Mắt Âm Dương - Lãnh Tàn Hà

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Thấy ánh đom đóm giữa bóng tối mênh mông kia sắp biến mất, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội chèo nhanh, cả hai phối hợp cùng lão Tôn quay mũi thuyền, vun vút đuổi theo chiến thuyền cổ vừa .

                  Vào thời nhà Minh, đây là chiến thuyền rất đại. Dưới thời Minh, cướp biển Đông Doanh liên tục quấy nhiễu miền duyên hải, triều đình dốc sức đánh đuổi chúng, bỏ rất nhiều công phu vào việc chế tạo chiến thuyền. Chiếc thuyền lớn này có phần thân rất kiên cố, đao búa khó mà phá nổi, hơn nữa việc điều khiển cũng rất linh hoạt. Trong khoang thuyền có mười tám mái chèo để điều khiển, do ba mươi hai phu thuyền phối hợp chèo lái, trong hải chiến có thể tùy cơ chuyển hướng, tránh bị đối thủ đâm thuyền vào, hơn nữa tốc độ lại nhanh, di chuyển như chớp, có thể là linh hồn của những trận hải chiến.

                  Thấy thuyền mình dần dần tiến gần đến chiến thuyền cổ kia, Vương Uy đột nhiên quay sang với Dương Hoài Ngọc:

                  - Lúc chiến thuyền đụng vào thuyền gỗ, tốc độ nhanh như thế này nhỉ?

                  Dương Hoài Ngọc cũng rất kinh ngạc, nước lặng, có gió to, chiến thuyền cổ kia thể trôi nhanh như thế được, lẽ nào thuyền có người ư?

                  Nghe Vương Uy vậy, lão Tôn càng thêm nghi ngờ, chính mắt lão trông thấy bấy nhiêu lính áo vàng lên thuyền, bao năm dọc ngang biển, lão rất tự tin vào con mắt và khối óc của mình, quyết thể nhầm được.

                  Chiếc thuyền gỗ dần đuổi kịp chiến thuyền cổ, chiến thuyền cổ vẫn chỉ có ngọn đèn bão tù mù, trong khoang thuyền tối om, giữa dòng sông ngầm mênh mông này, trông hệt như con thuyền ma người chèo lái.

                  Dương Hoài Ngọc thay đồ lặn, ào cái nhảy xuống nước. Chiến thuyền cổ có mười tám mái chèo, nước sông ngầm lặng sóng, có gió to, vậy mà nó lại có thể lướt nhanh như vậy, khả năng duy nhất là thuyền có phu thuyền chèo. Nhằm đề phòng lúc chiến đấu với kẻ địch bị phá hủy mái chèo, nên loại chiến thuyền thời Minh này thường giấu kín mái chèo dưới nước.

                  Dương Hoài Ngọc lặn xuống lúc lâu vẫn thấy động tĩnh gì, Vương Uy và lão Tôn vừa ra sức chèo vừa rì rầm chuyện. Vương Uy với lão Tôn:

                  - Bác Tôn, ấy lặn xuống xem mái chèo có hoạt động thôi mà, sao lâu thế?

                  Lão Tôn gật đầu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, cảm thấy Dương Hoài Ngọc ở dưới nước có thể xảy ra chuyện, lão bèn buông mái chèo, định chui vào khoang thay đồ lặn. Vương Uy vội lôi lão lại, :

                  - Bác già rồi, lặn xuống dưới tiện, để đấy tôi xuống xem, hồi tôi cũng tập bơi qua sông rồi.

                  Nghe Vương Uy vậy, lão Tôn gật đầu. Vương Uy thay đồ lặn, rồi thầm chuồi xuống nước. Bộ đồ lặn này là bọn lão Tôn đặt mua ở nước , luôn đem theo người, mũ lặn còn có đèn, bên trong lắp cả ắc quy, chỉ cần bấm nút là bật sáng, có thể chiếu sáng trong phạm vi mười mét dưới nước.

                  Nước rất lạnh, Vương Uy vừa lặn xuống rùng cả mình. lặn xuống sâu mấy mét, phát dưới sông ngầm có cá, chỉ mênh mông những nước là nước. lặn xuống dưới đáy chiến thuyền cổ, quả nhiên thấy bên dưới có hàng mái chèo lớn, từ từ khua động theo dòng nước.

                  Những mái chèo này hề có dấu hiệu gì là có người điều khiển, nhưng nếu là tốc độ tự nhiên thể nhanh như thế được. Vương Uy cố bơi theo con thuyền, tâm trí chợt rúng động, trong số những mái chèo hình như có mấy cái chèo rất nhịp nhàng. dụi mắt, lại gần hơn chút nữa, xác nhận mình nhìn nhầm, ở đấy có ít nhất hai mái chèo hoạt động.

                  Ró ràng thuyền có người, Vương Uy kinh ngạc

                  bơi tiếp đoạn nữa, có thể thấy mái chèo của con thuyền gỗ khua động liên tục đầu , nhưng thấy Dương Hoài Ngọc đâu cả. Chuyện này quả là bình thường, ràng Dương Hoài Ngọc cũng lặn xuống ở chỗ này mà. Nhìn tư thế xuống nước của Dương Hoài Ngọc Vương Uy có thể đoán được khả năng bơi lặn của còn siêu hơn nhiều. Nhưng người sống sờ sờ như thế tại sao lại vô duyên vô cớ biến mất được?

                  Vương Uy đng thắc mắc bỗng thấy cục máu từ đáy nước nổi lên, vội rọi đèn về hướng đó, chỉ thấy sâu dưới nước chừng mười mét, có hai bóng đen quấn lấy nhau.

                  Vương Uy vội lặn xuống đó, thấy mình bóng đen phụt ra mấy luồng máu, tránh luồng máu phun về phía mình, nhận ra trong hai bóng đen kia là Dương Hoài Ngọc. Thứ quấn lấy Dương Hoài Ngọc thấy có người đến liền quay mình chuồn thẳng, tốc độ rất nhanh, chỉ loáng lặn mất tăm.

                  Vương Uy vội tóm chặt lấy Dương Hoài Ngọc cứng đờ cả người, ngoi lên mặt nước. Lão Tôn ném sợi dây thừng xuống, kéo hai người lên thuyền.

                  Bàn tay và cánh tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, nhưng vết thương sâu. Vương Uy lấy thuốc trong hộp cứu thương bôi vào rồi băng lại cho , may mà có gì nghiêm trọng.

                  Lão Tôn vội la lên:

                  - Dưới nước có người à?

                  Dương Hoài Ngọc gật rồi lại lắc đầu, :

                  - Cháu vừa xuống nước đèn mũ lặn bị đập vỡ, sau đó liền bị luồng sức mạnh tấn công. Hình như phải người, người ở dưới nước làm thế nào mạnh như thế được? Thứ đó lôi cháu xuống đáy nước, cháu hoảng quá, vội rút dao ra đánh nhau với nó. Vết thương người cháu đều là do lúc đánh nhau bị thứ đó khống chế dao, tự chém vào tay mình.

                  Lão Tôn vuốt râu, trầm ngâm hồi lâu mới :

                  - Bằng vào thân thủ của , đánh nhau với nó bấy nhiêu lâu mà biết có phải là người à?

                  Dương Hoài Ngọc :

                  - Cháu đâu có đụng được vào nó, có điều lúc nó tóm lấy tay cháu, có cảm giác tay nó phải là tay người, mà là cặp móng vuốt.

                  - Móng vuốt? – Vương Uy và lão Tôn cùng sững sờ.

                  Lão Tôn hỏi dồn:

                  - Các người có thấy mái chèo hoạt động ?

                  Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt gật đầu, nghe họ thuật lại những gì gặp ở dưới nước, lão Tôn luôn miệng than quái lạ.

                  Việc chèo thuyền cổ cũng có quy tắc của nó, gọi là mười hai chèo, nghĩa là ít nhất phải có mười hai mái chèo cùng chèo, bằng thể phát huy ưu thế của cấu tạo mười tám mái chèo được. Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc bôn ba biển bấy lâu, gặp nhiều tàu thuyền biển, hiểu khá về các loại tàu thuyền. Họ dọc ngang suốt dải hải phận Đông Nam Á, từng phát thấy thuyền biển cổ đại của Trung Quốc ở rất nhiều làng chài hoặc vùng biển, hàng hải và phòng thủ bờ biển rất phát triển dưới thời Minh, kỹ thuật đóng thuyền biển rất cao siêu, vì vậy lão Tôn và Dương Hoài Ngọc hiểu rất về loại chiến thuyền cổ thời Minh này.

                  chiến thuyền cổ có đông lính áo vàng như thế, nếu chúng muốn tìm gì đó con sông ngầm này, chắc chắn phát huy toàn bộ ưu thế của mười tám mái chèo, chúng thiếu người, sao lại chỉ chèo có hai mái?

                  Ba người cùng bàn bạc, cảm thấy cứ phỏng đoán như thế này cũng chẳng ích gì, Vương Uy xung phong lên chiến thuyền cổ kia xem xét, vết thương tay Dương Hoài Ngọc nghiêm trọng nên cũng đòi với Vương Uy. Lão Tôn khuyên ngăn mấy câu, thấy vẫn khăng khăng, cũng đành đồng ý.

                  Lão Tôn cập con thuyền gỗ vào đuôi chiếc thuyền cổ, Vương Uy nhanh nhẹn tung móc câu vào mạn thuyền, nắm chặt dây móc câu kéo mạnh rồi tung người nhảy sang. Chiến thuyền cổ cao hơn thuyền gỗ đến mấy thước, Vương Uy sử dụng cả tay chân, thoăn thoắt leo lên mạn thuyền rồi trèo lên sàn. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy lên được chiến thuyền cũng tung móc câu leo lên.

                  Hai người đứng boong thuyền, nhìn bóng khoang thuyền đổ dài hiu hắt dưới ánh đèn bão. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lấy làm lạ, nếu thuyền có người lúc họ leo lên chắc chắn bị phát , tại sao có động tĩnh gì?

                  Quái gở vẫn là quái gở! Họ tận mắt trông thấy mái chèo dưới nước bị người điều khiển hẳn hoi, trong khoang thuyền có người là điều còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều rút súng, lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng rồi từ từ đẩy của khoang thuyền, cùng với tiếng cánh cửa kèn kẹt mở ra, cả hai vội nép sang bên theo phản xạ.

                  bất ngờ, chào đón họ phải là đạn, mà là khoảng lặng vô cùng sau tiếng kẹt cửa, gió sông chợt đóng sập cửa khoang thuyền lại khiến Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe tiếng mà thót cả tim.

                  Dương Hoài Ngọc lấy từ trong ba lô ra cái đèn pin rất đẹp, Vương Uy mới thấy lần đầu, nó rất giống với đèn mũ lặn, nhưng cự li chiếu sáng rất xa, mà cũng sáng hơn nhiều.

                  Vương Uy tay cầm súng, dè dặt tiến vào khoang thuyền, Dương Hoài Ngọc soi đèn theo sau. soi khắp khoang thuyền lượt, nhưng thấy có dấu vết con người. Những thứ bày biện trong khoang toàn đồ cổ, từ bàn ghế kỷ trà trạm trổ hoa văn đến đủ loại binh khí đao thương kiếm kích han gỉ đến nhận ra hình dạng gì nữa. Dường như tất cả đồ gỗ chạm trổ trong này đều có màu đen thẫm, sờ vào thấy ẩm, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu.

                  Trong khoang thuyền giăng đầy mạng nhện, những con nhện to bằng bàn tay quơ quơ những cái chân lều nghều xù xì, bò bò lại đó. Dương Hoài Ngọc và Vương Uy đến gần lũ nhện, nhưng chúng vẫn bò lổm ngổm, coi như họ tồn tại.

                  Vương Uy :

                  - Đay là khoang chính, xem ra nhiều năm nay có người vào đây. Nếu những tên áo vàng bước lên thuyền mà bác Tôn thấy là người sống, chắc chắn khoang chính như thế này.

                  Dương Hoài Ngọc gật đầu, chuyện này đúng là rất kỳ lạ, họ lượn qua cả khoang lượt, nhưng thấy bất cứ thứ gì có giá trị.

                  Tiếp đó, họ bước xuống tầng dưới. Tầng dưới lẽ thường là nơi ở và làm việc của tướng lĩnh chiến thuyền, tầng này ngăn thành mấy gian lớn, trang trí rất đẹp. Gian ngoài còn bày biện xa hoa hơn tầng , tuy về cơ bản đồ dùng cũng chẳng khác biệt gì mấy, hai người bèn thẳng vào gian trong cùng.

                  Dương Hoài Ngọc vừa đẩy cửa, liền trông thấy trong đó có người đứng, Vương Uy nhanh mắt nhanh tay, thầm nghĩ người chiến thuyền cổ mấy trăm năm tuổi chắc chắn chẳng phải hạng tử tế gì, bèn nhắm thẳng vào người kia, nổ liền hai phát súng.

                  Dương Hoài Ngọc cũng tắt đèn pin, giơ súng liên thanh quét tràng, phát nào cũng trúng mục tiêu, đạn ghim vào thân thể phầm phập.

                  Vương Uy lách người tiến vào phòng, Dương Hoài Ngọc ở phía sau bật đèn pin soi, luồng sáng chói mắt rọi thẳng vào người kia, chỉ thấy kẻ đó quay lưng về phía hai người, mình vận chiếc áo dài có hoa văn kỳ lân mai hoa, đầu đội mũ cánh chuồn lụa đen.

                  Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, ra đó là xác chết mấy trăm năm, hèn gì trúng nhiều đạn như vậy mà chảy giọt máu.

                  Hai người vòng lên phái trước, thấy khuôn mặt cái xác khô hết nước, chỉ còn lại cái đầu lâu bọc da nhăn nheo, trông ghê sợ.

                  Nhưng lạ lùng là, tại sao người này lại chết đứng? Nếu là người bình thường, dù đột tử do bệnh tim mạch chắc hẳn cũng ngã lăn ra chết, lẽ nào cái xác từ thời nhà Minh này vẫn đứng trong phòng suốt năm trăm năm qua? Chẳng phải quá ly kỳ sao?

                  Hơn nữa, chiến thuyền cổ này dưới dòng sông ngầm năm trăm năm, biết bao nhiêu lần gặp gió mạnh, đụng vào bờ đê hay đá ngầm, hoặc rơi vào vùng nước xiết, khó tránh khỏi chao đảo, tại sao cái xác này vẫn đứng vững?

                  Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều hiểu, cả hai quanh quan sát cái xác vô số lần vẫn chẳng tìm được nguyên nhân, lòng vô cùng thắc mắc.

                  Bỗng Vương Uy :

                  - Ngọc, có thấy tư thế đứng của người này giống hệt bức bích họa trong địa lao phủ bối lặc mà bác Tôn kể ?

                  Dương Hoài Ngọc nhìn phía sau cái xác, nhớ lại bản sao của bức bích họa mà lão Tôn cho xem, toàn thân chợt toát mồ hôi lạnh.

                  Nhìn sau lưng, cái xác này giống hệt vị quốc vương Lạp Cách Nhật trong tranh, dường như cũng đứng quay lưng về phía quần thần, nghe các quần thần báo cáo, khó hiểu. những tư thế, dáng vẻ, thần thái sống động giống hệt quốc vương Lạp Cách Nhật, mà thậm chí cả khí thế oai phong chấn nhiếp quần thần cũng như đúc khuôn.

                  Quốc vương Lạp Cách Nhật có liên quan gì đến chiến thuyền cổ thời Minh trôi dòng sông ngầm này? Tại sao vị quan triều Minh này lúc chết lại giống quốc vương Lạp Cách Nhật đến vậy?

                  Cánh tay cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc run run, Vương Uy cũng nhận thấy vẻ ổn của ta. Đáp án , vị quan triều Minh chết đứng này nhất định có mối quan hệ thần bí nào đó với vương triều Lạp Cách Nhật trong truyền thuyết.

                  Vương Uy dời mắt khỏi cái xác, thấy gần đó có chiếc bàn dài, bên đầy đủ bút giấy, nghiên mực. xấp giấy ố vàng chặn dưới nghiên mực, giấy viết đầy những chữ. bất giác “ồ” lên tiếng, lại gần bên bàn xem xét. Nghe Vương Uy buột miệng ồ lên, Dương Hoài Ngọc cũng sực tỉnh.

                  Vương Uy cầm tệp giấy ố vàng lên, chỉ thấy chữ đó viết theo thể chữ khải, ghi lại toàn bộ những điều sâu xa, nét chữ đẹp mà lả lướt, rắn rỏi mà nắn nót, có thể coi như hàng thượng phẩm trong thư pháp. Thuở Vương Uy học thầy giáo riêng ở nhà, ông nội của từng mời ông thầy nổi tiếng nhất kinh thành về dạy cho nên về thư pháp, Vương Uy khá có bài bản, cũng xem như có trình độ.

                  Đọc xong mấy chục trang giấy ấy, Vương Uy sợ toát mồ hôi, lòng cũng trầm hẳn xuống, quả nhiên nơi đây là thung lũng chết, hơn nữa còn là đất dữ trong phong thủy nghìn năm hiếm gặp.

                  Đại ý nội dung giấy vị này là quan lớn nhất phẩm của triều Minh dưới thời Vạn Lịch, họ Trương, tên Tử Thông, tên chữ là Dữ Chi, về dòng dõi của ông ta, có thể truy nguyên về tận hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương, cụ tổ ông ta từng theo Chu Nguyên Chương dánh dẹp, giành được đến nửa giang sơn Đại Minh, về sau mới cởi giáp, từ bỏ binh quyền làm quan văn. Từ đời cụ tổ trở , họ Trương đời đời đều có người làm quan lớn trong triều đình, trung lương chính trực, bản thân ông ta cũng đậu võ trạng nguyên vào năm Vạn Lịch thứ hai mươi mốt, có công dẹp loạn, được phong làm Trấn Đông đại tướng quân, hàm nhất phẩm.

                  Vạn Lịch năm thứ ba mươi mốt, tức là mười năm sau, Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân bỗng lâm bệnh lạ, các vị ngự y trong triều dùng đủ mọi cách vẫn chữa khỏi. còn cách nào khác, trong cung đành phải hạ thánh chỉ, chiêu mộ thần y trong thiên hạ để chữa khỏi bệnh cho hoàng đế. Lúc ấy, vị lạt ma người Tạng vào cung, vừa thấy bệnh tình của hoàng đế, ông liền bảo chữa khỏi, rồi kê mấy phương thuốc lạ lùng, nào ngờ lại trị lành được cho Vạn Lịch Thần Tông hoàng đế.

                  Hoàng đế khỏi bệnh, phong thưởng cho lạt ma biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, nhưng lạt ma nhất mực từ chối. Hoàng đế lấy làm lạ, rằng vị lạt ma là ân nhân cứu mạng của mình, bách tính thường dân còn biết đạo lý mang ơn phải báo đáp, thân là cửu ngũ chí tôn, càng phải làm gương cho thiên hạ.

                  Vị lạt ma từ chối nổi, đành cầu nhà vua giúp ông ta làm việc, còn ngọc ngà châu báu, quan to lộc lớn ông ta hứng thú. Vị lạt ma lấy từ trong bọc ra tấm bản đồ dơ dáy, đưa cho hoàng đế xem, rồi rỉ tai mấy câu, Vạn Lịch hoàng đế lập tức biến sắc mặt, truyền lệnh bãi triều.

                  Trương Tử Thông biết vị lạt ma kia gì với hoàng đế, nhưng sau buổi chầu đó, Vạn Lịch hoàng đế liền mấy hôm thượng triều, chỉ ở trong cung mật đàm với vị lạt ma.

                  Bốn ngày sau, Vạn Lịch hoàng đế ra mật chỉ, phong cho Trương Tử Thông làm khâm sai đại thần, phái nghìn ngự lâm quân cùng bốn nghìn quan quân Tứ Xuyên tiến vào Tây Tạng, dựng chùa ở phía Tây Nam, ban danh Phong Đô.

                  Trương Tử Thông đem năm nghìn quân vào Tây Tạng, mất tháng để xây chùa Phong Đô, sau đó dựa theo tấm bản đồ thần bí mà Vạn Lịch hoàng đế ban cho, tiến sâu vào vùng núi tuyết, thuận lợi tìm được hang động khổng lồ dưới lòng đất này.

                  Trong triều, Trương Tử Thông được phong làm nhất phẩm đại thần, Trấn Đông đại tướng quân, nhưng thực tế ông ta còn có thân phận đặc biệt khác, đây là bí mật mà trong triều ngoài nội ai biết, chỉ trừ Vạn Lịch hoàng đế. Thân phận đặc biệt đó là Ngự Dụng quốc sư của Vạn Lịch hoàng đế, chuyên tìm long mạch, chọn huyệt vị, phân tích địa thế long mạch khắp thiên hạ.

                  Trương Tử Thông tiến vào vùng núi tuyết, bị địa thế long mạch ở đây trấn trụ, chỉ thấy long mạch phía Nam bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế rất hiểm, đến núi tuyết Đường Cổ Lạp rơi vào vùng đất dữ kìm hãm long mạch nên bị vùi lấp dưới lòng đất. Mà hang động ngầm dưới đất này theo truyền thuyết lại đứng đầu trong số mười vạn thế đất hung hiểm, là Bối long khư, dương khí vào được, khí ra được. Kỳ dị hơn nữa là, tấm bản đồ vẽ đến đây bỏ trống quãng giữa, các phần sau có liên hệ gì cả.

                  Muốn hoàn thành mật lệnh của Vạn Lịch hoàng đế phải nghĩ cách phá được Bối long khư. Trương Tử Thông tụt xuống hang động ngầm, phát ra dưới này là biển nước mênh mông, tuyết từ núi chảy xuống ngập cả hang, nước sâu quá sức tưởng tượng. Quan trọng hơn, cái hang này vốn là đất chí , nước ngập cả đôi mắt rồng của Bối long khư, thấy mắt rồng nghĩa là có cách nào phá nổi tuyệt địa phong thủy Bối long khư.

