Ma câm: Ma Khóc dưới Hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 5: Cuộc kỳ ngộ ở Ô Thử


                  1


      Dọc đường toàn đất trống đồi trọc khiến hai mắt tôi cứ díp lại, Mặt dày mình chiếm nửa cabin, còn ăn hết số xúc xích chúng tôi mang theo, hút hết hai bao thuốc lá, tôi và Điếu bát chán thèm để ý đến ta, hai người chen nhau chiếc ghế, nhắm mắt giả vờ ngủ.

      Mặt dày lại là gã lắm chuyện, toàn kiếm cớ chuyện. ta dùng khuỷu tay huých tôi cái, hỏi: “Khe Hoàng Tuyền ở Thông Thiên Lĩnh xa xôi hẻo lánh thế, điện còn chưa có, các cậu tới đó làm gì?”

      Tôi : “Vừa khéo, bọn tôi tới đó để kéo điện về, lên trước xem xét tình hình dân bản đó ra sao.”

      Mặt dày tin: “Nhắm mắt xàm! Muốn kéo lưới điện về đó phải cắm bao nhiêu cột điện cho đủ?”

      Điếu bát tiện miệng hỏi thăm luôn tình hình: “Cậu lái xe ở vùng này có thông thạo Thông Thiên Lĩnh ?”

      Mặt dày : “ thạo lắm nhưng cũng biết chút ít. Mà này, hai người chỉ trả tiền xe thôi đấy, muốn hỏi thăm phải trả thêm tiền. Tôi kiếm tiền cũng có dễ dàng gì đâu, mọi người cũng phải ý tứ chút chứ.”

      Nghe thấy ta nhắc đến tiền, tôi lại điên tiết: “Cải cách mở cửa mới có mấy năm, thằng lái xe như bị tiền nhập à? với , bọn tôi có xu nào hết, có cướp cũng chẳng có.”

      Mặt dày cậy mình to con, coi chúng tôi ra gì, giọng khách khí: “ có tiền trong người mà dám à? Tôi cũng cho mấy người biết, có tiền tiếp, có tiền xuống xe cho sớm chợ.”

      Tôi : “Chưa có ai dám ăn như thế với tôi đâu, dám xuống xe thử vài đường ? Có tin là tôi bẻ cổ ra ?”

      Mặt dày cũng mạnh: “Nhìn bộ dạng cậu em thế kia, dám xuống xe cho cậu biết thế nào là hối hận đến với cuộc đời này.”

      Điếu bát lên tiếng phân giải: “Có gì từ từ , phải văn minh lịch chứ. Làm gì cũng phải có lý, cậu lái xe ăn hết hơn hai chục cái xúc xích, hút hết hai bao thuốc của chúng tôi, đó chẳng phải là tiền sao, tới nơi tính tiền xe có khi phải bớt cho chúng tôi đấy.”

      Mặt dày : “Keo kiệt! Có vài cái xúc xích mà cũng dám tới tiền.”

      Tôi lại: “Mấy cái xúc xích cũng là mồ hôi nước mắt của chúng tôi, định ăn luôn chắc?”

      Mặt dày còn cãi lý: “Cậu biết đâu ‘đói đầu gối cũng phải bò’ à? Hai vị đại gia ngồi xe chẳng phải làm gì, tôi đây còn phải lái xe. Đường núi khó , lót dạ vài cái xúc xích, hút vài điếu thuốc cho tỉnh táo, nhỡ xe lao xuống vực, tới lúc đó đừng có khóc.”

      Tôi chưa gặp ai đáng ghét như gã này, định thêm mấy câu cho bõ ghét bị Điếu bát ngăn lại, ta muốn gây , đưa thêm cho gã lái xe điếu thuốc: “Cậu đừng có chấp, thằng em này của tôi thẳng tính nhưng là người tốt, bọn mình làm ăn bên ngoài dễ dàng gì, nhờ xe cậu làm sao mà trả tiền được chứ, đồng chí Lôi Phong cũng phải ăn cơm mà, đúng ?”

      Mặt dày dài miệng : “Hừ! Đồng chí Lôi Phong cần lo chuyện ăn mặc, mọi thứ có quân đội chu cấp, ta có mẹ già, dưới có vợ con, người ăn no cả nhà ai đói. Tôi có mẹ già dưới có trẻ , so sánh thế nào được với ta. Nể tình mấy người cũng là dân lao động nên tôi khó dễ mấy người, để cho mấy người tự nguyện thể chút tấm lòng là được rồi. Tôi chỉ hiểu khe Hoàng Tuyền ở Thông Thiên Lĩnh có cái gì hay mà cứ phải đến đó chứ.”

      Điếu bát : “Chúng tôi cũng chỉ nghe cái tên lạ rồi hiếu kỳ thôi, chẳng phải người chết mới xuống Hoàng Tuyền sao? Sao vùng này lại đặt cái tên lạ thế? Hay là nơi chôn người chết?”

      Mặt dày cười: “Sao lại liên tưởng đến Hoàng Tuyền của người chết thế? cho mấy người biết, trong núi thiếu nước, Thông Thiên Lĩnh tuy có nước nhưng đặc sệt, vàng khè như đất đỏ nên mới gọi là khe Hoàng Tuyền.”

      Tôi và Điếu bát nhìn nhau vỡ lẽ, hóa ra trước giờ mình hiểu nhầm, nguồn gốc cái tên Hoàng Tuyền là như vậy. Hỏi thêm về tình hình trong khe núi ta bắt đầu loanh quanh ra đầu ra đuôi. Sau rồi chúng tôi mới biết, tính cả lần này nữa ta mới chạy đường này có hai lần, hơn nữa chưa Hoàng Tuyền bao giờ, nhưng vì thấy tiền nên sáng mắt nhận liều, chẳng cần biết có thạo đường hay , chỉ nhắm bừa hướng đó mà chạy. Dọc đường còn bận chém gió, tới khi vào trong núi rồi càng càng chậm. Trời dần tối, những ngọn núi trước mặt dần bị bóng đêm nuốt chửng, đường núi gập ghềnh khó , phía trước có nhà phía sau có tiệm, dọc đường bóng xe, muốn kiếm người để hỏi đường cũng khó. Xung quanh là màn đêm tĩnh mịch, chúng tôi cứ như vậy rồi bỗng thấy hình như phía sau có tiếng xe, nghe như ở gần sát phía sau rồi.

      Điếu bát lên tiếng: “Tốt rồi, chờ xe phía sau lên hỏi đường, nếu may gặp được người tốt có thể cùng đoạn.”

      Mặt dày chết cũng chịu dừng xe, nét mặt có gì đó khác khác. ta tôi và Điếu bát nhìn vào gương chiếu hậu, phía sau xe chúng tôi chỉ màu đen kịt, chẳng có xe nào phía sau cả.

      Sau khi trời tối, xe chúng tôi lăn bước trong bóng đêm dày đặc, nghe phía sau có tiếng xe mà thấy có ánh đèn, cho dù xe chúng tôi chạy chậm thế nào vẫn nghe thấy tiếng động cơ phía sau, dừng xe chờ thấy động tĩnh gì, tiếp tục chạy lại nghe thấy tiếng xe phía sau, khiến ai nấy đều nổi da gà.

                  2


      Điếu bát sợ dựng cả tóc gáy, hỏi Mặt dày: “Đoạn đường này có ma à?”

      Tôi đừng đoán già đoán non, tôi tin, ma quỷ, hồn dã quỷ mà biết lái xe sao?

      Mặt dày thấp giọng : “Cái đó chưa chắc, chừng trước đây có chiếc xe nào đó lăn xuống vực tìm thấy xác, giờ chắc là những hồn ma bị tai nạn đó quay lại tìm bọn mình đấy, tin tôi dừng xe cho mấy người xuống tìm.”

      Điếu bát mặt trắng bệch, với tôi: “Đừng có xuống xe, cậu to gan đấy nhưng để cậu làm mấy cái chuyện hại mình ấy đâu.”

      Tôi cũng hơi chột dạ, liếc mắt nhìn sang gã Mặt dày, thấy vẻ mặt của rất lạ, ngay lập tức hiểu ra vấn đề. Chúng tôi con đường hai bên đều là núi, chỉ có điều trời tối nhìn thấy mà thôi, khi xe qua tiếng động cơ dội vào vách núi phản hồi trở lại, những người quen đường núi đều biết tượng này, luôn có cảm giác như phía sau có xe theo, nhưng thực tình chỉ là tiếng vọng của chính xe mình. Gẵ Mặt dày hẳn điều này, ta giả ma giả quỷ chỉ để dọa chúng tôi.

      Mặt dày biết tôi phát ra, cười : “Chú mày được đấy, cũng to gan phết, giờ hai người buồn ngủ nữa chứ?”

      Tôi nghĩ bụng: “Ông nội mày chứ, nếu phải bố mày biết đường cho mày trận, hôm nay tao nhịn, sau này cho mày biết mặt ông.”

      Mặt dày cũng phải thằng đần, tự mình lái xe đường núi sợ lạc lại lo chúng tôi buồn ngủ ai chuyện với , nên mới bày ra cái trò ma quỷ để dọa người. Tôi và Điếu bát gặp phải loại người này cũng đành chịu, tức tím ruột rồi, chỉ mong mau chóng tới Thông Thiên Lĩnh để còn nghỉ ngơi.




      Chiếc xe chở hàng nhờ chút ánh sáng trước đèn pha tiếp tục bò con đường gồ ghề xóc nảy, đương càng càng xấu, biển báo bên đường đề chữ “Ô Thử động”. Tôi ngừng nhắc nhở gã Mặt dày chú ý lái xe, khi rẽ vào khúc cua, bỗng tôi nhìn thấy phía trước có người mặc bộ đồ trắng, vội kêu gã lái xe chú ý. ta phanh gấp xe, nhưng người đó xuất bất ngờ nên trước khi xe dừng lại hẳn đâm phải người ta, chiếc xe lao chéo về phía vách núi, suýt chút nữa là đâm thẳng vào núi.

      Chúng tôi bổ nhào ra phía trước, Điếu bát ngồi giữa đâm thẳng vào thanh chắn trước xe, tôi thấy ta bị va rất mạnh, chắc mẩm phải gãy mấy cái xương sườn, chừng còn mất mạng, tôi kịp để ý mình cũng đau, vội đỡ ta dậy hỏi xem có sao ?

      Điếu bát đau quá, thở được, cố gắng : “Có sao chứ… làm sao mà sao được… con người ta bằng xương bằng thịt cơ mà…”

      Tôi băn khoăn, nếu gãy xương sườn làm sao mà được, vẫn được chứng tỏ bị thương nặng, đâm mạnh vậy sao lại sao nhỉ? Tôi đưa tay sờ lên người ta mới biết, ta buộc tiền xung quanh người, vừa nãy va vào thanh chắn, may có đống tiền này đỡ, xem ra tiền có thể cứu người, điều này sai chút nào.

      Mặt dày cũng ngẩn cả người, đến khi hoàn hồn vội vàng xuống xe xem tình hình, tìm khắp các bánh xe mà thấy gì, lúc đó mới thở phào nhõm.

      Điếu bát : “ ràng nhìn thấy người mà, sao giờ lại thấy đâu, phía sau cũng có vết máu, đúng là gặp ma rồi.”

      Mặt dày nhổ bãi nước bọt, : “Đâm phải ma còn hơn đâm phải người. Đâm phải ma đền mạng, đâm phải người phải đền tiền. Thời buổi này kiếm tiền quá khó, bắt tôi đền tiền khác gì lấy mạng của tôi.”

      Điếu bát : “Nửa đêm trời tối, đâm phải cái gì cũng phiền phức, chung sao là tốt rồi, nữa, lên xe thôi.”

      Mặt dày cằn nhằn: “Nếu phải đưa mấy người Thông Thiên Lĩnh tôi đâu phải lòng vòng giữa đêm trong núi thế này, vừa mất thời gian vừa tốn xăng, xúc xích chẳng đủ ăn, chuyện gì thế này chứ? Nếu tự tôi lái xe giờ này ở nhà trọ, tắm rửa sạch , làm ấm trà nóng, ăn bát mì nóng hổi…”

      Tôi tức lên: “Ông xong chưa? Ông còn kiểu này cháu ông nhịn được, chứ ông đây nhịn được đâu.”

      Điếu bát : “Phải là kẻ sỹ có thể bị giết nhưng thể bị hạ nhục.”

      Tôi : “Ai mà nhịn được? Tiền xe bọn mình trả cho nó, còn nó sai đường, dọc đường lại bị này nọ, con mẹ nó nhịn được chứ tôi nhịn được.”

      Gã Mặt dày còn già mồm: “Có giỏi mày xuống xe mà tự , tao trước cho chúng mày biết, xuống xe dọc đường cũng phải trả tiền, được thiếu xu…” ta vừa vừa nổ máy, bật đèn xe lên rồi lùi xe, vừa lùi được vài ba mét bỗng thấy đôi hài trắng thò ra phía đầu xe.

                  3


      Từ khi nhờ chiếc xe này, gặp phải gã lái xe Mặt dày thà này là tôi linh cảm sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện. Nửa đêm giữa rừng núi hoang vu, trước đầu xe xuất hai cái cẳng chân người làm chúng tôi chết khiếp, cả bọn ngồi trong xe ai bảo ai đều toát mồ hôi hột.

      Gã Mặt dày vội vã lùi xe, khi nhìn thấy nửa của người đó chỉ thấy màu trắng toát, áo trắng, quần trắng, mặt trắng, má còn có hai chấm son đỏ chót, hóa ra là hình nhân. Chắc nhà ai vừa có tang đưa người chết lên chôn núi, hình nhân bị rơi lại dọc đường bị xe chúng tôi đâm phải, vì giấy nên khi đâm mạnh bật lên nóc xe, thế nên lúc chúng tôi xuống xe tìm nhìn thấy gì, lúc lùi xe nó mới rơi xuống. Cả bọn thở phào, nhưng vì phản ứng quá mạnh, lùi xe hơi quá đà, quên mất phía sau là vực, cả người lẫn xe lăn xuống sườn núi trong tiếng thét thất thanh của cả ba chúng tôi.

      bên đường là vực sâu, rơi xuống đây chỉ có xe nát ngươi tan, thời khắc đó chẳng nghĩ được gì, chắc mẩm cuộc đời chúng tôi vậy là kết thúc tại đây, nhưng may mắn thay phía sườn núi có nhiều cây dây leo mọc chằng chịt giảm bớt tốc độ rơi của chiếc xe, cuối cùng chiếc xe của chúng tôi rơi vào hang đất, nơi đây gọi là Ô Thử động, cái tên nghe rất lạ, trước đó gã Mặt dày có : “Vì đất cát trong núi bị sói chảy dể lại rất nhiều những hang đất , nhìn từ xuống chi chít lỗ đen to khác nhau giống như hang chuột nên gọi là Ô Thử động.”

      Hang đất này, phía rộng phía dưới hẹp, sâu cho lắm. Chúng tôi cả người lẫn xe rơi gọn vào đó, đè bẹp góc hang đất, may ai bị thương nghiêm trọng. Chiếc xe coi như bỏ , ba người bị xây xát khắp nơi, đất trộn máu dính bê bết, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, lóp ngóp bò ra khỏi xe. Dưới ánh trăng mờ mờ, tôi nhìn thấy phần đuôi xe tải bẹp dí, mãi lúc sau chẳng ai được câu nào. Gã Mặt dày hai mắt đờ đẫn, ngồi bệt dưới đất, tới lúc tỉnh táo lại đổ hết lỗi lên đầu chúng tôi.

      Tôi phát điên, lên tiếng: “Xe do ông lái, đường do ông , tiền xe chúng tôi trả thiếu xu, giờ xe lăn xuống đây rồi, bọn tôi đòi tiền bồi thường thôi, ông còn định rạch mặt ăn vạ à?”

      Gã Mặt dày còn lý do nào khác, đành xuống nước: “Hai vị, thôi phát huy chút tinh thần chủ nghĩa nhân đạo vậy, tôi lấy nhiều, có bao nhiêu lấy bấy nhiêu.”

      Điếu bát : “Chúng tôi đúng là có tiền, phát huy tinh thần nhân đạo cùng lắm là thông cảm với cậu thôi.”

      Tôi : “Phát huy tinh thần nhân đạo còn phải xem đối tượng, nó là cái thá gì chứ?”

      Gã Mặt dày cũng nổi sung: “Thằng kia lại định đánh nhau phải ? cho mày biết tao cũng có nghề đấy nhá, đừng để tao động được vào mày, nếu hay đâu…”, rồi, xắn tay áo chuẩn bị động thủ.

      Tôi cũng xắn tay áo lên : “Mấy trò của ông chỉ để đánh nhau với các cụ viện dưỡng lão Nam Sơn, bắt nạt bọn trẻ con trường mẫu giáo Bắc Hải thôi, tôi muốn lĩnh hội bản lĩnh của ông đây.”

      Điếu bát vội can: “Có gì từ từ , hai người nể mặt tôi được ?”

      Gã Mặt dày : “Có gì mà phải ? Toàn tại các người hại tôi, giờ xe cũng còn, sau này tôi biết lấy gì kiếm sống? Tôi cũng muốn sống nữa, hôm nay tôi quyết sống chết với mấy người.”

      Tôi : “Muốn chơi tới bến phải ? Thích kiểu văn hay võ, kiểu chay hay mặn? Ông chọn , tôi chiều tất.”

      Điếu bát ngăn được, hai chúng tôi lao vào nhau, vừa lúc đó mây đen che lấp mặt trăng, xung quanh bỗng tối đen như hũ nút. Điếu bát mồm vẫn hô được đánh nhau, tay lần trong túi lấy ra chiếc đèn pin, lúc bật đèn lên, mới thấy chúng tôi đứng trong bãi tha ma, chiếc xe lăn xuống húc đổ cỗ quan tài mục nát.

      Tôi thèm tranh cãi với Mặt dày nữa, chăm chú quan sát tình hình xung quanh, đây hẳn là ngôi mộ trước giải phóng, hố đất chính là dấu tích bị đào trộm. Ngôi mộ này phải của nhà giàu có, huyệt đào sâu, gỗ quan tài cũng chỉ là loại gỗ bách bình thường. Ngâm trong nước lâu năm, côn trùng gặm nhấm, quan tài mục, nước sơn ngoài bạc màu lộ ra màu trắng bên trong, soi đèn vào chỉ thấy bộ xương khô. ngôi mộ bình thường như vậy mà cũng bị đào trộm. Mặt dày thấy trong này ẩm mốc, định trèo qua cỗ quan tài ra ngoài, bỗng đâu nhảy ra con vật trong bộ dạng giống như mèo nhưng to hơn mèo, rất hung hăng, hai mắt sáng rực như đèn, xù lông làm tư thế dọa người, vẻ như ngăn chúng tôi cho ai tiến lại gần cỗ quan tài.

                  4


      Con vật đó to hơn mèo nhưng hơn chó, có thể là họ nhà cầy, thỉnh thoảng vẫn hay xuất tại những nơi hoang vắng, trông thấy người là bỏ chạy, nhưng bộ dạng của con cầy này lại rất hung dữ, như cảnh cáo chúng tôi được tới gần quan tài, tôi nghĩ thầm: “Ngôi mộ này bị đào trộm, bên trong chẳng có gì, lẽ con cầy này muốn gặm xương người?”

      Mặt dày huơ tay đuổi mấy lần được liền rút chiếc dây lưng ra, tay xách quần, tay kia quất dây lưng có mặt bằng đồng về phía con cầy, ta ra tay vừa nhanh vừa mạnh, vài phát đuổi được con cầy chạy mất hút, Điếu bát mắt tròn mắt dẹt nhìn, gã Mặt dày được thể lên mặt: “Đừng sợ, để tôi xử lý, hai người chỉ cần tay là đủ, cần tới thắt lưng quần đâu.”

      Tôi lại sôi máu lên, với Điếu bát: “Lần này đừng có mà can tôi, tôi phải bẻ gãy lưng thằng đó ra…”

      Điếu bát lại vội ngăn: “Chớ động thủ! Chớ động thủ! Cãi nhau mãi chẳng phải vì tiền sao? Xem trong cỗ quan tài kia có gì mà con cầy đó cho mình tới gần.”

      Mặt dày nghe có thứ đáng giá nửa tin nửa ngờ, đẩy nắp cỗ quan tài mục nát ra, Điếu bát soi đèn pin vào bên trong, tôi cũng tiến lại gần, bên trong chỉ có bộ xương mục nát, chưa đến tiền áp quan tài, tới bộ quần áo cũng rách bươm, tất cả đều bị bọn trộm khoắng hết rồi. Nhưng bên trong quan tài còn chiếc hũ màu đen, bên ngoài phủ lớp bụi dày, Mặt dày háo hức mở ra xem, trong đó chỉ có ngũ cốc lên men, mùi như mùi rượu, thấy vậy ta thất vọng vô cùng.

      Tôi và Điếu bát lại thấy vật này tầm thường chút nào. Theo phong tục của người Thiểm Tây, trong quan tài người chết bao giờ cũng có hũ ngũ cốc, mang hàm ý tổ tiên phù hộ cho con cháu sung túc, no đủ. Ngoài ra, ngũ cốc cũng là loại đồ tùy táng, vàng ngọc nhiều đến mấy cũng ăn được, lăng tẩm của hoàng thân quốc thích đều có ngũ cốc tùy táng, chỉ có điều ít được người ta chú ý đến. Dân đào trộm mộ nếu mở hũ ngũ cốc ra mà ngửi thấy mùi thối mốc, thậm chí còn có mùi hương tỏa ra, theo dân gian , đó chính là loại rượu “Đỉnh quan tửu”. Để tạo ra “Đỉnh quan tửu” mùi xác chết phân hủy, mùi khí trong huyệt mộ và nhiều yếu tố khác, thiếu cái cũng được.

      Vì Đỉnh quan tửu hiếm khi gặp, chỉ dựa vào vận may, nên nó đắt như vàng. Lăng tẩm của hoàng đế vương gia đầy ngọc ngà châu báu, đào được cái như vậy ăn cả đời, nhưng mộ người dân thường lấy đâu ra mấy thứ đắt tiền đó mà tùy táng. Những ngôi mộ cũ từ trước thời nhà Thanh đa phần đều có hũ ngũ cốc, chỉ có điều mỗi mộ khác, phải đào mộ nào lên cũng có Đỉnh quan tửu. Hồi đó còn có nhóm dân đào trộm mộ chuyên săn Đỉnh quan tửu, đào trộm mộ gặp đồ vàng ngọc cũng tiện tay khoắng luôn, nhưng mục đích chính phải nhằm vào ngọc ngà châu báu mà chủ yếu là Đỉnh quan tửu. Chúng tôi gặp nạn dọc đương ngờ lại phát ra Đỉnh quan tửu, nhìn màu rượu phải là tuyệt hảo cũng là hảo hạng. Có lẽ con cầy kia ngửi thấy mùi rượu thơm nên mới mò tới.

      Điếu bát gỡ chiếc bi đông nước quân dụng đeo bên người xuống, vừa dốc hết số Đỉnh quan tửu vào trong bi đông vừa với Mặt dày: “Trước mắt em tôi có tiền, nhưng thứ này có thể đổi lấy tiền, người em dẫn đường giúp chúng tôi, khi nào bán lấy tiền, dù ít dù nhiều vẫn có phần của cậu.”

      Mặt dày suy nghĩ, chỉ cần kiếm được tiền việc gì cũng dám làm. Lần này đến lượt Điếu bát trấn áp ta, Mặt dày : “Tôi sớm biết hai người phải tầm thường, nếu làm sao biết được Đỉnh quan tửu, hay mấy người là dân đào trộm mộ? Nghe nghề đó hái ra tiền lắm, sau này cho tôi theo với được , lên núi đao xuống biển lửa vào vạc dầu đều được…”

      Điếu bát : “Chúng tôi chỉ là dân buôn đồ cổ thôi, chuyện đào mộ trộm đồ chúng tôi chẳng dám, nhưng cũng lúc thiếu người, nếu chú tin tưởng chúng tôi cùng. Sớm muộn gì cũng giúp chú kiếm đủ tiền mua xe mới. Đây phải là nơi chuyện, bọn mình tìm đường ra rồi tính kế lâu dài.”

      Mặt dày nghe thế liền đổi giọng: “Đại ca, sau này có việc cứ để em, được bao ăn bao mặc lại kiếm được tiền chỉ cần câu, đối với em đó là thánh chỉ.”

      Nửa đêm, nhiệt độ trong núi xuống thấp, khu huyệt mộ lại càng lạnh lẽo hơn, thể ở lâu, chúng tôi bật đèn pin lên rồi lần mò ra bên ngoài mới thấy chúng tôi ở giữa bãi tha ma lưng chừng núi, mộ mới mộ cũ đều có, chẳng trách dọc đường gặp hình nhân. số mộ vẫn còn đồ cúng, thu hút thú hoang lần mò tới kiếm ăn. Chẳng ai trong chúng tôi muốn ở lại đây tới trời sáng cả, nên đành phải mò mẫm trong đêm tìm đường ra ngoài, tiếng gió rít lên thê lương bên tai, nghe như tiếng ma khóc quỷ hờn.

      Bước thấp bước cao tới tận khi trời sáng, chúng tôi mới thoát ra được khe đất chật hẹp đó. Trước mắt là vùng rộng lớn, ngọn núi cao nhô lên giữa biển mây mù, ngọn núi cao vút hùng vĩ mây vờn xung quanh. Xem ra ngọn núi này chính là Thông Thiên Lĩnh, nhìn dọc nó như ngọn núi, nhưng nhìn ngang như dãy núi. tiếp thêm đoạn, chúng tôi nhìn thấy hang động đen ngòm khổng lồ ra mờ ảo trong làn mây, cả hội khỏi ngạc nhiên, Thông Thiên Lĩnh làm gì có hang động nào to như vậy, điều khiến người ta kinh ngạc hơn là cái hang này rất tròn giống được tự nhiên tạo hóa.

      Vì mây vờn che khuất nhìn , nên khi thêm đoạn nữa, khoảng cách gần hơn, chúng tôi thấy đó phải miệng hang mà là vật gì đó hình tròn rất to nhô lên sườn núi, chẳng lẽ đó là đĩa bay rơi từ trời xuống? Hay là cây nấm khổng lồ mọc dưới đất lên?

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 6: Thiên ngoại phi tiên


                  1


      Trèo đèo vượt núi, lăn lộn mãi mới ra được bãi tha ma, bỗng nhìn thấy vật thể lạ, tôi dám tin vào mắt mình, hai người kia cũng ngẩn mặt ra xem hiểu là vật gì. Mặc dù kinh ngạc, nhưng chúng tôi vẫn tiếp, tới gần hơn để xem cho . Hóa ra, dưới đó là thôn làng hình cầu có đường kính trăm mét, cao khoảng mười mấy mét, bên ngoài là bức tường đất bao xung quanh. Bên trong là những gian phòng cũng quây lại thành vòng tròn, được chia ra làm ba vòng trong, giữa và ngoài. Mỗi vòng nhà đều xây ba tầng, mái nhà lợp ngói màu đen, chính giữa là cái giếng trời hình tròn lõm vào trong, tường lũy bảo vệ chặt chẽ, trông như tòa thành.

      Điếu bát và Mặt dày nghệt mặt ra nhìn, nhà mà xây kiểu này sao? Lạ ! Hai người họ người là đĩa bay, người là nấm.

      Tôi giải thích với họ: “Nghe thời cổ có kiểu căn cứ quân mà cả dòng họ sống chung với nhau để tránh thổ phỉ cướp bóc. Họ xây nhà như thành lũy. Giống như vùng Dự Tây này, trước giải phóng đây là nơi thổ phỉ hoành hành, vì vậy trong núi xuất ngôi làng kiểu này cũng có gì là lạ.”

