Chương 13: Chuyện ma trong núi 1 Bức bích họa thiên cẩu ăn mặt trăng vẽ hình xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn, người chết thủng ruột trong chiếc quan tài bằng ngọc. Với ngôi mộ núi đó, tôi cũng chỉ biết có vậy. Nếu vào được trong hầm mộ, tôi tin còn nhiều phát kinh người nữa. Chúng tôi qua loạt động trong Thảo Hài Lĩnh cách thuận lợi, khắp nơi đều có hang động, mỗi động vẻ, nhưng trong con mắt giới đổ đấu chuyên nghiệp, cho dù các hang động có hình thù cổ quái tới đâu cũng nằm ngoài mười tám loại hình hang động được tổng kết, phong thủy gọi là “sơn trung thập bát khổng” mỗi loại có cách riêng, tôi từng nghe lão Nghĩa mù giới thiệu, trong cuốn “ Dương bảo kíp” của nhị lão đạo cũng có tới. Muốn ra khỏi động Hoàng Sào phải là khó. Quá trưa, chúng tôi tới phía nam Thảo Hài Lĩnh, ba phía đều là những ngọn núi cao vút, cho dù có chắp thêm cánh cũng bay qua được, diện tích hồ rộng 370 hecta nằm giữa các dãy núi, ven hồ mọc đầy lau sậy, phía xa là màu sương mù, trắng đục. Năm xưa, mực nước hồ Tiên Đôn cao hơn bây giờ rất nhiều, nước trong hồ thông thẳng vào động Ngư Khốc, cá trong động chưa hẳn là cá thần, những truyền thuyết như vậy vốn có căn cứ. Người xưa vốn nhàn hạ, sau bữa tối rảnh rang có việc gì làm, ngoài chuyện sinh con ra chuyên nghĩ ngợi linh tinh rồi kể chuyện, bốn tác phẩm văn học lớn của Trung Quốc cũng được ra đời như vậy mà thôi. Nhưng núi Hùng Nhĩ là bảo huyệt trong dãy núi long mạch của Trung Nguyên, những chỗ nước rút giờ thành đầm lầy, là nơi cư trú của vịt trời và chim nhạn. Điếu bát che tay ngang trán nhìn ra xa: “Mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn chắc chắn ở bên kia, tôi nhìn thấy bảo khí toát lên từ địa cung.” Tôi : “ đừng vội nhắc đến điều đó, chúng ta bỏ qua tình tiết hết sức quan trọng, làm thế nào để ra hồ đây?” Điếu bát và Mặt dày nghe tôi hỏi ngẩn người, chẳng ai nghĩ tới việc quanh Tiên Đôn tứ bề đều là nước, có ghe thuyền thể qua hồ, bơi thẳng ra cũng được phần vì hồ rộng, phần còn phải mang vác xẻng, dây thừng, lương khô, đèn pin, túi ngủ v.v... trọng lượng chiếc ba lô phải là , xuống nước chắc chắn chìm xuống đáy hồ luôn. Hai nữa, nghe dưới đáy hồ có cương thi, đó là những xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, chúng tôi to gan đến mấy cũng dám lội thẳng xuống nước. Ba người bàn bạc hồi, quyết định xuống hồ từ phía núi Thương Mã, tới đầm Canh gà trước. Nghe , người dân vẫn hay vào trong đầm nhặt trứng vịt trời, có thể ở đó có thuyền bè để lại. Chúng tôi mang nhiều lương khô, dọc đường lại bị chậm ngày, như vậy thời gian đào mộ cũng bị giảm bớt ngày. Sau khi lên kế hoạch, chúng tôi tìm đường xuống núi. Nếu là mực nước năm xưa của hồ Tiên Đôn quả có đường xuống , nhưng nay nước rút, phần tiếp giáp với núi Thông Mã hình thành khu đầm lầy rộng khoảng hơn trăm mét mọc đầy lau sậy. Chúng tôi xuyên qua khu đầm lầy tiến về phía Nam, trước khi mặt trời lặn tới được đầm Canh gà. Vùng này lau sậy mọc dày đặc, mặt nước lung linh trong ánh chiều, tiếng chim nhạn kêu giữa bầu , từng làn gió thu nhè thổi, những bông lau bay trong gió tựa hồ tuyết rơi, cảnh vật đẹp như tranh vẽ. Nhưng trước khi tới đây chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện về cương thi hồ Tiên Đôn nên chỉ thấy phía dưới mặt hồ tĩnh lặng kia chứa nhiều bí . Đầm Canh gà chỉ có lối duy nhất chưa thể gọi là đường, hai bên toàn là đầm trạch, vận may của chúng tôi đến nỗi tồi, theo con đường đó, chúng tôi tìm thấy ba chiếc thuyền độc mộc, trong đó hai chiếc hỏng nặng, chiếc còn lại tương đối tốt. Thuyền độc mộc là loại thuyền được đẽo từ thân cây nguyên vẹn, có thể chở được vài ba người, dùng mái chèo để di chuyển nước. Điếu bát nhìn hoàng hôn dần tàn, liền : “Đêm nay đành nghỉ lại trong đầm lau sậy này, sáng mai đào mộ dưới hồ sau vậy.” Chúng tôi cũng nổi nữa, liền tìm chỗ khô ráo ngồi lại giở lương khô ra ăn cho đỡ đói. Mặt dày luôn miệng chê lương khô cứng, ăn gãy cả răng, ta : “Món ăn hoang dã ngon nhất vẫn là sóc đất. Hai năm trước, khi tôi còn đóng quân ở Tây Bắc, thường chạy xe đường dài, cũng thường xuyên có cái ăn. Nếu bắt được con sóc đất coi như được đổi bữa. Bọn sóc đất này con nào con nấy béo tròn, nướng lửa mỡ cứ chảy ra xèo xèo.” Điếu bát dường như cũng được ăn thịt sóc đất rồi: “Ừ... thịt nó giống thịt cầy vòi mốc, nhưng ăn thịt sóc đất phải chú ý thời gian, nếu ăn sau tiết Kinh Trập [1] nách nó bị hôi, thể ăn được.” [1] Tiết kinh trập: là khoảng thời gian bắt đầu từ 5/3 đến 21/3 trước khi tiết xuân phân bắt đầu. Tôi : “Sao thứ gì mấy người cũng ăn vậy? Bọn sóc đất chân tay giống như người, nướng chín rồi trông chẳng khác gì thịt người nướng. Hơn nữa sóc đất rất cảnh giác, hang của chúng thường có nhiều cửa, dễ bắt đâu.” Mặt dày : “Nghe là biết chú phải dân sành ăn rồi. Sóc đất chuyên ăn rễ cây, những vùng bị chúng cắn hết rễ cây có bóng dáng cây cỏ nào, mình ăn thịt chúng chính là trừ hại cho nhà nông. Hơn nữa hang sóc đất thường có hai cửa hang, chỉ cần hun khói đầu cửa hang, cầm sẵn gậy đứng chờ ở đầu cửa hang bên kia chờ bắt là xong, nếu có chó càng đơn giản hơn, cần mình phải ra tay. Lần sau có cơ hội Tây Bắc tôi mời hai người ăn thịt sóc đất, hôm nay đành gặm tạm lương khô vậy. À, mà sao tụi mình bắt vài con vịt trời nếm thử nhỉ?” Tôi và Điếu bát nghe ta vậy thấy đây cũng là ý hay, đúng là nên thám thính xem. Cả bọn cất lại mấy miếng bánh cứng còng, rón rén trong đám lau sậy tìm khắp nơi, nhưng đến cọng lông vịt cũng có. Bỗng thấy đám lau sậy phía trước sột soạt lay động, dường như có vật gì đó động đậy, tôi rón rén tiến lên phía trước, nhàng rẽ đám sậy trước mặt, bỗng giật thót mình, suýt chút nữa bật kêu lên thành tiếng. 2 Tôi vội lấy tay bịt miệng, cúi thấp người, dám thở mạnh, vội đưa tay ra hiệu cho Điếu bát và Mặt dày cũng nằm xuống. Hóa ra, sau đám lau sậy là toán người khoảng hơn chục tên, đứa dẫn đầu thấp, béo tròn, khoảng ngoại tứ tuần, đầu to hơn hẳn người bình thường, miệng rộng, mắt cười híp mí, lúc nào cũng thường trực nụ cười giả tạo, trông bề ngoài, khác gì bức tượng phật Di Lặc trong chùa. Tôi và Điếu bát đều biết tên này, là Hoàng Tam, mọi người đều gọi là Hoàng phật gia, tay chị ở chợ phủ. Thời trẻ bán cháo quẩy, mấy năm gần đây phát tài nhờ đào trộm mộ. Nghe phong thanh, Hoàng phật gia chẳng có tài cán gì, nhưng thủ đoạn rất nham hiểm, lại thêm bọn đầu gấu bám theo làm ăn, chỉ cần làm giàu cần biết đến lý lẽ. Trước đây, cũng hay tới tìm lão Nghĩa mù nhờ chỉ giúp nơi nào có mộ cổ, nhưng lão Nghĩa mù đều từ chối gặp, nhiều lần như vậy, về sau cũng ít tới hơn. Tôi gần như chẳng bao giờ qua lại với . Tôi ngờ lại gặp phải Hoàng phật gia ở đây. Hai người kia theo sát phía sau tôi, biết tình hình cũng vô cùng kinh ngạc, ai dám lên tiếng. Thuộc hạ của Hoàng phật gia đứa nào trong tay cũng có súng trường hoặc súng lục, số thằng còn đeo những ba lô chứa đầy thuốc nổ. Người dân địa phương ở đây có truyền thống săn nhạn và vịt trời, chỉ cần có tiền muốn mua bao nhiêu súng săn mà chẳng được, số thuốc nổ kia chắc cũng mua từ những mỏ khai thác than lậu, bọn này to gan . Tôi nghĩ bụng: “Nghe bọn Hoàng phật gia là đội quân đào mộ được trang bị vũ trang, quả nhiên sai. Bọn này định dùng thuốc nổ để đào mộ núi Hùng Nhĩ chắc?” Bỗng nghe tên có eo gầy như eo rắn trong đám thuộc hạ lên tiếng: “Có bản đồ mộ cổ rồi còn cần người địa phương dẫn đường nữa sao?” tên khác có vết sẹo mặt trả lời: “Bọn mình làm gì có bản đồ? hồ sương mù có thể nổi lên bất cứ lúc nào, nếu có người bản địa dẫn đường ổn.” Tên eo rắn cười hí hí : “Mày biết đấy thôi, có thằng ngu tên là Điếu bát rêu rao khắp nơi tìm người để lấy tấm bản đồ trong chiếc gối sứ trăm tuổi, nó vừa muốn lấy tấm bản đồ lại vừa muốn làm hỏng chiếc gối sứ, cứ tưởng chuyện ngon đều về hết tay . Chuyện này Hoàng phật gia cũng biết rồi, muốn lừa thằng ngu đó khác gì trò đùa, phật gia dặn tao lúc lấy tấm bản đồ ra sao lại bản, thằng ngu Điếu bát kia có nằm mơ cũng nghĩ tới chiêu này.” Tên mặt sẹo giơ ngón tay trỏ lên, ngay lập tức ra giọng nịnh bợ Hoàng phật gia: “Cao tay ! Em phục đại ca sát đất.” Hoàng phật gia hừ tiếng, : “Thằng ngu Điếu bát đó cũng tự hỏi xem mình là ai, thằng ngu như nó mà đòi đào mộ cổ núi Hùng Nhĩ?” Tôi và Mặt dày nghe biết ngay tình, chỉ thấy Điếu bát sắc mặt lúc xanh lúc trắng, vừa xấu hổ vừa tức giận, chỉ muốn chui đầu xuống đất, trong lòng chửi tổ tông tám đời nhà Hoàng phật gia rồi nhưng dám lên tiếng. ta biết gặp phải bọn này có kết quả tốt. Trời tối hẳn, chúng tôi trốn trong đám lau sậy dám lên tiếng, chỉ nghe thấy Hoàng phật gia : “Trong tay chúng ta là tấm bản đồ từ cuối đời Minh, cũng biết bây giờ thay đổi như thế nào, giờ cứ tạm giữ hai người này dẫn đường.” Lúc này, chúng tôi mới nghe thấy giọng rất quen thuộc cất lên: “Các ông thả tôi ra , nhà tôi ở tận Lão Giới Lĩnh, tôi chưa tới hồ Tiên Đôn lần nào, xa nhất cũng chỉ mới tới đầm Canh gà này thôi. Hôm nay, này nhờ tôi đưa tới đây vẽ phong cảnh, các ông làm phúc thả tôi về , nhà tôi còn có người già trẻ ...” Tôi rướn người về phía có tiếng , hóa ra là Lư mặt rỗ, còn có cả gặp tàu, theo lời Lư mặt rỗ này thích vẽ tranh, nghe tôi và Lư mặt rỗ kể về hồ Tiên Đôn nên xuống tàu nhờ Lư mặt rỗ dẫn đường tới đây, ngờ gặp ngay bọn Hoàng phật gia. Hoàng phật gia cười nhạt: “Mày tên là Lư mặt rỗ? Cái tên đúng là rất hợp với bộ mặt của mày. Sao sớm là mày chưa lên núi lần nào?”. rồi, bất chợt cầm lấy xẻng quất luôn cái vào giữa mặt Lư mặt rỗ, Lư mặt rỗ kêu lên tiếng, rồi ngã lăn ra đất, máu mồm máu mũi chảy đầy mặt, cơ thể ngừng co giật, còn kêu lên được tiếng nào nữa. Hoàng phật gia bồi thêm vài cái vào đầu Lư mặt rỗ, giết người xong mặt hề biến sắc, với bọn tay chân: “ với chúng mày tìm người địa phương dẫn đường, chúng mày lại tìm thằng ngu thế này à? Mau đào hố chôn nó cho tao.” Bọn tay chân dám lại câu, cun cút tìm chỗ đất mềm đào huyệt. Tên eo rắn hỏi: “Phật gia, còn con bé kia, xử lý thế nào?” Hoàng phật gia nghĩ: “Người giang hồ đều mê tín, tài sắc thể có cả hai, thể để lỡ việc vì bọn đàn bà, đợi đào mộ cổ xong, lấy được đồ tùy táng, muốn chơi loại nào mà chẳng được.” Tên eo rắn mắt lim dim: “Con bé này đẹp như đóa hoa, chôn cũng tiếc, tôi chẳng nỡ xuống tay, nhưng nghe lời Phật gia cấm có sai, việc của chúng ta bị nó nhìn thấy hết rồi, giữ lại chỉ là mầm họa...” Vẫn được nghe Hoàng phật gia tâm địa độc ác, làm việc gì cũng để lại hậu họa, nhưng chẳng ai ngờ giết người là giết người, ra tay vừa nhanh vừa tàn nhẫn, mặt chút biến sắc. Nếu phải là chúng tôi nấp bên cạnh quan sát chỉ có trời mới biết trong đám lau sậy này xảy ra chuyện gì. Chúng tôi có lòng muốn cứu Lư mặt rỗ cũng chẳng kịp ra tay. Nghe bọn này còn bàn nhau chôn sống kia, tôi thấy máu nóng bốc rần rần lên mặt, đưa tay huých khẽ vào Mặt dày nháy mắt ra hiệu, ta hiểu ngay ý tôi. Chúng tôi mỗi đứa nắm vốc đất, bất thình lình ném về phía bọn kia, bọn chúng chút cảnh giác bị cát bụi bay vào mắt, những thằng còn lại chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi nhặt chiếc xẻng mặt đất phang nhát vào đầu Hoàng phật gia, máu chảy be bét, ôm đầu ôm mặt kêu thảm thiết. Mặt dày nhắm chuẩn vào tên eo rắn đạp phát chí mạng, tên eo rắn lập tức miệng phun ra máu, đổ rạp xuống đất đứng dậy được. Nhân lúc hỗn loạn, chúng tôi kéo đứng lên bỏ chạy, đồng thời ra hiệu cho Điếu bát mau chóng rút lui. Tôi vừa chạy vừa với Điếu bát: “Tôi báo thù cho rồi nhá. Nhát xẻng đó đánh chết được tên Hoàng phật gia coi như nó mạng lớn.” Điếu bát giờ mới hiểu ra tình, nhưng cổ họng cứng lại, chỉ được câu: “Quá đẹp!” 3 Lúc này nghe thấy sau lưng bọn Hoàng phật gia la ó đuổi theo, bốn người dám dừng lại, chạy như bay trong đầm lau sậy dưới ánh trăng, chẳng quan tâm quần áo bị cào rách, tay chân xây xát, cho tới khi đến chỗ chiếc thuyền độc mộc. Đầm Canh gà chỉ có con đường, đành phải đẩy thuyền xuống nước, tôi nhớ ra súng bị rơi trong đám lau sậy nhưng còn cách nào quay lại lấy nữa, chúng tôi ra sức dùng xẻng và mái chèo để chèo thuyền ra phía ngoài hồ. Hoàng phật gia mới tới đầm Canh gà, chưa có thuyền lại thông thạo đường hướng nên đuổi kịp chúng tôi, chúng tôi chèo được mấy trăm mét, lại có sương mù che phủ, tự thấy tạm thời nguy hiểm nữa, liền giảm bớt tốc độ, theo phương hướng la bàn chúng tôi chèo về phía bắc, cả mặt hồ rộng mênh mông, sương mù bao phủ, muốn tìm mô đất nghe chừng rất khó. Điếu bát thấy mặt trắng bệch, biết là sợ, liền : “Em , sao rồi, gặp bọn coi như gặp người nhà, tên Hoàng phật gia đó ác thế nào cũng bị người em đây cho xơi xẻng vào đầu, chứ chưa cần ra tay, mà ra tay giang hồ từ đây về sau còn người tên là Hoàng phật gia nữa đâu. Em đừng thấy mảnh khảnh mà coi thường, quả cân tuy nhưng có thể giữ được ngàn cân đấy, trình độ là ở chỗ đó. À, mà em tên gì nhỉ?” có đôi mắt to tròn sáng như sao, mặt vẫn còn ngấn nước mắt, giọng : “Em họ Điền, tên Mộ Thanh”. Điếu bát : “Em gọi là Điếu , hai người kia là Bì Chiến Đấu [2] và Bạch Thắng Lợi [3] . Làm sao mà em gặp phải tên Hoàng phật gia kia thế?” [2] Bì Chiến Đấu: Chỉ Mặt dày. [3] Bạch Thắng Lợi: Chỉ nhân vật tôi. Điền Mộ Thanh kể ngắn gọn đầu đuôi câu chuyện, cũng giống như tôi phỏng đoán. là giảng viên Học viện Mỹ thuật, gặp Lư mặt rỗ ở tàu, nghe ta kể về Tiên Đôn nên muốn tới xem. Sau khi xuống xe cùng Lư mặt rỗ hỏi đường tới bên hồ chụp vài kiểu ảnh về làm tài liệu giảng dạy, Lư mặt rỗ cũng muốn kiếm thêm chút tiền nên nhanh chóng nhận lời dẫn đường cho . Do ta phải về nhà sắp xếp công việc nên tận hôm nay mới tới, nếu cũng chẳng gặp bọn Hoàng phật gia kia. Điền Mộ Thanh kể tới đoạn liên lụy tới Lư mặt rỗ làm ta phải chết lại đau lòng. Tôi : “Cũng trách được, nếu phải tàu tôi hỏi chuyện Lư mặt rỗ về hồ Tiên Đôn nghe thấy và cũng nhờ ta dẫn đường tới đây.” Điếu bát : “ cho cùng cũng là cái số. Thằng ngu Hoàng phật gia đúng là chán sống rồi, giết người là giết người, con mẹ nó, đây là thời đại nào vậy?” ta vừa nãy bị bọn Hoàng phật gia liên tục gọi là thằng ngốc, trong lòng khó chịu nên bây giờ mở miệng ra là chửi lại bọn nó. Mặt dày biết Hoàng phật gia, liền hỏi thằng đó lai lịch thế nào mà coi mạng người ra gì, lẽ là thổ phỉ ở Dự Tây? Tôi giải thích: “Hoàng phật gia xuất thân từ thằng bán rong, tổ tông tám đời nhà nó đều bán quẩy, đến đời nó cũng vậy. Năm nọ, dùng dao đâm chết người bị bắt cải tạo lao động tại Tây Bắc. Tại đó, quen phạm nhân có biệt hiệu là Thành câm. Nghe thằng đó bị câm nhưng rất giỏi về thuốc nổ, sau khi được phóng thích, hai đứa nó tụ tập lũ đầu gấu cần tiền cần mạng, chuyên làm mấy chuyện đào trộm mộ cướp bảo vật...” Mới kể tới đó sương mù xuống càng dày hơn, ánh sáng mặt trăng soi tới mặt nước, mặt hồ tĩnh lặng kỳ lạ, thi thoảng nghe thấy xung quanh có tiếng cá búng nước. Mặt dày lôi đèn pin ra soi, tứ bề đều là sương mù, có la bàn chẳng biết đông tây nam bắc ở đâu. Chắc do ba ngọn núi Thảo Hài, Thông Mã và Kê Lung như ba bức bình phong chặn hơi nước khiến sương mù mặt hồ tan rất chậm. Tôi với Điếu bát: “Muốn sương hồ tan phải có trận mưa...” vừa tới đó nghe phía sau có tiếng người, lắng tai nghe hóa ra là bọn Hoàng phật gia, ngờ bọn này tìm được thuyền nhanh thế. Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: “Bọn Hoàng phật gia có bao nhiêu người?” Điền Mộ Thanh : “Tính cả là mười bảy người.” Mặt dày : “Súng bị rơi ở trong đám lau sậy rồi, tay mà để bọn kia đuổi kịp có khác gì làm bia sống cho bọn nó bắn.” Tôi : “May mà có sương mù, ngoài phạm vi mười mét nhìn thấy gì đâu, chúng ta chỉ chèo thuyền thôi, lên tiếng nữa, chèo tách xa bọn Hoàng phật gia càng xa càng tốt.” Điếu bát : “Đúng... đúng thế, trứng chọi với đá được!” Điền Mộ Thanh cũng giúp tay, bốn người ai lên tiếng, cắm cúi dùng xẻng và mái chèo chèo thuyền, ai mệt rồi người khác thay, nhưng mãi vẫn cắt đuôi được bọn Hoàng phật gia, thời gian từng tiếng từng tiếng trôi qua, chúng tôi chèo trong sương mù bao lâu, bỗng thuyền chúng tôi đâm phải mô đất, ngờ sương dày như vậy mà chúng tôi vẫn tìm thấy mô đất, xem ra vận may của chúng tôi đến, mèo mù vẫn đớp được cá rán. 4 Những truyền thuyết về mộ cổ ở hồ Tiên Đôn rất nhiều, có người đó là ngôi mộ cổ, có người chỉ là nấm mô, lại có người đó là lăng tẩm. Cũng là nơi chôn người chết nhưng lại có khác biệt, nếu là nơi chôn các bậc đế vương được gọi là lăng tẩm, vương gia gọi là mộ, dân thường chỉ gọi là phần. Chỉ biết mộ núi Hùng Nhĩ là huyệt mộ, nấm mộ chất cao như núi, nghe đường hầm trong đó ngang dọc rất nhiều, hầm mộ rất to, nhưng biết là chôn ai, vì vậy mới có người là lăng tẩm có người là mộ. Ngôi mộ này vốn nằm trong ngọn núi, do hàng nghìn năm trước địa chất thay đổi nên bị lún xuống rất nghiêm trọng, ngôi mộ bị chìm trong nước. Mỗi năm hạn hán lại nhô lên khỏi mặt nước được ít. Dân gian gọi là Tiên Đôn và gọi hồ này là hồ Tiên Đôn, diện tích mặt hồ thay đổi theo mực nước lên xuống từng mùa, nhưng vẫn dao động trong khoảng 300-400 hecta, thực hề chút nào. Nửa đêm sương mù mờ mịt, tầm nhìn xa chỉ được mười mét, cơ may có thể tới được mô đất này rất , ngờ nó lại xuất trước mặt chúng tôi. Tôi thấy việc có gì đó là lạ, nhưng Điếu bát và Mặt dày bật đèn pin trèo lên mô đất xem xét. Điền Mộ Thanh hỏi: “Các cũng đến tìm mộ cổ núi Hùng Nhĩ sao?” Tôi nghĩ thầm, từ lúc tàu Điền Mộ Thanh nghe tôi chuyện với Lư mặt rỗ về mộ cổ, nhưng chưa chắc biết chúng tôi cũng đào trộm mộ, nhưng thấy ăn gãy gọn, chứng tỏ cũng là người thông minh, mấy trò của chúng tôi thể giấu ấy được, sớm cho xong, liền với ấy: “Mộ cổ núi Hùng Nhĩ động vào long mạch khiến sông Hoàng Hà ngập sang sông Hoài, nhấn chìm vô số người dân. Chúng tôi tới tìm mộ cũng là vì nghĩ cho bách tính trăm họ. Hơn nữa đồ vật là thứ vô tri vô giác, con người là sinh vật sống, chúng tôi nhẫn tâm nhìn thấy những bảo vật này bị chôn dưới đất hoen rỉ. Chúng tôi giống Hoàng phật gia, bọn họ chỉ là thổ phỉ, chúng tôi là vì nghĩa. Cũng giống như mô kim hiệu úy năm xưa, nghe tới cái tên mô kim hiệu úy bao giờ chưa, đó chính là đội quân người nghèo chúng ta.” Điền Mộ Thanh ngồi ngay trước mặt tôi, gần tới mức có thể nghe thấy tiếng hơi thở của người đối diện, trong lớp sương mù dày đặc tôi thể nhìn được khuôn mặt của , nên lại thấy xa xăm như tận chân trời. ấy lời, chỉ cúi đầu lắng nghe tôi . Tôi định hỏi Điếu bát và Mặt dày thám thính quay về, nghe thấy tiếng bọn Hoàng phật gia cũng tới gần. Điếu bát hoảng loạn trong lòng, hạ thấp giọng : “Mẹ nhà nó, sương mù dày thế mà nó vẫn mò tới được.” Tôi với Điếu bát, trước đây nghe kể Hoàng phật gia có đàn em mũi thính như chó săn, chỉ cần đứng trước mặt lúc có thể tìm thấy mình xa hàng mấy dặm. Nếu đúng như vậy cho dù có chạy đâu cũng cắt đuôi được bọn này. Điếu bát kinh ngạc : “Thế gay to rồi, may mà mô đất này cũng rộng, bọn mình tìm chỗ nào đó trốn tạm .” Tôi biết tình hình nguy cấp, bọn Hoàng phật gia để cho bọn tôi trốn thoát được, nghe Điếu bát mô đất này rất rộng tôi cũng thấy lạ, nhưng tình hình lúc khẩn cấp nên còn thời gian suy nghĩ nhiều. Chúng tôi tìm thấy cái hang, bên trong toàn là đất, liền giấu chiếc thuyền vào đó rồi leo lên mô đất. Điếu bát dùng đèn pin soi đường, : “Cậu nhìn xem, đồi đất này rộng đấy chứ?” Tôi nhìn lượt, phía trước nhấp nhô từng mô đất kích thước tương đương nhau, chắc là còn nhiều mô đất nữa sau lớp sương mù. Có truyền thuyết về mộ cổ núi Hùng Nhĩ, chính giữa có nấm mộ rất to, xung quanh có nhiều mô đất , tôi đoán những mô đất kia có khi là nấm mộ, nhưng dùng cuốc cuốc lớp đất bên phía sâu bên dưới là lớp gạch ngói cổ, giống như gian nhà. Rất nhiều năm trước, có thể có cả thôn làng bị chìm xuống nước, những năm gần đây, khi mực nước thấp dần mái nhà mới lộ ra, nhìn từ xa giống như ngôi mộ, có thể những người chết đeo mặt nạ vỏ cây chính là dân bị chết đuối của ngôi làng này. Điếu bát cầm tay tôi lắc mạnh: “Cậu đừng xem nữa, bọn Hoàng phật gia đuổi tới nơi rồi, nhanh lên.” Tôi mải nhìn, vội : “ đừng lôi mạnh thế, tôi cũng là người do cha mẹ sinh ra, lôi mạnh thế về được nguyên trạng đâu...”, tuy vậy nhưng tôi vẫn chạy theo sau họ, bước thấp bước cao những mái nhà lô nhô, càng càng lên cao, khoảng được trăm bước đường trong thôn cao hơn mặt nước hồ nhưng bị bùn đất bao phủ, chỉ nhìn thấy hình dạng đại khái, trông như bãi tha ma để hoang. vào giữa thôn, trông thấy đụn đất cao như núi nhìn thấy đỉnh, phía chìm trong mây, biết mô đất này cao bao nhiêu, cảm giác như bức tường thành đắp bằng đất, có thể phía trong là đá, bên ngoài đắp lớp đất, lại bị chìm sâu trong nước nên trông như tường thành bằng đất, mộ cổ núi Hùng Nhĩ chính là chỗ này rồi. Phía nam ngọn núi đất này là phần lõm vào bên trong, soi đèn pin xuyên qua lớp sương mù vẫn nhìn thấy tận cùng phần lồi ra, cao khoảng năm sáu mét, chúng tôi dùng cuốc chim và xẻng cào thử vài nhát, bên trong lớp đất là cánh cửa đá, bên có vòng đồng hoen rỉ, hoa văn khắc chìm mặt đá vẫn còn phân biệt được. Bọn Hoàng phật gia đuổi kịp bất cứ lúc nào, chúng tôi biết có cơ hội đào ngôi mộ này rồi, vịt nấu chín mà còn để bị bay mất, bọn tôi đành nhìn thêm chút nữa rồi quay . Mặt dày cam tâm, tiến lên cố đẩy cánh cửa đá, ngờ vừa mới đẩy cánh cửa từ từ dịch chuyển vào trong chút, lớp đất cát bên theo đó rơi xuống. Tôi và Điếu bát nhìn nhau, hết kinh ngạc, Mặt dày cũng ngạc nhiên kém, nhìn xuống hai bàn tay mình. Trong đầu tôi lên ý nghĩ: “Bên trong cánh cửa đá này chắc chắn có rãnh trượt, nếu bao nhiêu người cũng đừng hòng đẩy được cánh cửa đá nặng trịch thế này. Rất có thể đây là hầm mộ tập thể, với nhiều quan quách được đưa vào hầm mộ trong nhiều thời điểm khác nhau, trước khi kịp đóng cửa huyệt nó bị chìm xuống đáy hồ.” Bốn người chúng tôi hợp sức đẩy cánh cửa, cửa mộ bật mở, mùi ẩm mốc đến nỗi nồng nặc lắm. Tôi cầm đèn pin lên soi, bên trong là rãnh trượt bị bào mòn rất nghiêm trọng, dường như nó thường xuyên được mở ra đóng lại rất nhiều lần nên thời gian trôi qua hơn hai nghìn năm mà vẫn mở dễ dàng như vậy được. Nhưng cũng chỉ có thể mở ra từ bên ngoài, chứ lại thể nào kéo vào từ bên trong được. Trong hầm mộ tối lạnh, có chút động tĩnh nào. Chúng tôi khiếp sợ nhận ra tiếng bước chân của bọn Hoàng phật gia chỉ cách mình mấy chục bước. Bọn thổ phỉ vừa có súng vừa có thuốc nổ, để bọn nó bắt được chỉ có nước chết. Mọi người buộc phải trốn vào trong hầm mộ, đẩy lớp cửa đá đóng lại cho khít rồi chèn chiếc cuốc chim vào bên dưới đường trượt, khóa chặt cánh cửa đá từ bên trong, cho dù bọn nó dùng thuốc nổ để phá cửa cũng thể chốc lát mà mở ngay được. Điền Mộ Thanh : “Ngôi mộ cổ có lối thoát hiểm, nếu bọn Hoàng phật gia đuổi tới chúng ta làm sao chạy ra ngoài được?” Tôi : “Chúng ta có thể đào vào hầm mộ lấy bảo vật cũng có thể đào đường ra. Hơn nữa đường hầm rất sâu, lại lưu thông khí, gian rộng rãi, chừng trong lòng núi, chưa chắc có lối thoát.” Điếu bát : “Trong hầm mộ khí nặng nề, chúng ta trốn sâu vào trong bọn ngốc Hoàng phật gia kia còn lâu mới tìm được.” Mặt dày : “Tốt nhất là mở quan tài lấy bảo vật trước bọn nó, cho bọn nó ăn quả hụt. Bà nội nó, vậy mới hả giận.” Tôi : “Nơi này rộng quá, lại nhiều quan quách, dựa vào mấy đứa mình vác được mấy.” Mặt dày : “Cái gì có giá lấy cái đó, chúng ta làm việc theo nguyên tắc gây tổn hại người khác là chính, cần phải có lợi cho mình, mang được cũng để rơi vào tay bọn nó.” Chúng tôi chuẩn bị sâu vào bên trong, khi qua động Hoàng Sào, chúng tôi làm mấy bó đuốc, đến đây vẫn chưa dùng hết. Điếu bát lôi ra hai bó, là để soi đường đuổi bọn rắn rết, hai là để biết bên trong có lưu thông khí hay , nếu đuốc đột nhiên tắt chứng tỏ bên trong vẫn còn tích tụ nhiều khí. Từ lúc có đèn pin, nhiều dân đào mộ chuyên nghiệp còn dùng đuốc nữa, vì thế mỗi năm đều nghe được tin có người chết ngạt trong hầm mộ. Phàm chuyện gì có lợi cũng có mặt hại, đôi lúc khí trong quan tài và hầm mộ gặp phải tia lửa phát nổ như pháo hoa, đừng con người đến tường gạch trong hầm mộ cũng bị cháy sém, nhưng trường hợp này rất hiếm khi xảy ra, nếu lỡ gặp phải chỉ còn biết trách mình xui xẻo mà thôi. Tôi đón lấy bó đuốc châm lửa, đường hầm tối om bỗng sáng hẳn lên, chỉ thấy ba người còn lại trợn mắt há hốc mồm nhìn tôi. Hơi bất ngờ chút, nhưng tôi hiểu ngay phải họ nhìn tôi mà nhìn thứ ở sau lưng tôi, sau lưng tôi có gì được nhỉ? 5 Bị ba người kia nhìn như vậy, làm tôi thấy lạnh cả sống lưng, tôi chuẩn bị sẵn tinh thần để né tránh, quay đầu lại nhìn, hóa ra đó chỉ là bức tranh vẽ hình con vật mặt trắng toát, đầu to như cái đấu, khuôn mặt cũng to như vậy, mặt vuông tai to, để hai hàng ria mép, thần thái quái dị, mặt người thân thú, đuôi là chín con rắn, lấy mây làm quần áo, thấy hình thù này trong bóng tối đúng là rất kinh sợ. Mặt dày : “Bộ dạng chủ nhân ngôi mộ là thế này à, khác xa so với tưởng tượng của tôi.” Tôi : “Đó là thần vật ăn thịt người núi Côn Luân theo truyền thuyết của người xưa. Đặt ở đây để trấn mộ, chẳng động đậy được dọa được ai chứ?” Điếu bát : “Từ thời Hán tới giờ, hơn hai nghìn năm rồi mà màu sắc bức tranh vẫn tươi tắn như vậy. Chắc bảo vật trong hầm mộ vẫn được giữ nguyên vẹn.” Điền Mộ Thanh hỏi: “Các đây là bích họa từ thời Hán?” Điếu bát : “Dưới hồ Tiên Đôn là mộ cổ thời Hán, bích họa trong mộ đương nhiên là từ thời Hán rồi.” Điền Mộ Thanh : “Tôi tưởng là của thời Đường?” Tôi nghĩ Điền Mộ Thanh là giáo viên mỹ thuật, có thể nhận ra bức bích họa của thời Đường cũng có gì là khó, tôi cũng đồng quan điểm với ấy. Tôi với Điếu bát: “Hình thần vật núi Côn Luân trong tranh xuất phát từ truyền thuyết thời Hán, nhưng bức họa này đúng là mang đặc điểm của thời Đường.” Điếu bát thắc mắc: “Sao lại là mộ cổ đời Đường được?” Tôi : “Tôi nhìn thấy hoa văn khắc chìm cửa mộ là của thời Hán.” Điếu bát : “Vậy lạ nhỉ, trong mộ cổ đời Hán có tranh của đời Đường sao?” Tôi : “Lần trước, chúng ta nghe lời đồn ở thôn Phi Tiên, nên nghĩ rằng ngôi mộ này có từ thời Hán, nhưng thực tình đây là ngôi mộ tập thể, hầm mộ này được đào trong lòng núi, từ thời Hán tới thời Đường ngừng có quan tài được chuyển vào đây, đến tận thời Đường khi xảy ra địa chấn, cả ngôi mộ chìm trong nước, kể từ đó cách biệt với thế giới bên ngoài.” Điếu bát thấy rất ly kỳ: “Từ thời Hán tới thời Đường hơn nghìn năm ngừng có quan quách được chuyển vào đây, vậy đó là những người nào?” Tôi : “Cái đó tôi cũng biết. chung có rất nhiều điểm ràng.” Kiểu bài trí trong hầm mộ này có thể là điên đảo càn khôn, đảo ngược dương, bị chìm trong nước hàng nghìn năm, nhưng bên trong lại có dấu tích bị ngâm trong nước, quan tài bằng ngọc, tượng bằng vàng, thi thể khô đeo mặt nạ bằng vỏ cây, nhà cửa xung quanh ngọn núi v.v... tất cả đều toát lên vẻ kỳ bí. Trước khi làm được lai lịch của chủ nhân ngôi mộ, tất cả đều như lớp sương mù mặt hồ, khiến người ta “nhìn tỏ, nghĩ thông”. Mặt dày : “ nghĩ ra đừng nghĩ nữa, chủ nhân ngôi mộ nằm trong cỗ quan tài kia kìa, bọn ta qua đó xem là ngay thôi.” Điếu bát : “ sâu vào trong phải cẩn thận, mọi người sát vào, cách nhau nửa bước chân thôi.” Tôi thắp hai bó đuốc, tôi và Mặt dày mỗi người bó, hai người kia cầm đèn pin, từng bước từng bước sâu vào bên trong. Hầm mộ được đào trong lòng núi, phía phía dưới đều bằng phẳng. được mười mấy mét lại là lần cửa, cả bọn vào bên trong, định đóng cửa lại Điếu bát kêu lên: “ được, đừng đóng vội!” Tôi hỏi lại mới biết, Điếu bát để quên ba lô trong đường hầm. Lúc đó, cả bọn chăm chú quan sát bức bích họa, còn đó là bức tranh mang phong cách thời Đường, ta bỏ ba lô xuống đất để lấy đuốc ra, sau đó quên cầm ba lô. Lương khô và đuốc dự phòng đều để cả trong đó. Điếu bát : “Trong đó đều là đồ thiết yếu, tôi phải quay lại lấy...”, rồi quay lưng trở ra. Tôi Điếu bát cứ chờ ở đây, tôi đưa ba lô của mình cho ta, rồi cầm lấy xẻng và đuốc quay lại đường hầm lấy ba lô cho ta. Lúc trước cùng ba người kia trong đoạn đường hầm này thấy gì, nhưng giờ mình quay lại, tuy chỉ khoảng mấy chục mét nhưng cũng thấy ghê người. Nơi này ẩm thấp, lạnh lẽo, tối tăm, vách đá và đường hầm có chút sinh khí. Tới lần cửa đá thứ nhất tôi tìm thấy ba lô của Điếu bát. Trong đường hầm màu tối đen, chỉ cách mấy chục mét mà thấy ánh đuốc của hội Điếu bát đâu, bất giác rợn tóc gáy, tôi vội vàng chạy về phía bọn họ. Ai ngờ, vừa nhấc chân lên định tiếng nổ long trời lở đất vang lên, đất đá rơi xuống ầm ầm, tôi bị sức ép bắn vào tường đường hầm, hai tai ù đặc, trong đầu toàn tiếng ong ong, máu chảy rần rần trong huyết quản, bó đuốc bị rơi xuống đất tắt rụi. 6 Tôi ngã xuống chân tường, đầu óc ong ong, lịm mất mười mấy giây, khi tỉnh lại thấy bọn Hoàng phật gia vào trong lớp khói thuốc mù mịt. Bọn chúng đều cầm đuốc, nhưng vì khói thuốc chưa tan, cú nổ vừa rồi khiến bụi đá bay mù mịt nên ai phát ra có người nơi chân tường. Tôi sờ được chiếc xẻng bị rơi bên cạnh, từ từ đứng dậy, lên tiếng, trà trộn vào trong đám người kia, mặt mũi ai nấy đều đen nhẻm, lại trong làn khói bụi mờ mịt nên chẳng ai phát giác ra điều gì. Tôi cố gắng há miệng to hết cỡ, cảm giác màng nhĩ vẫn chưa bị rách, thính giác dần hồi phục, nghe thấy tiếng tên eo rắn: “Có đám trung thần tướng giỏi như bọn mình phò tá Hoàng phật gia, dùng thuốc nổ mở cửa hầm mộ chỉ là chuyện , mọi người chuẩn bị phát tài rồi.” Hoàng phật gia : “Bọn ngốc Điếu bát đúng là vào trong hầm mộ này sao?” Tên eo rắn lại : “Thằng Mũi chó ngửi thấy mùi mà, sai được đâu. Mấy tên đó chán sống rồi, dám vuốt râu hùm. Phật gia... đầu của đại ca sao chứ?” Hoàng phật gia hừ mũi tiếng: “Thế này nhằm nhò gì... Tao luyện qua rồi...” Tên eo rắn ngay lập tức nịnh nọt Hoàng phật gia: “ với đại ca, em nhận ra từ lâu rồi, bọn phàm phu ăn toàn ngũ cốc với lương thực linh tinh đó làm sao mà có công phu như đại ca được.” Tôi nhìn thấy cái đầu toàn thịt của Hoàng phật gia cứ lúc lắc trước mặt lại nhớ tới Lư mặt rỗ chết dưới tay như thế nào, nén nổi tức giận, đứng từ phía sau hỏi : “Phật gia, cái đầu của mày chịu được mấy nhát xẻng?” Hoàng phật gia : “Dăm ba nhát chỉ là chuyện đùa. Ớ... mày là thằng nào?” Tôi đợi Hoàng phật gia quay lại, xẻng cầm sẵn trong tay từ lâu, lấy hết sức bình sinh nện lên đầu , lần này dùng lực rất mạnh, chỉ nghe kêu chát tiếng, méo cả xẻng. Nhưng đầu tên Hoàng phật gia đúng là cứng hơn người bình thường, bị đánh như vậy mà bị vỡ đầu, nhưng cũng bị thương , ngã vật ra đất, kêu lên: “Á... mẹ đứa nào lại đánh lén ông?” Bọn tay chân Hoàng phật gia tuy toàn bọn liều mạng, nhưng là đội quân ô hợp, chỉ chờ cơ hội kiếm lợi cho mình, nhân lúc bọn đó vẫn chưa kịp phản ứng, tôi chạy vội tới lần cửa thứ hai. Sau lưng vẫn nghe thấy tiếng Hoàng phật gia hò hét tay chân đuổi theo. Tôi ba chân bốn cẳng chạy tới lần cửa thứ hai, hội Điếu bát nghe thấy tiếng nổ cũng biết là bọn Hoàng phật gia vào bên trong, sốt ruột thấy tôi chạy lại, vội vàng đẩy mạnh cánh cửa đá khép lại, nhưng ánh đuốc chập chờn nhấp nhô trong đường hầm, đuổi sát tới nơi. Chúng tôi kịp đóng lần cửa thứ hai nữa, đành phải chạy nhanh vào phía sâu bên trong, phía trước còn lần cửa thứ ba nữa. Bốn người chúng tôi tháo chạy qua lần cửa đó tới cuối đường hầm, qua chiếc cửa vòm bằng đá là vào tới hầm mộ. Tường bên trong hầm mộ đều được xây gạch, nóc hầm và nền hầm mộ đều lát gạch, có cột trụ đá và xà ngang bằng đá chống đỡ. Bụi bám đầy tường, hầm mộ khá lớn nhưng đơn sơ và tồi tàn khiến khí bên trong càng u ám. Chúng tôi nghĩ đây mới chỉ là tiền điện, sâu vào bên trong chắc mới là chính điện nơi đặt quan quách, nên vội sang bên đối diện với điện đá, nhưng trong đó có lối . Mặt dày cuống lên, : “Bọn Hoàng phật gia sắp đuổi kịp rồi, phía trước lại có đường, mình quyết trận sống mái với bọn nó vậy, đánh được thằng là gỡ vốn, được hai thằng là lời rồi.” Điếu bát thất kinh : “ thể được, đó là hành động vũ phu, phải bình tĩnh”. Tôi nghĩ bụng: “Bọn chúng có thuốc nổ, còn hội mình chỉ có xẻng và cuốc chim. Nếu đánh nhau với bọn nó mà mất mạng quá thiệt...” Trong lúc có kế sách gì, tôi thất vọng nhìn lên chỗ xà ngang trần điện, chợt nảy ra ý, giờ chỉ còn cách trèo lên đó trốn tạm thôi. Tôi lấy dây thừng ra đưa cho Điền Mộ Thanh, tôi và hai người kia chồng lên nhau làm thang để Điền Mộ Thanh lên trước rồi thả dây thừng xuống, chúng tôi đu dây thừng lên sau. Chỉ lo Điền Mộ Thanh sợ quá ngã từ cao xuống, ngờ động tác của ấy hết sức nhanh nhẹn, nhàng, cái đáng là gặp cố vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Khi leo lên đến thanh xà ngang bằng đá, tôi và Mặt dày đu lên sợi dây thừng vừa thả xuống, rồi kéo Điếu bát lên. Bốn người vừa nằm phục xuống bọn Hoàng phật gia cũng vừa vặn vào tới trong điện. Chúng tôi tắt đuốc và đèn pin, nằm phủ phục thành xà ngang dám động đậy, chỉ sợ thở mạnh chút thổi bay đám bụi xuống bên dưới làm kinh động tới bọn Hoàng phật gia. Cả bọn nằm im như vậy quan sát. Trong thế nguy hiểm, tôi bất giác có cảm giác sợ hãi. Nhưng những gì sắp xảy ra bên dưới khiến tôi thể nào tin vào mắt mình.
Chương 14: Bảo điện dưới ti 1 Chúng tôi nằm phủ phục xà ngang nhìn xuống, thấy bọn Hoàng phật gia lũ lượt vào, chen chúc ở cửa hầm nhìn ngang liếc dọc, chúng tôi ở nhìn xuống thấy rất , nhưng từ dưới nhìn lên ánh đuốc vẫn thể nào soi tới xà ngang được, nên trong hầm tối mờ này, bọn chúng thể nhìn thấy chúng tôi. Tôi nhìn sang ba người kia, Điếu bát và Mặt dày cũng nhìn xuống phía dưới, riêng Điền Mộ Thanh lại nhìn tôi, thấy tôi quay lại lấy tay chỉ vào mũi mình, mới đầu tôi chưa hiểu, nghĩ bụng: “Thôi chết, lúc này đừng có hắt hơi đấy!” nhưng nghĩ lại chợt vỡ lẽ: “ ấy nhắc tôi trong đám Hoàng phật gia có thằng mũi chó, bọn tôi trốn này sợ là cũng bị phát , tình hình có vẻ ổn...”, lại nghĩ: “Giờ ở trong tình thế nguy hiểm rồi, trốn này cũng có nguy cơ mất mạng, đành tùy cơ ứng biến vậy, xem bọn dưới kia lên đây bằng cách nào”. Tôi quay sang Điền Mộ Thanh đưa tay lên miệng ra hiệu cho im lặng, đừng lên tiếng. Lúc này, Hoàng phật gia bước vào, đầu quấn băng, mặt đầy máu, tức giận vô cùng, hỏi thuộc hạ xem Điếu bát nấp ở đâu? Tên eo rắn : “Phật gia, phía trước có đường, cũng lạ , mấy tên kia vào trong này rồi mất tích luôn, như hoàng hạc bay để lại dấu vết.” Hoàng phật gia chửi: “Bà nội mày, mấy thằng ngu đó bay được chắc? Mũi chó, mày ngửi xem mấy đứa đó trốn ở đâu?” Hóa ra, thằng mặt sẹo chính là tên mũi chó, : “Phật gia, mũi tôi ngửi sai đâu, ràng bốn đứa đó vẫn trong đại điện này.” Hoàng phật gia ra lệnh cho bọn tay chân đóng cửa hầm mộ lại lục soát khắp nơi, phải bắt mấy tên đó băm vằm ra cho cá ăn thịt, sau đó mới mở nắp quan tài lấy bảo vật. Tên eo rắn chỉ chuyên nịnh hót Hoàng phật gia, vội : “ minh, là minh. Chỉ có Phật gia mới nghĩ ra chiêu băm bọn nó ra làm mồi cho cá, như vậy mới hả giận được.” Mấy tên tay chân nhận lệnh, hò nhau đóng cửa điện rồi thắp sáng hết các ngọn đèn tường, cả gian đại điện sáng trưng như ban ngày. Tôi nằm xà ngang nghe thấy tiếng đóng cửa, trong lòng chùng hẳn xuống, nghĩ thầm: “Lần này đúng là mọc thêm cánh cũng khó mà thoát thân, làm thế nào để lấy được súng và cho tên Hoàng phật gia kia vài phát?” Điếu bát căng thẳng quá, hơi thở gấp gáp dồn dập, vì thở mạnh nên hít phải bụi, ta nhịn mãi được, cuối cùng vẫn hắt hơi thành tiếng. Bọn Hoàng phật gia nghe thấy tiếng động, lớn tiếng chửi mắng, còn có người giương súng bắn lên , đá nóc điện bị bắn rơi tung tóe, bụi bay lả tả. Chúng tôi nấp ở xà ngang, đạn bắn lên nóc điện nhưng làm gì được chúng tôi, có điều vị trí nấp bị bọn nó phát ra. Hoàng phật gia cười nham hiểm, : “Bọn chúng mày tìm bảo vật gì đó thế, mang ra cho ông nội mày cùng xem.” Tôi nghĩ bụng, nếu chửi trận cho đời chết thiệt thòi quá: “Hoàng phật gia, mày chỉ là thằng bán cháo quẩy, đưa báu vật cho mày, mày có nhận ra được ?” Năm xưa, khi Tần Cối giết Nhạc Phi, người dân hận tận xương tủy, nên lúc rán quẩy thường là rán tiểu quỷ, mặc dù trắng ra nhưng ai cũng biết như vậy có ý rán hai vợ chồng nhà Tần Cối. Nhà Hoàng phật gia mấy đời đều làm nghề bán quẩy, sau khi có tiền coi quãng thời gian đó là điều nhục nhã, rất kỵ người ta nhắc đến chuyện này, nên mới nghe có vậy tức tím mặt. Điếu bát dám lên tiếng, Mặt dày thấy tôi vậy hăng hái hẳn, cũng trêu tức Hoàng phật gia: “Tên khốn đầu đầy thịt kia, tổ tông tám đời nhà mày đều bán quẩy, chắc hẳn tay nghề cũng kha khá, thế mà sao truyền tới đời mày mày lại chẳng chịu làm ăn đàng hoàng. Mày cũng ngốc đần, sao ngoan ngoãn bán quẩy mà cứ đòi đào mộ nhỉ? Thế chẳng phải là đến tranh cơm với bọn tao à, mày có cái tài đó ? Nghe lời khuyên của tao , mau về quê mà bán quẩy, đừng để tao tức lên lại xuống dưới cho mấy cái bạt tai bây giờ.” Hoàng phật gia tàn nhẫn độc ác nhưng lại biết ăn , càng nghe chửi càng tức, mặt lúc xanh lúc trắng mà lại được câu nào. Tên eo rắn đứng bên cạnh chửi lại: “Hai thằng mày biết gì, đừng coi thường Hoàng phật gia nhà tao bán quẩy nhá, quẩy nhà Hoàng phật gia chuyên cung cấp cho vương gia, bối lạc, tướng quân đấy. Dân ăn cám ăn rau như chúng mày làm gì có phúc được thưởng thức. Giờ đây Hoàng phật gia nhà bọn tao đổi nghề sang đào trộm mộ, cũng nổi tiếng khắp toàn cầu đấy.” Tôi lại: “Toàn cầu chẳng qua cũng chỉ là quả bóng [1] thôi mà.” [1] Quả bóng: còn gọi là “trái cầu”. Đây là cách chửi chơi chữ. Mặt dày đế thêm: “Đúng thế, mẹ nó chứ, nổi danh quả bóng.” Sắc mặt Hoàng phật gia càng lúc càng khó coi, với eo rắn cách nham hiểm: “Mày cần gì tốn nước bọt với bọn kia?” Tên eo rắn trả lời: “, em theo đại ca cũng có phải để ăn bám đâu, em với nhau như vậy em cũng tức thay đại ca, đại ca xem...” ta dừng lại như vừa nghĩ ra ý đồ đen tối nào đó, tiến lại gần Hoàng phật gia ghé vào tai thầm. Hoàng phật gia cười tiếng, : “Kế này hay! Bảo thằng Thành câm gài thuốc nổ, cho nổ chỗ xà ngang kia . Hôm nay tao phải xem bọn nó chết như thế nào!” 2 Tôi nghe thấy Hoàng phật gia sai Thành câm gài thuốc nổ chột dạ: “Chết! Bọn mình nấp xà ngang chẳng còn cách nào mà né tránh cả, chẳng phải ngồi chờ về Tây Thiên sao?” Lúc này, tên to cao lực lưỡng tầm hơn ba mươi tuổi, mặt mũi bặm trợn, chắc là tên Thành câm, há miệng ra “A... a...” vài tiếng, hóa ra là còn lưỡi nữa, chắc do bị cắt chứ phải là câm bẩm sinh, nên tai vẫn nghe được bình thường. Nhận được lệnh của Hoàng phật gia, lại kêu lên mấy tiếng, gọi theo vài tên tay chân lấy thuốc nổ từ trong ba lô ra chuẩn bị cài vào cột trụ trong điện, thao tác hết sức thành thạo. Tôi chưa từng gặp tên Thành câm, chỉ mới nghe kể về . Nghe , hồi ở quê làm nghề nổ mìn khai thác đá, có nhiều dân đào trộm mộ tới tìm gài thuốc nổ để mở cửa mộ. Vì làm chuyện phạm pháp vậy nên bị bắt cải tạo tại nông trường Tây Bắc mất mấy năm. Tại đó, quen với Hoàng phật gia, sau khi được phóng thích, hai đứa về lập hội làm ăn, ngoài Hoàng phật gia ra nghe lời ai. Giờ thấy chuẩn bị buộc mìn vào chân cột, tôi bất giác toát mồ hôi, có cách nào để bình tĩnh suy nghĩ nữa. Điếu bát lên tiếng: “Phật gia, bọn mình đều cùng trong nghề, ông nể mặt Tăng cũng nể mặt Phật, niệm tình cá niệm tình nước, ông giơ cao đánh khẽ, tha cho bọn tôi.” Tên eo rắn với Hoàng phật gia: “Đại ca đừng để ý đến thằng ngu đó, giờ biết sợ rồi, lúc nãy sao? Cho dù bọn nó có bản lĩnh như Tôn Ngộ cũng thoát khỏi lòng bàn tay của Phật Như Lai.” Tôi và Mặt dày giống như bánh nằm trong ấm trà, thể nào rót ra được, cuống quá, lúc đó chỉ muốn nhảy xuống liều chết với bọn Hoàng phật gia. Cho dù xuống đó có bị đạn lạc bắn chết còn hơn là bị mìn nổ tung xác. Điền Mộ Thanh bỗng lên tiếng: “Hoàng phật gia! Nếu ông cho quân nổ mìn đánh sập đại điện này dễ, nhưng thế ông cũng đừng có mơ lấy được báu vật trong địa cung.” Tôi nghĩ: “ trúng trọng tâm rồi! Bọn Hoàng phật gia tới đây là để đào mộ lấy báu vật, nếu cho nổ sập đại điện khác nào phá hủy tất cả. Mặc dù, giờ chưa nhìn thấy quan quách hay đồ tùy táng ở đâu, nhưng địa cung quy mô phải là , bên trong hẳn có nhiều thứ” nghĩ tới đó, tôi khỏi khâm phục Điền Mộ Thanh, ấy rất ít , nhưng là người hiểu biết, hơn hẳn bọn tôi. Hoàng phật gia nghe vậy cũng đần người ra, vội ra lệnh cho tên Thành câm dừng lại, việc lấy báu vật mới là quan trọng, liền phân công mười tên thuộc hạ tìm kiếm trong khắp đại điện, bảy tên còn lại bao gồm cả ta đều cầm súng đứng canh chỗ cột đá. Tên eo rắn lại lên tiếng nịnh hót: “Phật gia là minh. Bọn mình lấy đồ trong địa cung trước, sau đó tiễn bọn ngốc kia về Tây Thiên. Chúng nó nghĩ trăm phương nghìn kế để tìm cho ra mộ cổ, cuối cùng để cho tụi mình hớt tay . Hi hi, thế này gọi là gì nhỉ, giống như kiểu vợ thằng Điếu bát chửa hoang với người khác, xét về mặt kỹ thuật ta thành công, nhưng tàn nhẫn thể nào chấp nhận được. Trước khi chết, chúng ta cho xem trong đại điện này có những thứ gì, lại chết nhắm được mắt.” Điếu bát tức điên lên chửi lại: “Thằng eo rắn kia... mẹ kiếp mày chỉ là con chó bên cạnh Hoàng phật gia mà thôi!” Tên eo rắn cười đểu giả: “Chó bên cạnh Hoàng phật gia là Linh sơn hộ pháp, còn bọn mày chuẩn bị lên đường tới ti làm quỷ rồi.” Điền Mộ Thanh giúp chúng tôi kéo dài thêm thời gian nhưng tình hình mọi người bị kẹt lại xà nhà cũng có gì tiến triển. Tôi nhớ lại câu của lão Nghĩa mù “Nếu để rơi vào tay kẻ khác khác nào dê bị buộc bàn mổ, muốn chém muốn giết gì tùy ý người ta”. thế còn chưa xác thực, phải : “Người ta là dao, mình là cá” mới đúng. Chúng tôi lo lắng vô cùng nhưng nghĩ ra kế sách gì để thoát thân. Tên eo rắn nhân cơ hội dương dương tự đắc: “Lúc trước Hoàng phật gia đại từ đại bi, cho chúng mày tự xuống, hi vọng chúng mày tỉnh cơn mê biết ghìm cương đúng lúc bọn mày nghe, bây giờ có hối hận cũng kịp nữa rồi. Tao khuyên chúng mày nên biết điều, xuống dập đầu lạy Hoàng phật gia tám trăm lạy, chừng phật gia khai ân, cho chúng mày được chết toàn thây...” Hoàng phật gia hai mắt lim dim, lời nào, chỉ im lặng lắng nghe tên eo rắn ngớt lời nịnh nọt, trông nét mặt cũng đủ biết rất khoái chí, những câu đó đều trúng ý , khuôn mặt to phèn phẹt toàn là thịt, vẫn còn vương lại vài vệt máu, miệng như cười lại như cười, trông rất quái dị. Tôi nghĩ: “Chuyện bắt nạt người quá đáng nhất trong thiên hạ cũng chỉ đến thế là cùng. Nếu phải mấy khẩu súng bên dưới đều chĩa những chiếc nòng đen sì lên phía chúng tôi, khiến tôi dám nhô người ra, nếu tôi mà quăng chiếc xẻng xuống đảm bảo hớt trọn nửa cái đầu của thằng eo rắn!”. Lại nghĩ: “Sao lúc trước mình dùng cuốc chim mà bổ vào đầu thằng Hoàng phật gia nhỉ, nếu dùng cuốc chim thách đầu thủng lỗ.” Lúc này, tình hình có thay đổi, nghe trong đám tay chân của Hoàng phật gia kêu lên: “Tìm thấy quan quách rồi, ở đây này!” Hóa ra, bọn chúng lùng sục khắp nơi trong đại điện, nơi đây bụi bặm và mạng nhện phủ đầy, chỗ nào cũng phải phủi sạch để tìm xem ở đó có gì . Tứ bề đều là màu gạch xám xịt, u lạnh lẽo, tìm đến chỗ chính giữa đại điện, phát chỗ lõm xuống nền gạch, bên dưới đặt chiếc quan tài hình thù kỳ quái, lau sạch lớp bụi bên , dưới ánh đuốc màu sắc của chiếc quan quách lên rực rỡ như mới. Đen và đỏ là hai màu chủ đạo, bên khảm những đồ trang sức bằng đồng, bọn đào trộm mộ đều giương to mắt lên nhìn thèm thuồng. 3 Bốn chúng tôi nấp xà nhà cũng nhìn ràng màu sắc chiếc quách, nhưng người trong quan tài là ai? Chỗ đặt quan quách nơi chính giữa điện cách chiếc cột đá xa, Hoàng phật gia giao cho tên eo rắn và vài đứa tay chân cầm súng tiếp tục canh giữ ở đây, và những đứa còn lại ra chỗ vừa tìm thấy quan quách. Tôi rất muốn biết chủ nhân ngôi mộ này là ai. Tuy quy mô đường hầm và hầm mộ rất lớn, nhưng lại làm rất đơn sơ, chiếc quan quách tuy màu sắc rực rỡ nhưng hình thù kỳ quái, cũng khảm vàng khảm bạc. Tuy vậy, tôi biết mình ở tình thế nào, cần nhân lúc bọn kia mở quan tài lấy báu vật, chúng tôi phải nghĩ cách đoạt được súng của chúng và tìm cơ hội trốn thoát, nếu chậm bước, bọn kia xong việc, quay lại châm ngòi thuốc nổ mọi chuyện cũng coi như chấm dứt. Điếu bát nhìn ra được ý đồ của tôi, hạ giọng : “Cậu được manh động, hai tay làm sao đấu lại được với bốn tay, mãnh hổ cũng đấu lại được với bầy sói.” Tôi nghĩ: “Nhưng cũng thể ngồi đợi như vậy được. Lát nữa, Điền Mộ Thanh vứt cuốc chim xuống đánh lạc hướng bọn bên dưới, mình và Mặt dày nhân đó nhảy xuống hạ gục hai tên kia, tốt nhất là cướp được bọc thuốc nổ. Khó cái là cửa điện bị đóng kín, thể thoát ra được. Chỉ cần bắt được Hoàng phật gia là có thể uy hiếp bọn tay chân kia, nhưng lỡ thất thủ chỉ còn nước chết. Có điều bọn Hoàng phật gia giết chết bọn ta có ngày chúng nó cũng phải chết, chỉ sợ còn chết thê thảm hơn. đời này ai chẳng phải chết, chỉ sớm hay muộn mà thôi, cũng chẳng có gì khác biệt cho lắm...” Những ý nghĩ liên tiếp đan xen trong đầu tôi, giờ chỉ còn cách nằm phía xà nhà nhìn xuống, tìm cơ hội thích hợp để thoát thân. Phía bên dưới, bọn đào trộm mộ mỗi đứa tay phủi lớp bụi dày phía , quan quách và chiếc đế quan tài bằng gỗ dần lộ ra. Đế quan tài cũng giống như bệ đỡ để lót cho chiếc quan tài được cao hơn. Màu sắc của đế đỡ giống như quan tài, phía rộng dưới hẹp, cùng có lan can khắc hình tròn rỗng, mỗi trụ lan can là con thú đúc bằng đồng, phía dưới treo chuông đồng, chiếc quan tài bên to hơn nhiều so với bình thường. Nắp quan tài hình vòng cung nhô hẳn lên , cao khoảng đến ngực người bình thường, phía đầu quan tài có chiếc cửa bằng đồng . Bọn này cần quan tâm tới quan tài, hơn nữa thứ đó có giá đến mấy cũng có cách nào hạ thủ, tất cả bọn chúng cầm đuốc vây xung quanh, ánh mắt đứa nào cũng lộ vẻ tham lam. Tên mặt sẹo lên tiếng hỏi: “Phật gia, đây là loại quan tài gì?” Hoàng phật gia ậm ừ: “Ừ... chắc là quan tài bằng gỗ mun.” Tên mặt sẹo lại hỏi: “Hình dạng chiếc quan tài này lạ , lại có cái cửa nữa, để làm gì vậy nhỉ?” Hoàng phật gia chỉ là tên giữa đường chuyển nghề, kiến thức chẳng có nhiều, trả lời được đành giả vờ nghe thấy, dặn dò bọn tay chân tay được làm hỏng đồ bên trong. Chúng tôi ở xà ngang quan sát, càng nhìn càng thấy lạ. Tôi nhớ tới bức bích họa về cơn ác mộng nghìn năm của Khiết Đan, về chiếc quan tài bị chằng dây xích chôn trong lòng núi, xung quanh có rất nhiều những bức tượng bằng vàng. Tôi vốn nghĩ chiếc quan tài đó được chôn trong núi Hùng Nhĩ, nhưng chiếc quan tài mà bọn lâu nhâu kia tìm thấy tuy cũng nhiều màu sắc nhưng bị chằng dây xích, cũng có tượng vàng, hình dạng chiếc quan tài nom cũng rất lạ, hoàn toàn giống với những gì tôi tưởng tượng. Chiếc quan tài trong đại điện này được làm bằng gỗ mun, bên còn có cửa , bọn Hoàng phật gia hiểu về chiếc cửa đó nhưng tôi biết, đây được gọi là quan tài “Ô mộc bí hương quách”, chiếc cửa bằng đồng quan tài là để hồn ma ra vào, đây là phong tục của thời Đường và thời Tống. Hơn nữa, chiếc quan tài đó có hai đế và lan can phía bên , trông biết đó là phong cách quan tài dành cho Hoàng hậu nương nương, nên tôi dám bên trong là thi thể nữ. Gỗ mun phải là gỗ quý hàng đầu, thuộc hàng khá, quan tài này có vẻ phải quan tài của chủ nhân ngôi mộ. Tôi băn khoăn như vậy cảm giác như có người phía sau tôi run rẩy, sợ hãi, tôi nghiêng người ra sau nhìn, Điếu bát và Mặt dày vươn dài cổ ra nhìn xuống dưới, hai vai Điền Mộ Thanh rung lên từng hồi, trông có vẻ rất sợ hãi. Tôi nghĩ: “Chắc ấy chưa nhìn thấy xác chết cổ bao giờ, trong gian đại điện u lạnh lẽo này, mở nắp quan tài ra để xem xác chết nghìn năm ai mà chẳng sợ.” Tôi với Điền Mộ Thanh: “ đừng sợ, trong quan tài chẳng qua chỉ là xác chết thôi, có gì to tát cả.” Lúc này, bọn lâu nhâu tìm cách cạy nắp quan tài. Dưới chỉ đạo của Hoàng phật gia, bọn chúng nhàng nâng chiếc nắp quách sang bên, bên trong còn chiếc quan tài nữa. Chúng tôi nằm xà nhà nên nhìn trong chiếc quan tài có gì, chỉ thấy bọn đào trộm mộ bên dưới bỗng nhao nhao, dường như phía quan tài có hoa văn hay hình thù gì đó nên khiến bọn chúng cảm thấy rất lạ. Hoàng phật gia : “Để thằng Thành câm mở quan tài lấy đồ, tất cả những người khác lùi ra sau, cánh tay nào giơ ra tao chặt ngay cánh tay đó, mẹ chúng mày, nếu đứa nào phục cứ thử xem.” giao cho thằng mặt sẹo dẫn theo số tên nữa canh gác nơi xà ngang, được mải xem mở quan tài mà để cho hội Điếu bát trốn mất. Bọn này có quy định riêng khi đào trộm mộ, đó là lúc mở nắp quan tài chỉ cho phép người thực , đó chính là Thành câm, người mà Hoàng phật gia tin tưởng nhất, cho dù lấy được thứ gì đều cho hết vào bao tải buộc lại, sau khi ra ngoài rồi mới phân chia để tránh có người tiện tay lấy trộm đồ. Thành câm tiến lên phía trước, cạy nắp quan tài lên, cả bọn nhìn thấy thứ gì đó bên trong quan tài, lần nữa cả lũ lại nhao nhao lên. 4 Bên trong địa cung đèn đuốc sáng trưng, tên Thành câm vừa cạy nắp quan tài lên chỉ thấy ánh sáng lóng lánh phát ra từ bên trong quan tài, cả bọn há hốc mồm ra nhìn đầy kinh ngạc. Tôi và Điếu bát cùng mọi người nấp trần điện, trong lòng thấy hiếu kỳ, cũng cố dụi mắt rướn cổ lên xem trong đó có thứ gì? Chỉ thấy bên trong quan tài là thi thể nữ, mặc bộ đồ hoa văn đỏ nền vải xanh, màu sắc tươi tắn như còn mới, trông khác gì vải mới bày bán trong các hàng vải, tới lúc nhìn lại thấy màu sạm lại. Lưng đeo chiếc đai ngọc, phía trước mặt đai là hình hai con quỷ được làm từ những sợi chỉ bằng vàng, miệng mỗi con ngậm chiếc vòng ngọc, hai chiếc vòng cài vào nhau làm vật cố định chiếc đai. đeo chiếc mặt nạ bằng vỏ cây bên có chạm khắc những viên đá màu xanh lam xanh lục trang trí cách tinh tế. Đồ vật nổi bật thi thể chính là chiếc vương miện “Lộc thủ bộ dao quan”, phần phía trước trông giống như mặt bò, bên có hai chiếc sừng chẽ ra thành tám nhánh, mỗi nhánh đều có những chiếc lá làm bằng vàng, trông như cành cây có hình dáng hơi kỳ lạ, vừa giống sừng hươu lại vừa giống cành cây. Người đội chiếc vương miện này mỗi lần bước chân cành vàng lá ngọc rung lên từng nhịp, vì vậy mới có tên gọi là “Lộc thủ bộ dao quan [2] ”. [2] Lộc thủ bộ dao quan: là chiếc mũ đầu hươu, rung lên theo nhịp bước. Trước đó chưa từng có ai tận mắt nhìn thấy “Lộc thủ bộ dao quan”, kể cả những tay đổ đấu cao thủ, nhưng người biết tới chiếc vương miện này phải là ít. Tương truyền trong mộ cổ nhà Hán có chiếc vương miện bằng vàng, khi tổ chức tế mặt trăng do vị nữ quan đội. Thời đó có quan niệm con trai lạy mặt trăng, con lạy thần bếp. Dù lễ tế mặt trăng là việc của con , nhưng thời Hán, việc đó được coi là kiện quan trọng. Sau này, vì chiến tranh loạn lạc nên tung tích chiếc vương miện ở đâu, ngờ nó lại xuất trong núi Hùng Nhĩ, là vật báu vô giá, thể định giá được, định giá bao nhiêu nó có giá bấy nhiêu, chỉ cao lên chứ bao giờ giảm . Tôi nghĩ lẽ người nằm trong quan tài là vị hoàng hậu nào đó? Nhưng cỗ quan tài bằng gỗ mun đó mang trong mình hàm ý mê tín của người xưa, chỉ có người chết oan, chết đột ngột mới đặt trong quan tài gỗ mun, nếu cũng cần phải trổ thêm ô cửa , tà khí rất nặng. Theo quy tắc phải là nơi đặt thi thể của hoàng hậu. Tôi vốn nghĩ mở nắp quan tài làm được thân phận chủ nhân ngôi mộ, hóa ra vẫn mù mịt chân mây. Điếu bát cũng hết sức ngạc nhiên, khẽ : “Vương miện Lộc thủ bộ dao quan của thời Tây Hán cơ đấy, đơn giản.” Mặt dày tiếp lời: “Đồ tốt thế lại để bọn Hoàng phật gia hớt tay , đáng lẽ phải là của tụi mình.” Điếu bát thở dài: “Hây... chẳng khác gì ong hút phấn hoa để làm mật, tới khi thành mật rồi bị người ta lấy mất, cái này gọi là phải của mình thể gượng ép được.” Tên eo rắn : “Thằng ngu Điếu bát cũng biết nhìn hàng đấy chứ, đây gọi là “Lộc thủ bộ dao quan”, mở to mắt chó của mày ra mà nhìn cho kỹ, cái bọn ở trong hang cùng ngõ hẻm như tụi mày cả đời làm gì có cơ hội được nhìn thấy bảo vật như thế này, lát nữa có chết cũng còn oán thán gì nữa rồi nhé.” Mặt dày lớn tiếng chửi lại, tôi chẳng thèm chấp loại chó như thằng eo rắn, cao giọng với Hoàng phật gia: “Phật gia, mày chỉ là tên bán cháo quẩy, trông tướng phúc mỏng lượng ít, chữ bẻ đôi cũng biết, đào vài ba cái mộ có chủ là được rồi, Lộc thủ bộ dao quan là bảo vật vô giá từ thời Tây Hán truyền lại, mày sợ mình đủ sức nhận sao, mày sợ chết được toàn thây à?” Hoàng phật gia lại: “Mày đừng có giở trò lừa ông, ông nội mày lăn lộn trong nghề bao năm, trò gì mà ông mày chưa gặp chứ? Nếu tin vào mấy thứ đó làm sao chơi đến được ngày hôm nay?” Tôi : “Đừng có già mồm, mấy lời hay đó ai chẳng được, có giỏi mày đích thân lấy đồ xác chết xem?” Hoàng phật gia thèm để ý đến tôi, quay sang dặn dò thuộc hạ: “Thành câm, mày mau lấy chiếc vương miện ra đây cho tao, nhớ là phải tay, đừng làm hỏng đấy.” Thành câm chỉ như con rối, cho dù trời có sét đánh cũng chỉ nghe lời Hoàng phật gia mà thôi. Sau khi nhận lệnh, xắn tay áo thò tay vào quan tài chuẩn bị lấy chiếc vương miện đầu tử thi. Có lẽ cũng biết rằng đây là vật báu vô giá toàn bằng vàng ròng, giá trị phải chỉ đơn thuần là chỗ vàng này, mà đây là thứ có hai đời, mấy nghìn năm nay cũng chỉ có chiếc đó mà thôi, nên dám khinh suất, lúc chuẩn bị tháo vương miện phát ra chiếc mặt nạ và vương miện được gắn vào với nhau, muốn tháo vương miện ra buộc phải tháo chiếc mặt nạ xuống trước. Nhìn là biết tên Thành câm là tay đào trộm mộ lão luyện, động tác nhanh nhẹn khéo léo, hề sợ hãi. quan sát thi thể lúc, nghiên cứu xem chiếc mặt nạ vỏ cây được đeo cho người chết như thế nào, rồi tháo xuống, hí hoáy lúc tháo được chiếc mặt nạ ra. Nhưng chẳng hiểu nhìn thấy gì mà sợ giật bắn ra phía sau. Khi mở quan tài ra, đám đông lao xao mất hai lần, lần đầu là nhìn thấy hoa văn nắp quan tài, lần hai là nhìn thấy chiếc vương miện bằng vàng lấp lánh. Lần này, khi tháo chiếc mặt nạ bằng vỏ cây ra, thời khắc đó, trong đại điện im lặng như tờ, trừ mấy người chúng tôi nấp nóc điện, còn lại đều há hốc mồm, đơ người ra đứng nhìn, lúc lâu sau vẫn chưa quay về trạng thái bình thường. 5 Dù trong đại điện đèn đuốc sáng trưng, nhưng chúng tôi ở tít cao nhìn xuống nên thể thấy thi thể trong quan tài, tôi nghĩ: “Bọn đào trộm mộ này đều là những tên dám giết người, cũng từng đào trộm ít mộ, xác chết trong quan tài hình thù ra sao mà khiến bọn chúng sợ hãi đến như vậy?”. Tôi nhìn sang hội Điếu bát bên cạnh, bọn họ cũng thắc mắc như tôi. Lúc này, trong đại điện bỗng nổi lên trận gió , đèn đuốc bị ngọn gió thổi bạt chập chờn chực tắt, xác chết trong quan tài đột nhiên chộp lấy tay của tên Thành câm, biết là do đau hay do sợ hãi, chắc là cả hai, tuy bị cắt lưỡi nhưng vẫn ú ớ phát ra thanh, đầy sợ hãi, hai chân ngừng đạp liên hồi vào thành quan tài, cố tìm cách thoát thân. Nhưng xác chết kia chịu buông tha, mặt tử thi hoại tử, sau đó xác chết từ từ ngồi dậy, miệng phát ra tiếng kêu kỳ lạ, rất chói tai. Chúng tôi nấp thanh xà ngang cũng khỏi thất sắc, sợ hãi vô cùng, hai tay vội bịt lấy tai mà vẫn nghe thấy tiếng kêu kinh người kia, ai nấy toàn thân run lẩy bẩy. Điếu bát sợ quá biết phải làm gì, vội vàng lùi về phía sau mà quên mất mình ở xà ngang, suýt nữa rơi xuống dưới, may Mặt dày nhanh tay nhanh mắt chộp được. Lúc này, trong đại điện loạn hết cả lên, khắp nơi nhốn nháo: “Quỷ nhập tràng rồi”, có người ôm đầu bỏ chạy, có người to gan hơn cầm lấy súng nhằm vào xác chết bắn loạn xạ, ngờ chẳng bắn trúng xác chết mà bắn vào tên Thành câm. Thành câm vốn dở sống dở chết rồi, giờ trúng mấy phát đạn liền tắt thở ngay lập tức. Trong đám đào trộm mộ có tên mặt rỗ sợ chết, cầm khẩu súng săn hai nòng nhắm thẳng vào đầu xác chết định bắn, Hoàng phật gia thấy vậy kêu lên: “ được bắn hỏng chiếc vương miện”, rồi vội vàng đẩy nòng súng sang bên, nhưng vì tên mặt rỗ bóp cò quá nhanh, hai viên đạn bắn ra khỏi nòng, trúng thẳng vào đám thuốc nổ vẫn chưa kịp buộc vào cột đá, để mặt đất. Loại thuốc nổ dùng để khai thác đá rất nguy hiểm, đảm bảo an toàn chút nào, bản thân số mìn nổ đó nhiều lúc còn có thể tự phát nổ, bị đạn bắn trúng làm sao mà nổ cơ chứ, chỉ nghe thấy tiếng nổ long trời, đám người đào trộm mộ hầu hết đều bị nổ banh xác pháo. Bỗng chốc, trong đại điện xác người và máu be bét khắp nơi, cột đổ tường nghiêng, gạch đá sụt lở nghiêm trọng, bốn người chúng tôi nấp xà ngang may mắn thoát chết, nhưng sức công phá của thuốc nổ rất mạnh, cảm giác gian đại điện có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nếu chạy nhanh bị chôn sống ở đây. Chúng tôi vội thòng dây thừng tụt xuống, giữa đám bụi khói mù mịt, nhìn thấy nền đại điện bị nổ tung hố sâu rất to, phía dưới hình như có đường hầm. Cửa của gian đại điện được đóng lại từ trước, giờ bị những cột đá đổ xuống chắn lại, xung quanh mọi vật chao đảo, gạch đá ngừng rơi xuống, mọi người hoảng loạn chạy lung tung còn phân biệt được phương hướng, cũng chẳng có thời gian phân tích tại sao giữa đại điện lại có đường hầm, chúng tôi bước qua những xác chết nằm sàn, chạy thẳng xuống dưới đường hầm. Mặt dày trong lúc khẩn cấp vẫn quên nhặt khẩu súng săn rơi nền nhà, xuống dưới đường hầm rồi chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng đá lở ở phía , lại sợ xác chết đội vương miện vẫn tiếp tục đuổi theo nên ai nấy cắm đầu chạy, dám quay đầu lại nhìn. Mặt dày bật đèn pin trước dẫn đường, tiếp theo là Điền Mộ Thanh, rồi tới Điếu bát, tôi bọc hậu phía sau. Bốn người trong đường hầm tối đen, phát phía dưới đại điện cũng là gian trống như hầm mộ, từng đống hài cốt rải rác khắp nơi, tóc vẫn còn nguyên. Phía cuối đại điện thứ hai lại có đoạn đường hầm nữa, hai bên tường cách đoạn lại có bó đuốc. Chạy tới đầu đường hầm, tôi cảm thấy phía nóc đường hầm đất cát ngừng rơi xuống, hình như đoạn đường hầm này chịu ảnh hưởng của vụ nổ, chuẩn bị sập xuống, lập tức kéo Điếu bát lùi lại phía sau. Điền Mộ Thanh và Mặt dày cũng thấy tình hình bất thường, vội chạy nhanh về phía trước, cùng lúc đó đất đá ầm ầm sập xuống đúng ngay chỗ chúng tôi chuẩn bị chạy qua, bốn người bị chặn ở hai đầu đường hầm, chỉ cần chậm bước thôi chúng tôi bị chôn sống dưới đống đất đá này rồi, tôi gọi với sang phía bên kia vẫn nghe thấy. Điếu bát cầm đèn pin chiếu sáng, tôi lấy xẻng ra đào, lúc này bỗng có người mặt đầy đất cát loạng choạng chạy tới. Người đó trong tay có đèn pin cũng có đuốc, chạy gần tới nơi chúng tôi mới nhìn ra đó là tên eo rắn. Tên này mạng lớn , bị chết trong vụ nổ đại điện. Chúng tôi nhìn thấy đeo khẩu súng săn hai nòng người, nhân lúc còn đứng chưa vững liền khống chế, tước lấy khẩu súng, liền sau đó cầm lấy chiếc xẻng, chuẩn bị phang vào đầu . Tên eo rắn hồn bay phách lạc, nhìn thấy tôi và Điếu bát mặt tái mét, vội vàng van xin: “Đừng... Đừng động thủ... người cùng nước nên đánh nhau!” Tôi túm lấy : “Mày mà cũng xứng làm người à?” Điếu bát tức tối : “Thằng khốn, mày bụng mưu mô quỷ quái, còn đáng ghét hơn cả Hoàng phật gia, đánh chết thôi.” Chúng tôi còn chưa ra tay, tên eo rắn sợ nhũn cả người, quỳ mọp xuống đất cầu xin: “Hai ông, xin hai ông tha cho con.” Điếu bát chửi: “Ai là ông mày, đừng có giở trò nịnh hót với tao, tao nuốt trôi chiêu này đâu.” Tên eo rắn lại : “Ông ơi, con cũng là hảo hán thân cao năm thước, lòng đầy nhiệt huyết, phải ai con cũng gọi là ông đâu, con cũng biết chọn người mới gọi...” Tôi cầm xẻng lên chuẩn bị đánh, nhưng nửa chừng dừng lại, tôi nhớ ra lúc bọn này mở nắp quan tài nhìn thấy xác chết đeo mặt nạ vỏ cây ai nấy đều thất sắc kinh hoàng, lúc đó xảy ra chuyện gì? Tôi bắt tên eo rắn kể lại tình hình lúc đó, bộ dạng của trong cỗ quan tài gỗ mun đó như thế nào? 6 Tên eo rắn mực khẳng định biết tình hình lúc đó thế nào, khi mở quan tài, nhìn thấy hoa văn màu sắc sặc sỡ nắp quan tài cả bọn đều nhao nhao khen đẹp, còn lúc mở nắp quan tài nhìn thấy chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan, hoa văn chiếc mặt nạ vỏ cây giống như quỷ núi tất cả lại kêu lên hoảng hốt, còn lúc lấy mặt nạ vỏ cây xuống tên eo rắn cùng mấy đứa khác canh chừng chỗ xà ngang của đại điện, thực tình biết bộ dạng của xác chết ra sao, cũng hiểu vì sao mọi người lại đờ hết ra như vậy, mặt ai cũng ngạc nhiên và sợ hãi, lúc chạy ra xem tình thế nào xảy ra chuyện rồi, giải thích: “Có thể là nắp quan tài đóng kín nên hàng nghìn năm trôi qua mà diện mạo người chết vẫn như còn sống, cũng giống như bộ quần áo mà người chết mặc người, nhưng khi nhìn kỹ thấy bắt đầu có tượng phân hủy.” Tôi nghĩ tên eo rắn này có lý do gì phải dối, chỉ cậy lúc đông người để ra oai, cùng với Hoàng phật gia ép chúng tôi vào bước đường cùng, cứ nghĩ rằng mạng chúng tôi đều nằm trong tay bọn chúng. Ai ngờ, tình thế xoay chuyển đột ngột, giờ lại rơi vào tay chúng tôi, ngay lập tức đổi giọng gọi chúng tôi bằng ông, những câu nịnh nọt để lấy lòng, nếu Mặt dày mà ở đây mà nghe thấy thể nào cũng nổi hết da gà. Tôi lục soát người tên eo rắn, lôi ra được ít đạn, bao thuốc lá, bao diêm, vài miếng lương khô ngoại quốc, và vài đồng bạc, tôi giao hết cho Điếu bát và với : “Trông mày ăn mặc đâu vào đấy thế mà người có chừng này tiền thôi à?” Tên eo rắn nhăn mặt khổ sở : “Hoàng phật gia là tên đại keo kiệt, mỗi lần có tiền chia cho mình đầu tiên, chúng tôi chỉ là bọn ăn theo, bọn tôi cũng nghèo lắm. Hai vị đều là người nhân nghĩa minh, là Phật sống tái thế, đại trượng phu chấp kẻ tiểu nhân...” Điếu bát châm điếu thuốc hút, quay sang bảo tôi: “Huynh đệ, cậu có biết nghĩ tới chuyện gì . nghĩ tới lão Thánh nhân có câu ---- Dĩ đức báo oán, dĩ hà báo đức? Nghĩa là: Lấy đức báo oán, vậy lấy gì để báo đức?” Tôi : “Hình như có nghe thấy ở đâu rồi, hàm ý rằng có tên tiểu nhân muốn hại chúng ta, chúng ta phải nhẫn nhục, phải chịu đựng cảnh đem mặt mình áp vào mông kẻ khác. Nhưng tới lúc có ân nhân đúng là rất tốt với chúng ta lẽ chúng ta lại dùng khuôn mặt áp vào mông người khác này để đối diện với ân nhân sao? Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, chúng ta có thứ nào khác có thể thay thế khuôn mặt này cả.” Điếu bát : “Đúng thế, lão Thánh nhân rồi, lấy chân để báo oán, lấy đức báo đức.” Tôi đế thêm: “Mông với mông mà mặt với mặt.” Điếu bát : “ sai, tuy hơi thô lỗ chút nhưng đúng là như vậy.” Tôi : “Có thù mà báo phải là quân tử. em ta cũng nên “Mông với mông” với tên này thôi”, rồi tôi giơ chiếc xẻng lên, tay túm lấy tên eo rắn. Đương nhiên, tôi thể coi mạng người như cỏ rác giống Hoàng phật gia được, cùng lắm là hù dọa tên eo rắn chút thôi, ai ngờ tưởng tôi làm , sợ đái cả ra quần. Trông thấy vậy, tôi đành buông tay. Tên eo rắn như được ân xá, vội vàng lùi nhanh về phía sau. Nhưng mới lùi được vài bước bỗng đứng khựng lại, dường như phát ra phía sau lưng mình có gì đó, run rẩy sợ hãi quay đầu lại nhìn. Tôi và Điếu bát dùng đèn pin soi về phía tên eo rắn, bỗng thấy ánh sáng di chuyển, hóa ra là xác chết đội vương miện vàng biết đứng sau lưng tên eo rắn tự bao giờ, xác chết giơ bàn tay toàn móng vuốt lên xuyên qua tim tên eo rắn từ phía sau, tên eo rắn hai mắt trợn ngược, hai chân giãy giãy vài cái rồi tắt thở, tới khi chết cũng biết vì sao mình chết. Xác chết lại phát ra tiếng kêu chói tai, tiếp tục tiến về phía tôi và Điếu bát, ánh đèn pin chiếu lên người xác chết, dung mạo rữa ra, hai mắt đen sì, miệng chỉ là cái hốc há to. Điếu bát sợ đến đờ người, tay cầm súng mà toàn thân run lẩy bẩy. Tôi nghĩ: “Người chết hàng nghìn năm rồi mà vẫn có thể lại được sao? Nghe xác chết di chuyển được gọi là ‘hành thi’, nếu để nó vồ phải nguy to.” Tôi vội giật khẩu súng trong tay Điếu bát, nhắm thẳng đầu xác chết bóp cò, hai viên đạn bắn trúng đầu xác chết, bên đầu vỡ nát, chiếc vương miện “Lộc thủ bộ dao quan” cũng bị bắn hỏng, xác chết đổ ập xuống đất ngay trước mặt chúng tôi, còn nhúc nhích được nữa. Tôi vừa buông súng xuống làn khói đen bay ra từ nửa đầu còn lại của xác chết, tôi rọi đèn pin theo thấy đám khói đen đó giống như là bóng ma. Tôi và Điếu bát tròn mắt nhìn nhau, cảm giác như gặp ma thực , tất cả các lỗ chân lông người đều giãn ra. Trong chớp mắt, chiếc bóng đó nhập vào người tên eo rắn. Tên eo rắn vừa nãy tắt thở, giờ bỗng đứng bật dậy, miệng phát ra tiếng kêu kỳ quái, hai mắt chuyển thành màu đen. 7 Nghe linh là hồn của người chết, vốn là vô tri vô giác. Nhưng nếu oán khí tiêu tán hết nhập vào xác chết để bắt người, đến chết cũng buông tha. Nhưng đây cũng chỉ là cách mê tín của người xưa. Ô cửa quan tài cũng là để linh ra vào. Tôi vốn tin, nhưng có thể là trước đó chưa từng nhìn thấy, giờ trước mắt tình hình khẩn cấp, còn thời gian để suy nghĩ, xác chết tiến đến chỗ Điếu bát, tôi vội cầm lấy súng bóp cò nhưng có đạn mới sực nhớ ra lúc nãy dùng súng bắn vào xác chết nữ, vẫn chưa kịp nạp đạn, lúc này mà nạp đạn còn kịp nữa. Tôi xoay báng súng định phang vào xác chết bị nó tóm lấy, chỉ cảm thấy lực mạnh kỳ lạ giữ lấy báng súng, xác chết giật lấy cái, chiếc súng tuột ra khỏi tay tôi. Tôi tiện tay cầm vội chiếc xẻng lên, dùng hết sức bình sinh phang vào xác chết, chiếc xẻng rất sắc, cắt đứt đầu hành thi, chiếc đầu lăn lông lốc mặt đất, thi thể liền đổ ập xuống. Chúng tôi lại nhìn thấy chiếc bóng đen bay ra từ xác tên eo rắn, dật dờ lúc lúc . Tôi nghĩ bụng: “ hay rồi! linh này nếu nhập vào ai người đó trở thành hành thi, muốn đối phó với nó phải nhân cơ hội khi nó chưa nhập được vào ai!” Lúc đó tình huống cấp bách, trong cái khó ló cái khôn, tôi cho rằng hồn thể địch nổi dương khí của người sống nên chúng tôi ra sức thổi vào chiếc bóng đó, bóng ma lập tức tan ra. Điếu bát thấy chiêu này của tôi có hiệu quả cũng tiến tới giúp tôi tay, hai người ra sức thổi cho tới lúc còn thở được nữa. Chúng tôi soi đèn pin tìm xung quanh thấy bóng dáng chiếc bóng đâu, nghĩ rằng thoát hiểm, bỗng phía sau phát ra tiếng động, cả hai chúng tôi đều giật mình nhảy bắn lên khỏi mặt đất. Chúng tôi thở gấp, tìm đập thình thịch, quay đầu định thần nhìn lại, hóa ra là Mặt dày và Điền Mộ Thanh đào được đám đất đá kia ra. Họ nhìn thấy tên eo rắn nằm chết sóng soài, đầu nơi, thân nơi, xác chết nữ kia mất bên đầu, chiếc vương miện vàng “Lộc thủ bộ dao quan” hỏng, hai người vừa sợ vừa thấy khó hiểu. Điền Mộ Thanh hỏi tình hình, cầm chiếc vương miện dưới đất lên xem rồi : “Nghe các cụ kể lại, con người sau khi chết hồn về trời, phách về với đất. linh trong cương thi có thể là phách của người chết.” Điếu bát hỏi Điền Mộ Thanh: “Phách? cũng tin cái này à?” Điền Mộ Thanh là có tin hay , chỉ : “Những chuyện kỳ lạ đời ít, ếch ngồi đáy giếng chỉ nhìn thấy khoảng trời , phải lên tới đỉnh núi mới nhìn xa thấy rộng được.” Điếu bát với tôi và lão Mặt dày: “Các cậu nghe xem, người ta có lý , thế nào được gọi là nhả ngọc phun châu? Đây chính là nhả ngọc phun châu đấy.” Tôi lại cho rằng Điền Mộ Thanh chê bọn tôi là ếch ngồi đáy giếng nên bực bội trong lòng, : “Khâm phục ! giáo Điền Mộ Thanh chữ nào cũng quý như ngọc, chúng tôi cũng chỉ biết được vài mặt chữ, làm sao mà so sánh với được.” Điếu bát lại: “Huynh đệ, phải cậu đâu, bình thường cậu học được cách khiêm tốn, nghe thấy lời đúng lời hay cậu đế thêm vài câu là cậu chịu được sao. Người ta đây phải ám chỉ cậu.” Mặt dày từ trước tới giờ vốn quan tâm tới những chuyện chữ nghĩa, ta : “Thôi thôi, mấy người có học xong mấy lời có học rồi tới lượt người thô lỗ như tôi được rồi chứ. Tôi thấy tên eo rắn này chết cũng đáng rồi, nhưng chiếc vương miện kia chẳng có tội tình gì, đó là vật báu vô tiền khoáng hậu. Nó vốn chẳng gây với ai, thế mà lại bị thằng cha này bắn cho nát hết cả, nhưng dù sao có vẫn còn hơn , dù gì nó cũng là bằng vàng, lấy về chắc cũng đổi được ít tiền...”, rồi ta lấy lại chiếc vương miện từ tay Điền Mộ Thanh và cả chiếc đai ngọc xác chết nữ đều cho hết vào trong chiếc túi da rắn rồi cất vào ba lô của ta. Cả bọn đều biết nơi đây thể ở lâu, đại điện có cỗ quan tài bằng gỗ mun có thể chỉ là phần tiền điện, khi sàn nhà bị nổ để lộ ra đường hầm, phía dưới cũng là hầm mộ, các điện thờ được phân chia theo địa thế của hang động và theo quy cách thường gặp, đó là tiền, trung và hậu điện. Trong địa cung này vẫn có khí lưu thông chứng tỏ nơi đây thông với bên ngoài. Nhưng đoạn đường hầm này dài lắm, bốn người chúng tôi khoảng mười bước thấy ba chiếc cửa vòm bằng đất, chiếc chính giữa to, hai bên , phía trong là mấy cái hầm dài dựng đứng, sâu hoắm, nhìn lên thấy đỉnh nhìn xuống dưới thấy đáy. Điếu bát tặc lưỡi : “Ghê ! Cả cái hầm rộng thế này, lẽ là giếng dương? Mọi người biết đấy thôi, tương truyền thời Tần Thủy Hoàng còn tại vị, nghe địa thế núi Dự Tây giống như hình con rồng phủ phục, ông ta lo ngại trung nguyên xuất hoàng đế mới nên lệnh cho quân lính đào cái hang lớn trong núi để tuyệt long khí, ngờ chiếc hang đó đào quá sâu, cuối cùng thông xuống tận dòng sông ngầm, nên sau đó mọi người gọi nó là giếng dương, lúc đó có người thử thả con vịt xuống dưới giếng, ba ngày sau, con vịt đó bơi được ra sông Hoàng Hà.”
Chương 15: Quan ngọc tượng vàng 1 Phía cuối đường hầm là cái hố rất sâu, bốn phía đều là đất nện, đường kính khoảng hơn mười mét, độ rộng dưới bằng nhau giống như hố giếng vậy. Chỗ bậc thang sát bên thành hố để xuống bên dưới bị hỏng, chỉ còn lại những mô đất nhô ra bên ngoài. Điếu bát : “Có thể Tần Thủy Hoàng đào xuyên vào long mạch của giếng dương, thả vịt xuống giếng, chỉ vài hôm là nó bơi ra sông Hoàng Hà được.” Tôi : “Đó chỉ là những lời đồn có căn cứ, làm sao biết được có phải cùng con vịt hay ? Chúng ta đều cảm nhận được chiếc hố này rất lớn, rất sâu, nhưng vì xung quanh quá tối, tầm nhìn chỉ vài mét, xa hơn nữa nhìn thấy gì, chẳng khác nào “thầy bói xem voi”, nhưng phía tường còn dấu vết của bậc thang, chứng tỏ bên dưới thông tới nơi nào đó.” Mặt dày sờ lên chỗ tường đất, : “Mẹ nó cứng , chẳng cạy được tí đất nào, cứ như đá chứ phải là đất.” Tôi : “Hình như là đất nện chuyên dùng cho mộ cổ, loại đất này càng để lâu càng cứng, hoàn toàn lo bị ảnh hưởng thời tiết, dùng xẻng đào cũng được, chúng cứng như đá, cũng sợ ngấm nước.” Điếu bát xem xét lúc, gật đầu : “ sai, đúng là đất nện hỗn hợp, loại đất mà bát thịt đổi lấy bát đất đấy.” Mặt dày hỏi lại: “Dùng thịt để đổi đất? Thế chẳng thà ăn thịt luôn cho xong, hố đất rộng thế này bao nhiêu thịt cho vừa?” Điếu bát : “Ai bảo là dùng thịt để làm đất nện hỗn hợp đâu. Ý là bát đất này có giá trị như bát thịt, làm loại đất này dễ dàng như cậu tưởng đâu.” Mặt dày vẫn còn nghi ngờ: “Đất ở đâu chẳng có, muốn đào bao nhiêu chẳng được, có gì khó đâu.” Điếu bát giải thích: “Cậu thử nghĩ xem, nếu đào đại bát đất nào đó đều có thể đổi bát thịt ăn tại sao người xưa lại phải khởi nghĩa? Tôi để cho cậu biết, để làm được đất nện hỗn hợp là rất khó, phải chọn loại đất sét vàng thuần khiết có tạp chất, trộn với cát mịn, bùn dưới ruộng sâu, đất tường của những ngôi nhà có niên đại lâu năm với công thức bí truyền, phải trộn trộn lại cho đều, nhuyễn, nếu đất có thể rất cứng, nhưng gặp lúc thời tiết nóng ẩm hoặc trời lạnh vẫn bị rạn nứt. Vì vậy tuyệt được ăn bớt nguyên liệu. Giờ cậu còn làm đất nện hỗn hợp dễ nữa ? Thế vẫn còn chưa xong đâu, còn phải thêm lòng trắng trứng đánh tơi, nước cơm nếp, những người mê tín thậm chí còn dùng máu của trẻ con, nên đất nện hỗn hợp để càng lâu năm càng cứng. Tôi dùng bát thịt đổi bát đất là còn rẻ đấy.” Mặt dày : “Cũng cầu kỳ đấy nhỉ, nhưng người xưa bày vẽ như vậy thấy mệt à?” Điếu bát : “Tất nhiên là vừa mệt vừa vất vả rồi, nếu sao ai cũng muốn làm hoàng đế chứ, nhưng có mệt mấy cũng có nhân dân làm rồi, hoàng đế chỉ có việc chết rồi nằm ở đây là xong.” Tôi : “Ngôi mộ này chôn ai cũng rất khó đoán. Tôi thấy trong địa cung này ít nhất cũng có ba cái hầm thượng, trung và hạ. Nếu vậy các hầm thông nhau, chừng xuống bên dưới mới là chính điện.” Mặt dày vứt bó đuốc xuống bên dưới, rơi xuống đáy chỉ còn làm đốm lửa , ít nhất cũng sâu mấy chục mét. Phía dưới có nước, cũng có chỗ để đặt chân, đành phải xuống dưới tìm lối thôi. Chúng tôi buộc các sợi dây thừng lại với nhau, đầu buộc cố định tại chỗ phiến đá chắn cửa, đầu thả xuống dưới. Tôi đeo súng lên vai, cầm đèn pin lần theo dây thừng xuống phía dưới, phải lúc lâu sau mới tới đáy. Dưới đáy cũng là đất, ba phía đều là tường đất, phía còn lại là lối , vị trí ngay phía dưới đại điện ở tầng . Nếu sàn nhà đại điện bị nổ tung chúng tôi tài nào phát được lối ngầm phía dưới này, càng thể tới được chính điện. Tôi giơ cao ngọn đuốc lên xoay vòng tròn ra hiệu, ba người phía nhận được tín hiệu cũng lần lượt xuống. Tôi chỉ về phía trước với Điếu bát: “Đây mới là chính điện, cũng có thể quan ngọc tượng vàng đều ở trong này!” Chúng tôi chuẩn bị tiến vào thấy Điền Mộ Thanh hai vai rung lên bần bật, thần sắc hết sức hoảng sợ, hỏi ấy sợ gì lại cúi đầu . Điếu bát với tôi và Mặt dày: “Chắc là sợ lại gặp thi biến ở đây đấy mà, chẳng gì ấy, đến đây mỗi khi nhớ tới cảnh bọn kia mở quan tài ở đại điện vẫn còn thấy sợ, may mà lấy được chiếc đai ngọc và vương miện Lộc thủ bộ dao quan, đó đều là những báu vật tầm thường chút nào, bán được những thứ này cả ba em mình ăn cả đời hết tiền. Theo , thêm việc bằng bớt việc, chủ nhân ngôi mộ chẳng liên quan gì tới chúng ta. Phải tranh thủ tìm đường ra ngoài tránh đêm dài lắm mộng, cuối cùng lại thành “gàu trúc gánh nước, kết quả lại thành ”.” Mặt dày : “Lộc thủ bộ dao quan bị bắn hỏng rồi, vào tới tay bọn mình chẳng qua cũng chỉ là vài miếng vàng, được bao nhiêu tiền chứ? Bỏ qua cơ hội này còn cơ hội thứ hai nữa đâu, chơi là phải chơi quả đậm, hơn nữa tìm đường ra thể nào chẳng phải qua chính điện, tiện tay vớ vài món cũng chẳng sao.” Trong lúc chuyện chúng tôi tới lần cửa vòm ở phía cuối đường hầm, cánh cửa đá dày dặn chắc chắn được đóng kín. Phía có những hoa văn nổi hình tròn, chúng tôi đẩy thử cánh cửa nhưng thể mở được. Cánh cửa đá lừng lững như ngọn núi, chỉ sợ có dùng mấy trăm cân thuốc nổ cũng mở được cửa. 2 Chúng tôi cùng tiến lên đẩy cánh cửa của chính điện nhưng giống như chuồn chuồn đẩy cột đá, cả bọn đành đứng nhìn cánh cửa thở dài. Trong lòng núi có ba tầng hầm, phân thành thượng, trung, hạ, tầng cuối cùng chính là ở đây, còn đường tiếp nữa. Điếu bát ngồi bệt luôn xuống đất, : “ nhấc nổi chân nữa rồi, mọi người ngồi nghỉ lúc .” Chúng tôi từ động Ngư Khốc tới địa cung, dọc đường chỉ nghỉ lần, tới giờ phút này ai nấy đều gần như kiệt sức, vừa đói vừa mệt. Ngặt nỗi bị bọn Hoàng phật gia đuổi theo gắt gao, luôn trong tình trạng nguy hiểm, chẳng ai có thời gian nghĩ tới đói và mệt nữa, giờ Điếu bát ra ai nấy đều có cảm giác thể nào gắng gượng thêm được nữa, tất cả đều ngồi xuống đất. Tôi lục ít lương khô trong chiếc túi da rắn ra chia cho ba người còn lại. Loại lương khô này có hàm lượng calo và dinh dưỡng cao, nhưng khẩu vị chẳng ra gì. Nhưng cho dù là thứ gì đều sợ bị so sánh, con người so sánh với nhau có thể dẫn đến chết, so sánh đồ với nhau có thể dẫn đến vứt bỏ đồ vật đó . So với loại bánh mì khô mà chúng tôi gặm trước đó lương khô là quá tốt rồi, huống hồ còn có cả thuốc lá. Mặt dày bực bội : “Chẳng công bằng chút nào, dựa vào đâu mà bọn Hoàng phật gia được ăn uống tử tế như vậy chứ?” Điếu bát : “Bọn nó có ăn ngon mấy đầu cũng bị chuyển nhà rồi, bọn mình giờ vẫn còn đồ ăn chứng tỏ ông trời còn thương kẻ hiền lành.” Mặt dày : “ thế cũng bằng thừa, bị kẹt lại dưới ngôi mộ cổ trong lòng núi Hùng Nhĩ này cho dù có ăn gan rồng mật phượng cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Điếu bát : “Cậu cứ yên tâm, em mình phúc lớn mạng lớn, chết được đâu, đến nỗi thể qua được cửa ải này.” Tôi ngồi cắm cúi ăn, có chút lót dạ, cảm thấy đầu óc tỉnh táo hẳn. Nghe Điếu bát và Mặt dày về cánh cửa đá ở chính điện liền soi đèn pin tới xem có chỗ nào có thể đào vào phía trong hầm để quan quách . Những kẽ hở của cánh cửa đá được dùng sắt nóng chảy bít kín, đúng là có chỗ nào để lách. Chợt tôi nhìn xuống sàn nhà, chừng có thể đào đường hầm từ chỗ sàn này vào bên trong. Tôi dùng cuốc chim bật gạch lên đào thử, quả nhiên bên dưới là đất, mặc dù cũng là đất hỗn hợp nhưng vẫn có thể đào được. Tôi gọi Điếu bát và Mặt dày tới giúp tay, Điền Mộ Thanh đứng bên cạnh cầm đèn soi sáng, ba người thay nhau dùng cuốc chim đào chiếc hố lớn ngay phía dưới cánh cửa đá. Đến lượt tôi nghỉ tay, tôi nghiêng mặt nhìn Điền Mộ Thanh, thấy cũng nhìn sang tôi, ánh mắt chạm nhau, hơi cúi đầu xuống, đôi hàng lông mi dài khép hờ trông như có tâm gì đó. Tôi hơi bất ngờ, trong lòng nghĩ: “Tại sao ấy cứ nhìn trộm mình nhỉ? Hay là nàng có ý gì với mình? Hoặc là có điều gì đó muốn ?” Tôi nghĩ chắc là ấy có điều gì muốn , cũng có thể bình thường tôi ăn chẳng đâu vào đâu khiến ấy chấp vặt, điều đó cũng chẳng có gì to tát. Nhưng nghĩ lại thấy ánh mắt Điền Mộ Thanh nhìn tôi giống như mặt tôi có gì đó rất lạ khiến ấy chú ý. ý nghĩ vụt lên trong đầu khiến tôi giật mình thất kinh, tôi hỏi Điền Mộ Thanh: “Có phải sắc mặt tôi kém lắm ?” Điền Mộ Thanh gật gật đầu, hỏi: “ bị mất ngủ bao lâu rồi?” Tôi : “Chẳng trách mà cứ nhìn tôi rất lạ. Từ tới giờ chưa có ai quan tâm tới tôi như vậy, tôi cảm động tới nỗi muốn sà ngay vào lòng đấy.” Điền Mộ Thanh : “ thế kia rồi mà còn chẳng ăn cho đàng hoàng gì cả.” Trước đó Mặt dày cũng mắt tôi sâu hoắm, dường như sắp tuột ra ngoài rồi. Thực tình trong lòng tôi hơn ai hết, tôi mất ngủ vì xem bức bích họa trong ngôi mộ của thời Liêu, bức tranh vẽ trong lòng ngọn núi to có tượng vàng, có quách lớn, xung quanh túm tụm rất nhiều người, phía có sói ăn mặt trăng. Giống như bị mắc lời nguyền, suốt ngày tôi mơ thấy con ma bước ra từ trong quan tài với chiếc bụng thủng lòi ruột. Chắc đó cũng chính là cơn ác mộng mà lúc còn sống Khiết Đan kia từng nằm mơ. Nó rất giống với lời đồn về ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ. Ác mộng ngày hơn, khiến gần đây tôi dám ngủ, chỉ sợ lại gặp phải con ma đó về. Tất cả những điều này đều liên quan tới ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ, khi vào gian chính điện rồi, tôi cũng biết gặp phải điều gì, nhưng chắc chắn là điều kinh thiên động địa. 3 Lúc này Mặt dày đào được khe xuyên qua cánh cửa đá, ta thắp đuốc, cầm khẩu súng săn lên nòng sẵn và chiếc túi da rắn rồi chui vào bên trong. Tôi suy nghĩ mãi về bí mật chủ nhân ngôi mộ cổ trong lòng núi Hùng Nhĩ, sớm muộn gì cũng bị ma quỷ hành cho đến chết, nên coi thường cái chết, chui vào bên trong xem xét tình hình. Điếu bát trước đó còn dám mở quan tài lần nữa để lấy đồ, nhưng giờ đây khi đào được đường vào chính điện quên mất trước đó mình gì. Tôi và Điếu bát cùng với Điền Mộ Thanh theo phía sau Mặt dày, từng người chui vào bên trong chính điện. Phía sau cửa đá là lần cửa gỗ, sau cửa có trục xoay, có thể vặn trục xoay để mở cửa. Bên trong chính điện tối đen như mực, trông có vẻ rất rộng lớn. Chúng tôi thắp cả đuốc và bật đèn pin lên cũng chỉ soi sáng được phạm vi mười bước chân. Bốn phía tường đều có những bệ đèn bằng đồng đúc hình cung nữ quỳ, bên trong vẫn còn dầu. Mặt dày thắp sáng những chiếc đèn dầu đó lên, gian chính điện sáng hơn trước rất nhiều. Chúng tôi nhìn thấy những hoa văn nền đá đều là hình mây vờn, hổ báo, núi cao v.v... trong nét hoa lệ trang nghiêm toát lên vẻ tiên khí. Phía tận cùng đại điện là cỗ quan tài rất lớn, lớn hơn những cỗ quan tài bình thường rất nhiều, chiếc quan tài bị dùng dây xích buộc ba vòng lưng con thú bằng tượng đá, xung quanh có nhiều bức tượng mặc áo giáp, khi ánh lửa chiếu tới những bức tượng này, khuôn mặt những bức tượng lóng lánh ánh vàng, nét mặt giận dữ đáng sợ, trông giống như những bức tượng trấn điện. Chúng tôi mải nhìn ngắm những bức tượng mặc áo giáp phát những bức tượng này đều đội mũ cao, áo giáp người là những mảnh ngọc kết thành, hóa ra các bức tượng này đều được mặc áo giáp bằng ngọc. Tôi biết tượng trong mộ được chia làm nhiều loại, ví dụ trong mộ Tần Thủy Hoàng, có tượng đất nung chôn theo tùy táng, còn loại tượng đặt bên cạnh quan tài thường được gọi là tượng trấn điện, có nhiều hình thù khác nhau, như tượng dũng sỹ, tượng cung nữ v.v... tượng được mặc áo giáp ngọc như trong hầm mộ này lần đầu tiên tôi nhìn thấy, trước đó cũng chưa từng nghe tới. Điếu bát tròn mắt đứng nhìn, luôn miệng tặc lưỡi khen: “Người xưa mê tín, cho rằng con người có ba hồn bảy vía được đặt trong cửu khiếu [1] , sau khi chết , hồn phách thoát ra ngoài qua chín lỗ cơ thể, thi thể con người vì thế bị phân hủy dần. Chính vì vậy, nên người xưa thường dùng các miếng ngọc để bịt kín các hốc lại, giúp cho thi thể được giữ nguyên vẹn mãi mãi. Quan niệm này có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, truyền tới thời Hán xuất các loại áo bằng ngọc, các miếng ngọc được nối với nhau bằng các sợi chỉ bằng vàng, khắc chìm các hoa văn hình rồng, nên còn được gọi là Giao long ngọc giáp. Những bức tượng này phải mặc áo giáp ngọc mà là bị nhốt trong cũi ngọc. Mọi người nhìn xem, phần đầu tượng đều bằng vàng, người trùm lớp áo bằng ngọc, biết thân tượng có phải bằng vàng . Nếu toàn bộ bức tượng đều bằng vàng, lại mặc lớp áo ngọc khủng khiếp.” [1] Cửu khiếu: Tức chín lỗ, gồm 2 mắt, 2 lỗ mũi, 2 tai, miệng, hậu môn, lỗ tiểu. Mặt dày cúi đầu nhìn xuống chiếc túi da rắn rồi lại ngẩng đầu lên nhìn những bức tượng, những bức tượng vàng đều cao hơn người bình thường nửa cái đầu, cho dù chiếc túi có to tới đâu cũng nhét vừa, tượng lại chỉ có bức, khiêng cũng vác được, giống như sơn hào hải vị bày ra bàn mà chỉ được ngửi mùi hương chứ được ăn, đúng là khó chịu. Tôi Mặt dày khoan hãy động vào những bức tượng đó, chưa từng nghe ai dùng tượng vàng để trấn điện cả, huống hồ áo ngọc thường là dùng cho các bậc đế vương mặc sau khi băng hà, thời Hán chỉ có Thiên tử mới được mặc áo ngọc khâu bằng chỉ vàng, các chư hầu và vương gia chỉ được dùng chỉ bạc hoặc đồng. Tới tận thời Hậu Hán, khi Tào Tháo có lệnh loại nào cũng được dùng tục tùy táng áo ngọc mới chấm dứt triệt để. Hơn nữa, chủ nhân ngôi mộ nằm trong quan tài kia là ai? Tại sao mấy thứ này lại có thể mặc người những bức tượng trấn điện được? Mặt dày : “Những thứ cậu chưa thấy bao giờ còn đầy ra đấy, những chiếc áo ngọc này mặc người bức tượng vàng cậu làm được gì nó? lại, nếu những bức tượng trấn điện này đều bằng vàng chúng ta thể nào di chuyển được...” rồi, ta giơ tay ra vỗ vỗ vào đầu bức tượng vàng, ai ngờ vừa mới động vào đầu tượng rơi xuống đất, phát ra tiếng kêu nghe rất nặng nề. Mọi người đưa mắt nhìn nhau: “Sao đầu tượng lại rơi xuống được? lẽ đầu tượng và thân tượng gắn liền với nhau?” Lúc đó, mùi hôi thối bốc lên, cầm đuốc lại gần mới biết đầu tượng bằng vàng, còn bên trong tấm áo bằng ngọc là xác chết khô đét. Hóa ra, trong những bức tượng trong chính điện này đều là những xác chết đầu, xác chết để trong áo ngọc là giúp bị phân hủy, tất cả đều khô đét, đầu bị chặt đâu, bên lắp chiếc đầu bằng vàng thay thế. Điền Mộ Thanh nhìn thấy cảnh tượng đó sợ hãi vô cùng, tôi lại băn khoăn: “Thường tượng trấn điện có tượng đất, tượng đá, tượng ngọc, nhưng chưa bao giờ thấy loại tượng vàng bên trong có người mất đầu cả, cho dù là người tùy táng cũng nên chặt đầu rồi lắp đầu tượng vàng lên . Những xác chết đầu này là để làm gì? Tại sao họ lại bị chặt đầu?” Mặt dày : “Chắc là chủ nhân ngôi mộ thấy những người này chưa đủ độ hoành tráng nên chặt đầu họ để thay chiếc đầu vàng vào, là phóng khoáng.” Tôi tài nào hiểu nổi tại sao lại dùng xác chết đầu để làm tượng trấn điện, chắc chắn phải lý do như Mặt dày vừa . Những chuyện kỳ lạ trong núi Hùng Nhĩ quá nhiều, mỗi chuyện đều khiến cho chúng tôi tài nào lý giải nổi. Mặt dày : “Những chuyện lạ khiến người ta hiểu nổi còn nhiều lắm. Tại vùng Tây Bắc, trước giải phóng, dân đổ đấu truyền nhau câu chuyện, trong lần đào mộ, họ chẳng đào thấy vàng bạc châu báu đâu, mà đào được bị chôn sống hơn mấy trăm năm, lạ kỳ ở chỗ đó vẫn còn sống, kể lại tỉ mỉ chuyện năm xưa. Cậu xem có lý giải nổi ? Làm nghề này như bọn mình nên nghĩ ngợi quá nhiều.” Điếu bát cũng : “Cậu đừng nghĩ nhiều quá, chúng ta chẳng biết ngôi mộ này chôn ai, có nghĩ cũng bằng .” Tôi ngẫm cũng phải, ngước mắt lên nhìn cỗ quan tài phía trước, người chết nằm trong cỗ quan tài kia chắc chắn tầm thường chút nào. 4 Mặt dày : “Có mở nắp quan tài cũng chưa chắc biết, cậu còn mong người chết trong quan tài mở miệng cho cậu biết chắc?” Điền Mộ Thanh : “Các đừng động vào chiếc quan tài trong đại điện, tôi sợ là có chuyện.” Tôi hiểu ý ấy, nhưng mở quan tài xem cho ràng ác mộng trong bức bích họa mộ cổ thời Liêu mãi vẫn còn ám ảnh tôi, sớm muộn gì cũng bị nó hành hạ cho tới chết. Có điều, tôi muốn liên lụy đến người khác, trong chính điện ẩm thấp đến nghẹt thở, xem địa thế dường như ở dưới đáy hồ, chừng có thể thông ra các ngọn núi xung quanh. Tôi Điếu bát và mọi người tìm đường ra, mình tôi ở lại. Điếu bát lên tiếng: “Huynh đệ đừng những lời này, bình thường hay nhát gan, nhưng đó là chưa gặp chuyện, gặp chuyện rồi quyết lùi bước.” Mặt dày cũng : “Tôi nhiều, cùng lắm là chết chung với cậu.” Tôi : “Có câu này của các tôi cũng phải nhiều nữa, chúng ta hiểu trong lòng là được.” Mặt dày : “Đúng thế, cần phải gì hết, chúng ta lặn lội tới đây chẳng phải là để đào mộ lấy bảo vật sao? Đồ trong quan tài ở gian chính điện này chắc chắn còn giá trị hơn cả vương miện Lộc thủ bộ dao quan, chúng ta cùng mở quan tài thôi.” Điền Mộ Thanh đứng bên cạnh nghe chúng tôi vậy vội can ngăn, nhưng chẳng ai chịu nghe, mọi người cùng tiến về chỗ chiếc quan tài. Mặc dù rằng người sợ ma ba phần ma sợ người bảy phần. Nhưng mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ này rất quái dị, ai dám hành lỗ mãng. Ánh đèn đuốc chiếu tới chỗ quan tài này còn ràng nữa, chúng tôi phải bật đèn pin lên hỗ trợ mới nhìn thấy chi tiết cụ thể quan tài. Các họa tiết quan tài phân thành hai màu đen và đỏ, có mấy vòng xích bằng đồng quấn bên ngoài quan tài. Chiếc quan tài được đặt lưng bức tượng đá mặt người mình hổ, có mấy chiếc vòng đồng gắn chặt lấy chuỗi dây xích. Quan tài có từ rất xa xưa, đầu tiên được làm bằng gỗ. Nhưng vì làm bằng gỗ nên dễ bị mục nát, bởi vậy ai nhìn thấy quan tài thời Tây Chu được làm như thế nào, quan tài bằng đá rất ít, có thể nghìn năm mới gặp được lần. Dân đào trộm mộ thời trước có truyền nhau có người cũng đào được mộ thời trước Tây Chu, quan tài cổ là gốm sứ nung, hình dạng giống chiếc vại lớn, bên có họa tiết hình cá. Tới thời Hán, Đường, quan tài được làm bằng gỗ hoặc ngọc, nhưng cũng rất ít gặp. Điếu bát chặc lưỡi : “Vừa đen lại to thù lù thế này, có phải là gỗ chò nhỉ?” Tôi : “Tôi thấy giống như gỗ chò chỉ vàng, nhiều lăng tẩm hoàng thất cũng có quan tài làm bằng loại gỗ này, riêng cỗ quan tài này thôi cũng là bảo vật vô giá rồi!” Mặt dày cầm cuốc chim định mở nắp quan tài, nghe vậy chen ngang: “Gỗ chò tôi cũng nhìn thấy rồi, đây chẳng qua cũng chỉ là cỗ quan tài làm bằng gỗ thôi mà, chỉ có điều nó quá to so với bình thường, sao có thể là báu vật vô giá được, nó còn có giá hơn chiếc vương miện Lộc thủ bộ dao quan à?” Điếu bát : “Cậu biết đấy thôi, vạn lạng vàng cũng bằng tấm gỗ mun này đâu. Gỗ mun là chuyên chỉ gỗ chò chỉ vàng, đơn giản đâu. Thực ra gỗ mun và gỗ chò đều phải là loại gỗ hiếm, nhưng chò chỉ vàng lại khác. Nó còn có tên gọi là Sa, trong ngạn ngữ dân gian có câu: “ Sa tòng lai thế gian hy, cảm hòa châu ngọc đẩu kinh kỳ”, phải là những cây mọc trong rừng sâu núi thẳm hàng tỉ năm, thân cao trăm mét, mấy chục người ôm xuể. Loại chò này tuyệt chủng từ lâu, bị chôn vùi dưới đất lâu năm hóa thạch thành loại gỗ màu đen. Những loại gỗ này trông bề ngoài đen đủi xấu xí nhưng bên trong có những hoa văn màu ánh vàng, cứng như thép, sợ nước cũng sợ lửa, loại côn trùng mối mọt nào gặm nhấm được. Có người từng thử để miếng thịt vào trong gỗ chò chỉ vàng này, mấy năm sau lấy ra vẫn còn tươi nguyên như ngày đầu. Quan tài của vua Càn Long chính là được làm từ loại gỗ này, nhưng cũng to bằng cỗ quan tài này, tiếc là thể mang nó được.” Mặt dày : “Nếu mang được cũng đừng tiếc nữa, mở quan tài ra xem bên trong có gì.” Điền Mộ Thanh : “Hóa ra phải mất hàng nghìn năm mới hình thành được loại gỗ mun này, con người sống được có mấy chục năm nên phá hỏng báu vật vô giá này.” Mặt dày : “Ôi giời! giáo Điền là giác ngộ cao quá, làm tôi dám nhìn thẳng vào mắt nữa.” Tôi : “Nếu chúng ta đục thủng chiếc quan tài bằng gỗ chò chỉ vàng này cũng tốt, tôi thấy chiếc quan tài này bị đóng đinh mà chỉ lấy dây xích chằng xung quanh, chặt đứt đám dây xích kia là có thể mở quan tài được rồi.” Mặt dày nóng ruột muốn xem bên trong có báu vật gì, mới nghe vậy cầm cuốc chim chặt đứt vòng xích bằng đồng. Vòng đồng to bằng cổ tay trẻ con, được cố định hai đầu nơi đế kê của bức tượng mặt người mình hổ, cho dù ta có sức mạnh tới đâu cũng phải mất lúc lâu sau mới chặt đứt được cái. Chúng tôi chỉ có chiếc cuốc chim, muốn giúp ta cũng được, đành đứng bên cạnh soi sáng cho ta. Lúc này, tôi chú ý thấy đỉnh nắp quan tài có những họa tiết hoa văn nổi, soi đèn pin lại gần thấy đó là hình vị thần nhiều đầu nhiều tay rất kỳ lạ. Mỗi cái đầu đều đeo mặt nạ, mỗi lòng bàn tay đều có con mắt. Điếu bát cũng chăm chú nhìn hình khắc đó, còn lấy tay sờ lên đầu lên mặt của bức tượng, đột nhiên hỏi tôi trong địa cung có bao nhiêu bức tượng trấn điện. Tôi đoán ta chắc là nghĩ tới điều gì đó, nhưng tôi cũng chẳng để ý có bao nhiêu bức tượng trấn điện, liền quay lại đếm, đúng hai mươi tư bức. Hình khắc nắp quan tài cũng có đúng hai mươi tư đầu, vậy nghĩa là gì? Điếu bát thầm như kiểu sợ người nằm trong quan tài nghe thấy: “Tôi biết người được chôn trong địa cung này là ai rồi.”
5 Tôi và Điền Mộ Thanh đều nhìn sang Điếu bát chờ ta tiếp xem rốt cuộc người nằm trong cỗ quan tài kia là ai? Điếu bát : “Trước đó sao mình nghĩ ra nhỉ, người được chôn trong núi Hùng Nhĩ chính là Na Vương.” Tôi hỏi lại: “Địa cung phân thành ba tầng thượng trung hạ, quan tài làm bằng gỗ chò chỉ vàng, bên trong lại có nhiều tượng trấn điện đầu vàng, tôi cũng đoán là mộ của vương hầu nhưng biết là còn có Na vương, đó là vương hầu của triều đại nào vậy? được nghe về Na vương từ đâu thế?” Điếu bát : “Mới đầu cũng mờ mịt như cậu thôi, tới lúc nhìn thấy hình khắc kỳ dị nắp quan tài, mỗi chiếc đầu đều đeo mặt nạ, rồi liên tưởng tới những bức tượng đầu vàng mới nghĩ tới hai năm trước trong lần Giang Tây mua hàng, cũng nhìn thấy mấy chiếc mặt nạ bằng vỏ cây. Hỏi người trong vùng đó là thứ gì được người ta cho biết đó là Na Diện. Lúc đuổi ma đuổi quỷ, trừ tà người ta thường nhảy điệu Na, Na Diện thực ra chính là mặt nạ được dùng lúc múa điệu Na trừ tà đó. Tôi cứ nghĩ chẳng ai biết món hàng này nên lúc đó mua lại. Nhưng cũng được nghe kể nhiều câu chuyện về Na thần và Na vương từ người dân địa phương. Những bức tượng bên trong có xác chết mất đầu đó chính là các Na tướng quân thời Tây Hán...” Tôi nhớ lại đêm trước khi chúng tôi lên núi Thảo Hài Lĩnh, xác chết trong ba cỗ quan tài đó đều đeo mặt nạ vỏ cây, chỉ do ngâm trong nước lâu năm nên màu sắc trước đó còn. Sau đó chúng tôi gặp thi thể nữ đeo vương miện Lộc thủ bộ dao quan cũng có đeo mặt nạ vỏ cây, bên khắc hình quái, hóa ra đó đều là mặt nạ Na, những bức tượng trấn điện chính là Na tướng quân, nhưng đầu của họ đâu cả rồi? Điếu bát : “Hán Vũ Đế Lưu Triệt, là người to béo, chinh phạt quân Hung Nô mở đường tới Tây Vực, có công mở mang bờ cõi, lưu danh đến đời sau. Làm hoàng đế như ông ta cũng gọi là làm tới đỉnh rồi, chỉ hiềm nỗi thể trường sinh bất lão. Ai làm hoàng đế mà chẳng sợ chết đúng ?” Mặt dày vừa chặt dây đồng vừa chen ngang: “Tôi thấy chưa chắc, thực ra có làm hoàng đế hay chẳng ai muốn chết cả. muốn chết cũng dễ thôi mà, uống nhiều canh ba ba vào trường sinh bất lão ngay.” Điếu bát : “Hán Vũ đế có uống canh ba ba tôi biết, chung là ông ta muốn chết. Vì vậy mà ông ta rất tin vào phù thủy thần thánh. Từ rất xưa rồi, bên bờ sông Hoàng Hà có vương quốc tên là Na, sau khi vương quốc này bị diệt vong, nó tồn tại trong dân gian dưới hình thức tôn giáo, cũng là giáo phái riêng như Đạo giáo hay Phật giáo vậy, các tín đồ vẫn gọi giáo chủ là Na vương. Tới thời Hán, Na giáo phát triển mạnh, “Na” có nghĩa là nghi thức mời thần về trừ ma trừ tà. Cung Mạc Ương của Hán Vũ đế năm nào cũng mời thầy về làm lễ, nghi lễ còn được gọi là nhảy Sơn Tiêu, dùng để dọa ma quỷ, thầy tế cầm thanh hỏa kích dài, chân giẫm Thiên cương bắc đẩu, làm phép ở mọi ngóc ngách. Nhưng trong lần làm lễ trừ tà, họ vào nhầm cấm cung, Hán Vũ đế nổi giận chém đầu lúc hai mươi tư Na tướng. ngờ, oan hồn họ siêu thoát được, mỗi lúc màn đêm buông xuống, cung Mạc Ương lại có ma về phá phách, chuông ai đánh cũng tự kêu. Hán Vũ đế vừa hối hận vừa tức giận, còn cách nào khác đành cho xây miếu phong thần, truy phong hai mươi tư vị Na tướng làm Kim giáp đại tướng quân, cầu mong họ bảo quốc an dân, thiên thu vạn tải, hương hỏa lúc nào tắt. Từ đó đầu và thân hai mươi tư vị tướng quân được phân ra thờ cúng tại nhiều ban thờ khác nhau trong Na miếu. mỗi ban thờ đều có dòng chữ “Báo quốc an dân bảo phong hữu tại. Huy qua dương kiếm lợi quỳ tiềm tiêu”, cho tới tận ngày nay, rất nhiều nơi thờ cúng Na tướng quân cũng đều là những bức tượng đầu.” Tôi : “Đúng là câu chuyện đáng sợ. Trong miếu đường thờ Na thần là đầu người chết sao? Ngày nay vẫn còn tập tục này ư?” Điếu bát : “ phải đầu người , nghe chỉ là tượng đất thôi. Tương truyền những nơi thờ đầu Na gọi là Khai khẩu Na, lúc làm phép trừ tà ma thường niệm chú, nơi thờ thân Na gọi là Bế khẩu Na, khi nhảy điệu Sơn Tiêu được phát ra tiếng. Na giáo hưng thịnh thời, sau đó nguyên nhân vì sao mà lụi tàn dần. Ngày nay, số nơi tại vùng Kiềm Cám ở Tây Nam, người dân vẫn còn lưu giữ số phong tục cổ như nhảy điệu Sơn Tiêu đuổi tà ma. Nhưng trải qua hơn nghìn năm, tục Na ngày nay hoàn toàn giống với trước đây nữa rồi.” Tôi hỏi Điếu bát: “Chuyện trảm tướng phong thần tại cung Mạc Ương chỉ là truyền thuyết hay là có vậy?” Điếu bát : “Chuyện trảm tướng phong thần tại cung Mạc Ương chỉ là truyền thuyết trong dân gian, chuyện này có hay cũng khó mà biết được. Nhưng chuyện Hoàng cung thời Hán năm nào cũng làm lễ trừ tà ma có . Tôi thấy trong địa cung này đúng là có tượng trấn điện câu truyền thuyết kia cũng có cơ sở để tin.” Tôi nghĩ: “Những người dân thờ Na thần sinh sống ở quanh đây, trong lòng núi lại là nơi Na vương yên nghỉ giấc ngàn thu. Hàng nghìn năm trước, khi xảy ra đại nạn trời long đất lở, núi cao bỗng chìm xuống lòng hồ. Na giáo đột nhiên suy thoái, chừng cũng liên quan tới kiện này. Nhưng biết được chủ nhân ngôi mộ là Na vương rồi với những kiến thức mà chúng tôi biết được cũng chỉ là phần nổi của ngọn núi băng mà thôi. Na vương trong chiếc quan tài gỗ chò chỉ vàng kia tại sao lại bị mổ bụng chết thảm như vậy? Tại sao Na vương lại xuất trong bức bích họa tại mộ cổ nhà Liêu? Thiên cẩu ăn mặt trăng là có ý gì? Xác chết nữ đội vương miện Lộc thủ bộ dao quan và những hài cốt tại trung điện là ai?” Điếu bát : “Huynh đệ hỏi gì mà nhiều thế, cậu trả lời nổi đâu. Nhưng cậu nhắc tới chuyện mổ bụng lòi ruột nghe trong phong tục xa xưa của người Na, họ gọi đó là “Rút ruột”, ngày nay tại các vùng quê khi sưu Na nhảy Sơn Tiêu có phân vai người đóng Na tướng quân, người đóng ma hoàng. Na tướng quân khi bắt được bọn ma hoàng phải mổ bụng rút ruột ngay tại chỗ.” Tôi càng nghe càng thấy lạ: “Na tướng quân mổ bụng moi ruột ma hoàng? Vậy chẳng lẽ trong cỗ quan tài kia phải là Na vương mà là ma hoàng? Ma hoàng... tức là hồn ma của những người bị chết đuối dưới sông Hoàng Hà sao?” 6 Điếu bát giải thích: “Phong tục Na được duy trì hơn ba nghìn năm, diễn biến tới thời nay nó hoàn toàn khác với xưa, có rất nhiều tập tục được truyền lại, hoặc có nhiều biến tấu. Ví dụ như tục Khai khẩu Na để bắt ma hoàng mổ bụng moi ruột, ma hoàng ở đây phải là ám chỉ hồn ma dưới sông Hoàng Hà, mà là loại quái vật chuyên gây hạn hán trong truyền thuyết dân gian, sau khi xảy ra thi biến, nó trốn trong những nghĩa trang bỏ hoang hoặc dưới nhà dân, mình mọc đầy lông vàng, bộ dạng trông như khỉ, chính là oan khí của người chết biến thành. Người dân thường mời thầy về bắt ma, cũng hóa trang thành Na tướng quân, đầu đội mặt nạ gỗ cây long não hoặc mặt nạ vỏ cây, mặt đen miệng rộng, hai mắt lồi ra, nửa đêm đốt đuốc khua chiêng gõ trống, vẽ phù chú, niệm khẩu quyết bí truyền, lục soát khắp thôn này sang thôn khác, nhà nọ tới nhà kia để bắt ma bắt quỷ, hình thức cũng đơn giản thôi. Ngoài ra, còn có người hóa trang thành ma hoàng bị đuổi bắt phải bỏ trốn khắp nơi, sau đó bị Na tướng quân thu phục, đem tới trước mặt dân làng trói lại và mổ bụng moi ruột ngay tại chỗ. Phèo ruột trong buổi diễn đương nhiên phải là , thường dùng dây thừng để thay thế. Người dân tổ chức nghi lễ này để cầu mong mưa thuận gió hòa, xảy ra dịch bệnh. Nhưng cũng như tôi , tục bắt Na có từ hàng nghìn năm nay, có nhiều nội dung còn lưu giữ lại ý nghĩa ban đầu của nó, chỉ đơn thuần là lưu lại hình thức của tập tục.” Tôi hiểu ý của Điếu bát, thời xưa có tập tục bắt Na mổ bụng, nhưng chưa chắc là để bắt ma hoàng, người sau khi chết có thể nằm trong cỗ quan tài gỗ chò chỉ vàng, ngoài Na vương ra còn là ai vào đây chứ? Vấn đề ở chỗ Na vương là thủ lĩnh của hội Na giáo, tại sao lại bị mổ bụng moi ruột? Điếu bát do mấy năm trước có thu gom đồ ở vùng quê, được tận mắt nhìn thấy người dân tiến hành lễ bắt Na nên cứ thao thao bất tuyệt kể cho chúng tôi nghe, nhưng nhắc tới chuyện Na giáo của hàng nghìn năm trước ta cũng mù tịt biết gì. Chúng tôi dùng đèn pin soi lên phía nóc điện, xem xem lại hình ảnh của vị Na thần nhiều đầu, phát ra con mắt trong lòng bàn tay của vị thần hướng thẳng về phía bức tường sau chính điện, nhìn theo về hướng đó, chúng tôi thấy chiếc lỗ hình vuông được bít kín bằng những viên đá. Tôi biết đó chính là giếng vàng trong địa cung, như vậy hầm để quan tài được thông với bên ngoài bằng giếng vàng, thi thể người chết được bọc trong lớp áo bằng ngọc, đó chính là “Kim tỉnh ngọc táng”, phong tục mai táng cho các bậc vương hầu. Kim tỉnh trắng ra chính là lỗ thông khí, nơi chôn cất người chết kiêng kỵ gian bịt kín vì nó ứng với chữ “tử” nên khi đóng cửa điện đóng kín hoàn toàn. Địa cung trong ngôi mộ của Na vương được phân thành ba tầng, giếng vàng được đục tường cũng phải là điều hiếm gặp, theo cách của người trong nghề đây gọi là “độc nhất lộ”, nó cũng ảnh hưởng tới nguyên lý phong thủy lăng tẩm. Chúng tôi định tới đó xem ra sao Mặt dày chặt đứt được vòng xích bằng đồng buộc cỗ quan tài. Tôi và Điếu bát tiến lại giúp ta đẩy chiếc nắp quan tài ra, gỗ chò chỉ vàng nặng đến kỳ lạ, với sức của ba chúng tôi còn lâu mới nhấc được nắp quan tài lên, chỉ còn cách cố gắng đẩy nó sang bên, dựa tạm vào chiếc giường đá. Phía trong cỗ quan tài gỗ chò chỉ vàng còn lần quan tài nữa, chỉ thấy giữa khe hở của nắp quan tài mọc ra lớp đá mica rất dày, bám rất chắc, gần như che phủ hết chiếc quan tài bằng ngọc bên trong. Người xưa cho rằng đá mica là gốc rễ của các đám mây, nên còn có tên là Vân mẫu. Trong quan tài mọc ra từng đám đá mica là điều rất kỳ lạ. Nghe kể, năm xưa có số người khi đào trộm mộ cũng từng nhìn thấy đá mica, nhưng thực nhiều. Tại sao trong quan tài lại có thể mọc được đá mica, từ xưa tới nay chưa ai giải thích nổi, có người rằng trong quan tài có đá vôi, có ngọc bích để chống thi thể phân hủy, nhiều năm trôi qua, những thứ này biến thành thứ giống như đá mica, nhưng bản chất phải là đá mcia, cũng có khái niệm cho rằng đó là vỏ rồng của những gỗ cây nghìn vạn năm tuổi, chung là đủ mọi thể loại giải thích. Trước giải phóng, những thứ này rất có giá vì thời đó người dân còn tin những thứ này có thể ăn được, nhưng giờ đây chẳng ai còn tin vào điều đó nữa. Chúng tôi nhẫn nại dùng xẻng cạy các lớp đá mica đó ra mới nhìn thấy cỗ quan tài bằng ngọc phía bên dưới, ghé sát mặt tới gần còn cảm nhận được hơi lạnh phả lên, tôi biết đó là do tính hàn của ngọc. Lúc này, đèn đuốc trong điện đều được thắp sáng, chiếc quan tài bằng ngọc phát ra thứ ánh sáng rất lạ, nó được làm bằng ngọc trắng màu mỡ dê, chút tì vết. Điếu bát xuýt xoa: “Loại ngọc trắng này chỉ có ở vùng cực Tây, bình thường chỉ miếng thôi cũng đắt lắm rồi. Nếu tận mắt nhìn thấy thể tưởng tượng được có cả cỗ quan tài làm bằng ngọc trắng như thế này, cũng chỉ có loại quan tài như vậy mới có thể xứng với gỗ chò chỉ vàng.” Mặt dày sốt ruột : “Quan tài bằng ngọc mà mang được có gì để xem đâu, mau xem bên trong có gì , giờ chỉ còn trông mong vào bên trong đó thôi.” Điếu bát : “Cậu đúng là cái tính ăn được cháo nóng, đây đâu phải việc có thể ăn xổi, phải xem cho mới ra tay được.” Tôi soi đèn pin lại nhìn, qua lớp quan tài bằng ngọc gần như trong suốt, mờ mờ ra hình ảnh thi thể nằm bên trong phải cao hơn người bình thường hai cái đầu, thân hình vạm vỡ, đỉnh đầu bằng tịt, xem ra người này cũng được mặc áo ngọc kim tuyến vàng. Kể cũng lạ, dường như tôi nhìn thấy có thứ gì đó chạy qua rất nhanh bên cạnh thi thể, tôi dụi mắt nhìn lại thấy gì nữa, cứ nghĩ rằng mình hoa mắt nhìn nhầm, ánh sáng trong đại điện chập chờn được ổn định, lại nhìn qua lớp quan tài bằng ngọc, mặc dù khi nãy nhìn thấy hình ảnh bên trong nhưng vì được nét nên nhìn nhầm cũng là chuyện bình thường. 7 Tôi thấy Điền Mộ Thanh đứng bên cạnh rất căng thẳng, dường như sợ thứ nằm bên trong quan tài chính là cương thi, cánh tay cầm chiếc đèn pin ngừng rung lên, nhắm tịt mắt lại dám nhìn, tôi liền : “Mọi người tin cũng được tin cũng được, thi thể nữ trong chiếc quan tài gỗ mun chắc chắn là có hồn ma nhập vào, nhưng cũng đến nỗi có cách đối phó, chỉ cần đánh vỡ đầu nó là nó thể động đậy được nữa, hồn lại sợ dương khí của con người, bốn người chúng ta chẳng lẽ giải quyết được thây ma, có gì phải sợ cả.” Điếu bát nghe thấy liên tục gật đầu tán thành. Bên mép nắm quan tài dường như được bôi lớp sáp, chúng tôi thay nhau cạy sạch lớp sáp đó, hai người đeo sẵn găng tay, cùng chung sức cạy nắp quan tài lên. Chiếc nắp quan tài vừa được bật ra, mùi hôi thối bốc lên, tất cả vội bịt mũi lùi lại mấy bước, đèn đuốc trong điện bỗng chốc tối hẳn . Đợi lúc sau chúng tôi mới tiến gần lại để khiếng chiếc nắp quan tài ra. Tôi cầm khẩu súng lên nòng sẵn, nếu trong cỗ quan tài ngọc kia có cương thi phát bắn ngay vào đầu nó, nếu là quỷ chắc chắn khí rất nặng, hẳn sợ thuốc súng. Tôi khẳng định trong địa cung này có thứ gì đó liên quan tới cơn ác mộng trong bức bích họa, nhất là trong chiếc quan tài của Na vương. Điếu bát và Mặt dày chỉ nghĩ tới những món đồ quý báu trong quan tài mà thôi. Chúng tôi đều rướn cổ nhìn vào trong cỗ quan tài, thần kinh ai cũng căng ra như dây đàn, trong tư thế nếu có cố ngay lập tức đóng nắp quan lại, bất chợt thấy toàn thân lạnh toát, hóa ra là do toát mồ hôi lạnh, quần áo bị ướt sũng từ lâu. Thi thể trong quan tài được đặt nằm ngửa, mình mặc áo ngọc, thân thể cao to vạm vỡ hơn hẳn người thường. Áo ngọc được gắn liền với nhau bằng những sợi kim tuyến bằng vàng, tay cầm kim trượng, đầu gối gối ngọc, bên cạnh có nhiều quả táo đỏ được làm bằng vàng, ngọc trai, san hô v.v..., còn có thanh kiếm dài, đặc biệt nhất là viên ngọc trai có thể tự phát sáng dưới ánh đèn. Tôi đứng đực người ra nhìn, lúc sau mới định thần lại suy nghĩ, Na vương chắc chắn phải chỉ là người, mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ từ thời Hán tới thời Đường hẳn có mai táng rất nhiều Na vương, vậy tại sao duy chỉ nơi chính điện này mới có nhiều bảo bối quý giá như vậy? Mặt dày hăng hái lấy chiếc túi da rắn giắt sau lưng ra, thò tay định lấy mấy quả táo vàng bên cạnh người Na vương. Điếu bát ngăn lại: “Đúng là hiểu biết, thứ nào trong chiếc quan tài này chẳng đáng giá hơn mấy quả táo vàng kia chứ, lấy viên ngọc trai trước, rồi...” ta mới tới đó tiếng súng vang lên, phá tan khí yên lặng hàng nghìn năm thay đổi của địa cung, thân thể Điếu bát lay động rồi bỗng đổ ụp xuống. Tôi và Mặt dày vội kéo Điền Mộ Thanh nằm xuống, hai tiếng súng nữa lại vang lên phía sau, cảm giác đạn bay vèo vèo qua đầu, găm trúng vào chiếc quan tài gỗ chò. Chúng tôi kịp quay lại nhìn, lôi vội Điếu bát, chạy vòng qua phía bên kia chiếc quan tài, nấp phía sau đám tượng trấn điện, nghe thấy bên ngoài có người gọi to: “Bọn ngu kia, chúng mày cũng ngờ ông nội mày còn sống đúng ?” Nghe tiếng đúng là tên Hoàng phật gia. bị kẹt trong đám đổ nát phía đại điện mà vẫn chết, đúng là mạng lớn, dẫn theo bốn năm tên tay chân nữa chạy thoát ra ngoài, dọc đường đuổi theo chúng tôi. Vừa rồi chúng tôi chỉ chăm chú theo dõi cỗ quan tài của Na vương nên sơ ý để ý tới bọn Hoàng phật gia vào tới chính điện. Tôi nhìn thấy Điếu bát bị trúng đạn ở lưng, may đây chỉ là súng săn, lại bắn ở khoảng cách xa nên chết ngay tại chỗ, nhưng ta bị thương cũng , lúc kéo ta vào đây để lại vệt máu dài nền nhà. Tôi và Mặt dày cố lấy viên đạn ra khỏi vết thương, dùng đuốc đốt vào chỗ bị thương, dùng lửa để cầm máu. Điền Mộ Thanh xé mấy mảnh vải băng bó lại cho Điếu bát. Cũng biết có giữ được mạng sống của ta hay . Trong lòng vừa lo lắng vừa bực tức, tôi hét chửi lại bọn Hoàng phật gia: “Chắc Diêm vương nghĩ rằng để cho chúng mày chết như vậy quá đơn giản, nên mới giữ lại mạng sống của chúng mày để tao còn bồi thêm cho vài nhát xẻng, đến lúc mày phải thắp hương rồi đấy.” Bọn Hoàng phật gia thấy nắp quan tài bằng ngọc được mở ra, liền cậy thế đông người tiến lại gần, trong mắt đứa nào cũng ánh lên vẻ hung hãn tham lam. Thuốc súng của tôi và Mặt dày còn nhiều, sinh tử đều tùy thuộc vào nhất cử nhất động của chúng tôi, nên dự định đợi chúng tới lại gần rồi mới nổ súng. Nhưng chỉ thấy bọn chúng chạy ào ào tới chỗ cỗ quan tài bằng ngọc, Hoàng phật gia lớn tiếng sai bọn tay chân đối phó với chúng tôi, nhưng bọn lâu nhâu kia cũng giống , hai mắt sáng rực, chỉ nhìn chăm chăm vào cỗ quan tài, thằng nào cũng muốn nhân cơ hội để vơ vét được vài món có giá trị. Hoàng phật gia rút ra sợi dây thừng buộc vào cổ của thi thể mình mặc áo giáp, cố hết sức để lôi chiếc xác đó dậy, thò tay vào trong định lấy thanh Kim trượng, bỗng đâu hàng loạt những con nhện mình đen tuyền chui ra từ bên trong chiếc áo giáp, đầu hình chiếc xẻng, người mọc đầy lông đen, hình dạng trông như quả táo nhưng vỏ ngoài cứng như thép, trong chớp mắt chúng bò vào trong ống tay của Hoàng phật gia. Chúng tôi nhìn thấy cảnh tượng đó đều há hốc mồm sợ hãi: “Trong quan ngọc lại có nhiều nhện sống như vậy ư?” Tôi nghĩ: “May người thò tay vào trong quan tài phải mình...” Hoàng phật gia kinh sợ, vội vã rẩy tay mấy lần nhưng được, liền dùng tay kia để phủi chúng , ngờ bị bọn nhện cắn trúng mu bàn tay, chúng nhanh chóng bò đầy lên người Hoàng phật gia. Hoàng phật gia thất kinh hồn vía định kêu lên mấy con nhện chui tọt vào mồm của . biết bọn nhện làm gì Hoàng phật gia mà trong nháy mắt người ta chi chít những lỗ đen, bọn nhện ngừng chui ra chui vào qua những chiếc lỗ đó. Toàn thân Hoàng phật gia be bét máu, cổ họng cũng bị cắn rách, muốn kêu thét lên cũng được, đổ ập xuống cạnh cỗ quan tài bằng ngọc, hai tay đau đớn quờ quạng khắp mặt khắp người. 8 Lúc này, bọn nhện bò ra từ quan tài ngọc nhiều đếm xuể, đốm đen chi chít đầy sàn, phải đến hàng trăm con, chúng tôi nhìn thấy mà sởn hết tóc gáy. Mấy tên trộm mộ còn lại đều sợ đơ cứng người, ngay lập tức cũng bị bọn nhện bò lên đầy người, cắn cho nát bét, tất cả đều chết ngay tại chỗ, cũng có đứa chưa chết hẳn, ú ớ kêu lên vài tiếng rồi ngã xuống lăn lộn mặt đất, nhưng tới mười phút sau, Hoàng phật gia và toàn bộ tay chân của đều chết toàn thây, nằm la liệt trong hầm mộ. Chúng tôi nấp sau đám tượng trấn điện, tận mắt nhìn thấy Hoàng phật gia và số tay chân của ta đều bị cắn chết trong chớp mắt bởi bọn nhện có sáu chân. Chúng tôi kinh hãi tột độ. Tôi nhớ trong cách của người xưa, nhện sáu chân là nhện đất, nhả tơ mà trong bụng toàn là axit đậm đặc, đừng là xương thịt, đến đồng sắt cũng bị rữa nát, lẽ bọn nhện này đúng là quái vật? Nhưng cỗ quan tài bằng ngọc bị chôn ở đây hàng nghìn năm, bọn nhện đó sao vẫn còn sống được? Mới phân tâm lúc mà thấy bọn nhện càng trở nên hung hăng hơn sau khi hút máu ăn thịt người. Tôi và Mặt dày bắn mấy phát đạn vẫn chặn được bọn chúng. Cả ba chúng tôi đều thất sắc, vội lôi Điếu bát lùi lại phía sau, nhưng sau lưng chúng tôi là bức tường phía cuối điện, chỉ còn mỗi chiếc giếng vàng bị bịt miệng, nhưng cho dù nó bị bít lại cũng quá cho chúng tôi chui qua. Thấy còn đường lui, tôi vội kêu to: “Mặt dày, mau thắp đuốc lên!” Mặt dày trả lời: “Đuốc dùng hết rồi còn đâu, còn có hai bao diêm thôi, quẹt tạm được ?” Tôi biết còn cách nào khác, vừa rồi tận mắt nhìn thấy cái chết thê thảm của bọn Hoàng phật gia, chi bằng tự mình kết liễu mình, nhưng nòng khẩu súng săn quá dài, thể tự mình bắn vào mình được. Mặt dày cũng hốt hoảng: “Hết cách rồi, mình bắn chết hai người kia, sau đó tôi bắn chết cậu rồi cậu bắn chết tôi.” Tôi bực bội trả lời: “Ông giải thích giùm tôi xem làm cách nào để sau khi tôi bị ông bắn chết rồi còn có thể ngồi dậy mà bắn ông được?” Lúc này, Điền Mộ Thanh cố đẩy chiếc đế đèn bằng đồng ở tường, định dùng lửa để trấn áp bọn nhện, nhưng những chiếc đèn đồng đó rất nặng, hơn nữa hai bên cạnh đèn rất sắc, đẩy mấy lần mà được, còn bị chiếc đế đèn cứa đứt tay, máu lập tức tuôn ra từ chỗ vết đứt. Điền Mộ Thanh tuy đẩy đổ được chiếc đèn nhưng thức tỉnh tôi và Mặt dày, hai đứa vội chạy tới xô đổ chiếc đèn, nhưng bọn nhện bò đến tứ phía ào ạt như nước thủy triều dâng, cách nào có thể ngăn chúng lại được. Chúng tôi chắc mẩm chết ở nơi này, ai ngờ khi cách chúng tôi chừng ba bước chân bọn nhện đột nhiên quay đầu bỏ chạy tán loạn. Tôi và Mặt dày định đẩy ngã chiếc đế đèn thứ hai nhìn thấy bọn nhện bỏ , cả hai thở phào nhõm, nhưng trong lòng đều thắc mắc vì sao. Chuyện này cũng khó lý giải, dường như chúng sợ điều gì đó. Tôi nghĩ: “Con người sống đời cũng khác gì chuyện “Bát tiên quá hải”, ai cũng có khả năng riêng, chỉ có điều mỗi người diễn vai diễn khác nhau mà thôi. Mỗi người có hoàn cảnh ra đời, tài năng riêng, cho dù là hình thức, tính cách, là thiện hay ác đều giống nhau, có thể là khác nhau trời vực, nhưng khác mấy con người đều được làm bằng xương bằng thịt, ai chẳng cái đầu mọc cổ, bụng đầy đủ lục phủ ngũ tạng. Vậy tại sao lũ nhện kia ăn thịt hết toàn bộ bọn Hoàng phật gia mà lại tha cho chúng tôi.” Tôi nhìn khắp xung quanh cũng có gì bất thường, chỉ mỗi Điền Mộ Thanh bị thương ở tay, máu xuống cả mặt đất. Tôi bỗng giật mình: “ lẽ máu của Điền Mộ Thanh khiến cho bọn nhện kia bỏ chạy? Rốt cuộc ta là ai?” Trong đầu tôi bỗng lên câu hỏi đó, lại phát ra chiếc đế đèn đồng như mọc rễ trong tường, tiện tay bẻ cái thấy chiếc đế xoay vòng, đồng thời chỗ khắc phù điêu phía bên dưới chiếc giếng vàng bỗng mở ra cái hốc lớn. Hóa ra ở đó có cánh cửa đá, chính là vị trí mà vị thần Na phía trần điện nhìn xuống. Ba chúng tôi ngẩn người ra nhìn bỗng trong gian điện thâm u kỳ bí phát ra tiếng kêu rất lạ. Hóa ra là xác chết mặc bộ áo giáp ngọc trong cỗ quan tài bằng ngọc bò từ trong quan tài ra, nhiều chỗ chiếc áo giáp ngọc nơi bị nứt, toàn thân xác chết đều là máu, lòng phèo trắng hếu phòi cả ra ngoài, thi thể vẫn hướng lên , chỉ có đầu là quay lại, trong ánh sáng lờ mờ nhìn khuôn mặt, chỉ thấy tai to mặt lớn, nom trắng bệch, chiếc đầu ngóc dậy, mái tóc dài rũ xuống, chúng tôi nhìn thấy sau đầu xác chết lại là khuôn mặt nữa, hai mắt xanh lét, mồm rộng đến mang tai, trong hầm mộ bỗng chốc nồng nặc mùi xác chết.
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng 1 Tôi thấy thi thể Na vương trong quan tài xảy ra thi biến, hình dạng đúng như ác mộng trong bức họa vô cùng sợ hãi, nỗi kinh hoàng tràn ngập toàn thân từ đầu đến chân, sợ tới hồn bay phách lạc, dám nhìn thêm giây nào, tôi cùng hai người kia khiêng Điếu bát chạy vội vào đường hầm, cố gắng đóng kín cánh cửa đá rồi chạy thục mạng trong đường hầm ngoằn ngoèo gập ghềnh lúc cao lúc thấp, đánh rơi đèn pin cũng dám dừng lại nhặt, cứ vậy vừa chạy vừa vấp ngã trong đường hầm tối đen. lúc lâu sau, khi thấy sau lưng còn có động tĩnh gì mới dám dừng lại. Ba người ngồi bệt xuống đất thở ra hơi, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Khi hơi thở hơi ổn định, tôi đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng chẳng thấy được gì trong bóng đêm đen kịt, mò trong túi lấy được chiếc đèn pin dự phòng, ánh sáng vừa bật lên mặt Mặt dày ra trước mắt tôi. Lão ta : “Mẹ cha nó, kinh khủng , bọn mình... vẫn chưa chết sao?” Tôi lắc đầu bất lực, quay sang thấy Điếu bát hôn mê bất tỉnh, mặt trắng như tờ giấy, tình hình có vẻ nguy kịch, khỏi lo cho ta lỡ ba dài hai ngắn nguy tới tính mạng. Tại sao lại “ba dài hai ngắn”, khi người chết nhập quan, quan tài chưa đóng nắp ta thấy ba miếng ván dài hai miếng ván ngắn, nên dùng từ này để ám chỉ người sắp phải vào quan tài rồi. Tôi suy nghĩ: “ biết người chết trong quan tài là ma hay là quỷ quái, nhưng chắc chắn là thể đối phó được với nó. Cố tìm đường mà chạy thoát, sống thêm được ngày nào hay ngày đó, thể để Mặt dày và Điền Mộ Thanh bỏ mạng ở đây.” Tôi dùng đèn pin soi sáng, thấy Điền Mộ Thanh lấy khăn tay băng bó vết thương, nhưng vì vết cứa quá sâu nên chảy khá nhiều máu. Tôi bỗng buột miệng hỏi: “ là ai?” Điền Mộ Thanh nhìn tôi khó hiểu. “ hỏi gì lạ lùng thế?” Tôi : “ phải tôi hỏi lạ lùng, mà việc có gì đó đúng. ràng bọn nhện cắn chết bọn Hoàng phật gia, nhưng khi tiến gần đến chúng ta đột nhiên bỏ . Lúc đó, tôi thấy tay bị chảy máu xuống cả sàn nhà, bọn nhện ăn thịt người nhả xương đó trông thấy là bỏ chạy tán loạn, có phải cố tình làm đứt tay ? Tại sao bọn nhện lại sợ máu của ?” Điền Mộ Thanh giải thích: “ đa nghi quá đấy, tôi chỉ may cứa đứt tay thôi.” Mặt dày lên tiếng: “Tôi thấy cậu sợ quá đâm ra lẩn thẩn, nếu là chảy máu Điếu bát chẳng phải chảy còn nhiều hơn sau?” Tôi với Mặt dày: “Chuyện này đơn giản như vậy đâu. Chỉ nghe thấy cuộc chuyện của tôi và Lư mặt rỗ ở tàu mà ấy thân mình dám vào nơi rừng hoang núi thẳm này. Tôi thấy ấy gặp chuyện vẫn giữ được bình tĩnh, còn to gan hơn cả Điếu bát, lúc nào cũng mang vẻ mặt đầy tâm trạng, có điều ấy lại rất sợ hai cỗ quan tài trong địa cung, dường như ấy biết ít bí mật về ngôi mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ này. Nhưng dù sao đây cũng chỉ là cảm giác của tôi, cho tới lúc tôi nhìn thấy ấy bị đứt tay chảy máu khiến bọn nhện sợ hãi bỏ chạy tôi càng thấy...” Điền Mộ Thanh : “Các cứu thoát tôi từ tay bọn Hoàng phật gia, tôi cảm tạ vô cùng. Còn chuyện tôi là ai tùy muốn gì .” đến đó, mắt Điền Mộ Thanh đỏ hoe, gần như sắp khóc. Mặt dày quay sang trách tôi: “ lúc gay go tới tính mạng mà cậu còn làm cho ấy khóc nữa”, rồi quay sang an tủi Điền Mộ Thanh: “ đừng chấp thằng đó, nó xem phim ‘Liêu trai’ nhiều quá nên bị ngộ rồi, đêm nào cũng nằm mơ thấy ma quỷ về bắt mình.” Tôi : “Ma quỷ trong phim ‘Liêu trai’ ai nấy đều mặt hoa da phấn, có gì mà sợ, chẳng bằng góc trong tiểu thuyết kinh dị.” Mặt dày : “Phim ‘Liêu trai’ thành tiểu thuyết từ lúc nào đấy? Sao tôi lại biết?” Tôi thèm đôi có với Mặt dày, quay sang với Điền Mộ Thanh: “ có khóc cũng có tác dụng gì, tôi nhìn nhầm đâu, những lời tôi hôm nay nếu sai nửa chữ tôi...” Vừa tới đó, tôi chợt nhớ lại mấy hôm trước, lúc chúng tôi nghỉ chân tại quán trọ bỏ hoang ở Thảo Hài Lĩnh, may nhờ mấy chiếc mặt nạ của xác chết nên mới đuổi được con rắn mối khổng lồ, hóa ra mặt nạ vỏ cây có thạch hoàng, thứ đó đuổi được rắn. Chúng tôi sợ sau này dọc đường lại gặp phải rắn mối nên cạy mấy viên thạch hoàng, rồi mang theo bên mình. Vừa nãy trong địa cung gặp phải lũ nhện ăn thịt người, chừng cũng chính nhờ có thạch hoàng nên đuổi được lũ nhện đó , nếu đúng vậy chẳng phải tôi trách oan Điền Mộ Thanh rồi sao? Nên chưa hết câu tôi vội ngậm miệng lại, đổi giọng: “Nếu tôi có sai coi như tôi chưa gì, phải tôi coi là người ngoài, giờ chúng ta còn phân biệt người trong người ngoài nữa rồi, tôi thấy chỗ này tiện ở lâu, chúng ta nghỉ cũng kha khá rồi, phải tiếp thôi.” Điền Mộ Thanh chẳng hiểu tại sao tôi lại đổi giọng nhanh thế, nhưng cũng có ý trách tôi. Chúng tôi vẫn sợ thây ma trong chính điện tiếp tục đuổi theo nên chỉ dám nghỉ ngơi chút rồi lại cõng Điếu bát lên lưng tiếp tục tháo chạy theo lối đường hầm. Khi chạy tới cuối đường hầm, chúng tôi thấy cánh cửa đá rất thấp, chui qua cánh cửa đó ra ngoài, chỉ thấy phía trước mờ mịt sương mù, cỏ dại mọc um tùm, phía sau chúng tôi là đồi đất cao nhìn thấy ngọn. Hóa ra chúng tôi ra khỏi địa cung nhưng biết tự lúc nào, mặt hồ biến mất nhìn thấy nữa, những mái nhà xung quanh bị vùi trong bùn đất nhấp nhô như những ngôi mộ. Cả ba chúng tôi đều điếng người, cũng dám đứng lâu trong ngôi làng ma quỷ này, vội vã len lỏi trong những dãy nhà để thoát ra khỏi thôn làng. Ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ chỉ có phần nấm mồ là nhô lên khỏi mặt nước, người dân trong vùng gọi đó là Tiên Đôn, chúng tôi vào đây rồi mới biết, thực ra đó chính là ngọn núi, dưới chân núi là nhà dân, đó là số người dân ở lại nơi đây canh lăng tẩm, sau đó cả vùng này bị nhấn chìm xuống đáy hồ, chỉ còn ngọn núi là nhô lên khỏi mặt nước, phía bắc chính là động Ngư Khốc, Thảo Hài Lĩnh. Giờ chúng tôi nên về hướng bắc, bỗng nghe thấy tiếng sấm dội bên tai, trời bỗng đổ mưa, mây mù có tan phần nào. Tầm nhìn tốt hơn, chúng tôi trông thấy phía trước là rừng, cây cối rậm rạp, phía trước là màu tối đen vô tận. 2 Mưa mỗi lúc to và dày hạt hơn, lúc giữa tiết mùa thu, thời tiết trong núi lạnh lẽo, tê buốt thể chịu được, chúng tôi ướt nhẹp, dò dẫm từng bước về phía ven rừng. Chúng tôi nhìn thấy mấy gian nhà cổ dưới gốc cây chết khô, trong nhà đèn đóm nhưng làm chỗ trú mưa cũng được, chúng tôi đành phải vào trong lánh tạm, đợi tới sáng mai rồi tiếp vậy. Lại gần mới thấy, căn nhà lớn này tận dụng nguyên liệu ngay tại vùng, được xây bằng những viên đá khối xẻ trong núi, trát bằng đất và vôi, cột gỗ cái nào cái nấy to lớn, chắc nịch, hết sức kiên cố. Chúng tôi bước vào gian nhà to đầu tiên, chỉ thấy bên trong trống tuềnh trống toàng, tường có vài cái hốc để đặt đèn, khắp nơi bám đấy bụi bặm, vì lâu có người sinh sống, nên mùi ẩm mốc lẫn với mùi thối rữa của cây cối bốc lên vô cùng khó chịu. Chúng tôi tháo ba lô ra, tìm chỗ đặt Điếu bát nằm xuống, vần mấy viên đá bịt kín cửa ra vào, trong ba lô Mặt dày còn túi nến nữa, ta thắp cây đặt ở góc nhà. Tôi thấy Điếu bát vẫn hôn mê nhưng hơi thở vẫn đều đặn nên cũng yên tâm phần nào. Tôi lấy ra hai điếu thuốc lá, vứt cho Mặt dày điếu, hai người ngồi dựa lưng vào tường rít mấy hơi liền. Nghĩ lại cảnh tượng vừa rồi trong địa cung, cánh tay cầm thuốc của tôi vẫn run lên sợ hãi. Mặt dày lật xem tấm bản đồ của Điếu bát, hỏi: “Cậu nhìn xem, bản đồ sao có chỗ này?” Tôi : “Chúng ta ra khỏi địa cung theo hướng Bắc, phía Bắc chính là động Ngư Khốc, nhưng sao lúc tới đây bọn mình nhìn thấy khu rừng này nhỉ? Đúng là gặp ma rồi, cái nơi quỷ quái này lại còn vừa mưa vừa sương mù, chắc phải chờ trời sáng mới phân biệt được vị trí, mong là đừng xảy ra chuyện.” Mặt dày : “ ra khỏi khu mộ cổ rồi còn sợ gì nữa? Chuyến này bọn mình thu được chiếc vương miện vàng và dây lưng bằng ngọc nhưng lại chẳng thuận lợi chút nào, lần sau xuất hành phải xem ngày giờ mới được, thể vào ngày kỵ động thổ.” Tôi : “Ông đúng là chẳng biết gì, động thổ là chỉ chuyện hạ huyệt dời mộ, liên quan gì đến đổ đấu? Có ai đào mộ trộm đồ còn xem ngày xem giờ ? Kiếm cơm bằng cái nghề đổ đấu này chỉ dựa vào gan to mê tín, chẳng kiêng kỵ gì sất. Đương nhiên vẫn có những tay trộm mộ mê tín, nhưng phải là chuyện xem ngày giờ, bọn họ thường nghe theo Xuất ngữ.” Mặt dày hiểu: “Xuất ngữ à? Là cái gì?” Tôi giải thích: “Cũng giống như dân giang hồ hay tới khái niệm con số may mắn, nó có hơi hướng giống như phong tục ngày Tết, ngày mồng ra đường thường để ý tới người đầu tiên chuyện với mình, theo quan niệm mê tín của người xưa trong câu đầu tiên của năm mới này chứa hung cát, chính là dự báo cho vận hạn của năm mới. Lão Nghĩa mù nhà tôi lúc còn sống rất tin vào điều này. Vào đêm ba mươi, sau khi ăn tối, thắp hương cúng bái xong là ra ngoài để nghe Xuất ngữ. Mà cũng phải thích hướng nào đâu, phải thỉnh ý kiến của Sư tổ, mà bài vị của Sư tổ nào có biết , đành mượn cái thìa chỉ hướng vậy, kính cẩn đặt cái thìa trước bài vị xong xoay vòng, chiếc thìa chỉ vào hướng nào xuất hành theo hướng đó. Nếu chỉ về hướng đông ra cửa xuất hành theo hướng đông, nếu hướng đó là ngõ cụt, còn cách nào khác phải quay về phải thỉnh ý kiến Sư tổ lần nữa, lần này là hướng bắc, vừa vặn hướng bắc là chỗ trú chân của tên ăn mày. Đêm ba mươi ăn mày ra đường ăn xin, bụng rỗng đành phải ngủ sớm, canh tư mò dậy tiểu, đúng lúc lão Nghĩa mù ngang qua, nghe tiếng nước chảy mừng thầm trong bụng, cứ cho rằng gặp nước là phát tài, là điềm may, trong năm nay ắt thu được nhiều món hời. Nếu ra ngoài canh năm dậy đốt pháo rước thần tài, tiếng pháo nổ có đẹp hay cũng là điềm báo cho năm mới. Lão Nghĩa mù rất tin vào những điều này, có đúng hay tôi cũng biết, nhưng bản thân tôi chẳng mấy tin vào những thứ đó.” Dù sao tôi cũng yên tâm về ngôi nhà có trong bản đồ này, chuyện với Mặt dày vài câu bỗng thấy càng ngày càng lạnh, dặn dò Mặt dày và Điền Mộ Thanh trông nom Điếu bát, tôi ra ngoài kiếm ít củi về đốt. Điền Mộ Thanh lạnh run cầm cập, chịu nổi gian nhà to u lạnh lẽo này, cứ đòi theo tôi. Tôi nghĩ ngợi lúc rồi cũng đồng ý, mang theo súng săn và đèn pin, giao cho Điền Mộ Thanh cây nến, chúng tôi đẩy cửa vào gian phòng thứ hai, gian phòng này còn to hơn gian trước, sáu cột năm dầm, bệ cột đá hình hoa sen, trông như gian điện, mấy bức tượng giữa phòng bị đổ sập, tường chi chít bích họa, đều phủ dày bụi bặm, màu sắc mờ nhạt nhưng vẫn còn xem được nội dung. Tôi nhất thời được gì, thần người ra lúc mới lên tiếng: “Thần thổ địa lấy ráy tai xây tường chắc - vô lý ! Đây chính là điện thờ Na thần.” Điền Mộ Thanh kinh ngạc: “Hóa ra chúng ta vẫn chưa ra khỏi ngôi làng.” Tôi : “Lạ , tại sao ở đây lại có dấu hiệu bị chìm trong nước.” Điền Mộ Thanh : “Từ số bức bích họa kia có thể nhận biết nơi đây có phải là miếu thờ Na thần ...” rồi soi đèn lại gần, phủi lớp bụi phía , cúi đầu nghiên cứu những bức tranh. Tôi cũng định tới xem chợt thấy ớn lạnh, phải do trong ngôi miếu cổ này ẩm thấp lạnh lẽo mà là lạnh từ bên trong lạnh ra khiến toàn thân nổi da gà. Tôi nghĩ thầm: “Trong này có gì sao?”, dùng đèn pin soi khắp gian phòng, thấy cánh cửa thông sang gian phòng thứ ba khép hờ, qua khe cửa tôi nhìn thấy khuôn mặt bé khoảng mười tuổi nấp ở phía trong nhìn chúng tôi, hai mắt chớp chớp rất linh hoạt, khi ánh đèn pin chiếu tới, bé lập tức trốn vào trong bóng tối. Tôi kinh hãi nghĩ: “Giữa nơi thâm sơn cùng cốc này tại sao lại xuất đứa bé? Là trẻ con của dân làng gần đây sao?” Tôi vội tới gần rồi mở đẩy cánh cửa ra, bên trong là gian phòng thứ ba cũng giống như hai gian phòng vừa rồi, sàn nhà phủ đầy bụi bặm, tường mạng nhện chăng đầy, phía trước tuyệt nhiên dấu chân người. 3 Điền Mộ Thanh hỏi tôi: “ sao thế, sao lại đứng thẩn ra vậy?” Tôi chỉ vào chỗ cửa hỏi: “ nhìn thấy gì sao? Chỗ này...” Điền Mộ Thanh thấy vậy liền cầm đèn pin ra giữa gian miếu thờ. “Trong đó có gì đâu, tôi chẳng trông thấy gì cả.” Tôi nghĩ đứa bé đột nhiên biến mất, giờ ra cũng chẳng có bằng chứng gì, làm sao mà người ta tin được, đành : “Tôi thấy tường gian nhà trong có bàn thờ, mấy gian nhà này chính là miếu thờ đấy.” Điền Mộ Thanh hỏi: “Bàn thờ à? Trông bộ dạng vừa rồi, tôi cứ tưởng nhìn thấy gì hay rồi chứ.” Tôi thầm quan sát xung quanh, miệng lại : “ có gì, trong miếu thờ thể có ma được.” Tôi quay đầu lại, vừa vặn nhìn thấy bức tranh Điền Mộ Thanh vừa phủi lớp bụi bên , trong tranh vẽ hình với dáng vẻ kiều, tuy bức tranh bị bay màu, hình thù có phần mờ nhạt nhưng vẫn có thể khẳng định phải là hình ảnh người đeo mặt nạ vỏ cây thường gặp như trong Na giáo, tôi chợt nghĩ: “Nơi đây cũng chưa hẳn là miếu thờ Na thần.” Điền Mộ Thanh hỏi: “Trong miếu thờ mới có tượng thờ và bích họa chứ, cho rằng đây phải là nơi thờ cúng Na thần?” Tôi : “ núi Hùng Nhĩ có ngôi chùa cổ tên là Pháp Hoa, nghe trong ngôi chùa cổ này có bức bích họa vẽ mỹ nhân với sắc đẹp được mệnh danh là có hai, hay là chúng ta tới ngôi chùa Pháp Hoa đó...” Nhưng nghĩ lại cũng ổn, núi Hùng Nhĩ dài mấy chục cây số, chùa Pháp Hoa cách Thảo Hài Lĩnh xa như vậy, quần sơn cách trở, làm sao có thể tới nhanh như thế được, hơn nữa những gian nhà lớn này đều được xây từ đá, mang vẻ nguy nga lộng lẫy theo phong cách chùa cổ, khả năng là miếu thờ Na thần, chỉ có điều rất hiếm thấy có hình ảnh người bình thường đeo mặt nạ vỏ cây xuất trong miếu thờ của Na thần. Điền Mộ Thanh rất hiếu kỳ với bức tranh vị nữ bồ tát mà tôi vừa nhắc tới, hỏi: “Trong chùa cổ Pháp Hoa tại sao lại vẽ tranh mỹ nữ? Người trong tranh đúng là rất đẹp sao?” Tôi nghĩ: “Điền Mộ Thanh rất thích thú với hội họa, hơn nữa trực tiếp nghe lời khen ngợi khác trước mặt mình tránh khỏi có chút ghen tị.” Tôi đành với ấy: “Hoàng đế thời Tống rất sùng đạo Phật, hạ chỉ cho xây chùa Pháp Hoa tại núi Hùng Nhĩ, còn lệnh vẽ bích họa trong chùa, chỉ định vị họa sỹ giỏi nhất thời đó đảm đương công việc vẽ tranh, tuy sức yếu nhiều bệnh, nhưng người này vẫn bị ép đến làm việc, con ông ta lo lắng cho sức khỏe của cha già giả thành nam nhi tới núi Hùng Nhĩ trà trộn trong đám thợ để chăm sóc cho cha mình. Hàng ngày làm các công việc giặt giũ quần áo, cơm nước cho đám thợ nên ai cũng quý mến. Trong bảo điện đương nhiên phải có tranh Bồ tát, nhưng lúc đó tài nào vẽ nổi, tuy bức tranh đẹp rồi nhưng chưa đạt được vẻ thoát tục. Tên đốc công do triều đình phái đến lo sợ ảnh hưởng tới tiến độ thi công nổi giận lôi đình, lệnh cho quân lính phạt roi các thợ vẽ tranh, trong đó có ông họa sỹ già, nếu phải chịu số đòn roi đó coi như mất mạng. Lúc này, con của lão họa sỹ già xuất nguyện thay cha mình chịu đòn. Tên đốc công thấy dung mạo tuyệt vời nhận ra là giả trai, liền ép phải cởi hết quần áo để chịu phạt. biết số mình may, chỉ quay đầu lại nhìn cha mình và đám thợ vẽ tranh lần cuối rồi mỉm cười nhảy vào chỗ lò nung thép đúc tượng. Ngay lập tức hóa thành đám mây trắng bay lên trời, nhưng dung mạo thần thái của in đậm trong tâm trí của đám thợ, họ vẽ thành công bức bích họa đại từ đại bị cứu khổ cứu nạn của Quan thế Bồ tát. Chính vì vậy bức họa trong ngôi chùa này khác hẳn với những ngôi chùa khác, đáng tiếc qua bào mòn của thời gian, còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của bức tranh nữa.” Điền Mộ Thanh lớn tiếng thở dài, lúc sau vẫn còn im lặng trầm tư. Tôi chẳng có tâm trạng nào mà thông cảm cho người xưa, hơn nữa câu chuyện này vừa nghe biết là bịa đặt, kia giả trai mà cũng biết làm cho giống lên chút, bôi ít nhọ nồi cho mặt đen chẳng hạn, đúng là ngốc hết chỗ . Tôi vừa vừa phủi lớp bụi tường , dựa vào ánh sáng của ngọn nến, tôi xem xét lượt những bức họa. Các bức họa tại bức tường phía đông bị bong tróc nặng khó nhìn ra hình gì, nội dung còn nguyên vẹn, chỉ lờ mờ nhận ra khuôn mặt của mấy , phía sau có số đồng nam đồng nữ người cầm kiếm người cầm gương, hiểu là để làm gì. Bức tường phía Tây vẫn còn tương đối nguyên vẹn, bức bích họa như bức hoành phi vẽ lại ngọn núi lớn cao chạm mây xanh, trong lòng núi những cung điện nguy nga, xung quanh chi chít nhà cửa với hàng vạn người sinh sống, ba phía đông, tây và bắc đều là núi, ở ngọn núi phía bắc có hang động, giữa cửa hang và ngôi làng là gốc cây to chết khô và mấy gian nhà đá, phía tây ngôi làng là bãi tha ma, phía đông là bệ đá lớn, phía nam có tấm bia đá đặt mai co bí hí [1] , trong bức tranh còn có vài đường kẻ màu đen mờ nhạt ràng, còn phía bức tranh là vị Na tướng quân diện mạo rất hung dữ. [1] Bí hí hay còn gọi là Quy phu, bề ngoài khá giống con rùa, thích mang nặng, có thể cõng cả tam sơn ngũ nhạc bao giờ mệt mỏi vì thế tượng Bí hí cõng trụ đá, cõng bia thường bị nhầm thành con rùa. Tôi với Điền Mộ Thanh: “Mấy gian nhà này đúng là có liên quan tới Na thần, giờ chúng ta ở vị trí này, chỉ cần xuyên qua khu rừng là tới được động Ngư Khốc, con đường đó lúc vào đây chúng ta qua.” Trong bức bích họa còn có số chữ cổ ghi chú cho số vị trí, tôi chẳng biết chữ nào nhưng Điền Mộ Thanh có thể đọc được ít, chỉ cho tôi thấy: “Chỗ đụn đất ở chính giữa là núi Huyền Cung, Huyền Cung chính là địa cung, ngôi làng dưới núi là thôn Thiên Cổ Dị Đế, hang động phía bắc là động Ngư Khốc, tấm bia đá trước cổng làng được gọi là bia Tầm Na, gốc cây khô đó là cây Na, dưới gốc cây là Na miếu, phía tây ngôi làng là nơi cúng tế của người Quỷ Phương (Đất quỷ), có con đường hầm thông với thôn làng, phần phía đông có rất nhiều mồ mả tại sao lại thấy chú thích. À đúng rồi, phần lớn mộ là mộ của người dân trong làng. Nhưng hàng nghìn năm trước, nơi này bị chìm sâu dưới nước, sao bây giờ lại nổi lên được nhỉ?” 4 Tôi lắc đầu hiểu, việc này nghĩ tới nghĩ lui vẫn thông, còn tấm bia trước cổng làng nữa chứ, sao lại gọi là bia Tầm Na mà lại gọi thẳng luôn là bia Na ? Điền Mộ Thanh giải thích: “Bia đá thường dùng để ghi lại các việc, nghe Điếu bát nhà , tầm Na là tới phong tục đuổi ma trừ tà, là nghi thức từ cổ xưa. Có thể bia đá ghi chép lại nghi thức đó của người dân trong làng.” Tôi nghĩ cũng phải, hình ảnh tấm bia Tầm Na trong bức tranh là tấm bia đá rất to được đặt mai bí hí, trong dân gian gọi đó là “Rùa cõng bia đá”. Bí hí là con cháu của rồng, có thể cõng được những vật rất nặng, thời cổ làm bia đá bí hí thường có hai đặc điểm nhận dạng, là rất cao to, hai là nội dung viết bia hết sức quan trọng. Vì vậy, chắc chắn là tấm bia đá kia ghi chép lại những việc quan trọng xảy ra trong ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế. Nếu tôi muốn bị cơn ác mộng trong ngôi mộ cổ nhà Liêu dày vò cho đến chết buộc phải biết tấm bia đá đó viết những gì. Nhưng ngặt nỗi Điếu bát sống chết chưa biết thế nào, sớm rời khỏi nơi này ta còn có thêm tia hi vọng sống. Trong thời điểm quan trọng này, tôi thể chỉ nghĩ tới mạng sống của mình, hơn nữa tôi cũng chẳng gan đâu mà dám bước chân vào ngôi mộ đó lần nữa. Chuyện tới nước này đành phải nghe theo sắp đặt của ông trời vậy, phải thoát ra khỏi đây trước . Lúc này, Mặt dày tới với chúng tôi: “Bên ngoài tạnh mưa rồi, sương mù lại dày đặc hơn, bọn mình phải nghĩ cách gì chứ, tiếp tục nán lại đây hay là tìm đường thoát ra ngoài?” Tôi : “Nếu bên ngoài tạnh mưa rồi chúng ta tiếp tục về hướng bắc, xuyên qua khu rừng này là tới động Ngư Khốc, tới đó có thể theo đường cũ quay về. Hai người thu dọn đồ đạc, bó thêm vài bó đuốc dự phòng, tôi ở đây xem mấy bức bích họa này lát nữa.” Mặt dày tìm mấy cành cây to bó lại, lấy mấy bộ quần áo rách xé thành sợi đưa cho Điền Mộ Thanh buộc vào bó củi, chấm dầu vách tường làm đuốc. Tôi tắt đèn pin để sau cần còn dùng, cầm ngọn nến Điền Mộ Thanh vừa đưa cho, mình sâu vào bên trong Na miếu, phủi đám mạng nhện và bụi bặm giăng trước mặt, tôi dò xét khắp nơi. Cứ nghĩ tới khuôn mặt bé phía sau cánh cửa nổi bất an lại tràn về, biết do tôi nhìn nhầm hay gặp ma , cho dù là ma hay người cũng chỉ là con nhóc tì, sợ gì cơ chứ. Tôi tự trấn an mình rồi tiến tới chỗ bức bích họa sau hậu đường. Miếu đường quay mặt sang hướng nam, bích họa được vẽ ở hai bức tường phía đông và tây. Phía đông vẽ hình ngôi bảo điện nguy nga tráng lệ, bên cạnh có con cá rất to. Tôi vừa nhìn thấy bức tranh nghĩ tới lần lão Nghĩa mù gặp nạn. Năm đó khi Đả thần tiên Dương Phương và Đồ Hắc Hổ cùng mắc kẹt nóc điện dưới lòng sông Hoàng Hà, cũng có nét tương đồng với họa tiết trong bức họa này. Với bản lĩnh của Thôi lão đạo và Dương Phương cũng thể xác định được ngôi bảo điện bị chìm trong hố cát dưới sông Hoàng Hà thuộc thời đại nào, chỉ đoán khoảng thời Tùy hoặc Đường, ngờ lại có liên quan tới thôn Thiên Cổ Dị Đế này, lẽ ngôi làng này cũng bị chìm xuống hồ vào khoảng thời Tùy, Đường? Tôi quan sát lúc lâu thu được kết quả gì, cũng là chúng có mối quan hệ như thế nào với nhau. Nhìn sang bức bích họa đối diện là mấy chục vị Na tướng quân đeo mặt nạ, họ khống chế người và mổ bụng người đó, người bị mổ bụng nằm sóng soài dưới đất, tóc tai rũ rượi, phèo ruột lổn nhổn mặt đất, người đó vẫn chưa chết, cố gắng vùng vẫy thoát thân, quang cảnh máu me khủng khiếp, giống hệt như những gì Điếu bát miêu tả về lễ bắt ma hoàng. Tôi nghĩ: “Với cỗ quan tài và số đồ tùy táng quý giá trong địa cung người đó chính là Na vương. Nếu là Na vương, tại sao lại bị Na tướng quân giết chết và hậu táng tại địa cung, rồi để cho hồn bất tán trở thành quái vật? Làng này từng xảy ra việc phản loạn? Việc này liên quan gì tới con cá khổng lồ dưới sông Hoàng Hà ? Khiết Đan trong bộ Liêu chết vào thời Đường, Tống, tại sao trong mộ ta lại có bức tranh về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế này? lẽ đó chính là cơn ác mộng của kia khi còn sống? Tại sao trải qua nhiều năm như vậy, tôi lại có cùng giấc mơ với Khiết Đan? Thôn Thiên Cổ Dị Đế lẽ bị vướng vào lời nguyền đáng sợ nào đó?” Tôi đứng thất thần trước bức bích họa, các ý nghĩ đan xen vào nhau, đột nhiên sống lưng ớn lạnh, ánh nến chập chờn, cảm giác ớn lạnh từng cơn lại trỗi dậy, tôi quay đầu lại nhìn, chính là bé đó đứng trong góc tường, bé thấy tôi tiến lại gần liền quỳ sụp xuống khóc thút thít, miệng lẩm bẩm như gì đó. Tôi nghe đứt đoạn được , dường như bé : “Nhiều năm... dễ dàng gì... hôm nay gặp nạn... xin cứu giúp... xin đừng động vào...” Tôi thất kinh, hỏi lại: “Cháu gì? Đừng động vào đâu?” Đúng lúc đó, Mặt dày vỗ mạnh vào vai tôi, mồm oang oang: “Cậu gặp ma à? Tự dưng đứng mình chuyện với bức tường? tán tỉnh với em ma nào thế?” Tôi giật bắn người, thiếu nước nhảy dựng lên, Mặt dày chuẩn bị xong đuốc, tới để giục tôi lên đường. Tôi bị ta làm cho hết hồn, vừa hoàn hồn nhìn lại trong góc tường trống trơn có gì nữa. 5 Vừa nãy chỉ trong khoảnh khắc, ánh nến lại mờ ảo nên nhìn được đứa bé , chỉ thấy mờ mờ hình bóng người, chớp mắt thấy đâu, góc tường để lại chút dấu vết, trừ phi chỉ là cái bóng mới làm được như vậy. Tôi chỉ thấy bé đó dường như là oan hồn trong ngôi miếu này, nhưng bé quá , tôi nghe được cho lắm, tại sao tự nhiên lại quỳ xuống lạy tôi, lời bé có ý gì? bé cần cầu cứu tôi giúp đỡ chăng? bé đó chết như thế nào? Mặt dày lại vỗ vào vai tôi: “Vẫn còn đứng đực mặt ra đó à? Cậu trúng tà hả?” Tôi hỏi Mặt dày: “Ông đừng có giật đùng đùng lên sau lưng tôi thế, định dọa chết người à?” Mặt dày ngạc nhiên ngắm nghía bức tường lúc, hỏi tôi: “Cậu nhìn thấy gì thế?” Tôi : “Chẳng có gì cả, mau rời khỏi đây thôi.” Mặt dày còn chưa tin: “Điêu! Vừa nãy tôi thấy mắt cậu gian lắm, chắc chắn là chưa , chỗ này có món hời gì à?” Tôi hạ thấp giọng: “Trong Na miếu này có ma, tin hay tùy ông, tin ông ở đây chờ mà xem, tôi trước đây.” Mặt dày : “Sợ ma mà còn dám đào trộm mộ?”, ta tin, đốt đuốc lên xoa tay phủi lớp bụi tường, phát ra mấy viên gạch chỉ chạm vào lung lay, hiếu kỳ cạy viên gạch đó ra thấy bên trong tường là đường hầm. Tôi ngẩn người ngạc nhiên, vội ngăn lại: “Đừng vào, trong đó có ma đấy!” Mặt dày nào chịu nghe lời tôi, ta chắc mẩm trong đó có bảo vật, hất cánh tay tôi ra chui vào trong. Tôi chửi thầm trong bụng, lại lo ta xảy ra chuyện đành phải đánh liều theo. Bên trong là gian thạch thất chật hẹp u, tôi và Mặt dày soi đuốc lên thấy bé ngồi bất động ở góc tường, bé ôm thứ gì đó trong lòng, chân mang hài vũ màu xanh, mặc bộ quần áo giống như diễn viên tuồng sân khấu, cũng chẳng biết chết bao lâu nhưng diện mạo và màu sắc quần áo vẫn tươi mới, chẳng khác gì người sống cả, hiểu sao lại có thể bảo tồn tốt như vậy. Mặt dày chỉ vào xác chết : “Chỉ là người chết thôi mà, ma đâu mà ma.” Tôi nhìn bé khoảng tầm tám, chín tuổi, chết trong gian thạch thất này dưới nghìn năm, vậy mà vẫn như người còn sống, lại hồn trước mắt tôi, chắc chắn có nội tình gì đây, bé dặn tôi được động vào thứ gì chứ? Mặt dày : “ bé này chết cũng lâu rồi mà thay đổi chút nào, hay là biến thành cương thi mất rồi, bọn mình bỏ xác bé ở đây quản cũng đành, hay là mang chôn, tránh sau này tác quái.” Tôi : “Đưa người chết nhập thổ là yên, đây cũng là việc tốt nhưng ông đừng có sồn sồn lên thế, để tôi xem xét ràng rồi tính.” Mặt dày : “Lắm chuyện, mau làm , đào cái hố chôn cho xong để còn lên đường, ra khỏi cái chốn này cho sớm”, rồi ta xồng xộc tiến về phía xác đứa bé, thấy trong tay bé cầm chiếc gương đồng mững rỡ kêu lên: “Còn có tấm gương đồng này” Tôi dặn Mặt dày đừng động vào chiếc gương đó, dù sao chiếc gương đó cũng thể dùng được nữa. Tới lúc chết, bé vẫn cầm chiếc gương trong tay, hơn nghìn năm nay chưa hề thay đổi, chiếc gương đó soi xác chết hơn nghìn năm qua, giờ mà soi người sống quá là xui xẻo, ai mà dám chường mặt mình vào chiếc gương đó chứ, ông có biết là soi vào nhìn thấy gì ? Mặt dày cãi lại: “Cậu cứ đứng đó mà tự dọa mình, để tôi xem xem soi vào thấy gì nào...”, rồi gỡ lấy chiếc gương trong tay bé ra. Kể cũng lạ, chiếc gương vừa rời khỏi tay diện mạo và quần áo bé bỗng tối sầm xám xịt, trong phút chốc tất cả chỉ còn lại đống tro tàn. 6 Hai chúng tôi thất kinh, hiểu tại sao vừa lấy chiếc gương thi thể bé hóa thành tro bụi. Tôi cầm lấy chiếc gương đồng, chính giữa mặt sau, chiếc núm gương là hình con rắn cuộn tròn, còn có hoa văn chim thần bay lên trời, chiếc gương hề có tượng hoen rỉ, cầm trong tay chắc nịch lạnh lẽo, ánh sáng vàng phát ra từ chiếc gương khiến người xem ớn lạnh, nó chính là cổ vật từ thời Hán. Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ, chừng đây là tấm gương báu, đặc biệt là hình con chim thần đúc ở mặt sau của gương có tên là “Bách Lao điểu”, người xưa thường gọi là chim Quyết [2] . Truyền thuyết kể rằng, con chim đó là do người tên Bách Kỳ biến thành, sau khi mẹ của Bách Kỳ qua đời, bố lấy vợ khác, mẹ kế sinh được người con trai, vì muốn lấy lòng chồng, để chồng thương con trai mình nên người mẹ kế đó lời ngon tiếng ngọt với chồng, người bố tin lời vợ lẽ cho rằng Bách Kỳ có tâm địa tốt, đem cậu vứt nơi đồng hoang. Cậu bé gieo mình xuống sông tự vẫn, biến thành chim Bách Lao, tấm lòng trong sáng như gương, có thể phân biệt thiện ác. Chiếc gương có đúc hình chim thần chắc chắn phải là tầm thường. Dựa theo tình hình tôi phỏng đoán, bé chính là nô lệ của chiếc gương, trong Na miếu cũng có vẽ hình của bé, năm đó cầm gương chết trong gian thạch thất này, thi thể được đón nhận linh khí từ chiếc gương, vì thế nên thi thể hơn nghìn năm qua bị rữa nát. [2] Chim Quyết hay còn gọi là chim Bách Thiệt, trong truyền thuyết loài chim này có thể hót lên trăm thứ tiếng khác nhau. Tôi hối hận vô cùng, đáng lẽ ra nên để Mặt dày lấy mất chiếc gương đồng của bé. Vừa rồi bé hồn về, có thể là biết ngày hôm nay gặp kiếp nạn, cầu xin tôi đừng động vào chiếc gương. Tôi lại nghe ràng, tới khi hiểu ra quá muộn, xem ra, đó là ý trời. Tôi kể vắn tắt chuyện này cho Mặt dày nghe. ta vội : “ cứ coi như bé đó sớm được siêu thoát sớm, đầu thai. Giữ mãi chiếc gương đó cũng có tác dụng gì đâu...”, rồi giật lấy chiếc gương tay tôi lau chùi lớp bụi bên , nâng niu nỡ rời tay. Xem chừng ta định nhét chiếc gương này vào cái túi da rắn luôn đây. Tôi bỗng nghĩ lại, thấy lời của bé rất lạ. Nếu là ma tại sao lại lo sợ việc động vào chiếc gương khiến thân xác biến thành tro bụi. Người chết rồi, thi thể có bị phân hủy cũng còn ý nghĩa gì nữa đâu, cũng đâu hồi sinh chuyển thế được, vậy tại sao cứ phải giữ khư khư chiếc gương được động vào? Tôi nghĩ hình ảnh bé mà tôi gặp trước đó phải là ma. Tương truyền “Nghìn năm có bóng, tích bóng thành hình”, xác chết đó soi bóng vào trong gương hơn nghìn năm qua thay đổi, chiếc bóng trong gương dần có ý thức, có thể chỉ cần thêm vài trăm năm nữa nó có thể tích bóng thành hình, nhưng đạo trời cho phép, vậy nên bé mới nhiều năm tu luyện dễ dàng gì, lại có linh tính gặp phải kiếp nạn nên tới cầu cứu tôi đừng động vào chiếc gương và xác chết kia, chẳng phải là bé biết khó tránh khỏi kiếp nạn này rồi sao? Giờ đây thi thể hóa ra tro, chiếc bóng trong gương cũng còn cơ hội để tu luyện thành hình nữa rồi, chừng chỉ cần qua vài năm nữa chiếc bóng đó cũng tiêu tan, bé nhất định rất hận chúng tôi, giờ này còn mang theo chiếc gương chẳng phải tự rước họa vào thân. Nghĩ vậy, tôi Mặt dày đừng tham nhặt chiếc gương, vội giành lại nó từ tay ta, tôi vốn định đặt chiếc gương lại mặt đất, nhưng khi cúi xuống vô tình thấy mặt tôi ra trong gương. Chiếc gương cổ vẫn giữ được vẻ sáng, bóng, cần soi đèn vẫn nhìn thấy mặt người, đến từng cọng tóc, tôi thấy khuôn mặt bé xuất phía sau tôi, đôi mắt ánh lên vẻ hận thù. Mắt tôi chạm vào ánh mắt của bé, bỗng cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mồ hôi lạnh vã ra như tắm, quay đầu nhìn lại thấy gì, tôi biết chắc là hồn ma trong chiếc gương, đanh định vứt chiếc gương xuống đất thấy như có hai bàn tay bóp lấy cổ mình khiến tôi thở được, vội đưa tay sờ lên cổ thấy gì, cúi xuống nhìn chiếc gương, thấy trong gương ra hình ảnh tôi bị hồn ma bóp cổ. Tôi kinh hãi vô cùng, vứt toẹt chiếc gương xuống đất, nhưng cổ vẫn cảm nhận được đôi bàn tay lạnh lẽo sít ngày chặt hơn. Tuy hồn ma trong chiếc gương chỉ là bóng ma, nhưng được hưởng linh khí của chiếc gương hơn nghìn năm qua đâu phải là chuyện đơn giản. Trong địa cung của hầm mộ Na vương nguy hiểm như vậy chúng tôi cũng thoát ra được rồi, lẽ lại chết trong gian mật thất này? Tôi bắt đầu cuống, nghĩ vội mấy cách để thoát thân, nhưng toàn thân cứng đơ thể động đậy được, chỉ có hai mắt còn có thể chuyển động, giờ cho dù có bản lĩnh bằng trời cũng tài nào dùng nổi. Mặt dày trông thấy bộ dạng của tôi chẳng hiểu mô tê gì, hỏi: “Cậu lại gặp ma rồi à?” Tôi thầm trong bụng: “Hồn ma này bóp chết tôi xong rồi cũng tới lượt ông, còn mau chạy ?” khổ nỗi thể nào lên tiếng được, chỉ biết kêu khổ trong lòng, cổ tôi bị bóp ngày càng mạnh, thể nào thở nổi, hai mắt bắt đầu trắng dã. Đúng lúc đó, tôi bỗng thấy cổ mình hẳn, vội vàng hớp lấy hớp để khí, trong lòng thắc mắc tại sao hồn ma đó lại đột nhiên tha cho tôi. Nhìn lại thấy bé quỳ mọp ở góc tường, mặt biến sắc, quay về phía chúng tôi vái lạy sì sụp, rồi bỗng chốc tan biến. Tôi thấy lạ liền cầm chiếc gương lên xem, hình ảnh bé trong gương còn nữa, chiếc gương đồng cũng tối sậm lại. Khi tôi quay người lại thấy Điền Mộ Thanh đứng ngay phía sau, mặt trắng bệch như người chết.