                  Trương Tử Thông cho năm nghìn quân đóng ở khe núi lớn rồi mình xuống thám hiểm hang sâu. Hơn tháng sau, qua nhiều lần cân nhắc, ông ta quyết định làm việc kinh thiên động địa là ngăn nước chặn dòng, quây biển nước dưới lòng đất này lại, đắp con đê lớn,tạo thành bờ ngăn nước, để phần khí chìm xuống đáy sâu, phần ở trong khí, hình thành địa thế dương phân cách. Bối long khư thuộc , khi nằm giữa hồ nước biến thành vô hình, chỉ có rót dương khí vào mới có thể làm cho khư hình.

                  Trương Tử Thông chỉ huy năm nghìn người chặn đứng mấy đường thủy đạo chủ yếu chảy vào hang sâu, hao tốn năm năm xây lên con đê lớn dài mười mấy cây số trong hang. Trong năm năm đó, tại hang này xảy ra nhiều việc khác thường, năm nghìn quân sĩ cũng hi sinh ít, tổn thất rất nặng nề.

                  Đắp xong con đê, để tiện qun sát toàn cảnh con sông ngầm, Trương Tử Thông lại ra lệnh đóng chiến thuyền cổ mười tám mái chèo này. Trong quân chẳng thiếu thợ khéo, họ nhanh chóng hoàn thành chiến thuyền, Trương Tử Thông chọn ngày hoàng đạo, thân chinh dẫn năm chục tướng sĩ dong thuyền thám hiểm sông ngầm.

                  Trương Tử Thông từ luyện được đôi mắt có thể nhìn thấu dương, trong thấy đôi mắt rồng của Bối long khư. Ông ta chỉ huy chiến thuyền tiến vào dòng sông ngầm, khỏi kinh ngạc trước rộng lớn của thủy vực, thậm chí có thể coi nơi này là đại dương dưới lòng đất, hang động do con đê của ông ta vây lại tạo thành, chỉ bằng góc so với thủy vực rộng lớn này thôi.

                  Trong khi tuần tra thủy vực, Trương Tử Thông phát thấy đôi mắt rồng của Bối long khư mặt nước, ông ta rất kích động, cho rằng biện pháp phân cách thủy vực dương của mình có hiệu quả, bèn thân chinh chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng kia.

                  Bấy giờ Trương Tử Thông hoàn toàn rơi vào trạng thái điên cuồng, ông ta chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng của Bối long khư hơn tháng mà chẳng thu được kết quả gì. Ngay sau đó lại xảy ra việc nghiêm trọng hơn, tướng sĩ thuyền cứ lần lượt chết , hết người này tới người khác, khiến ông ta phải ra lệnh cho thuộc hạ điều tra ngọn ngành.

                  Nhưng bất kể Trương Tử Thông dùng cách nào nữa, người chiến thuyền vẫn cứ chết dần chết mòn, cách gì ngăn nổi, quân sĩ thuyền chết , lại phải lấy thêm người bờ bổ sung. Cho đến hôm, năm nghìn quân của Trương Tử Thông đưa đến chỉ còn lại năm mươi người cuối cùng thuyền, ông ta mới nhận ra thời gian của mình còn nhiều, liền bắt tay ghi chép lại những gì trải qua dưới hang ngầm này.

                  Ông ta giam mình trong phòng nghị , hằng ngày chỉ nghe phó tướng đến báo cáo có thêm bao nhiêu người chết, bỗng hôm, ông ta phát ra bí mật trong chuyện này. ra trong số bọn họ có thứ náu, ông ta trông thấy, cũng biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định thứ đó trà trộn giữa bọn họ, bất cứ lúc nào cũng có thể thầm quan sát tất cả hành động của bọn họ.

                  Ông ta có thể khẳng định rằng năm nghìn tướng sĩ do mình dẫn đến đây đều chết dưới tay thứ đó, nó giống như con sói đói mai phục giữa đàn cừu, lần lượt ăn thịt hết cừu trong đàn vậy.

                  Sau khi biết thứ đó tồn tại, Trương Tử Thông viết càng nhanh hơn, trước khi bị thứ đó giết hại, nhất định ông phải viết bằng hết mọi chuyện để lại cho người đời sau.

                  Cho đến hôm, viên phó tướng đến trước cửa phòng ông ta, đứng lặng ở cửa hồi lâu, gì. Trương Tử Thông liền hỏi:

                  - Có chuyện gì? Hôm nay chết mấy người?

                  Viên phó tướng câu ròi ngay:

                  - Chỉ còn lại tôi và tướng quân.

                  Nghe viên phó tướng , Trương Tử Thông đáp lại tiếng “Biết rồi”, đoạn tiếp tục viết.

                  Tiếng viên phó tướng xa dần về cuối hành lang, bỗng Trương Tử Thông nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, tiếng kêu của viên phó tướng theo ông suốt mười năm trời. Đúng vậy, viên phó tướng cũng chết.

                  Lúc ấy, ngoài cửa chợt vang lên tiếng chân lạ, mỗi lúc tiến đến gần. Trương Tử Thông biết đến lượt mình, bèn từ từ đứng dậy, nghênh đón con quỷ giết người kia.

                  Phá giải được bí mật của Bối long khư, Trương Tử Thông có thể lìa bỏ thế giới này, đối diện với con quỷ giết chết năm nghìn tướng sĩ của ông mà chẳng còn gì nuối tiếc nữa.

                  Những trang viết đến đây dừng lại, mấy trang giấy sau đều để trắng khiến Vương Uy khỏi rúng động.

                  Ác quỷ giết hết năm nghìn tướng sĩ kia là thứ gì?

                  chợt nghĩ chẳng hiểu cái chết thảm thương của Ngoẹo và Ngọng trong quan tài đá treo những trụ đá dưới hang sâu kia có liên quan gì đến con quỷ này hay ?

                  Dương Hoài Ngọc cũng cùng Vương Uy đọc xong tất cả các ghi chép, chỉ vào dòng cuối cùng :

                  - Ông ta viết xong mấy dòng chữ này liền đứng dậy ngay, nhìn dáng vẻ ông ta giờ xem, trông y như vừa rời ghế vậy.

                  Vương Uy cũng để ý thấy điều này, nghĩ lại những ghi chép chân thực của Trương Tử Thông, da đầu bỗng tê , lẽ nào đời này tồn tại thứ gì đó mà mắt người thể trông thấy? Nó ở ngay dưới hang sâu này, giết chết năm nghìn tướng sĩ nhà Minh, mà năm nghìn tướng sĩ thét ra lửa chiến trường ấy chỉ có thể trơ mắt chứng kiến bản thân bị giết như gia súc bị đưa vào lò mổ mà có khả năng phản kháng, chết cho đến tận người cuối cùng, Đại tướng quân Trương Tử Thông.

                  Phải chăng thứ đó là ma quỷ?

                  Lòng Vương Uy tê dại hẳn , cảm thấy chuyện này quá sức kỳ lạ. Dương Hoài Ngọc chỉ vào xác Trương Tử Thông, :

                  - Nhìn dáng vẻ ông ta này, vẻ mặt ông ta trước khi chết rất bình thản, như phải bị giết mà tự nhiên vào cõi chết vậy.

                  Vương Uy khẽ lẩm bẩm:

                  - Thứ có thể lấy mạng người như vậy, rột cuộc là gì?

                  Dương Hoài ngọc :

                  - Chúng ta biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định, đó phải là người.

                  Đúng lúc đó, ở khoang dưới cùng vang lên tiếng kẹt cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt xông ra, ôm súng chạy xuống tầng dưới.

                  Khoang thuyền phía dưới có hành lang dài, hai bên hành lang là dãy phòng, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc thận trọng dọc hành lang, tim như muốn thót lên đến cổ họng. Cả hai đều băn khoăn chẳng đó có phải là tiếng của con quái vật giết chết năm nghìn quân Minh hay ?

                  Trong khoang thuyền tĩnh lặng như chết, Dương Hoài Ngọc tay cầm súng, tay chiếu đèn pin vào từng góc hành lang. Mắt Vương Uy sáng trưng như điện, có thể khẳng định đây là giây phút căng thẳng nhất trong đời mình.

                  Trước đây chiến trường, đối diện với kẻ địch dũng mãnh như hổ sói cũng chưa từng sợ hãi, nhưng lần này khác, kẻ địch của họ phải là người, thậm chí rất có thể cũng phải là thú dữ, mà là thứ trông thấy được, có thể khiến người ta phải giương mắt chứng kiến bản thân bị nó giết hại.

                  Tiếng chân hai người vang vọng dọc hành lang, tiếng kẹt cửa kia chỉ vang lên lần rồi tắt hẳn, nhưng Vương Uy và Dương Hoài ngọc rất nhạy cảm, đều cảm thấy vật kia như ở ngay bên cạnh, lén lút theo dõi họ ngay trong tầm mắt họ. Dương Hoài Ngọc cố nén sợ bảo Vương Uy:

                  - có để ý thấy , ở đây ngay cả bóng dáng mấy tên lính mặc quân phục vàng cũng có nữa? Nhưng bác Tôn lại bảo mình nhìn nhầm, chắc chắn là chiếc thuyền này.

                  Vương Uy :

                  -Tôi nghĩ ra từ lâu rồi, bọn lính ấy rất có thể cũng như cha và đám lính nhà Thanh mà tôi thấy trong thung lũng tuyết vậy, họ phải là người sống, con thuyền này là thuyền ma.

                  Mấy câu này khiến Dương Hoài Ngọc lạnh toát cả sống lưng, cả người run rẩy, thực chứng minh, chiến thuyền cổ thời Minh trôi con sông ngầm này hơn năm trăm năm nay đúng là con thuyền ma.

                  Dương Hoài Ngọc lạnh người, :

                  - Chúng ta mau tiếp thôi.

                  Vương Uy xua tay, :

                  - Nếu hôm nay kiểm tra con thuyền này cả đời chúng ta thể yên tâm nổi chứ đừng gì tìm ra bí mật của vương triều Lạp Cách Nhật.

                  đến trước cánh cửa, thình lình đá bật cửa ra, lao vào trong, Dương Hoài Ngọc cũng xông vào theo. Khoang thuyền này là nơi đặt mười tám mái chèo, mười tám mái chèo chia ra hai bên, mỗi bên chín mái, có mấy chiếc hoạt động.

                  Vương Uy chỉ vào hai mái chèo. :

                  - xem, bụi bẩn hai mái chèo này đều bị lau sạch, thuyền chắc chắn có người sống.

                  Dương Hoài ngọc soi đèn quan sát kỹ hai mái chèo, gật đầu:

                  - đó còn có dấu tay, khi nãy thanh kia vừa vang lên chúng ta lao xuống ngay, chắc chúng ở trong phòng khác.

                  Vương Uy gật đầu, hai người bèn trở ra ngoài, lần lượt đạp tung từng cánh của dọc hành lang, xông vào kiểm tra, nhưng thấy bóng người nào cả.

                  Ngay lúc ấy, phía hành lang đột nhiên lại vang lên tiếng ken két, có điều thanh này rất chói tai, phải tiếng cửa gỗ.

                  Vương Uy và Dương Hoài ngọc kinh hoàng thốt lên:

                  - Hỏng rồi!

                  Hai người chạy nhanh về đầu hành lang, nhưng hai cánh cửa sắt sừng sững nặng nề đóng lại, vào khoảnh khắc của sắt khép lại Vương Uy còn kịp nổ hai phát súng qua khe cửa, nhưng có kết quả gì. Cửa sắt bị đóng chặt, tiếp đó nghe có tiếng khóa cửa, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chỉ biết trơ mắt nhìn mình bị giam chiếc thuyền ma này, lòng trầm hẳn xuống.

                  Trong lòng hai người có vô số nghi vấn, bên ngoài cánh cửa kia rốt cuộc là người hay ma? Nếu là người đó là ai?

                  Lúc hai người bước ra hành lang, họ đâu có ngờ hai cánh cửa sắt này chính là tử huyệt của khoang thuyền dưới cùng. Cánh cửa này đúc bằng sắt, súng bắn thủng, khi bị khóa lại, nếu có người bên ngoài mở khóa thể nào mở ra được. Dương Hoài Ngọc cách thiết kế này rất phổ biến những chiến thuyền cổ thời Minh, tầng dưới cùng là trung tâm của các loại cơ quan thuyền, trong lúc tác chiến, phải đảm bảo an toàn cho trung tâm của các loại cơ quan thuyền cùng tất cả phu chèo thuyền. Hai cánh cửa sắt này có cả khóa trong khóa ngoài, chỉ cần khóa chặt phía là có cách nào mở ra nổi.

                  Vương Uy quan sát kỹ cánh cửa sắt mấy lần, ngờ ngay cả bản lề cũng đúc bằng sắt, đúng là thể thoát khỏi hai cánh cửa này được.

                  Cả hai mải chăm chú quan sát cánh cửa sắt, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:

                  - Có người!

                  Vương Uy nhìn về phía Dương Hoài Ngọc, thấy chiếu đèn pin vào góc hành lang. Nhưng dưới ánh đèn pin loang loáng, phía cuối hành lang u chỉ thấy những cánh cửa gỗ đen kịt, cả hành lang bốc lên mùi ẩm mốc ngai ngái. Hai người cùng chĩa súng vào góc hành lang đó rồi từ từ vào bên trong, mùi ẩm mốc khiến mũi họ rất khó chịu, ngay cả hít thở cũng khó khăn. Bầu khí tĩnh mịch vô bờ khiến tiếng chân của họ càng thêm vang vọng, như thể cứ bước chân bước chân, tim lại nảy lên nhịp.

                  Bầu khí này khiến người ta tuyệt vọng, họ kiểm tra khắp cả khoang thuyền, ràng chẳng có bất cứ người nào cả. Ngay sau đó, họ lại nghĩ đến thung lũng tuyết, hang động ngầm nằm sâu dưới lòng đất hàng mấy trăm mét, chiến thuyền cổ thời Minh phiêu bạt dòng sông ngầm mênh mông, và cả thứ biết là người hay ma cứ lẵng nhẵng bám theo họ như u hồn vậy, càng nghĩ họ càng thêm sợ.

                  Vương Uy ghé tai Dương Hoài ngọc hỏi :

                  - Vừa rồi thấy gì?

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Dương Hoài Ngọc gần như run bắn lên, đáp:

                  - bóng người, đúng là bóng người, soạt cái ta chạy vào góc kia, tôi nhìn nhầm đâu.

                  Vương Uy sững sờ, chuyện này nhất định thể xảy ra được, trong khoang thuyền đều lát gỗ, chạy hành lang, sao có thể gây ra tiếng động?

                  Nhưng vẻ kinh hoàng tột độ trong ánh mắt Dương Hoài Ngọc dường như phải là giả vờ. Hai người đến gian phòng khuất nẻo nhất hành lang dừng lại. Cửa phòng này khép hờ, chỉ để hở khe , song cửa còn dán giấy, vì lâu ngày nên lớp giấy ố vàng, bên còn dính lớp dầu mỡ. Vương Uy nhìn Dương Hoài Ngọc, gật dầu, khẽ đẩy cửa ra, theo tiếng “kẹt” cửa, bóng tối sau cánh cửa bị ánh đèn pin xua tan, lộ ra đống đồ đạc cao ngất, bên còn trùm tấm vải gai, trông lù lù như đống đất .

                  Hai người kiểm tra mọi ngóc ngách thấy ai khác cả, Dương Hoài Ngọc bèn lật tấm vải trùm đồ ra, vừa nhìn thấy vật bên dưới tấm vải, giật nảy mình, Vương Uy cũng được phen hoảng vía.

                  Đó là tượng đá lớn đứng bệ gỗ, trông như pho tượng Phật. Nhưng bức tượng đá này lại có thêm đôi cánh, thân cao trượng tám, chiếc cổ dài là cái đầu chim, rất giống bức tượng người chim mà Vương Uy thấy trong rừng ở Xương Đô.

                  sao ngờ được bệ đá lưng chừng núi kia lại có dính dáng tới hang ngầm dưới dãy núi Đường Cổ Lạp, việc này mỗi lúc phức tạp rồi.

                  Chắc đây là lần đầu Dương Hoài ngọc trông thấy bức tượng này nên gương mặt có vẻ ngỡ ngàng. Vương Uy bèn kể lại cho nghe những gì mình thấy trong khu rừng rậm ở Xương Đô, Dương Hoài ngọc cũng kinh sợ thôi.

                  Rồi lại nghĩ đến hành tung bất định của đám lính đào trộm mộ dưới trướng Mã Văn Ninh, tất cả đều bắt nguồn từ tấm bản đồ của vị lạt ma già, nhưng rốt cuộc tấm bản đồ đó ra sao chẳng thể điều tra được nữa. Có điều Mã Văn Ninh dựa vào tấm bản đồ đó, trước là thấy cây đá trong rừng Xương Đô, lại đến được hang ngầm dưới núi Đường Cổ Lạp, tất cả đều là cãi vào đâu được. Bức tượng người chim thần bí có liên quan gì đến những thứ mà Mã Văn Ninh muốn tìm?

                  Tấm bản đồ mà Vạn Lịch hoàng đế nhận được năm xưa giống hệt tấm mà Mã Văn Ninh tìm được, khác chăng là Vạn Lịch hoàng đế cử Trương Tử Thông tìm hang ngầm, còn Mã Văn Ninh lại đích thân dẫn đội đào trộm mộ đến, kết quả là những kẻ đến đây ai thoát được, tất cả đều chết cách ly kỳ.

                  Điều làm cho Vương Uy kinh ngạc nhất chính là chiến thuyền của Trương Tử Thông tại sao lại có bức tượng này? Trương Tử thông ghi chép tỉ mỉ lại mọi chuyện từ sau khi ông ta nhận được mật chỉ của nhà vua, chỉ hề nhắc tới xuất xứ của bức tượng người chim, là quái lạ.

                  Bệ gỗ này được làm rất khớp với chân pho tượng, xem ra được thiết kế công phu, tức là trước khi đóng con thuyền chiến này có bức tượng người chim rồi, nhưng bức tượng thần bí này từ đâu ra?

                  Vương Uy đứng trước bức tượng, lòng hết sức khó chịu, cảm giác ngột ngạt vô cùng, giống như bị thứ gì đó lèn chặt vậy. Đôi mắt màu nâu vàng của pho tượng người chim cúi nhìn xuống, Vương Uy vừa ngước lên liền chạm ngay phải luồng mắt ấy, đôi mắt người chim rất sắc sảo như thể thoáng nhìn thấu tâm can người khác.

                  Vương Uy nhìn mấy lần rồi chẳng dám nhìn thêm nữa, cặp mắt ấy u tăm tối như có thể hút cả hồn vía con người vậy.

                  Đột nhiên Dương Hoài Ngọc lên tiếng:

                  - Uy, có cảm thấy toàn bộ việc có rất nhiều nghi vấn ?

                  Vương Uy ngước nhìn Dương Hoài Ngọc, chờ tiếp.

                  - còn nhớ trong ghi chép của mình, Trương Tử Thông có viết câu gì ? Ông ta bí mật của Bối long khư bị phá giải, ông ấy có thể yên tâm mà chết, nên tôi đoán chừng năm nghìn quân của ông ấy lần lượt bị giết là bởi bí mật của Bối long khư.

                  Nghe Dương Hoài Ngọc vậy, Vương Uy cũng cảm thấy trong chuyện này có nhiều nghi vấn, lúc ấy khi đọc đến câu đó, lòng cũng thấy rất lạ, nhưng những việc về sau xảy ra quá đột ngột nên nghĩ tiếp nữa. Bây giờ phân tích manh mối này, thấy đúng là có vấn đề.

                  Điểm quan trọng nhất là, bức tượng người chim thần bí này đến đây bằng cách nào? Trương Tử Thông mất năm năm đắp con đê dưới hang ngầm là để phá Bối long khư, phá giải được bí mật của Bối long khư rồi, tại sao ông ta rời hang ngầm này mà quay về tiếp tục sứ mệnh mà Vạn Lịch hoàng đế giao phó?

                  Rốt cuộc bên trong xảy ra chuyện gì?

                  Dương Hoài ngọc :

                  - Có mấy việc quan trọng nhất Trương Tử Thông ghi lại, lẽ nào vấn đề nằm ở đấy?

                  Vương Uy cũng nhận thấy điểm này, năm trăm năm sau khi Trương Tử Thông chết, theo họ biết được đám lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh đến đây. Đội đào trộm mộ của Mã Văn Ninh có hơn nghìn người, chắc hẳn phát ra chiến thuyền cổ này chẳng khó khăn gì.

                  Lại cả căn nhà kho dưới chân con đê nữa, có thể khẳng định nhà kho ấy do Mã Văn Ninh dựng nên, bọn chúng xây căn nhà kho này bên bến thuyền là để đóng thuyền. Diện tích mặt đất của cái hang ngầm này rất rộng, vậy mà bọn chúng tiếc công sức đóng thuyền như Trương Tử Thông, lẽ nào mục đích cũng là để phá giải Bối long khư, hoặc có thể , mấu chốt phá giải Bối long khư là ở dòng sông ngầm này ư?

                  Càng nghĩ Vương Uy càng thấy khả năng này rất có thể xảy ra, suy nghĩ của mình với Dương Hoài ngọc, cũng tán đồng.

                  Càng hai người càng thấy việc đúng như thế, Dương Hoài Ngọc cũng đôi điều suy nghĩ của mình, đột nhiên Vương Uy hạ giọng :

                  - xác định vừa rồi cái bóng thấy là người chứ?

                  Dương Hoài Ngọc nhẩn ra giây lát, gật đầu:

                  - Tôi thấy cái bóng kia loáng cái bỏ chạy, căn bản trông được, nhưng tôi cảm giác đó đúng là con người.

                  Vương Uy gật đầu, :

                  - có để ý , trừ gian phòng này, các gian phòng khác dọc lối đều khóa trái từ bên trong, lúc vào tôi đẩy thử từng cánh cửa rồi.

                  Câu này làm cho Dương Hoài Ngọc chấn động đến nổ đom đóm mắt, cứ ngỡ như mình nghe nhầm, nếu mọi căn phòng đều khóa trái cái bóng kia chỉ có thể vào phòng này. Nhưng khi vào, kiểm tra kỹ mọi ngóc ngách, hề thấy sinh vật sống nào, vậy cái bóng kia chạy đâu?

                  Vương Uy cũng nghĩ như vậy, cầm lấy đèn pin từ tay Dương Hoài Ngọc, soi soi dưới khắp lượt, hề thấy có dấu tích người sống nấp.

                  Dương Hoài Ngọc lại theo Vương Uy kiểm tra khắp xung quanh, cơ hồ bỏ sót ngóc ngách nào, đột nhiên Vương Uy để ý thấy lúc họ vào mở cửa phòng ra, nhưng chẳng từ bao giờ, cánh cửa kia lại đóng im ỉm.

                  Vương uy toát mồ hôi lạnh, nhớ ràng là họ mở cửa, cũng chưa hề đóng lại, vậy thứ gì lặng lẽ đóng cửa ngay trước mắt họ? Lẽ nào trong tối có thứ gì đó nấp, cái bóng kia vốn phải người ư?

                  Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy cứ trợn trừng mắt nhìn cánh cửa đen trạm trổ hoa văn, bèn hỏi:

                  - sao thế?

                  Vương Uy muốn xác nhận mình nhớ nhầm bèn hỏi Dương Hoài Ngọc.

                  - Từ lúc chúng ta vào, cái cửa này vẫn luôn mở, đúng ?

                  Nào ngờ Dương Hoài Ngọc lắc đầu :

                  - Cửa vẫn đóng mà. vào theo tôi, sau đấy khép cửa lại, nhơ à?

                  Dương Hoài Ngọc rất bình tĩnh, nhưng Vương Uy nghe mà toát mồ hôi lạnh. nhớ lại quá trình lúc tiến vào, khẳng định mình nhớ lầm, căn bản hề khép cửa, mà Dương Hoài Ngọc vào trước lại càng thể khép cửa.

                  Sao cánh cửa này lại bị khép vào chứ? Càng kinh ngạc hơn nữa là, tại sao Dương Hoài Ngọc lại khép cửa? Sao có thể như thế chứ?

                  Vương Uy nhìn vào mắt Dương Hoài Ngọc, mắt rất to, sống mũi cao, gương mặt kết hợp cả nét đẹp nhu mì và cương nghị. Nhưng trong mắt Vương Uy lại thấy vẻ quái dị, mơ màng và đờ đẫn, tay nàng ghì chặt khẩu tiểu liên.

                  Vương Uy nhắc lại:

                  - Cửa là do tôi đóng lại ư?

                  Dương Hoài Ngọc cảnh giác nhìn Vương Uy, gật đầu:

                  - Đúng vậy, vào rồi khép cửa mà.

                  Vương Uy lại lại trong phòng, tự mình quan sát kỹ từng ngóc ngách, từng đồ vật. Bức tượng người chim bệ gỗ cạnh đó vẫn giữ nguyên tư thế kỳ dị, đứng sừng sững trước mặt Vương Uy. Vương Uy cứ cảm thấy ngột ngạt, tức thở, dám khẳng định trong căn phòng này có thứ gì đó, tuy nhìn thấy nó, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy nó tồn tại, nó nấp trong bóng tối, theo dõi hai người.

                  Vương Uy chợt lạnh toát sống lưng, luôn cảm thấy thứ đó bám theo , sẵn sàng xông ra bất cứ lúc nào. Trong phòng thoang thoảng mùi hôi thối ẩm, khiến người ta lợm cả giọng. để ý thấy căn phòng này tăm tối khác thường, hình như phải là nơi dành cho người sống.

                  Suy xét kỹ mọi tiền nhân hậu quả trong chuyện này, nghĩ thế nào cũng cảm thấy mình nhầm, nhưng ràng cửa đóng lại, mà Dương Hoài Ngọc còn nhấn mạnh là do chính khép, chẳng lẽ trí nhớ của có vấn đề?

                  Vương Uy lập tức phủ nhận giả thiết đó, chinh chiến mười mấy năm trời, nơi chiến trường rừng tên mưa đạn bình tĩnh là tiền đề bắt buộc để chiến thắng mọi thứ, tin rằng từ lúc xuống hang ngầm đến giờ mình vẫn luôn luôn bình tĩnh.

                  giữ được bình tĩnh Vương Uy cần phải nghi ngờ trí nhớ của mình nữa, vậy kẻ đáng nghi ngờ nhất lúc này phải là Dương Hoài Ngọc. Giả dụ ta dối , nhưng trước sau vẫn theo sát bên cạnh , cũng có khả năng khép cửa, cánh cửa này thể do lặng lẽ khép lại được.

                  Vương Uy càng nghĩ càng sợ. Cứ theo những dữ kiện này mà suy đoán người đáng ngờ nhất trong căn phòng này chính là Dương Hoài Ngọc, bởi cái bóng kia chạy vào góc hành lang, vậy mà Vương Uy tinh nhanh như thế lại chẳng hề phát ra là kỳ lạ.

                  Sơ bộ việc dần, chắc chắn Dương Hoài Ngọc có vấn đề, ta những có vấn đề, mà quan trọng hơn nữa là, rất có thể ta phải là người.

                  Toàn thân Vương Uy tê dại, sởn cả da gà, thể ngờ chiến hữu theo bên mình lâu như thế lại phải là người sống. Hoặc có thể , thoạt đầu Dương Hoài Ngọc là người, nhưng từ sau khi xuống hang ngầm, biết từ lúc nào, còn là Dương Hoài Ngọc khi trước nữa.

                  Vương Uy giữ chắc cò súng, quay ngoắt lại, chĩa vào vị trí Dương Hoài Ngọc đứng, đột nhiên phát ta biến mất. Mùi hôi thối trong căn phòng càng nồng nặc hơn, Vương Uy nghĩ mình hoa mắt, nhưng trong căn phòng rộng lớn này trừ ra còn có ai đâu?

                  Dương Hoài Ngọc đâu? ta phải là người, vậy là gì?

                  Mồ hôi lạnh hết lần này đến lần khác túa ra làm ướt đẫm cả người Vương Uy, chuyện này vượt quá sức chịu đựng của . Việc gặp Thomas và đám lính nhà Thanh trong thung lũng tuyết xảy ra vào lúc nửa mơ nửa tỉnh, khó biết được rốt cuộc là hay mơ, nhưng chuyện này lại diễn ra ngay trước mắt : người sống sờ sờ, thoát cái thấy đâu nữa.

                  nhìn kỹ chỗ Dương Hoài Ngọc đứng, bỏ qua cả lớp bụi mặt đất, nhưng tất cả vẫn thế, chẳng có cạm bẫy nào hết. Dương Hoài Ngọc phải là người sống nên khi Vương Uy phát ra thân phận ta, hẳn ta cũng nhận thấy, liền đột ngột biến mất.

                  lúc biết phải làm thế nào, bỗng nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, tiếng chân giòn đanh răng rắc, vang vang sàn thuyền bằng gỗ.

                  Vương Uy như điên cuồng xông ra, đứng ở cuối hành lang, rọi đèn pin đến tận cùng đầu bên kia, nhưng ngoài dãy cửa đen sì chạm trổ hoa văn ra, đâu có bóng ai khác?

                  Chẳng những hành lang có ai, mà cả tiếng bước chân cũng tắt lịm, chỉ còn lại bóng tối mênh mông và dãy cửa ra vào, cửa sổ đen sì.

                  Vương Uy đứng ở cuối hành lang, chợt thấy choáng váng đầu óc, tựa hồ cả đất trời đều quay cuồng vậy, có điều đó phải là ảo giác mà là , con thuyền quả thực chao đảo dữ dội.

                  Vương Uy phải tựa vào cánh cửa phòng mới khỏi ngã. Cũng như tất cả các cánh cửa dọc hành lang, cánh cửa này bị khóa trong, cả người ngừng va đập vào cửa nhưng nó chẳng hề bật ra.

                  Vương Uy thầm lấy làm kinh ngạc, thường chốt cửa của loại cửa chạm trổ hoa văn này đều chắc, hễ đụng mạnh là gãy ngay. Hơn nữa chiến thuyền cổ này nổi trôi dòng sông ngầm năm trăm năm nay, những đồ dùng bằng gỗ thuyền hẳn đều mục nát vì ẩm thấp cả rồi, bị va chạm mạnh thế này, làm sao mà chịu nổi, chẳng nhẽ phía sau cửa có gì đó?

                  rút súng nhắm chốt cửa bắn liền hai phát, chốt cửa tung ra, nhưng lại nghe tiếng kim loại va chạm. thoáng sững sờ, lẽ nào phía sau cánh cửa gỗ còn ốp lớp sắt nữa ư?

                  Vương Uy đẩy cửa ra, liền nghe thấy tiếng bản lề sắt nghiến ken két. Vì lâu ngày bản lề bị hen gỉ, Vương Uy phải đẩy mạnh cửa mới hé ra khe .

                  Ngay lúc ấy, bên trong cánh cửa chợt vang lên tiếng bước chân nặng nề. Tiếng chân vang lên trong bóng tối nghe như phải đến từ nhân gian, cách tầng bóng tối sau cánh cửa, càng khiến người ta rợn cả người.

                  Vương Uy chẳng lo được nhiều đến vậy, cố sức đẩy cánh cửa, chợt mùi tanh nồng ập tới, làm ọe ra cả nước chua. Mùi hôi thối bên trong cánh cửa khó hình dung nổi, hệt như mùi xác chết thối rữa giữa ngày hè nóng nực, vô cùng khó ngửi.

                  Mùi tanh thối sau cánh cửa sắt bốc ra nồng nặc, Vương Uy gắng nín thở chui vào trong, dưới ánh đèn pin, thấy vách phòng phải bằng gỗ sam đen sẫm, mà ghép bằng từng tấm từng tấm sắt, ràng đây là căn phòng bằng sắt.

                  Vương Uy cứ nghĩ chiến thuyền cổ này được đóng toàn bằng gỗ sam, cho dù mấy vị trí trọng yếu được đúc cửa sắt cũng chẳng có gì ghê gớm, nhưng làm cả căn phòng bằng sắt đáng ngờ. Phòng ở và làm việc của Trương Tử Thông cũng là phòng gỗ, tại sao căn phòng ở tầng dưới lại được làm bằng sắt? là kỳ lạ.

                  Trương Tử Thông ghi lại tỉ mỉ mọi chuyện từ sau khi ông ta xuống hang ngầm, nhưng Vương Uy xuống khoang dưới này lại phát ra những bí mật chiến thuyền cổ này vượt xa so với những gì Trương Tử Thông ghi chép. Thậm chí trong những ghi chép của ông ta cũng hề đề cập gì đến khoang dưới này, tượng người chim và căn phòng sắt kín bưng.

                  Bên trong căn phòng sắt trừ bốn bức vách ra, còn lại trống trơn, có gì cả. Vương Uy lòng đầy thắc mắc bèn rảo bước tiến vào bên trong. Theo lý mà , năm trăm năm trước, muốn làm được căn phòng bằng sắt dưới hang ngầm thế này, hết sức khó khăn, Trương tử Thông cần phí nhiều công sức như vậy để làm chuyện vô bổ.

                  Vương Uy nghĩ, căn phòng sắt này được khóa trái từ bên trong, điều này khác hẳn tư duy của người bình thường, nhất định trong đó có lý do gì khác. Chợt nhớ đến thay đổi của Dương Hoài Ngọc, bỗng nổi hết da gà, chiến thuyền cổ nổi trôi năm trăm năm dòng sông ngầm này quả nhiên là con thuyền ma, Dương Hoài Ngọc sống sờ sờ ra đó, vậy mà lại lặng lẽ biến mất, quá kỳ dị.

                  bốn bức vách sắt của căn phòng đầy những vết hoen gỉ bởi hơi nước, hễ đụng vào là rơi ra từng mảng. Vương Uy vừa vừa tra xét kỹ, bỗng đứng sững lại, đầu óc đờ ra.

                  nghe tiếng chân mình bước , chân cọ xát lên sàn nhà sắt gỉ phát ra tiếng răng rắc, hoàn toàn giống với tiếng chân quỷ dị lởn vởn ngoài hành lang.

                  Vương Uy kinh ngạc lại thận trọng thêm vài bước nữa, quả nhiên đúng là thanh ấy, sai chút nào. Thoạt đầu, lúc ở trong gian phòng để tượng người chim, chú ý, bây giờ nghĩ lại mới thấy bí bên trong chuyện này rất lớn, nếu người bình thường lại hẳn thể phát ra tiếng bước chân nặng như thế được, chỉ có bàn chân ma sát sắt gỉ mới phát ra được thanh đó mà thôi, tức là tiếng chân bước lúc ấy nghe thấy phải ở hành lang mà ở trong căn phòng sắt này.

                  Việc đến nước này cũng chẳng có gì là kỳ quái nữa, bởi chiến thuyền cổ này xảy ra quá nhiều chuyện kỳ quái rồi. Theo lý giải của Vương Uy, căn phòng này bị người khóa trái từ bên trong từ năm trăm năm trước, mà con người vốn thể sống trong căn phòng sắt như vậy được, nhưng thực lại chứng minh trong phòng có người.

                  Vương Uy rất căng thẳng, biết mình lên con thuyền ma này mười phần hết chín là có về, cẩn thận theo đại tướng quân Trương Tử Thông cũng nên. Nghĩ nghĩ lại cũng thấy ấm ức trong lòng, đời đến giờ mới chỉ là đại đội trưởng hai bàn tay trắng, còn Trương Tử Thông trước khi chết là quan lớn nhất phẩm triều đình, Trấn Đông đại tướng quân, khâm sai đại thần được hoàng đế mật phong, tuy cùng phải chết, nhưng so với ông ta, vẫn cảm thấy thể bằng được.

                  Vương Uy cuống lên, bắt đầu tính đến tình huống xấu nhất. lên đạn khẩu súng lục cầm tay, sẵn sàng ứng chiến bất cứ lúc nào. Cuối căn phòng này là bức tường sắt, tường trổ ô cửa, cửa khóa, đẩy là mở ra ngay. Bấy giờ mới biết căn phòng này thông sang phòng bên cạnh.

                  thận trọng bước sang căn phòng sắt bên cạnh, phát căn phòng này khác hẳn căn phòng vừa rồi, trong phòng có chiếc giường ghép, bên phủ tấm vải trắng dài đến mấy mét, tấm vải hơi phồng lên, tựa như bên dưới có người ngủ.

                  Vương Uy nén sợ, từ từ bước đến gần, giơ nòng súng lật góc tấm vải lên bên dưới liền lộ ra chiếc đầu lâu trắng hếu. Tuy chuẩn bị tâm lý nhưng Vương Uy vẫn giật nảy mình, tim đập thình thịch. Vương Uy bèn lật tung tấm vải, vì quá lâu ngày, tấm vải mục nát, bị kéo mạnh liền mủn ra, bay tung tóe như hoa tuyết.

                  Tấm vải bị lật tung, chiếc giường ghép ngay trước mắt là bảy bộ xương người cao xấp xỉ nhau, nằm song song, ánh đèn pin chiếu lên những bộ xương trắng hếu, khiến nổi da gà. biết bảy bộ xương này là tướng sĩ của Trương Tử Thông tướng quân, có điều dáng vẻ cả bảy bộ đều có dấu vết dập gãy, như thể họ tự nhiên mà chết giường vậy.

                  vách treo bảy bộ giáp và gươm đao, tất cả đều phủ lớp bụi dày, tỏa mùi ẩm mốc, còn mùi tang nồng trong khí hình như mỗi lúc nồng nặc hơn. Vương Uy thấy họng chua loét, ọe liền mấy cái à nôn ra nổi thứ gì.

                  Đúng lúc này, bỗng phát mặt sàn có gì đó khác thường, dường như có nước thấm ra vậy. Vương Uy chợt nghĩ, lẽ nào chiến thuyền cổ này đụng vào vậy gì đó nên đáy khoang bị thủng rồi ư?

                  Vương Uy kinh hoàng, việc này thể coi thường được, vội vàng cúi xuống xem xét mặt sàn. Chỉ thấy sàn lênh láng máu, máu từ khe hở của bức tường sắt phía trong phun ra như suối, trong phòng ngập lên đến mắt cá chân. Vương Uy đứng giữa bể máu, mùi tanh của máu làm ngừng ọe ra nước chua.

                  Vương Uy chinh chiến sa trường bao nhiêu năm trời chưa bao giờ thấy nhiều máu như thế này, đúng là máu chảy thành sông. Máu từ kẽ tường sắt phun ra ào ào, mỗi lúc mạnh, mà bức tường hướng ra ngoài sát với hành lang lại bị bịt kín, máu thoát ra nổi nên cứ dềnh lên cao mãi.

                  Vương Uy kinh hãi chạy sang phòng bên cạnh, thấy bên đó cũng lênh láng máu, ngập đến tận bắp chân. Căn phòng này ba bề kín mít, chỉ có mặt biết tại sao lại đầy những khe hở, lẽ nào làm nhiều khe hở như vậy là để máu chảy ra?

                  Trương Tử Thông dựng nên căn phòng này để làm gì?

                  Dãy phòng dọc hành lang này là nơi nghỉ ngơi của các tướng sĩ, vốn là loại phòng ở hết sức bình thường, nhưng lại được đúc thành những căn phòng bằng sắt kín mít. mặt tường phía trong có nhiều chỗ bị thủng lỗ chỗ, lỗ bằng đầu ngón tay, lỗ to có thể đút vừa cánh tay người lớn. Những lỗ thùng này đều bám đầy gỉ sắt, bị máu xối vào, gỉ sắt rụng xuống từng mảng, những lỗ thủng lần lượt lộ ra.

                  Vương Uy đứng giữa bể máu, hai mắt đỏ ngầu, mùi tanh nồng nặc khiến ngạt thở, mỗi lần hít thở lại thấy họng nóng rát, hết sức khó chịu. Bất kể ai bị nhốt chiến thuyền cổ giữa dòng sông ngầm mênh mông này đều thể cảm thấy căng thẳng, hơn nữa còn bị ngập trong bể máu biết từ đâu tràn vào, Vương Uy có thể nghe tiếng tim mình đập thình thịch.

                  Máu phun ra từ các lỗ thủng mỗi lúc nhiều, mặt tường sắt hoen gỉ đến cực độ, bị máu xối vào, cả mảng gỉ sắt liền rụng ra, lỗ thủng càng lúc càng lớn.

                  Vương Uy định thần, cảm thấy cứ đứng mãi trong bể máu thế này cũng ổn. chiến thuyền cổ này đầy rẫy những điều kỳ dị, phải là nơi ở lâu, phải nhanh chóng thoát ra, nếu mất mạng vào tay thứ quái dị con thuyền này.

                  Quyết định như vậy, Vương Uy bèn quay đầu thẳng về vị trí có cánh cửa lúc tiến vào căn phòng sắt. thẳng đến góc cùng của căn phòng nhưng thấy cái cửa vách tường kia đâu cả. Bức tường bằng sắt phẳng lì, làm gì có cánh cửa nào?

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Bức tường này là thể hoàn chỉnh, hoàn toàn có cửa, ngay đến khe cũng có. Kết cấu kiên cố như thế khiến cho máu từ bức tường phía bên trong chảy ra tràn ra được hành lang, khiến máu trong dãy phòng sắt thông nhau này mỗi lúc dâng cao, cuối cùng nhấn chìm toàn bộ các căn phòng sắt, người trong đó tiến được lùi xong, chỉ có con đường chết.

                  Vương Uy từng trải trăm trận, kinh qua biết bao nhiêu hiểm nguy lớn , vậy mà lúc này cũng phải cuống lên. nhớ rất mình dùng súng lục bắn vỡ khóa sắt cửa, bước qua cánh cửa sắt đó vào phòng, toàn bộ quá trình đều ràng đến từng chi tiết, vậy mà cánh cửa sắt ấy lại vô cớ biến mất, khiến đầu óc như bị bao phủ bởi lớp sương mù.

                  Nhưng bày ra trước mắt, bức tường sắt chính diện vô cùng bằng phẳng, là thể hoàn chỉnh, đó thấy dấu vết nào chứng tỏ có cửa ra vào. Lúc tiến vào, nghĩ đến tình huống gặp phải khi trước, cố tình để cửa mở toang, còn đẩy hẳn cánh cửa sang bên đề phòng nó tự động đóng lại, nhưng tất cả mọi bằng chứng ấy đều vô cớ biến mất.

                  thấy cả căn phòng vẫn y nguyên như cũ, trừ máu ra chẳng còn gì khác cả, mà cùng với máu ào ạt tràn sang, cánh cửa kia cũng thầm biến mất.

                  rợn cả người, bèn ra sức xô mạnh vào tường, nhưng bức tường này khác hẳn bức tường sắt trong kia, nhìn là biết bên trong được đổ gang, xô vào chỉ tổ ê ẩm hết mình mẩy. xô tường mấy lần được, đành thôi làm chuyện ngu xuẩn nữa, nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, máu tường phun ra ngập quá bắp đùi , cứ thế này chỉ chốc nữa toàn thân bị nhấn chìm trong máu, chết vì ngạt thở.

                  Lúc này cách nào tìm hiểu được bí về việc căn phòng sắt này đột ngột thay đổi hoàn toàn kết cấu, nhưng dãy các căn phòng sắt ở đây thông nhau, lúc đứng ngoài hành lang quan sát kỹ, tất cả các phòng đều có cánh cửa bị khóa trái từ bên trong, cánh cửa của phòng này đột nhiên biến mất, còn các phòng khác sao?

                  Nghĩ đến đây vội bì bõm lội máu vào phòng trong, vừa nhìn vào phòng, tuyệt vọng. Căn phòng này giống hệt phòng ngoài, nơi lẽ ra là cửa cũng lại là bức tường phẳng lì, kẽ hở.

                  Mọi lối thoát đều bị bịt kín, nhưng Vương Uy dù sao cũng được trui rèn giữa rừng tên mưa đạn mười mấy năm trời, sau phút hoảng loạn, từ từ bình tĩnh lại. nghĩ bụng, bị dồn đến đường cùng, thà rằng cứ xông vào phía sau bức tường sắt này xem thử trong đó có những gì, còn hơn khoanh tay chờ chết.

                  Bấy giờ Vương Uy hăng lên, còn sợ gì nữa, vừa quan sát kỹ bức vách đầy lỗ thủng, vừa phân tích xem nên xông vào bằng cách nào. Những lỗ thủng này khi toác ra đến mức độ nhất định dừng lại, toác thêm nữa. đập vào bức tường mấy lần, nhưng những chỗ bị gỉ vẫn hết sức kiên cố, dễ phá thủng như hình dung, nay cả những chỗ cạnh lỗ thủng, đập vào cũng thấy chắc chắn vô cùng. vận sức dùng cùi chỏ thúc mấy lần đều vô dụng. Vương Uy liền hiểu ra, những lỗ thủng do sắt gỉ bong tróc tạo thành này phải là tự nhiên, mà khi đúc tường sắt người ta thiết kế như thế rồi, nếu tường sắt hoen gỉ thế này những chỗ khác cũng chịu nổi va đập.

                  Những chỗ có lỗ thủng và có lỗ thủng tường rất khác nhau, xô mạnh mấy cái mà chẳng suy suyển gì, té ra ruột bức tường cũng được đổ gang.

                  Vương Uy mải suy nghĩ, nào ngờ từ sau lỗ thủng lớn bằng nắm tay thình lình thò ra thứ gì đó, thứ đó thò ra nhanh như điện rồi thần tốc thu về. Nhờ ánh đèn pin kịp thấy nó trông như cánh tay người còn nguyên xương thịt, xem ra là cánh tay của người sống.

                  Cánh tay thò ra thụt vào nhanh như điện, nếu phải chăm chú nhìn lỗ thủng kia, sợ rằng chẳng thể nào phát được loạt động tác của nó, nó rụt vào rồi còn động tĩnh gì nữa.

                  Vương Uy lau mồ hôi trán, lòng vô cùng bối rối, nhìn cánh tay kia linh hoạt như vậy, hẳn là của người sống, nhưng cánh tay bị nhốt kín trong căn phòng sắt suốt năm trăm năm nay, sao có thể là của người sống chứ? Bị cánh tay kia quấy nhiễu, Vương Uy rối cả lên, cách nào biết được bên trong bức tường kia có gì, nhưng có thể khẳng định, thứ bên trong đó chẳng lấy gì làm tử tế.

                  Vương Uy rùng mình, chợt thấy mắt cá chân bị tóm chặt, chưa kịp hiểu mô tê gì ngã bổ ngửa, đầu ngập trong máu. Toàn thân như bị điện giật, muốn giãy giụa cũng giãy nổi, cả người đập vào tường sắt, uống mấy hớp máu, phải cố ngậm trong miệng dám để thứ máu tởm lợm kia trôi xuống họng.

                  Hai cánh tay nắm chân , đập mạnh cả người vào tường mấy cái, đột nhiên dưới chân tường lủng ra lỗ hổng, cánh tay kia liền tóm hai chân Vương Uy lôi vào, khiến lộn nhào trong bể máu, sặc cả máu lên mũi. Vương Uy chỉ có thể nín thở dưới nước thời gian nhất định, hơn nữa còn bị cánh tay ma quái tóm chặt, cả người bị va đập liên tục, bắt đầu thấy mắt nảy đom đóm, ngực như sắp vỡ tung.

                  Trong lúc bối rối, bèn dùng báng súng đập mạnh vào cánh tay ma quái kia, đập liền mấy cái nhưng nó đều tránh được. Nhân lúc cánh tay nắm chân mình hơi lỏng, vội mò mẫm vùng dậy, khạc hết mấy ngụm máu tanh ngòm trong miệng ra.

                  Lúc Vương Uy ngã xuống bể máu, đèn pin cũng đồng thời tắt ngấm. hoảng hồn, dưới hang động ngầm này tối đen như mực, mà bao diêm mang theo bị ướt sũng, thể dùng được nữa, có đèn pin trông thấy gì cả, thân mình ở con thuyền từng xảy ra vô số chuyện kỳ quái này chỉ có chết.

                  Vương Uy vẩy mạnh cái đèn pin vài lần, trong bóng tối tĩnh lặng còn bất kỳ thanh nào khác, cứ nơm nớp sợ cánh tay ma kia lại nhân lúc tối tăm mà giở trò. May sao chiếc đèn pin này rất tốt, tuy bị ngấm nước nhưng vẩy mạnh mấy cái lại sáng lên. Lúc đầu nó chỉ sáng yếu ớt, dần dần mới sáng rực lên, cùng với ánh đèn sáng dần Vương Uy cũng từ từ bình tĩnh lại.

                  soi đèn khắp bốn phía, phát máu ngập đến ngực, căn phòng này rất lớn, đèn soi đến được bức tường đằng kia, chỉ thấy bốn phía máu là máu.

                  Nhưng trong bể máu chợt có vật thu hút chú ý của Vương Uy. Vật này rất lớn, lại vuông vắn, trông như cái bệ đá vậy. bì bõm lội nước lại gần mới nhìn hình dạng thứ đó, chỉ thấy nó trong suốt, trông cả máu cuộn chảy bên trong, cao khoảng hơn ba trượng, mỗi chiều chừng năm sáu trượng. Vương Uy quan sát thứ đó kỹ, vẫn lo cánh tay quái vật kia lại thò ra, chỉ đợi hơi sơ sểnh là lôi tuột xuống bể máu lần nữa. lùi lại phía sau mấy bước, giơ đèn pin soi toàn cảnh thứ đó, lúc rọi đèn lên đến đỉnh vật đó, mắt chợt sáng lên, nóc bệ đá có người nằm.

                  Theo phản xạ, Vương Uy lập tức giơ súng lên nhắm vào đầu người kia, chỉ thấy mái tóc người nọ xõa dài, lấp lánh vàng dưới ánh đèn pin loang loáng, hình như người đó có mái tóc vàng. Vương Uy giật nảy mình, chẳng nhẽ đấy là Dương Hoài Ngọc?

                  Xung quanh bệ, máu dềnh lên rất cao, hơn nữa bốn phía quanh bệ hình nhưcòn có rãnh sâu, Vương Uy mon men đến gần, suýt nữa ngã xuống dưới. Cái bệ này là quái gở, biết dưới rãnh sâu xung quanh bệ có thứ gì nên dám mạo hiểm lặn xuống.

                  rọi đèn pin vào người nằm kia, càng nhìn càng thấy giống Dương Hoài Ngọc, đường nét hình dáng khác chút gì, phải ta còn là ai nữa?

                  Dương Hoài Ngọc đột ngột biến mất cách vô cớ ngay trước mắt , tại sao thoáng cái lại chạy đến đây? nằm bất động cái bệ kia, biết còn sống hay chết? Vương Uy lo lắng, quyết định phải nhanh chóng đưa xuống, nếu còn cứu được cứu.

                  Tuy Vương Uy có cảm tình với đội thám hiểm, nhưng từ lúc tiến vào dãy núi Đường Cổ Lạp, mọi người cùng nhau vượt qua bao gian nan vất vả dọc đường, cũng coi như sinh tử chi giao. Quân đội Tứ Xuyên đánh trận giỏi nhưng coi trọng nhất là nghĩa khí, sinh tử chi giao lẽ nào cứu?

                  Vương Uy chẳng kịp nghĩ nhiều, cố nín hơi lặn xuống, bơi đến chõ cái bệ. Khoảng cách từ giữa bệ đến bốn phía xung quanh có đến mười mấy trượng, ở dưới bể máu trông thấy gì cả, chỉ có thể bỏi theo cảm giác mà thôi.

                  Bơi lúc lâu mới vượt qua được khoảng cách mười mấy trượng đó, thử lặn xuống nhưng lặn mấy trượng vẫn chưa đến đáy. Vương Uy thầm kinh ngạc, ràng chuyện này quá mức lạ lùng, bèn bơi đến trước cái bệ, từ dưới nước nhô lên, ra sức vuốt sạch khuôn mặt đầy máu.

                  Cái bệ trước mắt khối đá trong suốt, Vương Uy cảm thấy bệ đá này rất giống với phần trong suốt của bệ đá mà thấy trong rừng rậm giáp giới giữa Tây Tạng và Tứ Xuyên, đều trong mờ, khác chăng là bệ đá này thuần túy trong mờ, có tảng đá nào khảm vào.

                  Bệ đá này cứ dần từ chân lên đến đỉnh, Vương Uy trèo lên chỗ ngăn cách giữa hai nửa dưới bệ đá, chỗ đó rộng khoảng nửa bàn chân, đủ cho người đứng vững. Ngay khi vừa bò lên khỏi bể máu, thình lình cánh tay dưới bể thò lên, khiến máu bắn tung tóe. Vương Uy giật mình, vội giơ súng bắn, nhưng hai phát đạn đều bắn xuống nước. Cánh tay kia thò lên rất nhanh, rất bất ngờ, chẳng để Vương Uy kịp nhìn thụt ngay xuống bể máu, biến mất.

                  lau mồ hôi mặt, leo tiếp lên cái bệ đá, bệ đá rất trơn, tay lại dính đầy máu, cứ leo lên ba tấc lại trượt xuống hai tấc, rất khó khăn.

                  Vất vả lắm mới leo lên đến nóc bệ, mồ hôi đầm đìa. Hai tay bám vào mặt bệ đá, thò đầu lên nhìn, liền thấy nửa khuôn mặt tái nhợt của Dương Hoài Ngọc, còn nửa mặt bên kia bị bàn tay đẫm máu bịt kín, che khuất cả miệng, mũi.

                  Thấy thân mình Dương Hoài Ngọc hơi run rẩy, Vương Uy giật mình, ra cánh tay kia định bịt chặt mũi miệng để ngạt thở mà chết. Chẳng kịp suy nghĩ, vội giằng cánh tay nọ ra, khuỷu tay của nó còn giấu sau lưng Dương Hoài Ngọc, nhìn như thể phía sau có ai đó nấp.

                  Lúc này Vương Uy chẳng còn bụng dạ nào xem thử đằng sau là người hay ma nữa, dùng sức nắm lấy bàn tay bịt miệng Dương Hoài ngọc, vận khí giở ngón Đoạn Môn chỉ gia truyền, bẻ vụn xương năm ngón bàn tay kia.

                  Cánh tay kia bị đau đớn vội rụt lại, mấy cánh tay tóm chân tay Dương Hoài Ngọc cũng biến mất, lúc bật đèn pin lên soi thấy chúng đâu nữa.

                  Vương Uy thử bắt mạch Dương Hoài Ngọc, thấy mạch đập yếu ớt nhưng vẫn còn hơi thở. bèn bóp chặt hàm dưới , vỗ vỗ vào lưng, ép nôn hết chỗ máu bị sặc ra.

                  Nôn hết thứ máu tanh tưởi kia ra, Dương Hoài Ngọc cũng thở ra hơi, mí mắt động đậy rồi mở bừng mắt.

                  Thấy Vương Uy cười với mình, Dương Hoài Ngọc giật thót, vội hỏi đây là đâu?

                  Vương Uy kể sơ qua mọi diễn biến vừa rồi, Dương Hoài Ngọc cứ há hốc miệng ra nghe. Tuy từng là hải tặc tung hoành khắp vùng biển Đông Nam Á, cũng khỏi kinh hãi trước nhữn chuyện quái gở vừa rồi.

                  Dương Hoài Ngọc vắt óc nhớ lại mọi chuyện trước khi bị hôn mê, chỉ nhớ ở trong căn phòng có tượng người chim bỗng bị đôi tay tóm lấy vai, nhấc bổng cả người lên, định kêu cứu, nhưng mũi miệng đều bị bịt chặt, thể phát ra tiếng.

                  ra các phòng ở khoang dưới cùng của chiến thuyền này đều thông nhau, giữa xà và vách phòng có khe hở đủ người chui lọt. Trong lúc hoảng loạn, Dương Hoài Ngọc bị bịt hết miệng mũi tay chân, giãy giụa gì được, đoạn bị ném tung lên cao, rơi xuống bể máu, uống phải mấy hớp máu tanh tưởi rồi hôn mê bất tỉnh.

                  Nghe Dương Hoài Ngọc kể, Vương Uy lập tức hiểu ra ngay, lúc bọn họ ở trong căn phòng có tượng người chim, nhất định bàn tay ma kia giở trò với cánh cửa khiến hai người nghi ngờ lẫn nhau. Bấy giờ Dương Hoài Ngọc trông thấy bàn tay đóng cửa, trong ấn tượng của , trong phòng chỉ có và Vương Uy, mà đó lại là tay đàn ông nên mặc nhiên coi đấy là tay Vương Uy. Nghe Vương Uy phân tích, cũng gật đầu thừa nhận chuyện này.

                  Vương Uy đứng bệ đá, cầm đèn pin soi xung quanh, chỉ thấy bể máu cuồn cuộn, máu vẫn tiếp tục dềnh lên cao, nhưng bàn tay ma quái kia biến mất.

                  Hai người đều hiểu, giờ họ giống như đứng trong cái hộp sắt khổng lồ, bốn bề bịt kín, tiến thoái đều thể được, phía trước phía sau đều là đường chết.

                  Dương Hoài Ngọc nghỉ chút, sức khỏe bình phục dần, người bị thương, vừa rồi hôn mê bất tỉnh chẳng qua là ngạt thở do bị máu làm tắc họng mà thôi. Bây giờ sức khỏe khôi phục lại được tám phần mười, cũng là thời cơ tốt nhất để thoát thân. Bằng cứ nấn ná mãi trong căn phòng sắt tối đen có ánh mặt trời này, sức lực và tinh thần đều kiệt quệ, chẳng bao lâu nữa, dù thứ quái gở trong bể máu kia ra tay họ cũng bị bầu khí này giày vò đến chết. Dương Hoài Ngọc bảo Vương Uy:

                  - Làm thế nào bây giờ, chẳng nhẽ chúng ta chịu chết ở đây à?

                  Vương Uy lắc đầu:

                  - Vách phòng này đều được đổ gang, súng bắn thủng, giờ chỉ mong có lỗ hổng giấu đâu đó để chui ra thôi.

                  Lúc câu này với Dương Hoài Ngọc, lòng cũng rất tuyệt vọng, những căn phòng này ngay cả cửa còn bị phong bế cách bí , làm sao còn có lỗ hổng cho bọn họ chui ra kia chứ?

                  Dương Hoài Ngọc hề khờ khạo, đương nhiên hiểu hoàn cảnh mình lúc này, bèn ngồi dậy, nhìn xuống mặt nước theo Vương Uy, chỉ thấy bể máu cuồn cuộn sóng, khí thế kém gì con sông ngầm ngoài kia.

                  Đứng lúc này, lòng Vương Uy chợt trầm xuống, lưng toát mồ hôi lạnh, ánh mắt dừng lại nóc bệ, qua lớp đá trong mờ, trông thấy gương mặt to tướng áp sát vào mặt đá, đôi mắt thô lố trừng trừng nhìn , hai luồng mắt vừa giao nhau thấy rờn rợn, đôi bên cứ thế chòng chọc nhìn nhau, Vương Uy có thể cảm thấy máu trong người đông cứng cả lại.

                  Dương Hoài Ngọc nghiêng đầu trông sang, nhận thấy Vương Uy có vẻ bình thường, nhìn theo ánh mắt , chợt giật thót cả mình, vội kêu ré lên. Máu dưới bệ dềnh lên mấy lần, gương mặt kia lập tức biến mất.

                  Dương Hoài Ngọc nhìn Vương Uy hồi lâu, thở hổn hển :

                  - Đó là mặt người.

                  Vương Uy gật đầu, thấy làn máu bên dưới bệ đá lặng, mới :

                  - Đúng là mặt người, nhưng tôi dám khẳng định đôi mắt ấy phải là mắt người, rốt cuộc nó là cái gì nhỉ?

                  Dương Hoài Ngọc lắc đầu, ai có thể trả lời được. Biện pháp duy nhất là lội xuống nước xem, thứ kia rất có thể nấp trong rãnh sâu dưới nước, vào hang cọp sao bắt được cọp con, dù gì cũng bị kẹt ở đây, thời gian kéo dài thể nào cũng chết, chi bằng xuống nước xem đó là cái gì, khi xuống gặp Diêm vương, Diêm vương có hỏi tại sao chết còn biết đường mà trả lời.

                  ý định của mình với Dương Hoài Ngọc, cũng tán đồng. này từ theo lão Tôn giết người đốt nhà, dũng mãnh can đảm có thừa, giờ lâm vào cảnh này, có thể chết bất cứ lúc nào, còn chuyện gì buông bỏ được nữa?

                  Cuối cùng Vương Uy nghĩ ra cách, xuống nước trước còn Dương Hoài Ngọc cầm súng tiểu liên chĩa xuống mặt nước, theo đoán, thứ bên dưới kia rất có khả năng thò ra tấn công. Từ tập võ, bơi lặn dưới nước cũng rất nhanh nhẹn, hễ có vật gì đó đến gần, trông sóng nước là nhận ra ngay. dẫn dụ thứ ở dưới nước xuất , xem nó là cái gì.

                  Cách này tuy rất nguy hiểm, nhưng là cách duy nhất giờ nên Dương Hoài Ngọc cũng phản đối.

                  Vương Uy đưa đèn pin cho , còn mình cầm súng lục, lần theo khoảng hở gián cách hai nửa bệ đá, lặn xuống.

                  Vừa xuống nước cảm nhận ngay được dòng nước ngầm chảy xiết, dường như có xoáy nước lớn hút xuống, khiến Vương Uy hết sức kinh ngạc.

                  Chiến thuyền cổ lại con sông ngầm nên đáy phải kín, khả năng duy nhất để hình thành xoáy nước chỉ có thể là đáy thuyền bị thủng, hơn nữa để có xoáy nước lớn như vậy lỗ thủng phải rất lớn.

                  Vương Uy cố tránh xoáy nước, định lặn xuống bên dưới để tìm chân bệ đá, theo suy đoán, máu có thể chảy ra chảy vào trong bệ, nhất định bên dưới bệ này có lối thông, khéo còn đụng phải gương mặt to vừa rồi cũng nên.

                  bơi quanh xoáy nước nhưng trông thấy gì, chỉ cảm thấy sức hút của xoáy nước càng lúc càng mạnh. lúc băn khoăn thắc mắc lẽ nào cái bệ vuông này có chân bệ mà là được gác lên , đột nhiên sau lưng căng lên, có gì đó lao tới tấn công từ phía sau, Vương Uy bình tĩnh lạng người , tránh đòn tấn công của thứ đó.

                  ngoảnh lại, chợt thấy rất đông thứ gì đó lao về phía mình. Vương Uy thầm kinh hãi nhưng chẳng còn cách nào né tránh, đành quay người ngoi lên mặt nước, tay cầm súng, bắn về phía sau mấy phát để cản tốc độ tấn công của đối phương, thân hình cũa theo đó mà nổi lên mặt nước.

                  Vừa nhô đầu lên bám ngay lấy bệ, nhảy tót lên chỗ gián cách hai nửa bệ đá. Dương Hoài Ngoc thấy tình hình, chờ Vương Uy gọi liền bắn ngay loạt đạn, lập tức nghe tiếng rơi bùm bũm xuống nước.

                  Vương Uy ngoảnh lại nhìn, thấy sợi dây thừng đỏ lòm màu máu rơi xuống nước, mặt nước vẫn còn mấy sợi nữa, đều bị bắn nát. Vương Uy lấy làm lạ hiểu những sợi dây đỏ đó là gì nghe tiếng Dương Hoài Ngọc gọi mau leo lên.

                  chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ ráng sức ôm lấy góc bệ đá leo lên, nào ngờ chưa leo được đến nửa phía của bệ đá thấy hông căng ra, bị thứ gì đó ghì chặt.

                  Vương Uy thầm than ổn, cố ôm chặt lấy cái bệ, cả người dính sát vào bệ hệt như thạch sùng bám tường. Thứ ghì chặt lưng rất khỏe, Vương Uy cảm thấy ruột gan như bị thít lại, chẳng đợi kịp chống trả, nó kéo luôn xuống nước.

                  Thứ kia lôi tuột về phía xoáy nước. Vương Uy giở mọi thủ đoạn giãy giụa phản kháng, tiếc rằng bám víu vào đâu được, nên cứ bị nó lôi tuồn tuột.

                  Càng đến gần xoáy nước, áo quần người gần như bị xoáy nước xé tan, xem ra sắp bị cuốn vào đó tới nơi. Vương Uy thầm kêu khổ, bỗng thấy phía trước ập tới luồng lực đạo, mạnh hơn lực đạo tóm ngang lưng nhiều, hai luồng lực đạo va vào nhau khiến Vương Uy bị văng ra xa hơn trượng, máu trong lồng ngực nhộn nhạo, suýt nữa ngạt thở. Tuy xương cốt toàn thân đau rã rời nhưng hiểu hơn ai hết, nếu có cú va đập vừa rồi, hẳn bây giờ đời nhà ma.

                  Người chìm dần xuống đáy nước, cái rãnh trong bể máu này sâu đến mức nào, muốn cử động nhưng toàn thân mất hết sức lực, tay chân nghe theo điều khiển nữa, làm sao động cựa nổi. Luồng lực đạo từ trong xoáy nước ập tới kia thực quá mạnh, nháy mắt đẩy ngụm khí mà nín thở giữ trong lồng ngực lệch , dưới đáy nước này, thể động cựa chỉ còn chờ chết.

                  Vương Uy rủa thầm trong bụng, gắng nín thở cho máu ộc vào họng. Ngay lúc ấy, bỗng cảm thấy có vật gì bơi tới làm cho sóng nước cuộn lên, hẳn phải là cái gì đó rất lớn. Vương Uy thầm kinh hãi, giờ chỉ con sâu, con rắn cũng có thể giết chứ đừng gì tới những con vật lớn hơn.

                  Vật ấy bơi đến trước mặt Vương Uy, kéo tay ngoi lên. Vương Uy giật mình, té ra đó là người. Nhưng có thể khẳng định người này phải Dương Hoài Ngọc, tính theo thời gian cũng thể đuổi kịp, hơn nữa người ấy thân thể rắn chắc, phải là nữ.

                  Vương Uy sợ hãi khôn xiết, cứ ngỡ trong căn phòng sắt này chỉ có và Dương Hoài Ngọc, ngờ lúc này lại bất ngờ xuất thêm người khác. Hơn nữa, khi nghe Dương Hoài Ngọc giữa vách tường và xà ngang của căn phòng sắt có khe hở, bèn soi đèn pin kiểm tra nhưng kết cấu phòng thay đổi từ lúc nào chẳng , khe hở kia bị bịt chặt, còn chỗ hở nào nữa.

                  Người kia bơi lên đến mặt nước, Vương Uy cũng trồi lên, ánh đèn pin của Dương Hoài Ngọc vừa khéo rọi đến nơi, tạo thành chùm sáng trải rộng bể nước.

                  Vương Uy ngoảnh lại, thấy đằng sau nhô lên khuôn mặt to tướng, ròng ròng máu me, đôi mắt thô lố như hai quả trứng ngỗng nhìn chằm chằm vào , vô cùng đáng sợ.

                  Thấy Vương Uy sợ đến nỗi suýt nữa cắn đứt cả lưỡi, gương mặt kia lại nhệch miệng cười thâm hiểm, nụ cười làm suýt nữa nôn ộc hết ra. Gương mặt này trông nanh ác hết chỗ , chính là gương mặt bên dưới bệ đá mà vừa thấy khi nãy.

                  Vương Uy gắng trấn tĩnh lại, giương súng toan bắn, náo ngờ tay bị cánh tay từ dưới nước giơ lên ngăn lại, khiến giật nẩy mình, bấy giờ gương mặt trắng nhợt kia mới được gỡ ra, để lộ khuôn mặt người bình thường. Vừa nhìn thấy khuôn mặt đó, toàn thân Vương Uy liền cứng đơ, khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt kia nhăn nhở cười với :

                  - Thưa chỉ huy…


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 8: Tượng Người Chim

      Thấy Nhị Rỗ đột ngột xuất , Vương Uy sững sờ, nhất thời biết nên vui hay buồn, lặng người hồi lâu mới bừng tỉnh.

      Vương Uy sững sờ, nhưng Dương Hoài Ngọc kia hàm hồ chút nào, thấy cái đầu máu nhô lên từ dưới nước, liền lia ngay loạt đạn. Loạt đạn làm cho Nhị Rỗ phải lặn ngay xuống nước, lúc sau mới nhô lên.

      Tiếng súng khiến Vương Uy giật mình sực tỉnh, ngạc nhiên tóm ngay lấy Nhị Rỗ, chửi đổng:

      -Mẹ kiếp, đồ con rùa nhà mày là người hay là ma?

      Nhị Rỗ cười khanh khách, :

      -Chỉ huy hãy xem, tay vẫn là tay, chân vẫn là chân, sao phải là người?

      Vương Uy thấy đúng vậy, thầm mắng bản thân vừa thấy Nhị Rỗ còn sống đánh mất hết cả uy phong chỉ huy. nhìn Nhị Rỗ hồi lâu, thấy tay chân gã vẫn nguyên vẹn, sứt mẻ chỗ nào, lòng mừng vô hạn. Bỗng Nhị Rỗ biến sắc, kêu lên:

      -Chỉ huy ơi, phải nhanh nhanh trèo lên thôi, thứ quái quỷ kia lại đến kìa.

      Nhị Rỗ vội vàng đẩy Vương Uy leo lên những khe hở chạy dọc thân bệ rồi cùng trèo lên theo. Cả hai ngoảnh nhìn mặt nước, thấy chỗ họ vừa đứng có bọt máu to như nắm tay ùng ục nổi lên, cuộn trào sôi sục trong phạm vi lớn bằng vung nồi, thoáng nhìn là biết ngay có gì đó sắp xuất .

      Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy chuyện với “cái đầu máu” nên xem đó là kẻ địch nữa, thu súng máy lại. Nhị Rỗ ngước lên, với Dương Hoài Ngọc:

      -Ê, đồ tây rởm kia, hai chúng ông với đằng ấy phải cùng phối hợp, mới đánh chết được thứ quái quỷ dưới đó, đằng ấy có đồng ý ?

      Dương Hoài Ngọc nổi giận, trong đám cướp biển, xưa nay ta vẫn chỉ huy, người khác chỉ cần thấy biến sắc sợ vãi đái ra quần, chưa có kẻ nào dám chế giễu thế này. Ngay lập tức, ta giơ súng lên chĩa thẳng vào Nhị Rỗ, tốc độ nhanh, ngắm bắn chuẩn, thủ đoạn hiểm, có vẻ gì là đùa cợt. Nhị Rỗ thấy Dương Hoài Ngọc làm , vội lao đầu xuống nước trước khi kịp nổ súng. Đám máu to bằng vung lúc này càng cuộn lên dữ dội hơn, Vương Uy kinh hãi, sợ Nhị Rỗ xảy ra chuyện gì, toan lao xuống xem thử. Nào ngờ đúng lúc ấy Nhị Rỗ lại nhô lên, vuốt máu mặt rồi với Vương Uy:

      -Chỉ huy dùng Đoạn Môn chỉ bẻ gãy xúc tu của thứ quái quỷ kia .

      Đoạn Nhị Rỗ lại quay sang bảo Dương Hoài Ngọc:

      -Này tây rởm, ông đùa đâu, hễ thứ quỷ quái kia nổi lên mặt nước đằng ấy cứ nhắm vào đầu nó mà bắn nhé, bắn chuẩn vào đấy.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe mà ù ù cạc cạc, chẳng hiểu Nhị Rỗ định bày trò gì. Nhị Rỗ chỉ cười khì khì, lại lặn xuống, Vương Uy liền lặn theo.

      Vương Uy vừa lặn xuống sợi thịt quăng tới trói nghiến lại, bèn đưa tay ra bắt lấy sợi dây thịt mềm mềm rồi lần theo, thấy nó dài tới hơn trượng.Trong lúc sốt ruột, chẳng kịp nghĩ gì nhiều, lần đến gốc dây liền giở ngay Đoạn Môn chỉ chặt nhát tận gốc.

      Bị chặt đứt xúc tu, con vật kia bèn vùng ra bỏ chạy nhưng Vương Uy nào chịu buông tha dễ dàng như thế, lại đưa tay ra túm lấy xúc tu khác, giở Đoạn Môn chỉ sắc như dao phát chặt cụt tận gốc, trong nháy mắt chặt được mười mấy sợi.

      Mặc cho con vật đó giãy giụa, Vương Uy cứ hăng hái chặt xúc tú, hễ tóm được sợi nào là cắt ngay sợi nấy, qua lúc sau hết hơi, mới lại ngoi lên hít thở.

      Nhị Rỗ cũng nổi lên theo, cười nhăn nhở với Vương Uy, khoe ra bộ mặt bê bết máu dữ tợn:

      -Được chiêm ngưỡng Đoạn Môn chỉ của nhà họ Vương vùng Quan Đông rồi, đời này coi như uổng.

      Nghe vậy, lòng Vương Uy chợt trầm xuống, ngay bản thân còn chẳng biết được bao nhiêu về nhà họ Vương vùng Quan Đông của mình, lai lịch thân thế cũng là lão Tôn vạch , sao Nhị Rỗ lại biết như vậy?

      Nhị Rỗ cười khì khì, chỉ lên bệ đá, :

      -Chỉ huy xem, việc của chúng ta xong được nửa rồi kìa.

      Vương Uy chưa hiểu, bèn nhìn theo tay Nhị Rỗ, chỉ thấy từ xuống dưới cái bệ đầy những xúc tu thịt đỏ lừ ngoe nguẩy, trông như những khúc lạp xưởng vừa nhồi thịt.

      Những xúc tu này giống như dây thường xuân bám chặt vào bệ đá. bệ, Dương Hoài Ngọc vật lộn với mười mấy cái xúc tu, đạn dược dù sao cũng có hạn, mà dùng súng đáng giáp lá cà cũng rất bất lợi, mấy chiếc xúc tu đỏ lừ quấn lấy eo lưng và bắp đùi . Vương Uy :

      -Có chuyện gì vậy? Chúng ta giúp ấy tay.

      Nhị Rỗ ngăn Vương Uy lại:

      -Chỉ huy chặt đứt bấy nhiêu cái xúc tu của nó, đời nào nó chịu để yên? Thứ quái quỷ này lì lợm lắm, nó xuất ngay thôi, chỉ huy mà dùng Đoạn Môn chỉ xé nát mặt nó ra, e rằng chúng ta chết cả nút mất.

      Thấy Nhị Rỗ rất nghiêm trang, chằng hề có vẻ cợt nhả thường thấy, Vương Uy hiểu thứ quái quỷ kia nhất định rất khó đối phó, liền thận trọng quan sát mặt nước chờ con quái vật xuất .

      Nhị Rỗ đợi thời cơ chín muồi rồi mình lặn xuống nước, lát sau thấy bọt máu ùng ục nổi lên, mặt nước đột ngột bị rẽ ra. khuôn mặt người từ dưới nước nhô lên, bê bết máu me, mũi sứt mẩu, toàn thân mọc đầy xúc tu to như những sợi dây thường, đôi mắt to cồ cộ gườm gườm nhìn như muốn lao tới.

      Vương Uy trông thấy thứ đó, biết rằng chính chủ đến, thầm vận lực lên ngón tay. Đúng lúc ấy, nóc bệ chợt vang lên tràng súng nổ, bộ mặt kia lập tức bị bắn nát.

      Nhị Rỗ từ dưới nước nhô lên, kêu to:

      -Chỉ huy còn chờ gì nữa? Xé nát mặt nó ra nhanh lên…

      Vương Uy nghe liền xông tới, thoạt tiên chặt đứt mấy xúc tu cố chống đỡ, sau đó ngón tay cắm vào bên dưới da mặt, dùng sức xé mạnh, nháy mắt xé toạc lớp da mặt đó xuống.

      Quái vật kịp đề phòng, da mặt bị lột, đau đớn đến nỗi giãy giụa loạn lên, quăng quật mấy cái xúc tu vừa to và dài. Nhân lúc đó Nhị Rỗ lao tới, tay cầm túi lưới, ào cái trùm lên đầu quái vật kia. Đầu quái vật bị chụp vào lưới, nhưng những cái xúc tu khắp cơ thể nó vẫn còn nhanh nhẹn như rắn, cuốn tới trói Nhị Rỗ và Vương Uy lại.

      Vương Uy đời nào chịu lép, vung ngay Đoạn Môn chỉ tổ truyền chặt đứt cái xúc tu quấn quanh mình rồi nhào sang giúp Nhị Rỗ.

      Nhị Rỗ thoát khỏi mấy cái vòi, vội lôi theo cái túi lưới lặn luôn xuống nước. Thấy con quái vật kia bị Nhị Rỗ lôi xuống, Vương Uy cũng lao theo.

      Hai người vừa lặn xuống đáy nước, Vương Uy cảm thấy quái lạ, xoáy nước này giống như gió lốc mặt đất vậy, người cách đó xa xa mà trụ vững bị xoáy nước cuốn vào.

      Vương Uy nắm chặt lấy cái xúc tu, gắng trụ vững thân thể, trong khi tấm thân khổng lồ kia từ từ chìm xuống xoáy nước. Đột nhiên Vương Uy sực hiểu ra, Nhị Rỗ định dùng thân thể khổng lồ của con quái vật kia nút chặt chỗ đáy thuyền bị thủng.

      bèn giúp Nhị Rỗ tay, đẩy thân hình khổng lồ của quái vật nút vào lỗ thủng, bỗng nghe thấy rầm tiếng, con quái kia bị kẹt vào đó. Thấy bên dưới còn động tĩnh gì nữa, Vương Uy bèn nổi lên.

      Nhô lên khỏi mặt nước, thấy Nhị Rỗ vuốt máu đầu, mặt. Dương Hoài Ngọc cũng từ nóc bệ tụt xuống.

      Máu trong nước còn đậm đặc như khi nãy nữa, vì lượng lớn nước sông ngầm tràn vào qua lỗ thủng dưới đáy thuyền làm loãng bớt máu. Nhị Rỗ :


      - thể ở đây lâu được, chúng ta phải nhanh chóng thoát ra thôi.

      -Thoát ra theo lỗ thủng bên dưới kia à? nút chặt nó lại rồi cơ mà? – Vương Uy .

      Nhị Rỗ lắc đầu:

      -Lỗ thủng lớn như vậy làm sao nút kín được? Trương Tử Thông phải dốc hết tâm sức mới thiết kế ra được chiến thuyền này, cơ quan này cũng là do ông ta dốc hết tâm sức tạo ra, chúng ta chỉ có thể trơ mắt nhìn cơ quan từ từ phát động chẳng có cơ hội xoay chuyển đâu.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều ngớ ra, hiểu Nhị Rỗ gì. Nhị Rỗ lại :

      -Chiến thuyền cổ này là vũ khí mà Trương Tử Thông dốc hết tâm sức chế ra để phá giải Bối long khư, thể quay ngược lại được.

      Dương Hoài Ngọc muốn tiến thêm bước, hỏi han cặn kẽ ngọn ngành nhưng Nhị Rỗ xua tay, giục hai người chui vào lỗ thủng nơi đáy thuyền. Lúc này con thuyền chìm dần, khi chìm xuống đáy sông ngầm mọi người cũng phải chôn thây theo.

      Dứt lời, Nhị Rỗ lại lặn xuống nước, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc cũng bám theo. Máu ở bên dưới ngừng bị nước sông tràn vào hoà loãng, Dương Hoài Ngọc bật đèn pin chịu nước nên có thể trông những thứ dưới nước trong phạm vị mấy mét.

      Ba người tìm thấy lỗ thủng dưới đáy thuyền, lỗ thủng này nằm tại chỗ trũng ở đáy thuyền, bị con quái vật khổng lồ na ná như con mực kia trám vào chính giữa, nhưng cho dù con quái vật ấy có lớn hơn nữa, vẫn còn hở khoảng khá lớn.

      Nhị Rỗ chui vào trước tiên, Vương Uy khoá đuôi, vừa chui vào, kinh hãi phát ra trong đó đầy xúc tu quái vật, giống như từng chùm dây leo, nếu cẩn thận bị quấn ngay lấy. Bên trong lỗ thủng này giống thông đạo của cái giếng, nước chảy xiết, nước sông lạnh buốt xương chảy ngược vào đây, mọi người rất dễ bị nước đẩy bật ngược trở lại khoang thuyền.

      Nhị Rỗ ra hiệu cho mọi người nắm tay nhau, tay còn lại bám chặt vào những gờ mấu trong giếng để trụ vững, rồi lần từng bước tiến xuống phía dưới.

      Cách này rất cực vì chiến thuyền cổ rất nặng, áp lực từ cả chiếc thuyền lớn đè ép xuống miệng giếng hẹp, khiến người trong giếng phải chống lại hết sức chật vật.

      Ba người mất bao nhiêu sức lực mới bò ra khỏi miệng giếng sâu mấy mét. Bơi ra khỏi đáy thuyền, họ trông thấy cả con thuyền chìm dầm, trong khi nước sông xung quanh nhuộm đỏ màu máu. Máu thuyền loang ra khắp xung quanh, đâu đâu cũng tanh nồng mùi máu đến buồn nôn.

      Ba người nổi lên mặt nước, thấy chiếc thuyền gỗ họ lấy từ trong kho dưới chân đê xoay tròn sông. Bọn họ lên thuyền, thấy mọi thứ vẫn y nguyên, có điều thấy lão Tôn đâu cả.

      Vương Uy lấy làm thắc mắc, chẳng hiểu lão Tôn đâu mất rồi, con sông ngầm này rộng mênh mông, chiến thuyền cổ cũng chìm, còn con thuyền nào khác cả, lão Tôn có thể đâu?

      Từ Dương Hoài Ngọc lớn lên bên cạnh lão Tôn, e rằng còn thân thiết với lão hơn cả bố đẻ. thấy lão Tôn đâu cả, hoảng cả lên, ngờ rằng lão lên chiến thuyền cổ kia, toan lặn xuống tìm, nhưng bị Nhị Rỗ kéo lại.

      Nhị Rỗ hừm tiếng, :

      -Này tây rởm, tưởng lão Tôn là người tử tế à? Chẳng qua ông ta coi các người là ma thế mạng, làm kẻ mở đường cho ông ta thôi.

      Dương Hoài Ngọc đời nào chịu để yên cho Nhị Rỗ xấu lão Tôn, liền rút súng gí vào đầu Nhị Rỗ, lạnh lùng :

      -Bác ấy có điều gì sai trái cũng đến lượt hạng người như bình phẩm.

      Nhị Rỗ cũng lạnh lùng nhìn Dương Hoài Ngọc, :

      -Lão Tôn làm gì tôi còn hơn , tưởng lão giúp hoàn thành di nguyện của ông Thomas bố đấy à? Lão chỉ vì bản thân mình thôi.

      Dương Hoài Ngọc nghe mà mắt toé lửa giận, giữ chặt cò súng, sẵn sàng bắn bất cứ lúc nào. Vương Uy biết tính khí tây rởm này, ta xuất thân từ cướp biển, giết người đốt nhà như cơm bữa, xưa nay chưa từng đến quy củ, vội giật lấy khẩu súng trong tay ta.

      Nhị Rỗ nhếch mép cười bảo Dương Hoài Ngọc:

      - con sông ngầm này có ai khác, lão Tôn lại vô duyên vô cớ mất tích, chẳng đáng ngờ sao?

      Dương Hoài Ngọc tức giận:

      -Dưới hang ngầm này quá nhiều nguy hiểm, bác ấy tuổi cao, tôi lo rằng bác ấy xảy ra chuyện gì đó rồi. Bác ấy đối với tôi thế nào tự tôi biết , mượn là người ngoài này nọ.

      Chợt Vương Uy nhớ ra điều gì, vội :

      -Lẽ nào lão Tôn khoá cánh cửa sắt dưới thuyền kia lại?

      Nhị Rỗ gật đầu;

      -Đúng vậy, lão già này tâm địa hiểm ác, đem thí mạng các người đấy, mẹ kiếp, đúng là chẳng ra gì.

      Vương Uy ngăn Dương Hoài Ngọc bừng bừng lửa giận lại, rồi quay sang mắng Nhị Rỗ:

      -Rốt cuộc là chuyện gì? Lý nào lão Tôn lại muốn hại chết chúng tôi?

      Nhị Rỗ thở dài, :

      - tới nguyên nhân bên trong, phải kể từ Trấn Đông đại tướng quân Trương Tử Thông, viên tướng hạng nhất dưới cờ của Vạn Lịch hoàng đế.

      Năm xưa Trương Tử Thông dốc hết tâm tư vào việc phá thế đất dữ Bối long khư, cuối cùng ông ta cùng tìm được cách phá giải, nhưng cách ấy phải tốn nhiều thời gian mà ông ta thể chờ đợi nổi. Trong tình huống bất đắc dĩ, Trương Tử Thông đành chọn cách này, nhưng cái giá phải trả khi sử dụng là sinh mạng của năm nghìn tướng sĩ.

      Mục đích Trương Tử Thông đóng chiến thuyền cổ này phải là để tuần thám sông ngầm, phá giải Bối long khư như ghi chép của ông ta. ra, trước khi đóng thuyền, ông ta hiểu bí mật của Bối long khư rồi, mục đích ông ta như vậy chỉ là để đánh lừa năm nghìn tướng sĩ mà thôi.

      Chiến thuyền cổ này là toà lâu thuyền, chia ra làm ba tầng thượng, trung và hạ. Khoang thuyền ở tầng thương và tầng trung được thiết kế giống như những lâu thuyền khác, đều được làm bằng gỗ sam loại thượng đẳng, chỉ duy nhất có khoang dưới cùng là làm bằng sắt. ra, cả khoang dưới cùng này đều được đúc toàn bằng gang dày đến ba mươi phân, ngay cả cửa khoang cũng được đúc bằng sắt dày, chỉ cần khoá ngoài bên trong thể nào mở ra nổi. Kỳ thực, tầng dưới cùng này chính là cỗ máy giết người mà Trương Tử Thông thiết kế.

      Nghe đến đây Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều ngớ ra. Theo Trương Tử Thông thuyền có thứ quái gở gì đó lặng lẽ giết hết năm nghìn tướng sĩ của ông ta, lẽ nào năm nghìn tướng sĩ ấy lại là do Trương Tử Thông giết ư?

      Nhị Rỗ :

      - Đúng là thuyền có thứ quái gỡ, người thường thế thấy nó được, nó cứ thầm giết người để lại dấu vết. Nhưng thứ đó là do chính Trương Tử Thông đưa lên thuyền, mục đích là để giết hết đám trợ thủ của ông ta.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhất thời sao chấp nhận nổi quan điểm của Nhị Rỗ, vẫn nghe người sắp chết đều lời , Trương Tử Thông quả thực chết sau khi ông ta hoàn thành những ghi chép kia, tại sao trước khi ông ta còn viết ra những lời giả dối làm gì?

      Nhị Rỗ giải thích:

      -Trương Tử Thông vốn là người bất chấp thủ đoạn nhằm đạt được mục đích, để có thể phá giải cách cục phong thuỷ thần bí Bối long khư, ông ta dốc hêt tâm tư, cuối cùng chẳng nề chôn vùi cả sinh mạng của chính mình và năm nghìn tướng sĩ. Nghe dưới đáy biển Đông có loài thuỷ mẫu, còn gọi là huyết mẫu, loài sinh vật ở biển sâu này chuyên hút máu, được mệnh danh là quỷ hút máu đáy biển. Huyết mẫu thông thường chỉ lớn bằng bàn tay, nhưng nó hút máu của những động vật khác để sống, chỉ cần được cung cấp đủ máu nó lớn dần, càng lớn càng cần nhiều máu hơn. Trương Tử Thông ngẫu nhiên bắt được con huyết mẫu từ dưới đáy biển sâu hai nghìn mét, ông ta nhất thời hứng khởi, bèn nuôi nó bên mình. Để phá giải Bối long khư dưới hang sâu, ông ta tìm đủ mọi cách nhưng có kết quả, bỗng trông thấy con huyết mẫu trong tráp ngọc, ông ta lập tức nảy ra kế. Đôi mắt rồng của Bối long khư vẫn luôn náu tại nơi khí nặng nề nhất trong cả bố cục phong thuỷ, nơi này nằm giữa dương, tuy Trương Tử Thông tinh thông bí thuật tìm địa nhãn phong thuỷ, nhưng muốn tìm được đôi mắt rồng cũng khó khăn vô cùng. Có điều, dưới dòng sông ngầm này, Trương Từ Thông lại phát ra loài cá, theo cách trong bí thuật phong thuỷ địa nhãn gọi là cá địa , tức là loài cá náu tại nơi khí nặng nề nhất. Loại cá này bơi lội trong nước rất nhanh, lại chỉ mình, thoáng cái biến mất dưới dòng sông ngầm. Nếu có ai bám theo đến được hang ổ của cá địa có thể tìm thấy vị trí đôi mắt rồng của Bối long khư. Trương Tử Thông nuôi huyết mẫu là để dùng máu thu hút hàng loạt cá địa . Ông ta giấu huyết mẫu trong khoang thuyền lớn được cách ly, bên ngoài khoang thuyền là nơi nghỉ ngơi của tướng sĩ, khi tướng sĩ ngủ say, Trương Tử Thông mở cơ quan phong bế bức tường sắt, khe hở bức tường sắt vừa mở, nước trong khoang thuyền bị cách ly kia tràn ra. Xúc tu của huyết mẫu có thể co duỗi tuỳ ý, chúng bò theo dòng nước, hễ chạm vào sinh vật sống nào những cái vòi kia quấn chặt lấy, giác hút ở đầu vòi bám chặt vào mạch máu, chỉ trong nháy mắt là hút kiệt máu, biến con người trở thành cái xác khô. Dần dà năm nghìn tướng sĩ cứ thế chết dần chết mòn, con huyết mẫu cũng mỗi ngày lớn, cái vòi của nó có thể tự động co duỗi trong phạm vi từ mấy chục trượng đến hơn trăm trường. Trương Tử Thông chờ cho huyết mẫu lớn đến mức độ nhất định rồi đào cái giếng ngay dưới phòng cách ly của khoang thuyền, nhét huyết mẫu xuống đấy, xúc tu của huyết mẫu đủ dài, có thể hút máu những sinh vật dưới sông ngầm. Đáng tiếc là Trương Tử Thông tính hết thiên cơ, cứ ngỡ rằng làm vậy có thể giữ lại được số tướng sĩ, nào ngờ huyết mẫu mỗi ngày lớn, lượng máu cần thiết mỗi ngày nhiều mà con sông ngầm này dù sao cũng nằm dưới hang động ngầm ở sâu dưới lòng đất, nước sông chính là tuyết từ dãy núi Đường Cổ Lạp tan chảy xuống mà thành, sinh vật trong nước rất ít, đủ đáp ứng nhu cầu của con huyết mẫu khổng lồ kia. Cuối cùng năm nghìn tướng sĩ đều chết sạch, ngay cả Trương Tử Thông cũng chỉ có thể trơ mắt nhìn tướng sĩ chết dần chết mòn, tự biết hết cách xoay trời chuyển đất, đến cuối cùng sinh ra suy sụp tinh thần, mới viết những lời lung tung đó vào di chúc rồi cũng chết vì huyết mẫu.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc tròn xoe mắt, há hốc miệng nghe Nhị Rỗ kể, vậy những cánh tay giống tay người tấn công họ trong căn phòng sắt đều là do xúc tu của huyết mẫu khống chế. Nghĩ đến quái vật đó năm trăm năm nay đoạt vô số sinh mạng, hút bao nhiêu máu, Vương Uy bỗng sởn cả gai ốc.

      đến đây Nhị Rỗ chợt mím môi, chỉ vào bóng tối, :

      -Xin chỉ huy hãy cẩn thận, đôi mắt rồng của Bối long khư sắp xuất rồi. Chỉ người nào có mắt dương mới có thể nhìn thấy nó mà thôi, chỉ huy chú ý, thời cơ phá Bối long khư đến rồi.

      Câu của Nhị Rỗ khiến Vương Uy bừng tỉnh, trong ba người chỉ mới có thể trông thấy đôi mắt rồng của Bối long khư. Huyết mẫu chết, máu mà nó hút tràn khắp sông, nhiều máu như thế thu hút cá địa từng đàn kéo đến kiếm ăn. Đuổi theo con cá địa rất khó, nhưng theo đàn dễ hơn nhiều.

      suy nghĩ, chợt trước mắt Vương Uy sáng bừng lên, chỉ thấy trong bóng tối có hai quả cầu sáng lập loè từ từ bay tới, toả ra ánh sáng xanh lét, hệt như đôi mắt rồng của Bối long khư mà thấy khi trước. Vương Uy thầm ngạc nhiên, trước đây đôi mắt rồng mà thấy chỉ là đám lờ mờ, thậm chí thể phân biệt nổi giả nhưng đôi mắt này lại to như hai khối cầu lửa. Thấy Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc vẫn ngẩn ra chăm chú nhìn mặt sông, Vương Uy khẽ:

      -Chuẩn bị chèo thuyền , mắt rồng xuất rồi.

      Nghe Vương Uy vậy, Nhị Rỗ vội quay vào khoang thuyền, cầm mái chèo chuẩn bị nghe theo chỉ huy của Vương Uy. Vương Uy cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc đưa, chiếu vào vị trí đôi mắt rồng xuất , suýt nữa phát hoảng lên. Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc tuy trông thấy mắt rồng, nhưng dưới ánh đèn pin loang loáng, cả hai vẫn thấy mặt nước, chỉ thấy dưới nước là vô số những con cá to đàn đàn lũ lũ bơi đến. Thân cá chìm trong nước nhưng sống lưng vừa cao vừa dài nổi gồ lên mặt nước, khiến mặt sông gợn lên đầy bọt sóng, cảnh tượng tráng lệ.

      Đàn cá địa xúm xít quanh nơi chiến thuyền cổ bị chìm, cả mặt sông đều nhuộm đỏ màu máu, bọn chúng vừa thấy máu liền nhao nhao trồi lên mặt nước. Ngồi thuyền gỗ, ba người được dịp quan sát kỹ, quả nhiên những con cá địa lớn lên trong dòng sông ngầm sâu dưới đất mấy trăm mét này, con nào con nấy trông đều hung dữ, há miệng điên cuồng hớp máu, thấy mà sởn cả da gà.

      Máu từ chiến thuyền cổ chảy ra ồ ạt, cá địa uống máu hàng mấy canh giờ mới kéo đàn bỏ . Vương Uy thấy kinh hãi, thầm phục Trương Tử Thông thông mình, ông ta biết cá địa khát máu, khí hớp no máu, chúng bơi chậm lại, bám theo truy tìm đến nơi có Bối long khư cũng dễ hơn. Nhưng dù thông minh đến đâu chăng nữa, Trương Tử Thông cũng có lúc tính toán sai, cuối cùng chẳng những có cơ hội phá giải bí mật về Bối long khư mà ngược lại, còn mất hết những gì mình có.

      Cá địa rẽ nước từ từ bơi dòng sông ngầm, Vương Uy chỉ việc soi đèn pin bám theo đàn cá, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc chèo thuyền theo ánh đèn pin.

      Chiếc thuyền gỗ nhanh chậm lướt mặt nước, tâm trạng Vương Uy cũng dần bình ổn lại, điều thắc mắc nhất là Nhị Rỗ làm cách nào mà xuống được cái hang ngầm này, hơn nữa còn biết việc đến vậy. Vương Uy càng nghĩ càng nghi ngờ, chợt cảm thấy mình kỳ thực hiều gì về Nhị Rỗ cả, Nhị Rỗ trước mặt đây và Nhị Rỗ hơn chục năm nay vẫn theo hoàn toàn là hai con người khác nhau.

      nghĩ ngợi lúc rồi gắng trấn tĩnh hỏi Nhị Rỗ:

      - vào khoang thuyền cách ly ấy bằng cách nào?

      Nhị Rỗ mải miết chèo thuyền, nghe thấy Vương Uy hỏi, gã bỗng ngớ ra, vừa ngước lên liền bắt gặp cặp mắt nghi ngờ của Vương Uy.

      Vương Uy lạnh lùng :

      -Có phải vẫn bám theo sau đội thám hiểm ? Hôm ấy Ngọng bảo ta trông thấy , tôi vẫn tin, bây giờ nghĩ lại kẻ đó chắc chắn là .

      Nhị Rỗ tắt hẳn nụ cười, đáp:

      -Thưa chỉ huy, tôi cần phải giấu giếm làm gì. Hôm ấy chỉ huy bị đội thám hiểm của lão Tôn bắt, tôi nấp trong rừng rậm thấy tất cả, lẽ ra lúc ấy phải ra tay cứu chỉ huy và hai thằng kia, nhưng tôi thấy lão Tôn nên bỏ hẳn ý nghĩ đó, bèn đổi sang cách thầm theo mọi người.

      Vương Uy thắc mắc:

      -Lão Tôn ấy à?

      Nhị Rỗ ngẩng lên nhìn Vương Uy và Dương Hoài Ngọc, :

      -Từ khi gặp lại hai người trong khoang thuyền cách ly, tôi vẫn luôn nghi ngờ lão Tôn, mà hai người cũng có muôn vàn thắc mắc, tiện đây tôi xin kể lại mọi ân oán giữa tôi và lão Tôn vậy.

      Im lặng lúc, Nhị Rỗ chậm rãi kể:

      -Tôi với lão Tôn đều là truyền nhân của bí thuật địa nhãn phong thuỷ. Luận vai ế, ông ấy còn là sư huynh của cha tôi nữa kìa. Nhưng bí thuật truyền kỳ này của Trung Hoa rất khó hiểu, thuyết phong thuỷ vốn cũng rất mơ hồ, muốn tham thấu đến tận cùng đạo lý hình thành nên núi cao sông dài, nếu có ngộ tính cực cao chẳng cách nào làm nổi. Ông nội tôi là bậc cao nhân trong dân gian nhưng đến đời cha tôi lại chẳng hề có chí tiến thủ, chút kiến thức bề ngoài cũng học được. Về sau trong lần hành tẩy giang hồ, ông tôi đụng phải toán thổ phỉ, bị chúng bắt, may sao đúng lúc đó có bọn thổ phỉ khác đến cướp trại, đánh tan bọn thổ phỉ kia. Lão Tôn là đầu lĩnh của bọn thổ phỉ cứu ông tôi, thấy ông tôi ăn mặc rách rưới, biết kiếm chác được gì, liền thả ông ra. Cả đời ông tôi hễ mang ơn là phải đền đáp, trò chuyện với lão Tôn hồi, ông tôi cảm thấy lão tuy xuất thân thảo mãng, nhưng có khiếu về mặt phong thuỷ, có thể rèn giũa được, vậy là để đền đáp công ơn cứu mạng ông tôi liền truyền cho lão cổ thuật truyền kỳ. Bí thuật phong thuỷ địa nhãn của tổ tiên chúng tôi xưa nay chỉ truyền cho con trai, truyền cho con , truyền cho người trong họ, truyền cho người ngoài, đến đời ông tôi, thấy cha tôi có khiếu học về phong thuỷ, nghĩ lại bản thân đến từng tuổi này, biết đâu ngày nhắm mắt xuôi tay, chẳng phải bí thuật tổ truyền cũng bị mai ư? Vừa gặp được lão Tôn, ông nội tôi lập tức sinh lòng mến tài, hơn nữa lão ta còn là ân nhân cứu mạng, nên ông dốc lòng truyền dạy mọi bí thuật phong thuỷ địa nhãn gia truyền của dòng họ Triệu cho lão.

      - Lão Tôn rất có khiếu, theo học ba năm có chút thành tựu, ông tôi vui lắm. ngờ, ba năm sau, đêm lão Tôn lại giở ngón đào tường khoét vách của bọn giặc cướp, lẻn vào tầng hầm nơi để sách của ông tôi, đánh cắp cuốn sách gia truyền của nhà họ Triều rồi từ đấy bỏ biệt tích. Hơn ai hết, ông tôi biết đó là cuốn sách vô cùng quan trọng, ngay cha tôi cũng chưa bao giờ được nghe ông nhắc đến, chỉ là trong lúc ngẫu nhiên truyền dạy mới sơ sểnh để lộ ra, lão Tôn nghe thấy liền nảy lòng tham. Cuốn sách bị lão Tôn đánh cắp khiến ông tôi tức giận đổ bệnh liệt giường. Hồi đó tôi còn , ông tôi nằm giường bệnh hơn năm trời, đoán rằng mệnh mình còn bao lâu nữa, lại chẳng trông mong gì được ở cha tôi, bèn với tôi về cuốn sách đó và tất cả bí thuật phong thuỷ địa nhãn của tổ tiên dòng họ Triệu, để tôi có thể nhớ được bao nhiều nhớ.

      Vương Uy :

      -Phải chăng trong cuốn sách đó có ghi chép những điều liên quan đến hang ngầm này?

      Nhị Rỗ gật đầu:

      -Đúng vậy. Chắc mọi người ngờ, năm trăm năm trước, nhà họ Triệu chúng tôi cũng có quan hệ với đại tướng quân Trương Tử Thông.

      Vương Uy giật mình, hèn chi Nhị Rỗ biết về Trương Tử Thông và chiến thuyền cổ như vậy. Tiếp theo, càng lo ngại hơn, nếu lão Tôn xuống hang ngầm này với mục đích khác, vậy Nhị Rỗ cùng với xông pha khắp miền Xuyên Trung phải chăng cũng có mục đích riêng?

      Vừa nghĩ vậy, lòng Vương Uy chợt thoáng chút sợ hãi. Nhị Rỗ theo vào sinh ra tử mười mấy năm trời, cùng thoát chết trong gang tấc biết bao nhiều lần. Phải rằng, đời này Vương Uy Nhị Rỗ còn biết tin ai nữa. Nhưng cứ nghĩ đến việc Nhị Rỗ ôm mục đích khác, tiềm phục bên mười mấy năm trời, bất giác Vương Uy lạnh mà run, hơn nữa, dọc đườn gã luôn có hành tung kỳ dị, xuất quỷ nhập thần, bảo Vương Uy nghi ngờ sao được. Nhị Rỗ :

      -Hơn năm trăm năm trước tổ tiên nhà họ Triệu chúng tôi cũng có vị tướng quân, tên gọi Triệu Chiêu, là phó tướng của đại tướng quân Trương Tử Thông. Trương Tử Thông và Triệu Chiêu quen biết nhau từ thời trẻ, về sau lần lượt tòng quân, Trương Tử Thông thuận buồm xuôi gió cứ thế thăng tiến, Triệu Chiêu tới đầu quân cho Trương Tử Thông, sau mấy trận đánh, thấy Triệu Chiêu mưu trí dũng, Trương Tử Thông rất coi trọng. Trương Tử Thông dẫn quân Nam chinh Bắc chiến mà người duy nhất có tiếng trong hàng ngũ lính tráng là Triệu Chiêu, có có lại, Trương Tử Thông bèn truyền thuật phong thuỷ địa nhãn cho ông ta. Triệu Chiêu thông minh hơn người, chỉ mấy năm thua kém gì Trương Tử Thông. Khi Trương Tử Thông được Vạn Lịch hoàng đế cử đến Tứ Xuyên, Tây Tạng, Triệu Chiêu dẫn quân chinh chiến bên ngoài nên mới thoát. Trương Tử Thông đắp đê bên con sông ngầm, đóng chiến thuyền mất hơn chục năm, thời gian đó có viết cho Triệu Chiêu lá thư kể mọi kế hoạch, hỏi ý Triệu Chiêu xem làm vậy có được , nếu được nhờ Triệu Chiêu tâu lại với hoàng đế, xin điều thêm vạn binh mã đến. Đáng tiếc, bấy giờ Vạn Lịch hoàng đế già yếu lắm rồi, chỉ miệt mài lo hưởng lạc, từ lâu quên khuấy đại tướng quân Trương Tử Thông và vị lạt ma già mười năm trước.

      Nhị Rỗ mê mải kể, nhưng Dương Hoài Ngọc nghe mà lòng đầy đau đớn. Từ trước đến nay Dương Hoài Ngọc vẫn xem lão Tôn như cha đẻ, nhưng phải là kẻ ngốc, trái lại bao nhiêu năm làm cướp biển rèn luyện cho trí tuệ hơn người, chỉ biết vẻ bề ngoài của lão Tôn, còn lòng dạ lão thâm hiểm ra sao chỉ có lão mới biết. Có điều so sánh hơn chục năm sống cùng lão, với câu chuyện vừa rồi của Nhị Rỗ, cũng nhận thấy Nhị Rỗ đúng, rất có thể bị lão Tôn lợi dụng. Nhưng , lão Tôn cũng nuôi khôn lớn, cho dù Nhị Rỗ vạch ra đủ mọi vấn đề về lão, vẫn lo cho an toàn của lão.

      Ba người, mỗi người tâm tư, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đờ đẫn khua chèo, bỗng thấy Vương Uy kêu to:

      -Nhìn kìa, bầy cá lặn xuống.

      Câu của Vương Uy đối với Nhị Rỗ khác gì quả lựu đạn, đứng sàn thuyền, gã lập tức nhảy dựng lên, chạy đến bên Vương Uy. Vương Uy chiếu đèn pin lên mặt nước, chỉ thấy cá địa từng đàn lặn xuống sâu làm mặt nước cuộn sóng, những con cá địa ở phía sau cũng theo đó mà lộ ra mặt nước.

      Nhị Rỗ :

      -Đúng rồi, nơi này đúng là đôi mắt rồng của Bối long khư, chúng ta phải tranh thủ nhảy xuống theo trước khi chúng lặn hết.

      xong, gã lấy ra từ ba lô đeo sau lưng bọc thuốc nổ dưới nước, chắc hẳn có chuẩn bị từ trước.

      Nhị Rỗ cầm bọc thuốc nổ định nhảy xuống nước, nhưng bị Vương Uy từ phía sau lôi lại:

      -Cá địa là loài cá ăn thịt người, xuống như vậy nguy hiểm lắm.

      Nhị Rỗ cười hì hì với Vương Uy:

      - còn thời gian nữa đâu, Trương Tử Thông mất năm trăm năm mới tạo nên cơ hội này, nếu nắm lấy nó cả đời chúng ta đừng hòng phá nổi Bối long khư. Lũ cá địa này no máu, khả năng tấn công người là rất thấp, tôi phải xuống ngay bây giờ.

      chờ Vương Uy thêm, Nhị Rỗ liền ôm bọc thuốc nổ nhảy xuống nước, mặt nước sủi lên mấy chiếc bong bóng rồi cũng lặng dần.

      Nước sông ngầm chảy đến đây trở nên xiết hơn, Dương Hoài Ngọc phải gắng sức chèo chống mới giữ vững được con thuyền.

      Vương Uy cũng hợp sức với Dương Hoài Ngọc chống thuyền, cố giữ cho con thuyền xoay tròn tại chỗ. Gần đây Vương Uy đều cảm thấy mỗi ngày dài như năm, cứ chăm chăm dán mắt vào mặt nước, hề chớp mắt. Chẳng biết bao lâu, bỗng từ dưới nước nhô lên người toàn thân đầy máu, chính là Nhị Rỗ.

      Vương Uy vội buông mái chèo, vung Đoạn Môn chỉ ra đánh bay hai con cá địa cắn cánh tay Nhị Rỗ. Nhị Rỗ leo lên thuyền, thở hồng hộc. Vương Uy biết gã bơi quá nhanh nên khi hít thở bị đau mạng sườn, chưa thể gì ngay được, liền vỗ vỗ lên vai Nhị Rỗ giúp gã điều hoà lại hơi thở.

      Nhị Rỗ lại ra dấu đòi mình chèo thuyền ngay lập tức khiến Vương Uy sực hiểu ra gã đốt thuốc nổ dưới nước. vội vơ lấy mái chèo, Dương Hoài Ngọc trông tình hình cũng hiểu ra việc, hai người chèo lấy chèo để, làm bọt nước bắn tung toé, con thuyền băng băng lướt theo dòng.

      Nhưng muộn, dưới nước bỗng vang lên tiếng nổ lớn, sóng nước cuộn lên, ập vào thuyền, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chèo như điên, mặt sông nổi sóng to, tiếng nổ dưới nước mỗi lúc lớn, tựa như cả ngọn núi bị nổ tung vậy. Đồng thời, tiếng vọng từ bốn phía hang ngầm ong ong vẳng lại cơ hồ thủng màng nhĩ, đá trần hang rào rào rơi xuống, mực nước cũng hạ thấp hẳn.

      Vương Uy kêu to hỏng rồi, cả khối núi bị Nhị Rỗ đánh sập, lần này coi như xong, giận dữ trừng mắt nhìn Nhị Rỗ. Nhị Rỗ cũng lộ vẻ kinh hoàng, ràng gã cũng ngờ bọc thuốc nổ kia lại có sức công phá mạnh đến thế.

      Họ đành trơ mắt nhìn mực nước thình lình tụt xuống, con thuyền gỗ cũng tụt xuống theo, bốn bề xung quanh núi đá lở rào rào, chỗ nào cũng nghe tiếng uỳnh oàng như sấm. Họ cảm nhận rằng con thuyền rơi xuống, thân người chợt hẵng như mây vậy, cách gì phản kháng, cũng có thứ gì để mượn lực.

      Ba người nắm chặt lấy mạn thuyền, giờ đây cái duy nhất họ có thể bám víu chỉ là chiếc thuyền này mà thôi, sàn thuyền bị đá từ trần hang rơi xuống làm thủng mấy chỗ những lúc này giữ mạng là quan trọng nhất, chẳng lo được chuyện gì khác nữa.

      Vương Uy hét lên bảo Nhị Rỗ:

      -Chúng ta rơi xuống đâu thế này?

      Nhị Rỗ cũng rất hoang mang, đáp:

      -Tôi biết nữa…

      Con thuyền gỗ còn mặt nước nâng đỡ, cứ điên cuồng chao đảo giữa trung. Vương Uy sao đứng lên nổi, bằng muốn đá cho Nhị Rỗ cái.

      Dương Hoài Ngọc dù sao cũng là phụ nữ, dù mặt đất có hung hãn đến đâu chăng nữa, rơi vào cảnh này cũng sợ đến tái mét mặt, đờ đẫn cả ra. Mọi người đều biết, nếu phía dưới phải là vực nước, rơi từ độ cao này xuống, bọn họ khó tránh khỏi cái chết.

      Hai tay Nhị Rỗ bám lấy mạn thuyển, mặt đỏ gay vì sợ hãi, nhắm mắt kêu toáng lên:

      -Cứu con với… Lạy Quán Thế Bồ tát Đại từ Đại bi…

      Vương Uy giận đến suýt nữa bật cười, tai hoạ này là do Nhị Rỗ gây nên, vậy mà gã lại kinh hoàng hơn ai hết. Bỗng cái bóng khổng lồ lướt ngang qua con thuyền gỗ, Vương Uy giật mình, hét bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:

      -Vừa rồi hai người có thấy gì ?

      Nhị Rỗ nhắm mắt, giọng run run:

      -… tôi nhắm mắt, thấy gì…

      Dương Hoài Ngọc bình tĩnh đáp:

      -Tôi có thấy, hình như là bức tượng Phật, bức tượng Phật rất lớn.

      Nghe Dương Hoài Ngọc như vậy, Vương Uy liền hỏi:

      - khẳng định đấy là bức tượng Phật chứ?

      Dương Hoài Ngọc gật đầu:

      -Chắc chắn là bức tượng Phật, tôi trông mặt pho tượng đó mà.

      Vương Uy lấy làm lạ con thuyền bỗng đụng phải vật gì đó, dừng khựng lại, tiếp đó chỉ nghe rầm rầm mấy tiếng, mấy thanh gỗ đâm xuyên qua sàn thuyền, chiếc thuyền lật úp, lộn vòng rơi xuống. Thuyền vừa lật, người thuyền cũng ngã nhào xuống.
      Last edited by a moderator: 23/9/14

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Vương Uy cuống quýt vung chân huơ tay quờ quạng loạn lên, nắm được cành cây, nào ngờ rơi quá nhanh, vừa tóm được vào cành cây, vít cả cành cây to bằng cánh tay gãy rời. Vương Uy sợ quá, phải vội vàng ôm lấy thân cây mới khỏi rơi xuống đất.

      Rất may, trong lúc hoảng loạn vẫn giữ được cái đèn pin, Vương Uy bật đèn chiếu quanh vòng, ra họ cái cây to. Chiếc thuyền gỗ bị ba cành cây to bằng cánh tay đâm thủng, vỡ thành ba mảnh treo lơ lửng cành cây. biết đây là cây gì, chỉ thấy lá cây rất to, giống như chiếc quạt hương bồ người miền Nam vẫn phe phẩy trong mùa hè vậy.

      Chẳng thấy Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc có động tĩnh gì, Vương Uy liền chõ xuống dưới gọi. Nhị Rỗ từ cành cây ngay dầu Vương Uy tụt xuống, gọi:

      -Chỉ huy, việc gì chứ?

      Vương Uy xua tay:

      - thấy tây rởm kia đâu, chúng ta tìm xem.

      Vương Uy vừa xong nghe Dương Hoài Ngọc từ dưới gốc cây gọi to:

      -Tôi ở đây, hai thế nào rồi?

      Vương Uy và Nhị Rỗ vội tụt xuống, nào ngờ cái cây này tuy lớn, chỉ chừng hai người ôm, nhưng rất cao, hai người tụt xuống đến chỗ thân cây có lá, vẫn còn cách mặt đất chừng mười mấy trượng, thấy Dương Hoài Ngọc đứng dưới gốc cây nhìn lên.

      Thấy hai người từ cây tụt xuống, Dương Hoài Ngọc :

      -Hình như đây là khu rừng ngầm dưới lòng đất, các xem, phía bên rừng cây tối om, có chút ánh sáng nào cả.

      Nhị Rỗ cười:

      -Chúng ta từ trong hang tụt xuống, chắc chắn phía thể là vòm được, lẽ nào chút kiến thức thông thường đó Ngọc cũng biết?

      Dương Hoài Ngọc tức giận:

      -Đều tại cả…

      Vương Uy trừng mắt nhìn Nhị Rỗ, :

      -Tại làm nổ tung Bối long khư rồi đấy, bảo bây giờ tính sao đây?

      Nhị Rỗ lắc đầu:

      -Tôi chỉ biết ông tôi bảo phải làm theo cách của Trương Tử Thông để phá Bối long khư mà thôi, sau khi cho nổ tung Bối long khư rồi sao, chẳng ai bảo tôi cả.

      Dương Hoài Ngọc nghe liền nổi giận, nếu Vương Uy can, hẳn lia cho Nhị Rỗ loạt đạn rồi.

      Cả ba người đều hiểu, đây mới thực là thế giới chưa ai biết tới, nơi này ít nhất cũng cách mặt đất đến mấy nghìn mét, đầy rẫy nguy hiểm.

      Theo Nhị Rỗ, hồi xưa ông nội gã chưa đọc hết toàn bộ cuốn sách, có phần nội dung ở cuối sách bị rách nát, thể khôi phục nổi. Lão Tôn trộm cuốn sách đó , dựa vào bản lĩnh tung hoành khắp Đông Nam Á cũa lão ta, rất có thể xem hoàn chỉnh nội dung trong đó rồi. Năm xưa Nhị Rỗ cũng nghĩ phải tìm di cốt Trương Tử Thông, ông nội gã chỉ dặn phải tìm lại cuốn sách bị lão Tôn đánh cắp để tạ tội với liệt tổ liệt tông mà thôi, ngoài ra dặn thêm gì. Chẳng qua Nhị Rỗ ngẫu nhiên gặp lão Tôn trong rừng sâu giáp giới giữa Tứ Xuyên và Tây Tạng mới nổi hứng theo dõi lão, lặn lội lần đến tận đây.

      Nhưng điều khiến mọi người thắc mắc chính là, lão Tôn biết cách phá Bối long khư, vậy tại sao sau khi huyết mẫu chết, máu chảy loang ra sông ngầm, ông ta nhân cơ hội ấy mà cho nổ tung đôi mắt rồng của Bối long khư? Hoặc cách khác, ông ta mất tích vô duyên vô cớ như vậy, liệu có phải cũng rơi xuống khu rừng dưới lòng đất này, hay tới nơi nào khác?

      Điều này vẫn chưa có lời giải đáp, giờ có tung tích gì của lão Tôn, lão này đúng là bí . Có điều lúc này ba người bọn họ rơi vào đường cùng, có tâm trí nào lo chuyện khác nữa, trước hết phải nghĩ cách thoát khỏi tình cảnh tại cái .

      Họ chỉnh đốn hành trang, ngồi dưới gốc cây nghỉ lúc, rồi tiến sâu vào khu rừng nguyên thuỷ. Cánh rừng này tồn tại dưới lòng đất nghìn vạn năm nay, có dấu vết con người, trong rừng cây cối um tùm, cỏ dại rậm rạp, có đường . Ba người phải dùng súng để rẽ lối tìm đường, nhiều lúc vừa vạch cỏ cây ra thấy trước mặt lù lù xuất cái xác động vật to tướng, khiến người ta lợm cả giọng, khó chịu vô cùng.

      Cứ thế, họ được mấy cây số, Nhị Rỗ dẫn đầu, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc theo sau, để tiết kiệm pin, bọn họ phải dùng cành khô làm đuốc. Đột nhiên, Nhị Rỗ chui vào giữa đám lá rậm rì, bỗng ré lên kinh hãi, làm cho Vương Uy và Dương Hoài Ngọc giật nảy mình.

      Hai người vội vã chui vào xem, mặc cho những con sâu tán lá bám vào cổ mình. Vừa vào đến nơi, họ cũng kinh hoàng hét lên, hệt như Nhị Rỗ.

      Chỉ thấy ngôi nhà gỗ chình ình ngay trước mặt bọn họ, ngồi nhà này xem ra bỏ lâu, dây leo bọc kín ngôi nhà. Nếu nóc nhà lộ ra cũng khó phát ra ngôi nhà giữa đám cây cối um tùm.

      Cả ba người đều hết sức hiếu kỳ, bèn thận trọng vòng qua đám dây nhợ gai góc, đến trước ngôi nhà. Họ phát ra những căn nhà như thế chỉ có , mà trái phải trước sau đều có, lẽ nào đây là nơi quần cư của cả bộ lạc?

      Người nào lại sống dưới lòng đất sâu thấy ánh mặt trời này? khiến người ta sao hiểu nổi.

      Vương Uy đứng trước ngôi nhà, định đẩy cửa, chợt Nhị Rỗ kéo lại, thào :

      -Chỉ huy có thấy quen ?

      Hành động và lời của Nhị Rỗ làm cho Dương Hoài Ngọc sinh nghi, đôi mắt sáng hết chằm chằm nhìn Nhị Rỗ rồi lại nhìn sang Vương Uy. Lúc này chỉ có mình, còn lão Tôn, chẳng có người tâm phúc nên thấy hai người kia lộ vẻ lạ lùng, cũng phải cẩn thận đề phòng.

      Vương Uy thận trọng quan sát kỹ bố cục những ngôi nhà, lòng chợt rúng động, đổi hẳn sắc mặt. quay sang hỏi Nhị Rỗ:

      -Những ngôi nhà gỗ này chúng ta từng gặp qua rồi, đúng ?

      Nhị Rỗ căng thẳng gật đầu, cả hai đồng thời nhớ tới lần ở trong cánh rừng giáp ranh giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Tây Tạng. Bố cục của ngôi nhà bên dưới bệ đá đó rất giống những ngôi nhà ở đây, vừa nghĩ tới điểm đó, cả hai bỗng thấy lưng đẫm mồ hôi lạnh, quả là quái gở vô cùng.

      Vương Uy thấy Dương Hoài Ngọc đầy vẻ nghi ngờ và Nhị Rỗ, có điều hề có ý thù địch gì với , hơn nữa dọc đường trải qua bao nhiêu nguy hiểm, nhận thấy tuy tính tình nóng nảy nhưng phải loại người tâm địa xấu xa, vả lại cũng coi là người ngoài, bèn kể với những chuyện mình từng gặp trong cánh rừng giáp giới Tứ Xuyên và Tây Tạng.

      Dương Hoài Ngọc sao tin nổi đời lại có những chuyện như thế, nhấn mạnh:

      -Hai chắc chắn nhìn nhầm đấy chứ? Hai nơi cách nhau cả ngàn dặm, sao lại có những ngôi nhà giống hệt nhau được?

      Vương Uy nghiêm trang :

      -Nếu chỉ mình tôi thế có thể nghi ngờ, nhưng cả cậu Nhị đây lúc ấy cũng cùng với tôi, chúng tôi thấy cách bố trí của những ngôi nhà gỗ ấy giống hệt những ngôi nhà này mà.

      Dương Hoài Ngọc nghe mà nổi da gà, chuyện này quả thực vô cùng quái gở, thậm chí có lý do nào giải thích nổi. Chẳng nhẽ người của bộ lạc nào đó trú ngụ trong cánh rừng giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Tây Tạng lại xuống ở dưới lòng đất sâu này hay sao?

      Vương Uy càng cẩn thận hơn, tay cầm đuốc, tay kia lăm lăm cây súng, đầy cửa nhà ra, chỉ nghe tiếng “kẹt”, tim cũng nảy thót lên. Bóng tối trong nhà bị xé toang, Vương Uy vừa đẩy cửa ra chợt thấy đôi mắt nhìn mình chằm chằm chớp, giật nảy mình, lập tức bóp cò súng.

      Theo kinh nghiệm hơn chục năm cầm súng của Vương Uy, với khoảng cách gần như thế này ắt phải trăm phát trăm trúng, nhưng lần này viên đạn bắn lại chệch rất xa.

      Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cảm thấy bên trong hình như có chuyện, bèn xông vào theo. Dương Hoài Ngọc vừa soi đèn pin, thình lình trông thấy bức tượng người chim cao bằng người sừng sững giữa nhà. Đôi mắt bức tượng dưới ánh đèn pin lung linh sinh động, sáng như mắt người sống.

      Nhị Rỗ nhịn được, buột miệng chửi thể:

      -Mẹ kiếp, quả nhiên hai nơi có liên hệ với nhau, ngay cả pho tượng người chim cũng giống hệt.

      Vương Uy lau mồ hôi trán, :

      - thấy bức tượng người chim chiến thuyền cổ ?

      -Thấy… đương nhiên là thấy… sao cơ? – Nhị Rỗ hỏi.

      - có biết tại sao Trương Tử Thông đặt bức tượng người chim ấy thuyền khồn? – Vương Uy hỏi.

      Nhị Rỗ cần suy nghĩ, ngay:

      -Nghe để trấn yểm tà ma dưới lòng đất, tránh cho con thuyền dòng sông ngầm bị tà ma quấy rối.

      Vương Uy chợt trừng mắt nhìn Nhị Rỗ, như muốn nuốt chửng ta vào bụng. Nhị Rỗ giật mình hỏi lại:

      -Chỉ huy, làm sao thế? Tôi sai đấy chứ?

      Vương Uy nhấn mạnh từng lời:

      -Năm xưa Trương Tử Thông đến đây, hai người có nhận ra ?

      Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cùng giật nảy mình, năm xưa Trương Tử Thông nghĩ đủ mọi cách mà phá nổi đôi mắt rồng của Bối long khư, sao lại xuống được cánh rừng dưới lòng đất này?

      Họ định hỏi cho nghe Vương Uy :

      -Chúng ta chia nhau xem xét từng ngôi nhà , xem có phải trong những nhà kia đều có tượng người chim ?

      xong, dẫn đầu ra, lần lượt đẩy cửa từng ngôi nhà, xông vào xem xét. bãi đất trống trong khu rừng này chỉ có gần chục nóc nhà như vậy, cuối cùng họ lại tụ lại trong gian nhà cuối cùng.

      Quả nhiên ngoài dự đoán của Vương Uy, trong nhà nào cũng có bức tượng chim, kích thước lớn bé như nhau, thần thái giống nhau như đúc, hơn nữa ngoài pho tượng ra, trong nhà còn thứ gì khác.

      Vương Uy đứng trong gian nhà gỗ cuối cùng, vẻ mặt căng thẳng, :

      -Hai người có thấy gì , ánh mắt của pho tượng người chim chiến thuyền cổ và ảnh mắt của những tượng người chim này rất giống nhau. Nhìn vào mắt chúng, người ta đều có cảm giác sợ hãi, cảm thấy sau lưng có gì đó chằm chặp nhìn mình. Nhưng bức tượng người chim chúng ta phát được trong khu rừng giáp ranh hai tỉnh Tứ Xuyên và tây Tạng lại khác hẳn, tôi đoán rằng, pho tượng chiến thuyền cổ phải do Trương Tử Thông tạo ra, mà vốn có xuất xứ từ nơi này.

      Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều tỏ vẻ nghi hoặc, nếu chỉ dựa vào những căn cứ đó mà kết luận Trương Tử Thông từng đến khu rừng này đủ sức thuyết phục.

      Thấy vẻ nghi ngờ gương mặt hai người, Vương Uy tiếp:

      -Dáng dấp của pho tượng có thể bắt chước, nhưng ánh mắt kỳ lạ kia cách nào mô phỏng được, hai người cứ nhìn vào mắt pho tượng mà xem, nhất định thấy khác thường bên trong. Tôi nhìn thẳng vào mắt bức tượng người chim chiến thuyền cổ rồi, nhận ra ánh mắt của bức tượng ấy rất giống những bức tượng ở đây.

      Lý luận của Vương Uy đủ sức thuyết phục Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc, nhưng họ đều biết Vương Uy xưa nay năng hành động đều vô cùng chắc chắn. Những lời của Vương Uy phủ bóng đen lên tâm trí họ, nhìn pho tượng người chim trong căn nhà gỗ, họ lại chợt có cảm giác bứt rứt khó chịu.

      Trong khi Vương Uy , Nhị Rỗ vòng quanh bức tượng mấy vòng, quan sát kỹ mọi chi tiết.

      Dương Hoài Ngọc cũng chằm chằm nhìn vào pho tượng người chim, lúc này mọi nghi vấn đều tập trung cả vào những bức tượng có sinh mệnh này, họ cần phải tìm ra bằng chứng xác thực hơn để chứng minh Trương Tử Thông từng đến khu rừng ngầm dưới lòng đất này. Nhìn theo ánh đuốc của Nhị Rỗ di động, bỗng kinh ngạc kêu lên:

      -Các nhìn kìa, tượng người chim chảy nước mắt.

      Nghe Dương Hoài Ngọc , Vương Uy và Nhị Rỗ đều đổ dồn vào gương mặt người chim. Quả nhiên, từ đôi mắt người chim có hai dòng nước từ từ chảy xuống, từng chút từng chút thấm ra ngoài.

      -Hình như là huyết lệ. – Vương Uy .

      Nhị Rỗ gật đầu đồng ý:

      -Chắc chắn bức tượng này rỗng ruột, bên trong hẳn có gì đó kỳ quái, chúng ta phá ra xem.

      Vương Uy tìm thấy mấy tảng đá ở trước cửa nhà, mỗi người cục, cùng đập bức tượng ra.

      Bức tượng vốn là lớp vỏ đá kín bọc ngoài, đập vỡ lớp vỏ đó, bên trong lộ ra đống máu thịt bầy nhầy, có cả óc lẫn tay chân. Những mảnh thịt vụn được ghép lại với nhau, chỗ ghép đóng băng, có thể thi thể tả tơi này được ghép lại bằng băng.

      Vương Uy ngạc nhiên:

      -Thi thể vẫn chưa bị rữa, những tảng băng này là thế nào nhỉ?

      Họ thể ngờ bên trong bức tượng lại là thi thể còn tươi nguyên, hẳn là mới chết chưa lâu. Có điều thi thể này lại đóng băng, gây khó khăn trong việc phán đoán thời gian chết. Nhưng điều kỳ lạ hơn cả là bên trong bức người chim lại đóng băng, trong khi nơi này nằm giữa khu rừng nguyên thuỷ dưới lòng đất, nhiệt độ phải cao hơn nhiều so với hang động ngầm, dưới hang ngầm còn có băng tuyết, huống hồ ở đây?

      Hơn nữa, bức tượng này vốn kín mít, như vậy là trước khi bị bọc kín trong pho tượng, thi thể bị băm vằm, nếu năm trăm năm trước Trương Tử Thông đến đây rồi, vậy bức tượng này ít nhất cũng tồn tại từ năm trăm năm trước ư? Lẽ nào thi thể có thể giữ nguyên vẹn bị phân huỷ bên trong pho tượng suốt năm trăm năm? Chuyện này quá lạ lùng.

      Ba người ra khỏi căn nhà đó, sang các nhà khác xem xét, thấy bên trong các pho tượng người chim đều giấu thi thể bị băm vằm thành từng mảnh. Vương Uy khỏi hoang mang, bởi nhận ra những thi thể này cũng bị băm vằm hệt như Ngọng và Ngoẹo trong cỗ quan tài đá treo, tựa hồ đều bị kền kền xé xác rồi được ai đó ghép lại vậy. Nhưng tại sao họ bị kền kền xé xác? Tại sao lại bị phong kín trong tượng người chim? Những điều này là bí khó lý giải.

      Nghĩ đến kền kền, Vương Uy lại nhớ những truyền thuyết lưu truyền rộng rãi ở Xuyên Trung.

      Nhưng những gì thấy vào lúc này lại ly kỳ hệt như truyền thuyết về vị lạt ma già, nếu nhìn ở góc độ khác, liệu có phải những thi thể này cũng giống vị lạt ma kia, đều bị thiên táng ngay khi còn sống?

      Càng nghĩ Vương Uy càng thấy giả thiết này rất có khả năng, bằng những thi thể kia bị phong kín trong khu rừng dưới lòng đất hơn năm trăm năm nay, hẳn phải mục rữa từ lâu, chỉ còn đống xương khô, đâu thể chảy ra huyết lệ được? Nhưng nếu như giả thiết ấy là , vậy chẳng phải là sau Trương Tử Thông có người khác tìm đến đây, cuối cùng bị chết các ly kỳ ư?

      Trong tượng người chim chỉ có đống máu thịt bầy nhầy, xác định được là người từ thời đại nào, cho nên những giả thiết ấy đều thể kiểm chứng, nhưng Vương Uy vẫn cảm thấy câu chuyện này đúng là như vậy. Thế giới dưới lòng đất sâu này chỗ nào cũng có những chuyện quái gở, vương triều Lạp Cách Nhật mà họ tìm kiếm vẫn chưa thấy tung tích, nhưng những điều thần bí này lại có thể giết chết họ trong nháy mắt.

      Vương Uy bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:

      -Nơi này hết sức quái gở, mọi người phải hết sức cẩn thận. Chúng ta ra phía trước kia xem, biết đâu phát thêm được điều gì đó.

      rồi Vương Uy tiên phong trước, dập tắt đuốc, dùng đèn pin soi đường. Ra khỏi khu vực mấy ngôi nhà gỗ, phía trước là cánh rừng toàn đại thụ cao vút, cây bụi um tùm bên dưới, có lấy con đường, rất khó băng qua.

      Vương Uy mải mê nhìn đường dưới chân, bỗng nghe Nhị Rỗ với Dương Hoài Ngọc:

      -Này tây rởm, xem bên kia có bức tường kìa?

      Bị Nhị Rỗ gọi là tây rởm, Dương Hoài Ngọc rất tức giận, bèn trừng mắt nhìn lại, đáp. Nghe hai người đối đáp, Vương Uy bị thu hút, liền ngoái đầu nhìn theo hướng Nhị Rỗ chỉ, quả nhiên thấy bức tường cao đến mấy trượng gần đó.

      Ba người rảo bước tới, thấy bức tường đứng giữa hàng cây, sụp nhiều chỗ. Tường xây bằng đá và đất bùn, nằm giữa rừng rậm, trước có làng mạc, sau chẳng thấy cửa nhà, liêu xiêu dựa được vào đâu cả, nếu gặp lũ chắc chắn đổ sụp.

      Xung quanh tường mọc đầy cỏ dại, có cách nào đến gần được, ba người đành đứng từ xa trông lại, cũng thấy có gì lạ.

      Nhị Rỗ ôm lấy thân cây leo lên chừng mười mấy mét, ngậm cây đèn pin duy nhất vào miệng, quan sát lúc lâu nhưng chẳng trông thấy gì. Nhị Rỗ đu lên cành cây, chuyền cành sang cây khác gần đó, rồi chuyền tiếp sang bức tường.

      Vương Uy đứng dưới lớn tiếng hỏi Nhị Rỗ có thấy gì ?

      lúc lâu nghe Nhị Rỗ đáp, chỉ thấy ánh đèn pin loang loáng giữa đám lá, Vương Uy cho rằng gã gặp phải chuyện gì, bèn lớn tiếng gọi thêm lần nữa.

      Nhị Rỗ leo sang bên kia của bức tường, chỉ nghe tiếng gã thào vọng lại:

      -Chỉ huy ơi, bức tường này vốn là chiến hào…

      -Chiến hào? – Vương Uy hơi ngỡ ngàng, ai lại đánh trận ở dưới này chứ?

      Bỗng Nhị Rỗ kêu thét lên từ bên kia bức tường, nghe tiếng hình như là bị ngã từ tường xuống đất. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, đều cảm thấy ổn.

      Vương Uy gọi to:

      - sao rồi?

      Nhị Rỗ dở sống dở chết đáp:

      -Mẹ kiếp, sợ quá, dưới chiến hào có khẩu súng trường.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều vô cùng ngạc nhiên, xem ra chuyện này càng lúc càng thêm hóc búa. Trước đây, họ cho rằng khu rừng dưới đất này bị Bối long khư vây hãm, ngay bậc cao nhân như Trương Tử Thông cũng phá nổi đôi mắt rồng của Bối long khư, huống hồ là người khác. Sở dĩ Vương Uy phán đoán rằng Trương Tử Thông tới nơi này, là bởi khi nhìn đôi mắt pho tượng người chim, cảm giác ấy như bật ra từ nơi sâu thẳm nhất trong tim , nhưng sau đó nghĩ kỹ lại, xem xét góc độ lý trí, mới phát chuyện này có phần được chắc chắn cho lắm.

      Nghe Nhị Rỗ có khẩu súng trường, giật thót tim, vội vàng cùng Dương Hoài Ngọc trèo cây sang xem.

      Công cụ chiếu sáng tầm xa duy nhất bị Nhị Rỗ làm rơi vỡ, bức tường này cao đến mấy trượng, ánh đuốc soi sáng được xa, chỉ thấy phía dưới là mảng tối om om. Nghe tiếng Nhị Rỗ rên rỉ trong bóng tối, Vương Uy đoán chừng lúc ngã gã bị thương, liền hỏi vọng xuống:

      -Nhị Rỗ, làm sao rồi?

      Nhị Rỗ trả lời:

      -Hai người cẩn thận nhé, tường có cái gì ấy, tôi vừa rồi chỉ mải nhìn khẩu súng trường bên dưới nên đụng phải nó.

      Vương Uy nghi hoặc nhìn Dương Hoài Ngọc, tường gió thổi lồng lộng, dưới ánh đuốc bập bùng, có thấy sinh vật nào đâu? Vương Uy giơ đèn pin soi, thấy bức tường đá này rất dài, chạy vào sâu trong rừng, bề ngang cũng rộng, đủ cho mấy người cùng đứng đó. Thân thủ của Nhị Rỗ thế nào Vương Uy hiểu hơn ai hết, nhất định gã thể vô duyên vô cớ bị ngã ở đây được, nghĩ vậy, khỏi căng mắt nhìn kỹ bóng tối mênh mông phía trước.

      Ngọn đuốc chỉ soi sáng được phạm vi rất hạn chế, Vương Uy giương mắt quan sát trong bóng tối, chợt thấy ở góc ánh sáng lờ mờ, thấp thoáng có khuôn mặt. Có điều ngoài những đường nét rất mơ hồ, chẳng thấy được gì hơn nữa cả. đó là thứ gì, cũng dám làm bừa, đành len lén lần tay rút súng rồi đột ngột nhằm thằng vào gương mặt kia bắn luôn hai phát.

      Gió chướng chợt nổi lên, Vương Uy chợt thấy mùi tanh ập vào mặt rồi biến mất ngay trong giây lát. Dương Hoài Ngọc đờ ra nhìn Vương Uy hồi lâu, mặt tái nhợt, có lẽ vì quá sợ hãi.

      Nhị Rỗ ở dưới kêu to:

      -Thế nào, hai người phát thấy gì chưa?

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều nắm chắc tay súng, thứ lẩn lút trong bóng tối kia chuồn mất, chỉ còn gió rừng lùa vào cổ hai người lạnh toát. Ở quãng giữa bức tường Vương Uy phát thấy dãy những mô đá, các mô đá này thấp hơn bờ tường mấy mét, bèn cùng Dương Hoài Ngọc nhảy xuống. Đứng mô đá nhìn bức tường đối diện, quả nhiên thấy có hàng những lỗ châu mai to chừng hai nắm tay, đúng tiêu chuẩn của công thời cận đại.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều hiểu những lỗ châu mai này là để binh lính nấp bên trong bắn ra ngoài, lẽ nào khu rừng dưới mặt đất này từng xảy ra chiến sao? Hơn nữa có thể xây công lớn thế này, chắc hẳn phải là cuộc xung đột quy mô lớn, rốt cuộc là kẻ nào mà có thể khua chiêng gióng trống chém giết nhau dưới lòng đất thế này nhỉ?

      Trong lòng cả hai đều có vô số thắc mắc sao trả lời nổi. Dưới mô đá có chiếc thang gỗ vẫn chưa hoàn toàn mục nát, hai người bèn theo thang tụt xuống, thấy Nhị Rỗ nằm trong bụi cỏ, hình như bị thương.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chạy tới, hỏi:

      - sao thế? Có đứng dậy được ?

      Thấy Nhị Rỗ nằm bất động, trả lời, Vương Uy thầm than ổn, bức tường này cao lắm, đến nỗi ngã từ tường xuống mà chết được đấy chứ.

      chạy tới gần Nhị Rỗ, khi chỉ còn cách mấy bước chân, bỗng nghe Nhị Rỗ yếu ớt kêu lên:

      -Đừng đến gần, đừng động đậy…

      Vương Uy ngớ ra, vội khưng lại, Dương Hoài Ngọc cũng cảnh giác đứng lại, hai người e dè nhìn lớp lá rụng và dây rừng phủ dày mặt đất, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì.

      Vương Uy nghi hoặc hỏi:

      - đụng phải cái gì thế? Chúng tôi làm thế nào để giúp đây?

      Nhị Rỗ :

      -Tôi cũng biết giẫm vào cái gì nữa, chỉ thấy nửa người dưới bị thứ đó ghì chặt, lôi tuột xuống dưới. Hai người cẩn thận, quanh đây có thể vẫn còn thứ đó đấy, nó giống như cái bẫy vậy, giẫm phải là rơi xuống liền, hai người cứ từ từ nhích dần đến đây rồi lôi tôi lên.

      Lúc này Vương Uy mới chú ý thấy Nhị Rỗ chỉ lộ ra nửa thân người mặt đất, nửa người dưới ngập trong đống lá khô và dây rừng, hiểu ra sao. cùng Dương Hoài Ngọc người trước kẻ sau thận trọng lần đến gần Nhị Rỗ. Ánh đuốc soi khuôn mặt rỗ của Nhị tái nhợt đến kinh người, cặp mắt cũng dại hẳn .

      Hai người nắm lấy cánh tay Nhị Rỗ toan lôi lên, cả hai đồng thời dụng lực, nhưng Nhị Rỗ chẳng mảy may nhúc nhích, hệt như bị đóng đinh xuống đất vậy, dù cố kéo đến mấy cũng có tác dụng, khiến Vương Uy thầm kinh hãi. nhìn lại Nhị Rỗ thấy mắt gã trắng dã, xem ra còn nguy cấp hơn vừa rồi, cứ lôi như thế này nữa e rằng gã chịu nổi.

      Vương Uy cắm bó được lên mặt đất, dùng hai tay bới lá rụng. Lá rụng mặt đất qua nhiều năm chất thành lớp lá dày, lại thêm nước ngầm ngấm vào nên tầng lá rụng bên dưới mục ải, khiến lớp bên vón lại, bới rất mất sức. đành dùng báng súng đập cho đất tơi ra, rồi dùng tay bới, Dương Hoài Ngọc thấy vậy cũng xúm vào giúp tay. tây rởm này ra cũng tốt bụng, có điều nhiều năm nay theo lão Tôn giết người cướp của, nên tính tình có phần hung bạo. giờ theo Vương Uy và Nhị Rỗ, ba người cùng hội cùng thuyền, cho nên ra tay giúp Nhị Rỗ là điều đương nhiên.

      Càng đào, Vương Uy càng thấy kinh ngạc, tầng lá mục này rất rắn, cũng thấy mặt đất có hầm hố gì, làm sao thứ bên dưới có thể thể lôi tuột Nhị Rỗ xuống được? Khi đào đến bắp chân Nhị Rỗ, hai người bỗng trông thấy có mấy rễ cây đen trũi to như ngón tay cái quấn quanh chân gã, họ vừa lớp lá mục ra những rễ cây kia như có linh tính, rụt ngay xuống đất.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc kinh ngạc, càng cố sức bới Nhị Rỗ lên, Vương Uy vạch ống quần gã, thấy chân Nhị Rỗ có mấy vết thương rướm máu hằn sâu như bị đánh bằng roi da.

      Nhị Rỗ được kéo lên, nằm lăn ra đất thở hồng hộc hồi lâu rồi kéo chân Vương Uy :

      -Thưa chỉ huy, à… , thưa , hôm nay thằng Nhị Rỗ này bị chôn sống rồi, mang ơn quá.

      -Rốt cuộc là chuyện gì thế? – Vương Uy hỏi.

      Nhị Rỗ đảo mắt, :

      -Tôi ngã từ tường xuống, chân chưa bén đất người bị lọt xuống đó, nửa người dưới mất hẳn cảm giác.

      Vương Uy quay sang hỏi Dương Hoài Ngọc:

      - Ngọc từ nước ngoài đến, nghe ở đâu có thứ quái lạ thế này chưa?

      Thấy Dương Hoài Ngọc lắc đầu, Vương Uy thầm kinh ngạc, tầng lá mục này cứng như vậy, những cái rễ đen kia làm thế nào lôi tuột được người xuống lòng đất? thể hiểu nổi. Tuy thứ đó đúng là có cội có rễ, nhưng lại đen trùi trũi, chẳng giống rễ cây chút nào, nhìn nó linh hoạt như vậy, chưa biết chừng là sinh vật cũng nên.

      Nhị Rỗ nằm bò ra mặt đất xoa bóp chân cho lưu thông máu, mất lúc sau hai chân mới hồi phục được tri giác. Gã tiếp tục xoa xoa lại hồi lâu, mới từ từ đứng lên nổi.

      Mọi người thận trọng lục xoát kỹ xung quanh nơi phủ đầy dây rừng và lá khô này, nhưng thứ đó chẳng thấy xuất nữa. Vương Uy đoán nó sợ ánh sáng nên dám xông ra tấn công người nữa. Nhị Rỗ ngã từ tường xuống, bị vỡ đèn pin, bốn bề tối om nên quái vật kia mới thừa cơ nhào ra, suýt nữa lấy mạng gã.

      Khoảnh đất dưới bức tường đá này rất rộng, mỗi chiều phải đến mấy chục trượng, mặt là tầng lá mục và dây rừng rắn đanh, nhưng lạ điều là chẳng thấy cành cây ngọn cỏ gì sinh trưởng được ở đây cả.

      Nhị Rỗ :

      -Chỉ huy đừng gì vội, thử sờ lớp đất này xem , mẹ nó chứ, lạnh như băng ấy, đất gì mà lạnh thế, đúng là quái con bà nó gở.

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc bới đất đến toé máu tay, đương nhiên biết điều ấy, nhưng khi nãy cả hai còn mải lo lắng cho Nhị Rỗ, chỉ biết bới đất như điên, chẳng nghĩ ngợi gì cả, bây giờ nghe Nhị Rỗ , họ mới cảm thấy quả là khác thường.

      Vương Uy ngồi xuống bới đất, phát ra càng bới xuống sâu đất càng lạnh, tầng lá rụng và dây rừng bên rắn như vậy ra cũng phần lớn liên quan đến việc đất đai ở đây là đất bị đóng băng, nước trong đất khi bị đóng băng cứng lại. Vương Uy bới thêm lúc nữa, quả nhiên thấy trong đất có lẫn những mảnh băng . Ba người nhìn nhau, chẳng cần hiểu ý đối phương, bất giác cả ba cùng liên tưởng đến những bức tượng người chim bị đóng băng trong những gian nhà gỗ. Lẽ nào giữa hai chuyện này có mối liên quan với nhau?

      Nhị Rỗ :

      -Nhiệt độ mặt đất phải cao mới đúng, chung, chỉ đến mùa đông mới xảy ra tượng mặt đất đóng băng, do nhiệt độ bên ngoài làm cho mặt đất đông cứng lại mà thôi, làm sao ở đây lại xảy ra chuyện này được?

      Vương Uy cau mày nghĩ ngợi, đột nhiên bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:

      -Hai người có chú ý đến nhiệt độ xung quanh những căn nhà kia ? Từ trong rừng tới, hình như nhiệt độ xung quanh những căn nhà ấy rất thấp.

      Lúc họ tiến vào dãy Đường Cổ Lạp, vì phải băng qua tuyết tuyến nên ai nấy đều mặc áo bông, đội thám hiểm chịu khó đầu tư rất nhiều tiền vào những trang thiết bị này, đường may cực kỳ tỉ mỉ, bên trong còn có thêm lớp lót bằng da báo, mặc vào ấm vô cùng. Hơn nữa, nhiệt độ tại khu vực bên dưới núi tuyết rất thấp, cứ lại trong môi trường như vậy, nếu để ý kỹ rất khó cảm nhận được chênh lệch nhiệt độ rất .

      Nghe Vương Uy , Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc sực nhớ ra, những căn nhà gỗ u kia cũng thường toát ra bầu khí lành lạnh, khi nhìn vào mắt tượng người chim trong những căn nhà đó, lập tức toàn thân toát mồ hôi lạnh, lúc ấy họ chỉ nghĩ tà khí trong những căn nhà gỗ kia quá nặng nề, giờ mới nhận ra nhiệt độ trong đó thấp hơn nhiệt độ trong rừng . Đứng trong căn nhà gỗ, họ có thể cảm thấy hơi lạnh căm căm như từ dưới đất bốc lên vậy.

      Nhị Rỗ nghĩ ngợi lát rồi :

      -Tôi đoán dưới lòng đất này có khi nào chôn băng ? Chỉ có vậy nhiệt độ trong lòng đất mới cao hơn mặt đất. Hai người bảo có phải như thế ?

      Vương Uy gật đầu, theo lý mà , chỉ có như vậy mới giải thích nổi tượng này. Nhưng tiếp theo làm thế nào để kiểm chứng mới là vấn đề, lớp đất cứng bên dưới mặt đất đóng băng, càng khó mà đào bới, lẽ nào lại phải dùng tay bới lên?

      Nhị Rỗ hiểu suy nghĩ của Vương Uy, bèn vỗ vào cái bọc đeo lưng Vương Uy, cười :

      -Chỉ huy quên rồi à, cây đại đao này của chỉ huy dùng để đào đất phải rất hay ư?

      Hành động của Nhị Rỗ khiến Vương Uy giật nảy mình, vội lùi lại vài bước, bực bội đáp:

      -Chắc chắn dùng cái này được đâu, phải nghĩ cách khác.

      Đại đao của bị mất chiến thuyền cổ, giờ thứ đeo lưng chính là cái kích hình thú nhặt được núi tuyết. Lúc này có mặt Dương Hoài Ngọc ở đây mà vẫn nghi kỵ tây rởm này, nên muốn đưa ra.

      Nhị Rỗ suồng sã với Vương Uy quen, lần này lại thấy sa sầm mặt, gã thầm lấy làm lạ, nhưng hiểu trong vụ này có chuyện gì đó, Vương Uy muốn ra, hẳn là có lý do riêng, nên chỉ cười khì khì mấy câu, nhắc tới chuyện này nữa.

      Vương Uy lại chuyển chủ đề:

      -Khẩu súng trường thấy lúc đứng tường đâu rồi?

      Nhị Rỗ chỉ lên phía , :

      -Ở mô đá kia kìa, nó nằm chênh chếch chỗ đấy.

      Nhị Rỗ miệng cười, chợt ngẩng đầu lên, sực nghĩ ra: ánh đuốc chiếu được lên đến vị trí cao như thế mà chiếc đèn pin duy nhất có thể chiếu được xa như thế biết văng đâu mất rồi, đứng dưới này thể nào trông thấy khẩu súng trường đó được.

      Tìm được khẩu súng có thể chứng minh được rất nhiều vấn đề nữa, nghĩ vậy Vương Uy ngậm tay cầm của bó đuốc vào miệng, theo hướng tay Nhị Rỗ chỉ, trèo lên cái thang mục nát rồi lên lên mô đá. leo từ mô đá này sang mô đá khác, cứ thế qua mấy mô đá, quả nhiên trông thấy khẩu súng trường gỉ đen mô đá cuối cùng.

      Khẩu súng mục nát đến còn ra hình dạng gì nữa, báng súng mủn quá nửa, xem ra nó nằm trong khu rừng này từ nhiều năm nay, hơn nữa rất có khả năng có cùng niên đại với bức tường công bằng đá kia, bởi phong cách kiến trúc của bức tường đá hoàn toàn theo lối cận đại.

      Vương Uy ném khẩu súng xuống trước rồi trở về mô đá có chiếc thang gỗ, kẽo kẹt tụt xuống. Bấy giờ Nhị Rỗ cầm khẩu súng lật lật lại xem xét, còn lấy tay áo lau gỉ, lau mãi lau mãi, bỗng lên tiếng:

      -Tôi thấy khẩu súng này rồi…

      Vương Uy và Dương Hoài Ngọc kinh ngạc nhìn Nhị Rỗ, chờ đợi những lời kinh thiên động địa tiếp theo.

      Nhị Rỗ nheo mắt, ngắm ngắm lại khẩu súng, tiếp:

      - sai, khẩu súng này giống hêt súng của đám lính Mã Văn Ninh mà tôi thấy trong hẻm núi lớn.

      Năm xưa khi Mã Văn Ninh còn làm ông lớn ở vùng Tạng Xuyên Tay, phần lớn trang bị trong quân đội đều mua của quân phiệt Bắc Dương, mà quân phiệt Bắc Dương lại nhập súng ống từ Nhật Bản, bởi súng trường Nhật Bản gọn tinh xảo hơn các loại súng trường khác. Vương Uy và Nhị Rỗ quanh năm chinh chiến, vùng Xuyên Trung lại tương đối lạc hậu nên rất nhiều vũ khí mà các thế lực quân phiệt ở đây sử dụng đều là hàng của quân phiệt Bắc Dương mua từ Nhật Bản năm xưa, loại súng trường này cũng rất phổ biến các chiến trường Xuyên Trung. Khi nãy Vương Uy cũng nhận ra đây là súng trường do Nhật Bản chế tạo, nhưng nắm lắm về trang bị vũ khí của lính Mã Văn Ninh, nhờ Nhị Rỗ ra mới biết.

      Vương Uy nghi ngờ hỏi lại:

      -Mấy tên lính đào mộ của Mã Văn NInh mà chúng tôi gặp đều cầm vũ khí, sao biết bọn chúng dùng súng trường Nhật Bản?

      Nhị Rỗ đằng hắng mấy tiếng rồi :

      -Trong hang ngầm, tôi từng gặp ba thằng lính đào mộ mặc quân phục vàng, còn đánh nhau với chúng trận nữa.

      Vương Uy nghi hoặc nhìn gã, lạ gì ba tên lính mặc quân phục màu vàng, lúc trước cũng vì lần theo chúng mà tìm thấy lối vào huyệt mộ, nhưng sau đấy ba tên này bị người của lão Tôn truy đuổi, chạy xuống sông ngầm rồi thấy đâu nữa. Về sau lão Tôn lại chính mắt nhìn thấy thuyền đầy lính mặc quân phục vàng, chuyện này rất bình thường, có thể là ly kỳ, nhưng Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lên chiến thuyền chẳng thấy tên lính áo vàng nào cả, thậm chí còn chẳng có chút tung tích gì của bọn chúng.

      Dương Hoài Ngọc nghe Nhị Rỗ xong, bên lên tiếng:

      -Xem ra Mã Văn Ninh cũng từng đến đây rồi, vậy chắc chắn để tiến vào khu rừng dưới lòng đất này, phải chỉ có mỗi con đường thông từ Bối long khư, rất có thể Trương Tử Thông đến đây như Uy .

      Nhị Rỗ cũng tỏ vẻ đồng tình. Khẩu súng trường này rất có thể là của lính Mã Văn Ninh, như vậy công hoành tráng xây theo kiểu cận đại kia ắt cũng liên quan đến . Nhưng họ nghĩ mãi hiểu, lính của Mã Văn Ninh xây công đá trong khu rừng ngầm này nhằm mục đích gì? Rốt cuộc họ khí thế rầm rộ như vậy là để đánh nhau với ai?

      Vương Uy hiểu, Nhị Rỗ cũng lắc đầu, ba người bọn họ như bị bóng tối bao trùm, nhất thời tìm thấy đáp án, đành phải dấn bước tiến về phía trước.
      Last edited by a moderator: 23/9/14

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :