống được đây, chúng tôi phát ra nấm mồ của mộ cổ trước, vào từ cửa mộ nhưng lúc ra thấy hồ nước đâu nữa. Thôn Thiên Cổ Dị Đế rơi vào vòng xoáy hỗn độn nếu cửa ra nằm xung quanh thôn nhất định là ở vị trí cao nhất của thôn, mà nơi đó phải đâu khác chính là ngôi mộ cổ trong thôn. Mặt dày trông thấy tôi cứ đứng đực mặt ra động đậy, quả bom mấy trăm cân trôi xuống mà chẳng chịu tránh, liền đẩy tôi và giục: “Cậu chán sống rồi à? Mau tránh !” Tôi định thần lại, quả bom ở phía đầu bàn mổ trôi xuống, chúng tôi chen nhau trong khoảng chật hẹp, còn nơi để trốn, muốn đỡ quả bom kia cũng chẳng có sức mà đỡ, nếu bị nó đè phải chỉ có nát bét như thịt băm, chẳng còn lựa chọn nào khác, chúng tôi lùi ra phía đầu phiến đá bàn mổ, bên tai nghe văng vẳng tiếng đá nứt rầm rầm, quả bom rơi xuống, lối được chống những cột gỗ đủ sức đỡ lập tức có tượng sụt lở, thanh đá làm bàn mổ bị gãy, lập tức rơi xuống hố đất sâu vô tận. 6 Phiến đá rơi xuống dưới hố, chúng tôi biết dưới hố đó sâu bao nhiêu, rơi xuống chỉ có chết, tôi cứ nghĩ vậy là chấm hết rồi, ai ngờ chiếc hố chỉ sâu chừng mười mấy mét, thanh đá rơi xuống nằm chéo dưới đáy hố, ba người chúng tôi trượt từ thanh đá đó xuống như trượt cầu trượt, nhưng cũng ngã cho hoa mắt hoa mũi, cảm giác lục phủ ngũ tạng dường như phải là của mình nữa. Trong lòng kêu khổ, biết cao thấp là gì. Tương truyền hố tế là cánh cửa thông với Đất quỷ, nhưng bên dưới đất tơi xốp. Tôi lấy làm lạ, định xem xung quanh thế nào lại nghe thấy tiếng động ở phía đầu. Hóa ra, quả bom lăn từ thanh đá xuống, vỏ quả bom hoen rỉ, qua mấy lần va chạm mạnh mà phát nổ, chắc là nổ được nữa, nhưng trọng lượng thay đổi, giống như chiếc cối đá khổng lồ lao từ cao xuống, nó mà rơi trúng cả đám cũng thành đám thịt bèo nhèo. Bên dưới hố đất lại tối đen, mấy ngọn nến bàn mổ đều bị tắt, chúng tôi nghe thấy tiếng động biết ổn, cũng chẳng kịp trốn đâu, đành lùi vào bên thành hố để tránh. Quả bom nặng mấy trăm cân lao xuống quạt gió ầm ầm, tạo thành cái hố sâu hoắm, nó nằm ngang bên dưới nhúc nhích động đậy. Tôi nhặt đuốc lên thắp sáng, Mặt dày và Điền Mộ Thanh cũng tránh kịp, may mắn bị quả bom đè phải. Ba người vẫn đeo mặt nạ, tôi nhìn thấy nét mặt của họ nhưng cả bọn ngừng thở gấp, ràng là vẫn hoảng hốt chưa định thần lại. Tôi nhặt chiếc xẻng lên, lấy trong ba lô ra hai bó đuốc dùng, nửa đưa cho Mặt dày. Nhân lúc hai người họ châm lửa, tôi tranh thủ xem xét xung quanh. Phía tường chỗ thanh đá vừa rơi xuống có hình vẽ mặt người, mặt vuông dài, hai mắt và mũi là ba hình vuông , trông vừa kỳ quái vừa thần bí. Khuôn mặt giống như mặt nạ của Na giáo, hình như đây là dấu tích của Đất quỷ để lại, cổ quốc đó được gọi là Đất quỷ có khi vì những hình vẽ mặt nạ kỳ quái này. Tổ tiên của Na giáo dựa vào những chiếc mặt nạ đồng tìm ra chiếc hố. Có thể , nơi đây chính là khởi nguồn của Na giáo. Chiếc hố được phát từ hơn bốn nghìn năm trước, nó là tế đàn hay là huyệt mộ của người Đất quỷ đây? Mặt dày và Điền Mộ Thanh châm được lửa, dưới hố sáng hơn rất nhiều, cả ba chúng tôi bất an quan sát xung quanh. Tôi nhìn lên , có thể trèo lên từ thanh đá vừa rơi xuống, tôi : “Những đồ cần thiết vứt lại, lát nữa ra khỏi đây mọi người phải theo sát tôi, lối ra có thể là ngay đỉnh của ngôi mộ cổ trong thôn.” Mặt dày vội vàng lôi chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan và các bảo bối khác cho hết vào túi da rắn buộc chắc, xác chết bị Mặt dày bổ cho nhát cuốc chim cũng bị lăn xuống hố, Mặt dày lấy lại chiếc cuốc, cầm sẵn trong tay thủ thế. Tôi nhớ tới Điếu bát cũng bị rơi xuống đây, tại sao lại thấy đâu nhỉ? Tôi băn khoăn: “Điếu bát bị rơi xuống đây chắc lành ít dữ nhiều, chắc là cũng rơi nát người rồi. Nhưng tôi thể bỏ mặc ta được.” Mặt dày cũng : “ rơi xuống đây sao thấy người đâu nhỉ? Hay là bị quả bom đè bẹp rồi?” Tôi nhìn thấy quả bom đè bẹp phải ai, cái hố này , ba người chúng tôi thắp đuốc lên cũng chỉ soi sáng được bảy tám mét, lại bị quả bom chắn mất tầm nhìn, nên thấy được gì phía trước cả. Dù thân nơi nguy hiểm, lường trước được việc gì xảy ra, nhưng cái hố này phải hố đáy, giờ chúng tôi đứng an toàn nền đất, lại phát có gì khác thường nên tôi và Mặt dày cũng mạnh dạn hơn, định tìm Điếu bát, sống phải tìm thấy người mà chết phải tìm thấy xác. Điền Mộ Thanh can: “Điếu bát bị hồn ma của Na bà nhập vào, các cũng biết đấy, nếu chặt được đầu đám oan khí đó thể nào tan được, ai có thể cứu được ta. Nếu có thể ra được bên ngoài các phải nhanh chóng thoát thân, đừng có để mất mạng ở đây.” Tôi nghĩ cũng phải, nhưng vẫn chưa cam tâm, hơn nữa qua cách của ấy dường như có ý ra khỏi nơi này. Tôi định hỏi cho ràng thấy thấp thoáng bóng người di chuyển trong lớp sương mù, những người dân kia đuổi theo xuống tới nơi. Dưới hố này thể so với thanh đá được, ở có thể cố gắng cầm cự, dưới này tứ bề là tường, nếu bị vây đánh chỉ còn nước chết có đất chôn. Chúng tôi biết địa thế nơi đây bất lợi cho mình, thể chống lại những xác chết bị ma nhập kia, nên đành phải nấp vào phía kia của quả bom, nín thở quan sát tình hình phía trước. Vỏ ngoài của quả bom hoen rỉ nặng, cao khoảng tới ngực người bình thường, bị rơi xuống hố nhưng nổ, chắc là chỉ còn là đống sắt vụn. Tôi với Mặt dày và Điền Mộ Thanh: “Đợi những người dân kia tới gần, bọn mình đẩy quả bom này ra đè bẹp bọn nó.” Mặt dày : “Cũng là cách, cậu nghĩ kỹ chưa, tiếp theo làm thế nào?” Tôi : “Mẹ nó còn có tiếp theo...” còn chưa xong người dân thét lên tiếng kêu chói tai rồi lao tới trong đám sương mù. Mặt dày kêu lên: “Bọn người chết sống lại kia xông tới rồi kia, hai người đừng nhìn nữa, mau đẩy quả bom .” Ba người chúng tôi đứng tấn kê vai và tay vào quả bom đẩy về phía trước, nào ngờ phía dưới hố đất bằng phẳng, quả bom lại nặng, đẩy mấy lần những nhích lên trước được chút nào, thậm chí còn lăn ngược về phía chúng tôi. xác chết phi lên trước, giơ tay định tóm lấy Điền Mộ Thanh, Mặt dày bổ nhát cuốc vào đầu , đám khói đỏ bay lên lởn vởn trong trung mãi chịu tan . Tôi thấy trong tay Điền Mộ Thanh chỉ có bó đuốc liền lôi ấy lùi lại phía sau, bỗng nghe thấy tiếng kêu the thé sau lưng, quay lại thấy chính là Điếu bát, chiếc mặt nạ bị tôi đeo lên trước đó rơi xuống, khuôn mặt tối sầm, hai mắt đen sì vô hồn. Trước đó tôi còn hơi do dự, như dùng thân cây gai mà đánh sói, kiểu gì cũng sợ, nhưng lúc này tình thế bắt buộc đành phải nhẫn tâm giơ xẻng lên phạt vào đầu Điếu bát mất nửa, tận mắt nhìn thấy ta ngã trước mặt, tay tôi run lên bần bật, tim nhói đau, nhát xẻng đó như đánh vào chính mình, nhưng vừa quay lại tôi thấy ánh đuốc soi sáng tới nửa bên kia của chiếc hố.
Chương 20: Mở ra thế giới 1 Theo truyền thuyết, hố tế dưới thôn là cánh cửa thông với Đất quỷ, vì buổi tế lễ thất bại nên cả thôn làng bị rơi vào Đất quỷ, Điền Mộ Thanh phải hoàn thành nghi lễ, nếu rồng đất thoát ra được. hồn của Na bà bám riết lấy Điền Mộ Thanh để giết , cho hoàn thành nghi thức tế lễ, nếu Điền Mộ Thanh chết tại đây lối ra cũng biến mất, tôi và Mặt dày tiến thoái lưỡng nan, nếu cứu Điền Mộ Thanh đồng nghĩa với việc thả rồng đất ra. Nếu cứu Điền Mộ Thanh hai chúng tôi cũng phải chết cùng. Tôi chọn cách cứu Điền Mộ Thanh, còn việc hành động đó của tôi có đúng hay kết quả khó lường. Nhưng tại bàn mổ sập, ba chúng tôi bị xác chết dồn vào chân tường, tính mạng khó giữ, tính phương kế gì cũng chỉ có nước chết. nhát xẻng chém nát nửa đầu của Điếu bát khiến tim tôi càng nguội lạnh. Ngờ đâu, khi ánh đuốc soi tới phía sau lưng, chúng tôi nhìn thấy con “Ma núi” nằm ngửa chềnh ềnh ở góc. Theo cách của người dân, ma núi chính là Mao nhân, tứ chi giống như người nhưng cao lớn hơn người, toàn thân mọc đầy lông trắng sạm dài phải đến mấy phân, đầu to môi dày, ba phần giống người bảy phần giống thú, hình dạng kỳ quái, hơn nữa bụng nó hơi nhô lên, trông như sắp lâm bồn, nhưng nó chết từ rất lâu rồi. Hồi ở lâm trường tôi được nghe kể về ma núi. Chuyện là trước giải phóng có hai bố con nhà nọ vào rừng săn bắn, cậu con trai khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, họ tìm gian nhà gỗ bỏ hoang để nghỉ qua đêm. Trong rừng rậm núi sâu có rất nhiều nhà gỗ bỏ hoang kiểu đó, có cái do thổ phỉ bỏ lại, có cái do quân chống Nhật để lại, cũng có cái do dân đào vàng trộm gỗ bỏ lại, những người thông thạo đường rừng dễ dàng tìm thấy những căn nhà như vậy để trú chân. Hai bố con nhà nọ ngủ lại trong gian nhà gỗ. Nửa đêm bỗng nghe tiếng chó săn cắn nhặng ở bên ngoài, vội cầm súng ra, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt hồn xiêu phách lạc. con quái vật toàn thân mọc lông trông như vượn lại giống như gấu đứng ở bên ngoài, to gần gấp đôi người thường, nó túm lấy hai chân sau của con chó săn giật mạnh về hai phía, con chó bị xé toạc làm hai mảnh, bị vứt toẹt xuống đất. Hai bố con nhà nọ còn chưa kịp giương súng lên bị con quái vật đó tát cho hai cái lăn quay ra đất. Quái vật tóm lấy cậu con trai kẹp vào nách bắt , người bố vẫn còn thoi thóp, sáng hôm sau được người dân cứu sống. Dân làng tìm mất hơn nửa năm trong rừng nhưng thấy bóng dáng con quái vật đâu nên họ đồn nhau đó là ma núi, cứ nhắc đến ma núi là ai cũng sợ hãi. chỉ vùng Hưng An mà các nơi khác cũng có những lời đồn như vậy, có nơi còn có lời đồn có người còn bị ma núi bắt vào rừng sâu sống với nó, sinh con đẻ cái, gia đình người bị nạn tưởng con họ chết, nhiều năm sau người đó trốn thoát trở về làng v.v... Tôi nghĩ ma núi cũng gần như Mao nhân, trước đây có khi là có , hơn nữa được nghe nhiều chuyện về ma núi, toàn là chuyện bộ dạng nó kinh khủng ra sao, nó bắt người thế nào, rồi còn ăn thịt người nhai ngang xương v.v..., ngờ chúng tôi lại gặp thi thể mọc đầy lông trắng tại hố tế của thôn này. Phía hố tế là đại điện, trong điện có hố đất, phía là bàn mổ đặt lơ lửng trong trung, phía dưới chính là hố sâu, nhưng thi thể này phải là người, người ở Đất quỷ cũng phải bộ dang này, chắc là năm xưa người dân phát thi thể ma núi chết ở đây, sau khi vương quốc Đất quỷ diệt vong, tổ tiên Na giáo phát ra chiếc hố tế này. Nhưng tôi điều, tại sao cái hố này lại là cánh cửa thông với Đất quỷ, tại sao lại phải dùng máu của Thần sống để làm lễ tế? Nếu là dã nhân, ma núi hình thù kỳ quái cũng tuyệt chủng từ lâu, thời nay nếu để lộ tung tích hẳn làm náo loạn dân tình, nhưng thời xưa phải là hiếm. Trong “Phòng sơn huyện chí” của thời Thanh có ghi chép, từ thời Thương, Chu từng có người dân bắt được Mao nhân dâng lên Thiên tử, những vật dùng bằng đồng đen thời đó để lại cũng xuất những họa tiết ma núi toàn thân mọc đầy lông. Điều đó cho thấy, thời cổ đại người ta nhắc tới khái niệm ma núi rồi. Thi thể trong hố đất này cũng chỉ là con ma núi, tuy lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy, nhưng phải là con duy nhất, ngoài hình dạng giống người, nó có gì khác biệt cả. Tuy là cương thi toàn thân mọc đầy lông, nằm trong hố đất hàng nghìn năm nay mà hề có thay đổi, đúng là kỳ lạ. Nhưng cũng đến nỗi vì thế mà người xưa nó là thần linh, trừ phi cương thi này... 2 Tôi dám chắc cái thứ nằm trong hố đất còn khủng khiếp hơn cả rồng đất, nếu xảy ra đại họa diệt thôn, nhưng tôi nghĩ ra được nguyên do vì đâu. Na giáo chuyên đối phó với cương thi, ma quỷ, tuyệt đối thể thờ cúng thi thể như vậy, hơn nữa nó phải là người. Nhưng đây cũng là do những điều chúng tôi biết còn có hạn, chưa tìm ra được bí mật bên trong. Tôi mải suy nghĩ Mặt dày và Điền Mộ Thanh cùng quay lại, thấy Điếu bát bị đánh nát bên đầu, chết thảm dưới đất cũng hụt hẫng, nhưng họ cũng chỉ buồn thương chứ cảm thấy bất ngờ, Mặt dày : “Điếu bát chết ở đây cũng là cái số của ấy, bọn mình sau này về cúng đầy đủ rượu thuốc, điểm tâm... thiếu thứ nào...”. nửa chừng nhìn thấy cương thi lông trắng, cả hai đều kêu lên kinh sợ. Tôi : “Đừng hoảng, chỉ là con ma núi chết ở đây nhiều năm rồi, còn động đậy nữa.” Mặt dày hỏi: “Ma núi... là Dã nhân? Bà mẹ nó trông phát kinh...”, rồi giục tôi: “Mặc kệ nó , bọn xác chết sắp mò tới nơi rồi!” Tôi nhìn ra phía sau, mấy chục cái xác theo chỗ thanh đá leo xuống dưới hố, hình bóng chập chờn, chúng leo qua chỗ quả bom. Nếu bị bao vây tứ phía ở đây chẳng mấy chốc chúng tôi bị những người dân đó đánh chết, nhưng cũng kịp lùi vào góc nữa rồi, chúng tôi chập ba bó đuốc lại làm thành bức tường lửa, chuẩn bị chống trả lại đám xác chết mỗi lúc tiến gần, lúc này vẫn còn tia hy vọng, nếu cầm cự được chốc lát có khi thoát qua được kiếp nạn này. Tôi vẫn chưa khỏi băn khoăn về bí mật của hố tế, nhịn được liền lên tiếng hỏi: “Hố tế này là nơi thông với Đất quỷ, tại sao lại chỉ có thi thể con ma núi này nhỉ?” Mặt dày trả lời: “Cậu hỏi tôi? Tôi hỏi ai!” Thực ra là tôi hỏi Điền Mộ Thanh, tôi cảm nhận được bờ vai của ấy run lên, nhưng nhìn được nét mặt của ấy. ấy chắc cũng biết tình hình dưới hố này, nghi lễ tế máu đều thực bàn mổ, từ khi có thôn làng này chắc cũng chưa ai từng xuống phía bên dưới xem thể ra sao. Tôi chợt nghĩ, những người dân kia đều bị hồn ma của Na bà nhập vào, Na bà muốn tiêu diệt Điền Mộ Thanh để ngăn chặn hoàn thành nghi lễ tế máu, thực ra khi tấm bàn mổ bị gãy nghi lễ này thể nào thực được nữa, nhưng tâm niệm đó của hồn khó mà tiêu tan được, vẫn tiếp tục đuổi theo xuống phía dưới. Lễ tế của Na giáo rốt cuộc là cúng tế thần linh phương nào chứ? Là thi thể mọc đầy lông này ư? Cánh cửa thông với Đất quỷ đó nằm ở đâu? Tôi đọc được chữ tấm bia đá, tất cả đều nghe Điền Mộ Thanh lại, tục ngữ có câu: “Vẽ rồng vẽ hổ khó vẽ xương, biết mặt biết người khó biết lòng”, lẽ tôi bị ấy lừa? Cái chết của Điếu bát khiến tinh thần tôi hoảng loạn, toàn nghĩ ngợi linh tinh, bỗng nghe thấy chỗ thi thể ma núi phát ra tiếng động, trong lòng thấy lạ, cố mở to mắt nhìn ra phía trước, nhưng ánh lửa soi tới nơi, mờ mờ ảo ảo nhìn khuôn mặt xác chết, nhưng càng nhìn lại càng hoang mang. Tôi nghĩ bụng, tình cảnh này chúng tôi ở vào thế tuyệt vọng, riêng đám người dân kia khó lòng đối phó, hay là cho mồi lửa đốt quách cái xác cổ kia, tránh xảy ra thi biến. Tuy nhìn cái xác đó có gì khác lạ nhưng tôi cũng dám sơ suất, vừa định cầm đuốc tới bỗng nhìn thấy cánh tay động đậy, nhưng trông giống cánh tay của cái xác đó, vì nó to như vậy, móng tay và lông cũng dài lắm, còn hơn tay người bình thường chút, năm ngón tay loe ngoe như năm cành cây khô. Tôi kinh sợ vô cùng: “Trông thế nào cũng giống tay người, trong cái hố này ngoài xác chết của ma núi ra lẽ còn có thứ gì khác?” Hai người kia nghe thấy tiếng động cũng thèm quan tâm đám người dân nữa, quay lại giương mắt nhìn về phía xác chết cổ. Cánh tay khô như cành cây kia thò ra từ phần hạ thể của cương thi, chúng tôi đều há hốc mồm kinh ngạc. Bụng cương thi đúng là nhô lên, cho thấy khi chết mang thai, ít nhất cũng chết bốn năm nghìn năm nay rồi, cái xác chết khô từ lâu, cái thai trong bụng làm sao có thể còn sống được? Nhưng xem tình hình trước mắt ràng là cái thai chết đó bò ra bên ngoài, trong chớp mắt chiếc bụng của xác chết xẹp xuống, giữa hai chân của nó bò ra cái thai quái dị, bộ dạng mê mê man man, toàn thân nhăn nheo, mặt vuông tai nhọn, hai mắt vẫn chưa mở, hai chi trước dài hơn chi sau, bộ dạng cũng giống như mẹ nó, chỉ có điều lông nhiều và cũng dài bằng, da thịt khô đét, nhìn biết là thai chết lưu, nhưng sao nó còn động đậy được? 3 Mặt dày tuy hết sức kinh ngạc nhưng lại sợ, cho dù là quái thai biến dạng nhưng nếu bổ cho cuốc cũng thủng đầu, lão ta dưới này rộng, dễ bị đám người dân kia tấn công, cần phải nhanh chóng ép vào thành hố mới dễ xoay sở, giờ phải dụ bọn người dân xuống hết bên dưới, rồi lựa thời cơ di chuyển ra phía chỗ tấm đá bàn mổ. Tôi phát thấy đám người dân đó di chuyển chậm chạp, khi tới gần quả bom dám ồ ạt xông lên, là do sợ lửa hay là sợ đứa bé quái dị này. cảm giác lành ập đến, trong hố tế này tiềm mối nguy hiểm thể dự liệu, lẽ là do cái thai quái dị vừa được sinh ra này? Tôi thấy đứa bé quái dị đó còn chưa mở được mắt, tuy nó xấu xí đến ghê tởm nhưng so với những gì chúng tôi gặp trong thôn này nó đến nỗi đáng sợ, nhưng vì nó quá cổ quái nên tôi có cảm giác lành. Tôi cũng dám khinh suất, thấy Mặt dày có ý định ra phía kia của chiếc hố, nếu vậy phải ngang qua chỗ đứa bé, tôi ngăn ta lại: “Khoan hãy , tình hình có gì đó ổn.” Mặt dày : “Cậu còn sợ thứ này à? Cũng chỉ là quái thai vừa mới sinh ra thôi mà, để yên tôi cắt chim nó ra cho nó tè thoải mái luôn.” Tôi : “Gì mà vừa mới sinh? Cái thứ này là thai lưu mấy nghìn năm nay rồi, bây giờ tự nhiên lại chui ra, ông thấy lạ à?” Mặt dày : “Gần đây chuyện lạ còn ít chắc? Bọn mình chỉ có mấy bó đuốc này để phòng thân thôi, đến khi đuốc tắt rồi khóc cũng chẳng có chỗ mà khóc đâu.” Tôi lại nghĩ, khi cần mạo hiểm mạo hiểm, khi cần cẩn thận vẫn phải cẩn thận, thể chỉ dựa vào vận may, mạng sống chỉ có , chết rồi chẳng thể sống lại được. Dựa vào những gì nhìn thấy và linh cảm của tôi tôi thấy trong chiếc hố này sắp xảy ra kiện trọng đại, chỉ có điều chúng tôi ý thức được thôi. phải tôi sợ quỷ thai kia, nhưng vì quá nhiều tượng khác thường cùng xảy ra khiến tôi lo lắng, tâm trạng hết sức bất an. Ba người chúng tôi và đám người dân kia gầm ghè nhau qua quả bom, sau lưng là thi thể của Điếu bát, cách đó bảy tám mét là vật quái thai vừa bò ra khỏi bụng mẹ. Thời gian như dừng lại trôi nữa, tôi cảm nhận có gì đó khác thường, nhưng biết là ở đâu. Bỗng đứa bé đó hé mắt, đôi mắt như hai con cá chết đảo khắp nơi trong hố, khi nó nhìn sang phía chúng tôi, tôi chỉ thấy như luồng điện chạy qua, quét từ gót chân tới đỉnh đầu. Mặt dày giục giã: “Cậu bình thường to gan thế kia mà, sao giờ lại sợ sói sợ hổ thế, sợ cái thai đến rụt chân rụt tay vào.” Tôi chỉ trợn mắt lên nhìn cái thai quái dị kia, bỗng tôi phát ra điều bất thường là ở đâu. Chúng tôi vẫn đứng yên tại chỗ di chuyển, ánh đuốc chỉ soi tới bảy tám mét, cũng chính vị trí của nó nằm, tôi giơ bó đuốc ra phía trước cũng chỉ lờ mờ nhìn thấy nửa khuôn mặt của nó, lúc nó bò ra khỏi bụng mẹ, dây rốn vẫn còn, mà nó cũng chỉ nằm yên tại chỗ động đậy, vậy mà lúc này khi tôi giơ bó đuốc lên lại nhìn thấy rất từng nếp nhăn khuôn mặt nó. Mặt dày hiểu gì cả, thắc mắc: “Sao đuốc lại lúc tỏ lúc mờ nhỉ, lúc nhìn , lúc , thế là sao?” Tôi : “Mấy bó đuốc này đều dùng dở rồi, dầu còn mấy nỗi, đáng lẽ phải càng ngày càng tối chứ, tại sao cái quái thai đó cách chúng ta bảy tám mét mà lại nhìn như vậy?” Mặt dày : “Quái thai đó bò về phía chúng ta...”, vừa xong chính ta cũng thấy đúng, cả ba chúng tôi vẫn đứng nguyên gần chỗ quả bom, quái thai kia cũng hề rời xa xác mẹ nó. Tôi thấy quả bom và vị trí của xác chết có gì thay đổi, đuốc cũng hề sáng hơn, sở dĩ nhìn hơn là do khoảng cách giữa chúng tôi và cái thai quái dị kia ngày rút ngắn. Mặt dày : “Cậu hình như sợ quá đâm ra lú lẫn, chẳng ai di chuyển cả, làm sao mà khoảng cách gần lại được?” Tôi cũng tại sao lại như vậy, nhìn thấy khoảng cách chiếu sáng của bó đuốc có gì thay đổi, vẫn là khoảng bảy tám mét, nhưng ràng tôi thấy như nguy hiểm ở ngay trước mặt mình, khổ nỗi biết đó là mối nguy hiểm gì, đúng là cảm giác tồi tệ. Trán tôi ướt đẫm mồ hôi, tại sao quả bom và xác chết cổ kia di chuyển mà khoảng cách hai bên lại ngắn ? Điền Mộ Thanh dường như phát ra điều gì đó, thấp giọng : “Là phần mặt đất chính giữa biến mất.” 4 Nghe Điền Mộ Thanh vậy tôi giật thót mình, nếu quả bom động đậy, khoảng cách lại ngừng rút ngắn cũng chỉ có lý do là khoảng cách đó biến mất. lẽ thời cổ xưa có tượng đất rộng ra hoặc biến mất, ví dụ như ba ngọn núi liền nhau bỗng ngọn núi ở giữa biến mất, hai ngọn núi hai bên sát lại gần nhau, hoặc có lúc giữa hai ngọn núi lại mọc thêm ngọn núi khác. Đó là do trận động đất lớn gây nên, theo cách của người xưa gọi đó là “địa súc” (đất co lại), cảnh tượng lúc đó hẳn kinh thiên động địa, nhưng trong hố đất hoàn toàn có chút động tĩnh, khoảng cách giữa quả bom và xác chết cổ cứ rút lại cách thầm lặng. Trong chớp mắt, quái thai với khuôn mặt dị dạng đó dường như lại tiến gần tới chúng tôi thêm chút nữa. Tôi nhất thời nghĩ được tại sao lại có tượng đất bị biến mất như vậy. Chúng tôi cứ tiếp cận dần với xác chết cổ đó biết xảy ra chuyện gì. Nhưng tôi biết thể để cho đứa bé quái thai kia ngày càng tiến lại gần mình hơn mà có hành động gì. Cũng chẳng còn thời gian mà suy tính nhiều, giờ phút này chỉ có tiến hay lùi mà thôi. Tôi nhìn ra phía sau, trong làn sương khói mờ ảo nhấp nhô từng tốp người dân bị hồn ma nhập vào, chỉ cần lùi lại phía sau quả bom lập tức bị bọn họ bao vây, còn cơ hội để về phía thanh đá nữa. Nếu cứ đứng nguyên tại chỗ khoảng cách giữa chúng tôi với đứa bé quái thai kia ngay càng gần hơn. Tôi trấn an mình phải bình tĩnh, trong giờ phút quan trọng này, mỗi bước đều liên quan tới vấn đề sinh tử, thể khinh suất. Mặt dày tin là mặt đất biến mất, ta cho rằng tôi và Điền Mộ Thanh nhìn nhầm, liền ném bó đuốc cháy hết nửa về phía trước. Kể cũng lạ, Mặt dày ném bó đuốc về phía trước chỉ là muốn xem địa hình phía trước ra sao để tiện tìm đường ra, ngờ đâu bó đuốc vừa bay tới gần đứa bé quái thai kia bỗng biến mất, hoàn toàn phải là lửa bị tắt hay là bó đuốc rơi xuống đất. Cho dù có ném viên đá xuống mặt nước cũng để lại vài làn sóng chứ, nhưng cả ba chúng tôi trợn tròn mắt to hết cỡ cũng chỉ thấy bó đuốc biến mất hoàn toàn để lại dấu vết. Mặt dày sợ quá vội lùi lại mấy bước, đúng là trăm nghe bằng thấy, thể tin, giọng ta lộ vẻ sợ hãi: “Bó đuốc đâu rồi?” Tôi kịp hiểu, còn hoảng sợ hơn cả Mặt dày, phải mặt đất biến mất, mà là gian bị biến mất. Phía trước mặt đứa bé quái thai kia dường như có hang động tàng hình, miệng nó hướng về đâu những thứ ở phía đó đều bị hút vào bên trong. Chúng tôi nhìn thấy được quá trình nhưng thấy được kết quả của việc biến mất. Nếu lúc trước chúng tôi cứ thế tiến lên cũng có kết quả như bó đuốc vừa rồi. Đúng là ý nghĩ sai lầm, giờ nghĩ lại vẫn thấy sởn gai ốc. biết khuôn mặt của đứa bé quái thai kia thế nào, cũng vì sao nó có thể khiến mọi thứ xung quanh biến mất, nhưng trực giác mách bảo tôi tuyệt đối được tiến gần đến nó, càng thể đợi nó tiếp cận chúng tôi. Tới nước này chẳng cần bàn bạc gì, tôi và Mặt dày đều cẩn trọng hết mức, cần phải tìm được lối để thoát ra khỏi nơi này, cho dù thoát ra được, nửa đường chết dưới tay những người dân ma nhập kia vẫn còn hơn là mất tích cách khó hiểu như thế này, dù gì cũng chỉ có mạng sống mà thôi, muốn ra sao ra. Vừa xoay người lại còn chưa kịp nhấc chân lên, phía sau lưng bỗng phát ra tiếng kêu vô cùng kinh dị, giống như tiếng giông tố làm gãy cành cây đại thụ, cả đời này tôi chưa bao giờ nghe thấy thanh nào lạ lùng như vậy, trong lòng nghĩ: “Cái thứ quái thai đó nhẽ nào phát ra được thanh như vậy?” Tôi kìm lòng được quay đầu lại nhìn, chỉ thấy mình quái thai đó mọc ra thân cây đầm đìa máu, hình dạng giống cây nhưng ràng là con quái vật sống, những cành cây di chuyển và tiếp tục mọc dài ra, đúng là cây quái vật mọc trong hư . 5 Trong cuốn “ dương bí kíp” của Nhị lão đạo có đoạn ghi chép, đại khái là: “Hỗn nguyên là kết hợp của sáu yếu tố trước, sau, trái, phải, , dưới. có gì là bao gồm trong đó, nó có mặt khắp mọi nơi, dương sinh tử đều có trong Hỗn nguyên, nhưng trong đạo giáo chỉ có “nguyên”, mà có rất nhiều “nguyên” hợp thành, giữa các nguyên cách nhau bởi “giới”, giới là chỉ ‘hư vô’, có trước, sau, trái, phải, , dưới. Có loại cây hủy trời diệt đất mọc tại nơi sâu thẳm của hư vô, nó có thể nuốt chửng Hỗn nguyên, cho tới khi hai khí dương đều hết sạch chính là thời khắc mở ra thế giới mới.” Trước đó tôi chỉ cho rằng những lời viết này chỉ cố tình làm ra vẻ huyền bí, giờ đây nghĩ lại, quái vật dưới hố này chắc là loại cây lạ của Đất quỷ, mấy nghìn năm trước có con ma núi bị chết trong hố đất này, thời đó phần đa ma núi sống trong hang động nên lông chúng mới có màu trắng đục, con ma núi này trước khi chết có thai, trong khi đó, chỗ cái cây rạch vỡ hư vô thoát ra lại vô tình đúng trong cái thai chết, ma núi cùng bào thai trở thành thể thống nhất với chiếc cây đó. Còn thi thể của ma núi nhiều năm phân hủy, sau đó người dân Đất quỷ do đâu tìm thấy xác chết này, họ phát ra trong điều kiện nhất định mọi vật tiến gần tới xác chết đó đều bị biến mất, vì vậy thờ nó như thần linh. Khi người Đất quỷ trốn chạy lên vùng sa mạc, tổ tiên Na giáo thông qua những chiếc mặt nạ đồng biết được nơi đây có hố đất, trải qua hàng trăm năm họ hình thành quy định nơi đây là nơi họ tiến hành nghi lễ đuổi ma. Cái gọi là cánh cửa thông với Đất quỷ chính là thân cây quái vật kia. Na giáo thông qua nghi lễ của mình để đánh thức cây dậy, tống khứ những ôn thần quỷ dữ bất kham vào thế giới bao giờ quay lại được. Nhưng đánh thức cây là việc hết sức nguy hiểm, nếu có sơ suất cả thôn gặp đại họa, có thể cả hỗn nguyên cũng bị nuốt chửng. Tôi nguồn gốc nghi lễ của Na giáo, chắc là có huyết mạch rất cổ xưa truyền lại, chính là dòng dõi Na thần, chỉ cần vị thần chết khiến cho cây đó ngủ yên. Sau đó là chuyện Phùng Dị Nhân tới Hoàng Hà bắt ma hoàng rồi ăn nhầm phải trứng rồng đất, thân xác bị rồng đất chiếm giữ, từ đó chết, nhưng hình như vẫn bị thương, phải cần ngủ thời gian mới hồi phục được nguyên khí. Người dân đánh lừa được rồng đất, thề rằng xây miếu phong thần, dùng quan ngọc tượng vàng để an táng tại địa cung, hàng năm dùng đồng nam đồng nữ cúng tế, ngoài ra còn lập hai kế sách, là để gối dương vào trong quan tài, chiếc gối đó nếu kê lâu hồn phách tiêu tán. Rồng đất cũng muốn tìm nơi yên tĩnh để khôi phục thân xác, ngờ trúng kế, vào trong địa cung, gối đầu lên chiếc gối lập tức rơi vào trong giấc mơ, nếu rời khỏi chiếc gối đó có cách nào tỉnh dậy được, chờ tới nhiều năm sau, khi hồn phách của nó bị tiêu tan dân làng thực kế sách thứ hai, đó là đem cả quan tài và thi thể của rồng đất vào trong hố tế. Đại Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, Na bà tạo phản giết Na thần, nghi lễ của Na giáo tiến hành nửa chừng bị dừng lại khiến cánh cửa trong hố tế mở ra rồi có cách nào đóng lại được, toàn bộ người dân trong làng đều đeo mặt nạ vỏ cây để tế thần, khiến ngôi làng rơi vào vòng xoáy hỗn độn, nên cái cây quái dị đó mới mọc ra. Tứ đại gia tộc sau khi thoát ra ngoài ngừng đưa Na thần vào trong thôn, nhưng Na bà và những người dân nổi loạn sau đó bị xử tử biến thành khối thịt, ăn thịt tất cả những Na thần được đưa vào thôn. Cũng có thể trong thôn này người chết quá nhiều, oán khí quá nặng, giống như bị mắc lời nguyền, cho tới tận ngày nay, nghi lễ tế máu vẫn chưa thể hoàn thành. Ba người chúng tôi đúng là xui tận mạng mới đào mộ ở chốn này, hẹn mà gặp Điền Mộ Thanh, bọn Hoàng phật gia. Cũng có thể, đó là do trời định, bất luận thế nào cũng xảy ra chuyện như vậy, đừng là bọn tôi biết trước cho dù biết trước rồi cũng tránh được. Kết quả là những thả rồng đất trong địa cung ra, Điếu bát cũng mất mạng, chúng tôi đụng phải cái cây kỳ quái của Đất quỷ trong hố tế lễ, lúc này gian bốn phía đều bị nuốt chửng, chúng tôi gây ra mối họa lớn. Mọi chuyện như thước phim quay chậm cứ ra trong đầu tôi, nhưng cũng chỉ là trong chớp mắt vì trước đó tôi nghĩ tới nghĩ lui quá nhiều lần rồi, nhưng có việc tôi vẫn chưa , sau khi ngôi làng bị rơi vào vòng xoáy hỗn độn, cây quái dị hơn nghìn năm hề cựa quậy, chúng tôi cũng động chạm tới xác chết cổ kia, vậy tại sao chiếc cây tự nhiên lại mọc ra và bắt đầu nuốt chửng tất cả? 6 lẽ chúng tôi vô tình làm gì đó kinh động đến nó, phải chăng là hơi thở của người sống, cũng có thể là do thanh của thanh đá và quả bom khi rơi xuống đây. Còn lý do nữa mà tôi dám nghĩ tới, đó là vì Na thần xuất ở đây mới khiến cây hồi tỉnh, nếu nó ăn thịt Điền Mộ Thanh chắc là nó lại ngủ yên. Tôi quay đầu lại nhìn Điền Mộ Thanh, đôi mắt sau chiếc mặt nạ lộ vẻ sợ hãi và tuyệt vọng cùng cực, tôi nghĩ mình nên có ý nghĩ này trong đầu, tôi giao lại chiếc xẻng cho Mặt dày, cầm lấy tay Điền Mộ Thanh lôi ra phía bên ngoài. Điền Mộ Thanh vẫn còn do dự, tôi nhìn thấy chiếc cây mọc ra từ xác chết cổ đó phút chốc cao mấy trượng, khoảng cách với chúng tôi cũng gần hơn, vội kêu lên: “ cứ nghe tôi, tôi có cách đối phó với nó, mau theo tôi!” phải tôi bừa, nếu có máu của Na thần để hoàn thành buổi tế lễ ngôi làng này và cả chiếc cây quái gỡ kia biến mất, những Na thần khác trước đó tới đây đều bị Na bà ăn thịt, oán khí của nó biến thành sương khói, hẳn cũng có rất nhiều máu của Na thần, nếu chiếc cây kia nuốt chửng số người dân tới có thể nó biến mất, cho dù biện pháp này hiệu quả cùng lắm là cả chúng tôi cùng biến mất với ngôi làng. Đó chỉ là trường hợp xấu nhất, giờ phút tuyệt vọng này, tránh bên nào cũng chỉ chết mà thôi, ít nhất cũng có lối thoát, tội gì thử. Tôi chẳng có thời gian mà nhiều với Điền Mộ Thanh, chỉ hãy tin tưởng vào tôi, rồi kéo chạy. Ba người nhảy qua quả bom, dùng đuốc đuổi bọn xác chết vây tới, Mặt dày tay cầm xẻng, tay cầm cuốc chim xông xáo quạt ngang quạt dọc vào đám xác dân chịu lùi lại, nhưng trong đám sương máu đó chi chít những khuôn mặt khô quắt, biết có bao nhiêu tên vượt qua bên kia quả bom nhưng dám tiến lên phía trước, Mặt dày đeo chiếc túi da rắn sau lưng, trong lúc hỗn loạn bị giật mất, ta vội vàng tìm, mấy cánh tay khô như củi nhân cơ hội đó túm lấy khiến ta thể động đậy được. Tôi và Điền Mộ Thanh thấy Mặt dày gặp nguy liền vội tới giúp, Mặt dày cũng dùng cuốc và xẻng để chống trả lại, may mà thoát ra được. ta vẫn còn muốn tìm chiếc túi da rắn, nhưng bị bọn xác chết ùa tới giẫm đạp lên người, trong hố đất tối om om, sương mù lại giăng mắc dày đặc này làm sao mà tìm được chứ. Mặt dày vẫn lúi húi tìm, hơi khinh suất chút bị xác chết ôm chặt cứng người ngã lăn ra đất, bọn khác liền ồ ạt dâng lên bu vào kín như ong, trong đám sương mù còn có hơn chục cánh tay khô chìa tới. Tôi thất kinh trong lòng, chắc mẩm lần này cả ba chết chắc ở đây, cũng chẳng cần phải nghĩ ngợi chuyện tiếp theo làm gì cho mệt. Ngay lúc đó, bỗng trận gió nổi lên, cuốn theo mùi xác chết nồng nặc, bó đuốc trong tay tôi và Điền Mộ Thanh suýt chút nữa tắt ngấm, cả bọn chúng tôi giật mình thất kinh, chỉ thấy từng đám khói đỏ bay ra từ trong miệng đám người dân kia, chúng kêu lên từng hồi rồi đều đổ ập xuống đất động đậy gì nữa. Lớp sương mù bằng máu trước mắt chúng tôi trở nên dày đặc, nhìn phía trước xảy ra chuyện gì, chúng tôi lôi vội Mặt dày ra từ trong đống xác chết, vừa ngẩng đầu lên thấy đám mây máu tan, khuôn mặt trắng bệch như giấy xuất ngay phía trước mặt. Kẻ mới đến tóc tai rũ rượu nhìn mặt, chiếc đầu cổ bỗng xoay lại, phía sau là khuôn mặt nữa, miệng rộng ngoác tới mang tai, chiếc áo ngọc dính đầy máu, bốn chân bò mặt đất kéo theo chùm phèo ruột, kẻ đó chính là rồng đất thoát ra từ trong địa cung, nó bò từ cao xuống, cái cổ cứ xoay vòng quanh để cái miệng rộng há ra hút hết đám sương máu, vô số những oan hồn phát ra tiếng kêu khóc ai oán vọng vọng lại trong hố tế. 7 Rồng đất gối đầu lên chiếc gối dương hơn nghìn năm qua, nguyên thần bị tiêu tán, nhưng có thể hình phách vẫn còn lưu lại chút ít nên vẫn còn ký ức về mối hận thù đối với người dân trong làng, chỉ cần thấy ai đeo mặt nạ vỏ cây liền lập tức nuốt chửng, nó bò tới mang theo từng trận gió . Tôi nhủ lòng được sợ nhưng toàn thân vẫn run lên từng hồi, tôi nghiến chặt hai hàm răng cho đỡ run, cầm lấy bó đuốc giơ về phía rồng đất. Rồng đất giống như những hồn nhập vào người dân, nó căn bản sợ lửa, nó vô cảm, cái miệng liên tục há ra và đớp liên hồi. Tôi nghĩ, chỉ cần để nó đớp được phát chắc là đứt nửa người, vội đẩy Điền Mộ Thanh sang bên, còn mình cũng nghiêng người để tránh. Mặt dày lồm cồm bò dậy, giơ cuốc chim lên bổ nhát vào đầu rồng đất thủng lỗ, nhưng nó lùi lại mà giơ miệng đớp về phía Mặt dày. ta hoảng hốt hét lên, chân tay bủn rủn ngồi phịch xuống đất, cũng may vì thế mà tránh được cú đớp của rồng đất. Nhưng rồng đất vồ người quá mạnh nên lao sang bên kia quả bom, lập tức xoay người lại chực đớp tiếp. Trong đầu tôi xẹt ngang ý nghĩ, chỉ dựa vào sức ba chúng tôi đấu lại được với rồng đất, giờ nó hút hết đám sương máu, chẳng phải trở thành vật tế rồi sao? Lúc này, rồng đất ở trong vị trí nằm giữa quả bom và cái cây quái dị kia, tôi biết cơ hội đến gần, cũng chẳng cần phải nghĩ có làm được hay , cứ thế cùng Điền Mộ Thanh ra sức đẩy quả bom về phía trong nơi rồng đất đứng. Mặt dày hiểu ý tôi cũng vội chồm đẩy giúp tay, ta còn chẳng kịp quay người lại, dựa lưng vào quả bom, chân chống xuống đất lấy đà để đẩy. Quả bom rơi xuống đây từ mấy chục năm trước, nặng mấy trăm cân, trước đó chúng tôi cố đẩy thế nào nó cũng hề nhúc nhích, vì lúc đó chúng tôi đẩy lên phần đất cao hơn, nhưng giờ đẩy ngược xuống dưới, ba người cùng hô to lấy nhịp, quả bom lăng mạnh xuống dưới. Khoảng cách cũng chỉ vài mét, rồng đất vừa quay đầu lại quả bom cũng vừa lăn tới, nếu nó đứng, có thể nó tránh được quả bom, nhưng vì tứ chi bò dưới đất, cơ thể thấp nhiều, quả bom lăn qua người rồng đất, với sức nặng bảy tám trăm cân khác nào quả cầu sắt, rồng đất bị đè nát như tương, quả bom lăn tới gần cái cây thanh bỗng im bặt và biến mất vô hình vô dạng. Chúng tôi thở hồng hộc đưa mắt nhìn lên, rồng đất bị đè nát bét, khắp mặt đất lênh láng máu me và nội tạng, máu của nó ngừng chảy về phía cái cây, kể cũng lạ, những thứ khác cứ tiến gần đến chiếc cây là biến mất, nhưng máu của rồng đất cứ chảy về phía đó như có lực hút vô hình. Rồng đất hút máu của Na bà, Na bà lại mang trong mình máu thịt của Na thần, lúc này cái cây ngừng hút hết máu và thịt lăn lóc mặt đất. Na bà vì muốn cứu rồng đất ra khỏi địa cung mà tạo phản khiến mình rơi vào cảnh chết thảm, sau khi chết còn biến thành khối thịt khổng lồ ăn thịt hết toàn bộ Na thần trong thôn, ngờ rồng đất sau khi thoát ra được lập tức hút hết đám oan hồn sương máu của Na bà, cuối cùng trở thành vật tế, thế mới thấy được việc xảy ra đời khó mà lường trước. Mặc dù chúng tôi níu kéo được tình thế nhưng dám chắc là việc này kết thúc. Bỗng chốc tôi thấy thành hố rung chuyển, xung quanh cái cây bỗng xuất lỗ hổng, rồng đất giờ bẹp nát như tương nhưng vẫn cố vùng vẫy thoát ra, có điều lực hút vô hình kia có sức mạnh kinh khủng, rồng đất trong chớp mắt như trở về với hư vô, mặt đất còn chút dấu tích nào của máu và thịt. 8 Hố đất rung chuyển rất mạnh, mặt đất trong hố bị hút vào hố đen xung quanh cái cây, thi thể của Điếu bát cũng thấy đâu. Tôi biết chắc khi nghi lễ tế máu hoàn tất toàn bộ ngôi làng rơi vào hư vô, giờ lời nguyền nghìn năm được hóa giải, lúc này mau chóng thoát ra chẳng còn cơ hội nào nữa. Mặt dày còn chưa cam tâm, vẫn bới tìm chiếc túi da rắn giữa đám xác chết chồng chất, trong đó có chiếc gương đồng, đai ngọc, vương miện vàng, đều là báu vật vô giá, làm sao mà để mất được. Tôi vội hét lên: “Đừng lấy nữa, mạng sống mới là quan trọng!” Mặt dày cãi lại: “Mạng sống quan trọng, báu vật cũng quan trọng, thể để Điếu bát chết vô ích như vậy được!” Tôi : “Đừng quên ông còn có em chờ ở nhà, ông chết rồi em ông phải sống thế nào?” Mặt dày thở hắt ra, tuy ngàn lần muốn nhưng cũng đành thôi tìm kiếm nữa. Ba người chúng tôi trèo lên chỗ thanh đá gác chéo xuống dưới hố, lên phía đại điện hố tế, chạy ra ngoài thần đạo, rồi tháo chạy về phía thôn làng, tiếng nhà cửa sập đổ phát ra phía sau lưng, bọn tôi vẫn tiếp tục chạy mà dám dừng lại, vấp ngã cũng lập tức bò dậy chạy tiếp, khi chạy lên được mô đất cao giữa thôn, nhìn lên phía cao toàn sương mù thấy đỉnh. Cả ba chúng tôi hiểu rằng nếu nơi đây phải là đường sống chính là đường chết, chúng tôi hạ quyết tâm trèo lên đỉnh, nhưng lên được tới đỉnh có cảm giác như mô đất này dường như cũng lún xuống. lâu sau, nước ngập gần lút mô đất, có thanh xà nhà bằng gỗ trôi qua, chúng tôi như chết đuối vớ được cọc, vội vàng trèo lên thanh gỗ, ba người mệt tới nỗi gần như thổ ra huyết, nằm bẹp thanh gỗ mặc kệ nó muốn trôi đâu trôi, tứ bề sương mù trắng bạc, hình như chúng tôi ra tới hồ Tiên Đôn. Cả ba đều nghĩ là mình có thể sống sót mà thoát ra ngoài, nghĩ lại việc vừa qua đúng là ngoài sức tưởng tượng, giống như cơn ác mộng, kinh sợ đến tột độ. Toàn bộ người dân trong thôn Thiên Cổ Dị Đế, Na bà, rồng đất, xác chết cổ trong hố, quan ngọc tượng vàng, lộc thủ bộ dao quan, Điếu bát, Hoàng phật gia, tên eo rắn và nhóm đào trộm mộ toàn bộ đều biến mất như chưa bao giờ tồn tại. Tôi nghĩ từ giờ trở chắc tôi còn mơ thấy hồn trong bích họa mộ cổ nhà Liêu nữa, từ giờ trở cũng có Điếu bát tới làm phiền tôi nữa, càng nghĩ càng buồn, bỗng chỉ muốn khóc to, giờ này cũng chẳng sợ Mặt dày và Điền Mộ Thanh cười tôi nữa, nhưng vừa định khóc mới nhớ ra tôi vẫn đeo mặt nạ, lúc trước chỉ mải chạy thoát thân, hơi đâu mà tháo mặt nạ, hai người kia cũng chẳng khác gì tôi. Mặt dày sờ vào chiếc mặt nạ còn đeo mặt, : “Cái món này đeo lâu rồi cũng nỡ tháo ra, dù gì cũng mấy nghìn năm tuổi, mang về có khi còn đổi được ít tiền, nếu hai người lấy đừng vứt nhé, đưa hết cho tôi.” Tôi : “Mặt nạ vỏ cây này đều lấy từ xác chết xuống, trong tình thế bắt buộc phải dùng thôi. Tôi cả đời này còn muốn nhìn thấy nó nữa, ông nếu sợ xui cứ việc tự nhiên.” Mặt dày : “Cậu tuổi gấu chó à, sao mà mau quên thế? Nếu có chiếc mặt nạ này bọn mình còn sống được đến giờ ? Tôi phải mang về, cho dù bán được để dưới gầm giường cũng làm vật trừ tà.” Tôi vừa vừa cởi chiếc mặt nạ ra, phía sau mặt nạ có nút cài và dây thừng buộc chặt lại mới bị rơi, tôi sờ phía sau đầu, do buộc chặt quá nên giờ khó mở, liền nhờ Điền Mộ Thanh cởi giúp, bản thân Điền Mộ Thanh cũng loay hoay chưa cởi được ra. Tôi sờ vào chiếc mặt nạ của mình thấy giữa hồ xuất hố xoáy, chúng tôi còn chưa kịp làm gì bị cuốn vào hố xoáy đó, bỗng chốc bị hút vào trong sâu, tôi kinh sợ hãi hùng, thân thể lạnh toát như rơi vào trong hố băng, hóa ra chúng tôi vẫn chưa thoát ra ngoài khu vực hố xoáy của thôn làng, càng đáng sợ hơn là chúng tôi vẫn chưa tháo được mặt nạ, giờ này kịp để tháo ra nữa rồi. Trong thời khắc cuối cùng, tôi bỗng nhớ tới ba xác chết khô dưới chân núi Thảo Hài Lĩnh. Lúc đó, chúng tôi cứ nghĩ rằng đó là xác chết của người dân triều đại nhà Đường bị rơi xuống hồ, nhưng bây giờ, cuối cùng tôi cũng biết được ba xác chết đeo mặt nạ vỏ cây đó là ai. Lời kết: Na Có người hỏi tôi: “Tại sao có nhiều người thích xem chuyện về đào trộm mộ như vậy?” Nghe mấy vị tiên sinh dung mạo đạo mạo : “Truyện đào mộ trộm bảo đáp ứng được nhu cầu tâm lý làm giàu qua đêm của đại đa số các người đọc.” Nhưng chỉ nhăm nhăm vào việc phất lên sau đêm tại sao xem những bộ phim hành động cướp ngân hàng của Mỹ? Thực ra, thuyết phong thủy và văn hóa lăng tẩm tồn tại hàng nghìn năm ở Trung Quốc. Từ cổ tới kim, việc hậu táng trở thành phong tục, tượng đạo mộ cũng theo đó xuất . Đào trộm mộ cổ cũng hoàn toàn vì phát tài, ví dụ khi nhà Nguyên diệt Tống cho quật mộ hoàng đế Nam Tống với mục đích cắt đứt long mạch nhà Tống, chuyện này xuất phát từ mục đích chính trị; Ngũ Tử Tư quật mộ Sở Vương đánh ba trăm roi vào thi thể, là vì báo thù; thời Ngũ đại thập quốc, có vị Hoàng đế đam mê tửu sắc, nghe triều đại trước có phi tử sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đáng tiếc phi tử đó qua đời, có duyên gặp mặt, liền nghĩ trăm phương nghìn kế lấy lý do thay quan đổi quách cho người đẹp, nhân cơ hội đó để được ngắm nhìn mỹ nhân, đây thuộc mục đích ham sắc mà đào mộ; lại có những người đào trộm mộ khắp nơi là để tìm lại những công thức bí mật bị thất truyền. chung, động cơ khiến người ta đào trộm mộ và thủ đoạn trộm mộ muôn hình vạn trạng, vì trong đó tiềm văn hóa cổ đại, đồng thời, từ đó lại sinh ra vô vàn những giai thoại khác nhau truyền vào dân gian. Cứ nhắc tới chuyện đào trộm mộ thể nhắc tới những nội dung này, mỗi lối vào ngôi mộ cổ đều giống như cánh cửa lớn thông với thế giới cổ đại, chúng ta như sờ thấy lịch sử, giải mã văn hóa truyền thống tìm lại những quá khứ bị biến mất, tôi thiết nghĩ những điều này còn có giá trị hơn việc trộm bảo vật làm giàu. Trong cuốn “Chuyện kể về chợ phủ” có nhắc tới khái niệm “Na”, nó đồng với từ扌那 (chuyển dời), văn hóa Na là nét văn hóa hết sức lâu đời, chữ Na được tạo thành bởi hai phần, phần bên trái là bộ Nhân đứng (亻), phần bên phải là chữ 孓隹(khó khăn). Người xưa thường phải đối diện với rất nhiều khó khăn, với những căn bệnh thể nào cứu chữa và với cái chết, vì vậy mới có xuất của Na để xua đuổi hết mọi tà ma gây ra những khó khăn này, cách đơn giản, đó chính là phong tục hàng ma bắt . Từ thời Hán, có những ghi chép ràng về thể chế Na, quá trình bắt Na trừ tà trong cung điện nhà Hán đều được ghi chép lại, mỗi bước đều có quy định hết sức nghiêm ngặt. Thực ra, phong tục tế Na cổ xưa có từ thời xã hội nguyên thủy, hình thành từ thời Tây Chu, tiên Tân tới cuối nhà Hán. Na thuần túy chỉ là tín ngưỡng tôn giáo, nó thần bí và hà khắc. Trong quá trình phát triển và diễn biến hơn hai nghìn năm sau, dung hòa cùng với Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, lưu truyền tới tận ngày nay. Ở vùng Tây Nam vẫn duy trì được phong tục tế Na tương đối nguyên vẹn, “Phù chú, thơ ca, nghi thức, đạo cụ, miếu thần” đều được truyền từ đời này qua đời khác, và nổi tiếng nhất là hoạt kịch và điệu nhảy Ngu thần, Ngu nhân. Mỗi lần tổ chức tế Na, trong thôn náo nhiệt khác thường, căn cứ vào phong tục khác nhau của từng nơi, lễ tế Na và truyền thuyết về Na thần cũng có phần khác nhau, ví dụ như khác nhau của “Khai khẩu Na, Bế khẩu Na, Na văn, Na võ” v.v... Cuốn tiểu thuyết này phải là để khảo chứng văn hóa Na, mà chỉ để giới thiệu vài nét văn hoá và truyền thuyết của dân gian thú vị mà thôi. Xin giới thiệu chút về “Nhị thập tứ thần tướng” (hai mươi tư vị thần tướng) vậy. Nghe thời Đường Thái Tông Lý Thế Dân, cũng có nơi là thời vị vua nào đó triều Tống hoặc Hán. chung, là vị hoàng đế này nghe Trương thiên sư núi Long Hổ có bản lĩnh rất cao cường, muốn thử chút tài nghệ của ông ta, lệnh cho hai mươi tư người nấp sẵn trong cung đánh chiêng gõ mõ, sau đó báo với Trương thiên sư trong cung có ma, hạ lệnh cho ông ta vào cung làm phép bắt ma trừ tà. Trương thiên sư dùng kiếm chém đầu hai mươi tư người này, từ đó hồn bất tán, lần này trong cung đúng là có ma quỷ phá phách , kinh động đến thánh giá, hoàng đế đành phải phong hai mươi tư người này là Na tướng. Người đứng đầu được phong là “Âu dương kim giáp đại tướng quân”, những vở kịch liên quan tới điển tích này trong Na kịch thường là “Trừ ma diệt giữ bình an, ngũ cốc hưng đăng, lục súc thịnh”, màn kịch cuối cùng thường là xuất của Na thần, Na thần cầm kiếm chỉ về phía trước, vẽ vào trong trung chữ “Thu”, biểu thị thu phục toàn bộ ma quỷ quái, rồi vở kịch được khép lại. chỉ có vị Na thần, ví dụ như Na giáo cổ hơn ba nghìn năm trước, họ thờ phương hướng ăn thịt ma quỷ, thần vật ăn thịt ma quỷ cũng là nội dung quan trọng trong văn hóa Na, nó có nhiều trong những điệu nhảy Sơn Tiêu. Sơn Tiêu phải giống vượn Châu Phi ngày nay chúng ta hay nhắc tới, mà là loài quái vật chân, nên khi di chuyển nó chỉ nhảy lò cò mặt đất. Vì văn hóa Na có từ lâu đời, nhiều loại tôn giáo đời sau đều có bóng dáng của văn hóa Na. Mặt nạ vỏ cây long não là đặc trưng của Na giáo. Tương truyền, khoảng ba bốn nghìn năm trước, có người đào được chiếc mặt nạ đồng, sau đó vì lý do gì mà tấm mặt nạ bằng đồng đó bị phá hủy, sau này ai dám sử dụng nữa, họ lấy vỏ cây long não làm mặt nạ thay thế. Phần truyền thuyết này cũng quá lâu, ai là người đào được chiếc mặt nạ đồng? Sau đó vì sao lại dám sử dụng nữa? Đến ngày nay mọi thứ bị thất truyền, để lại rất nhiều gian tưởng tượng cho đời sau. Trong cuốn tiểu thuyết này rằng chiếc mặt nạ đồng tới từ Đất quỷ (Quỷ phương), thời Ân Thương gọi những nước xung quanh mình là “Phương”, Đất quỷ là trong những nước đó, còn chuyện mặt nạ của người Na cổ xưa có phải là vật của đất quỷ hay , nay vẫn là bí mật.