      Điếu bát vỡ lẽ: “Hóa ra là vậy, xem ra thôn làng này ít nhất cũng bốn trăm năm tuổi rồi, trong đó có gì hay nhỉ? Đại nạn chết ắt có phúc về sau, vận tốt của em mình tới rồi, có cản cũng được”. ta dặn dò Mặt dày phải thêm cái khóa vào miệng, cái gì cần đừng lắm mồm, nếu cứ bô bô ra đến người thực vật cũng biết tụi mình muốn làm gì, dân trong làng lại được thể hét giá cao.

      sắp tới trước cửa thôn làng rồi, dù ngôi làng có thể ở được mấy trăm hộ gia đình nhưng dọc sườn núi đồng ruộng bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm, bên ngoài cổng thôn có cái cổng lớn bằng đá trông như cổng thành, lớp vôi vữa bên ngoài tường bong hết, trơ ra lớp tường đá bên trong, trước cổng dán những bức tranh Tết cũ nát bạc màu, cảnh tượng hết sức kỳ lạ.

      Có hai người và con chó mực ngồi ngoài cổng, trong đó có cụ già có khuôn mặt dài ngồi hút thuốc, thấy chúng tôi tới ngạc nhiên hỏi: “Các cậu từ đâu tới vậy? Thông Thiên Lĩnh chỉ có lối duy nhất, hướng các cậu tới làm gì có đường?”

      Tôi tiến lên phía trước giải thích: “Thưa cụ, bọn cháu qua động Ô Thử, dọc đường bị lật xe rơi xuống khe đất, may mà chết, bọn cháu cả đêm mới ra được đến đây, bây giờ vừa đói vừa khát, cụ có thể cho bọn cháu nghỉ chân lát được ?”

      Ông cụ : “Đúng là mạng lớn, mau vào trong , đợi tôi làm cơm cho các cậu ăn.” rồi ông gọi người còn lại tới, đó là cậu thanh niên to béo trông rất thà, hai người dẫn chúng tôi vào bên trong.

      Quy mô thôn làng rất lớn, vào bên trong mới thấy còn hoành tráng hơn cả bên ngoài, trong thôn toàn là xà kéo cột gỗ, cao ba tầng, mỗi tầng đều có ba vòng, từng tầng nối tiếp nhau, từng vòng lồng vào nhau.

      Ông cụ dẫn chúng tôi vào gian phòng phía Tây, ông nơi đây thiếu nước nên lâu trong thôn có người sinh sống, chỉ còn ông và cậu Ngốc ở lại trông nom hương khói cho Tổ miếu. Ông cụ cứ dặn dò chúng tôi: “Nếu có người trong thôn dẫn đường các cậu đừng có lại linh tinh, ông tổ nhà chúng tôi có bày trận bát quái trong thôn này, ba tầng ba vòng các gian phòng ở đây đều được bố trí theo trận đồ bát quái, đúng tám tám sáu tư quẻ, trong quẻ lồng quẻ, giữa hai quẻ có tường lửa, quẻ bị cháy ảnh hưởng tới các tầng lầu khác, đóng các cửa quẻ hành lang giữa các lầu các quẻ hợp thành thể thống nhất, mở cửa hành lang các quẻ vẫn có thể thông với nhau. Nếu có thổ phỉ xông vào, dân làng đóng cửa quẻ lại, bọn thổ phỉ chẳng khác gì ba ba trong giỏ. Người ngoài vào chắc chắn bị lạc, kẹt lại bên trong đến chết cũng có gì là lạ. Xem tôi nhiều quá, chẳng qua cũng là lo các cậu lỡ xảy ra chuyện thôi...”

      đến đây, ông cụ thắp đèn dầu lên, đợi chúng tôi ngồi đàng hoàng rồi mới gọi cậu Ngốc tới ngồi bên cạnh chúng tôi, còn ông đun nước. Cậu Ngốc thà có phần khờ dại, ngồi trong góc nhà chơi với các ngón tay, coi như nhìn thấy chúng tôi.

      Thấy cậu Ngốc để ý gì tới chúng tôi, tôi nhân tiện quan sát xung quanh. Ngôi nhà được làm rất kiên cố, bàn đá, ghế đá, giường đá, bức tranh treo tường bạc màu cũ nát, có vài bức ảnh đen trắng được lồng trong khung kính, phong cảnh phía sau chính là ngôi làng, đó là bức ảnh tập thể chụp rất nhiều người, có lẽ là những người dân từng sinh sống ở đây ngày trước. Trong đó có bức ảnh khiến tôi chú ý.

                  2


      Cả tôi và Điếu bát đều nhìn chăm chăm vào bức ảnh, trong ảnh có đủ người già trẻ , được chụp trong gian nhà rộng, người chẳng có gì đặc biệt, nhưng bài trí trong ảnh phải tầm thường.

      Điếu bát chỉ vào chiếc ghế mà các vị trưởng lão ngồi, nháy mắt với tôi.

      Tôi hiểu ý ta, gật đầu : “Nếu tôi nhìn nhầm đây chính là chiếc ghế trầm hương trăm năm tuổi.”

      Điếu bát hạ thấp giọng với Mặt dày: “Đúng thế, ghế trầm hương cơ đấy. Tôi lăn lộn bao nhiêu năm trong nghề, cũng chỉ nghe người ta nhắc tới thôi, lần đầu tiên nhìn thấy đấy. Nếu phải tối qua lật xe rơi xuống khe đất làm sao tìm được nơi này. Cái này gọi là trong cái họa có cái phúc.”

      Mặt dày hỏi: “Nhưng ông cụ kia có nỡ đưa cho chúng mình ? Hay là bọn mình cướp?”

      Điếu bát : “ được làm mấy trò vi phạm pháp luật đó, cướp giật là hành vi của bọn thổ phỉ, chỉ cần ông cụ đồng ý tôi mua lại, tiền tôi buộc hết trong người đây rồi.”

      Mặt dày : “Thất đức cơ chứ? chẳng bảo là hết tiền rồi sao? Tôi là người thà thế mà còn lừa.”

      Điếu bát : “Có nhưng nhiều, cả gia tài nhà tôi dốc hết cả vào đây rồi, tiền vốn thể tiêu tùy tiện được, chúng ta làm ăn, hiểu chưa?”

      Mặt dày gật đầu: “Hiểu rồi! Chưa nhìn thấy thỏ chưa thả chim ưng.”

      Chợt nghe thấy bên ngoài hành lang có tiếng bước chân, tôi vội nhắc hai người đừng chuyện nữa, để người dân trong làng nghe thấy hay.

      lúc sau, ông cụ mang lên mấy bát mì, ông và cậu Ngốc cùng ngồi ăn với chúng tôi, đây được coi là bữa trưa.

      Điếu bát lấy thuốc mời ông cụ hút, sực nhớ ra vẫn còn chai rượu Nhị Oa Đầu, liền mang ra mời ông cụ uống, nhân tiện thăm dò tình hình.

      Ông cụ là người ưa chuyện, bình thường nhiều, giờ uống nửa chai rượu vào lại càng nhiều lời, ông kể: “Mấy trăm năm trước, Thông Thiên Lĩnh nhiều chó sói, bản tính của loài này hung dữ gian xảo, thường xuất trong đêm cắn vật nuôi trong thôn, có cách nào mà phòng tránh được. Thêm vào đó là nạn thổ phỉ cướp bóc hoành hành. Vì vậy, tổ tiên chúng tôi xây thành lũy định cư ở đây để tự vệ, phần là tránh thú hoang, phần là phòng thổ phỉ. Năm xưa, khi xây thành lũy này, từ trong ra ngoài đều được bố trí theo trận đồ Cửu cung bát quái, các cửa quẻ được bố trí khắp nơi, có cái có cái . Sau đó vì đất cát bị sói mòn nghiêm trọng, còn trồng trọt được nữa, nơi đây giao thông lại được thuận tiện, phần lớn các phòng đều bỏ trống nhiều năm, người ngoài vào thạo đường, đêm đến mà lại bên trong rất dễ lạc, lỡ kẹt lại ở nơi nào đó phiền phức lắm, vì vậy các cậu ở lại qua đêm được, chỉ có điều được rời cậu Ngốc kia nửa bước, trông nó khờ khờ thế nhưng thông thạo các cửa quẻ trong thôn còn hơn cả tôi đấy.”

      Ba chúng tôi vâng vâng dạ dạ, ban ngày trông nơi đây khủng khiếp rồi, đêm đến ai mà dám lại lung tung trong tòa lâu đài khổng lồ này cơ chứ.

      Điếu bát hỏi: “Xin hỏi cụ họ gì ạ?”

      Ông cụ trả lời: “Cả thôn này của chúng tôi đều cùng dòng họ, họ Chu.”

      Điếu bát : “À, cụ Chu, thôn mình tên là gì hả cụ? Là Chu Gia thôn chăng?”

      Ông cụ lắc đầu: “ phải Chu Gia thôn, tên mỹ miều lắm - Thông Thiên Lĩnh Phi Tiên thôn!”

      Mặt dày biết gì rồi, tôi và Điếu bát nghe cái tên đều bất giác giật mình. Trước đây có nghe dân đào mộ đồn nhau rằng Thông Thiên Lĩnh có phi cương. Thế nào được gọi là phi cương? Phi cương hay còn gọi là xác chết biết bay theo cách mê tín của người xưa, thi thể để lâu trong nghĩa trang ai đến nhận thường là những người tha hương chết nơi đất khách quê người, nếu nghĩa trang đó bỏ hoang ai cai quản, người chết thể về với đất, được yên nghỉ nơi chín suối, nếu để lâu xảy ra biến cố, tóc và móng tay của người chết vẫn tiếp tục mọc dài ra, đến khi xác chết đắc đạo, ban đêm ra ngoài phá phách hại người, ban ngày lại về trốn trong quan tài. Những lời đồn đại này có căn cứ, đơn thuần chỉ là mê tín dọa người. Nhưng nghe nhiều năm trước, ở Thông Thiên Lĩnh có người nhìn thấy phi cương.

      Tôi nghĩ cái gọi là phi cương chẳng qua là loại chim lớn trong rừng sâu núi thẳm mà thôi. Thời Thanh, ở vùng Thiểm Tây cũng từng xuất loài chim rất to, đôi cánh sải dài như hai cánh cửa, thường bay liệng trời rồi đột ngột lao xuống bắt dê bắt bò, nếu gặp người mình cũng có lúc nó nhào xuống tấn công. Mỗi lần cứ thấy loại chim này chao lượn bầu trời, người dân liền mang chiêng mang trống ra khua gõ loạn xạ để đuổi chúng , sau đó loài chim này cũng bị tuyệt chủng. Thông Thiên Lĩnh núi cao chạm mây, sườn núi dốc đứng, tại nơi núi cao rừng sâu này chắc chắn có rất nhiều loài thú lạ, có thể mấy trăm năm trước người dân nhìn thấy loài chim lớn, đồn mười, mười đồn trăm, cuối cùng thành phi cương.

      Nghe ông cụ Chu đây là thôn Phi Tiên, đằng sau nó hẳn có chứa câu chuyện khác, xem ra còn ly kỳ hơn cả lời đồn phi cương. Chúng tôi muốn hỏi xem thế nào, Điếu bát lại mời ông cụ điếu thuốc nữa, mới hỏi: “Cụ kể cho chúng con nghe xem tại sao nơi đây lại gọi là thôn Phi Tiên ạ?”

                  3


      Ông cụ uống ít, mở lời như mở cửa đập, ông rít hơi thuốc dài bị sặc cứ ho mãi, vừa ho vừa kể: “Bắt đầu từ đâu nhỉ, ừ... phải bắt đầu từ lịch sử thôn làng này của chúng tôi. Cuối thời Minh, có vị tướng quân tên là Chu Ngộ Cát, từng là Tổng quan quân đội, chính là lão tổ tiên của thôn chúng tôi, cụ thống lĩnh đạo quân đào hầm...”

      Mặt dày nghe tới đây hiểu, chen ngang hỏi: “Tổng quan quân đội là quan gì? Đội quân đào hầm thuộc quân chủng nào? Sao tôi chưa nghe thấy bao giờ?”

      Tôi : “Ông còn nhiều thứ chưa nghe lắm, đừng có chen ngang, để ông cụ kể tiếp .”

      Mặt dày : “Làm bộ làm tịch, xem ra cậu cũng chẳng biết gì.”

      Tôi lại: “Tôi mà biết? Đội quân đào hầm có từ thời Bắc Tống, là đội quân chuyên đào hầm, đào hào chiến .”

      Mặt dày tin: “Đoán chứ gì đoán khéo đến nỗi đoán cho cả người chết sống lại được nữa đấy.”

      Ông cụ Chu hơi bất ngờ, nhìn tôi : “ sai, chính là đội quân đào hầm hào chiến , giờ mấy ai biết về điều này nữa đâu.”

      Điếu bát : “Cụ đừng nghe tụi nó chen ngang, cụ kể tiếp . Tổng quan thống lĩnh đội quân đào hầm sau đó thế nào?”

      Ông cụ Chu kể tiếp: “Tổng quan Chu Ngộ Cát còn được gọi là dương đoan công, thông thạo ngũ hành bát quái, xem được trăng sao gió mưa, dưới trướng có hơn ba ngàn quân, thông thạo việc đào hầm đào hào. Hiềm nỗi lúc đó trong triều gian thần làm loạn, có cơ hội trung quân báo quốc, đành treo ấn từ quan, dẫn theo thuộc hạ và gia đình tới cư trong núi, ông chọn Thông Thiên Lĩnh...”

      Nghe tới đây chúng tôi cứ nghĩ cụ Chu giải thích lý do chọn nơi đây vì phong thủy tốt, nhưng hóa ra phải: “Lão tổ tiên chúng tôi chọn Thông Thiên Lĩnh để lập thông bày trận bát quái, chỉ đề phòng thổ phỉ mà còn có nguyên nhân khác. Nghe kể, trước khi dương đoan công Chu Ngộ Cát lập thôn, người dân trong vùng lần săn bỗng thấy mây đen ùn ùn kéo đến che phủ bầu trời, bỗng chốc trời long đất lở, ngọn núi nứt ra khe hở, bóng người từ bên trong bay vụt ra ngoài, sau đó ngọn núi liền lại như cũ, lại nghe thấy tiếng sấm nổ đinh tai, người dân nhìn thấy người đó bị các loại dây đeo buộc kín người treo lơ lửng trung, giãy dụa để thoát ra. Người dân ai cũng sợ hãi, người làm sao mà biết bay được? Mấy ngày trôi qua, khi nhìn từ xa thấy người đó giãy dụa nữa, đoán chắc là chết, lúc này có mấy người thợ săn gan dạ mới dám tiến gần xem xét. Các cậu đoán xem họ nhìn thấy gì?”

      Chúng tôi đều bị thu hút bởi câu chuyện ly kỳ của cụ Chu. Mọi người đều biết chỉ có thần tiên mới biết bay, còn kia là thân xác phàm trần, nhưng đời này có thần tiên ? biết người dân nhìn thấy gì, lẽ là vị tiên bị dây leo quấn chết?

      Ông cụ Chu kể tiếp: “Mấy tay thợ săn gan dạ leo lên vách núi, nhìn thấy con quái vật bị trói trong đám dây leo. Con vật đó vừa giống người lại vừa giống vượn, miệng nhọn, má cao, toàn thân đầy lông, dưới cánh tay có lớp thịt mọc dài ra trông như đôi cánh, nó bị trói trong đám dây thừng và chết từ lâu, thi thể bắt đầu phân hủy, mùi hôi thối bốc lên, chim chóc bay tới rỉa thịt, máu thịt lẫn vào nhau be bét. Người dân rằng đây là thân xác phàm trần của vị tiên lên trời, cũng có người là Lôi công, cũng có người là thứ khác, nhưng chẳng ai giải thích được ràng. Vừa vặn lúc đó dương đoan công ngang qua, thấy Thông Thiên Lĩnh khí quá nặng, biết nơi đây có Thổ Long, liền đưa người nhà và thuộc hạ tới cư nơi đây, thôn làng được xây theo trận đồ bát quái, trấn áp cửa núi Thông Thiên. Chỗ này vốn gọi là Đoan công bát quái bảo, nhưng người dân địa phương vẫn quen gọi là thôn Phi Tiên.”

      Ông cụ ham uống, mới chuyện được lúc say bí tỉ, gọi thế nào cũng tỉnh, tôi đành dìu ông cụ vào phòng bên ngủ. Chúng tôi loay hoay ngày núi, giờ cũng rất mệt, quay về cùng hai người kia lăn ra giường là ngủ ngay, trong mơ vẫn văng vẳng lời kể của ông cụ Chu.

      Thôn Phi Tiên là nơi do chính Tổng quan đội quân đào hầm xây dựng, những người dân ở trong thôn đều là con cháu hậu duệ của dương đoan công Chu Ngộ Cát, nơi đây vẫn còn lưu giữ phong cách của thời nhà Minh. Tôi từng nghe lão Nghĩa mù nhắc tới Chu Ngộ Cát, đó là người thông thạo dương ngũ hành, phong thủy, trận đồ bát quái. Chẳng trách hậu duệ của ông chỉ là ông cụ bình thường mà ăn gãy gọn đâu vào đấy. Mặc dù nghe ông cụ Chu kể mấy trăm năm trước, núi có thần tiên bị dây leo quấn chết, câu chuyện có nhiều nét tương đồng với lời đồn phi cương, nhưng đến trong mơ tôi cũng tin chuyện này có , mơ mơ màng màng tôi nghe như tiếng Điếu bát kêu lên thất thanh: “Dậy mau, có chuyện rồi!”

                  4


      Tiếng kêu làm tôi giật mình tỉnh giấc, ngồi bật dậy dụi mắt xem chuyện gì xảy ra.

      Mặt dày cũng tỉnh, vội hỏi: “Sao thế đại ca, xảy ra chuyện gì?”, đồng thời rút chiếc dây lưng ra cầm sẵn trong tay. Loại dây lưng này rất chắc chắn, phía trước lại có chiếc mặt bằng đồng rất nặng, bị đánh trúng đầu chỉ có vỡ đầu chảy máu, có thể dùng làm vũ khí phòng thân những lộ liễu, mà còn rất tiện dụng.

      Định thần nhìn lại, chỉ thấy Điếu bát giành lại chiếc bi đông quân đội trong tay cậu Ngốc, hóa ra trong lúc ngủ ta sơ ý quên mất trong phòng còn có cậu Ngốc, có thể là cậu Ngốc khát nước lấy bi đông nước người Điếu bát xuống uống, Đinh quan tửu thế là bị cậu ta nốc sạch bách. Tôi và Mặt dày cũng vội chạy tới giằng lấy chiếc bi đông, bên trong còn giọt rượu nào. Mặt dày tức điên lên, bắt cậu Ngốc phải nôn ra. Còn cậu Ngốc vì say rượu nên hai mắt trợn tròn, ngã vật ra đất, lắc thế nào cũng tỉnh.

      Điếu bát tức bầm ran tím ruột, thằng ngốc béo này đáng ghét, cơ đồ của bọn này thế là tan tành mây khói, nếu ông cụ Chu mà chịu nhận lỗi bọn này cũng chịu.

      Tôi thấy Điếu bát tức quá nghiến răng ken két, liền khuyên nhủ: “ đừng tức, coi như đó phải là lộc của bọn mình, may mà ông trời tuyệt đường chúng ta, thôn Phi Tiên này là nơi đội quân đào hầm trú , trong thôn chắc có cổ vật, tôi thấy bộ ghế trầm hương kia phải vừa đâu, đợi ngày mai ông cụ Chu tỉnh dậy, mình thương lượng với ông cụ để lại cho em mình giá rẻ, chắc có vấn đề gì.”

      Mặt dày : “Đúng, kiểu gì cũng thể về tay , em tôi còn chờ tiền chữa bệnh.” Lão ta móc trong túi ra tấm ảnh cho chúng tôi xem, đó là ảnh em lão ta, hai em dựa vào nhau mà sống, từ vốn thường xuyên đau yếu, Mặt dày xuất ngũ nửa chừng về nhà chạy xe kiếm tiền chữa bệnh cho em.

      Tôi đón lấy tấm ảnh, trong ảnh gầy khô như que củi nhưng khuôn mặt giống hệt Mặt dày. Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Mình trách nhầm lão ta, thấy tiền cứ như trông thấy bố mẹ đẻ là vì có lý do cần dùng tiền.”

      Mặt dày hỏi: “Thế nào? Em tôi xinh ?”

      Thực tình tôi biết phải trả lời ra sao, nhìn kỹ còn biết người trong ảnh là con trai hay con , đành phải lấp liếm: “ thế nào nhỉ... nếu như nhìn từ sau lưng... hình như cũng đến nỗi nào...”

      Mặt dày giật lại tấm ảnh tay tôi : “Nhìn là biết đồ lưu manh. trước với cậu, đừng có ý đồ gì với em tôi đấy, nếu tôi bóp chết cậu.”

      Tôi vừa có chút cải thiện cách nhìn về Mặt dày, nghe lão vậy, máu nóng lại bốc lên đầu: “Ông nội nhà mày chứ, có giỏi bóp chết tao ở đây luôn, nếu mà giết chết tao tìm em mày, cưỡng bức xong rồi giết chết.”

      Mặt dày : “Mày đừng trách tao nặng tay, hôm nay tao thay trời hành đạo, trừ hại cho dân...”

      Điếu bát : “Các cậu sao cứ ruột để ngoài da thế nhỉ? Bọn mình đến đây để kiếm tiền hay để cãi nhau? Nghe tôi đây, đợi cậu Ngốc và ông cụ Chu tỉnh dậy họ dẫn chúng ta xem bộ ghế trầm hương trong bức ảnh kia, dù sao ảnh đen trắng nhìn cũng , phải thấy tận mắt tôi mới yên tâm.”

      Chúng tôi lại chụm đầu thầm bàn bạc. Đến lúc trời tối, cậu Ngốc mới tỉnh dậy, còn cụ Chu vẫn ngủ, có khi phải tới sáng mai mới tỉnh hẳn cũng nên.

      Điếu bát hỏi cậu Ngốc: “Cậu em, tỉnh rồi hả?”

      Cậu Ngốc lại: “Cậu em, tỉnh rồi hả?”

      Điếu bát cầm bức ảnh tường xuống, chỉ vào bộ ghế trầm hương hỏi: “Cái này ở phòng nào?”

      Cậu Ngốc lại : “Cái này ở phòng nào?”

      Điếu bát : “Tôi biết, tôi hỏi cậu nó ở phòng nào?”

      Cậu Ngốc lại : “Tôi biết, tôi hỏi cậu nó ở phòng nào?”

      Điếu bát hỏi: “Cậu cố ý chọc tức tôi phải ?”

      Cậu Ngốc : “Cậu cố ý chọc tức tôi phải ?”

      Ba người chúng tôi nhìn nhau, giờ mới hiểu ra cậu Ngốc chỉ biết theo người khác, mình câu, cậu ta nhại lại câu.

      Mặt dày với cậu Ngốc: “Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng. Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng. Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng”

      Cậu Ngốc ngay lập tức lại lời của Mặt dày, sai chữ.

      Mặt dày trợn mắt nhìn cậu Ngốc, quay sang với Điếu bát: “Thằng này ghê , tôi hết cách rồi, mấy người có câu nào khó hơn ?”

      Điếu bát : “Chán cậu, cậu thi với thằng Ngốc đó làm gì? Có thi ra tiền được ? Quan trọng là để nó dẫn đường cho mình, trong này đường sá như mê cung, biết đường làm sao mà được.”

      Tôi nhớ lại lời cụ Chu, ông cậu Ngốc thuộc đường trong thôn như lòng bàn tay, cậu ta có thể thuộc đường chứng tỏ phải hoàn toàn biết gì. Nếu vậy bằng lời nữa, tôi cầm lấy bức tranh và ra dấu với cậu Ngốc, chỉ vào bức tranh nhờ cậu ta dẫn đường.

      Cậu Ngốc cũng bắt chước bộ dạng ra dấu của tôi, chỉ vào bức tranh rồi bỗng đứng bật dậy quay lưng ra ngoài.

      Điếu bát hô lên: “Nhanh, theo cậu Ngốc, cậu ta dẫn đường cho tụi mình đến chỗ bộ ghế trầm đấy.”

      Tôi chẳng kịp chuẩn bị, tiện tay gỡ vội tấm ảnh tường xuống, cầm thêm chiếc đèn pin, Mặt dày cầm chiếc đèn dầu bàn để soi đường, hai người chúng tôi theo sát ngay sau cậu Ngốc. Chúng tôi dọc theo hành lang đầy bụi vì nhiều năm có người sinh sống, cứ vậy sâu vào bên trong thôn, lúc đó cũng nghĩ được cậu Ngốc đưa chúng tôi đâu.

                  5


      Cậu Ngốc trước dẫn đường cho chúng tôi vào sâu bên trong, thôn làng này được xây dựng với mục đích phòng ngự, bố trí theo trận đồ bát quái, tổng thể có ba dãy nhà tròn ba tầng lồng vào nhau, giữa mỗi dãy nhà có hành lang, có con đường thẳng nào thông từ đầu thôn tới cuối thôn cả, đều phải vòng giữa ba dãy nhà tròn đó. ràng là cậu Ngốc rất thạo đường, cần soi đèn vẫn thành thạo mở từng cánh cửa quẻ, lại nhanh nhẹn trong bóng đêm.

      ngờ, đường trong thôn lại phức tạp như vậy, chúng tôi quan sát thấy các hành lang thông tới từng gian phòng hoàn toàn giống nhau, các phòng trong thôn hầu như đều trống trơn, những bức tranh treo tường cũ nát bạc màu. Vì lâu ngày có người ở, lưu thông khí nên bụi bặm mạng nhện bám đầy, khắp nơi sực lên toàn mùi ẩm mốc.

      Trước mái hiên nhà và xà ngang đều trạm trổ hoa văn tinh xảo, ví dụ như bát mã, tùng, trúc, nho v.v... họa tiết nho tượng trưng cho đông con đông cháu, cũng có họa tiết phù dung, quế hoa, vạn niên thanh, mong cầu được vạn niên phú quý, còn có phù diêu đá như Bát tiên chúc thọ, vượn trắng dâng đào v.v...

      Chúng tôi sợ bị lạc đường nên dám dừng lại xem, cứ bám sát cậu Ngốc rẽ trái rẽ phải cho tới khi đến trung tâm của thôn làng, chính là Tổ miếu. Ba dãy nhà tròn vây quanh gian nhà to nhất này, cửa đá khắc hình bốn con sư tử, miệng nhả ra mây, gọi là “Từ thời thổ vân”. Xung quanh khắc hình chín con hươu, có nghĩa là “Cửu lộ thông suốt”, tường là hoa văn mai rùa, tổ hợp sáu khung hình kết hợp với nhau thành hình khối lục lăng, vì họa tiết giống như mai rùa nên gọi là hoa văn mai rùa, mang hàm ý trường tồn vĩnh cửu, người trong nghề mới nhìn là thấy ngay hàm ý bên trong.

      Cậu Ngốc đẩy cánh cửa có khắc hình bốn con sư tử vào bên trong, bệ thờ bằng đá trong Tổ miếu có bức tượng gốm, đó là vị tướng quân oai phong lẫm liệt, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ giáp, lưng đeo bảo kiếm, thần thái uy nghiêm, phía sau bên có tấm biển “Trung nghĩa tham thiên” khiến ai bước vào đều cảm thấy kính sợ. Phía trước bức tượng có hương án bằng đồng, đôi hạc sắt, mấy ngọn nến to. Cậu Ngốc vừa bước vào thắp hương dập đầu khấn vái, chúng tôi nhìn bức tượng biết ngay đây chính là dương đoan công Chu Ngộ Cát. Đội quân đào hầm có từ thời Bắc Tống, cuối đời Minh vì tránh nạn nên Chu Ngộ Cát đành phải lui về ở , từ đó còn đội quân đào hầm nữa. Chu Ngộ Cát tinh thông ngũ hành bát quái, phong thủy địa thế, lại là thống lĩnh của đội quân đào hầm, cũng coi như kiếm cơm bằng nghề đào đất, nghề này có chút tương đồng với nghề buôn đồ cổ của chúng tôi. Chúng tôi lại muốn lấy vài món đồ cổ trong thôn, gặp dương đoan công ở đây thể thất lễ, cả bọn cũng cung kính vái lạy.

      Trong Tổ miếu của thôn Phi Tiên đèn đóm sáng trưng, Điếu bát quan sát xung quanh, thấy bộ ghế đâu, Tổ miếu cũng phải gian phòng trong bức ảnh, ta hỏi cậu Ngốc: “Cậu Ngốc, đây là gian phòng tronh ảnh à?”

      Cậu Ngốc cũng quay sang với Điếu bát: “Cậu Ngốc, đây là gian phòng trong ảnh à?”

      Điếu bát sực nhớ ra là thể chuyện với cậu Ngốc được, có cũng bằng , ta giơ bức ảnh lên trước mặt cậu Ngốc, chỉ mạnh vào bộ ghế trầm hương.

      Cậu Ngốc cũng chỉ tay vào bức ảnh, rồi chỉ lên những chiếc bài vị bày chi chít ban thờ, ý rằng: “ sai, chính là nơi này.”

      Tôi nhìn lên bàn thờ rồi nhìn lại vào bức ảnh, chợt hiểu ra ý của cậu Ngốc, cậu ta nghĩ rằng chúng tôi hỏi những vị trưởng lão ngồi chiếc ghế, mà những người đó giờ quy tiên cả rồi, linh vị được chuyển vào Tổ miếu.

      Điếu bát ngao ngán : “ thể chuyện ràng với thằng ngốc này được, đành chờ mai ông cụ Chu tỉnh dậy rồi tính sau.” ta nhìn lượt những đồ vật trong Tổ miếu, có vẻ tiếc rẻ : “Chiếc hương án bằng đồng, cặp hạc sắt này đều vừa đâu, nhìn màu đen bóng của nó biết, theo cách của người trong nghề là màu đen gia truyền, mặc dù đồ trong này chưa chắc ông cụ Chu nhường lại cho chúng mình, nhưng tới đây rồi tôi nghĩ chúng ta nên vội, mở mang tầm mắt, học thêm chút kiến thức cũng hay.”

      Tôi quan sát thấy bên trong Tổ miếu bày hương án và cặp hạc, trần nhà còn có hình vẽ “Kim giáo thần minh”, hình vẽ rất sinh động, mặc dù chịu nhiều năm hương khói ám vào, màu sắc có phần bị trôi, nhưng vẫn nhìn thấy được diện mạo của vị thần đó, mắt mở to giận dữ, râu tóc rậm rạp, cơ bắp cuồn cuộn, tay cầm thanh kích dài giơ lên trời, khí thế áp đảo, tư thế trông như sắp lao ra ngoài. Vị thần ác được đặt ở vị trí cao, cúi đầu nhìn xuống toàn bộ Tổ miếu.

      Gian phòng rộng này chính là Tổ miếu của thôn, là nơi thờ phụng tổ tiên, vậy mà trần lại vẽ hình vị ác thần, giống với những từ đường khác. Chúng tôi được nghe cụ Chu kể về nguồn gốc của thôn Phi Tiên, biết rằng vị ác thần trong Tổ miếu chính là để trừ tà ma, nhưng vẽ trần là điều chúng tôi ngờ tới, lẽ miệng núi Thông Thiên lại chính là Tổ miếu này?

      Điếu bát càng quan sát càng thấy nơi này bình thường, ta khẳng định với chúng tôi, nơi này chắc chắn có mộ cổ. Mộ của Vương hầu quý tộc thời Hán thường xẻ núi làm mộ, hơn nữa nơi nào có mộ cổ thời Hán tên những ngọn núi đó thường liên quan đến các linh vật như Quy Sơn, Xà Sơn, Sư Tử Sơn v.v... biết Phục sơn ở Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ ?

      Có thể cuối thời Minh, Thông Thiên Lĩnh từng bị động đất, người dân nhìn thấy phi cương ra vào ở những khe nứt của núi, Chu Ngộ Cát thống lĩnh đội quân đào hầm xây thôn làng ở đây, nhằm trấn áp tà khí trong mộ cổ, càng suy luận ta càng thấy phỏng đoán của mình có lý.

      Điếu bát bắt đầu ngứa ngáy : “Đáng tiếc là biết lối vào mộ cổ ở Thông Thiên Lĩnh...”

      Tôi nhìn xuống sàn nhà, lối vào mộ cổ thời Hán chừng ở ngay dưới chân chúng tôi.

                  6


      Tôi đoán Thông Thiên Lĩnh có hang động ngầm có thể thẳng được vào trong lòng núi, ngôi làng này nằm ngay bên hang động đó, trong Tổ miếu có hai tấm đá khắc hình hai con cá, thôn làng lại được bài trí theo trận đồ bát quái, ba vòng, ba tầng xây xung quanh gian từ đường này. Trong khuôn viên Tổ miếu còn có hai cái giếng, chính là hai điểm dương, đối chiếu với vị thần trần nhà hai chiếc giếng này có khả năng là thông xuống lòng núi.

      Thôn Phi Tiên được xây dựng như vậy chủ yếu là để phòng ngự, nếu bị thiếu nước dù thành lũy kiên cố tới mức nào cũng thể cố thủ được. Giếng nước được đặt trong Tổ miếu đủ thấy được tầm quan trọng của nó, nếu tôi đoán nhầm, với bản lĩnh của dương đoan công, thôn làng của ông những tránh được thú dữ, thổ phỉ mà còn chặn luôn cả miệng núi Thông Thiên Lĩnh, chiếm địa thế có lợi, mũi tên trúng hai đích.

      Điếu bát cứ khăng khăng nhận định trong lòng núi có mộ cổ thời Hán cũng có lý của ta bởi phàm những mộ cổ phạt núi làm quách, chủ nhân của ngôi mộ ắt thuộc hàng vương tôn, chư hầu. Thông Thiên Lĩnh là ngọn núi lớn, thế núi hiểm trở, mây vờn thân núi, khiến người ta phải choáng ngợp, nếu đầu tư tiền của và nhân lực khó mà đào được huyệt mộ trong lòng ngọn núi này. Nếu trong Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ thời Hán biết là mộ của ai, bởi hơn hai nghìn năm nay, hầu như chưa có bậc đế vương hoàng tộc nào đặt lăng tẩm tại đây. Vì thế, trong hang động dưới thôn Phi Tiên có thể có đồ cổ quý giá nhưng chưa chắc có mộ cổ thời Hán.

      Mặt dày hỏi: “Giờ sao đại ca? Tụi mình vào Thông Thiên Lĩnh đào mộ cổ nhà Hán chứ? Nếu gặp phi cương phải làm sao?”

      Điếu bát nạt lại: “Làm gì có chuyện cương thi biết bay, cậu nghe ông cụ Chu à, cuối thời Minh ở đây có động đất, lúc đó trời rung đất chuyển, chim thú tan tác, nhân lúc ngọn núi nứt đôi, có vật thể toàn thân hôi thối bay ra ngoài nhưng bị sét đánh rồi bị các loại đay leo quấn chặt, thi thể đều bị chim rỉa nát rồi. Thời đó dân tình mê tín mới cho là cương thi biết bay. Cho dù đó là thứ gì cũng chết từ lâu rồi, giờ còn gì đáng sợ nữa đâu.”

      Mặt dày : “ phải là tôi sợ, tôi vốn chẳng còn hy vọng gì vào cuộc sống, tin đời này có chuyện tốt đến với mình. Từ lúc gặp hai người, ngang qua Ô Thủ động bị lật xe rơi xuống nghĩa địa mà còn nhặt được bảo bối tôi biết đến lúc số mình phất lên rồi. dám cùng với hai người tất nhiên tôi phải hạ quyết tâm theo đến cùng, chỉ cần có cửa kiếm tiền, mẹ nó chứ, chết cũng làm.”

      Mặc dù cũng tham, nhưng Điếu bát có cái gan đào trộm mộ, hơn nữa chưa có chuẩn bị, tay làm sao mà làm việc được? ta chỉ tiện mồm vậy, thấy Mặt dày tưởng liền : “Dựa vào ba chúng ta với vài khẩu súng làm sao giải quyết được việc lớn như vậy. Trước mắt phải mua được bộ ghế trầm hương của ông cụ Chu, đợi quay về rồi tính tiếp.”

      Tôi : “Hai người bàn bạc cứ như trong thôn Phi Tiên này có mộ cổ thời Hán bằng. Có mộ cổ hay còn chưa biết kia.”

      Điếu bát : “Cũng đúng, nhưng mà tôi cứ băn khoăn...”

      Chúng tôi vừa đến đó thấy Mặt dày ra dấu hỏi cậu Ngốc: “Phía dưới tấm đá này là gì vậy?”

      Cậu Ngốc cũng ra dấu lại, ý rằng: “Dưới đó chỉ có nước.”

      Mặt dày tin: “Chỉ là giếng thôi à... có gì khác sao?”, thấy chẳng hỏi thêm được gì từ cậu Ngốc, liền nắm lấy vòng sắt được cố định tấm đá loay hoay tìm cách mở nắp giếng, dùng hết sức bình sinh mới dịch được chiếc nắp sang bên, phía dưới như cái hố sâu nhìn thấy đáy. Trong tổ miếu có hai tấm đá như vậy, trông giống như hai miệng giếng nhưng thực chất là thông tới nơi nào đó, bên thành giếng còn sót lại sợi dây thừng mục nát, đúng là giếng cổ, nhưng xem ra hơn trăm năm nay có ai lấy nước ở đây, ta thò cổ xuống xem xét ở dưới.

      Tôi : “Sao ông dám nhấc tấm đá ra? Nếu đây là chiếc giếng phong thủy của thôn ông sợ cụ Chu liều mạng với ông à?”

      Mặt dày này: “Đồ thỏ đế! Mỗi cái giếng có gì đâu mà phải sợ. Hai người qua đây xem , hình như dưới đó chẳng có gì cả.”

      Tôi với Điếu bát tuy mồm đừng động đến giếng cổ nhà người ta nhưng trong lòng cũng hiếu kỳ, cầm đèn pin ra soi, cái giếng vừa rộng vừa sâu, nhìn thấy đáy đâu cả.

      Mặt dày : “Mọi người chẳng bên dưới có mộ cổ sao? Ở chỗ nào?”

      Điếu bát : “Có mộ cổ cũng phải ở bên cạnh thôn, trong lòng núi cao ấy, cái giếng này cùng lắm chỉ là đường hầm thông ra núi thôi.”

      Mặt dày trợn tròn mắt nhìn xuống phía dưới: “Dưới này tối thui, ai mà nhìn thấy đường hầm ở đâu.”

      Tôi : “Ông to gan xuống dưới đó xem là biết liền chứ gì...”

      Vừa xong thấy Mặt dày rơi tọt xuống giếng, tôi và Điếu bát ngạc nhiên, nghĩ: “Lão này cũng liều phết.”

      Vừa mới nghĩ vậy nghe thấy tiếng Điếu bát kêu lên “Ối!” tiếng rồi cũng rơi tọt xuống giếng. Tôi thấy tình hình ổn, vừa quay đầu lại thấy cậu Ngốc lao về phía mình, hóa ra hai người vừa rồi đều bị cậu ta đạp xuống giếng. việc xảy ra quá đột ngột khiến tôi kịp phòng bị, tới lúc tôi nhận ra quá muộn, cậu Ngốc to béo, như tấm phản thịt sầm sập lao tới, cậu ta cũng chẳng cần giơ chân ra, dùng bụng huých cái là tôi đứng vững, chỉ thấy tiếng gió vù vù bên tai, cơ thể rơi tự do trong khí, rơi suốt hồi lâu mà vẫn chưa tới đáy.

                  7


      Lúc đó tôi chợt nghĩ: “Chết rồi, chắc cậu Ngốc nghĩ bọn tôi là cướp, hoặc cho rằng chúng tôi động vào chiếc giếng phong thủy của thôn nên mới tấn công từ sau lưng. Mà sao cái giếng của thôn Phi Tiên lại sâu thế nhỉ, biết dưới giếng còn nước hay , nếu rơi xuống giếng cạn...”

      Chưa nghĩ hết tôi rơi tõm xuống nước, vì rơi từ rất cao nên lực đẩy rất mạnh, rơi xuống nước rồi vẫn tiếp tục chìm sâu xuống, tôi bị uống mấy ngụm nước vội nín thở để trồi lên. May trong lúc hoảng hốt vẫn cầm chặt chiếc đèn pin trong tay, xung quanh thành giếng đều bằng đá. Hai người rơi xuống trước tôi, Mặt dày biết bơi, nhưng Điếu bát chỉ là con vịt cạn, uống đầy bụng nước, ho sặc sụa, tôi và Mặt dày dìu ta bơi vào phía thành giếng, bám vào khe hở nơi thành giếng rồi cả bọn đứng thở hồng hộc.

      Mặt dày tức điên, chỉ lên miệng giếng chửi rủa hồi, phía màu đen kịt, nhìn thấy chút ánh sáng nào của miệng giếng, chắc cậu Ngốc đóng nắp giếng lại rồi.




      Chiếc giếng này sâu mười mét, rộng cũng phải đến mười mét, nước đỏ quạch và lạnh buốt. Chúng tôi ướt nhẹp từ đầu đến chân, tôi và Mặt dày còn chịu được, Điếu bát tuy chưa đến nỗi bị sặc chết nhưng lạnh tím tái cả môi, toàn thân run bắn, thành tiếng, hai hàm răng va vào nhau cầm cập. Tôi phải túm lấy cổ áo ta ta mới bị chìm xuống nước.

      Tôi với Mặt dày: “Ông tiết kiệm sức lực , đừng có chửi nữa, cái giếng này quá sâu, trong thôn thành lũy trùng trùng lớp lớp, cửa quẻ khắp nơi, ông có đốt thuốc nổ ở đây đó cũng nghe thấy đâu, hơn nữa thủ phạm là cậu Ngốc, ông còn mong cậu ta đến cứu bọn ta chắc?”

      Mặt dày hậm hực: “Chết tiệt, tôi chửi thằng đó khen nó chắc. Tôi mà được lên đó, tôi cho thằng Ngốc kia và lão Chu biết tay, xem hai ông cháu nhà nó chịu được mấy cú đấm của tôi!”

      Tôi : “Ngồi đó mà bốc phét, ông lợi hại thế đến nỗi bị cậu Ngốc đá xuống đây!”

      Mặt dày : “Xem như tôi non , tôi nhìn nhầm người, ngờ thằng ngốc kia lại xấu xa thế. Cậu cũng đâu có nhận ra mà tôi.”

      Tôi : “ chuyện này nữa, tìm cách ra ngoài , nước giếng lạnh quá, chân tôi sắp bị chuột rút rồi.”

      Mặt dày : “Ai bảo là chứ, tôi cũng sắp trụ nổi rồi, đứng thêm tí nữa cả ba đều mất mạng ở đây. Hai người thân mình, chết cũng sao, tôi còn có em ... đợi ở nhà, tôi làm sao nhẫn tâm... nhẫn tâm để em tìm nước mắt chan hòa nhân gian sao? Có cách... cách... cách nào , mau nghĩ... nghĩ... nghĩ .”

      Mặt dày vừa vừa run lập cập, chân tay tôi cũng tê dại, lạnh thể chịu nổi, chiếc đèn pin bị ngâm nước biết có phải bị chập mạch , lúc sáng lúc tối, có khi sắp hỏng rồi. Tôi sốt ruột tìm đường ra, nên cũng buồn đấu khẩu với Mặt dày nữa. Thành giếng rất trơn, mọc đầy rêu, đừng ba đứa chúng tôi, ngay cả khỉ cũng trèo lên được. Trước đây, nghe ông cụ Chu phía dưới thôn Phi Tiên có cửa núi, chừng dưới giếng này có đường hầm bí mật cũng nên, tôi trấn an mình được cuống, định thần quan sát xung quanh, phát vết nứt ở thành giếng, phần lớn bị chìm trong nước. Theo ánh đèn pin chiếu sáng, tôi thấy dấu vết của lớp rêu cho thấy trước đây mực nước của giếng cao hơn bây giờ rất nhiều. Vì sau này nguồn nước bị cạn nên vết nứt mới lộ ra.

      Chúng tôi chỉ mong mau mau chóng chóng ra khỏi nơi nước lạnh như cắt này, thấy có đường thoát như chết đuối vớ được cọc, vội lôi Điếu bát lặn ra ngoài. Bên dưới vết nứt khá rộng rãi nhưng khoảng bị ngập nước chỉ tầm nắm đấm, chừng năm sáu mét vào huyệt động. Lúc này chiếc đèn pin sáng được nữa, chúng tôi nhìn thấy gì ở phía trước, đành mò mẫm để leo lên nhũ đá trong động, ba người lạnh run như cầy sấy, vội cởi quần áo vắt khô nước, quần áo ướt rồi cũng thể mặc ngay được. Điếu bát cũng hồi tỉnh được đôi chút, cởi trần ngồi xổm tìm thuốc hút, nhưng thuốc bị ngâm nước nát hết cả, chỉ tìm thấy chiếc bật lửa cơ, tôi bảo ta vẩy hết nước , bật mấy lần, cuối cùng cũng bật được, ngờ ánh sáng vừa lóe lên bỗng có ai đó thổi phù cái tắt phụp, chúng tôi đều giật mình, đồng thanh hỏi: “Ai đấy?”

                  8


      Mặt dày lên tiếng: “Là tôi, là tôi. Đừng có kêu lên thế, chúng ta trần như nhộng, bật lửa lên, ngại chết được.”

      Tôi : “Đừng có làm loạn lên! Mẹ nó, ông mà còn biết xấu hổ mặt tôi với Điếu bát biết để đâu.”

      Điếu bát : “ có mảnh vải người đúng là lịch lắm, rất ảnh hưởng tới hình ảnh của chúng ta, nhưng dù sao cũng toàn đàn ông với nhau, ở đây cũng có người ngoài, có gì lạ đâu mà ngại!” rồi, Điếu bát bật lửa lên, trước mặt chúng tôi cuối cùng cũng có được chút ánh sáng. Điếu bát nhìn thấy tiền của mình bị nước ngâm nát hết ra, cuống quýt hết cả lên: “Mạng sống của tôi, vất vả phấn đấu hơn hai mươi năm, giờ lại quay về thời trước giải phóng rồi...”

      Tôi : “Nếu phải Mặt dày mở giếng phong thủy của người ta ra cậu Ngốc đánh lén tụi mình.”

      Mặt dày : “Tôi là oan nhất đấy, cái thằng trông mặt mũi thà thế mà lại gian xảo, uống mất rượu Đỉnh quan của chúng ta rồi, sợ chúng ta tính sổ với nó nên mới lừa đến Tổ miếu để diệt khẩu, phải tôi đâu nhá, mà việc nó rành rành ra như vậy. Bình thường hai người tinh tường thế, thông minh hơn cả người Do Thái mà lại nhìn ra sao? Còn để tôi mang tội thay cho thằng ngốc kia.”

      Điếu bát lạnh quá vẫn run cầm cập, lên tiếng càm ràm: “Giờ gì cũng muộn rồi, kẹt trong động tối thế này chết lạnh cũng chết đói.”

      Mặt dày : “Tôi sợ chết, chỉ sợ chết nổi, sống mang tội, chịu khổ cực rồi vẫn phải chết, thế mới gọi là xui xẻo, xui xẻo hơn là sau khi chết có người lo chôn cất, thi thể vứt đây cho rắn chuột gặm nhấm.”

      Điếu bát thất kinh: “Hả? Cậu ở đây có chuột và rắn sao?”

      Mặt dày : “Có rắn hay tôi biết, nhưng chuột có, lúc nãy có con vừa chạy ngang qua chân tôi”.

      Bị kẹt trong hang động lạnh lẽo tối om, giơ tay ra trước mặt cũng nhìn thấy, người mảnh vải che thân, ướt nhèm nhẹp, xung quanh lại toàn chuột cống, tối om nhìn thấy gì, bị chúng cắn phải cũng gay. Điếu bát càng nghĩ càng sợ. Sợ vì muốn chết, vậy nên ta thay đổi chủ ý, ngồi chờ chết nữa.

      Tôi : “Chiếc giếng cổ trong tổ miếu thôn Phi Tiên thông xuống núi nhất định có đường , dù biết là đường sống hay đường chết nhưng vẫn tốt hơn là ngồi đây chờ chết, xem ra được bước nào hay bước đó. Cắn răng chịu đựng chút, chừng có cơ hội sống sót.”

      Điếu bát : “ chí lí lắm, những người vĩ đại cũng thường hành như vậy, biết là mạo hiểm nhưng chỉ cần quyết tâm vẫn qua được.”

      Mặt dày : “Vậy chúng ta đừng nhiều nữa, dù sao tôi cũng coi thường sống chết rồi, kiếm được nhiều tiền sống cũng vô vị.”

      Ba người chúng tôi bàn xong liền sâu vào phía trong tìm đường, chỉ mặc mỗi quần đùi và giày, quần áo ướt quấn lại vắt lên vai, mỗi tội có ánh sáng cứ phải dò dẫm trong bóng tối, nên rất khó di chuyển.

      Mặt dày hỏi mượn Điếu bát chiếc bật lửa để trước dẫn đường, có chút ánh sáng dễ hơn.

      Điếu bát phản đối: “ được! Hai cậu mặc dù là bạn tốt của tôi nhưng lúc cần phê bình tôi vẫn phải phê bình, các cậu thường ngày vẫn chỉ quẹt diêm hút thuốc làm sao mà biết được lợi hại của chiếc bật lửa này, cái này gọi là Dupont, mạ vàng đấy, bên trong còn có cái vè đồng, mỗi lần bật lửa đều phát ra tiếng kêu, có thể mang vào khách sạn tham dự những kiện lớn đấy. Giờ người tôi chỉ còn mỗi thứ này có giá trị thôi, giao cho ai cũng được, tự tôi cầm vẫn chắc ăn nhất.”

      Mặt dày tin: “Làm gì mà xịn thế, có cái bật lửa cũ rích, tôi có làm rơi vài lần cũng chẳng hỏng đâu.”

      Điếu bát dám trước dẫn đường, lại muốn đưa bật lửa cho Mặt dày, đành phải chọn giải pháp ở giữa, đó là giao cho tôi.

      Tôi trước với ta nếu đánh mất là tôi chịu trách nhiệm. rồi lần mò theo vách đá lên trước dẫn đường, tôi phát ra vách đá ở đây lô nhô lổn nhổn giống như vách đá thông thường, đánh bật lửa lên xem thấy sần sùi nổi cục như rễ cây. Cây gì mà rễ lại có thể đâm xuống sâu tới mức này, thể tưởng tượng được cái cây phải to đến mức nào, hơn nữa trước đó cũng thấy thôn Phi Tiên có cái cây nào to như vậy.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 7: Rồng đất


                  1


      Tương truyền thời Nữ Oa và Phục Hy có cây cổ thụ rất to, rễ cuồn cuộn như rồng cuốn, đỏ au như máu, nếu phải là cây râu rồng như trong truyền thuyết thân cây này cũng sống rất lâu đời rồi, rễ mọc khắp nơi núi, phần lớn khô héo, còn số vẫn sống, nó hút hết khí, nước, đất trong dãy núi, khiến cho thôn Phi Tiên thiếu nước trầm trọng, thể trồng trọt chăn nuôi, vật nuôi núi tuyệt chủng. Vụ lở núi thời cuối nhà Minh chắc cũng do rễ cây đùn ra ngoài gây nên.

      Điếu bát : “Hình như cụ Chu có nhắc tới dương đoan công Chu Ngộ Cát lựa chọn dựng thôn Phi Tiên ở đây là để trấn Thổ Long trong Thông Thiên Lĩnh, lúc đó cũng kịp nghĩ Thổ Long là gì, cứ nghĩ cũng là thứ gì đó như long mạch, giờ xem ra Thổ Long chính là chỉ chỗ rễ cây này.”

      Mặt dày : “Ông cụ Chu đúng là giống như ông tổ Chu Ngộ Cát của mình thích giả thần giả quỷ, rễ cây cứ rễ cây, lại còn là Thổ Long nữa”.

      Tôi : “ ‘Long’ trong phong thủy phải là loại rồng cưỡi mây cưỡi gió, ví dụ như long mạch trong những vùng núi, trong long mạch hẳn có long khí, cũng chính vì Thông Thiên Lĩnh có long khí nên rễ cây mới trường sinh bất tử, theo tôi nghĩ, long khí chính là địa khí, là năng lượng thoát ra từ lòng đất chứ hoàn toàn là quan niệm mê tín. Nên nếu ví những chiếc rễ cây to có thể đẩy vỡ cả vách núi này là Thổ Long cũng có gì là quá lời.”

      Mặt dày quan tâm đến Thổ Long gì hết, ta : “Nếu trong núi có ngôi mộ cổ của hoàng thất mình tranh thủ vào đó lấy vài thứ bảo bối, cũng uổng công vào đây chuyến.”

      Tôi bật lửa lên soi vào mặt ta: “Ông cũng nhìn lại xem bộ dạng của ông lúc này như thế nào.”

      Mặt dày : “Nhìn gì mà nhìn, mấy thằng đàn ông ở trần có gì đâu mà nhìn.”

      Tôi : “Ông đừng có mà mê, tưởng mộ thời Hán là đồ hàng mã à? Hơn nữa Thông Thiên Lĩnh chưa chắc có mộ cổ, theo bố cục của thôn Phi Tiên và câu chuyện mà cụ Chu kể từ ngoài vào trong đều rất nguy hiểm, trước mắt phải thoát thân , chuyện kiếm báu vật phát tài gác sang bên .”

      Điếu bát gật đầu lia lịa: “Mía thể ngọt hai đầu, là mạng sống, hai là tiền, mạng sống vẫn là hết. Còn rừng lo gì thiếu củi đốt.”

      Ba người trần trùng trục, vừa chuyện cho đỡ sợ vừa mò mẫm tìm đường ra, trong tay chỉ còn lại chiếc bật lửa, đoạn lại bật lên lần, lọ mọ trong bóng tối thể nào phân biệt được đông tây nam bắc, cũng chiếc bật lửa còn dùng được bao lâu, chúng tôi cứ vậy theo địa hình trong động, rồi bỗng trước mắt xuất cỗ quan tài, nửa bị chôn sâu trong gốc cây chết khô.

      Mặt dày tiến lên đẩy nắp quan tài, ta nghiến răng nghiến lợi lúc mà nắp quan tài vẫn động đậy, cứ như người chết ở bên trong giữ lại cho mở ra vậy.

      Điếu bát sờ thấy đây là cỗ quan tài bằng đá, bên phủ lớp rêu chết khô, có thể sờ thấy những hoa văn khắc quan tài.

      Tôi lấy tay che ngọn lửa, tiến lên phía trước xem xét. Hoa văn quan tài thể nội dung rất ràng, có hình ảnh vị tướng quân mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa, dương cung bắn chết con mãnh hổ, bên cạnh có con vượn già cúi đầu bái lạy. Trước đây nghe kể, dương đoan công Chu Ngộ Cát đến vùng núi này gặp con vượn tay dài, con vượn đó như hiểu được tiếng người, đến bái lạy trước ngựa của ông, dẫn ông đến sơn cốc sâu trong rừng, bỗng ở đâu chạy đến con hổ hết sức hung ác, cắn chết con cháu của bầy vượn, Chu Ngộ Cát giương cung bắn chết con hổ, để báo đáp lại công ơn của Chu Ngộ Cát, con vượn già dẫn ông xem bộ Thiên thư được cổ nhân khắc vách núi, từ đó ông thông thạo thuật dương. Những hình thù và hoa văn khắc nắp quan tài chính là mô tả lại điển tích Chu Ngộ Cát bắn hổ, được Thiên thư, hiển nhiên đây chính là chủ nhân thôn Phi Tiên - Chu Ngộ Cát.

      Lúc này, ngọn lửa lay động, lúc tỏ lúc mờ chỉ còn là ánh sáng le lói như hạt đỗ tương, xem chừng gas sắp cạn. Tôi nhìn thấy chiếc đế nhô ra hai phía bên quan tài, trông như là đĩa đèn dầu, thổi lớp bụi dày bên , bên dưới là đèn đối bằng dầu cá, tôi gọi hai người kia lại, tìm những sợi dây leo khô tết lại thành bó chặt, rồi nhúng vào chỗ dầu cá. Loại dầu này sợ ướt, chúng tôi thắp lửa vào đầu nhúng dầu thành những ngọn đuốc, hai bó buộc vào làm , hang động tối đen bỗng chốc sáng hẳn, nhưng tôi lại có cảm giác bất an hơn hẳn lúc còn mò mẫm trong bóng tối, nghĩ thầm trong bụng: “Tại sao với thành lũy tầng tầng lớp lớp trấn áp còn chưa đủ, đến lúc chết vẫn phải dùng quan tài của Chu Ngộ Cát chắn ở đây?”

                  2


      Mặt dày hận người bày trận đồ bát quái trong thôn Phi Thiên, ta nhặt cục đá ném mạnh vào chiếc quan tài bị chôn nửa vào gốc cây kia.

      Điếu bát lấy lại chiếc bật lửa trong tay tôi, quay đầu lại nhìn thấy hành động của Mặt dày lấy làm lạ: “Đừng có làm gì quá đáng, cậu muốn mua lại đồ cổ trong thôn nữa à? Hơn nữa dương đoan công Chu Ngộ Cát lúc sinh thời có thể sai thần khiến quỷ, con cháu ông ta đời đời sung túc, đến giờ vẫn chưa tuyệt tự, xem ra thể thất lễ được, muốn sống để ra khỏi chỗ này còn phải cầu ông ấy phù hộ cho chúng ta đấy.”

      Mặt dày vẫn phục: “Chẳng cần biết cái ông Chu Ngộ Cát bản lĩnh thế nào, giờ ông ta cũng chết rồi. Hơn nữa dựa vào đâu mà dân của ông ta đánh lén tụi mình được còn mình được động đến quan tài của ông ta chứ. Mình cứ chơi lại, xem ai xấu hơn ai.” rồi vẫn tiếp tục lấy đá nện vào quan tài, nhưng cỗ quan tài đá đó hết sức kiên cố, nghiến răng gõ lúc mà chẳng ăn thua gì, nhưng khe hở giữa rễ cây và quan tài bắt đầu chảy ra thứ nước bùn màu vàng.

      Bùn dưới quan tài cứ tuôn ra ngớt, chốc lát lấp đầy chỗ khe thông với đáy giếng, Điếu bát hốt hoảng hô lên: “Nước ở đâu ra mà lắm thế này?”

      Tôi cũng hốt hoảng kém, theo ánh sáng của ngọn đuốc, tôi phát ra hình dáng quan tài Chu Ngộ Cát rất quái dị, vội hét to lên với Mặt dày và Điếu bát: “ được động vào quan tài, chính nó là vật trấn long mạch của Thông Thiên Lĩnh đấy.”

      Hai người đó nghe vậy đều ngẩn ra: “Quan tài trấn long mạch nghĩa là gì?”

      Tôi giải thích: “Quan tài có hình dạng to dưới gọi là Trảm long đinh, bên trong Thông Thiên Lĩnh dày đặc rễ cây, vừa khéo chắn ngang long mạch vùng này, còn cỗ quan tài của Chu Ngộ Cát giống như chiếc đinh đóng vào long mạch và chắn ngay cửa miệng mạch nước ngầm, khiến cho cây chết khô, nên Thông Thiên Lĩnh mới xảy ra lở núi nữa.”

      Mặt dày hỏi: “Thông Thiên Lĩnh có bị lở núi hay liên quan gì đến Chu Ngộ Cát chứ?”

      Tôi giải thích: “Năm xưa khi lở núi người dân nhìn thấy xác chết biết bay, ngày nay ai còn biết việc đó cụ thể là thế nào, nhưng việc quan tài của Chu Ngộ Cát chắn ở đây chắc chắn có liên quan đến việc đó.”

      Giọng Điếu bát run run: “Ý cậu là... trong núi có phi cương?”

      Tôi : “Tôi cũng biết, chung tốt nhất đừng động vào quan tài của Chu Ngộ Cát.”

      Điếu bát : “Đúng, giữ mạng sống là hết, nếu mình đừng vào trong núi nữa...” ta bàn lùi, nhưng đường về bị bùn đất lấp mất rồi, mà nước vẫn ngừng chảy, cứ đứng mãi ở đây cũng ổn, chỉ còn cách sâu vào bên trong thôi, Điếu bát cuống quá cứ loay hoay mãi, vô tình phát đầu huyệt động có chỗ tấp đầy những tảng đá, có thể gốc cây cổ chưa chết hẳn, những khe đá có phần lỏng lẻo, có chỗ đủ để người lách qua, chắc là có thể vào trong lòng ngọn núi.

      Từ cuối đời Minh, khi ngọn núi nứt ra rồi khép lại xung quanh Thông Thiên Lĩnh chưa từng có người nhìn thấy phi cương, nên chưa chắc phía trước có lối ra ngoài. Nhưng lúc này chúng tôi nghĩ được nhiều như vậy, vòng qua quan tài của Chu Ngộ Cát, trèo vào những khe đá, ngọn đuốc tay vẫn chưa tắt chứng tỏ nơi đây khí có thể lưu thông, đến lúc này chúng tôi tin trong Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ nhà Hán nữa, cũng thể tưởng tượng được nơi đó thế nào, có những thứ gì.

      Điếu bát : “Tôi chỉ nghĩ gì nấy thôi, hoàn cảnh rơi xuống giếng cạn của chúng ta cũng hơi giống ‘Bầu trời trong miệng giếng’ đấy nhỉ!”

      Mặt dày : “Có mà giống ếch ngồi đáy giếng có.”

      Tôi : “Bầu trời trong miệng giếng cũng chỉ là truyền thuyết thôi. Tương truyền có người tiều phu bị rơi vào cái giếng nhưng may chết, có điều thể trèo lên được, may mắn tìm ra được khe nứt nơi thành giếng, liền sâu vào bên trong, sau khi ngoằn ngoèo lúc lâu, bao xa, bỗng tới thung lũng phong cảnh hữu tình, hoa thơm chim hót, ở đó ta gặp các vị tiên, được cho thuốc tiên. Câu chuyện này sau đó được truyền trong dân gian và trở thành điển tích.”

      Mặt dày vỡ lẽ: “Ừ! em ta rơi xuống giếng ở Tổ miếu khu bảo thành này, cũng lọ mọ trong này lâu rồi, nếu kiếm được món gì đó cho ra hồn có phải là phí mất lần xuống giếng này .”

      Ba người vừa vừa chuyện, chẳng mấy chốc vào đến lòng núi Thông Thiên, trong này rộng rãi, tôi đứng thẳng người nhìn xung quanh, rễ cây chết khô trông như những con rắn bò dưới đất, trong động phủ lớp bụi dày, khắp nơi đều là những đám rêu dày đặc nhưng cũng đều chết khô, phía mờ ảo có chút ánh sáng tựa như ánh mặt trời chiếu xuống. Điếu bát tưởng rằng phía có khe nứt thông ra bên ngoài, ta bị nghiện nặng, chỉ muốn mau chóng ra ngoài để tìm thuốc hút, thế là ta vội vàng đu lên những cành dây leo để trèo lên . Tôi sợ ta trượt chân ngã xuống gay nên gọi Mặt dày theo. Tôi vẫn thấy có chuyện gì đó ổn, nhưng cũng giải thích được là ổn ở điểm nào. Điếu bát thấy tôi còn chần chừ giục: “Số em mình vẫn chưa phải chết, theo lối này leo lên thể nào cũng có đường ra.” Tôi trả lời: “ đúng, giờ này là nửa đêm rồi, sao lại có ánh sáng chiếu vào trong lòng núi được.”

                  3


      Điếu bát nghe cũng ngẩn người ra, thời gian đúng , lúc cùng cậu Ngốc ở Tổ miếu trời vừa tối, từ lúc bị rơi xuống giếng rồi mò mẫm trong lòng núi tới giờ cũng chỉ tầm nửa đêm, còn lâu mới tới lúc trời sáng.

      Tôi nhìn thấy phía như có vầng sáng, nhưng vì xung quanh quá tối, lại có nhiều cành dây leo che phủ nên nhìn đó là thứ gì.

      Mặt dày : “Đêm tối cũng có ánh trăng mà, kiểu gì vòm động cũng thể tự sáng lên được, sắp tới đỉnh rồi đấy, lẽ cậu định quay về theo đường cũ.”

      Tôi với Điếu bát nghĩ cũng phải, tới nước này rồi cứ phải thôi, xem đó là cái gì.

      Trong lòng núi toàn là rễ cây khô, bên ngoài là vách núi, hàng trăm rễ cây to khủng khiếp mọc dọc theo vách động, chúng tôi trèo qua những rễ cây đó lên phía , khắp người bị rễ cây cào xước. Mặt dày sơ ý trượt chân bong tảng rêu khô, lộ ra hoa văn được khắc thành động, hình như là hình vẽ đoàn người xếp hàng, nét khắc thô sơ, đơn giản, kỳ lạ ở chỗ những người này đều có thêm con mắt dọc giữa trán, xung quanh còn có những miếng vỡ sành sứ, bên đều có họa tiết người ba mắt.

      Điếu bát kêu lên kỳ lạ: “Tranh đá và miếng vỡ sành sứ trong động này có niên đại còn lâu hơn cả thôn Phi Thiên.”

      Mặt dày : “Cuối thời Minh đến nay... mà còn chưa đủ lâu à?”

      Điếu bát : “Hai ba trăm năm cũng như cái búng tay thôi, xem ra những bức tranh đá này cũng phải đến hai nghìn năm tuổi rồi.”

      Mặt dày hỏi: “Thời đó có người ba mắt à?”

      Tôi lắc đầu: “Thời nào cũng có, từ xưa đến giờ con người lúc nào chẳng hai mắt mũi, ngoại trừ Mã vương gia và Nhị lang thần.”

      Điếu bát vỡ lẽ vỗ đánh bốp vào đầu : “Ôi giời, các cậu đoán xem tôi nghĩ ra cái gì rồi?”

      Tôi : “Đầu có mọc người tôi đâu mà tôi biết được nghĩ gì.”

      Điếu bát trả lời: “Những họa tiết sành sứ đều là người ba mắt cả, lại xuất ở Thông Thiên Lĩnh này, tự nhiên làm tôi nhớ đến tích nước ‘Tấn diệt Cừu Vưu’. Cừu Vưu các cậu biết chứ? Còn gọi là Cừu Thủ, đó là nước ở vùng biên Trung Nguyên, trước đây tôi từng xem qua đồ sứ của họ, họa tiết đó cũng toàn là người ba mắt, đây cũng có thể là đồ của họ để lại.”

      Mặt dày : “Người Cừu Vưu à... chưa nghe thấy bao giờ, giờ còn tồn tại nữa ?”

      Điếu bát trả lời: “ bị nước Tấn tiêu diệt từ lâu rồi, hai nghìn năm trước khi nước Tấn diệt Cừu Vưu, do thế núi hiểm trở, đại quân vào được bên trong liền đúc chiếc chuông đồng to, dối rằng để tặng quân vương Cừu Vưu. Quân vương Cừu Vuu hề nghi ngờ, vui mừng nhận quà, còn cho người sửa đường làm lễ đón chuông, đến khi đường làm xong nước Tấn đưa quân đến diệt Cừu Vưu.”

      Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Điếu bát kiếm cơm bằng nghề này có khác, nếu có những kiến thức đó làm sao mà trụ lại trong nghề này được. Cho dù tích nước Tấn diệt Cừu Vưu này có chính xác hay , nơi đây cũng tương tự như Cừu Vưu, bị diệt vong từ lâu rồi. Thông Thiên Lĩnh lẽ có mộ của người Cừu Vưu , nếu sao ở đây lại xuất nhiều tranh đá và đồ sành sứ như vậy, nhưng lại thấy hài cốt, lẽ đều chôn ở dưới đáy động. Nghĩ đến đây, tôi bất giác nhìn xuống dưới chân, ánh đuốc chỉ soi được diện tích , trong lòng động rộng lớn như vậy tài nào nhìn được.”

      Điếu bát : “ thấy xác chết cũng có gì lạ, cho dù trong động có quan tài xác chết giờ cũng hóa thành đất hết rồi.”

      Tôi thấy cũng có lý, lấy dũng khí tiếp tục tiến lên phía trước, phát mảnh sành sứ trong động phải là ít, đủ các thể loại họa tiết người và thú, đồ vật hình dáng đơn giản, thô sơ, họa tiết người rất dễ nhận và chủ yếu vẫn là người ba mắt. Nhiều đồ tùy táng và tranh đá như vậy, chứng tỏ rằng lòng động là ngôi mộ cổ, cương thi thời cuối nhà Minh chẳng lẽ là do xác chết trong động biến thành? Xác chết xảy ra thi biến như vậy có liên quan gì đến rễ cây rồng trong động ?

      Mặt dày hỏi Điếu bát: “Phi cương là thứ gì vậy? Là người chết biết bay à?”

      Điếu bát : “Theo cách mê tín của người xưa, những cương thi để lâu trong mộ biến thành quái, có thể thở, lại như gió, đó là phi cương. Nhưng cũng chỉ những người dân ít học ở nông thôn mới tin vào những thứ này, cậu lăn lộn trong giang hồ nhiều năm chưa từng thấy ma quỷ quái bao giờ...”

      ta mới đến đây, bỗng có trận phong mang theo mùi hôi thối thổi đến, ngọn đuốc suýt chút nữa bị tắt, tựa hồ như có vật gì đó bay ngang qua, Điếu bát sợ quá ngã bệt xuống đất, kêu lên: “Phi cương ở Thông Thiên Lĩnh!”

                  4


      Tôi và Mặt dày thấy tình hình bất ổn, cùng giơ cao ngọn đuốc về phía cơn gió kia, trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đuốc, khuôn mặt người chết khô đét ra lơ lửng trong trung, khuôn mặt giống như cương thi, màu da đỏ, hai hốc mắt sâu hoắm, miệng phát ra tiếng kêu “khè khè” khó nghe hơn cả tiếng mèo kêu đêm, cổ nó rất dài cứ lắc lư ngừng mang theo từng trận gió .

      Mặc dù trước đó được cụ Chu kể về lai lịch của thôn Phi Thiên, nhưng vốn nghĩ trước đây người dân nhìn thấy loại cầm thú nào đó, chứ đời làm gì có phi cương. Phần lớn những chuyện về cương thi mà dân đào trộm mộ vẫn kể đều ở vùng Hoàng Hà nước sâu đất dày, mà đó cũng hẳn là xác chết biết , chỉ do chôn sâu nên xác chết nhiều năm phân hủy, tóc và móng tay vẫn tiếp tục mọc dài ra, nên khi bật nắp quan tài lên trông bộ dạng của xác chết rất đáng sợ, còn chuyện xác chết lại chỉ là người nhiều mà người gặp ít, cuối cùng có hay cũng thể biết chính xác. Theo lời các cụ, những xác chết hàng trăm năm mà biết gọi là Bạt, nghìn năm gọi là Hống. Bạt mọc tóc trắng hoặc tóc đen, Hống mọc tóc đỏ. Chỉ có Phật tổ mới có thể trấn áp được Kim mao Hống. Phi cương từ cổ chí kim lại càng kiếm thấy, đúng như Điếu bát , chỉ là cách mê tín của người xưa mà thôi, thể tin được. Cũng giống như người xưa thấy nhật thực cứ nghĩ rằng thiên cẩu ăn mặt trăng, thực ra chỉ là vấn đề kiến thức mà thôi. chừng người dân nhìn thấy những con chim lạ ở trong rừng sâu lại cho rằng đó là phi cương. ngờ, chúng tôi lại gặp phi cương ở đây, cả ba gần như cứng đơ người, đủ bình tĩnh để phân tích sao cương thi lại có thể bay được, huơ ngọn đuốc trong tay vài phát, rồi tiếp tục chạy về phía ánh sáng ở đỉnh động, hi vọng phía đó có lối thoát cho chúng tôi chạy ra khỏi nơi này.




      Điếu bát bình thường lẽ, đến lúc xảy ra chuyện nhát như thỏ đế, giờ phút này ta chỉ lo chạy thoát thân, hận nỗi mọc thêm vài cái chân nữa để chạy cho nhanh, quên cả ở trong lòng động, rễ cây chi chít, ta vấp ngã dúi dụi, mồm miệng be bét máu, còn gẫy mất hai cái răng cửa.

      Phi cương sợ lửa, vẫn do dự dám tiến lại gần, tay tôi đỡ Điếu bát dậy, tay huơ huơ bó đuốc ra phía trước, bó đuốc cháy gần hết, bất ngờ dưới chân bị lực gì đó vồ lấy khiến tôi ngã lăn ra giữa đống rễ cây, tôi buông bó đuốc ôm vội vào chiếc rễ cây gần đó, Điếu bát sợ chết khiếp rồi nào còn tâm trí mà cứu tôi, điều ngờ là Mặt dày rất trượng nghĩa chạy tới đỡ tôi lên chiếc rễ cây, tôi kéo theo Điếu bát mềm nhũn cùng với Mặt dày cố leo lên chỗ cao nhất của huyệt động. Bên trong lòng núi Thông Thiên Lĩnh, khắp nơi dày đặc rễ cây khô, bên ngoài là thành núi dày hàng trăm mét, đứng bên dưới lòng động nhìn lên thấy có ánh sáng, nhưng khi lên gần đến nơi mới thấy đó là những vật tròn tròn màu trắng giống như những chiếc đèn lồng, cả ba chúng tôi trợn mắt nhìn như đều muốn hỏi: “Đó là thứ gì?”

      Lúc này ngọn đuốc trong tay Mặt dày cũng sắp tắt, ngọn gió lại nổi lên, phi cương liền bay đến để vồ người. Nhờ vào ánh sáng đỉnh động, tôi thấy xung quanh có tới ba đến năm con phi cương, cứ như bầy chuồn chuồn mọc ra từ trong động vậy. Điếu bát gần như sợ vỡ cả mật, nằm bẹp dưới đất tay ôm đầu run như cầy sấy, mồm luôn miệng niệm Phật tổ phù hộ. Tôi cam tâm buông tay chịu chết, ngặt nỗi giờ trần như nhộng, tay tấc sắt, trong lúc vội vàng tháo luôn đôi giày dưới chân ném thẳng vào con phi cương bay về phía tôi. Mặt dày vốn tính hay giao chiến, giờ tình thế khẩn cấp, cầm lấy bó đuốc ném về phía bọn phi cương, chỉ nghe phịch tiếng rơi trúng mặt con. Nó ré lên, lùi lại phía sau chạy trốn, nhưng vì Mặt dày ném quá mạnh, bó đuốc bay thẳng lên phía trần động chạm vào đám đèn lồng trắng, thực ra đó là lớp kén khô dễ cháy, gặp lửa liền cháy rực lên, lan sang cả đám rễ cây bên cạnh.

      Đám lửa rực lên bất ngờ, có số con phi cương tránh kịp giống như thiêu thân gặp lửa, thành ngọn đuốc sáng rực lăn xuống đáy động, tứ bề trong động đều bén lửa, chúng tôi ở phía cũng có nơi để nấp, hơi nóng ngày mạnh hơn, thấy như tóc đầu chúng tôi cũng chuẩn bị bốc cháy tới nơi rồi, mồm miệng khô rát, cảm giác mỡ chảy qua lớp da, chúng tôi chắc mẩm chết ở chốn này: “Bị kẹt trong hang động, lên trời lối, xuống đất đường, chắc thành vịt quay mất thôi.”

                  5


      ở thế ngàn cân treo sợi tóc, bỗng thấy đỉnh động luồng ánh sáng chiếu xuống, người to béo đu sợi dây thừng xuống dưới động, chính là cậu Ngốc đẩy chúng tôi xuống giếng, cậu ta lời nào, cắp lấy Điếu bát leo lên, động tác nhanh nhẹn khác gì những chú khỉ.

      Tôi và Mặt dày trong lúc tuyệt vọng thấy có cứu tinh xuất cũng quên luôn món nợ cũ với cậu Ngốc, nhanh chóng theo cậu ta đu dây thừng thoát ra khỏi hang động. Đám rễ cây khô trong Thông Thiên Lĩnh bị cháy khiến đất đá rơi xuống ầm ầm, ngọn lửa vẫn tiếp tục cháy sâu vào bên trong. Lúc chúng tôi trèo lên được đỉnh núi vừng đông cũng vừa hửng, gió núi thổi ù ù lạnh ngắt, cụ Chu cũng ở núi, chính ông cụ đưa cậu Ngốc tới cứu chúng tôi. Ba đứa nhìn thấy cụ Chu và cậu Ngốc cơn tức giận lại trỗi dậy nhưng vì người có mảnh vải che thân, bộ dạng tệ hại hết mức nên có gì cũng đành để quay lại thành rồi tính sau.

      Cậu Ngốc cõng cụ Chu, dẫn đường cho chúng tôi xuống núi, về lại thôn Phi Tiên, lấy nước cho chúng tôi tắm rửa, rồi lại tìm mấy bộ quần áo cũ cho chúng tôi mặc, sau đó cả đám vào trong phòng cụ Chu. Lúc này, ông cụ mới kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện. Vốn ở Thông Thiên Lĩnh có cây rồng, long khí rất vượng, nếu thi thể được chôn ở đây nghìn năm bị phân hủy, là mảnh đất phong thủy rất tốt. Thời Xuân Thu Chiếc Quốc, nơi đây từng có mộ cổ của người Cừu Vưu, bên trong cây rồng có loại trùng râu đỏ được người Cừu Vưu gọi là rồng đất, thờ phụng như thần. Nghe loại ấu trùng này nhả tơ làm kén cương thi, xác chết được bao bọn kỹ nhiều năm hồi sinh trở lại. Năm xưa có cương thi bay ra bên ngoài, vừa vặn lúc dương đoan công Chu Ngộ Cát ngang qua bắt gặp, thấy đây phải là người chết hồi sinh mà do bọn trùng râu đỏ mượn xác chết làm tổ để sinh ấu trùng, thấy chúng bay ra để hại người liền ra tay diệt trừ rồng đất, hiềm nỗi trong động có nước vào được, cũng thể dùng phép lửa. Chỉ còn cách xây thôn bát quái chặn phía ngoài chỗ nứt của ngọn núi, sau đó còn lệnh cho con cháu sau này ông chết dùng quan tài của ông để trấn long mạch, đợi khi mạch nước trong núi cạn, cây rồng chết khô xuống đốt hết kén của rồng đất để trừ hậu họa.

      Tối qua vì quá chén mà say bí tỉ, đến khi tỉnh dậy thấy ba người đâu, hành lý vẫn còn trong phòng, sợ mọi người lạc lỡ kẹt trong thôn nguy, cụ liền gọi cậu Ngốc tới hỏi chuyện, nghe cậu ta khua chân múa tay kể lại mới biết chuyện mọi người tới Tổ miếu động tới giếng phong thủy của thôn được tùy tiện mở ra, cậu Ngốc vì thấy mọi người định mở nắp giếng nên mới đạp cả ba người ngã xuống dưới. Cụ Chu nghe kể thất kinh, sợ là xảy ra án mạng, bảo cậu Ngốc xuống giếng xem sao, thấy xác chết ở dưới, lại thấy nước giếng đầy trở lại đoán là ba người vào Thông Thiên Lĩnh, vội gọi cậu Ngốc lên núi mở cửa động bị phong tỏa hơn hai trăm năm nay, kịp thời cứu mọi người ra ngoài. Cũng may địa khí trong lòng Thông Thiên Lĩnh tan hết, gốc cây chết hẳn, nếu hậu quả khôn lường.

      Mặt dày nghe kể bất bình: “Chúng tôi có gây với ai đâu chứ, khi bị cậu Ngốc đá cho xuống giếng, nếu phải chúng tôi cao số giờ này chắc toi rồi, chuyện lớn như vậy mà chỉ định vài câu để cho qua hết à?”

      Cụ Chu lại : “Chúng tôi cứ phải canh giữ ở đây là để chờ tới khi cây rồng chết hẳn, nhưng bao năm qua chẳng ai dám xuống dưới đó để thám thính tình hình, ba vị tráng sĩ lần này xuống động đốt hết đám kén của rồng đất, đây cũng chính là do tổ tiên linh thiêng phù hộ, người dân thôn Phi Tiên chúng tôi rất biết ơn các cậu.”

      Điếu bát lên tiếng: “Có tấm lòng đó là đủ. Cũng với cụ, chúng cháu là dân buôn đồ cổ, chuyến này cũng dễ dàng gì, nửa đường lật xe, giờ đến cái quần cũng có mà mặc. Vừa rồi giúp thôn ta việc lớn như vậy, cụ cũng nỡ để chúng cháu về tay chứ ạ. Xem trong thôn có đồ gia bảo gì đó cụ có thể lấy ra vài thứ cho chúng cháu xem được , chỉ cần là đồ có giá trị, chúng cháu mua, tuyệt để cụ phải thiệt.”

      Ông lão lại : “Thôn chúng tôi cũng có đến 300 tuổi rồi, nhưng ở chốn rừng sâu núi thẳm này, có thứ gì lọt vào mắt ba cậu được, trước đây cũng có cổ vật do tổ tiên để lại , nhưng mấy năm khô hạn đói kém đều mang đổi lương thực cả rồi.”

      Nghe cụ Chu đem cổ vật đổi lương thực, chúng tôi tiếc đứt ruột, vì trông cụ thà chất phác thể dối. Điếu bát vẫn chưa hết hy vọng: “Bộ ghế trầm hương còn trong thôn cụ?” Cụ Chu : “Bộ ghế đó cũng còn nữa, thế này , các cậu cứ xem trong thôn còn món gì nữa các cậu cứ lấy, trừ đồ trong Tổ miếu ra lấy thứ gì cũng được, cần tiền, cứ coi như tôi cảm ơn các cậu.”

      Từ khi vào phòng của cụ Chu, tôi để ý đến món đồ sứ có hình vuông như kiểu tượng con vật, đầu tròn, đuôi tròn, móng cong. Nó được đặt trong góc nhà, bụi bẩn bắt mắt chút nào, nhưng tôi thấy như mình nhìn thấy thư như vậy ở đâu đó, tôi hỏi cụ Chu: “Cái kia là gì vậy cụ?” Ông cụ hơi ngạc nhiên, trả lời: “Là chiếc gối.”

                  6


      Tôi nghĩ lại đúng là sai, là chiếc gối sứ. Trong ngôi mộ người Khiết Đan cũng có chiếc gối sứ hình động vật như vậy, chẳng trách tôi thấy quen quen.

      Ông cụ Chu sai cậu Ngốc mang chiếc gối lại đặt bàn, dùng khăn ướt lau sạch lớp bụi, bốn phía của chiếc gối đều có hoa văn chi chít.

      Mặt dày chẳng hiểu gì, hỏi tôi: “Gối cũng chỉ để dùng khi ngủ thôi mà, đúc hình động vật làm gì nhỉ?”

      Tôi giải thích: “Trước đây do mê tín mà người dân nghĩ rằng đêm ngủ mà hay gặp ác mộng là liên quan tới ma quỷ, gối hình động vật có thể xua đuổi tà ma, giúp chủ nhân ngủ ngon lành hơn.”

      Điếu bát luôn mồm khen đẹp: “Chiếc gối này hay đấy, mỗi mặt của nó đều vẽ ba giấc mơ, mọi người xem, đây là Trang Tử mộng hồ điệp, đây là Lý Bạch ban ngày nằm mơ du ngoạn núi Thiên Lão, đây là Đường Minh Hoàng mơ du ngoạn Quảng Hàn Cung, đây là Triệu Giản Tử mơ du ngoạn Quân Thiên, đây là Tần Thủy Hoàng mơ giao chiến với Hải thần, còn có Lâm xuyên tứ mộng, Mẫu đơn đình, Hàm Đan mộng, Nam Kha mộng, Tử Thoa ký...”

      Cụ Chu giải thích: “Chiếc gối này gọi là gối dương, gối vẽ về mười giấc mơ, đó là mười giấc mơ nổi tiếng nhất từ xưa đến nay, trong đó còn chứa những huyền lý thiền cơ của đạo Phật, ví dụ như ‘Trang Tử mộng hồ điệp’ ý ám chỉ giả khó lường, ‘Hàm Đan mộng’ kể về câu chuyện chàng Lư Sinh vào ở trọ trong điếm quán, trong lúc đợi tiểu nhị nấu cháo ngủ lúc nào hay, trong giấc mơ Lư Sinh thấy mình trải qua cuộc sống vinh hoa phú quý sinh lão bệnh tử, tỉnh dậy thấy cháo vẫn chưa chín, từ đó thấu hồng trần, ngộ đạo thành tiên.”

      Điếu bát cũng lăn lộn chốn chợ phủ nhiều năm, ta làm những vụ buôn bán lớn nhưng cũng học được nhiều thứ, từ đời Tống, gốm sứ rất thịnh hành ở dân gian, ở những lò gốm thông thường hoặc lò nổi tiếng đều có, nhưng loại gối dương này lần đầu nhìn thấy, trước đây cũng chưa từng được nghe, ta phỏng đoán chiếc gối này xuất khoảng cuối đời Minh, vì trong đó có hình Lâm xuyên tứ mộng, bắt đầu từ đời nhà Minh mới có. Chiếc gốm được nung ở lò gốm thường nhưng chất lượng kém gì các lò nổi tiếng, đó còn có hình mười giấc mơ, kiểu gì cũng là hàng độc, ta ôm khư khư trước ngực chịu bỏ xuống, hỏi thăm ông cụ Chu về lai lịch chiếc gối là do tổ tiên truyền lại hay đào được trong núi?

      Cụ Chu trả lời: “Chiếc gối này là do tổ tiên để lại. dương đoan công Chu Ngộ Cát giỏi về giải mộng, nên để lại chiếc gối này, thể xem thường chiếc gối cũ kỹ này, tuy phải là đồ gốm ở lò nung danh tiếng, nhưng thể có cái thứ hai như nó đâu, nếu các cậu chê cứ cầm về.”

      Điếu bát do dự: “Trong thôn còn thứ gì có giá hơn chiếc gối này ạ?”

      Mười giấc mơ chiếc gối, Mặt dày chưa từng nghe bao giờ, tôi cũng chỉ biết chừng nửa nên chỉ ngồi im bên lắng nghe, được câu nào. Nhưng nghe cụ Chu kể lúc, lại thấy hai đầu chiếc gối là phần đầu và phần đuôi của con vật, hai bên thành và phía mỗi bên đều có ba giấc mơ, tất cả là chín giấc mơ, còn giấc mơ cuối cùng chắc là ở phía dưới chiếc gối. Ngoài những giấc mơ của Trang Tử, Thiên Lão Sơn, Quảng Hàn Cung, Quân Thiên mộng, Hải Thần mộng và Lâm Xuyên mộng ra giấc mơ thứ mười cụ Chu hề nhắc tới, lại được vẽ phía dưới gối, rất là bất thường. Tôi bảo Điếu bát lật chiếc gối lên, chỉ thấy mặt dưới có hình thành trì, phòng ốc nghiêm ngặt, phía dưới hồ còn có cung điện, nhưng phải trong thành, phía trước cung điện có tượng người đá và ngựa đá đứng quay mặt vào nhau, phía trước đường vào có tấm bia đá rất lớn được con bí hí cõng lưng, tựa như lăng mộ hoàng tộc.

      Mặt dày hỏi Điếu bát: “Đại ca, đây là giấc mơ gì vậy?”

      Điếu bát trợn mắt lên nghiên cứu lúc, nét mặt thể ngạc nhiên: “Cái này... chưa nhìn thấy bao giờ... làm gì có lăng mộ hoàng tộc ở dưới nước nhỉ?”

      Tôi cũng chưa từng nghe thấy có thành trì nào nằm dưới nước cả, nếu thế chẳng phải có bao nhiêu người bị chết đuối sao, còn lăng mộ dưới đáy hồ càng chưa nghe bao giờ.

      Cụ Chu : “Hồ này là có , theo như tổ tiên của chúng tôi truyền lại, đây là giấc mơ của dương đoan công về việc chiếc hồ bị lấp.”

                  7


      Tôi hỏi: “Cụ có thể kể cho chúng cháu nghe được , đúng là có cả thành trì bị chìm dưới đáy hồ ạ?”

      Điếu bát và Mặt dày cũng đồng thanh: “Đúng đấy, chúng cháu cũng muốn nghe.”

      Ông cụ Chu kể: “Chuyện dài lắm, các cậu mới thoát ra từ Thông Thiên Lĩnh, còn chưa ăn gì, chắc đói lắm rồi, tôi nấu cái gì ăn , vừa ăn vừa chuyện.” rồi ông cụ tất tả làm mấy bát mì, cậu Ngốc cũng ăn cùng, cả hội quây quần lại nghe ông cụ kể chuyện.

      Cụ Chu kể, cuối đời Minh, khi Chu Ngộ Cát vẫn còn làm quan trong triều, chưa cư ở thôn Phi Thiên, ông trấn giữ ở khu vực hồ Hồng Trạch, thành Tứ Châu, lưu vực sông Hoài. Thời đó hồ vẫn chưa rộng như bây giờ, địa thế vùng đó chín núi mười tám sông, nhiều núi nhiều nước. Thành Tứ Châu thời xưa vốn là nơi trọng yếu, bị nhiều nơi tranh giành, thời Minh nhiều lần bị bọn thảo khấu tấn công nên thành được xây dựng rất kiên cố. Khi dương đoan công điều binh tới thành Tứ Châu từng gặp cơn ác mộng, ông nằm mơ thấy hai con rồng ở sông Hoàng và sông Hoài đánh nhau khiến Tứ Châu chìm trong biển nước, nhà cửa thành trì đều chìm sâu trong nước, quân và dân đều làm mồi cho cá. Ông vội trình tấu triều đình di dời quân dân vùng Tứ Châu để tránh nạn về sau.

      Hiềm nỗi trong triều có gian thần xàm tấu, triều đình thèm để ý đến tấu trình của ông. Phần khác, quân dân thành Tứ Châu cũng tin lời ông , Chu Ngộ Cát bị bức từ quan, ông tới ở tại thôn Phi Thiên. Ông khắp vùng Hoàng Hà và sông Hoài mới được biết, kiếp nạn này là do núi Hùng Nhĩ có ngôi mộ cổ làm động đến long mạch của vùng khiến Hoàng Hà xâm lấn sang sông Hoài, thành Tứ Châu trong những năm tới tất gặp nạn. Ông cho vẽ và nung giấc mơ của mình lên gối sứ. Sau đó việc xảy ra đúng như vậy, cuối đời Minh xảy ra nhiều việc, đầu đời Thanh, nhánh nam sông Hoàng Hà bị lụt, ngập tràn sang cả sông Hoài rồi đổ ra biển, mưa lớn kéo dài hàng chục ngày, nước lụt ào ào dâng, khắp nơi ngập trong nước, quân dân thành Tứ Châu đều làm mồi cho cá, thành quách nhà cửa đều trở thành nơi ở của ba ba, thuồng luồng.

      Hồ Hồng Trạch, cái tên của nó lên tất cả, nó được hình thành sau trận đại hồng thủy đó, nhiều con hồ thông với nhau sau trận lụt sông Hoàng Hà và sông Hoài. chỉ có thành trì Tứ Châu bị chìm sâu dưới đáy hồ mà còn có cả Tổ lăng của hoàng đế nhà Minh. Chu Ngộ Cát có tâm cứu giúp đem quân tới núi Hùng Nhĩ để đào ngôi mộ cổ kia, đáng tiếc thời cơ chưa đúng nên thành công, lại thêm cố rồng đất ở thôn Phi Thiên nên việc đào mộ cổ đành phải gác lại. Sau khi dương đoan công qua đời, thổ phỉ nổi lên khắp nơi, thiên hạ loạc lạc, con cháu của ông cũng đành cố thủ trong thôn, thể tiếp tục công việc đào mộ cổ núi Hùng Nhĩ.

      Chúng tôi càng nghe càng thấy ly kỳ, hóa ra trước đây Chu Ngộ Cát thống lĩnh quân đội đào hầm cũng từng làm cái việc đào mồ quật mả, được người ta gọi là dương đoan công bản lĩnh giỏi đến chừng nào, dưới trướng lại có đạo quân chuyên nghiệp, đào ngôi mộ nhà Hán đó có gì là khó, tại sao lại làm được? Ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ đó cũng trong dãy Thông Thiên Lĩnh sao?

      Ông cụ Chu : “Thực tình tôi biết gì nhiều về ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ, chỉ biết nó cũng ở Dự Tây nhưng phải ở núi Phục Ngư, Thông Thiên Lĩnh, mà là ở núi Hùng Nhĩ, Thảo Hài Lĩnh. Nghe các cụ ở thôn Phi Tiên kể lại, ở Thảo Hài Lĩnh núi Hùng Nhĩ có ngôi mộ rất lớn, chôn rất nhiều tượng vàng quan ngọc, biết chủ nhân ngôi mộ là ai, truyền thuyết lời đồn lan ra đủ kiểu nhưng lời nào có căn cứ. Tương truyền, ngôi mộ này có từ thời Tây Hán, khác gì cung điện trong lòng đất, có thể là lăng tẩm của vị chư hầu nào đó. Nhiều năm trôi qua, nước lụt tràn lan, khi nước ngập lên tận núi ngôi mộ cũng bị chìm trong nước. Nước lớn nước ròng theo con nước của hồ, cứ mỗi lần có những đợt hạn hán hàng trăm năm mới gặp lần ngôi mộ lại lộ ra ít, dân gian gọi ngôi mộ đó là Tiên Đôn, vì thế mà cái hồ này cũng được gọi là hồ Tiên Đôn. Năm xưa, khi dương đoan công Chu Ngộ Cát định đưa quân đào mộ cổ, nhưng mặt hồ rộng mênh mông, hồ lại sâu, quân của ông chỉ giỏi đào hầm, đối với loại mộ dưới nước thế này họ cũng chịu, cuối cùng đành bỏ cuộc. Sơ đồ ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ đến nay vẫn được giấu trong gối dương. Nhưng mấy trăm năm trôi qua, giờ địa hình địa thế còn giống như cuối thời Minh nữa, nạn lụt Hoàng Hà qua, giờ có lấy ra cũng tác dụng gì.”

      Tôi nghe thấy mà giật mình, nghĩ: “Cơn ác mộng trong bức bích họa tại ngôi mộ nhà Liêu cũng có tượng vàng quan ngọc, lẽ là ở trong hầm ngôi mộ cổ ở núi Hùng Nhĩ?”

      Điếu bát nghe cụ Chu kể đầu đuôi câu chuyện về ngôi mộ núi Hùng Nhĩ nổi lòng tham, ta với cụ Chu: “Chúng cháu mới vào căn phòng này là để ý tới chiếc gối dương này rồi, cũng coi như có duyên với nó, chúng cháu chọn chiếc gối này. Chúng ta trước lạ sau quen, đợi lần này về kiếm được tiền chúng cháu quay lại cảm ơn cụ. Trong thôn còn vật gì quý giá nữa cụ cứ để lại cho chúng cháu.”

      Chúng tôi ở lại trong thôn thêm hai ngày nữa, đúng là thu thêm được thứ gì, đành cáo từ quay về. Ông cụ Chu sai cậu Ngốc tiễn chúng tôi ra tận đường quốc lộ, chỗ tôi còn ít tiền đủ làm lộ phí, chuyến này đúng là xui xẻo tận mạng. người Điếu bát chỉ còn lại đúng chiếc bật lửa bảo bối của ta và chiếc gối thời Minh, nhưng nó trị giá bao nhiêu chẳng ai biết được. Xe của Mặt dày hỏng, thể chạy xe kiếm tiền được nữa, chúng tôi đều ăn ở tại nhà Điếu bát, chiếc gối mãi vẫn chưa bán được, chưa gặp được người chủ biết nhận mặt hàng, Điếu bát luôn mồm kêu khổ: “ với các chú, thể nuôi hai chú mãi thế này được, chúng ta phải nghĩ cách thôi, chỉ có nước chết, cũng do đứng vào thế bí, giờ đến nước này rồi, nếu đào mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ lấy chút tượng vàng quan ngọc sống nổi.”

                  8


      Hôm đó Điếu bát dẫn tôi và Mặt dày vào quán vắng khách gọi nồi lẩu, mấy đĩa thịt và rau.

      Mấy ngày rồi, chúng tôi được ăn thịt, ở nhà Điếu bát tối ngày chỉ có món mì trộn tương, giờ nhìn thấy lẩu ai cũng chảy nước miếng.

      Mặt dày hỏi: “Ý gì đây? Trung ương nhắc nhắc lại là được lấy lý do công việc để tranh thủ ăn uống, tôi trong quân ngũ bao năm, đời ngay thẳng liêm chính, ghét nhất... là... suy đồi...”. ta vừa vừa gắp miếng thịt vừa chín nhét vào mồm, ăn được rồi là chẳng gì được nữa.

      Tôi nhìn thấy Điếu bát chỉ ngồi quẹt diêm hút thuốc, liền hỏi: “Điếu bát, bán bật lửa để mời bọn tôi ăn lẩu đấy à?”

      Điếu bát trả lời: “Hây, nghĩ, nghèo cho nghèo luôn, thuốc cũng hút nổi nữa rồi còn giữ bật lửa làm gì, bán mời em bữa cho đàng hoàng còn hơn, trước đây đúng là biết chữ bần cùng là gì, giờ biết rồi, bần trước cùng sau, cái nghèo làm cho con người ta có đất dụng võ, chẳng có điều gì đáng sợ hơn nghèo. Nếu có tiền, đến chó nó cũng coi thường mình.”

      Tôi biết Điếu bát có được chiếc bật lửa đó dễ dàng gì, nó là mạng sống của ta, lúc bị nạn trong Thông Thiên Lĩnh, đến quần cũng còn nhưng nhất quyết chịu để mất chiếc bật lửa, giờ đây nghe ta bán chiếc bật lửa để mời chúng tôi ăn lẩu, là áy náy, tôi khuyên: “Cuộc sống khó mà tránh được lúc thế này thế khác, chúng ta xui xẻo mãi vậy đâu, đợi sau này phất lên rồi, tôi tặng cái bật lửa còn xịn hơn.”

      Điếu bát : “Thôi, chú có lòng như vậy là được rồi, chỉ sợ là đợi được đến ngày đó thôi. Thực ra, từ khi nghe ông cụ Chu kể về ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ, nghĩ đây chính là cách để mình làm giàu, bọn mình cứ làm ăn nhặt thế này có mà nghèo mãi, thể nào phất lên được, muốn kiếm tiền nhanh vẫn phải đào mộ cổ. nghe ngóng tình hình rồi, cũng có ít truyền thuyết về mấy món tượng vàng quan ngọc trong ngôi mộ cổ đó. xác nhận thông tin, vẫn còn nơi tên là hồ Tiên Đôn. Năm 1965, Hoàng Hà có đập Tam Hiệp, nguồn nước ở hồ Tiên Đôn cũng khô cạn, mực nước thấp hơn trước đây nhiều, bây giờ là lúc chúng ta có thể ra tay.”

      Mặt dày chẳng suy nghĩ gì và đồng ý ngay, còn muốn đào mộ luôn trong ngày ấy chứ. Với cái tính thẳng như ruột ngựa của ta, có cầm quả cam trong tay cũng bóp thành nước, Lý Thiên Vương ngang qua cổng nhà ta thế nào cũng đánh nhau, đẳng cấp mà được nâng cao khó mà hạ xuống được. Từ lúc ở Thông Thiên Lĩnh về, ta cam chịu chạy xe chở hàng kiếm từng đồng nữa, giờ lại biết ở Dự Tây có mộ cổ, nếu mà phải là Mặt dày.

      Tôi : “ dễ thế đâu, tiền đường còn có, làm sao mà đào mộ được? Theo tôi, phải tìm cách bán được chiếc gối sứ kia . Nghe , gần đây chợ phủ ở ngoài Thành Nam hay có người nước ngoài đến mua hàng, bọn con cháu của Bát nước liên quân lại muốn đến bòn rút của cải nước xã hội chủ nghĩa chúng ta đấy. Bọn người Tây đó rất thích đồ cổ, lại dám tiêu tiền, tôi hận nhất bọn quỷ này, chi bằng để mai tôi mang chiếc gối sứ ra chợ dạo vài vòng xem có lừa được thằng nào .”

      Mặt dày tranh: “ đến lừa người, đúng là sở trường của tôi rồi. Lừa bọn nước ngoài là vinh quang cho đất nước, phải tính phần tôi với chứ, mai tôi với cậu.”

      Điếu bát : “Thế lừa được mấy đồng? em chúng mình có đầu óc, có bản lĩnh, ngoài việc hay gặp xúi quẩy ra cũng chẳng thua ai cái gì, phải cầu nghiêm khắc hơn với mình chứ.”

      Tôi chua chát: “Nếu xem ai xui xẻo hơn, chắc ba đứa mình cũng được giải gì đó ở hẻm Giang Phòng này, nhưng về bản lĩnh chẳng đáng để nhắc đến.”

      Điếu bát : “Sao lại bảo là có bản lĩnh, ai chẳng biết cậu là truyền nhân của lão Nghĩa mù, chuyện đào mộ trộm báu vật, còn ai bản lĩnh bằng cậu được? dò hỏi kỹ rồi, chuyện về ngôi mộ cổ núi Hùng Nhĩ ai biết nhiều bằng lão Nghĩa mù, ông cụ có kể lại với cậu chứ? Chúng mình đều là huynh đện với nhau, chuyện đến nước này rồi, cậu vẫn còn giấu chúng tôi sao?”

      Hôm đó, tôi có uống thêm vài ly bia, Điếu bát đến vậy, tôi cũng ngại kể ra với ta, thực ra lão Nghĩa mù cũng là người bình thường trong giới đào trộm mộ, chẳng phải nhân vật đình đám nào hết, nhưng đời trước của ông ấy có những nhân vật có sức ảnh hưởng kinh thiên động địa . Ngoài ra, chuyện mộ cổ núi Hùng Nhĩ và những bảo vật mà ông cụ Chu kể rất giống với hình ảnh trong bức bích họa tôi nhìn thấy tại mộ cổ nhà Liêu. Còn chuyện vì sao mà lão Nghĩa mù biết được những thông tin này cũng dài dòng, kể ra cũng thất kinh bát đảo, các ngồi cho vững mà nghe tôi kể.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 8: Mộ cổ thành Lạc Dương


                  1


      Lão Nghĩa mù quen vị đạo sỹ hay ngồi xem bói ở ngoài thành Thiên Tân Vệ [1] . Vị đạo sỹ đó họ Thôi, nên mọi người gọi ông ta là Thôi lão đạo. Trước giải phóng tự xưng mình là “Thiết chủy bá vương hoạt Tử Nha [2] ”, người địa phương đều biết “Thôi lão đạo xem bói - mười quẻ chín quẻ trượt”, ông ta sử dụng toàn những chiêu lừa người giang hồ, thường là chỉ lừa được người nơi khác đến, nhiều khi xem bói chẳng kiếm được tiền phải nuôi miệng bằng việc kể chuyện, ông ta kể hay nhất là truyện “Tinh trung Nhạc Phi”, nhưng trình độ chưa bằng những nghệ nhân kể truyện ở các quán trà, chỉ là thuận miệng bịa truyện, bịa đến đâu biết đến đó.

      [1] Thiên Tân Vệ: Tức thành phố Thiên Tân ngày nay. Là trong bốn thành phố trực thuộc Trung ương của Trung Quốc, gồm: Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Trùng Khánh.

      [2] “Thiết chủy bá vương hoạt Tử Nha”: Tử Nha tái thế.

      Lớp người trước nếu nhắc tới Thôi lão đạo thường ông ta là người uyên thâm thể đoán biết được, là người có bản lĩnh. Những câu chuyện ly kỳ về Thôi lão đạo có kể từ mồng Tết tới đêm ba mươi Tết cũng hết.

      Dân quốc năm thứ nhất, Thôi lão đạo vẫn ngồi xem bói ở cửa Nam, nhưng thời thế tốt, tiền kiếm được đủ nuôi thân, ăn bữa sáng phải lo bữa tối. Nếu ông ta dùng bản lĩnh thực của mình cũng kiếm được tiền đấy, nhưng lại dám dùng, phúc mỏng mệnh mỏng sợ trụ nổi, tốt nhất là dùng, dùng đến chắc chắn xui xẻo.

      Bữa đó, lão có mối làm ăn có thể kiếm ra tiền. Gia đình họ Đỗ có ba người con trai đều là thư sinh, gia đình tầm tầm bậc trung, cả ba em đều bị thọt chân phải. cả lúc chân phải cứ vẽ vòng tròn, hai thọt còn nặng hơn, phải nhón gót chân lên mới được, cậu út chân phải bị lết. Cả ba em hơn hai mươi tuổi đầu mà vẫn chưa lấy được vợ. Thời đó, ngoài hai mươi mà chưa lấy vợ được coi là muộn rồi. Luận về điều kiện gia cảnh họ cũng tồi, hiềm nỗi vì bị tật nên lỡ mất chuyện tình duyên, thế cầu của ba em lại rất cao, họ cùng thề rằng, xinh lấy, nếu xinh mà phải con nhà đài các, gia đình giàu có cũng lấy.

      Với điều kiện như vậy mà đòi lấy con nhà giàu xinh đẹp như Tây Thi, đúng là cao tới thấp thông, cứ lần lữa mãi như vậy cho đến gần đây ba em ưng ý ba con nhà họ Cao giàu có, ba vừa đến tuổi cập kê, xinh đẹp giỏi giang, điều quan trọng là nhà họ giàu, càng nghĩ càng thấy hợp, ba em quyết chí làm rể nhà họ Cao, vội tới tìm Thôi lão đạo nhờ sang nhà họ Cao giúp. Theo phong tục, chuyện cưới hỏi phải thông qua bà mối, nhưng ba em nhà họ Đỗ bị tật quá nặng, chẳng bà mối nào dám nhận lời, ai gặp cũng khuyên họ đừng nằm mơ giữa ban ngày nữa, ba em liền tính kế “Chúng ta phải đến tìm Thôi lão đạo ở cổng Nam, đạo trưởng ra tay có chuyện gì làm được.”

      Thôi lão đạo được mệnh danh là Thiết chủy bá vương, xem bói rất chuẩn. Thực tình chuyện tốt chẳng lần nào ông đúng, chuyện xấu đâu trúng đó, gọi là “Hắc Chủy bá vương” tức bá vương miệng thối đúng hơn, ông ta còn biệt danh nữa là “Tử Nha tái thế”, Tử Nha là ai? Chính là Khương Tử Nha, người giúp Võ Vương diệt Trụ, chém Phong Thần lập nên nước Chu. Thử nghĩ xem, bản lĩnh như Khương Tử Nha mà tới nhà họ Cao để bàn chuyện hôn nhân chỉ là chuyện , vì ba em nhà họ Đỗ trả thù lao tương đối nhiều, Thôi lão đạo thấy tiền sáng mắt, vỗ ngực hứa rằng: “Ba vị cứ yên tâm, bần đạo chờ uống rượu mừng của ba vị.”

      Bình thường Thôi lão đạo cũng kiếm tiền bằng việc lừa gạt người khác, chỉ được cái giỏi, làm cái nghề này mà da mặt mỏng biết năng, lấn áp được người khác xong. Ông ta đeo râu giả, mặc áo đạo tràng, động tác cử chỉ đâu ra đó, những trò lừa gạt giang hồ đều biết cả, về chuyện hôn nhân cũng có bài có bản, cũng lắc đầu bấm đốt ngón tay, miệng niệm thần chú: “Kê hầu bất đáo đầu, bạch mã phạm thanh ngưu, thiên long xung địa thố, hổ xà như đao tỏa, dương thử nhất đán hưu...”

      Những lời này của Thôi lão đạo chỉ thích hợp để lừa gạt lớp phu khuân vác hoặc những người làm ăn buôn bán , bởi uyên thâm quá họ hiểu. Ông chủ họ Cao là người rất mê tín, nghe Thôi lão đạo đọc hồi tin ngay, cho rằng ba em nhà họ Đỗ tuổi trẻ tài cao, tuổi tác đều hợp với con nhà mình, chắc chắn sau này phú quý phát tài.

      Nhưng để cho chắc chắn ông chủ họ Cao vẫn cầu gặp mặt ba chàng thanh niên, dù sao chỉ thôi cũng khó mà tin được. Thôi lão đạo sắp xếp từ trước, địa điểm gặp nhau là quán trà, lão và ba em nhà họ Đỗ đến trước ngồi đợi, khi Cao tài chủ tới, họ cùng đứng dậy chào rồi ngồi xuống luôn, hai bên chuyện giới thiệu tình hình gia đình, cả buổi chuyện chỉ ngồi im chỗ đứng dậy lại. Cao tài chủ thấy ba chàng trai năng đàng hoàng, mặt mũi khôi ngô, rất chững chạc suồng sã cợt nhả, trong lòng mừng thầm, còn chuẩn bị lễ lớn để cảm ơn Thôi lão đạo.

      Trong xã hội cũ, chuyện hôn nhân là phiền phức rất phiền phức, đơn giản cũng đơn giản. Qua lời giới thiệu của Thôi lão đạo, hôn nhanh chóng được định đoạt, chọn ngày lành tháng tốt thành hôn, dâu trước khi về nhà chồng đều biết mặt chồng, đợi khi biết rồi, gạo nấu thành cơm, hối hận cũng kịp. Nhưng cũng may là sau khi bái đường thành thân mấy ngày sau là ngày chúc thọ Cao tài chủ, các chàng rể mới phải về bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu. Phải làm sao đây? Thôi lão đạo đảo mắt vài lần đưa ra kế sách.

      Đến ngày chúc thọ, ba em cưỡi ngựa đến nhà họ Cao. Cao tài chủ dẫn theo bạn bè họ hàng thân thích ra tận ngoài cửa để đón rể hiền. Ba em thấy nhạc phụ đích thân ra đón vội vàng xuống ngựa nhưng ai dám trước, sợ chỉ cần bước bước thôi là lộ tẩy, liền làm theo lời dặn của Thôi lão đạo, cả chắp tay cúi chào nhạc phụ : “Nhạc phụ lão thái sơn xin nhận của tiểu tế lạy, hôm nay là ngày thọ của cha, tiểu tế bất tài, xin được vẽ ra đây vầng trăng tròn chúc thọ cha, đây gọi là Mãn song nguyệt”, rồi nhấc chân phải lên vừa vừa vẽ vòng tròn vào tới tận phòng khách.

      thứ hai lên tiếng: “Tiểu tế xin kính chào nhạc phụ lão Thái Sơn, đại ca con vẽ hình trăng tròn để chúc thọ, tiểu tế cũng xin thể chút tài mọn, từ con luyện công phu, đây gọi là Chim Yến chao mặt nước” rồi nhấc chân phải lên cà nhắc vào trong, để lại mặt đất những dấu chấm tròn.

      Đến lượt cậu út: “Nhạc phụ đại nhân, hôm nay con đến chúc thọ cha, cha thấy đấy, các con đều vui quá mà hóa ra hồ đồ, những trò nhặt đó làm sao mà dám trình lên trước mặt cha được, để con xóa mấy bức tranh vớ vẩn kia nhé...” rồi lết chân vào bên trong.

      Ba em đúng là “Gấu trời qua sông”, lại qua được cửa ải. Cho đến lúc các về nhà thăm cha mẹ kể lại tình thể giấu giếm được nữa. Cao tài chủ chửi đến tám đời tổ tông nhà Thôi lão đạo. Thời đó, con gả chồng như bát nước đổ , thể lấy lại được, nhưng thể nuốt trôi cơn giận này, đường đường ba con xinh đẹp là vậy, đúng là quá hời cho ba thằng thọt, phải tìm người đánh gãy chân Thôi lão đạo mới được. Thôi lão đạo ngờ Cao tài chủ lại để bụng như vậy, ngặt nỗi nhà người ta giàu có cũng thể dây vào, nghe phong phanh được thông tin liền bỏ chạy cả đêm, trong thời gian ngắn dám về nhà. Tiền tiêu cũng gần hết, tránh khỏi nảy ý đồ đào trộm mộ, vừa hay lão ta cũng có quen vài người em ở bên ngoài, hỏi đường qua Hoàng Hà tìm lại mấy người em đó, hợp lại thành nhóm đào trộm mộ, làm giàu chuyến.

                  2


      Người đầu tiên mà Thôi lão đạo nghĩ tới là người em kết nghĩa “Đả thần tiên Dương Phương”, vì người này thân thủ nhanh nhẹn như linh miêu, nên còn biệt danh “Trại ky miêu”. Kỹ thuật đổ đấu đều do các sư phụ trong Quan Nội truyền lại, những trò như lên trời xuống đất kiểu gì cũng biết, lớp người trước trong giang hồ nhắc tới cậu ta ai biết tên.

      giai thoại rằng, trước khi sinh Dương Phương bố ta nằm mơ thấy mình vào ngôi điện nguy nga lộng lẫy với những chiếc cột lớn chạm hình rồng vàng bao quanh. vị trưởng lão râu tóc bạc phơ ngồi chính giữa điện, trong góc tường có con mèo nằm cuộn tròn. Con mèo đó có gì phải chê ngoại trừ có mắt, nó là con mèo mù. Ông cụ chỉ vào con mèo với bố Dương Phương: “Đây là con của ngươi.” Bố Dương Phương lắc đầu: “Tôi cần con như thế này”. Ông cụ nghe vậy liền lấy hai con mắt vàng con rồng cuốn quanh chiếc cột lắp vào cho con mèo. Bố Dương Phương giật mình tỉnh dậy, ngày hôm sau vợ ông ta sinh hạ cậu con trai có đôi mắt long lanh sáng rực.

      Thực ra, Dương Phương là cậu bé mồ côi, được sư phụ nhặt về nuôi, bản thân cậu ta cũng chẳng biết bố mẹ mình là ai, câu chuyện cũng có căn cứ gì nên thể tin được. Nhưng có câu chuyện như vậy lưu truyền trong dân gian cũng chứng tỏ rằng đôi mắt của cậu ta phải là vừa, trời càng tối đôi mắt càng sáng, thị lực càng phi thường. Sư phụ cậu ta có mệnh danh là “Bàn tính vàng”, thường xuất ở lưu vực sông Hoàng Hà, sau đó đâu, chắc là chết, để lại cho Dương Phương chiếc roi bảy khúc “Đả thi tiên”, tức là roi đánh xác chết. Đó phải loại roi mềm giang hồ hay sử dụng, mà là chiếc roi bảy khúc được làm từ gang thép, giống như binh khí mà các tướng sĩ hay dùng, rất nặng và có lưỡi dao, chủ yếu dùng lực để đả thương. Tương truyền, năm xưa Ngũ Tử Tư đào mộ Sở vương đánh vào thi thể ba trăm roi, chắc hẳn các cương thi đều sợ bị roi đánh. Loại roi mạ vàng mà dân đổ dấu dùng gọi là “Đả thi tiên”, roi nhưng có khúc, giữa các khúc có mắt nối ba cạnh, là loại vũ khí hai trong , có màu đồng, rất nặng, dài hai thước năm thốn sáu phân, tổng cộng có bảy khúc, bốn sáo lõm, khắc chìm câu chú trừ trấn ma, tay cầm của roi có vỏ bọc như vảy rồng, ngoài tác dụng trấn tử thi trừ tà, còn có thể dò đất tìm mộ. Do nhắc trực tiếp từ “tử thi” là phạm húy điều cấm kỵ nên gọi nó là “Đả thần tiên.”

      Dương Phương nhận được chân truyền, dựa vào khả năng thông thạo đường lối lại, vác thêm roi đồng vai, chuyên khắp nơi hành nghề đào trộm mộ, gặp phải nhà giàu nào mà tâm địa tốt liền trèo tường cướp của chia cho người nghèo. Từ khi hành nghề, ta chưa lần thất bại. Dân quốc năm thứ nhất, thiên tai nhân họa liên miên, thiên hạ đại loạn cũng là lúc thổ phỉ xuất khắp nơi, người Dự Tây gọi thổ phỉ là thảng tướng. Thời đó, có tên thảng tướng tên Đồ Hắc Hổ thủ lĩnh quân phiệt, trong tay nắm binh quyền, hùng cứ phương. Những năm đó, quân phiệt phát tài và mở rộng quân lực nhờ việc đào trộm mộ là chuyện bình thường. Đồ Hắc Hổ cũng thường làm ba cái chuyện thất đức này, chỉ làm giàu từ người chết, còn đoạt cả mạng người sống để làm giàu. Mới đây lâu, đánh nhau với đội quân phiệt khác tại vùng lân cận phủ Khai Phong, Hà Nam. Cuộc chiến kéo dài dai dẳng mà Đồ Hắc Hổ lại muốn đánh nhanh thắng nhanh, liền đào mương dẫn nước từ Hoàng Hà vào gây đại lụt làm chết ít người dân vô tội.

      Lúc đó, Dương Phương cũng ngang qua, nghe Khai Phong phủ ở Hà Nam là cố đô của sáu triều vua, phong cách của nhà Tống vẫn còn lưu lại đến nay, nên thuận đường qua thưởng ngoạn. Từ xa nghe thấy tiếng nước chảy ầm ầm, nửa ngày đường mới tới cửa sông Hoàng Hà, chỉ thấy nước chảy cuồn cuộn, sôi sục đổ ra biển đông, cảm thấy dòng sông mạnh mẽ, hùng vĩ. Nhưng khi qua sông tới bờ bên kia, thấy từng đoàn người dân tị nạn, dọc đường thường xuyên bắt gặp cảnh bắt cóc buôn bán phụ nữ trẻ em, đó đều là những hậu quả do nạn lụt sông Hoàng Hà để lại, người chết đói đầy đường. Sau mỗi trận thiên tai, khí tang tóc bao trùm khắp vùng vì người chết quá nhiều, những người chết có người nhà tới nhận đều bị chó hoang chim rừng rỉa thịt trơ cả xương. Tìm người hỏi mới biết là do quân phiệt Đồ Hắc Hổ mở cửa sông mới gây ra cơ .

      Dương Phương nghe tiếng ác của Đồ Hắc Hổ biết ngay đây là tên thổ phỉ tâm địa độc ác, giết người ghê tay, lợi dụng thời thế loạn lạc để tác oai tác quái, gây họa ít. Tên này hai mắt trắng dã, theo thuật xem tướng, đây là tướng mạo của kẻ gian xảo, để lâu ắt gây đại họa về sau.

      Trưa hôm đó, Dương Phương tự tin bước vào Khai Phong phủ, cổ nhân rất đúng “Sóng sông Hoàng Hà có gió cũng cao ba thước, cát thành Khai Phong có gió cũng cao ba thước”, sau trận đại hồng thủy trời nổi gió, gió rít như tiếng quỷ gào, trong thành ngoài thành bụi bay mù mịt, Dương Phương than thầm: “Đúng là ngoài cửa sông gió to ! Gió cứ như muốn cuốn bay cả người thế này, tựa hồ thổi con người ta tới tận cung điện của Vương Mẫu nương nương vậy.”

                  3


      Vừa vừa nghĩ cho tới tận cổng thành Khai Phong, người dân ở đây quá quen thuộc với những trận bão cát như vậy, phố người lại vẫn tấp nập, bỗng ở đâu xuất nhiều quân lính, diện mạo hung tợn xua đuổi người dân dẹp sang hai bên đường, Dương Phong nghe thấy tiếng vó ngựa, chen lấn trong đám đông để nhìn cho , hóa ra là đội kỵ binh của quân phiệt ngang qua thành.

      Đội quân kỵ binh này được trang bị kỹ lưỡng, người như rồng ngựa như hổ, lại như gió, chính giữa là người đàn ông to lớn như cái cột sắt, khoảng chừng dưới bốn mươi tuổi, khuôn mặt vuông đen xì, diện mạo hung dữ, râu ria rậm rạp, đằng đằng sát khí, mình mặc quân phục, lưng đeo quân đao, còn có súng ngắn, chân hài, cưỡi con tuấn mã dũng mãnh lao vút ra phía cổng thành.

      Dương Phương đứng trong đám đông nên trông thấy rất ràng, cần hỏi cũng biết viên tướng quân mặt sắt đen xì cưỡi ngựa đó chính là thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ. Trông bộ dạng người đó ngồi vững vàng lưng ngựa cho thấy võ công của ta cũng phải hạng xoàng.

      Dương Phương thân thủ cũng rất giỏi, những người bản lĩnh lớn thường hơi kiêu ngạo, ta nhìn thấy Đồ Hắc Hổ ngang qua quả đúng là cơ hội đưa đến tận cửa, nhịn được, giơ tay định với lấy chiếc roi sau lưng, nghĩ: “Tên này cũng phải tay vừa, nếu đánh chính diện chưa chắc có lợi cho mình, nhưng ta chuẩn bị trước, chỉ cần bay lên khỏi đám người này rồi xuất chiêu đảm bảo chiếc roi của ta đánh trúng đầu Đồ Hắc Hổ, cho dù công phu của có giỏi đến mấy cũng vỡ sọ, đảm bảo là gặp Diêm Vương. Hôm nay ta thay trời hành đạo, diệt trừ quân gian ác này, sau đó nhân lúc hỗn loạn trốn ra khỏi thành, ai làm gì được ta.”

      Dương Phương nhất thời hăng khí, muốn nhân cơ hội thành Khai Phong nổi bão cát rút roi tấn công Đồ Hắc Hổ, ngờ, chưa kịp rút roi như có bàn tay của ai đó ngăn lại, cũng chưa là ai, quay lại nhìn thấy có đạo sỹ mặc bộ quần áo cũ, lưng đeo chiếc hồ lô, chẳng phải ai khác, chính là người kết nghĩa - Thôi lão đạo. Dương Phương ngạc nhiên hỏi: “Đạo trưởng, sao lại là huynh?”

      Thôi lão đạo bên tai Dương Phương: “Huynh đệ, từ khi đệ vào thành là ta trông thấy rồi, giữa đường tiện chuyện, tìm chỗ nào đó rồi sau.”

      Chỉ lơ đãng có chút mà để cho đội quân của Đồ Hắc Hổ qua mất, Dương Phương đành phải theo Thôi lão đạo rời khỏi cổng thành, tìm quán yên tĩnh, hai người ngồi lại bàn về việc vừa rồi.

      Thôi lão đạo cũng là người trong giang hồ, trước đây bày quán xem bói tại cổng Nam, cũng biết kể chuyện, tự xưng là Thiết chủy bá vương, thực tình chẳng có bản lĩnh gì, chỉ có bụng đầy mưu mô quỷ kế, nhưng kết giao rất rộng, lần này lão cũng tìm tới xem cho vận hạn Đồ Hắc Hổ để kiếm ít tiền, vừa hay trong đám đông phát ra Dương Phương chuẩn bị ra tay liền tiến tới ngăn lại, kéo vào quán chuyện: “Huynh đệ, Đồ Hắc Hổ là Thống đốc quân của tỉnh, cậu xem bên cạnh có bao nhiêu vệ sỹ tiền hô hậu ủng, người ta súng nhanh ngựa nhanh, cậu thân mình làm sao mà tiếp cận được? Hãy nghe ta lần, Đồ Hắc Hổ làm nhiều chuyện ác khiến trời tức giận, người dân oán hận, hôm nay cần cậu phải ra tay, sớm muộn gì cũng bị ông trời trừng phạt.”

      Dương Phương : “Huynh trưởng có lý, có điều Đồ Hắc Hổ làm quá nhiều chuyện ác, tôi mà cho roi vào đầu biết ở gầm trời này còn có ai.”

      Thôi lão đạo : “Huynh đệ, cậu họ Dương, tức là dê, là Hổ, xung khắc. Đối đầu trực diện khó mà phân biệt thắng bại, hơn nữa tôi thấy Đồ Hắc Hổ cao to lực lưỡng, diện mạo thập toàn, nếu phải là mạng lớn làm sao có thể làm thống lĩnh quân phiệt được? Khí sắc của người này còn nhuận lắm, vận may cũng chưa cạn, chúng ta chưa thể đụng vào được. Trước mắt ta có kế, hai chúng ta sao tới núi Mang ở Lạc Dương chuyến, tới mộ tổ của Đồ Hắc Hổ phá hỏng phong thủy mang lại may mắn cho .”

      Dương Phương nghe thấy giơ ngón tay cái lên khen: “Đúng là cái đầu của huynh trưởng phải chỉ để làm cảnh, kế này của huynh rất đúng ý tôi.”

      Thôi lão đạo cười ha hả : “Huynh đệ, trong bụng ta toàn là của quý thôi, bồ thao lược trị quốc an bang đấy, thua kém gì Khương Tử Nha thời Tây Chu đâu, ta tạm thời xem bói ở cổng Nam chẳng qua là vì chưa gặp thời vận, chứ đối phó với Đồ Hắc Hổ sức ta có thừa.”

      Dương Phương : “Tiểu đệ hiểu rồi, đạo trưởng hẳn có kế hoạch từ lâu, nếu làm sao biết được mộ tổ của Đồ Hắc Hổ ở đâu chứ?”

      Quả nhiên, Thôi lão đạo nghe tin thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ làm nhiều chuyện bất nghĩa, nhưng dưới trướng có đám quân như hổ báo, có súng có pháo, chỉ dựa vào mình lão đạo xem bói thể làm gì tên thủ lĩnh quân phiệt nắm binh quyền trong tay, đành phải dò hỏi thông tin trong giới ngầm, biết được mộ tổ của ở núi Mang, Lạc Dương. Tổ tiên Đồ Hắc Hổ là vị tướng quân thời nhà Thanh, thời đó người dân rất mê tín, cho rằng ngôi mộ đó phong thủy rất tốt, thế núi như rồng nằm hổ phục, tất phù hộ cho con cháu làm quan làm tướng, Thôi lão đạo tính toán tìm cách đào ngôi mộ này, cũng coi như thay trời hành đạo, còn nhân cơ hội đó kiếm chút tiền, cho dù là vấn đề phong thủy thể tin hết được nhưng khi nghe tin mộ tổ bị đào trộm Đồ Hắc Hổ cũng phẫn nộ, đứng ngồi yên, thế lực của vì thế mà giảm sút.

      Thôi lão đạo với Dương Phương: “Chuyện đào mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ là chuyện lớn lớn, nhưng là chuyện cũng , em ta phải tìm thêm trợ thủ nữa mới được.”

      Dương Phương cậu ta có hai huynh đệ tốt cũng ở gần đây, người là Thảo thái tuế Mạnh Bôn, người còn lại là Thần đạo khoái thủ Phùng Điện Thần.

      Thảo thái tuế Mạnh Bôn từng luyện khí công, có thể dùng đầu đánh vỡ cối xay đá, giờ sống qua ngày bằng chức tiểu đội trưởng trong quân phiệt.

      Khoái thủ Phùng là tên trộm nổi tiếng ở thành Lạc Dương, giang hồ gọi việc đào hang động là “Mở vườn đào”, Khoái thủ Phùng làm chuyện này là hợp nhất rồi, đào đất phá gạch để lại dấu vết gì, tay nghề rất xuất sắc, hơn nữa còn nhanh đến thần kỳ. ta là người nhanh nhẹn thạo việc, thông thạo cách bố trí của các cạm bẫy, cũng hiểu về cách dùng mìn.

      Thôi lão đạo nghe vậy, hai mắt lim dim, vuốt râu : “Có thêm hai người này giúp chuyến này mười phần chắc chín rồi, chuyện này cần phải làm sớm, nên để muộn, ăn xong chúng ta lên đường tới thành Lạc Dương ngay.”

      ngắn gọn, hai người tiến về phía Lạc Dương, rời khỏi nơi loạn lạc, làng xóm hai bên đông dần, đường cũng dễ hơn. Thời cổ, Lạc Dương nằm phía nam con sông, cực dương của Lạc Thủy vì vậy mới có tên Lạc Dương, nơi đây là kinh đô của chín triều đại, là điểm giao giữa mười tỉnh, là cửa ngõ giao thông rất lớn, nhưng vì gặp lúc chiến tranh, nên công việc kinh doanh làm ăn trong thành tránh khỏi bị gián đoạn.

      Việc đầu tiên là phải tìm hai người kia, như vậy bốn người gồm Thiết chủy bá vương Thôi lão đạo, Đả thần tiên Dương Phương, Khoái thủ thần đạo Phùng Điện Thần và Thảo thái tuế Mạnh Bôn cùng khấu đầu kết nghĩa huynh đệ. Tối đến kéo nhau vào quán Thịnh Nguyên, chọn phòng riêng phía trong yên tĩnh. Dương Phương kiếm được mấy đồng bạc Tây nên mời em ăn cơm, cho nhà hàng tự quyết, cứ món ngon mà chọn.

      Những năm đầu của nhà nước Dân quốc vật giá rất thấp, mấy đồng bạc là có thể gọi bàn ăn thịnh soạn rồi. lâu sau, phục vụ mang đồ ăn lên, nhà hàng Thịnh Nguyên vốn nổi tiếng gần xa ở Lạc Dương. Mới đầu là bốn món trộn mặn, bốn món trộn chay gồm: gà hầm rượu Đỗ Khang, thịt bò hầm, trứng luộc chiên, chân giò hầm ngũ vị, Khương hương thúy liên, canh rau chân vịt, nộm sứa, bánh đỗ xanh; tiếp theo là bốn món lớn, tám món vừa: súp thập cẩm, gà hầm nguyên con, cá sốt cay, cơm rang bát bảo, thịt kho tộ, món thịt nấu kiểu Lạc Dương, mực xào, món tràng hầm, gà xé phay, canh thịt viên, khoai lang mật ong, nước sơn trà; bốn món sau cùng gồm: thịt kho tàu thái lát to, rau cải xào nấm hương tươi, thịt viên nấu kiểu Lạc Dương, canh trứng. Bát bát đĩa đĩa, món kho món xào món canh, thức ăn đưa lên ào ào như nước, hai mươi tư món ăn, có nóng có lạnh, có chay có thịt, có ngọt có mặn, có chua có cay.

      Thực đơn Thủy Tịch [3] giờ khác xưa, cứ xem thực đơn của quán, thương hiệu nổi tiếng từ xưa thấy khác nhiều so với trước đây. Câu chuyện xảy ra từ thời Dân quốc, nên chẳng có bào ngư tôm hùm gì hết, cũng chỉ là gà vịt thịt cá mà thôi. Những năm đó, ăn những món này được coi là quá sang rồi.

      [3] Thủy Tịch: bắt nguồn từ Lạc Dương, liên quan rất lớn tới đặc thù khí hậu và địa lý ở Lạc Dương. Lạc Dương bốn bên đều có núi, là vùng bình địa, khí hậu khô lạnh nên thói quen ẩm thực có nhiều món canh và cay để chống lại thời tiết khô lạnh. Lạc Dương là vùng sản xuất miến nổi tiếng, ngoài ra còn có khoai môn, củ cải, cải thảo v.v... mỗi bữa ăn đều có nhiều món canh hoặc món nước, lâu dần hình thành phong cách ẩm thực riêng của vùng Lạc Dương, gọi là Lạc Dương Thủy tịch.

      Mấy em họ chưa bàn chuyện lớn vội mà hàn huyên giao lưu tình cảm trước. Rượu được ba tuần, ăn uống no say, Thôi lão đạo bỏ đũa xuống, cầm chém rượu lên, đầu lắc lư than rằng: “Muốn biết thiên hạ hưng thịnh thế nào chỉ cần xem Lạc Dương thành. Hây... thành Lạc Dương là kinh đô của mười ba triều đại, là thành phố trọng yếu của tám triều đại, có chín mươi lăm đời Hoàng đế dựng nước tại đây. Từ cổ chí kim, đây là nơi mà các nhà quân đều muốn chiếm đóng, bần đạo bấm đốt tay bói quẻ rồi, thời Đông Hán loạn Đổng Trác, Lạc Dương thành bị hủy hoại chỉ còn là đống đổ nát...”

      Thảo thái tuế Mạnh Bôn cắt ngang: “Thôi ông đừng dài dòng nữa, ông tìm bọn tôi đến, bày mâm cao cỗ đầy như vậy chắc chắn là có việc, ông cứ , chúng ta phải là người ngoài. Huynh đệ kết nghĩa gặp nhau cần bàn chuyện cổ kim, cần phải vòng vo. Cuối cùng là có việc gì? ‘Mở vườn đào’ hay ‘vượt núi cao’?”

      Thôi lão đạo cười : “Được rồi, mỗi cậu là hiểu lòng , ở thành Lạc Dương này bắc có núi Mang, nam có Long Môn, chính là thế rồng nằm hổ phục, địa thế rất đẹp. Trong núi Mang có mộ cổ, trong Long Môn có hang đá. Chúng ta đến đây có thể làm được gì khác nữa chứ?”

      Khoái thủ Phùng mừng rỡ ra mặt: “Đạo trưởng, ‘mở vườn đào’ đổ đấu hả?”

      Thôi lão đạo cố tình ra vẻ huyền bí, chỉ vào Dương Phương : “Để Dương lão đệ kể lại tình với các đệ.”

      Dương Phương đứng dậy xem xét bên ngoài có ai mới quay lại, đóng cửa cẩn thận, kể lại toàn bộ việc cho Mạnh Bôn và Phùng Điện Thần nghe: “Thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ là tên làm nhiều chuyện ác tày trời, dẫn nước sông Hoàng Hà làm người dân chết lụt, nhưng thế lực của lại quá mạnh, trong tay có nhiều binh lính, muốn lấy đầu phải dễ, tôi và đạo trưởng nghĩ ra cách đào trộm mộ tổ của , trong mộ chắc có nhiều châu báu, em ta mỗi người phần, phần còn lại chia cho dân nghèo, nếu có châu báu coi như chúng ta dạy cho Đồ Hắc Hổ bài học, thay trời hành đạo, hạ thấp uy danh của trong giới lục lâm.”

      Mạnh Bôn và Khoái thủ Phùng hết mực đồng tình: “Lạc Dương cũng là địa bàn của Đồ Hắc Hổ, tên này giết người như giết kiến, dân chúng hận đến tận xương tủy, nếu là thay trời hành đạo phải tính phần của chúng tôi nữa, cứ vậy mà xử con bà nó . Chúng ta đào mộ tổ nhà , trong mộ có vàng bạc châu báu cũng sao, dù sao chúng ta cũng chán ngấy nơi này rồi. Từ giờ, chúng ta thành hội với nhau, cùng làm ăn, đợi ít năm khi có thể ăn no uống say, cùng chia vàng bạc của cải, có chết cũng thỏa lòng.”

      Thôi lão đạo : “Có câu này của các huynh đệ ta yên tâm rồi, lão đạo ta tìm hiểu chắc chắn, mộ tổ Đồ Hắc Hổ kiểu gì cũng có món hay.”

                  4


      Mạnh Bôn và Khoái thủ Phùng nghe vậy, sướng quá cứ đưa tay gãi má liên hồi: “Ông mau kể , ngôi mộ đó có món gì đáng tiền vậy?”

      Thôi lão đạo , ông tổ nhà họ Đồ vốn là võ quan theo Tăng Cách Lâm Thấm tiêu diệt Niệm Quân, người này có biệt danh “Tứ bảo tướng quân” [4] gồm bảo khôi, bảo kiếm, bảo giáp, bảo mã. Nghe ông ta bị đột tử tại gia, thi thể đặt tại nhà, nửa năm sau đó mới đem tới chôn tại núi Mang, tứ bảo kia có tùy táng cùng hay ai biết, chung ngựa chết đáng giá, nhưng nghe khi nhập quan thi thể của ông ta được ăn mặc trang điểm đầy đủ như lúc còn sống, bộ áp giáo đó, chiếc mũ đó, thanh bảo kiếm đó cùng với ngọc ngà châu báu do triều đình ban tặng đều được cho hết vào bên trong cỗ quan tài.

      [4] Bảo khôi, bảo kiếm, bảo giáp, bảo mã: mũ giáp quý, áp giáp quý, kiếm quý, ngựa quý.

      Bốn người bàn tính tới tận nửa đêm, chọn ngày bằng gặp ngày, tối đó tất cả quay về chuẩn bị, sáng sớm ngày hôm sau ra khỏi thành tiến thẳng về phía núi Mang.




      Núi Mang nằm phía chính Bắc thành Lạc Dương, phía nam thành là dãy núi Long Môn, có khe nước chảy qua chính giữa, thành cổ Lạc Dương nằm phía nam hướng về Long Môn, phía bắc dựa vào núi Mang, trước vọng sau dựa. Thế nào được gọi là vị thế phong thủy đẹp? Đây chính là thế đẹp của đẹp. Từ cổ chí kim, những hoàng đế chọn nơi đây lập lăng tẩm nhiều đếm xuể, khắp nơi núi đều là mộ, nhưng dân trộm mộ tới viếng thăm cũng rất nhiều, đa số những ngôi mộ đều bị đào trộm nhiều lần, đồ trong mộ chẳng còn gì để lấy nữa, may mắn gặp được ngôi mộ ít bị đào trộm có khi còn bòn được vài món gì đó.

      Ngôi mộ của Tứ bảo tướng quân mà mọi người định đào trộm nằm ở phía tây núi Mang, cùng mạch núi Tần Lĩnh, toàn là các đồi núi đất đỏ nhấp nhô trùng điệp, phía sâu bên dưới chính là mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ, sau khi có thế lực, Đồ Hắc Hổ cho trùng tu lại nơi này, phía trước còn dựng tổ miếu. ta câu kết với nước ngoài, đào mộ cổ, trộm quốc bảo đổi lấy súng ống đạn dược, vũ trang cho quân đội của mình để mở rộng địa bàn, cũng sợ mộ tổ của mình bị người ta đổ đấu nên dù mộ của vị tướng quân này to lắm nhưng ít người biết đến, để phòng quân thổ phỉ và bọn trộm cắm chốt quân lính xung quanh để bảo vệ, hàng ngày đều có lính tuần, phía sau tổ miếu là mộ phần, xung quanh được xây thành dày bảo vệ, giữa các mạch gạch đổ thép nung chảy vào để lấp đầy nên có dùng khoan cũng khoan được, nếu có người muốn đêm đến tới đào cũng làm kinh động tới quân lính.

      Những việc Thôi lão đạo dò hỏi ràng. Bốn người họ vòng tránh doanh trại quân đội, nấp sau khe núi chờ trời tối hẳn mới dễ ra tay. Hôm đó trời nhiều mây, đêm tối mịt mùng. Theo cách mê tín của người xưa, để thi thể bị ánh trăng chiếu vào, trời tối gió cao chính là thời cơ tốt để đào mộ. Bốn người mang lương khô ra ăn, thay trang phục dạ hành, che mặt, tìm đường vào tổ miếu nhà họ Đồ. Cách bố trí ở đây cũng tương tự như phong cách xây tổ miếu của địa phương, ở giữa là chính điện to bằng khoảng ba gian nhà dân, hai bên là phối điện.

      Khoái thủ Phùng thấy hai người kia thành công liền thắp đèn lên, đẩy cửa tổ miếu bước vào trong, theo ánh đèn quan sát thấy chính giữa gian điện treo mấy bức tranh bạc màu, trong đó có bức vẽ hình võ tướng mặc áo giáp đội mũ giáp ngồi lưng ngựa dương cung, phía trước có số bài vị, bàn còn bày đồ cúng như hoa quả, gà luộc, thủ lợn v.v... Thế lực của tên thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ lúc phất lên, tổ miếu mới được tu sửa lâu, thường xuyên có người quét dọn, đồ cúng thường xuyên được thay mới.

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn cầm miếng gà cho vào mồm ăn rồi kéo vạt áo lên để lau mỡ tay, chỉ vào bức tranh vẽ hình viên tướng quân : “Con mẹ mày! Tranh vẽ cũng uy phong nhỉ, đợi lát nữa ông nội xem bộ dạng của mày trong quan tài như thế nào.”

      Thôi lão đạo đứng bên cười nhạt, trong lòng nghĩ: “Đồ Hắc Hổ cũng từng đem quân đào trộm mộ nhà người để phát tài, mà nhìn thấy cảnh này biết phản ứng ra sao.”

      Dương Phương thân thủ nhanh nhẹn, xem xét trong điện hồi lâu, nhảy cái lên bàn thờ, động tác như mèo, tiếng động.

      Bọn Thôi lão đạo đều tấm tắc khen thầm trong bụng, thấy Dương Phương dỡ bức tranh Tứ bảo tướng quân xuống cuộn lại treo sau lưng, thấy lạ liền hỏi: “Huynh đệ lấy bức tranh này làm gì?”

      Dương Phương : “Đợi ngày tôi mang bức tranh này vào tận phủ Đồ Hắc Hổ cho lĩnh giáo tài nghệ của tôi.”

      Mạnh Bôn và Khoái thủ Phùng đều : “Dương lục ca võ nghệ cao cường lại dũng cảm, Đồ Hắc Hổ chắc tức mà chết mất thôi.”

      Thôi lão đạo : “Các huynh đệ đừng làm việc bằng cảm tính. Trước mặt phải đào phần nấm mộ , tránh đêm dài lắm mộng, lão đạo ta vừa mới bấm quẻ, tối nay phạm vào Thái Tuế, là sát tinh đấy.”

      Thôi lão đạo xem bói, mười lần có chín lần chuẩn, thi thoảng đúng được lần cũng chỉ là đoán mò, đó là điều mà ai cũng biết nên nhiều cũng chẳng cho là , hỏi lại: “Sát tinh chiếu mệnh sao?”

      Thôi lão đạo : “Quẻ ta vừa bấm canh ba tối nay là phạm sát, tốt, việc này thể lề mề, để lỡ nhiều thời gian chắc chắn có chuyện, huynh đệ lại đây mà xem...”, rồi lão chỉ trỏ, khuơ tay múa chân giải thích: “Phía sau tổ miếu có mấy cái mộ, sau chính điện là mộ của Tứ bảo tướng quân, năm xưa chỉ là ngôi mộ rất bình thường, nếu bị trộm từ lâu, thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ trước đây là tên thổ phỉ, chẳng thèm quan tâm tới mộ tổ, mấy năm nay làm trong quân đội có thế lực mới bắt đầu trùng tu mộ tổ, xem xét từ ngôi miếu này cho thấy tên này rất mê tín, rất coi trọng mộ tổ, sợ khi đào động đến phong thủy nên dám đào quan tài lên để trùng tu lại huyệt đạo mà chỉ dùng những hòn đá to bao quanh bên ngoài. Đào được những hòn đá này ra cũng là vấn đề. Đồ Hắc Hổ cũng từng đưa quân đào mộ nhưng chẳng biết gì, cách này của chỉ lòe được những thằng ngốc thôi, thể phòng dân đổ đấu chuyên nghiệp được, chúng ta đào ngay đường hầm giữa chính điện này thông thẳng vào bên trong, lôi quan tài trong đó ra, với tay nghề của Khoái thủ Phùng cần phải ra khỏi điện, chắc chắn xong trước lúc nửa đêm.”

      Vừa dứt lời, hội Dương Phương đồng thanh khen hay. Trước thời Thanh, cách đặt quan tài của quan văn quan võ đều khác nhau, quan văn đầu hướng về phía tây chân về phía đông, quan võ đầu về phía bắc chân phía nam, từ độ cao của ngôi mộ cho thấy hố huyệt sâu. Sau khi ngắm chuẩn phương hướng, bốn người bắt đầu động thổ, cạy lớp gạch sàn giữa chính điện lên, tài nghệ đào đất của Khoái thủ Phùng ai bằng, chưa đến hai tuần thuốc đào đến bên trong mộ, ba người còn lại đào rộng đường hầm và kiên cố lối , lát sau, Khoái thủ Phùng chạm được đến phần đế quan tài, chính là phía chân của người chết.

      Giờ tới lượt Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn vào đẽo đáy quan tài. Từ thời Minh đến thời Dân quốc, đáy quan tài thường là đúc thành hình đài sen mây quấn quanh, chỉ cần đẽo được đáy quan tài ra là có thể chui vào lấy trộm đồ, cũng có thể lôi được cả thi thể người chết ra bên ngoài, đây là thủ pháp mà chỉ dân đổ đấu chuyên nghiệp mới có thể làm được, người ngoài nghề cách nào đào chuẩn được như vậy, chỉ có thể đào mộ lên, nhìn thấy phần nào của quan tài đẽo phần đó, trình độ “mở vườn đào” cao thấp như thế nào chính là dựa vào đây mà phân biệt.

      Thảo đầu thái tuế đào bật đáy quan tài ra, thấy mùi hôi thối bốc lên, chỉ thấy mùi mốc vì khí được lưu thông, bốn người cảm thấy rất lạ, thế là sao?

      Từ lúc Thiết mạo tử vương Tăng Cách Lâm Thấm thống lĩnh quân tiêu diệt Niệm Quân, cách đây cũng đến năm sáu mươi năm, với những tay đào mộ lão luyện ngôi mộ mấy chục năm phải là lâu, nhưng ngắn cũng phải ngắn, mấy chục năm trời, mấy đời người cũng qua rồi, cỗ quan tài chôn trong mộ thể có mùi xác chết.

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn sốt ruột, cần quan tâm nhiều như vậy, xem viên tướng quân đó có những bảo bối gì, liền nằm bò ra bên ngoài huyệt động, thò tay qua chỗ vừa đẽo thủng của quan tài định dùng dây thừng để lôi thi thể ra ngoài, nhưng khi thò tay vào thấy có gì đó ổn, kêu lên tiếng.

      Ba người nghe thấy, biết là có chuyện liền hỏi Mạnh Bôn: “Cậu sờ thấy gì thế?”

                  5


      Mạnh Bôn lùi lại, vẻ mặt ngạc nhiên: “Tôi sờ thấy vật gì đó lạnh lạnh, rất cứng, biết là thứ gì.”

      Khoái thủ Phùng thấy Mạnh Bôn thắp đèn, bên trong tối om nhìn thấy gì, cũng chẳng biết trong quan tài có gì, liền cầm chiếc đèn bão vào bên trong xem xét tỉ mỉ, lúc sau quay ra, nét mặt cổ quái, lắc đầu : “Cả đời này tôi chưa từng gặp thứ nào như thế, đừng là nhìn thấy, đến nghe cũng chưa nghe thấy bao giờ.”

      Dương Phương và Thôi lão đạo càng nghe càng thấy kỳ lạ liền hỏi: “Trong quan tài có gì thế? phải là hài cốt của vị tướng quân kia à?”

      Khoái thủ Phùng : “Gặp ma rồi, trong quan tài phải thi thể mà lại là cái quan tài bằng đồng khác.”

      Thôi lão đạo ra vẻ trấn an mọi người: “Ngoại quan nội quách có gì là lạ.”

      Khoái thủ Phùng : “Từ khi tôi vào nghề tới giờ, biết đào bao nhiêu mộ, vào bao nhiêu động rồi, chỉ cần ngửi cái là biết ngay đó là cổ vật phải nghìn năm tuổi.”

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn xòe năm ngón tay ra đếm: “Tứ bảo tướng quân là tằng tổ của Đồ Hắc Hổ, mất khoảng thời gian là Đồng Trị năm thứ hai cho đến năm thứ tư, tính... tính... tính thế nào cũng thể hàng nghìn năm được.”

      Thôi lão đạo : “Vẫn có trường hợp dùng quan tài cổ để an táng, chúng ta đừng đoán mò nữa, tốt nhất là lôi cái quan tài bằng đồng đó ra đây xem thế nào, gần canh ba rồi, thể chậm trễ được.”

      Bốn người lại đào rộng đường hầm, Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn là người khỏe nhất, liền tiến lại chiếc vòng mặt thú phía bên dưới quan tài nhấc lên, những người còn lại buộc dây thừng và kéo ở đầu kia, từ từ lôi chiếc quan tài bằng đồng ra ngoài, ai cũng thở phì phò.

      Bốn người thở hổn hển, cầm đèm tiến lại gần quan sát, bên có nhiều văn tự cổ, nhưng vì bị ô-xy hóa nặng nên nhìn nữa.

      Dương Phương thấy cỗ quan tài này hình dạng kỳ quái, hoen rỉ nặng, giống như vớt từ dưới nước lên, trong lòng càng thấy lạ hơn, hỏi Thôi lão đạo xem có cao kiến gì .

      Thôi lão đạo : “Ta cũng nghĩ ra, quan tài bằng đồng hàng nghìn năm... tại sao lại được chôn trong nhà mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ?”

      Mạnh Bôn nhìn thấy quan tài có chiếc dây xích, nghĩ rằng để phòng dân trộm mộ, cho là bên trong có nhiều báu vật liền ra sức tháo chiếc dây.

      Thôi lão đạo bỗng nhiên thất sắc, kêu lên: “Khoan , cỗ quan tài này thể mở được, chúng ta bị lừa rồi...”

      Dương Phương phản ứng rất nhanh, cũng hiểu ra vấn đề nhưng muộn.

      Cỗ quan tài bằng đồng này niên đại lâu, qua nhiều năm bị ô-xy hóa nặng, nắp đồng chỉ cạy cái là bật ra, bên trong bốc ra mùi ẩm mốc của thời gian, ánh sáng chiếc đèn bão bỗng mờ .

      Bốn người cùng thất kinh, vội lùa ra phía sau né tránh luồng khí đó, Dương Phương vì có thị lực hơn người, trong bóng tối vẫn nhìn thấy cánh tay mọc đầy lông lá thò ra từ bên trong quan tài, móng tay dài uốn cả lại cào lên thành chiếc quan tài bằng đồng phát ra tiếng kêu ken két vang lên trong đêm thanh vắng khiến người ta sởn cả tóc gáy.

                  6


      Mạnh Bôn cũng nhanh tay nhanh mắt nhìn thấy cương thi thò tay ra ngoài liền giơ rìu lên chém vào cánh tay đó, nhưng như chém vào đồng vào sắt, lực phản hồi khiến cả người ta rung lên bần bật, chân răng ê lên từng đợt, lòng thầm kinh hãi, cả nhóm đồng thanh kêu lên: “Là cương thi núi Mang.”

      Dương Phương, Thôi lão đạo, Khoái thủ Phùng cùng lúc nghĩ tới vấn đề này. Con người có ba hồn bảy vía, hồn thiện còn vía ác, ma quỷ quấy rối là do hồn tiêu tán được, người chết rồi hồn tiêu tan như ngọn đèn bị tắt, nhiều khi hồn tan rời nhưng vía chưa tan, vía chính là phần khí của cơ thể, nếu hồn tan mà vía chưa tan, khi gặp dương khí trở thành cương thi. Thời Tống, có nhóm đào trộm mộ núi Mang gặp phải xác chết cứng như thép, chết từ thời nào, lúc đó khá nhiều người bị vồ chết. Cương thi sợ nhất ban ngày, trời vừa sáng là thể cử động bởi vía tiêu tan được vì vậy cương thi chỉ có thể xuất vào ban đêm, ngoài ra cương thi còn sợ cả tiếng lừa kêu, nhưng đó chỉ là lời đồn có căn cứ. Khi cương thi đuổi theo người đào mộ cuối cùng va vào cái cây, móng tay cắm vào thân cây rút ra được, khi gà gáy trời sáng bị người dân nhìn thấy báo lên quan phủ, quan phủ phái người tới xem xét, chỉ thấy quần áo người cương thi bị cháy như tro, móng tay và tóc tự dài ra, thi thể cứng như sắt thép, đao kiếm đâm thủng được, châm lửa đốt cũng cháy, quan phủ chỉ còn cách nhốt nó vào chiếc quan tài bằng đồng chôn trong núi phía nam thành Lạc Dương. Quan tài bằng đồng bị ngâm trong nước lâu năm, những người kiếm cơm bằng nghề đổ đấu thường xuyên gặp phải những biến cố về xác chết, vì nguyên nhân đất và nước khiến cho thi thể bị biến đổi thành nhiều kiểu quái dị thể nào kể hết, nhưng kiểu có thể nhảy lên để vồ lấy người hoặc di chuyển lại chưa từng gặp bao giờ, những chuyện như vậy hiếm như lông phụng vảy lân vậy, nên việc cương thi núi Mang hầu như ai cũng biết nhưng hoàn toàn nghĩ đến chuyện nó lại xuất trong mộ tổ của Đồ Hắc Hổ.

      Thực ra, hội Dương Phương lờ mờ hiểu được vấn đề, nhưng cố xảy ra quá đột ngột, mọi người vừa mới nhận ra tức . Bọn họ tính toán kỹ lưỡng như vậy, cuối cùng lại bị Đồ Hắc Hổ lừa cho vố, thủ lĩnh quân phiệt là tên thổ phỉ, từng đào bới quá nhiều mộ cổ, chắc chắn có người quân sư cho , di dời mộ tổ từ lâu, cũng đoán trước có cao thủ tới trộm mộ tổ nhà nên đem cỗ quan tài bằng đồng núi Long Môn tới đây, còn xây dựng từ đường tổ miếu, mỗi ngày cho quân lính tuần tra, những bọn trộm mộ thông thường dám bén mảng tới, những người có bản lĩnh đào trộm mộ bảo vật đạt tới trình độ chỉ làm trong đêm có quá nhiều, nhưng ai tới người đó xui xẻo chạm mặt với “cương thi núi Mang”, lại chết thêm vài mạng người nữa, rồi ai dám tơ tưởng đến đào trộm mộ tổ nhà nữa.

      Nếu trong mộ còn có thuốc nổ, việc này đối với Khoái thủ Phùng Điện Thần chỉ là việc , nhưng ai nghĩ tới chuyện Đồ Hắc Hổ lại chôn cương thi nghìn năm trong mộ tổ nhà . Nhóm Dương Phương biết mình thua vố, Thôi lão đạo chửi thầm trong bụng vì mình quá sơ ý, nếu đây đúng là mộ tổ nhà họ Đồ sao có thể xây tổ miếu được, đêm đến lại có ai canh trông, đây chẳng phải là cố tình để cho trộm mò đến sao?

      Nghĩ tới đó, bốn người nhanh chóng đè nắp quan tài lại, nhưng cương thi sức mạnh phi phàm, cuốn theo trận gió từ trong quan tài bật mạnh ra ngoài.

      Thôi lão đạo và Khoái thủ Phùng thấy ổn liền vội tránh sang hai bên. Mạnh Bôn khỏe như vậy cũng bị đánh bật ra ngã xuống đất đau quá thở nổi, chiếc nắp quan tài rơi xuống đè trúng người hộc máu tươi, chỉ thấy nằm đơ dưới đất thể động đậy.

      Dương Phương thấy tình hình ổn cũng vội nhảy lên bám lấy thanh xà ngang điện thờ, may bị nắp quan tài va phải, nhìn thấy cương thi từ trong quan tài bò ra, đầu tóc xõa ra rũ rượi, móng tay dài như vuốt, thân thể trần truồng, khắp người mọc lông trắng toát, khắp nơi trong tổ miếu ngột ngạt mùi xác chết, khí nồng nặc, hai chiếc đèn bão bị rơi sàn nhà le lói chực tắt. Khi cương thi đứng dậy chụp lấy Khoái thủ Phùng Điện Thần, bộ vuốt dài của nó đâm thủng ngực ta rồi móc ra quả tim đỏ rực, nóng hổi vẫn còn đập.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 9: Thủy quái sông Hoàng Hà


                  1


      Thôi lão đạo và mọi người hô nhau đậy nắp quan tài lại, ngờ cương thi quá mạnh, hất nắp quan tài bò ra ngoài, túm lấy Khoái thủ Phùng móc tim ra ngoài.

      Nguyên do vì cương thi bị vía nhập vào, gặp người sống đuổi theo tha, tay móc tim của Khoái thủ Phùng, tay giơ bộ móng vuốt về phía Thôi lão đạo. Thôi lão đạo lưng như dính sát vào cột của gian điện, mặt trắng bệch vì sợ, cứ nghĩ rằng cái mạng già của mình tiêu đời. Thảo đầu thái tuế bị thương nằm bệt sàn nhà, miệng thổ máu tươi, trông thấy Thôi lão đạo gặp nguy liền kêu: “Lục ca, mau cứu đạo trưởng!”

      Dương Phương đu mình xà ngang, nhìn thấy Khoái thủ Phùng bị chết, Thôi lão đạo gặp nguy, mọi việc diễn ra quá nhanh khiến ta kịp phản ứng, lúc này vội buông tay nhảy xuống, lộn vòng trung rút roi đồng ra, dựa vào thế rơi xuống, hai tay quất mạnh roi, chỉ nghe tiếng roi đồng cắt gió như tiếng rồng gầm.

      Dương Phương tay cầm roi đồng, với thế xẻ núi, đánh roi chí mạng giữa đỉnh đầu cương thi, phát ra tiếng kêu như sấm, chỉ thấy luồng khí đen bốc lên từ đỉnh đầu cương thi, thi thể nó như cái cây khô đổ gục xuống, chút động đậy.

      Chiếc roi đồng đánh tử thi được mệnh danh “Đả thần tiên” này thực ra là hữu danh vô thực, phải chiếc roi mà Khương Tử Nha thời Tây Chu sử dụng khi đánh Phong Thần, chiếc roi đó chỉ có thể đánh Bát bộ chính thần, còn roi đánh tử thi nghe là pháp khí của Trương thiên sư núi Long Hổ truyền lại, bên có khắc câu chú để trấn ma trừ tà, có thể đánh tan hồn phách. Lúc này, cương thi bị đánh trúng đầu, hồn phách bị đánh tan, chính Dương Phương cũng ngờ chiếc roi của mình lợi hại như vậy, từ khi sư phụ truyền lại cho ta đây là lần đầu tiên dùng roi đánh người chết, nhìn lại cương thi thấy đầu bị đánh nát, thể gây họa nữa, lúc đó mới biết sư phụ truyền lại cho mình bảo vật, niệm thầm trong bụng: “Sư phụ trời linh thiêng, phù hộ đệ tử.”

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn đỡ Thôi lão đạo dậy, ba người đưa mắt nhìn Phùng Điện Thần chết thảm, đỡ lấy thi thể của ta òa lên khóc, Thôi lão đạo đấm ngực giậm chân, nước mắt lã chã, hối hận vô cùng: “Chúng ta gặp nhau định thay trời hành đạo, đào mộ tổ của Đồ Hắc Hổ, ngờ lại có chuẩn bị trước khiến chúng ta gặp nạn, tứ đệ đáng thương của ta lại ra như thế này, cậu chết thảm quá...”

      Mạnh Bôn : “Lần này chúng ta tổn thất nặng nề quá, phải báo thù. Thù này trả, Mạnh Bôn tôi thề làm người.”

      Thôi lão đạo than: “Quân tử báo thù mười năm muộn. Chuyện trả thù từ từ tính. Giờ chúng ta phải tranh thủ khiêng xác tứ đệ ra khỏi đây trước khi trời sáng, nếu làm kinh động tới đám lính tuần, đến chúng ta thoát ra cũng khó.”

      Dương Phương chau mày, nghĩ ra kế. Liền gọi Thôi lão đạo lôi thi thể Khoái thủ Phùng ra bên ngoài, ta và Mạnh Bôn ở lại dọn dẹp bên trong trở về nguyên trạng, để Đồ Hắc Hổ nghĩ rằng chưa có ai động tới mộ tổ nhà ta, tránh đánh rắn động cỏ.

      Ba người lập tức bắt tay vào việc, đẩy quan tài bằng đồng vào trong huyệt động, lấp đất lắp lại đá sàn nhà, lau sạch vết máu, chỉ có con gà quay bàn thờ bị Mạnh Bôn gặm mất mấy miếng, nơi đây đồi núi hoang vu, đồ thờ bị thú rừng ăn phải cũng có gì là lạ, mất con gà cũng gây chú ý gì.

      Sau khi xong việc, trời cũng vừa hửng sáng, ba người nhanh tay chôn cất Khoái thủ Phùng trong sơn cốc, lòng thề trả thù cho huynh đệ, sau đó quay trở về thành Lạc Dương, vào quán trọ đóng cửa bàn bạc.

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn nghiến răng: “Theo tôi nên chọn ngày trời tối gió to, bịt mặt trốn vào phủ mỗi đứa cho đao giết hết cả nhà nó , tha ai, sau đó cho mồi lửa rồi mình rút.”

      Thôi lão đạo lắc đầu : “ được, được. Chúng ta làm những việc liên lụy tới người vô tội. Hơn nữa phủ đệ của Đồ Hắc Hổ ở Lạc Dương nhưng gần đây thống lĩnh quân đội ở gần phủ Khai Phong, muốn xâm nhập vào doanh trại để giết còn khó hơn lên trời.”

      Dương Phương cũng có ý định giết người: “Khó cũng sợ, chỉ sợ tìm thấy người thôi, giờ biết ở doanh trại gần Khai Phong phủ, tôi kiếm bộ quân phục vào bên trong lấy đầu .”

      Thôi lão đạo can: “Nghe tên Đồ Hắc Hổ đó cũng dũng mãnh lắm, phải hạng xoàng đâu, chúng ta cần phải bình tĩnh, nhẫn nại chỉ có lợi thôi, hành hấp tấp ắt sinh đại họa. Đồ Hắc Hổ rất mê tín, tin vào phong thủy của mộ tổ, nếu có thể đào được mộ tổ nhà còn hơn là đâm mấy nhát dao vào người , làm thế nào nghĩ cách tìm được mộ tổ nhà mới là quan trọng.”

                  2


      Ba người bàn bạc tới lui, sau cùng nghĩ ra được cách. Ngày hôm sau, Dương Phương và Mạnh Bôn tìm mua hai bộ đồ đạo sỹ, hóa trang thành đạo đồng, là đồ đệ của Thôi lão đạo, mặt mỗi người đều bôi phấn, dán cao, người cầm cờ, người cắp tráp theo hầu Thôi lão đạo. Họ tới xếp đồ ngồi xem bói trước cửa phủ Đồ Hắc Hổ, vừa để ý người ra vào phủ, vừa tranh thủ dò la tin tức, lần này phải lần cho ra tin tức mộ tổ nhà . Di dời mộ tổ là chuyện lớn, thể giấu diếm hoàn toàn được.

      Thời đó, người dân còn rất mê tín, Thôi lão đạo lại rất sành mấy món kỹ xảo giang hồ, giương cao cờ “Thiết chủy bá vương”, tự xưng là “Phương ngoại toàn chân, vân du bán tiên, truyền danh tặng quẻ, lấy đồng”, vì Thôi lão đạo lấy tiền, nên số người xúm lại xem bói rất đông, thêm vào đó, Thôi lão đạo khéo ăn khéo , lừa cho người tới xem bói tâm phục khẩu phục, mới có mấy ngày mà tên tuổi nổi tiếng khắp trong thành, ở đâu cũng thấy người ta khen ông là thần tiên hạ thế. Lời đồn cứ như vậy được truyền , nhanh chóng truyền vào trong phủ thống đốc, Đồ Hắc Hổ lúc đó có nhà, mấy trò này của Thôi lão đạo cũng chẳng lừa nổi , nhưng vợ lại là người rất mê tín, nghe ngoài cửa có lão đạo, xem bói xem tướng rất giỏi, liền mời lão đạo và hai đồ đệ vào phủ, tới hậu đường chuyện.

      Thôi lão đạo đem theo Dương Phương và Mạnh Bôn nhân cơ hội đó trà trộn vào trong phủ thống đốc, tới hậu đường thấy vợ Đồ Hắc Hổ là mụ đàn bà to béo phốp pháp, khoảng ba mươi tuổi, mặt phì nộn đầy thịt, khóe mắt ánh lên vẻ hung tợn.

      Thôi lão đạo sớm biết Đồ Hắc Hổ xuất thân là thổ phỉ, nên vợ cả của thể nào đẹp vào đâu được. Hôm nay gặp mặt, con mẹ này đúng là con hổ cái.

      Con hổ cái đó mời Thôi lão đạo ngồi, hai cậu đạo đồng đứng ở hai bên, mụ ta ra hiệu cho người hầu rút lui, mở miệng : “Đạo trưởng, nghe ông xem bói rất chuẩn.”

      Thôi lão đạo nhắm hờ đôi mắt, ngâm rằng: “Vô lượng thiên tôn, chút khả năng của bần đạo đáng để nhắc tới.”

      Hổ cái : “Nếu đạo trưởng đúng là biết xem bói hôm nay bói cho tôi quẻ, ông xem tôi...”

      đợi mụ ta hết, Thôi lão đạo lên tiếng: “Phu nhân, khoan hãy mở lời, lão đạo xem tướng mạo phu nhân, chỉ được ba việc mà thôi, nếu có sai cũng phiền phu nhân đuổi, ba thầy trò chúng tôi tự khắc cuốn gói khỏi quý phủ.”

      Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn thấy Thôi lão đạo quá tự tin, đưa mắt ra hiệu cho Dương Phương, Dương Phương cũng ra hiệu lại, ý rằng Thôi lão đạo mồm như được bôi mỡ, lừa mụ hổ cái này chỉ là trò đùa, cần phải lo lắng.

      Chẳng thèm quan tâm tới hai người nháy qua nháy lại, Thôi lão đạo làm tràng như ngâm thơ: “Ngoại hình ngũ quan của con người ta đều cơ khác nhau, thường xem tướng mạo là khó nhất, thể nhìn lần mà đoán hung cát ngay được, cần phải quan sát tỉ mỉ...”, rồi, lão ngẩng lên quan sát khuôn mặt của mụ hổ cái và khen rằng: “Tướng mạo của phu nhân tốt, khuôn mặt tròn, môi đỏ mọng như son, giọng thanh thanh, sơn căn bất đoạn, chính là tướng phú quý. Đặc biệt là đôi tai, mỗi bên cái, cao thấp, sao lại mọc khéo thế, theo thuyết xem tướng mà , nếu vành tai dày kim ngọc mãn đường, tai cao lông mày tuổi thọ cao, dái tai dài và dày có lộc trời, là tướng tốt! Hiềm nỗi...”

      Mụ hổ cái ngồi nghe chỉ hơi gật đầu. Mụ ta là phu nhân của thống đốc, vinh hoa phú quý là điều đương nhiên, cần Thôi lão đạo phải . Nhưng nghe tới từ “hiềm nỗi” giật thót mình, vội hỏi: “Hiềm nỗi sao hả đạo trưởng?”

      Thôi lão đạo : “Hiềm nỗi khí sắc giảm sút, đây là thời vận tốt, mệnh phạm phải tiểu nhân.”

      Mụ hổ cái vỗ bàn đánh rầm, những thớ thịt mặt cùng với tách trà bàn rung lên bần bật: “Ôi trời đạo trưởng, ông đúng là thần tiên, tôi gặp phải tiểu nhân đây.”

      Thôi lão đạo hề thay đổi thái độ, chỉ cười thầm trong bụng: “Thấy chưa, bị ta đoán đúng hai việc rồi.”

      Xem tướng, xem bói là phải biết quan sát nét mặt thái độ, thứ nữa là phải hiểu về nhân tình thế thái. Nếu người này phong thủy đều thuận lợi bao giờ nghĩ tới chuyện xem bói, có xui xẻo mới tìm đến thầy bói, hơn nữa thường con người ta gặp lúc thuận lợi thường hay liên tưởng tới việc bị tiểu nhân làm hại, ai chẳng có mấy kẻ oan gia đối đầu. Nên lúc xem bói “phạm tiểu nhân” trăm lần đúng tới chín mươi chín lần, thêm nữa Thôi lão đạo quan sát thấy thần thái mụ hổ cái như nổi cơn ghen, chắc chắn sau khi kết tóc xe tơ còn được Đồ Hắc Hổ để ý tới nữa, ngày ngày ghen tuông tranh giành với mấy bà vợ lẽ, đây cũng là chuyện thường tình. Nhưng người xem bói phải biết vận dụng linh hoạt, đúng thời điểm khiến mụ hổ cái phục lăn.

      Dương Phương và Mạnh Bôn đứng phía sau quan sát Thôi lão đạo lừa mụ hổ cái tới lần này tới lần khác, nhịn được cười mà dám cười thành tiếng, đành phải căng mặt ra cố nhịn khiến nét mặt hai người hết sức cổ quái.

      Mụ hổ cái mải khen Thôi lão đạo xem bói chuẩn, thấy hai tên đạo đồng nhăn mày nhăn mặt vui, hỏi Thôi lão đạo vậy nghĩa làm sao?

      Thôi lão đạo vội lấp liếm: “Đây chính là việc thứ ba rồi, thưa phu nhân. Phu nhân đừng vội coi thường hai tên đồ đệ bị câm của ta, hai đứa nó rất có căn cơ đấy, chúng có đôi mắt rất tinh tường, nhìn thấy ấn đường phu nhân có màu đen, thời vận tốt, xem ra gặp đại hạn. Hai đứa nó muốn mách cho phu nhân nhưng lại được nên làm vẻ mặt đau khổ như vậy để ra hiệu.”

      Mụ hổ cái bán tính bán nghi hỏi: “Ông chắc là hai đồ đệ của ông bị sao chứ, vẻ đau buồn mà như vậy à? Sao tôi thấy như hai đứa nó có ý đồ gì đó. Mà thôi, đạo trưởng ông xem là vận hạn gì?”

      Thôi lão đạo nhắm mắt bấm đốt ngón tay, bỗng thở dài thườn thượt : “Ôi trời, xong rồi, mộ tổ nhà phu nhân...”

      Mới nửa dừng lại nữa, để chờ xem phản ứng của mụ hổ cái, theo cách của giang hồ là “ nửa vời”.

      Mụ hổ cái nghe Thôi lão đạo tới mộ tổ mặt biến sắc: “Ôi lão thần tiên! Chuyện động tới mộ tổ người ngoài nào biết mà ông cũng bói ra được! Lúc đó, tôi mộ tổ được động đến, nhưng phu quân nhà tôi cứ đòi dời tới Lôi Công Lĩnh, nào là địa hình địa thế đẹp, cái gì mà sói hạ rắn rừng, tôi có khuyên thế nào cũng được, lần này có chuyện rồi, yên lành lại gặp đại hạn, làm sao mà tôi sống được đây?”

      Thôi lão đạo cũng chỉ đợi có câu này, nghĩ bụng: “Cái gì mà thần tiên, con mẹ này, Đồ Hắc Hổ lấy phải mày xem như xui xẻo”. Lão làm ra vẻ bình tĩnh, với mụ hổ cái: “Phu nhân phải lo lắng sợ hãi, thực ra cũng phải là chuyện to tát lắm, di dời mộ tổ sang nơi khác cũng phải là được, nhưng làm kinh động đến hài cốt của tổ tiên là bất kính, cần phải lập đạo tràng để hóa giải. Thiên cơ thể lộ, nên được ra bên ngoài, đạo tràng làm chu toàn cũng được. Lão đạo ta quay về núi lập đạo tràng giúp phu nhân, tiêu trừ vận hạn, thêm phúc thêm thọ, phù hộ gia đình ta lớn bé đều được bình an, phu nhân về sau thêm con thêm cháu, phú quý vô biên, tất cả cứ để lão đạo ta lo. Lão đạo ta gieo quẻ xem tướng là vì muốn lưu danh đời sau, là vì có duyên với phu nhân. Ta lập tức quay về núi làm phép, làm phiền nữa, xin cáo từ”. rồi từ biệt mụ hổ cái, cùng hai huynh đệ rút khỏi phủ thống đốc.

      Mụ hổ cái thấy Thôi lão đạo lấy đồng, kiến thức uyên thâm khôn lường, nên trong lòng khâm phục, chuyện này cũng giấu kín dám với ai.

      Lại , ba người sau khi ra khỏi thành, thấy xung quanh có ai liền lột bỏ đồ hóa trang, nhìn nhau cười nghiêng ngả. Dương Phương và Mạnh Bôn đều khen thủ đoạn của Thôi lão đạo rất tuyệt, mới vài lời moi được thông tin mộ tổ của Đồ Hắc Hổ. Mụ hổ cái cứ tuồn tuột kể ra hết, lần này chắc sai nữa.

      Thôi lão đạo : “ ngờ Đồ Hắc Hổ dời mộ tổ tới Lôi Công Lĩnh. Nhắc đến nơi này lão đạo tôi cũng có biết đôi chút. Đó là địa thế hiểm ác, là ngọn núi quanh năm mây đen bao phủ.”

                  3


      Đồ Hắc Hổ là tên nguy hiểm độc ác, tâm địa thâm sâu, khốn nỗi gặp phải hội Thôi lão đạo, cái này gọi là “Chày đồng gặp phải cối đá - Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, phu nhân của , mụ vợ hổ cái mời Thôi lão đạo về xem bói khai ra vị trí mộ cổ trong khi vẫn chưa biết tình.

      Nhưng từ thời Thanh, Thôi lão đạo từng bị người ta đánh cho gãy chân, sau đó tuy khỏi nhưng việc trèo đèo vượt núi làm được nên thể đích thân tới Lôi Công Lĩnh.

      Dương Phương hỏi về địa thế núi, kiếm chỗ cho Thôi lão đạo nghỉ chân, còn ta và Mạnh Bôn cùng lên núi, thực kế hoạch đào trộm mộ tổ của Đồ Hắc Hổ.

      Lôi Công Lĩnh nằm tại biên giới hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nam, giữa hai dãy núi Thái Hành và Vương Ốc, hai người hóa trang thành thợ dán giấy rồi lên đường. Nếu từng nghe kể chuyện về các “truyền kỳ phá án”, các bạn thấy hễ nhân vật lục lâm xuất đều cùng hình ảnh “đầu đội khăn mềm, tai cài bông hoa, người khoác chiếc áo choàng lông thú, lưng đeo đao, hông đeo túi phi tiêu”. Nhưng đó chỉ là những hình ảnh xuất sân khấu, ngoài đời chẳng có nhân vật lục lâm nào dám ăn mặc như vậy ra đường. Thời xưa giao thông thuận tiện, thường là dân buôn bán làm ăn và dân giang hồ mới xa, nếu ăn mặc bắt mắt quá hoặc bình thường quá đều gây chú ý. Ăn mặc bắt mắt quá khiến người ta hay để ý, mặc quá rách rưới tới những vùng quê cũng khiến người ta thấy lạ. Những vùng đó đất rộng người thưa, dân trong vùng đều biết nhau hết, nếu có người lạ xuất , phải là buôn bán hoặc thăm người thân bị nghi ngờ, phải kẻ trộm cũng là kẻ cướp, có khả năng gây ra nguy hiểm cho người dân, họ sinh ra đề phòng, đâu cũng bị theo dõi, có cơ hội ra tay.

      Vì vậy, Dương Phương và Mạnh Bôn hóa trang thành thợ dán giấy, Dương Phương thời thiếu niên có học qua nghề này nên lúc ra bên ngoài có việc vẫn thường hóa trang như vậy, thêm vào đó tay nghề cao, giỏi ăn , tới đâu cũng khiến người ta nghi ngờ, nơi hẻo lánh mấy cũng được.

      Hai người họ vừa đói vừa khát, ngày đêm nghỉ dừng ngày nào. Tới chân núi Lôi Công, chỉ thấy núi cao sừng sững, rừng cây rậm rạp xanh mướt, nhìn xa xa, núi tiếp núi như tấm bình phong, chính giữa có khe núi rất hẹp, đúng như lời Thôi lão đạo , đó là lối quá hiểm trở chỉ có chim và mây là bay qua được. Nhìn khe núi đó giống như bị sét đánh tách làm đôi, chắc vì thế mà nơi đây mới gọi là Lôi Công Lĩnh, vết nứt từ xuống dưới, hình thế này chính là hạ lĩnh xà, mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ chắc nằm bên dưới chỗ đầu rắn, phía trước có núi, bên cạnh có sông, còn có thôn làng khá lớn. Hai người vào tới đầu thôn được biết đây là thôn Thảo Lư nghĩa là lều cỏ. Núi Vương Ốc từ cổ tới nay là nơi đạo giáo đắc đạo thành tiên, nên có rất nhiều Thần cung Đạo quán, thời Hán từng có vị tiên nhân, dựng lều cỏ cư trong núi, thôn làng này cũng được mang tên từ đó.

      Dương Phương lặng lẽ gật đầu, nghĩ bụng: “Nơi này núi non trùng điệp, như lớp hàng rào bảo vệ, suối chảy uốn lượn, mây khói trập trùng, thế núi rất đặc biệt, toát lên khí như tiên cảnh, đúng là phi phàm, Đồ Hắc Hổ dời mộ tổ tới đây hẳn là có người chỉ lối, nhưng cụ thể là chôn ở đâu, khoảng cách tới mộ của Tứ bảo tướng quân vẫn còn đoạn đường dài.”

      Hai người hóa trang thành thợ dán giấy vào trong thôn, vừa giúp dân dán lại trần nhà vừa hỏi thăm tin tức mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ nhưng hỏi được gì. Lúc đó có gia đình giàu có trong thôn có tang, ông cụ nhà đó qua đời, trưởng thôn phải bận rộn lo việc tang cho nhà họ, vừa hay có hai tay thợ dán giấy tới làng, tay nghề cũng tương đối khá, vùng này chưa thấy ai tay nghề cao như vậy liền nhờ hai người phụ trách chuẩn bị đồ hàng mã.

      Dương Phương và Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn sợ dân làng nghi ngờ nên có cách nào để từ chối, đành cố gắng phối hợp, bận tối mắt tối mũi tới tận khi trời tối mới được rảnh tay ăn cơm. Trưởng thôn tới tận nơi chúc rượu, còn may có hai vị tiểu sư phụ chuẩn bị đồ hàng mã rất đẹp, việc tang tổ chức rất hoành tráng, đúng là hai người vào nam ra bắc, nhiều biết nhiều chứ ở trong núi như bọn họ ai có tay nghề cao đến vậy.

      Dương Phương hỏi: “Viên ngoại đúng là biết nhìn hàng, tay nghề của chúng tôi là của Phú Thọ Trang từ thời nhà Thanh truyền lại đấy, chuyên chỉ để phục vụ cho các phủ lớn ở Bắc Kinh, biết làm cho bao nhiêu gia đình quan lại ở kinh thành rồi đấy, lần này tới đây gặp việc cũng là phúc phận của ông cụ và cũng là do chúng ta có duyên với nhau.”

      Trưởng thôn đồng tình, còn trần nhà ông ta cũng cũ, cần dán lại, nhờ hai người ít hôm nữa qua làm giúp rồi tính tiền thể.

      Dương Phương nghe rồi cũng mấy quan tâm, chỉ hỏi trưởng thôn lúc nào phát tang, ngày giờ phát tang hạ huyệt là phải xem cẩn thận. ta tìm cơ hội để xem xét nghĩa trang của làng.

      Trưởng thôn mời thầy xem ngày rồi, chiều ngày mai phát tang, địa điểm cũng chọn. Người trong thôn chết đều được chôn núi sau thôn.

      Dương Phương tiếp lời: “ trạch là chuyện lớn, cần tìm nơi phong thủy tốt...”

      Trưởng thôn hơi quá chén, tiện mồm luôn: “Thôn Thảo Lư của chúng tôi là đất của Đạo giáo, có chỗ nào là phong thủy tốt, thôn của chúng tôi có từ thời Hán, vẫn luôn mưa thuận gió hòa, cho nên cũng ai cố ý chọn nơi chôn cất cả. Mấy năm trước còn có người nơi khác tới chọn khe nứt dưới Lôi Công Lĩnh để chôn cất người nhà, thấy khiêng quan tài xuống chôn dưới đó, còn thậm thà thậm thụt, bên ngoài quan tài bọc lớp chiếu, đợi nửa đêm trời tối mới hạ huyệt. Họ biết là bị thợ săn của thôn nhìn thấy, còn đòi giấu ai cơ chứ.”

      Trưởng thôn say rượu ra những lời đó là “vô tình”, nhưng Dương Phương và Mạnh Bôn hai người nghe lại “hữu ý”, chắc chắn là Đồ Hắc Hổ cho người dời mộ tổ tới đây, mặc dù hành bí mật nhưng bị người dân trong thôn nhìn thấy, cũng do Đồ Hắc Hổ chuyên làm việc thất đức, ông trời bắt phải chịu báo ứng.

      Dương Phương nghĩ, giờ nhận lời sửa nhà cho Trưởng thôn mà lại ra đột ngột ắt bị nghi ngờ. Hai người bèn ở lại thôn Thảo Lư mấy hôm, tiện thể dò hỏi đường sá cho ràng.

      Ba hôm sau, bọn họ rời khỏi thôn, đầu tiên là lòng vòng lúc núi, sau đó chọn lối có đường mòn ít người lại để lên Lôi Công Lĩnh, tới nơi chỉ thấy vách núi như bức tường thành, ngọn núi bửa đôi thành hai nửa, mây khói vờn xung quanh, dưới khe núi thông tùng mọc xum xuê, nước suối chảy róc rách, chỉ thấy “Mây vờn đỉnh núi trăm nghìn dạng/ Thác đổ dòng dải lụa trong”, thi thoảng vài chú gà gô, chú báo gấm, chim rừng xuất trong khe núi. Hai người bám vào vách núi leo xuống phía dưới, lúc lại có vài chú chim bay lượn ngang qua người, dây leo mọc dọc theo vách núi xuống tận bên dưới.

      Phía bắc thôn Thảo Lư núi non trùng điệp, hết ngọn núi này tới ngọn núi khác kế tiếp nhau, từ xưa tới nay có đường thông qua nơi này, rừng núi còn nguyên sơ hoang vu nên vẫn còn dấu tích của rắn rết và thú dữ. Người trong thôn hầu như về hướng này, Dương Phương và Mạnh Bôn sợ thú dữ, thổ phỉ, họ cũng mang theo súng ống gì vì thời đó qua các cửa thành vẫn bị kiểm tra, nếu mang theo súng dễ bị chú ý. Dương Phương mang theo roi đồng, Mạnh Bôn nhìn thấy trong thôn có chiếc rìu chặt củi, tiện tay cầm luôn để còn chẻ quan tài, mọi người chuẩn bị chút lương khô, cứ thế là lên núi, chẳng coi mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ra gì.

      Lên tới miệng núi Lôi Công, thấy bên dưới sơn khe núi đá nhọn lởm chởm, hai bên vách núi dựng đứng, từng vệt mây trắng vờn quanh như những chiếc đai ngọc, bọn họ mò mẫm theo địa thế rắn cuốn về xuôi để xuống dưới khe núi. Dương Phương lấy tay quệt ít đất bụi nền đất đưa lên mũi ngửi, lại thấy màu đất và màu sắc cây cối ở đây cho thấy gần đây đất nơi này từng bị đào xới, liền gọi Mạnh Bôn tới bắt đầu ra tay từ chỗ đó. Lớp đất rất sâu, là đất sét, hai người đào nửa ngày, bên dưới lộ ra cỗ quan tài sơn màu đen, nắp quan tài có số tiền đồng, hai chiếc bát ngọc, trong bát vẫn còn dầu đèn, chắc lúc lấp huyệt đèn tắt. Trước đây nếu dời hòm chuyển mộ khiêng quan tài từ huyệt cũ lên phải thắp ngọn đèn, trước khi chôn tại mộ mới đèn được tắt, cũng là thông lệ xưa. Dương Phương và Mạnh Bôn cũng có thông lệ, đó là ăn trộm về tay , về tay là xui xẻo, có thứ gì lấy thứ đó, cứ thế vơ đại cho vào bao tải.

                  4


      Mạnh Bôn hỏi Dương Phương: “Lục ca, xem có phải cỗ quan tài của tổ tiên nhà Đồ Hắc Hổ ?”

      Dương Phương : “Cỗ quan tài đúng là kiểu của thời nhà Thanh, nhưng bên trong là gì tôi biết.”

      chuyện tới đó trời vừa tối, Dương Phương thắp đèn bão lên, vòng quanh cỗ quan tài nghiên cứu, nhìn phần đất quan tài giống với đặc tính đất xung quanh, có lẽ là đất từ mộ cũ được chuyển tới từ hai ba năm trước, ta nhìn kỹ đám đất đó, gật đầu lia lịa với Mạnh Bôn, : “ sai, chắc chắn là quan tài của vị tướng quân thời Thanh, cụ tổ nhà họ Đồ rồi. Tên Đồ Hắc Hổ đúng là cũng bỏ nhiều công sức vào việc chăm lo mộ tổ, lần này cho biết tay.”

      Mạnh Bôn nghe mừng, xắn tay áo lên, rút rìu ra nhắm chuẩn vào quan tài bổ xuống. Ngôi mộ của vị tướng quân này có nấm mộ cũng có bia mộ là vì sợ có người tới đổ đấu, nhưng Dương Phương có đôi mắt quá lợi hại, biết được thế núi như thế nào huyệt ra sao, thể tìm ra. Thời tiêu diệt Niệm Quân là cuối thời Minh, quốc lực suy thoái, cỗ quan tài của vị quan võ cũng thể làm quá cầu kỳ, bên ngoài cũng có quách, chỉ là cỗ quan tài gỗ khá dày, đóng đinh cẩn thận, nhưng thể trụ được sức mạnh của Mạnh Bôn, vài ba nhát rìu bổ bật nắp quan tài, làn khói trắng bốc ra, bên trong là cỗ thi thể.

      Dương Phương cùng Mạnh Bôn vội lùi lại phía sau lấy khăn che mặt, chờ khí trong quan tài tỏa ra hết mới đặt chiếc đèn bão xuống đất, thắp thêm ngọn nến cầm tay tiến lại gần xem xét. Bên trong là thi thể có thân hình cao to lực lưỡng được quấn trong áo gấm, để râu dài, khuôn mặt như sống, áo choàng của tướng lĩnh, đầu đội mũ giáp, thân mặc áo giáp, trước ngực cầm thanh Thất tinh bảo kiếm, đều là những cổ vật trăm năm tuổi, ngoài ra trong cỗ quan tài còn gì khác, đó cũng chính là phong cách mai táng của con nhà võ.

      Mạnh Bôn : “Lục ca nhìn xem, đây chính là bảo khôi, bảo giáp, bảo kiếm, còn thiếu con ngựa nữa, nhưng ngựa chết rồi cũng chẳng tác dụng gì, chỉ cần lấy ba thứ bảo bối này là đủ.”

      Dương Phương : “Tôi thấy còn bảo bối nữa, người này chết năm sáu mươi năm nay, lại di chuyển quan tài vậy mà tướng mạo vẫn như sống, nếu tôi nhìn nhầm trong miệng ông ta còn có viên ngọc.”

      Mạnh Bôn : “Lục ca có nhìn nhầm bao giờ đâu, để em cạy ra xem có đúng là ngọc …”, rồi dùng dây thừng buộc vào cỗ thi thể kéo đầu dậy, tay trái đỡ phía sau đầu, tay phải bóp hai bên má cho miệng thi thể há ra, bên trong quả là có viên ngọc rất to, móc ra xem mới biết đó là viên Dạ quang châu.

      Dương Phương nhìn viên ngọc phát ra ánh sáng rất mạnh, biết đây là vật hiếm có, liền gói kín cho vào túi. Lúc này, Mạnh Bôn gỡ tấm áo giáp và những vật có giá thi thể đều lấy hết ra, mũ giáp là Bát môn kim đỉnh Thiên vương khôi, áo giáp là Tỏa tử liên hoàn thái tuế giáp, thanh bảo kiếm tay cầm được bọc da cá mập, thanh kiếm đen sì có khắc hình thất tinh bát đẩu. Nhìn lại thi thể trong quan tài, từ khi các bảo vật bị lấy thịt rữa da chùng bắt đầu có tượng phân hủy.



      Hai người buộc chặt chiếc bao tải đựng đầy đồ, cho mồi lửa thiêu cháy cả quan tài và thi thể bên trong, sau đó san chỗ đất vừa đào lên ra xung quanh, phá hủy hoàn toàn ngôi mộ. Sau khi trời sáng xuống núi, toàn bộ quá trình thần biết quỷ hay. Hai người mạch về tới quán trọ ở ngoài thành Lạc Dương, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thôi lão đạo nghe, chờ tối đến vào phòng khóa trái cửa, thắp đèn lên, mở bao tải ra, bày từng món đồ lên bàn.

      Thôi lão đạo cười : “Biết trước là hai huynh đệ ra tay, có việc gì làm được.”

      Dương Phương : “Công đầu vẫn là của đạo trưởng, nếu có đạo trưởng lấy được thông tin từ mụ hổ cái làm sao ta biết được mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ở núi Lôi Công chứ. Chúng tôi tới đó đào mộ lấy báu vật dễ như thò tay vào túi lấy đồ, chẳng tốn chút sức lực nào.”

      Thôi lão đạo gật đầu: “Đồ Hắc Hổ nằm mơ cũng ngờ là mộ tổ nhà bị đổ đấu.”

      Mạnh Bôn : “Vậy mới giải được nỗi hận trong lòng, tiên sư cái thằng Đồ Hắc Hổ, nó mà biết được chắc tức ói máu. Đạo trưởng thử xem mấy món này bán được bao nhiêu tiền.”

      Thôi lão đạo , đồ thời Thanh cũng có nhiều thứ đáng tiền, nhưng phải xem đó là đồ gì. Bộ áo giáp kia niên đại chưa lâu lắm, phải là thứ đắt tiền, viên ngọc xem ra có giá hơn, hình như được truyền từ trong cung ra, có thể thời đó thắng trận nên được thưởng, cũng có thể là chiến lợi phẩm sau trận tiêu diệt Niệm Quân, mặc dù chỉ là vật bé thôi, nhưng có viên thứ hai nào như vậy. Tiếp nữa là thanh bảo kiếm và hai chiếc chén ngọc đựng dầu thắp, đừng xem thường chiếc chén ngọc, nó là cổ vật thời Hán, chắc là Đồ Hắc Hổ đoạt được trong những lần đào trộm mộ. Thanh bảo kiếm là bảo vật thời Bắc Tống, cũng là cổ vật hiếm có. Trước mắt, việc buôn bán trong nghề được tốt cho lắm, nhưng những món đồ này mà được giao dịch cũng kiếm được khoản lớn đấy.

      Thôi lão đạo tới đó dừng lại lúc: “Số tiền này ba em chúng ta chia ba, lão đạo tôi cả đời nghèo đói lắt lay, thể phát tài được, nếu phát tài ắt xui xẻo, phát bao nhiêu xui xẻo bấy nhiêu, nên phần của tôi dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn ở vùng Hoàng Hà, hai phần còn lại hai em cậu chia nhau, đây cũng là tiền của bất nghĩa, lấy cũng chẳng sao.”

      Dương Phương lên tiếng: “Đạo trưởng, tiểu đệ cũng được biết, từ xưa tới nay, phú quý chỉ là hư , vinh hoa như bọt nước, chỉ có trung thần nghĩa sỹ hùng hào kiệt là được lưu danh muôn đời, với trách nhiệm phải luôn tiêu diệt kẻ tiểu nhân nên được người đời kính trọng, nếu đệ tham chút của cải này, thiên hạ đầy nhà giàu có, tội gì phải đào mộ nhà Đồ Hắc Hổ? Chúng ta mới đầu quyết tâm làm việc này, chẳng phải là để thay trời hành đạo diệt trừ kẻ ác sao, nên phần của tôi cũng giống như đạo trưởng, dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn.”

      Mạnh Bôn : “Hai vị đừng trượng nghĩa quá, thời buổi này bước ra khỏi cửa là phải cần tiền, ở trọ phải trả tiền nhà, ăn cơm phải trả tiền cơm, chúng ta ít nhiều cũng phải để lại ít phòng thân chứ.”

      Dương Phương : “Cũng đúng, hay là để lại ít?”

      Thôi lão đạo là cả, mở miệng ra chia tiền ngay cũng ngại, lão ta biết Mạnh Bôn thế nào cũng vậy, liền gật đầu: “Vậy để lại ít, nhưng được nhiều.”

      Ba người bàn bạc xem nên đem mấy món này bán ở đâu, tới tận nửa đêm mới ngủ. Sáng hôm sau, cả hội thu dọn hành lý lên đường. Thôi lão đạo chân cẳng què quặt, thể đường dài, Dương Phương mua cỗ xe lừa cho lão ngồi, ba người vừa vừa nghỉ, dọc đường hoang vắng ít người, tới trưa nghỉ chân tại quán mì, vừa gọi mấy bát mì ngồi ăn thấy bên ngoài có nhóm người ngang qua, xe lừa có cỗ quan tài còn mới, xem ra là đưa người quá cố về quê an táng.

      Bọn Dương Phương đều hành tẩu giang hồ lâu, chỉ cần nhìn vết xe là biết trong cỗ quan tài đựng khá nhiều đồ, thể chỉ là thi thể người chết. Còn nhóm người kia tất cả có bốn người gồm ba nam nữ, dẫn đầu là người trung niên khoảng năm mươi tuổi, tuổi chưa già, nhưng hai bên tóc mai điểm bạc, mặc bộ đồ quê mùa đơn giản, nhưng khí chất phi phàm, thái độ hòa nhã, bên cạnh ông là trong bộ trang phục thôn quê, nhưng nhìn là biết con nhà thành thị, lông mày lá liễu, tóc búi gọn gàng, hai mắt to tròn, thần thái nhàng như nước mùa thu, xinh đẹp tới mức khiến người ta dám nhìn thẳng vào mặt . Hai người còn lại, người như là người hầu, cắt mái tóc như chiếc nồi úp, người còn lại là thanh niên lực lưỡng, hai mắt liếc ngang liếc dọc, trông giống người tốt chút nào.

      Bọn Dương Phương đều thấy lạ, dựa vào nhãn lực của bọn họ làm sao mà biết nhóm người kia làm gì, nhưng vì lúc này muốn xảy ra chuyện nên để ý tới họ, chỉ chăm chú ăn.

      Thôi lão đạo ăn được nửa hạ giọng với Dương Phương và Mạnh Bôn: “Sáng nay, tôi nhìn trời thấy có tia sáng đỏ như máu, là dấu hiệu rất khác thường, chỉ e hôm nay thời tiết thay đổi, nếu trời nổi giông tố nước sông Hoàng Hà lại dâng lên. Chúng ta phải lên đường sớm lại gặp nạn lớn ở sông Hoàng Hà đấy.”

      Mạnh Bôn : “Đạo trưởng à, lên đường sớm thế làm gì, ngày nào mà chẳng vậy.”

      Thôi lão đạo : “Cậu Ngốc này! Tôi xem sai đâu, chỉ nay mai thôi, thể nào cũng có chuyện.”

      Dương Phương : “Hoàng Hà từng lụt rồi, nếu lại có thiên tai nữa dân sống sao nổi.”

      Thôi lão đạo : “Đường còn xa, trời đất ngừng phẫn nộ, cứ xem , chuyện lớn còn chưa tới đâu.”

      Tục ngữ có câu: “Họa tại miệng”, chỉ vì câu đó của Thôi lão đạo mà rước đến đại họa diệt thân.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :