Chương 22 Chúng tôi đợi ở phòng khách, cả ba chúng tôi, từ khi Matthew cưỡi con Balthasar vào ban sáng. Lúc này bóng tối lấn dần ánh chiều chạng vạng. con người bán sống bán chết khi phải liên tục huy động sức lực để điều khiển con ngựa khổng lồ đó trong gian vùng quê mênh mông này. Thế nhưng các kiện ban sáng nhắc tôi nhớ rằng Matthew phải con người, mà là ma cà rồng – với rất nhiều bí mật, quá khứ phức tạp và những kẻ thù đáng sợ. Phía đầu, cánh cửa đóng lại. “Nó về rồi. Nó ở trong phòng của bố nó, như vẫn thường làm mỗi khi bồn chồn lo lắng,” Ysabeau giải thích. Người mẹ trẻ trung xinh đẹp của Matthew ngồi nhìn chăm chăm vào ngọn lửa, trong khi tôi siết chặt hai bàn tay trong lòng, từ chối mọi thứ Marthe bày ra trước mặt tôi. Tôi ăn gì kể từ bữa sáng, nhưng cảm giác trống rỗng trong tôi chẳng liên quan gì đến cơn đói cả. Tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức, trong vòng vây của những mảnh vỡ từ cuộc sống ngăn nắp trước đây. Bằng cấp từ Oxford, vị trí giảng dạy tại Yale, cả những cuốn sách được tôi viết và nghiên cứu cẩn thận mang đến ý nghĩa sống và kiến tạo nên cuộc đời tôi. Nhưng có cuốn sách nào trong số đó là nguồn an ủi cho tôi trong cái thế giới mới mẻ kì lạ này – thế giới của những ma cà rồng uy hiếp và phù thủy hăm dọa. Việc phơi mình ra trước thế giới này chỉ để lại cho tôi sống sượng, với mối kết nối mong manh với chàng ma cà rồng và vận động vô hình nhưng thể chối bỏ của dòng máu phù thủy trong huyết quản của tôi. Cuối cùng Matthew cũng bước vào phòng khách, sạch và mặc bộ đồ mới tinh tươm. Ánh mắt ngay lập tức tìm đến tôi, cảm giác lành lạnh chạm lướt qua tôi khi kiểm tra thấy tôi bị tổn hại gì. Khuôn miệng trông dịu dàng hẳn vẻ nhõm. Đó là dấu vết cuối cùng của thân mật an ủi mà tôi nhận thấy được ở . Chàng ma cà rồng bước vào căn phòng khách này phải là Matthew mà tôi biết. phải là sinh vật quyến rũ, lịch lãm len vào cuộc đời tôi với nụ cười giễu cợt và những lời mời ăn sáng. Cũng phải , nhà khoa học miệt mài với công việc và chẳng rảnh rỗi để thắc mắc tại sao mình lại ở đây. Càng chẳng có dấu hiệu nào của chàng Matthew ôm siết tôi trong vòng tay và hôn tôi với niềm đam mê mãnh liệt chỉ mới đêm hôm trước. Chàng Matthew này lạnh lùng và dửng dưng. Vài đường mềm mại từng có – khuôn miệng dịu dàng, vẻ thanh nhã nơi hai bàn tay, bình lặng trong ánh mắt – bị thay thế bằng những đường thẳng và góc cạnh cứng nhắc. dường như già hơn trong trí nhớ của tôi, khuôn mặt hằn lên nỗi mệt mỏi chán nản cùng xa cách cẩn trọng như thể ngẫm nghĩ về mỗi thời khắc trong cuộc đời gần 1500 tuổi của mình. súc gỗ vỡ ra trong lò sưởi. Những tia lửa sáng lóe đập vào mắt tôi, sáng rực như quả cam múi đỏ khi chúng rơi xuống vỉ lò. Chẳng có gì khác ngoài màu đỏ đầu tiên. Thế rồi màu đỏ chiếm lấy cả bề mặt tôi, đôi chỗ những sợi tơ đỏ bóng lên với ánh hoàng kim và bạc. Cái nền ấy trở thành thứ - mái tóc, tóc của dì Sarah. Những ngón tay tôi nắm lấy cái quai ba lô vai, tôi thả hộp đồ ăn trưa xuống sàn phòng sinh hoạt gia đình tạo thành tiếng cạch ồn ào khi bố tôi thả cái cặp táp của ông xuống sàn. “Cháu về rồi đây.” Giọng trẻ con của tôi vút cao lanh lảnh. “Có bánh quy ạ?” Dì Sarah quay đầu lại, mái tóc đỏ cam bắt các tia sáng lấp lánh trong ánh sáng hoàng hôn. Nhưng khuôn mặt dì trắng bệch. Màu trắng lấn át mọi màu sắc khác, rồi chuyển thành màu bạc và làm cho da dì trông như những vẩy cá. Chiếc áo giáp ghép từ những vảy kim loại xâu vào nhau ôm sát lấy thân hình vạm vỡ quen thuộc. Matthew. “Ta xong việc rồi.” Đôi bàn tay trắng toát của xé toạc phần lưng áo chẽn màu đen có hình thánh giá bạc ở phía trước, giằng nó ra ở chỗ hai vai áo. quăng nó xuống chân ai đó rồi xoay người và sải bước . Chớp mắt cái, hình ảnh ấy biến mất, trước mắt tôi lại là những thanh ấm áp của căn phòng khách ở Sept-Tours, nhưng những điều mắt thấy tai nghe đáng kinh ngạc về chuyện vừa xảy ra vẫn còn rơi rớt lại. Giống cơn gió phù thủy lần trước, tôi hề được cảnh báo khi câu chuyện bị giấu này thoát ra. Các hình ảnh thấu thị của mẹ tôi có đột ngột đến và ràng như thế ? Tôi liếc quanh căn phòng, nhưng sinh vật duy nhất dường như nhận thấy có điều gì đó kỳ lạ lại là Marthe, bà lão nhìn tôi với vẻ lo lắng. Matthew tới bên Ysabeau và hôn lên cả hai gò má trắng trẻo hoàn mỹ của bà. “Con vô cùng xin lỗi, Maman,” thầm. “Hein, vẫn là con lợn như thế. Đó phải là lỗi của con.” Ysabeau cầm bàn tay cậu con trai lên siết . “Mẹ mừng là con về nhà.” “ rồi. Tối nay chúng ta có gì phải lo lắng cả,” Matthew , miệng đanh lại. luồn các ngón tay vuốt tóc. “Uống .” Marthe thuộc trường phái dùng đồ ăn thức uống để kiểm soát khủng hoảng. Bà lão đưa ly rượu vang cho Matthew và đặt xuống tách trà khác bên cạnh tôi. Nó ở bàn, được đụng đến, gửi vào trong trung những làn hơi nghi ngút xoắn quyện vào nhau. “Cảm ơn bà, Marthe.” Matthew uống hơi. Khi uống, ánh mắt quay trở lại nhìn vào mắt tôi, nhưng cố ý nhìn nơi khác khi nuốt ngụm rượu. “Điện thoại của tôi,” , về phía phòng làm việc. Chỉ tích tắc sau Matthew trở xuống cầu thang. “Của em đấy.” đưa tôi cái điện thoại theo kiểu cố ý để hai bàn tay chúng tôi chạm nhau. Tôi biết ai ở đầu dây. “Chào dì Sarah.” “Dì gọi suốt hơn tám tiếng rồi. Có chuyện quái quỷ gì ổn à?” Dì Sarah biết có chuyện tồi tệ xảy ra – nếu dì gọi điện cho con ma cà rồng. Giọng căng thẳng của dì gợi lên hình ảnh gương mặt trắng bệch trong cảnh thấu thị của tôi. Trong đó dì chỉ đau buồn mà còn vô cùng sợ hãi. “Chẳng có gì ổn cả,” tôi đáp, muốn dì sợ hãi thêm nữa. “Con ở cùng Matthew thôi.” “Ở cùng với Matthew chính là điều đem đến rắc rối cho con đầu tiên đấy.” “Dì Sarah, lúc này con thể chuyện được.” Giờ tôi muốn phải cự cãi với bà dì của mình. Dì hít vào mộ hơi. “Diana, có vài điều con cần biết trước khi quyết định gắn bó số phận mình với ma cà rồng.” “ sao?” tôi hỏi, tâm khí bốc hỏ rừng rực. “Có phải bây giờ dì nghĩ đến lúc với con về cái hiệp ước ấy ? Dì phải tình cờ biết được các phù thủy thành viên của Đại Hội Đồng đấy chứ? Con có vài điều muốn với bọn họ đây!” Các ngón tay tôi bắt đầu nóng bừng, lớp da dưới móng tay chuyển thành màu xanh da trời chói sáng. “Con quay lưng lại với sức mạnh của mình, Diana, và từ chối chuyện về phép thuật. Hiệp ước ấy liên quan gì tới cuộc sống của con, cả Đại Hội Đồng cũng vậy.” Dì Sarah cự lại. Tiếng cười chua chát của tôi khiến màu xanh nhạt phai dần các ngón tay tôi. “Hãy ngụy biện theo bất cứ cách nào dì muốn, dì Sarah ạ. Sau khi bố mẹ con bị giết, dì và Em đáng lẽ nên kể cho con biết chứ phải là giấu giếm nửa bí với con. Nhưng giờ quá muộn rồi. Con cần chuyện với Matthew. Con gọi cho dì vào ngày mai.” Sau khi ngắt máy và quăng chiếc điện thoại lên cái ghế đệm dưới chân mình, tôi nhắm mắt và đợi cho cơn tê nhói râm ran ở các ngón tay lắng dịu . Cả ba ma cà rồng nhìn tôi chằm chằm – tôi có thể cảm thấy được. “Vậy,” tôi cất tiếng giữa gian im ắng, “chúng ta trông chờ có thêm các vị khách đến từ Đại Hội Đồng phải ?” Miệng Matthew mím chặt lại. “.” Đó là câu trả lời chỉ có từ, nhưng ít nhất nó cũng là từ tôi muốn nghe được. Mới vài ngày trước, tôi thấy tính khí thay đổi thất thường của Matthew dịu và hầu như quên chúng có thể đáng sợ thế nào. Những lời tiếp theo của quét sạch hy vọng của tôi rằng cơn bột phát mới nhất này nhanh chóng qua . “ có chuyến viếng thăm nào nữa từ phía Đại Hội Đồng, bởi vì chúng ta phá vỡ hiệp ước. Chúng ta ở đây thêm vài ngày nữa, sau đó trở về Oxford. Với mẹ như thế ổn cả chứ ạ, Maman?” “Dĩ nhiên rồi,” Ysabeau ngay lập tức đáp. Bà thở phào nhõm. “Chúng ta cứ nên giữ cho lá cờ tung bay,” Matthew tiếp tục, giọng giống như kiểu công vụ. “Dân làng nên biết để cảnh giác.” Ysabeau gật đầu, và con trai bà nhấp ngụm rượu vang. Tôi nhìn đăm đăm hết người này đến người kia. Cả hai đều có phản ứng gì trước im lặng đòi hỏi thêm thông tin của tôi. “ mới đưa em ra khỏi Oxford có vài ngày,” tôi sau khi ai hưởng ứng thách thức lời của mình. Ánh mắt Matthew ngước lên nhìn vào mắt tôi trong đáp trả khủng khiếp. “Vậy bây giờ em quay về,” đều đều . “Từ giờ đến lúc đó có chuyến dạo chơi ngoài sân nào cả. tự ý cưỡi ngựa.” lạnh lùng của lúc này còn đáng sợ hơn bất cứ điều gì gã Domenico . “Và?” tôi thúc ép. “ khiêu vũ nữa,” Matthew , thô lỗ của ngụ ý rằng loạt các hoạt động khác cũng bao hàm trong danh mục này. “Chúng ta tuân theo các luật lệ của Đại Hội Đồng. Nếu chúng ta thôi chọc tức họ, bọn họ chuyển chú ý sang các vấn đề khác quan trọng hơn.” “Em hiểu rồi. muốn em chơi trò giả chết. Và từ bỏ công việc của mình cùng cuốn Ashmole 782 ư? Em tin điều đó!” Tôi đứng dậy về phía cửa. Bàn tay Matthew thô bạo nắm lấy cánh tay tôi. Việc có thể tiến tới cạnh tôi quá nhanh phá vỡ mọi định luật vật lý. “Ngồi xuống, Diana.” Giọng cũng thô bạo như đụng chạm của , nhưng nó lại làm tôi hài lòng cách kì cục khi thể cảm xúc nào đó. “Tại sao lại nhượng bộ?” tôi thầm. “Để tránh phơi bày chúng ta ra trước loài người – và để giữ cho em còn sống.” kéo tôi trở lại chỗ sofa và ấn tôi ngồi vào đống đệm. “Gia đình này phải là xã hội dân chủ, đặc biệt là trong thời điểm như thế này. Khi bảo em làm gì, em hãy làm như thế, do dự hay thắc mắc. Hiểu chứ?” Giọng ngụ ý rằng cuộc tranh luận kết thúc. “Nếu sao?” tôi cố ý khiêu khích , nhưng thái độ xa lánh của làm tôi sợ hãi. đặt ly rượu của mình xuống và cái ly pha lê bắt đầu phản chiếu ánh nến lấp lánh. Tôi cảm thấy mình rơi, lần này là vào bể nước. Cái bể trở thành giọt nước, giọt nước mắt sáng long lanh gò má trắng ngần. Hai má dì Sarah đẫm nước mắt, đôi mắt dì đỏ hoe và sưng húp. Em ở trong bếp. Khi đến bên chúng tôi, ràng là cũng khóc. trông tàn tạ. “Sao thế ạ?” tôi , nỗi lo lắng nôn nao trong bụng. “Có chuyện gì xảy ra thế ạ?” Dì Sarah lau nước mắt, các ngón tay dì nhuộm màu thảo mộc cùng các gia vị mà dì dùng trong các câu bùa chú của mình. Các ngón tay dì trở nên dài hơn, các vết màu tan biến mất. “Gì cơ?” Matthew , ánh mắt hoang dại, những ngón tay trắng toát chùi giọt nước mắt màu đỏ như máu xíu gò má cũng trắng ngang thế. “Có chuyện gì xảy ra thế mẹ?” “Phù thủy. Bọn chúng giữ cha của con!” Ysabeau , giọng bà vỡ òa. Khi ảo giác đó mờ dần, tôi tìm kiếm Matthew, hy vọng ánh mắt có tác động lôi kéo như thường lệ và làm dịu mất phương hướng còn vương vất của tôi. Ngay khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, đến và lượn quanh tôi. Nhưng có vẻ an ủi thường thấy nào trong bộ dạng cao lớn và mạnh mẽ này. “ tự mình giết em trước khi để cho bất cứ kẻ nào làm em thương tổn.” Những lời này thoát ra từ cổ họng . “Và muốn giết em. Vậy nên làm ơn hãy làm theo những gì bảo.” “Là vậy ư?” tôi hỏi khi lấy lại được tự chủ. “Chúng ta tuân theo hiệp ước thiển cận cũ rích được lập ra gần nghìn năm trước? Chấm hết?” “Em buộc phải nằm dưới giám sát chặt chẽ của Đại Hội Đồng. Em điều khiển được phép thuật của mình và hiểu gì về mối quan hệ của em với Ashmole 782. Ở Sept-Tours em có thể được bảo vệ tránh khỏi Peter Knox, Diana ạ, nhưng với em trước đây rằng em an toàn khi ở gần ma cà rồng. sinh vật máu nóng nào được an toàn ở đây cả. Chưa bao giờ.” “ làm tổn hại đến em!” Bất chấp những chuyện xảy đến trong mấy ngày qua, về điểm này tôi tuyệt đối chắc chắn. “Em khăng khăng với ảo tưởng lãng mạn về ma cà rồng như thế, nhưng dù có nỗ lực kiềm chế đến mức nào, vẫn thèm nếm máu.” Tôi làm cử chỉ tùy tiện đáp lại. “ giết người. Em biết điều này, Matthew ạ. là con ma cà rồng, và sống hàng nghìn năm rồi. nghĩ em vẫn tưởng rằng sống được chỉ nhờ các loài động vật thôi sao?” Ysabeau chăm chú quan sát con trai mình. “ rằng em biết giết người và hiểu chuyện đó có ý nghĩa thế nào là hai việc khác nhau, Diana ạ. Em chẳng biết có khả năng gì cả.” chạm vào cái bùa may mắn đeo quanh cổ rồi rời khỏi tôi bằng những bước dài nóng nảy. “Em biết là ai.” Đây là điểm nữa mà tôi tuyệt đối chắc chắn. Tôi cũng hiểu điều gì khiến tôi tin chắc về Matthew cách bản năng như thế, khi mà bằng chứng ràng về hung bạo của ma cà rồng – thậm chí là phù thủy – ngày càng nhiều. “Em còn chẳng biết về bản thân mình nữa mà. Và mới ba tuần trước thôi em còn chưa nghe về !” Ánh nhìn trừng trừng của Matthew bồn chồn dao động và đôi tay , cũng như tôi, run rẩy. Điều này làm tôi lo lắng bằng việc Ysabeau chồm tới trước chỗ ngồi. Matthew cầm lên cái que cời lò sưởi và tặng ngọn lửa cú đâm hằn học trước khi ném văng nó sang bên. Thanh kim loại va vào tường đá, chọc thủng lỗ bề mặt cứng ấy như thể nó chỉ là miếng bơ. “Chúng ta khám phá ra chuyện này. Hãy cho chúng ta thêm thời gian.” Tôi cố gắng làm giọng mình hạ thấp và êm ái. “Chẳng có gì để khám phá cả.” Matthew bắt đầu di chuyển. “Em có quá nhiều sức mạnh được rèn luyện bài bản. Nó giống như chất kích thích – thứ thuốc gây nghiện rất nguy hiểm mà các sinh vật khác đều muốn liều mạng để chia sẻ. Em bao giờ an toàn chừng nào còn có phù thủy hay ma cà rồng ở gần em.” Tôi mở miệng định đáp trả, nhưng chỗ đứng trống . Nhưng ngón tay lạnh như băng của Matthew thoắt cái ở cằm tôi, nâng tôi đứng lên hai bàn chân mình. “ là động vật ăn thịt, Diana ạ.” điều gì đó với vẻ cám dỗ của tình nhân. Mùi hương hắc ám của cây đinh hương khiến tôi váng vất. “ phải săn và giết chóc để tồn tại.” Matthew xoay mặt tôi quay khỏi bằng cú vặn hung bạo, để lộ ra phần cổ tôi. Ánh mắt ngừng sục sạo nơi cuống họng tôi. “Matthew, để Diana xuống.” Giọng Ysabeau cất lên nghe lãnh đạm, còn niềm tin tưởng của tôi với vẫn lay chuyển. muốn làm tôi sợ vì lý do nào đó, nhưng tôi gặp nguy hiểm nào cả - phải như khi tôi ở gần Domenico. “ ấy nghĩ ấy biết về con, Maman,” gầm gừ. “Nhưng Diana biết đến cảm giác khi nỗi thèm muốn dòng máu nóng thít chặt trong dạ dày ta đến mức khiến ta phát điên là như thế nào. ấy biết chúng ta muốn cảm nhận dòng máu của trái tim khác đập trong huyết mạch của mình nhiều đến thế nào. Hoặc khó khăn như thế nào đối với con khi đứng đây, gần sát quá mức mà nếm thử hương vị của ấy.” Ysabeau đứng lên nhưng vẫn ở nguyên chỗ của bà. “Giờ phải là lúc để dạy ấy đâu, Matthew.” “Em thấy , chẳng phải có thể giết em ngay lập tức sao?” tiếp tục, phớt lờ mẹ mình. Đôi mắt đen thẳm của thôi miên tôi. “ có thể chậm rãi hút máu em, lấy máu em và làm cho nó đầy lại chỉ để ngày hôm sau lại bắt đầu như thế.” Nắm tay di chuyển từ cẳm xuống tới cổ tôi, ngón tay cái ấn mạnh vào cổ họng tôi như thể đánh giá và xác định chỗ cắm ngập những chiếc răng vào. “Dừng lại ,” tôi đanh giọng . Các chiến thuật dọa nạt của diễn ra đủ lâu rồi. Matthew đột ngột thả tôi xuống tấm thảm mềm. Cùng lúc ấy tôi cảm thấy tác động, chàng ma cà rồng ngang qua căn phòng, lưng quay về phía tôi, đầu cúi xuống. Tôi nhìn ngây người vào tấm thảm dày bên dưới hai bàn tay và đầu gối mình. cơn xoáy lốc màu sắc, quá nhiều màu sắc đến mức thể phân biệt được, chuyển động trước mắt tôi. Chúng tôi là những chiếc lá nhảy nhót bầu trời – xanh lá, nâu, xanh lam và hoàng kim. “Đó là bố mẹ con,” dì Sarah giải thích, giọng dì nghẹn lại. “Họ bị giết. Họ mất rồi, cưng ơi!” Tôi rời mắt khỏi tấm thảm, nhìn về phía chàng ma cà rồng đứng quay lưng lại với tôi. “.” Tôi lắc đầu. “Cái gì thế, Diana?” Matthew quay lại, trong giây lát lo lắng đẩy lùi vẻ dã thú. Cơn lốc xoáy sắc màu lại thu hút chú ý của tôi – xanh lá, nâu, xanh lam, vàng kim. Chúng là những chiếc lá, bị cuốn vào xoáy nước trong bể, rồi rơi xuống nền đất bên cạnh tay tôi. cây cung cong cong và sáng bóng, được đặt bên cạnh những mũi tên nằm vương vãi và bao đựng tên rỗng nửa. Tôi với lấy cây cung và cảm thấy sợi dây căng cắt vào da thịt mình. “Matthew,” Ysabeau cảnh báo, sắc sảo đánh hơi trong khí. “Con biết, con cũng có thể ngửi thấy nó,” cách dứt khoát. ta là của ngươi, giọng xa lạ thầm. Ngươi được để ta . “Tôi biết,” tôi nóng nảy thầm. “Em biết cái gì hả, Diana?” Matthew bước bước về phía tôi. Marthe phóng đến bên cạnh tôi. “Hãy để mặc con bé,” bà lão . “Con bé giờ ở trong thế giới này.” Tôi chẳng ở đâu cả, tôi bị mắc kẹt giữa cơn đau đớn khủng khiếp của việc mất bố mẹ và điều hiển nhiên rằng Matthew cũng nhanh chóng biến mất. Cẩn thận, giọng xa lạ cảnh báo. “Muộn mất rồi.” Tôi nâng bàn tay lên khỏi sàn và đập vào cây cung, bẻ gãy nó làm hai. “Quá muộn rồi.” “Cái gì quá muộn cơ?” Matthew hỏi. “Em mất rồi.” “Em thể nào,” thốt lên điếng người. Căn phòng hoàn toàn im lặng, ngoại trừ tiếng nổ lách tách của ngọn lửa. “Quá nhanh chóng.” “Tại sao ma cà rồng lại có thái độ lạ lùng về thời gian thế nhỉ.” Tôi to trong mơ màng, vẫn hoang mang lẫn lộn giữa quá khứ và tại. Cái từ “” gửi những cảm xúc muốn chiếm hữu xuyên suốt con người tôi, nhưng lại kéo tôi trở về thực tại. “Phù thủy có hàng thế kỉ để . Chúng em cách nhanh chóng. Dì Sarah mẹ bố ngay khoảnh khắc đầu tiên nhìn thấy ông. Còn em kể từ lúc em quyết định lấy mái chèo đánh cầu tàu City of Oxford.” Máu trong huyết mạch tôi bắt đầu kêu réo ngâm nga. Marthe trông bàng hoàng kinh ngạc, hẳn là bà cũng nghe thấy thanh này. “Em hiểu.” Tiếng Matthew nghe như có thể vỡ ra làm đôi giống cây cung kia. “Em hiểu . Đại Hội Đồng cố gắng ngăn em lại, nhưng bọn họ bảo em phải ai.” Khi tôi bị cướp mất bố mẹ, tôi mới là đứa trẻ có lựa chọn nào cả và phải làm theo những gì người ta bảo. Nhưng giờ tôi là trưởng thành, và tôi đấu tranh vì Matthew. “Khúc dạo đầu của Domenico chẳng là gì so với những điều em có thể nhận được từ Peter Knox. Chuyện xảy ra ngày hôm nay chỉ là nỗ lực nối lại mối quan hệ giữa hai bên, nhiệm vụ ngoại giao. Em chưa sẵn sàng để đối diện với Đại Hội Đồng đâu, Diana, dù em có nghĩ gì nữa. Và nếu em chống lại họ, sau đó thế nào? Mang những mối hận thù cũ trở lại có thể khiến mọi thứ vọt ra ngoài tầm kiểm soát, và chúng ta bị phơi bày ra trước loài người. Gia đình em có thể phải gánh chịu.” Những lời của Matthew tàn bạo, có ý muốn khiến tôi phải ngừng lại mà suy xét. Nhưng chẳng điều gì ảnh hưởng đến tình cảm tôi dành cho . “Em , và em dừng lại.” Cả điều này nữa, tôi chắc chắn. “Em .” “Em quyết định ai là người em , và như thế nào, khi nào. Đừng có bảo em phải làm gì, Matthew ạ. Những ý nghĩ của em về ma cà rồng có thể lãng mạn, nhưng thái độ của với phụ nữ đa phần cần xem xét lại đấy.” Trước khi kịp đáp lời, điện thoại của lại bắt đầu run lên bần bật chiếc ghế nệm dài. chửi thề câu bằng tiếng Occitan chắc hẳn phải rất bậy, bởi vì thậm chí cả Marthe trông cũng bị sốc. cúi xuống tóm lấy chiếc điện thoại trước khi nó kịp nhảy xuống sàn nhà. “Cái gì?” , mắt gắn chặt vào tôi. Tiếng rì rầm nghe ở đầu dây bên kia. Marthe và Ysabeau trao nhau những cái liếc mắt lo lắng. “Khi nào?” Giọng Matthew nghe như phát súng. “Chúng có lấy thứ gì ?” Trán tôi nhíu lại trước cơn giận dữ trong giọng . “Tạ ơn Chúa. Có thiệt hại nào ?” Có chuyện gì đó xảy ra ở Oxford trong khi chúng tôi vắng, nghe có vể giống vụ cướp. Tôi hy vọng nó phải là Chòi Gác Cổ. Giọng ờ đầu dây bên kia tiếp tục. Matthew đưa bàn tay lên che mắt. “Gì nữa?” hỏi, lên giọng. im lặng kéo dài khác. quay bước đến chỗ lò sưởi, tay phải xòe rộng đặt lên mặt lò. “Quá nhiều đối với trò ngoại giao.” Matthew lầm bầm nguyền rủa. “Ta có mặt ở đó trong vài giờ nữa. Đến đón ta nhé?” Chúng tôi sắp trở lại Oxford. Tôi đứng dậy. “Tốt. Ta gọi trước khi hạ cánh. À, Marcus này, hãy điều tra xem còn ai khác nữa ngoài Peter Knox và Domenico Michele là thành viên của Đại Hội Đồng nhé.” Peter Knox ư? Các mảnh ghép bắt đầu khớp vào chỗ. Hèn gì Matthew trở lại Oxford nhanh chóng thế khi tôi cho biết pháp sư mặc áo nâu là ai. Điều đó cũng giải thích cho lý do vì sao bây giờ nôn nóng rời xa tôi quá thế. Chúng tôi phá vỡ hiệp ước, và công việc của Knox là thi hành luật lệ. lúc sau khi cúp máy, Matthew vẫn đứng lặng im, bàn tay siết chặt lại như thể cố gắng kháng cự lại thôi thúc muốn đập tan cái mặt lò bằng đá thành bình địa. “Đó là Marcus. Có kẻ nào đó cố đột nhập vào phòng thí nghiệm. Con cần quay lại Oxford.” quay lại, ánh mắt còn sinh khí. “Mọi thứ ổn cả chứ?” Ysabeau phóng cái nhìn lo lắng về phía tôi. “Chúng qua được hệ thống an ninh. Dù vậy con cần phải chuyện với các ủy viên của trường đại học để đảm bảo kẻ nào còn có thể xâm nhập được nữa.” Những điều Matthew chẳng có ý nghĩa gì cả. Nếu những kẻ đột nhập thất bại, tại sao cảm thấy bớt căng thẳng? Và tại sao lại lắc đầu với mẹ mình thế kia? “Bọn chúng là ai?” tôi thận trọng hỏi. “Marcus chắc.” Điều đó kỳ lạ, căn cứ vào thính giác bén nhạy phi thường của ma cà rồng. “Đó có phải là con người ?” “.” Chúng tôi lại quay về với những câu trả lời đơn . “Em lấy đồ của mình.” Tôi quay hướng về phía cầu thang. “Em . Em ở đây.” Những lời của Matthew khiến tôi đứng khựng lại. “Em thà ở Oxford còn hơn,” tôi phản đối, “cùng với .” “ nay Oxford an toàn. quay lại đây khi nó an toàn.” “ vừa mới với em là chúng ta nên trở về đó cơ mà! Hãy quyết định , Matthew. Nguy hiểm ở đâu? Cuốn cổ thư hay các phù thủy? Peter Knox hay Đại Hội Đồng? Hay Domenico Michele và các ma cà rồng?” “Em nghe à? chính là mối nguy hiểm!” Giọng Matthew sắc lạnh. “Ồ, em nghe thấy rồi. Nhưng giấu giếm em điều gì đó. Hé mở những bí mật là công việc của sử gia,” tôi dịu dàng với . “Và em rất giỏi ở mặt này.” Matthew mở miệng toan , nhưng tôi chặn lại. “Thôi, phải giải thích nữa. Hãy Oxford . Em ở đây.” “Còn có cần thứ gì gác ?” Ysabeau hỏi. “Con nên lấy áo khoác. Con người để ý nếu con chỉ mặc mỗi cái áo len đấy.” “Con chỉ cần mang theo máy tính thôi. Hộ chiếu của con ở trong túi xách.” “Em lấy chúng.” Muốn dành cho những người nhà de Clermont chút thời gian, tôi hối hả chạy lên cầu thang. Trong phòng làm việc của Matthew, tôi nhìn quanh gian cất giữ vố số thứ của . Bề mặt màu bạc của bộ áo giáp phản chiếu ánh lửa lò sưởi lấp lánh, nó thu hút chú ý của tôi trong khi mớ hỗn độn những khuôn mặt lóe lên trong tâm trí tôi, những ảo ảnh lướt nhanh như ngôi sao chổi lướt qua bầu trời. Có người phụ nữ xanh xao với đôi mắt to xanh biếc và nụ cười ngọt ngào, người phụ nữ khác có cái cằm cương nghị và đôi vai vuông vức biểu ý chí quyết đoán, người đàn ông có cái mũi diều hâu bị vết thương khủng khiếp. Còn nhiều gương mặt khác nữa, nhưng khuôn mặt duy nhất tôi nhận ra là Louisa de Clermont, chị ấy giơ những ngón tay đẫm máu lên trước mặt mình. Chống lại lôi kéo của những ảo ảnh khiến những gương mặt ấy mờ nhạt dần, nhưng người tôi vẫn run rẩy và thần trí tôi vẫn hoang mang. Bản báo cáo DNA cho thấy dấu hiệu những ảo ảnh có thể lại đến. Nhưng có gì cảnh báo chúng đến, như thế ai đó kéo cái nút chai và phép thuật của tôi cuối cùng thoát ra, tràn ra ngoài ào ạt. Cuối cùng tôi cũng rút được dây máy tính ra khỏi ổ điện, và thả nó vào chiếc túi xách của Matthew cùng với cái máy vi tính. Hộ chiếu của ở trong ngăn túi phía trước, như . Khi tôi trở lại phòng khách, Matthew mình, chùm chìa khóa cầm tay và chiếc áo khoác vải thô vắt hờ hững qua vai. Marthe cằn nhằn và bước về đại sảnh. Tôi đưa chiếc máy tính cho và đứng cách xa để cưỡng lại thôi thúc muốn chạm vào lần nữa. Matthew cho chùm chìa khóa vào túi áo và cầm lấy chiếc túi xách. “ biết việc này khó khăn.” Giọng nín lặng và xa lạ. “Nhưng em cần để lo vụ này. Và cần biết rằng em được an toàn trong khi làm chuyện đó.” “Em an toàn ở bên , dù chúng ta ở bất cứ đâu.” lắc đầu. “Tên tuổi của đáng lẽ đủ để bảo vệ em. Nhưng phải thế.” “Bỏ lại em phải là đáp án. Em hiểu tất cả mọi chuyện xảy ra hôm nay, nhưng thù hằn của Domenico vượt ngoài giới hạn liên quan tới em. muốn hủy hoại gia đình và mọi thứ khác mà quan tâm. Tuy nhiên có lẽ quyết định đây phải lúc thích hợp để theo đuổi mối nợ máu của . Nhưng Peter Knox ư? muốn Ashmole 782, và nghĩ em có thể lấy nó cho . bỏ qua dễ dàng đâu.” Tôi rùng mình. “ suy nghĩ lại nếu đề nghị thứ.” “ thỏa thuận ư? phải mua bán cái gì?” Chàng ma cà rồng nín lặng. “Matthew?” tôi khăng khăng. “Cuốn cổ thư,” đáp dứt khoát. “ để nó – và em – yên nếu cũng hứa như thế. Ashmole 782 bị quấy rầy suốt thế kỉ rưỡi qua. Chúng ta để nó được yên như thế.” “ thể thương lượng với Knox được đâu. đáng tin.” Tôi khiếp sợ. “Hơn nữa, mất cả đời mình để chờ đợi cuốn sách ấy. Knox cũng vậy. Cuộc thương lượng của làm hứng thú đâu.” “Cứ để Knox cho ,” cộc cằn đáp. Mắt tôi ánh lên giận dữ. “Để Domenico cho . Để Knox cho . tưởng tượng xem em làm gi hả? em phải thiếu nữ trong cảnh khốn cùng. Vậy nên hãy đối xử với em theo cái kiểu ấy .” “ cho rằng đáng phải như vậy,” Matthew chậm rãi đáp, đôi mắt đen thẳm, “nhưng em còn rất nhiều điều phải học về ma cà rồng đấy.” “Vậy nên mẹ kể cho em. Nhưng cũng có vài điều cần biết về phù thủy đấy.” Tôi gạt mớ tóc ra khỏi mắt và khoanh hai cánh tay trước ngực. “Hãy Oxford . Lo liệu những chuyện xảy ra ở đó.” Bất cứ điều gì xảy ra mà chia sẻ với em. “Nhưng vì Chúa, Matthew, đừng có thương lượng với Peter Knox. Hãy quyết định cảm xúc mà dành cho em – phải bởi những gì điều luật kia ngăn cấm, hoặc theo những mong muốn của Đại Hội Đồng, hay thậm chí là những điều Peter Knox và Domenico Michele khiến lo sợ.” Chàng ma cà rồng dấu của tôi, với gương mặt khiến cho thiên thần cũng phải nghen tị, nhìn tôi đau khổ. “Em biết cảm thấy thế nào về em mà.” Tôi lắc đầu. “, em biết. Khi nào sẵn sàng, hãy với em.” Matthew đấu tranh giằng xé điều gì đó rồi thôi nữa. Lặng lẽ, bước về phía cánh cửa dẫn ra hành lang. Khi tới cửa, quay lại tặng tôi cái nhìn dài của những bông tuyết và sương giá trước khi qua nó. Marthe gặp ở hành lang. hôn lên cả hai gò má của bà và điều gì đó rất nhanh bằng tiếng Occitan. “Compreni, compreni,” bà lão , gật đầu lia lịa rồi nhìn qua về phía tôi. “Mercés amb tot meu còr,” khẽ . “Al rebèire. Mèfi.” “T’afortissi.” Matthew quay về phía tôi. “Và em cũng hứa với nhé – rằng em thận trọng. Hãy nghe lời Ysabeau.” bỏ cái liếc nhìn hay lần đụng chạm cuối cùng để làm vững dạ. Tôi cắn môi cố nuốt vào những giọt nước mắt, nhưng chúng cứ trào ra. Sau ba bước chân từ từ hướng về phía cầu thang dẫn lên tháp canh, hai bàn chân tôi bắt đầu chạy nhanh, nước mắt giàn giụa gò má. Với cái nhìn cảm thông, Marthe để tôi . Khi tôi lao ra bầu khí lạnh giá ẩm ướt, lá cờ hiệu của nhà de Clermont phần phật bay và những đám mây bắt đầu che khuất ánh trăng. Bóng tối ập tới tôi tứ phía, và – sinh vật vẫn giam giữ bóng tối ra , mang theo ánh sáng. Ngó xuống dưới qua bức tường lũy của tòa tháp, tôi thấy Matthew đứng cạnh chiếc Range Rover, giận dữ gì đó với Ysabeau. Bà trông có vẻ sốc và tóm lấy ống tay áo khoác của như thể muốn ngăn vào trong xe. Khi kéo mạnh để giải phóng cánh tay mình, bàn tay trắng toát. lần, nắm tay nện lên nóc chiếc xe. Tôi nhảy dựng lên. Matthew chưa bao giờ sử dụng sức mạnh của mình lên thứ gì lớn hơn quả óc chó hay cái vỏ sò khi ở gần tôi, và vết lõm để lại tấm kim loại sâu hoắm đáng lo ngại. nghiêng đầu. Ysabeau nhàng chạm vào má , vẻ buồn bã của lên trong ánh sáng lờ mờ. trèo vào trong xe và mấy lời nữa. Mẹ gật đầu và thoáng nhìn lên tháp canh. Tôi bước lùi lại, hy vọng ai trong bọn họ trông thấy mình. Chiếc xe nổ máy, bánh xe nặng nề nghiến lên lớp sỏi khi Matthew phóng . Ánh đèn của chiếc Range Rover biến mất dưới ngọn đồi. Matthew rồi, tôi trượt người xuống bức tường đá của chòi canh và chìm trong những giọt nước mắt. Rốt cuộc tôi khám phá ra nước phù thủy có nghĩa là thế nào.
Chương 23 Trước khi gặp Matthew, cuộc đời tôi dường như có chỗ dành cho nhân tố phụ thêm – đặc biệt phải là thứ gì đó to lớn và quan trọng như chàng ma cà rồng 1500 tuổi. Nhưng lẻn vào, và chiếm những chỗ trống chưa được khám phá ấy lúc tôi để ý. Giờ đây ra , tôi kinh hoàng nhận ra vắng mặt của . Khi tôi ngồi nóc tháp canh, những giọt nước mắt làm mềm ý chí quyết tâm chiến đấu vì . Bỗng chẳng mấy chốc khắp nơi toàn là nước. Tôi ngồi trong vũng nước, và mực nước tiếp tục dâng cao. phải mưa, mặc dù bầu trời đầy mây. Nước này thoát ra từ tôi. Những giọt nước mắt của tôi chảy xuống bình thường, nhưng khi rơi xuống chúng phình căng ra bằng quả bóng tuyết rồi vỡ tan thành những giọt , đập vào mái đá của tòa tháp canh bắn ra tung tóe. Mái tóc tôi biến thành những lọn ngoằn ngoèo hai vai trong màn nước đổ tràn qua các đường cong cơ thể. Tôi há miệng để lấy hơi bởi dòng nước cứ tràn xuống mặt bít cả mũi tôi, nhưng nước càng phun trào ra thành dòng chảy xiết mang vị mặn mòi của biển. Qua màn hơi nước ẩm, tôi thấy Marthe và Ysabeau quan sát tôi. Gương mặt Marthe dữ tợn. Môi Ysabeau chuyển động, nhưng tiếng gầm gào của hàng ngàn vỏ sò khiến tôi thể nghe thấy tiếng bà. Tôi đứng lên, hy vọng nước ngưng chảy. Nhưng được. Tôi cố bảo hai người phụ nữ cứ để nước cuốn tôi cùng nỗi đau và kí ức về Matthew – nhưng điều đó lại tạo ra đợt phun trào khác của cả đại dương nước ào ạt. Tôi với tay ra, nghĩ rằng làm thế giúp cho nước rút , nhưng thậm chí còn nhiều nước hơn đổ như thác xuống từ các đầu ngón tay tôi. Cử chỉ này gợi tôi nhớ lại cánh tay mẹ vươn ra hướng về phía bố tôi, và những con sóng tiếp tục dâng lên. Khi nước trút xuống phía dưới, khả năng kiểm soát của tôi trượt xa hơn. xuất đột ngột của Domenico làm tôi khiếp hãi hơn là tôi sẵn sàng thừa nhận. Matthew ra . Và tôi thề chiến đấu vì trước những kẻ thù mà tôi thể xác định và cũng hiểu . Giờ đây, có điều ràng là quá khứ của Matthew phải được tạo nên từ những nhân tố gia đình đơn thuần như ánh lửa lò sưởi, rượu vang và sách vở. Nó cũng chỉ bộc lộ trong giới hạn của gia tộc trung kiên. Domenico gián tiếp ám chỉ điều gì đó đen tối hơn, đầy hận thù, hiểm nguy và chết chóc. Cơn kiệt sức xâm chiếm tôi, con nước kéo tôi ngã gục. cảm giác hồ hởi vui mừng lạ lùng kèm với kiệt quệ ấy. Tôi lơ lửng giữa cõi chết và thứ gì đó mãnh liệt giữ trong nó hứa hẹn về sức mạnh mênh mông thể hiểu được. Nếu tôi đầu hàng con sóng ngầm này, còn có Diana Bishop nữa. Thay vào đó tôi trở thành nước – ở đâu, ở khắp mọi nơi, giải thoát trọn vẹn khỏi thân thể và nỗi đau này. “Em xin lỗi, Matthew.” Những lời của tôi chẳng hơn gì tiếng lầm bầm khi dòng nước bắt đầu công việc thương xót của nó. Ysabeau lao về phía tôi, và tiếng crack thình lình vang lên trong óc tôi. Lời cảnh báo của tôi tới bà mất hút trong tiếng gầm vang của cơn sóng cồn xô bờ. Những cơn gió nổi lên quanh chân tôi, quất nước thành cơn bão. Tôi giơ hai cánh tay lên trời, nước và gió cuộn lại thành cái vòi rồng xoay tròn quanh người tôi. Marthe tóm lấy cánh tay Ysabeau, miệng bà lão chuyển động rất nhanh. Mẹ Matthew cố kéo tay ra, miệng bà phát từ “,” nhưng Marthe vẫn giữ lấy, gắn vào bà cái nhìn đăm đăm chớp. Sau khoảnh khắc, hai vai Ysabeau sụp xuống. Bà quay về phía tôi và bắt đầu hát. Chan chứa ám ảnh và nhớ mong, giọng bà xuyên qua làn nước gọi tôi quay trở lại với thế giới. Cơn gió bắt đầu lặng dần. Lá cờ của nhà de Clermont quất phần phật, trở lại đung đưa nhàng. Thác nước chảy ra từ các đầu ngón tay tôi thu hẹp dần thành dòng sông, rồi thành dòng chảy , và ngưng hẳn. Những con sóng lớn chảy xuống từ mái tóc tôi rút xuống thành sóng cồn, và rồi chúng cũng biến mất. Cuối cùng cũng chẳng có gì thoát ra từ miệng tôi ngoài hơi thở gấp gáp ngạc nhiên. Những quả bóng nước rơi xuống từ mắt tôi là vết tích cuối cùng của con nước phù thủy, cũng biến mất y như khi chúng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sức mạnh di chuyển trong người tôi. Dấu tích còn lại từ trận đại hồng thủy chảy xối xả về phía những cái lỗ dưới chân các bức tường có lỗ châu mai. Xa xa bên dưới, nước đổ bắn tung tóe nền sân trong lát sỏi dày. Khi con nước cuối cùng rút khỏi, tôi cảm thấy bị hất tung lên như quả bí ngô và đồng thời lạnh cóng. Hai đầu gối tôi oằn xuống, nện vào nền đá đau nhói. “Tạ ơn Chúa,” Ysabeau thầm. “Chúng ta gần như mất con bé.” Tôi run lẩy bẩy vì kiệt sức và lạnh. Cả hai người phụ nữ rảo bước tới chỗ tôi và nâng tôi đứng lên. Mỗi người nắm bên khuỷu tay và đỡ tôi xuống những nhịp thang quanh co với tốc độ khiến tôi rùng mình. Khi tới hành lang, Marthe hướng về phía dãy phòng của Matthew còn Ysabeau kéo về hướng ngược lại. “Phòng tôi gần hơn,” mẹ Matthew ngắn gọn. “ bé cảm thấy an toàn hơn khi ở gần cậu ấy,” Marthe . Thốt lên tiếng bực bội, Ysabeau công nhận. Lên đến đỉnh cầu thang dẫn vào phòng Matthew, Ysabeau tuôn ra tràng những cụm từ màu mè nghe hoàn toàn chẳng thích hợp với cái miệng thanh tú của bà tẹo nào. “Tôi bế ấy,” bà khi kết thúc việc nguyền rủa cậu con trai, nguyền rủa các thế lực tự nhiên, các sức mạnh của vũ trụ, cộng thêm nhiều cá nhân lai lịch, gốc tích khác – những kẻ tham gia vào việc xây dựng tòa tháp này. Ysabeau nâng cơ thể tôi lên cách dễ dàng. “Tại sao thằng bé phải làm những cầu thang vặn xoắn như thế - và lại chia thành hai nhịp cầu thang tách biệt nữa – tôi tài nào hiểu được.” Marthe nhét mái tóc ướt nhẹp của tôi vào chỗ hõm nơi khuỷu tay Ysabeau và nhún vai. “Để làm nó khó hơn, dĩ nhiên là thế. Cậu ấy luôn làm mọi thứ khó khăn hơn. Cho cậu ấy. Cho mọi người khác nữa.” Chẳng ai nghĩ đến việc lên đây để thắp nến vào cuối giờ chiều cả, nhưng lửa vẫn cháy ỉ và căn phòng vẫn giữ lại được ít hơi ấm. Marthe biến vào phòng tắm, nghe có tiếng nước chảy, tôi vội hốt hoảng kiểm tra lại các ngón tay mình. Ysabeau ném hai súc củi lớn vào vỉ lò như thể lửa nhen nhóm cháy sẵn, chúng tách dọc thành mảnh trước khi bắt lửa. Bà kều than cho cháy lên và dùng ngọn lửa ấy để thắp sáng tá nến trong phòng chỉ trong vài giây. Trong ánh sáng lung linh ấm áp của chúng, bà lo lắng xem xét tôi từ đầu tới chân. “Thằng bé chẳng bao giờ tha thứ cho ta nếu bị ốm,” bà , cầm hai tay tôi lên và kiểm tra các móng tay. Chúng lại hơi xanh xanh, nhưng phải do điện tích. Bây giờ chúng xanh tái vì lạnh và nhăn nheo lại vì nước phù thủy. Bà chà xát chúng mạnh giữa hai lòng bàn tay mình. Vẫn còn run rẩy tới mức hai hàm răng đánh lập cập vào nhau, tôi rút hai bàn tay lại để ôm lấy mình, cố gắng gìn giữ chút hơi ấm còn lại trong cơ thể. Ysabeau chẳng ngần ngại nhấc bổng tôi lên và đưa tôi vào phòng tắm. “Con bé cần vào trong đó ngay bây giờ,” Ysabeau cộc cằn . Căn phòng đầy hơi nước, và Marthe quay ra từ chỗ bồn tắm để giúp cởi bỏ quần áo của tôi. Chẳng mấy chốc tôi thấy mình mảnh vải che thân, và hai người bọn họ dùng bàn tay lạnh giá nâng tôi lên đưa vào trong làn nước ấm. Cơn sốc do hơi nước nóng chạm vào làn da lạnh như băng của tôi lên đến tột cùng. Òa khóc, tôi vùng vẫy cố thoát ra khỏi cái bồn tắm sâu của Matthew. “Suỵt,” Ysabeau , gạt mái tóc ra khỏi mặt tôi trong khi Marthe ấn tôi trở lại làn nước. “Nó làm ấm lại. Chúng ta phải giữ cho được ấm.” Marthe đứng canh ở đầu bồn, còn Ysabeau vẫn đứng nguyên ở đầu kia thầm những thanh êm ái và khe khẽ ngâm nga trong hơi thở. Phải mất lúc lâu cơn run rẩy trong tôi mới ngưng lại. Đến lúc đó Marthe thầm những điều gì đấy bằng tiếng Occitan trong đó có cả tên Marcus. Ysabeau và tôi cùng lúc. “Cháu khỏe thôi. Đừng cho Marcus biết chuyện xảy ra. Matthew tuyệt đối được biết về phép thuật này. phải bây giờ,” tôi qua hai hàm răng va vào nhau lập cập. “Chúng ta chỉ cần ít thời gian để làm con ấm lên thôi.” Ysabeau điềm tĩnh , nhưng trông bà có vẻ lo lắng. Từ từ, sức nóng bắt đầu đảo ngược những thay đổi mà nước phù thủy gây ra cơ thể tôi. Marthe liên tục cho thêm nước nóng mới để cái bồn cũng như cơ thể tôi làm mát nó. Ysabeau tóm lấy cái bình thiếc miệng rộng có quai ở dưới cửa sổ và dìm nó vào trong bồn tắm, bà đổ nước nóng lên đầu và hai vai tôi. Khi đầu tôi ấm lên, bà bọc nó trong chiếc khăn tắm và ấn tôi xuống làn nước. “Ngâm mình ,” bà ra lệnh. Marthe hối hả bận rộn giữa phòng tắm và phòng ngủ, mang theo quần áo và khăn tắm. Bà lão chép miệng chán nản trước bộ pijama và bộ đồ tập yoga cũ nghèo nàn mà tôi mang theo để mặc ngủ. bộ đồ nào giữ ấm được theo cầu của bà. Ysabeau dùng mu bàn tay chạm vào má và đỉnh đầu tôi để cảm nhận. Rồi bà gật đầu. Họ để tôi tự ra khỏi bồn tắm. Làn nước tuôn xuống từ người khiến tôi nhớ đến dòng nước thác ào ạt mái tháp canh, tôi ấn các ngón chân xuống sàn phòng để cưỡng lại lôi kéo thầm của nước. Marthe và Ysabeau bọc tôi vào những chiếc khăn tắm mang đến từ bên cạnh lò sưởi còn vương mùi khói gỗ nhè . Trong phòng ngủ, chẳng biết làm cách nào họ xoay sở lau khô người tôi mà để hở centimet da thịt tôi ra khí, cứ thế họ cuộn tôi trong khăn tắm cho tới khi tôi cảm thấy nóng ran khắp người. Tôi cảm thấy những cái chà vuốt mạnh của chiếc khăn tắm khác tóc mình trước khi những ngón tay của Marthe luồn qua các lọn tóc và bện xoắn nó vào thành cái đuôi sam chặt sát đến tận da đầu. Khi tôi thả khăn tắm ra để mặc quần áo, Ysabeau ném chúng lên chiếc ghế cạnh lò sưởi, dường như chẳng bận tâm đến những món đồ gỗ cổ và màn thảm đẹp đẽ. Bây giờ khi mặc quần áo đầy đủ, tôi ngồi nhìn đờ đẫn vào ngọn lửa. Marthe biến mất xuống khu vực tầng dưới của toà lâu đài rồi trở lại với cái khay những chiếc sandwich và ấm trà thảo mộc nghi ngút khói. “ ăn. Ngay bây giờ.” Đó phải là lời cầu mà mệnh lệnh. Tôi cho miếng sandwich vào miệng và gặm quanh quanh rìa miếng bánh. Marthe nheo mắt trước thay đổi đột ngột trong thói quen ăn uống của tôi. “Ăn .” Mặc dù dạ dày tôi sôi réo ùng ục nhưng thức ăn có vị như mùn cưa. Sau khi tôi nuốt được hai miếng bánh xíu, Marthe ấn vào tay tôi chén trà đầy. Bà lão cần phải bảo tôi uống nữa. Thứ chất lỏng nóng bỏng tuồn xuống cổ họng cuốn các dấu vết còn lại của vị muối trong nước. “Đó là nước phù thủy phải ?” tôi rùng mình trước ký ức tất cả số nước đó đều thoát ra từ người mình. Ysabeau đứng bên cửa sổ nhìn vào bóng đêm, bà bước về phía chiếc sofa đối diện. “Đúng vậy,” bà . “Mặc dù lâu lắm rồi chúng ta mới thấy thứ đó diễn ra trước mắt mình như thế.” “Tạ ơn Chúa là nó thường xuyên xảy ra,” tôi thều thào , nuốt ngụm trà khác. “Hầu hết phù thủy ngày nay đủ quyền năng để gọi lên nước phù thủy giống như làm. Họ có thể tạo ra những con sóng trong ao hồ và làm ra mưa khi trời nhiều mây. Nhưng họ biến thành nước như thế.” Ysabeau ngồi đối diện với tôi, bà quan sát tôi chăm chú với vẻ tò mò giấu giếm. Tôi biến thành nước. Biết rằng tượng này phải là phổ biến, tôi thấy bị tổn thương – thậm chí là thấy độc hơn. Tiếng chuông điện thoại vang lên. Ysabeau thò tay vào túi áo và lấy ra chiếc điện thoại màu đỏ có vẻ chói lọi quá mức và công nghệ cao, trái ngược với làn da tai tái cùng bộ đồ màu da bò cổ điển của bà. “Vâng? À, tốt. Mẹ mừng là con đến đó an toàn.” Bà tiếng cả mức lịch thiệp và gật đầu về phía tôi. “Ừ, ấy khỏe. ấy ăn.” Bà đứng lên và đưa máy cho tôi. “Matthew muốn chuyện với đấy.” “Diana à?” tiếng Matthew chỉ vừa đủ nghe thấy. “Vâng?” Tôi dám để mình nhiều vì sợ rằng thứ gì đó còn hơn cả những lời tuôn ra ào ạt. thốt ra tiếng thở phào nhõm. “ chỉ muốn chắc chắn là em ổn thôi mà.” “Mẹ và Marthe chăm sóc em.” Và em làm lụt cả lâu đài, tôi thầm nghĩ. “Em mệt rồi.” Khoảng cách giữa chúng tôi khiến Matthew trở nên bồn chồn lo lắng, và cố điều chỉnh cho khớp với mỗi sắc thái câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi. “Em mệt. Đó là ngày dài mà.” “Thế ngủ ,” , giọng dịu dàng ngoài mong đợi. Tôi nhắm mắt ngăn những giọt nước mắt đột ngột trào lên. Đêm nay tôi cần phải ngủ lát. Hình như tôi lo lắng quá mức về những gì có thể làm, nóng vội và khờ khạo, những nỗ lực theo chủ nghĩa hùng chỉ để bảo vệ tôi. “ đến phòng thí nghiệm chưa?” “Bây giờ đến đó. Marcus muốn xem qua mọi thứ cẩn thận và chắc chắn là bọn có tất cả phòng ngừa cần thiết. Miriam cũng kiểm tra hệ thống an nình của tòa nhà.” kể nửa bằng giọng trơn tru thuyết phục, nhưng tôi biết mục đích của điều đó. Im lặng kéo dài cho tới khi nó trở nên khó chịu. “Đừng làm việc ấy, Matthew. Làm ơn đừng cố thương lượng với Knox.” “ đảm bảo chắc chắn để em được an toàn trước khi quay trở lại Oxford.” “Thế chẳng có gì để nữa. quyết định rồi. Em cũng vậy.” Tôi trả lại máy cho Ysabeau. Bà cau mày, những ngón tay lạnh giá kéo chiếc điện thoại khỏi nắm tay tôi. Ysabeau chào tạm biệt con trai, tiếng đáp lại chỉ như những thanh ngắt quãng ràng. “Cảm ơn bác kể với ấy về con nước phù thủy vừa rồi,” tôi khẽ sau khi bà ngắt máy. “Đó là câu chuyện của , phải của tôi.” Ysabeau hờ hững về phía lò sưởi. “Kể câu chuyện mà mình hiểu hay chút nào hết. Tại sao sức mạnh của cháu lại bộc lộ ra vào thời điểm này? Đầu tiên là gió, rồi đến các ảo giác, và giờ là nước.” Tôi rùng mình. “Các ảo giác thế nào?” Ysabeau hỏi, tò mò của bà ràng. “Matthew kể cho bác ư? DNA của cháu có tất cả... phép thuật,” tôi , bị vấp từ, “trong đó. Các xét nghiệm cảnh báo có thể có những ảo ảnh, và chúng bắt đầu xuất rồi.” “Matthew chẳng bao giờ kể với ta về những thứ trong máu của đâu – nhất là khi có đồng ý của , và có lẽ ngay cả khi có đồng ý của nó cũng .” “Cháu thấy chúng ở đây, trong tòa lâu đài này.” Tôi ngập ngừng. “Làm thế nào bác kiểm soát được chúng?” “Matthew kể với rằng ta có những ảo ảnh tiên thị trước khi trở thành ma cà rồng?” Ysabeau lắc đầu. “Đáng lẽ nó được kể.” “Bác là phù thủy ư?” Điều đó giải thích vì sao bà ghét tôi nhiều đến thế. “ phù thủy ư? . Matthew từng băn khoăn liệu ta có phải là tinh , nhưng ta chắc chắn mình là con người bình thường. Con người cũng có khả năng tiên thị. chỉ có các sinh vật khác người mới được ban phước và nguyền rủa bằng những năng lực này.” “Bác có bao giờ điều khiển được và biết trước về thị giác thứ hai của mình ?” “Dần dần nó trở nên dễ dàng hơn. Có những dấu hiệu cảnh báo trước mà. Chúng có thể dễ nhận thấy, nhưng học được cách. Marthe cũng giúp ta đấy.” Đó làm mẫu thông tin duy nhất mà tôi có về quá khứ của Marthe. Cũng phải lần đầu tiên tôi thắc mắc về tuổi của hai người phụ nữ này và số mệnh mang họ đến với nhau. Marthe đứng đó, hai cánh tay đan chéo vào nhau. “Òc,” bà lão lên tiếng, gửi đến Ysabeau cái nhìn dịu dàng che chở. “ dễ dàng hơn nếu để các hình cảnh ấy qua mà kháng cự lại.” “Cháu quá sốc để có thể phản kháng lại,” tôi , nghĩ lại lúc ở phòng khách và thư viện. “Sốc chính là cách cơ thể phản ứng kháng cự lại đấy,” Ysabeau . “ phải cố thư giãn.” “ khó mà làm thế được thế khi trông thấy những hiệp sỹ mặc áo giáp và gương mặt những người phụ nữ xa lạ lẫn lộn đan xen với các hình ảnh trong quá khứ của chính mình.” Quai hàm tôi căng ra bởi cái ngáp. “Bây giờ quá kiệt sức rồi, thể nghĩ ngợi về chuyện này đâu.” Ysabeau đứng lên. “Cháu chưa định ngủ.” Tôi lấy mu bàn tay để giấu cái ngáp khác. Bà nhìn tôi vẻ suy đoán, như con chim ưng đẹp đẽ dò xét con chuột đồng. Cái liếc mắt của Ysabeau chuyển sang vẻ tinh quái. “Lên giường và ta kể cho nghe ta tạo ra Matthew như thế nào.” Lời đề nghị của bà quá hấp dẫn thể kháng cự được. Tôi làm theo lời Ysabeau, trong khi bà kéo chiếc ghế tới còn Marthe làm mình bận bịu với những chén đĩa và khăn tắm. “Ta phải bắt đầu ở đâu đây nhỉ?” Bà rướn thẳng người ghế và đăm đăm nhìn vào những ánh nến. “Ta thể chỉ bắt đầu từ kể phần của mình trong câu chuyện này mà phải bắt đầu từ việc thằng bé đó được sinh ra và sống ở ngôi làng này. biết , hồi đó thằng bé mới là đứa trẻ sơ sinh. Cha mẹ nó đến đây khi Philippe quyết định xây dựng mảnh đất này vào thời Clovis là vua. Ngôi làng này mọc lên ở đây là vì thế - nó là nơi những người nông dân và thợ thủ công – những người xây dựng nhà thờ và lâu đài sinh sống.” “Tại sao chồng bác lại chọn vị trí này?” Tôi tựa người vào đống gối, đầu gối co lên sát ngực bên dưới lớp chăn và khăn trải giường. “Vua Clovis hứa hẹn cho Philippe vùng đất này hy vọng khích lệ ông ấy chiến đấu với kẻ thù của đức vua. Chồng của ta vẫn luôn chơi trò nước đôi trung lập.” Ysabeau mỉm cười buồn bã. “Rất ít kẻ theo kịp ông ấy ở điểm này.” “Cha của Matthew là nông dân ạ?” “ nông dân ư?” Ysabeau tỏ vẻ ngạc nhiên. “, ông ấy là thợ mộc, Matthew cũng vậy – trước khi thằng bé trở thành thợ xây đá.” người thợ nề. Mọi khối đá tòa tháp đều vừa khít với nhau cách hoàn hảo mà dường như chẳng cần đến vữa hồ. Và còn những ống khói trang trí công phu kỳ lạ ở ngôi nhà gác của Chòi Gác Cổ nữa, nơi Matthew chắc phải để vài người thợ thủ công thử tay nghề của ngay ở công trường xây dựng. Những ngón tay dài, mảnh khảnh đủ sức mở ra cái vỏ sò hay bóp vỡ hạt dẻ. mảnh ghép khác của Matthew chạy vào chỗ của nó, vừa in với các mảnh chiến binh, nhà khoa học và cận thần của nhà vua. “Và bọn họ đều làm việc ở tòa lâu đài ạ?” “ phải tòa lâu đài này,” Ysabeau , đưa mắt nhìn quanh. “Đây là món quà của Matthew, khi ta thấy buồn chán vì buộc phải rời khỏi nơi ta quý. Thằng bé giật đổ cái pháo đài cha nó xây và thay vào đó cái mới.” Đôi mắt xanh đen của bà lấp lánh vẻ thích thú. “Philippe giận điên. Nhưng cũng đến lúc cần phải thay đổi. Lâu đài đầu tiên được làm bằng gỗ, và mặc dù cũng có các phần bằng đá được thêm vào qua năm tháng nhưng nó vẫn hơi xiêu vẹo đôi chút.” Tâm trí tôi cố gắng hòa vào dòng thời gian của các kiện, từ công trình pháo đài đầu tiên và ngôi làng của nó ở thế kỷ thứ VI tới tòa tháp của Matthew vào thế kỷ thứ XIII. Mũi Ysabeau nhăn lại vẻ chán ghét. “Thế rồi thằng bé tự nhốt mình vào tòa tháp này, phía sau lâu đài, mỗi khi trở về nhà và muốn sống gần gũi với gia đình. Ta bao giờ thích điều đó – đây dường như là trò lãng mạn vặt vãnh – nhưng đó là mong ước của thằng bé và ta để mặc nó.” Bà nhún vai. “ tòa tháp buồn cười. Nó chẳng giúp gì cho việc phòng thủ lâu đài cả. Thằng bé xây nhiều tháp ở chỗ này hơn cả mức chúng ta cần.” Ysabeau tiếp tục xoay quanh câu chuyện của bà, dường như đó là phần hoàn chỉnh duy nhất trong thế kỉ XXI này. “Matthew được sinh ra trong ngôi làng. Thằng bé luôn là đứa trẻ thông minh và hiếu kỳ. Nó làm cha nó phát điên, nó bám theo ông tới lâu đài để thu nhặt các dung cụ, gậy và đá. Bọn trẻ con học được cách kiếm sống từ khá sớm, nhưng Matthew sớm phát triển hơn tất thảy. Cho tới khi thằng bé có thể mang cái rìu mà làm mình bị thương, nó được đưa làm việc.” Hình ảnh Matthew tám tuổi với đôi chân mạnh mẽ và đôi mắt màu xanh xám chạy quanh những ngọn đồi lên trong trí tưởng tượng của tôi. “Đúng vậy.” Bà mỉm cười, đồng ý với những ý nghĩ trong đầu tôi. “Thằng bé quả thực là đứa trẻ khôi ngô. chàng trai tuấn tú nữa. Matthew khi đó cao cách khác thường, mặc dù cao lớn bằng lúc nó là ma cà rồng. Và thằng bé có khiếu hài hước tinh quái. Nó luôn giả vờ rằng có thứ gì đó bị hỏng hoặc những chỉ dẫn về rầm mái nhà này hay cái móng nhà kia chưa được chuyển đến cho nó. Philippe chẳng bao giờ tin nhầm vào những câu chuyện phóng đại mà Matthew kể với ông ấy.” Giọng Ysabeau ra chiều bao dung. “Người cha đầu tiên của Matthew chết khi thằng bé gần hết tuổi thành niên, và người mẹ đầu tiên của nó cũng qua đời vài năm sau. Thằng bé đơn, và chúng ta lo lắng tìm cho nó người phụ nữ để ổn định và bắt đầu gia đình mới. Và rồi thằng bé gặp Blanca,” Ysabeau ngừng lời, cái nhìn của bà điềm tĩnh và hề có ác ý. “Chắc tưởng tượng là thằng bé sống mà có tình với phụ nữ chứ?” Đó là lời tuyên bố, phải là câu hỏi. Marthe phóng sang Ysabeau cái nhìn khó chịu nhưng vẫn giữ im lặng. “Dĩ nhiên là rồi,” tôi bình tĩnh đáp, mặc dù trái tim nặng trĩu. “Blanca là người mới đến làng, ấy là gia nhân của ông chủ thầu xây dựng mà Philippe mang về từ Ravenna để xây ngôi nhà thờ đầu tiên. bé xanh xao giống như cái tên của mình, làn da trắng, đôi mắt to màu bầu trời mùa xuân và mái tóc trông y như những sợi vàng.” xinh đẹp xanh xao xuất trong ảo ảnh của tôi khi tôi tới lấy cái máy tính của Matthew. Mô tả của Ysabeau về Blanca trùng khớp hoàn hảo với ảo ảnh đó. “ ấy có nụ cười ngọt ngào, đúng ạ?” tôi thầm. Mắt Ysabeau mở to. “Phải rồi, đúng là ấy.” “Cháu biết. Cháu nhìn thấy ấy khi bộ áo giáp của Matthew sáng lên lấp lánh trong phòng làm việc của ấy.” Marthe đằng hắng cảnh cáo, nhưng Ysabeau vẫn tiếp tục. “Đôi khi Blanca có vẻ quá mong manh đến nỗi ta sợ ấy vỡ tan mất khi phải kéo nước lên từ giếng hay là khi hái rau. Matthew của ta bị thu hút vì vẻ mong manh yếu đuối ấy, ta cho là thế.” Ánh mắt Ysabeau lướt qua cái hình hài còn xa mới tới được vẻ mong manh dễ vỡ của tôi. “Họ kết hôn khi Matthew bước sang tuổi 25 và có thể chăm lo cho gia đình. Blanca vừa 19 tuổi. Chúng là cặp đẹp đôi, dĩ nhiên là thế. Có tương phản mạnh mẽ giữa vẻ đen tối của Matthew và nét xinh đẹp xanh xao của Blanca. Chúng rất nhau, và đó là cuộc hôn nhân hạnh phúc. Nhưng dường như chúng thể có con. Blanca bị sẩy thai hết lần này tới lần khác. Ta thể tưởng tượng nổi bầu khí trong ngôi nhà của chúng ta như thế nào, khi phải thấy quá nhiều đứa trẻ là phần của mình chết ngay trước khi kịp chào đời.” Tôi chắc liệu ma cà rồng có thể khóc hay dù tôi nhớ đến những giọt nước mắt đỏ au như máu má Ysabeau trong ảo ảnh lúc trước ở phòng khách. Nhưng dù có nước mắt, lúc này trông bà như khóc, nét mặt bà đầy vẻ tiếc thương. “Cuối cùng, sau nhiều năm cố gắng và thất bại, Blanca có mang. Đó là năm 531. Khoảng đó. Miền Nam có vị vua mới và các cuộc chiến lại bắt đầu nổ ra khắp nơi. Matthew bắt đầu trông hạnh phúc, như thể thằng bé dám hy vọng đứa bé này sống sót. Và nó sống. Lucas được sinh ra vào mùa Thu và được làm lễ rửa tội trong ngôi nhà thờ chưa hoàn thành mà Matthew vẫn giúp xây dựng. Đó là lần sinh nở khó khăn đối với Blanca. Bà đỡ rằng đây là đứa trẻ cuối cùng ấy sinh được. Dù vậy, đối với Matthew, Lucas là đủ rồi. Thằng bé giống bố, những lọn tóc đen quăn gợn sóng, cái cằm nhọn, và cả đôi chân dài nữa.” “ có chuyện gì xảy ra với Blanca và Lucas?” Tôi khẽ hỏi. Chỉ còn sáu năm nữa là tới thời điểm biến đổi của Matthew trở thành ma cà rồng. Chắc hẳn phải có điều gì đó xảy ra, nếu ấy chẳng bao giờ để Ysabeau thay đổi cuộc sống của mình. “Lucas trưởng thành và lớn rất nhanh. Matthew học làm thợ xây dựng các công trình bằng đá thay vì bằng gỗ như trước, và nhận được rất nhiều cầu làm việc của các lãnh chúa từ đây tới Paris. Thế rồi dịch sốt đến làng. Mọi người đều bị ốm. Matthew sống sót. Blanca và Lucas . Đó là năm 536. năm trước thời tiết có những tượng kỳ lạ, mặt trời và mùa Đông rét khủng khiếp. Khi mùa Xuân tới, bệnh dịch cũng đến và mang Blanca và Lucas cùng .” “Những người dân làng có thắc mắc vì sao bác và Philippe vẫn khỏe mạnh ?” “Dĩ nhiên là có. Nhưng có nhiều cách giải thích khác hơn là ngày nay. Người ta dễ dàng nghĩ Chúa Trời nổi giận với ngôi làng hoặc lâu đài bị nguyền rủa hơn là nghĩ rằng có những manjasang sống quanh họ.” “Manjasang?” Tôi cố uốn lưỡi phát từ đó theo Ysabeau. “Đó là ngôn ngữ cổ ám chỉ ma cà rồng – ‘kẻ ăn máu.’ Cũng có những kẻ nghi ngờ và thầm bàn tán bên các bếp lò. Nhưng ngày đó, trở lại của những chiến binh Ostrogoth tàn bạo là viễn cảnh còn đáng sợ hơn lãnh chúa manjasang. Philippe hứa với dân làng là ông bảo vệ họ nếu những kẻ xâm lược kia quay lại. Hơn nữa, chúng ta cam kết bao giờ kiếm ăn gần nhà,” bà nghiêm nghị giải thích. “Matthew làm gì sau khi Blanca và Lucas mất?” “Thằng bé đau khổ. Nó thể nguôi ngoai được. Nó chẳng chịu ăn uống gì. Trông nó giống bộ xương, và người làng đến nhờ chúng ta giúp đỡ. Ta mang đồ ăn đến cho nó,” Ysabeau mỉm cười với Marthe, “và cho nó ăn, dạo cùng nó cho tới khi nó còn bồn chồn thiết nghỉ ngơi nữa. Khi thằng bé thể ngủ, chúng ta đến nhà thờ và cầu nguyện cho linh hồn của Blanca và Lucas. Ngày đó Matthew rất mộ đạo. Chúng ta chuyện về thiên đường và địa ngục,và thằng bé lo lắng biết linh hồn họ ở đâu và liệu nó có thể tìm lại họ lần nữa .” Matthew quá dịu dàng với tôi những lần tôi thức dậy trong cơn hoảng sợ. Có phải những đêm trước khi trở thành ma cà rồng cũng thao thức như thế, cho đến tận những ngày tháng về sau? “Đến mùa Thu thằng bé có vẻ khá hơn. Nhưng mùa đông đến lại khó khăn. Người ta bị đói, và bệnh tật vẫn hoành hoành. Cái chết ở khắp mọi nơi. Mùa Xuân thể đánh tan vẻ sầu thảm ấy. Philippe lo lắng về tiến độ dựng nhà thờ, và Matthew làm việc nặng nhọc hơn bao giờ hết. Đến đầu tuần lễ thứ hai của tháng Sáu, người ta tìm thấy thằng bé nằm sàn nhà, nó bị đè dưới vòm trần, hai chân và lưng gãy nát. có cách nào để nó sống sót qua cú ngã ấy, dĩ nhiên là vậy,” Ysabeau khẽ . “Thằng bé chết dần. Vài người thợ nề Matthew bị trượt chân. Nhưng người khác lại thằng bé đứng giàn giáo giây trước, và giây sau biến mất. Họ nghĩ Matthew nhảy xuống và bắt đầu bàn tán về việc thằng bé thể an táng tại nhà thờ bởi nó là kẻ tự sát. Ta thể để thằng bé chết trong nỗi sợ hãi rằng mình được cứu rỗi khỏi địa ngục. Nó lo lắng biết bao về việc được ở cùng Blanca và Lucas – làm sao thằng bé có thể tới cái chết trong nỗi lo sợ phải chia cách với họ vĩnh viễn?” “Bác làm điều đúng đắn.” Tôi cũng thể nào bỏ cho dù linh hồn của có phạm tội hay . Bỏ lại đó cơ thể dập nát và đau đớn là điều tôi thể tưởng tượng nổi. Nếu dòng máu của mình có thể cứu được , tôi chắc chắn sử dụng nó. “Ta ư?” Ysabeau lắc đầu. “Ta chưa bao giờ chắc chắn. Philippe mọi việc là do ta quyết định. Ta tạo ra các ma cà rồng khác bằng dòng máu của mình, và ta cũng tạo ra những kẻ khác nữa sau Matthew. Nhưng Matthew rất khác biệt. Ta thương nó, và ta biết Chúa Trời ban cho ta cơ hội để biến nó thành đứa trẻ của ta. Ta phải có trách nhiệm dạy dỗ nó về cách tồn tại của ma cà rồng trong thế giới này.” “Matthew có kháng cự lại bác ?” Tôi hỏi, thể ngăn được bản thân mình. “,” bà đáp. “Thằng bé mê man vì vết thương. Chúng ta bảo mọi người rời , rằng tìm linh mục đến. Dĩ nhiên chúng ta làm thế. Philippe và ta tới chỗ Matthew và giải thích rằng chúng ta có thể khiến nó sống mãi mãi, đau đớn, khổ sở. lúc sau Matthew bảo với chúng ta rằng nó nghĩ Philippe là thánh John dòng Baptish còn ta là Đức Mẹ đến để đưa nó tới Thiên đàng với vợ và con trai nó. Khi ta đưa cho nó máu của ta, thằng bé nghĩ ta là vị linh mục thực các nghi thức rửa tội lần cuối cùng cho nó.” thanh duy nhất trong căn phòng là hơi thở khe khẽ của tôi và tiếng súc củi nứt ra trong lò sưởi. Tôi muốn Ysabeau kể cho mình nghe những chi tiết cụ thể về việc bà tạo ra Matthew như thế nào, nhưng tôi sợ dám hỏi vì e có những điều ma cà rồng muốn đến. Có lẽ nó quá riêng tư, hoặc quá đau đớn. Ysabeau nhanh chóng kể cho tôi mà chẳng cần thúc giục. “Thằng bé nhận lấy dòng máu của ta cách dễ dàng, như nó được sinh ra là để làm điều đó vậy,” bà thở dài. “Matthew phải là con người quay mặt trước mùi vị hoặc hình ảnh của máu. Ta dùng răng để mở cổ tay mình và bảo Matthew máu của ta chữa lành cho nó. Thằng bé uống lấy tự cứu rỗi linh hồn ấy mà hề sợ hãi.” “Và sau đó sao?” tôi thầm. “Sau đó khó khăn... với nó,” Ysabeau thận trọng . “Tất cả các ma rồng mới đều mạnh mẽ và rất đói, nhưng Matthew gần như thể kiểm soát được. Nó cuồng bạo giận dữ khi là ma cà rồng, và nhu cầu ăn uống của nó là vô tận. Philippe và ta phải săn cả ngày trong suốt tuần để thỏa mãn nó. Và cơ thể nó thay đổi ngoài mong đợi của chúng ta. Tất cả chúng ta khi trở thành ma cà rồng đều trở nên cao lớn, đẹp đẽ và mạnh mẽ hơn. Nhưng Matthew phát triển từ người đàn ông gầy như cây sậy trở thành sinh vật khủng khiếp. Chồng ta to lớn hơn đứa con trai mới của ta, nhưng ngay khi Matthew nhận được dòng máu của ta, nó là kẻ khó nhằn ngay cả đối với Philippe.” Tôi buộc mình được co người lại trước con đói và cơn cuồng nộ của Matthew. Thay vào đó mắt tôi vẫn gắn chặt vào mẹ , hề nhắm lại tích tắc nào trước những hiểu biết về . Đây chính là điều Matthew lo sợ, rằng tôi biết được là kẻ như thế nào – và giờ vẫn vậy, và rằng tôi khiếp sợ . “Điều gì làm ấy dịu ?” tôi hỏi. “Philippe đưa thằng bé săn,” Ysabeau giải thích, “khi ông ấy nghĩ rằng Matthew còn giết hại mọi thứ nó gặp đường nữa. Việc săn gắn chặt tâm trí nó, trò đuổi bắt ám ảnh cơ thể nó. Thằng bé nhanh chóng thèm khát những chuyến săn hơn là thèm máu, điều này là dấu hiệu tốt ở ma cà rồng trẻ. Nó có nghĩa là thằng bé còn là sinh vật chỉ biết ham muốn đơn thuần mà lại biết dựa lý trí. Sau cùng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi lương tâm của thằng bé quay trở lại và nó bắt đầu suy nghĩ trước khi giết ai. Rồi tất cả những gì chúng ta lo sợ là thời kỳ đen tối của thằng bé lại quay về, khi nó cảm thấy mất mát Blanca và Lucas và quay sang con người để làm mờ cơn đói khát của mình.” “Rồi sau đó có thứ gì giúp Matthew ?” “Thỉnh thoảng ta hát cho nó nghe – chính là bài hát mà ta hát cho tối hôm nay đấy, và cả những đứa khác. Cách đó thường phá vỡ bùa yểm lên khổ đau của nó. Những lần khác Matthew bỏ xa. Philippe cho phép ta bám theo hay hỏi han khi thằng bé trở về.” Mặt Ysabeau buồn rầu khi bà nhìn tôi. Cái nhìn thoáng qua giữa chúng tôi khẳng định điều cả hai đều nghi ngờ: rằng Matthew đắm chìm giữa những phụ nữ khác, tìm kiếm an ủi trong máu và những cái vuốt ve thuộc về mẹ hay vợ . “ ấy rất tự chủ,” tôi ngượng nghịu lớn, “ khó mà tưởng tượng ấy thích điều đó.” “Matthew cảm nhận sâu sắc điều đó. Đó là phước lành nhưng đồng thời cũng là gánh nặng khi ta nhiều đến mức có thể tổn thương khủng khiếp khi tình mất.” Có vẻ đe dọa trong giọng của Ysabeau. Cằm tôi vênh lên vẻ thách thức, các ngón tay râm ran ngứa ngáy. “Thế cháu phải đảm bảo rằng tình của cháu bao giờ rời bỏ ấy,” tôi đanh giọng . “Vậy làm chuyện đó như thế nào?” Ysabeau chế nhạo. “ trở thành ma cà rồng và tham gia vào cuộc săn của chúng tôi ư?” Bà cười lớn, nhưng tiếng cười ấy chẳng hề có vui vẻ hay đùa giỡn. “ nghi ngờ gì đó chính là điều Domenico gợi ý. miếng cắn đơn giản, rút hết máu trong huyết mạch của và trao đổi máu của chúng tôi cho . Thế Đại Hội Đồng có đất để xía vào việc của nữa.” “Ý bác là gì?” tôi điếng người hỏi. “ hiểu ư?” Ysabeau hằm hè. “Nếu muốn ở bên Matthew, hãy trở thành trong số chúng tôi và kéo thằng bé – cả bản thân nữa – ra khỏi vòng nguy hiểm. Các phù thủy có lẽ muốn giữ với tư cách là người của họ, nhưng họ thể phản đối mối quan hệ của nếu cũng là ma cà rồng.” tiếng kêu trầm trầm thoát ra từ cổ họng Marthe. “Đó là lý do vì sao Matthew bỏ ư? Có phải Đại Hội Đồng ra lệnh cho ấy phải biến cháu thành ma cà rồng ?” “Matthew bao giờ biến thành manjasang,” Marthe khinh khỉnh , mắt ánh lên tia phẫn nộ. “Đúng.” Giọng Ysabeau êm ái hiểm ác. “Nó luôn luôn những thứ mong manh yếu đuối mà, như ta kể với đấy.” Đây là trong những điều bí mật mà Matthew giấu tôi. Nếu tôi là ma cà rồng, chẳng có bức màn ngăn cấm nào trùm lên chúng tôi cả và do đó cũng chẳng có lý do gì phải sợ Đại Hội Đồng cả. Tất cả những gì tôi phải làm là trở thành thứ gì đó khác. Tôi ngắm nhìn và suy tưởng về viễn cảnh đó mà ngạc nhiên chẳng mấy hoang mang hay sợ hãi. Tôi có thể ở bên Matthew, và tôi thậm chí có thể cao lớn hơn. Ysabeau làm việc đó. Ánh mắt bà ánh lên lấp lánh khi bà bắt gặp cách tôi đưa tay lên cổ mình. Nhưng có những ảo giác của tôi cần phải được xem xét, chưa kể đến sức mạnh của gió và nước. Tôi vẫn chưa hiểu được hết tiềm năng phép thuật trong dòng máu mình. Và nếu là ma cà rồng, tôi có thể bao giờ làm sáng tỏ được bí của Ashmole 782. “Tôi hứa với cậu ấy,” Marthe , giọng cộc cằn. “Diana ở đây với tư cách phù thủy.” Ysabeau hé lộ hàm răng vẻ vừa ý, và gật đầu. “Có phải bác cũng hứa kể cho cháu biết chuyện gì thực xảy ra ở Oxford đúng ?” Mẹ Matthew tỉ mỉ quan sát tôi. “ phải hỏi Matthew khi nó trở về. Đó phải là chuyện của ta.” “Vậy... bác có thể cho cháu biết tại sao có khả năng đó là sinh vật khác người chứ phải con người cố đột nhập vào phòng thí nghiệm ?” khoảng im lặng trong khi Ysabeau quan sát tôi kỹ càng với vẻ thích thú. Cuối cùng bà đáp. “ thông minh. Đúng là ta hứa với Matthew là giữ im lặng về các phép tắc đạo đức thích hợp.” Bà nhìn tôi thoáng vẻ thông đồng. “ hành động như thế được chấp nhận giữa các sinh vật khác người. Chúng ta phải hy vọng đó là gã tinh láu lỉnh nhận thức được tầm nghiêm trọng của việc làm. Matthew có thể tha thứ cho điều đó.” “Cậu ấy luôn bỏ qua cho bọn tinh,” Marthe lầm bầm vẻ ủ ê. “Nếu đó phải tinh sao?” “Nếu đó là ma cà rồng, đấy là lời tuyên bố lăng mạ khủng khiếp. Chúng ta là những sinh vật cát cứ. ma cà rồng được ngang qua nhà hay vùng đất của ma cà rồng khác mà xin phép.” “Matthew bỏ qua cho xúc phạm đó chứ?” Căn cứ vào nét mặt Matthew khi tung cú đấm vào chiếc ô tô, tôi ngờ rằng câu trả lời là . “Có thể,” Ysabeau vẻ hoài nghi. “ có gì bị lấy , có thiệt hại gì. Nhưng có khả năng Matthew cầu hình thức trừng phạt nào đó.” lần nữa tôi lại rơi về thời Trung Cổ, việc bảo tồn danh dự và tiếng tăm là những mối bận tâm hàng đầu. “Và nếu đó là phù thủy sao?” Tôi khẽ hỏi. Mẹ Matthew quay mặt . “Nếu là phù thủy, đó là hành động gây hấn. lời xin lỗi nào là thỏa đáng cả.” Những hồi chuông báo động vang lên. Tôi hất tung chăn sang bên và lẳng hai chân xuống giường. “Cuộc tấn công này là nhằm khiêu khích Matthew. ấy tới Oxford với ý nghĩ có thể tạo được cuộc thương lượng thiện chí với Knox. Chúng ta phải cảnh báo ấy.” Đôi bàn tay Ysabeau đặt chắc chắn lên đầu gối và vai tôi, ngăn cản cử động của tôi lại. “Matthew biết rồi, Diana.” Thông tin đó lắng vào tâm trí tôi. “Có phải đó là lý do ấy đưa cháu về Oxford cùng ? Có phải ấy gặp nguy hiểm ?” “Dĩ nhiên nó gặp nguy hiểm,” Ysabeau cộc cằn đáp. “Nhưng nó làm điều có thể để kết thúc chuyện này.” Bà nâng hai chân tôi trở lại giường và chèn chăn chặt quanh người tôi. “Đáng lẽ cháu nên ở đó,” tôi phản đối. “ chẳng làm được gì ngoài việc làm rối trí nó. ở đây, như nó bảo .” “Cháu được có ý kiến gì trong chuyện này sao?” Tôi cầu điều đó hình như đến lần thứ trăm kể từ khi tôi đến Sept-Tours này. “Khong,” cả hai người phụ nữ cùng đồng thanh lúc. “ có rất nhiều điều cần học về ma cà rồng đấy,” Ysabeau lại như thế lần nữa, nhưng lần này giọng bà thoáng vẻ nuối tiếc. Tôi còn rất nhiều điều phải học về ma cà rồng. Điều này tôi biết. Nhưng ai dạy tôi đây? Và khi nào chứ?
Chương 24 “Từ xa ta nhìn ngắm đám mây đen bao phủ mặt đất. Nó mê mải với mặt đất và bao phủ tâm hồn ta khi biển cả lấn vào nàng, trở nên sa đọa và đồi bại trước viễn cảnh về địa ngục và bóng đen của cái chết. cơn bão lớn chôn vùi ta,” tôi đọc to những dòng chữ trong cuốn Aurora Consurgens của Matthew. Quay sang máy tính của mình, tôi đánh đoạn ghi chú về hình ảnh mà tác giả danh đùng để miêu tả về nigredo, trong những bước nguy hiểm để biến đổi của thuật giả kim. Trong quá trình này, kết hợp giữa những loại vật chất như thủy ngân và chì làm bốc lên hơi khói gây nguy hiểm cho sức khỏe của nhà giả kim. Tương ứng với nó trong những gương mặt giống đầu con thú làm miệng máng xối của Bourgot Le Noir bịt chặt mũi nó lại để tránh đám mây được đến trong phần văn bản. “Mang đồ cưỡi ngựa vào .” Tôi ngẩng đầu lên từ các trang sách của cuốn cổ thư. “Matthew dặn ta phải đưa ra ngoài trời. Nó như thế giúp phát ốm,” Ysabeau giải thích. “Bác phải làm thế đâu, Ysabeau. Domenico và nước phù thủy vắt kiệt lượng cung cấp adrenaline của cháu rồi, nếu đó là điều bác lo lắng.” “Matthew chắc với mùi của hoang mang sợ hãi quyến rũ ma cà rồng như thế nào rồi chứ?” “Marcus với cháu,” tôi chỉnh lại bà, “Thực ra, cậu ấy bảo cho cháu biết nó có vị như thế nào. Vậy mùi nó như thế nào nhỉ?” Ysabeau nhún vai. “Như vị của nó thôi. Có lẽ là hơi kích thích hơn - mùi xạ hương thoáng qua, có lẽ thế. Ta chẳng bao giờ bị thứ đó thu hút quá mức cả. Ta thích giết chóc hơn là săn đuổi. Nhưng mỗi thứ đều có cái hay.” “Bây giờ cháu còn bị những cơn hoảng sợ tấn công nữa rồi. Bác cần phải đưa cháu cưỡi ngựa đâu.” Tôi quay trở lại với công việc của mình. “Tại sao nghĩ rằng chúng biến mất?” Ysabeau hỏi. “ cháu biết nữa,” tôi thở dài , ngước nhìn mẹ Matthew. “ bị như thế thời gian dài ư?” “Từ hồi cháu bảy tuổi.” “Thế có chuyện gì xảy ra?” “Bố mẹ cháu bị giết ở Nigeria,” tôi đáp cụt lủn. “Vậy là nhận được bức hình ấy - và rồi Matthew mang tới Sept-Tours?” Khi tôi gật đầu đáp lại, miệng Ysabeau mím lại thành đường thẳng cứng nhắc, quen thuộc. “Đồ con lợn.” Có những thứ còn tệ hơn thế để gọi bọn chúng, nhưng “đồ con lợn” nghe có vẻ khá hay. “Hoảng loạn hay hoảng loạn,” Ysabeau dứt khoát , “chúng ta vẫn vận động như Matthew muốn.” Tôi tắt máy tính và lên tầng thay đồ. Quần áo cưỡi ngựa của tôi được gấp gọn gàng trong phòng tắm, cử chỉ lịch sử của Marthe, còn đôi bốt cùng với mũ bảo hiểm và áo vest của tôi ở trong tàu ngựa. Tôi mặc vào chiếc quần chẽn đen, thêm áo len cao cổ, tất ấm và xỏ đôi giày lười vào, xong xuôi tôi xuống lầu dưới để tìm mẹ Matthew. “Ta ở đây,” bà gọi. Tôi theo thanh vẳng ra đến căn phòng sơn màu đất nung ấm áp. Nó được trang hoàng bằng những chiếc đĩa cổ, những sừng thú và cái tủ đựng bát đĩa lớn. Ysabeau ló mặt ra phía tờ Le Monde, đôi mắt bà bao quát từng centimet người tôi. “Marthe bảo ta là đêm qua ngủ.” “Vâng, cảm ơn bác,” tôi nhấp nhỏm hết chân này sang chân kia như thể phải chờ gặp hiệu trưởng để giải thích về hạnh kiểm xấu của mình. Marthe cứu nguy cho tôi khỏi phải chịu bất tiện thêm nữa bằng cách mang đến ấm trà. Bà lão cũng vậy, quan sát tôi kỹcàng từ đầu đến chân. Khi tôi dùng xong trà, chúng tôi tới chuồng ngựa. Ysabeau phải giúp tôi mang bốt vào vì chúng vẫn còn cứng quá, rồi bà cẩn thận quan sát trong khi tôi mặc chiếc áo vest mai rùa và mang mũ bảo hiểm vào. ràng các dụng cụ bảo vệ là phần chỉ dẫn của Matthew. Ysabeau, dĩ nhiên, chẳng mặc đồ bảo vệ nào ngoài chiếc áo khoác chần bông màu nâu mềm mại. bất diệt có tính tương đối của da thịt ma cà rồng là ân huệ trời ban nếu bạn là kỵ sỹ. Trong bãi đất giữ ngựa, con Fiddat và con Rakasa đứng cạnh nhau, hình ảnh tương phản thể ngay cả ở bộ yên cương lưng chúng. “Ysabeau,” tôi phản đối, “Georges thắng nhầm yên cho Rakasa. Cháu cưỡi bằng yên ngồi bên.” “ sợ dám thử à?” Mẹ Matthew nhìn tôi vẻ đánh giá. “!” tôi đáp, kìm cảm xúc của mình xuống. “Cháu chỉ thích cưỡi ngựa chân hai bên thôi.” “Làm sao biết được nhỉ?” Đôi mắt màu ngọc lục bảo của bà lấp lánh thoáng khiêu khích. Chúng tôi đứng đó lúc, chăm chăm nhìn nhau chớp mắt. Rakasa gõ gõ móng xuống đất rồi nhìn hất qua vai nó. cưỡi tôi hay là chuyện hả? Có vẻ nàng hỏi vậy. Hãy coi chừng, tôi cộc cằn đáp, vòng qua và đặt khuỷu phía móng nó tỳ vào đầu gối mình. “Georges xem xét chuyện này rồi,” Ysabeau bằng giọng chán ngán. “Cháu khi nào cưỡi ngựa mà chưa tự mình kiểm tra cả.” Tôi kiểm tra các móng của Rakasa, lướt bàn tay lên lưng nó, và luồn các ngón tay vào dưới yên ngựa. “Philippe cũng vậy.” Giọng Ysabeau cất lên thoáng vẻ khâm phục bất đắc dĩ. Với vẻ nôn nóng chẳng giấu giếm nổi, bà nhìn tôi hoàn thành công việc của mình. Khi tôi xong, bà dắt Fiddat tới chỗ bục lên ngựa và đợi tôi làm theo. Sau khi giúp tôi trèo lên cái yên ngựa kỳ cục lạ lùng đó, bà nhảy lên ngựa của mình. Tôi thoáng nhìn bà và biết mình có buổi sáng khá yên ả. Xét từ tư thế ngồi của Ysabeau bà là người cưỡi ngựa giỏi hơn Matthew - và là người giỏi nhất mà tôi từng thấy. “ vòng quanh xem nào,” Ysabeau . “Ta cần chắc chắn rằng ngã nhào xuống ngựa và tự giết chính mình.” “Hãy thể chút tin tưởng chứ, bác Ysabeau.” Đừng có để ta ngã, tôi mặc cả với Rakasa, và ta cam đoan cho mày quả táo mỗi ngày trong phần đời còn lại của mày. Tai Rakasa bật về phía trước rồi lại bật ra sau, nàng khẽ khịt mũi. Chúng tôi vòng tròn quanh bãi đất hai lần trước khi tôi kéo cương dừng lại trước mặt mẹ Matthew. “Bác vừa ý chứ?” “ cưỡi ngựa giỏi hơn ta tưởng đấy,” bà thừa nhận. “ có lẽ còn có thể cho ngựa nhảy rào nữa, nhưng ta hứa với Matthew chúng ta làm thế.” “ ấy xoaysở để vòi vĩnh được cơ số những lời hứa của bác trước khi ra nhỉ,” tôi lẩm bẩm, hy vọng bà nghe thấy tôi . “Quả là thế,” bà quả quyết, “ vài trong số đó rất khó giữ lời.” Chúng tôi qua cánh cổng để mở của bãi đất Georges chạm tay lên mũ chào Ysabeau và đóng cổng lại sau lưng chúng tôi, toét miệng cười và lắc lắc đầu. Mẹ Matthew tiếp tục dẫn chúng tôi vùng đất khá bằng phẳng trong khi tôi quen với cái yên ngựa kỳ lạ này. Mánh ở đây là phải giữ cho cơ thể mình ngay ngắn dù cảm thấy thăng bằng thế nào nữa. “Cái này cũng quá tệ,” tôi sau khoảng 20 phút. “Giờ yên ngựa có hai núm quả là hay hơn rồi,” Ysabeau . “Trước đây, tất cả yên ngựa ngồi bên đều phải có người đàn ông dẫn .” khinh thường của bà nghe trong giọng . “Cho tới khi hoàng hậu Italia đặt thêm núm yên và bàn đạp ngựa lên bộ yên ngựa của bà chúng ta có thể tự cưỡi ngựa. Tình nhân của chồng bà cưỡi ngựa dạng chân hai bên nên ả ta có thể cùng ông ấy. Catherine luôn luôn phải ở nhà, đây là điều khó chịu nhất đối với người vợ.” Bà phóng sang tôi cáiliếc nhìn khinh miệt. “Ả làng chơi của Henry có cái tên đặt theo tên vị nữ thần săn bắn, giống đấy.” “Cháu ngáng đường Catherine de’ Medici đâu.” Tôi lắc đầu. “Tình nhân của đức vua, Diane de Poitiers, là kẻ nguy hiểm.” Ysabeau u ám . “Ả là phù thủy.” “Phù thủy thực hay phù thủy theo nghĩa bóng ạ?” Tôi hỏi với vẻ thích thú. “Cả hai,” mẹ Matthew bằng giọng có thể làm trầy cả sơn. Tôi phá lên cười. Ysabeau trông ngạc nhiên rồi cũng cười theo. Chúng tôi cưỡi ngựa nhanh hơn chút. Ysabeau đánh hơi khí rồi rướn thẳng người yên ngựa, vẻ mặt cảnh giác. “Cái gì thế ạ?” Tôi bồn chồn hỏi, vẫn giữ chặt dây cương của Rakasa. “Thỏ.” Bà giục Fiddat chạy nước kiệu . Tôi theo sát phía sau, miễn cưỡng xem xem liệu theo dấu ma cà rồng trong rừng có khó khăn như Matthew . Chúng tôi phi xuyên qua những hàng cây và ra khu đồng trống. Ysabeau ghìm cương Fiddat, và tôi cũng thắng ngựa lại song song cạnh bà. “ bao giờ thấy ma cà rồng giết con mồi chưa?” Ysabeau hỏi, thận trọng quan sát phản ứng của tôi. “Chưa ạ,” tôi điềm tĩnh đáp. “Những con thỏ bé. Đó là chỗ chúng ta bắt đầu. Đợi ở đây.” Bà nhún mình xuống khỏi yên ngựa và nhàng đáp xuống đất. Fiddat ngoan ngoãn đứng, quan sát bà chủ của nó. “Diana,” bà ngắn gọn rời mắt khỏi con mồi, “đừng đến gần ta trong khi ta săn mồi hay dùng bữa nhé. có hiểu ?” “Vâng.” Tâm trí tối chạy đua cùng với lời ngụ ý ấy. Ysabeau đuổi theo chú thỏ, giết nó và uống máu nó trước mắt tôi ư? Đứng từ xa dường như là gợi ý tuyệt vời. Mẹ Matthew phóng như tên ngang qua đồng cỏ, nhanh đến mức tôi thể tập trung nhìn theo bà được. Rồi bà chậm lại như con chim ưng liệng giữa trung trước khi sà xuống vồ con mồi, và cúi người tóm lấy tai con thỏ sợ hãi. Ysabeau giơ nó lên vẻ đắc thắng trước khi cắm ngập nhữngchiếc răng vào trái tim nó. Những con thỏ có thể bé nhưng chúng đột nhiên đẫm máu nếu bị cắn ngay khi còn sống. khủng khiếp. Ysabeau hút máu con thú, cơn vùng vẫy của con vật nhanh chóng ngừng lại, sau đó bà chùi sạch miệng vào lớp lông và quẳng xác nó xuống bãi cỏ. Ba giây sau bà đu mình trở lại yên ngựa. Hai má bà ửng hồng và ánh mắt lấp lánh hơn. Khi cưỡi lưng ngựa, bà nhìn tôi. “Thế nào?” bà hỏi. “Chúng ta kiếm thêm thứ gì đó đầy đặn hơn hay cần trở lại nhà?” Ysabeau de Clermont kiểm tra tôi. “Theo ý bác,” tôi dứt khoát, thúc gót vào sườn Rakasa. Thời gian còn lại của chuyến dạo chơi phải được đo bằng dịch chuyển của mặt trời - lúc này vẫn còn bị che khuất sau những đám mây, mà bằng khối lượng máu tăng dần mà cái miệng đói khát của Ysabeau hút ra từ những con mồi bà giết. Bà là kẻ ăn uống tương đối gọn gàng. Tôi chết lặng người trước cảnh tượng máu me, sau con thỏ ấy đến sinh vật to lớn giống sóc mà Ysabeau bảo là con mac-môt, rồi cáo, và dê hoang - hoặc tôi nghĩ vậy. Thế nhưng, khi Ysabeau đuổi theo con nai cái non, có thứ gì đó nhói lên trong lòng tôi. “Ysabeau,” tôi phản đối. “Bác chắc còn đói nữa. Hãy để nó .” “Gì thế? Nữ thần săn bắn phản đối ta truy sát con nai của ấy à?” Giọng bà nghe nhạo báng nhưng ánh mắt vẫn tò mò. “Đúng thế,” tôi đáp ngay. “Ta phản đối săn đuổi con trai ta. Hãy xem cảm giác đó đẹp đẽ thế nào nhé.” Ysabeau đu người xuống ngựa. Những ngón tay tôi ngứa ngáy muốn can thiệp, nhưng tất cả những gi tôi có thể làm là tránh xa khỏi đường của Ysabeautrong khi bà đuổi theo con mổi. Sau mỗi lần giết con mồi, đôi mắt bà để lộ ra rằng bà hoàn toàn bị chi phối bởi cảm xúc hay hành động của mình. Con nai cái cố trốn thơát. Nó gần như thành công bằng cách lao mình vào những bụi rậm thấp, nhưng Ysabeau làm con vật sợ hãi quay trở lại chỗ thoáng rộng. Sau đó, mệt mỏi khiến nó lộ yếu điểm. Cuộc đuổi bắt lay động điều gì đó bản năng trong tôi. Ysabeau nhanh chóng xuống tay và con nai đau đớn, nhưng tôi phải cắn môi để hét lên. “Thế đó,” bà với vẻ thỏa mãn, rồi quay lại với Fiddat. “Chúng ta có thể trở về Sept-Tours.” lời, tôi quay đầu Rakasa hướng về phía lâu đài. Ysabeau nắm lấy dây cương của tôi. Những giọt máu bé xíu còn vương chiếc áo sơ mi màu kem của bà. “Giờ có còn nghĩ ma cà rồng đẹp đẽ nữa ? có còn nghĩ vẫn có thể sống với con trai ta dễ dàng dù biết rằng nó phải giết chóc để tồn tại?” khó khăn đối với tôi khi nghĩ đến “Matthew” và “giết chóc” trong cùng câu. Liệu ngày nào đấy tôi có thể hôn khi vừa trở về sau chuyến săn và vị máu tươi vẫn còn đọng môi? Và những ngày như hôm nay đây xảy ra thường xuyên hơn rất nhiều. “Nếu bác cố làm cháu sợ và tránh xa con trai bác, Ysabeau ạ, bác thất bại rồi,” tôi cương quyết . “Bác phải làm gì đó hay hơn thế này cơ.” “Marthe chuyện này đủ để làm cân nhắc lại,” bà thú nhận. “Bà ấy đúng đấy.” Giọng tôi cộc lốc. “Cuộc thử thách kết thúc rồi chứ? Giờ chúng ta có thể vể nhà chưa ạ?” Chúng tôi im lặng phi ngựa về phía rừng cây. Khi cả hai ở dưới những tán lá rừng xanh mướt, Ysabeau quay sang tôi. “ có hiểu tại sao mình được phép hỏi Matthew khi nó bảo làm điều gì đó ?” Tôi thở dài. “Bài học hôm nay kết thúc rồi mà.” “ nghĩ rằng thói quen ăn uống của chúng ta là trở ngại duy nhất chắn giữa và con trai ta ư?” “Bác thẳng ra , Ysabeau. Tại sao cháu phải làm những gì Matthew bảo chứ?”' “Bởi vì nó là ma cà rồng mạnh nhất trong lâu đài. Nó là người đứng đầu trong nhà.” Tôi nhìn bà chăm chăm kinh ngạc. “Bác cháu phải nghe lời ấy bởi ấy là con đầu đàn ư?” “ nghĩ mình là con đầu đàn chắc?” Ysabeau cười như nắc nẻ. “,” tôi thành trả lời. Ysabeau cũng phải con đầu đàn. Bà cũng làm theo những gì Matthew bảo. Cả Marcus, Miriam và mọi ma cà rồng trong thư viện Bodleian nữa. Thậm chí Domenico cơ bản cũng phải lùi bước. “Những điều này là luật của nhà de Clermont ạ?” Ysabeau gật đầu, đôi mắt xanh biếc của bà lấp lánh. “Đó là vì an toàn của - của nó, và của những người khác nữa - phải tuân theo. Đây phải trò chơi.” “Cháu hiểu, Ysabeau.” Tôi mất hết kiên nhẫn. “, hiểu đâu,” bà dịu dàng . “ cũng hiểu, cho tới khi buộc phải chứng kiến, như khi ta bắt xem việc ma cà rồng giết chóc là như thế nào. Cho tới lúc đó mọi điều này chỉ là những lời . ngày nào đấy ngang ngạnh của phải trả giá, bằng cuộc đời của chính , hoặc của ai đó. Khi ấy hiểu tại sao ta lại cho biết điều này.” Chúng tôi trở lại lâu đài mà trao đổi gì thêm nữa. Khi chúng tôi ngang qua khu vực của Marthe, bà ra từ bếp, tay cầm chú gà con. Tôi tái người. Marthe bắt gặp những chấm máu xíu hai cổ tay áo của Ysabeau và thở gấp. “ ta cần phải biết,” Ysabeau rít lên. Marthe điều gì đó bằng tiếng Occitan với giọng trầm trầm, rồi gật đầu với tôi. “Đây rồi, , với tôi nào, tôi dạy pha chế món trà thảo mộc của tôi.” Bây giờ đến lượt Ysabeau tỏ vẻ giận dữ. Marthe làm đồ uống cho tôi và đưa tôi đĩa bánh quy giòn rắc hạt quả hạch. ai hỏi về chuyện con gà con nữa. Marthe tiếp tục làm tôi bận rộn mấy tiếng đồng hồ bằng việc phân loại các thảo mộc và gia vị phơi khô thành từng đống xíu rồi dạy tôi tên của từng loại. Đến giữa buổi chiểu tôi có thể nhắm mắt phân biệt mùi của chúng cũng như phân biệt hình dáng bên ngoài của chúng. “Mùi tây. Gừng. Cúc dại. Lá hương thảo. Ngải đắng. Hạt cà rốt dại. Ngải cứu. Bạc hà. Bạch chỉ. Cửu lý hương. Cúc ngải. Rễ bách xù.” Tôi lần lượt chỉ vào từng loại . “Lại nào,” Marthe bình thản , đưa cho tôi nắm túi vải mu-xơ-lin. Tôi tách rời các cây thảo mộc ra, để chúng riêng rẽ ở bàn như bà lão làm, đọc lại tên chúng cho bà nghe lần nữa. “Tốt lắm. Giờ hãy cho vào các túi mỗi loại lượng .” “Tại sao chúng ta trộn chung chúng vào với nhau rồi dùng thìa xúc vào trong các túi ạ?” tôi hỏi, nhúm ít bạc hà giữa các ngón tay và nhăn mũi ngửi mùi cay cay của nó. “Chúng ta có thể bỏ thiếu thứ gì đó. Mỗi túi cần phải đựng loại thảo dược riêng - tất cả là 12 túi.” “Việc thiếu mất cái hạt xíu thế này cũng thực tạo nên khác biệt về mùi vị ư?” tôi giơ lên hạt cà rốt dại xíu. “ nhúm mỗi loại,” Marthe nhắc lại. “Lại lần nữa nào.” Đôi bàn tay đầy kinh nghiệm của ma cà rồng di chuyển chắc chắn từ đống này tới đống khác, gọn gàng bỏ đầy vào các túi đựng và thắt chặt sợi dây buộc lại. Sau khi hoàn thành, Marthe pha cho tôi tách trà có sử dụng túi thảo mộc mà tôi tự mình cho nguyên liệu vào. “Thơm quá,” tôi , vui sướng nhấm nháp thứ trà thảo mộc của riêng mình. “ mang nó về Oxford. tách mỗi ngày. Nó giúp khỏe mạnh.” Bà lão bắt đầu cho các túi đựng vào cái hộp thiếc. “Khi nào cần thêm, biết cách pha chế nó.” “Marthe, bà cần cho cháu tất cả chỗ trà đó đâu,” tôi cự nự. “ uống thứ này vì Marthe, mỗi tách ngày. Được chứ?” “Dĩ nhiên ạ.” Đó dường như là điều tối thiểu tôi có thể làm cho người bạn đồng minh duy nhất còn lại trong ngôi nhà này - kể đến việc là người cho tôi ăn uống. Sau bữa trà, tôi lên lầu tới phòng làm việc của Matthew và bật máy tính lên. Tất cả cái trò cưỡi ngựa đó làm cánh tay tôi đau nhức, bởi vậy tôi bê chiếc máy tính cùng cuốn cổ thư sang bàn làm việc của , hy vọng làm việc ở đó thấy dễ chịu hơn là ngồi ở chiếc bàn của tôi bên cửa sổ. may, chiếc ghế bành bọc da được thiết kế để dành riêng cho người có chiều cao như Matthew, chứ phải tôi, nên hai chân tôi lủng lẳng tự do trong trung. Tuy nhiên, ngồi trong chiếc ghế của Matthew, tôi cảm thấy dường như trở nên gần gũi hơn, bởi vậy tôi cứ ngồi yên đó trong lúc chờ máy tính của mình khởi động. Ánh mắt tôi bắt gặp thứ tối màu bị nhét cái giá cao nhất. Nó đồng màu vớỉ gỗ và bìa da của những cuốn sách, chính vì thế nên nó thường bị khi ta vô tình lướt qua. Tuy nhiên, từ bàn làm việc của Matthew, ta có thể nhìn thấy những đường nét của nó. Đó phải là cuốn sách mà là khối gỗ cổ xưa, hình bát giác. Những ô cửa sổ hình vòm bé xíu được khắc vào mỗi mặt. Món đồ này màu đen, bị rạn nứt và méo mó cùng với thâm niên của nó. nỗi buồn nhói lên, tôi nhận ra đó là món đồ chơi của trẻ con. Matthew làm nó cho Lucas trước khi trở thành ma cà rồng, trong khi xây dựng ngôi nhà thờ đầu tiên. nhét nó vào góc của giá sách nơi ai để ý tới nó - ngoại trừ . thể thấy món đồ chơi đó, mỗi khi ngồi vào bàn làm việc của mình. Khi có Matthew ở bên, quá dễ đàng để nghĩ chúng tôi là hai sinh vật duy nhất thế gian này. Thậm chí cả những lời cảnh cáo của Domenico hay các bài kiểm tra của Ysabeau cũng làm lay chuyển cảm giác của tôi rằng giữa hai chúng tôi chỉ có gần gũi ngày càng gia tăng. Nhưng tòa tháp bằng gỗ bé này, được làm ra bằng tình rất lâu trước đây, từ khoảng cách thời gian dài thể tưởng tượng được, chấm dứt những ảo tưởng của tôi. Vẫn còn đó những đứa trẻ, cả cậu bé chết và những đứa con còn sống. Còn có những gia đình liên quan, bao gồm cả gia đình tôi, với những bảng phả hệ dài dòng phức tạp và những định kiến, hết sức thâm căn cố đế, bao gồm cả của tôi. Dì Sarah và Em vẫn biết rằng tôi ma cà rồng. đến lúc phải chia sẻ tin tức đó rồi. Ysabeau ở trong phòng khách, cắm những bông hoa vào chiếc bình cáo chiếc bàn viết có ngăn kéo vô giá từ thời Louis XVI - và chỉ có mình. “Bác Ysabeau?” Giọng tôi cất lên ngập ngừng. “Có cái điện thoại nào mà cháu có thể dùng ạ?” “Thằng bé gọi cho khi nó muốn chuyện với .” Bà hết sức cẩn thận cắm cành non với những chiếc lá xòe ra vào giữa những bông hoa màu trắng và vàng. “Cháu gọi cho Matthew, bác Ysabeau ạ. Cháu cần chuyện với dì của cháu.” “Phù thủy gọi điện tới vào tối hôm trước ấy hả?” bà hỏi. “Tên ta là gì?” “Sarah ạ,” tôi nhăn nhó đáp. “Và ta sống cùng với phụ nữ khác - phù thủy khác, đúng ?” Ysabeau tiếp tục cắm hoa hồng trắng vào chiếc lọ. “Vâng. Emily. Có vấn đề gì sao ạ?” “,” Ysabeau đáp, đưa mắt nhìn tôi ngang qua những bông hoa. “Cả hai bọn họ đều là phù thủy. Tất cả vấn đề là ở đó.” “Vâng, và họ nhau. “ “Sarah là cái tên hay,” Ysabeau tiếp tục, như thể tôi chưa gì cả. “ biết truyền thuyết về cái tên đó chứ, tất nhiên rồi.” Tôi lắc đầu. thay đổi trong cách trò chuyện của Ysabeau cũng làm tôi hoa mày chóng mặt gần bằng tính khí thất thường của cậu con trai bà. “Mẹ của Issac[28] tên là Sarai - dễ nổi cáu - nhưng khi bà bắt đầu có thai, Chúa đổi tên đó thành Sarah, có nghĩa là công chúa.” [28. Isaac là nhân vật trong kinh Thánh, con trai trưởng của Abraham tổ phụ, là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả Rập.] “Trong trường hợp của dì cháu Sarai là thích hợp hơn đấy ạ.” Tôi đợi Ysabeau chỉ cho tôi chỗ để điện thoại. “Emily cũng là cái tên hay, cái tên La Mã mạnh mẽ.” Ysabeau cắt cụt cuống hoa hồng giữa những cái móng tay sắc lẻm của bà. “Emily có nghĩa là gì hả bác Ysabeau?” Tôi mừng thầm vì hết sạch các thành viên trong gia đình rồi. “Nó có nghĩa là siêng năng. Dĩ nhiên, cái tên thú vị nhất thuộc về mẹ của . Rebecca có nghĩa là quyến rũ hoặc ràng buộc,” Ysabeau , cau mày tập trung ngắm nghía lọ hoa hết phía này tới phía kia. “ cái tên thú vị cho phù thủy.” “Còn tên bác có nghĩa là gì?” tôi nôn nóng hỏi. “Ta phải lúc nào cũng mang tên Ysabeau đâu, nhưng Philippe thích gọi ta như thế. Nó có nghĩa là lời hứa của Chúa.” Ysabeau ngập ngừng, dò xét nét mặt tôi và quyết định. “Tên đầy đủ của ta là Geneviève Mélisande Hélène Ysabeau Aude de Clermont.” “ là cái tên đẹp.” kiên nhẫn quay trở lại khi tôi suy xét về lịch sử đằng sau những cái tên. Ysabeau hơi mỉm cười với tôi. “Những cái tên rất quan trọng.” “Matthew có những cái tên khác chứ ạ?” Tôi cầm bông hồng trắng từ trong giỏ và đưa nó cho bà. Bà lẩm bẩm cảm ơn. “Tất nhiên rồi. Chúng ta đặt rất nhiều tên cho bọn trẻ khi chúng được tái sinh đến với chúng ta. Nhưng Matthew mang cái tên này từ trước khi nó đến với chúng ta, và nó muốn giữ cái tên ấy. Khi đó đạo Cơ Đốc còn mới mẻ, và Philippe nghĩ việc con trai chúng ta được đặt tên theo tên người truyền bá Phúc có thể rất hữu ích.” “Những cái tên khác của ấy là gì ạ?” “Tên đầy đủ của nó là Matthew Gabriel Philippe Bertrand Sébastien de Clermont. Thằng bé cũng là Sébastien rất tốt, và Gabriel tàm tạm. Nhưng nó ghét Bertrand và trả lời nếu bị gọi bằng cái tên Philippe.” “Sao cái tên Philippe lại làm ấy khó chịu ạ?” “Đó là tên thích của cha nó.” Đôi bàn tay Ysabeau khựng lại trong giây lát. “ chắc phải biết ông ấy chết. Bọn Đức quốc xã bắt quả tang ông ấy chiến đấu cho Phong Trào Kháng Chiến.” Trong ảo giác mà tôi có về Ysabeau, bà chồng mình bị phù thủy bắt. “Phát xít Đức hay là phù thủy, bác Ysabeau?” tôi khẽ hỏi, lo sợ điều tồi tệ nhất. “Matthew kể cho à?” Ysabeau trông có vẻ sốc. “. Cháu thấy bác ở trong những ảo giác ngày hôm qua. Bác khóc.” “Cả phù thủy và bọn Đức giết Philippe,” bà sau khoảng ngừng lâu. “Vết thương ấy mới gần đây và còn đau buốt, nhưng nó phai mờ dần theo thời gian. Trong nhiều năm sau khi ông ấy mất ta chỉ săn ở Argentina và Đức. Việc đó giữ cho ta hóa điên.” “Ysabeau, cháu rất xin lỗi.” Nhưng lời này thích hợp, nhưng chúng là lòng. Mẹ Matthew chắc hẳn nghe thấy chân thành của tôi, bà tặng tôi nụ cười ngập ngừng. “Đó phải lỗi của . ở đó.” “Nếu bác phải lựa chọn, bác đặt cho cháu cái tên nào?” tôi dịu dàng hỏi, đưa cành hoa khác cho Ysabeau. “Matthew đúng. chỉ là Diana thôi,” bà , phát cái tên theo kiểu Pháp như bà vẫn thường làm, nhấn trọng ở tiết đầu tiên. “ có cái tên nào khác dành cho cả. Đóchính là .” Ysabeau đưa ngón tay trắng muốt chỉ về phía cửa thư viện. “Điện thoại ở trong đó.” Ngồi vào chiếc bàn làm việc trong thư viện, tôi bật đèn bàn và quay số New York, hy vọng cả dì Sarah và Em đều có nhà. “Diana.” Giọng dì Sarah nghe nhõm. “Em đó là con.” “Con xin lỗi con thể gọi lại tối hôm qua. Có rất nhiều chuyện xảy ra.” Tôi cầm cây bút chì lên và bắt đầu quay nó các ngón tay. “Con có muốn về chuyện đó ?” dì Sarah hỏi. Tôi suýt đánh rơi máy điện thoại. Dì thường cầu tôi những thứ này - dì bao giờ đề nghị cả. “ Em có đó ạ? Con muốn kể câu chuyện này lần thôi.” Em nhấc máy phụ, giọng ấm áp và dễ chịu. “Chào Diana. Con ở đâu?” “Con ở với mẹ của Matthew gần Lyon.” “Mẹ của Matthew á?” Em hay hiếu kỳ với các bảng phả hệ. chỉ cái phả hệ dài dòng và phức tạp của nhà , mà còn của bất cứ ai khác. “Ysabeau de Clermont.” Tôi cố gắng hết sức để phát nó như Ysabeau , với nguyên kéo dài và nuốt các phụ . “Là bà ấy đấy, Em. Đôi khi con nghĩ bà ấy chính là lý do khiến loài người khiếp sợ ma cà rồng đến thế. Ysabeau dứt khoát là nằm ngoài những câu chuyện thần tiên rồi.” khoảng im lặng. “Có phải ý con là con ở cùng Mélisande de Clermont ?” Giọng Em căng thẳng. “Ta thậm chí nghĩ đến nhà de Clermont khi con kể về Matthew. Con chắc bà ta tên là Ysabeau chứ?” Tôi nhíu mày. “Thực ra tên bà ấy là Geneviève. Con nghĩ cũng có cả Mélisande trong đó nữa. Bà ấy thích cái tên Ysabeau hơn.” “Cẩn thận, Diana,” Em cảnh cáo. “Mélisande de Clermont khét tiếng độc ác xấu xa. Mụ ta ghét phù thủy, và mụ ta ăn theo kiểu của mụ hầu như cả Berlin sau Thế Chiến thứ II.” . “Bà ấy có lý do chính đáng để ghét phù thủy,” tôi , day hai bên thái dương, “Con còn ngạc nhiên là bà ấy để con vào nhà mình nữa cơ.” Nếu ma cà rồng có dính líu đến cái chết của cha mẹ tôi tôi độ lượng như thế. “Thế còn nước sao?” Dì Sarah xen vào. “Dì thấy lo lắng hơn về ảo giác mà Em có về trận bão dữ dội.” “Ồ. Con bắt đầu làm mưa tối hôm qua sau khi Matthew rời .” Ký ức sũng nước đó làm tôi rùng mình. “Nước phù thủy,” dì Sarah thốt lên, giờ hiểu ra. “Cái gì mang nó đến thế?” “Con biết, dì Sarah. Con cảm thấy... trống rỗng. Khi Matthew phóng xe khuất khỏi lối xe chạy, những giọt nước mắt mà con đấu tranh để kìm nén từ lúc Domenico xuất trút ào ra khỏi người con.” “Domenico là ai?” Emily lại lật giở bảng kê tên các sinh vật truyền thuyết trong đầu mình. “Michele - ma cà rồng ở Venice.” Giọng tôi đầy ắp giận dữ. “Và nếu còn quấy rầy con nữa, con cắt đầu cho dù có là ma cà rồng hay .” “ nguy hiểm lắm!” Em la lên. “Đó là sinh vật chơi theo luật lệ đâu.” “Con được cho biết điều này nhiều lần lắm rồi, và dì có thể yên tâm rằng con ở dưới sư bảo vệ 24/24h. Đừng lo lắng.” “Chúng ta còn lo lắng tới khi nào con còn quẩn quanh bên mấy con ma cà rồng,” dì Sarah nhận xét. “Vậy các dì còn phải lo lắng dài dài đấy,” tôi bướng bỉnh . “Con Matthew, dì Sarah ạ.” “Đó là điều thể, Diana. Ma cà rồng và phù thủy...” Dì Sarah bắt đầu. “Domenico cho con biết về hiệp ước đó,” tôi xen ngang. “Con hỏi có ai khác phá luật chưa, và con hiểu rằngđiều này có nghĩa là các dì thể hoặc có liên quan gì với con cả. Con có lựa chọn.” “Nhưng Đại Hội Đồng làm điều bọn họ phải làm để chấm dứt mối quan hệ này,” Ein khẩn khoản . “Con cũng được biết điều đó rồi. Bọn họ phải giết con để được như ý.” Cho tới lúc này tôi chưa từng lớn tiếng ra những lời ấy, nhưng tôi vẫn nghĩ đến chúng suốt từ tối hôm qua. “Matthew khó loại bỏ hơn, nhưng con là mục tiêu khá dễ dàng.” “Con thể cứ thẳng vào nguy hiểm như thế được.” Em cố kiềm nước mắt. “Mẹ con bé làm thế,” dì Sarah khẽ . “Mẹ con thế nào ạ?” Giọng tôi vỡ ra khi nhắc tới mẹ, cùng với nó điềm tĩnh của tôi cũng vỡ òa. “Rebecca thẳng tới vòng tay của Stephen cho dù người ta đó là ý tưởng rất tệ khi hai phù thủy tài năng như họ kết hợp với nhau. Và Rebecca cũng chịu tránh xa Nigeria như người ta khuyên bảo chị ấy.” “Còn lý do nữa mà Diana nên lắng nghe bây giờ,” Em . “Con mới chỉ biết ta có vài tuần. Hãy trở về nhà và xem liệu con có thể quên ta .” “Quên ấy ư?” Điều này nực cười. “Đây phải là cơn mê đắm, ngã lòng. Con chưa bao giờ có cảm nhận theo cách này đối với bất cứ ai cả.” “Hãy để con bé yên, Em. Chúng ta có đủ những cuộc chuyện kiểu này trong gia tộc rồi. Tôi quên được mình và con bé cũng quên được ta.” Sarah liền hơi kèm theo tiếng thở dài thườn thượt bằng cả đường đến tận Auvergne. “Đấy có lẽ phải cuộc sống dì lựa chọn cho con, nhưng tất cả chúng ta đều phải tự quyết định cuộc sống của mình. Mẹ con làm thế. Dì làm thế - và tiện đây, bà ngoại con cũng có được cuộc đời dễ chịu với lựa chọn của mình. Giờ đến lượt con. Nhưng người nhà Bishop bao giờ quay lưng lại với người nhà Bishop khác.” Nước mắt rưng rưng khóe mắt tôi. “Cảm ơn dì, dì Sarah.” “Hơn nữa,” Sarah tiếp tục, “nếu Đại Hội Đồng được tạo nên từ những thể loại như Domenico Mechele tất cả bọn chúng có thể xuống địa ngục hết .” “Matthew gì về chuyện này?” Em hỏi. “Ta ngạc nhiên khi ta để con lại sau khi cả hai quyết định phá vỡ truyền thống hàng nghìn năm như thế.” “Matthew vẫn chưa cho con biết về cảm xúc của .” Tôi cẩn thận tháo cái ghim cài giấy. Im lặng chết chóc đường dây. Cuối cùng dì Sarah lên tiếng. “ ta chờ đợi cái gì thế?” Tôi bật cười vang. “Dì toàn cảnh cáo con phải tránh xa Matthew. Vậy mà giờ dì lại buồn vì ấy từ chối đặt con vào vòng nguy hiểm nhiều hơn ư?” “Con muốn ở bên ta. Thế là đủ nguy hiểm rồi.” “Chuyện này phải là kiểu hôn nhân pháp thuật có sắp xếp, dì Sarah ạ. Con có quyết định của mình. Và ấy cũng vậy.” chiếc đồng hồ bé xíu có mặt bằng sứ đặt bàn làm việc cho biết 24 giờ trôi qua kể từ lúc . “Nếu con quyết tâm ở đó với những sinh vật ấy, hãy cẩn thận,” dì Sarah căn dặn khi chúng tôi chào tạm biệt. “Và nếu con cần về nhà, hãy về nhà.” Sau khi tôi cúp máy, đồng đồ điểm nửa giờ trôi qua. Lúc này trời ở Oxford tối. Vứt quách cái trò chờ với đợi . Tôi nhấc máy lần nữa và quay số của . “Diana à?” ràng lo lắng. Tôi cười to. “ biết đó là em, hay đó là nhờ chương trình quản lý cuộc gọi?” “Em ổn cả.” Cơn bồn chồn lo lắng được thay bằng tiếng thở phào nhõm. “Vâng, mẹ vô cùng trọng đãi em.” “ sợ điều đó đấy. Bà với em những lời dối nào rồi?” Tôi gạt hết những phần mệt mỏi khó chịu trong ngày. “Chỉ có thôi,” tôi . “Rằng con trai bà là kiểu kết hợp ma quái nào đó giữa Lancelot[29] và Siêu Nhân.”. [29. trong những Hiệp sỹ Bàn tròn trong huyền thoại về vua Arthur, là người được vua Arthur tin tưởng nhất, và có công sức rất lớn trong những chiến thắng của vua Arthur.] “Cái đó nghe giống Ysabeau đấy,” cố giấu tiếng cười. “ nhõm làm sao khi biết rằng bà bị làm cho thay đổi vì ngủ dưới cùng mái nhà với phù thủy.” nghi ngờ gì nữa, khoảng cách giúp tôi lảng tránh nửa . Tuy nhiên, khoảng cách thể làm giảm bớt bức tranh đầy sắc màu rằng ngồi trong chiếc ghế bành kiểu Morris tại All Souls. Căn phòng rực sáng nhờ những chiếc đèn bàn, và làn da trông như viên ngọc trai được đánh bóng. Tôi hình dung đọc sách, vết nhăn sâu biểu lộ tập trung hằn giữa đôi lông mày. “ uống gì thế?” Đó là chi tiết duy nhất mà trí tưởng tượng của tôi thể đáp ứng được. “Từ khi nào em lại quan tâm tới rượu vang thế?” Giọng ngạc nhiên thành . “Kể từ lúc em phát ra có quá nhiều điều cần phải biết.” Kể từ khi em phát ra quan tâm tới rượu vang, ngốc ạ. “Tối nay là thứ gì đó kiểu Tây Ban Nha - Vega Sicilia.” “Năm nào?” “Ý em là vụ nho nào à?” Matthew chòng ghẹo. “Là năm 1964.” “Thế tương đương với đứa bé à?” Tôi trêu lại, thấy nhõm trước thay đổi tâm trạng của . “ đứa nhóc còn ẵm ngửa,” tán đồng. Tôi cần đến giác quan thứ sáu cũng biết rằng cười. “Mọi việc hôm nay thế nào rồi?” “Tốt. Bọn tăng cường an ninh, dù bị mất thứ gì. Có kẻ nào đó cố gắng hack vào hệ thống máy tính, nhưng Miriam đảm bảo với ai có thể xâm nhập vào hệ thống của ấy.” “ sế sớm quay về chứ?” Lời thoát ra trước khi tôi kịp ngăn chúng lại, và im lặng kéo theo sau đó dài hơn. Tôi tự bảo mình đó là mối giao cảm. “ biết,” Matthew điềm tĩnh . “ trở về khi có thể.” “ có muốn chuyện với mẹ ? Em có thể tìm bà.” Thái độ xa lánh đột ngột của làm tôi tổn thương, và tôi phải cố đấu tranh để giữ cho giọng của mình bình thản. “, em có thể bảo bà là các phòng thí nghiệm đều tốt. Ngôi nhà cũng vậy.” Chúng tôi chào tạm biệt. Ngực tôi thắt lại, hơi thở đứt quãng. Khi tôi cố gắng đứng lên và quay người lại, mẹ của Matthew đứng đợi bên ngưỡng cửa. “Đó là Matthew. có thiệt hại gì ở phòng thí nghiệm hay ngôi nhà cả. Cháu mệt, bác Ysabeau ạ, và thấy đói. Cháu ngủ.” gần tám giờ, thời điểm hoàn hảo thích hợp để rút lui. “Dĩ nhiên.” Ysabeau bước ra tránh đường cho tôi với đôi mắt long lanh. “Ngủ ngon nhé, Diana.”
Chương 25 Marthe lên phòng làm việc của Matthew trong khi tôi gọi điện, bánh sandwich, trà và nước sẵn sàng đợi tôi. Bà lão nhóm lò sưởi bằng những súc củi lớn để có thể cháy qua đêm, và thắp môt tay nến tỏa ánh sáng vàng rực rỡ. Cùng thứ ánh sáng mời gọi và khí ấm áp như thể ngập tràn ở lầu trong phòng ngủ, nhưng tâm trí tôi đóng kín bưng và việc cố gắng ngủ là hoàn toàn vô ích. Cuốn cổ thư Aurora đợi tôi bàn làm việc của Matthew. Ngồi vào máy tính của mình; tôi tránh nhìn vào bộ áo giáp lấp lánh của và bật công tắc chiếc đèn bàn đại ở mức ánh sáng nhất để đọc sách. “Ta lớn: Hãy cho ta biết về ngày tận cùng của mình và giới hạn những ngày ta có, để ta có thể biết được mong manh của mình. Thời gian của cuộc đời ta ngắn chẳng tày gang. Nó chỉ là khoảnh khắc, so với của người.” Trang viết chỉ càng làm tôi nghĩ đến Matthew. Cố gắng tập trung vào thuật giả kim vô ích; nên tôi quyết định làm danh sách các thắc mắc liên quan đến những gì mình vừa đọc được. Cần có cây bút mực và mảnh giấy. Chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ đồ sộ của Matthew màu đen sẫm và cứng rắn như chính chủ nhân của nó; đồng thời cũng toát lên vẻ sang trọng y như thế. Nó có ngăn kéo ở hai bên, khoảng giữa là gian để chân, các ngăn kéo sắp thành vòng tròn, chân bàn được bịt đầu tròn nhắn. Ngay bên dưới mặt bàn viết là dãy dài dày những hình chạm khắc chạy thành vòng tròn theo đường chu vi của nó. Những chiếc lá ô rô, hoa tulip, hình xoáy cuộn và các hình học mời gọi ta lần theo những đường nét của chúng. giống như mặt bàn làm việc của tôi - luôn chất đống những chồng giấy tờ, sách vở cao ngất và la liệt những tách trà uống dở có nguy cơ gây ra tai họa bất cứ lúc nào - chiếc bàn này chỉ có mỗi miếng lót bàn thời vua Edward, dụng cụ mở thư hình thanh kiếm và chiếc đèn bàn. Giống như Matthew, nó là pha trộn hài hòa kỳ lạ giữa cổ điển và đại. Tuy thế, hề có đồ dùng văn phòng nào nằm trong tầm mắt cả. Tôi mở cái ngăn kéo cùng bên tay phải để tìm giấy và bút. Bên trong, mọi thứ đều gọn gàng và ngăn nắp. Những chiếc bút mực hiệu Montblanc nằm tách riêng bên những chiếc bút chì cùng hiệu, và hàng kẹp giấy được sắp xếp theo kích cỡ. Sau khi chọn cây bút mực và đặt nó lên bàn, tôi cố gắng mở những ngăn kéo còn lại. Chúng đều bị khóa. Chìa khóa nằm dưới những cái kẹp giấy - tôi chất đống chúng lên bàn để có thể tìm kiếm kỹ hơn. Nhưng chẳng có gì cả. tờ giấy thấm màu xanh lá cây nhạt mấy được để ý nằm trải giữa những tấm lót ly bằng da bàn. Tôi quyết định dùng nó để ghi chép. Nhấc máy tính của mình lên để lau bàn, tôi đánh rơi chiếc bút mực xuống sàn. Nó rơi xuống dưới gầm những cái ngăn kéo và nằm ngoài tầm tay với. Tôi bò xuống để tìm. Luồn tay vào dưới gầm bàn, những ngón tay tôi sờ thấy cái hộp dày ngay khi mắt tôi nhìn thấy hình dáng cái ngăn kéo trong lớp gỗ đen phía . Nhăn nhó, tôi vặn người chui ra khỏi gầm bàn. Chẳng có gì trong những đường chạm trổ phía mặt bàn cho thấy có nút mở cái ngăn kéo ngầm cả. Nhưng thôi, Matthew có cất những vật phẩm thiết yếu trong cái ngăn kéo khó mở cũng mặc. Tôi phải tập trung vào công việc của mình . Tôi viết con số 1 bằng mực đen đậm lên tờ giấy màu xanh lá cây. Thế rồi tôi cứng người. cái ngăn kéo ngầm luôn được thiết kế để cất giấu thứ gì đó. Matthew còn đầy những bí mật - điều này tôi biết. Chúng tôi mới biết nhau có vài tuần lễ, mà ngay cả những cặp tình nhân thắm thiết nhất cũng xứng đáng có riêng tư. Nhưng, cái kiểu kiềm nén tình cảm của Matthew bực mình, và những bí mật vây quanh giống như pháo đài mưu ngăn những người khác và cả tôi nữa ở bên ngoài. Hơn nữa, có phải lục lọi đồ đạc của tôi ở Bodleian khi đến tìm kiếm cuốn Ashmole 782 ? Chúng tôi chỉ mới gặp nhau khi chơi trò nguy hiểm ấy. Và giờ bỏ tôi tự xoay sở ở đất Pháp này. Dù lương tâm tôi trỗi dậy, nhưng ý nghĩ về việc bị tổn thương giúp tôi gạt lời cảnh cáo đó qua bên. Ấn và kéo ở mọi chỗ gồ lên và lồi ra, các ngón tay tôi lần tìm chỗ các hình chạm khắc ở mép bàn thêm lần nữa nhưng thành công. Dụng cụ mở thư của Matthew nằm ngay cạnh tay tôi cách mời gọi. Có thể dùng nó lùa vào cái khe bên dưới và cậy mở cái ngăn kéo ra. Đánh giá tuổi thọ của cái bàn, nhà sử gia trong tôi lại la lên oai oái, thậm chí còn lớn tiếng hơn cả lương tâm của tôi nữa. Việc xâm phạm riêng tư của Matthew dù sao còn có thể dung thứ được, nhưng tôi làm hỏng món đồ cổ. Chui xuống gầm bàn lần nữa, tôi thấy chỗ đó quá tối thể nhìn được mặt dưới của cái ngăn kéo, nhưng các ngón tay tôi lại xác định được thứ gì đó cứng và lành lạnh được gắn vào gỗ. Phía bên trái của cái ngăn kéo là mẩu kim loại gồ lên, mà sải tay của ma cà rồng từ mặt bàn đằng trước có thể với tới. Nó hình tròn và được khắc đường thẳng ở chính giữa - để khiến nó trông giống cái đinh ốc hoặc đầu đinh cũ. tiếng “cách” nhè phát ra phía đầu khi tôi ấn vào nó. Đứng thẳng người lên, tôi nhìn chăm chú vào cái khay sâu khoảng hơn mười phân. Nó được lót lớp nhung đen, và có ba lỗ lõm bề mặt. Mỗi lỗ để đồng tiền xu hoặc huân chương bằng thiếc. Đồng xu lớn nhất khắc hình tòa nhà và nằm chính giữa trong cái lỗ rộng gần mười phân. Hình ảnh đó chi tiết đến kinh ngạc thể bốn bậc thang dẫn lên cánh cửa bên hông có hai cây cột. Ở giữa hai cột trụ ấy là dáng người khuất sau màn che. Những đường nét cứng cáp của tòa nhà bị dính những vết sáp đen kịt. Quanh viền đồng xu là dòng chữ “militie Lazari a Bethania.” Các hiệp của Lazarus ở Bethany. Nắm chặt lấy mép khay để làm mình bình tĩnh lại, tôi ngồi sụp xuống. Đây phải là đồng xu hay huân chương gì cả. Chúng là những con dấu niêm phong được đùng để đóng lên thư từ chính thức và các chứng từ giao dịch buôn bán tài sản. dấu in bằng sáp khi gắn mảnh giấy tầm thường cũng có thể ra lệnh cho những đạo quân rời khỏi chiến trường hoặc bán đấu giá những điền sản rộng lớn. Cặn cứ theo những dấu vết còn lại ít nhất có con dấu niêm phong được sử dụng trong thời gian gần đây. Những ngón tay run rẩy, tôi cậy con dấu hơn trong chiếc khay. Bề mặt của nó khắc sâu hình ảnh sao chép của cùng tòa nhà kia. Những cây cột trụ và hình ảnh bị che khuất của Lazarus - người đàn ông đến từ Bethany - được Chúa Jesus tái sinh sau khi ông ta được tống táng bốn ngày trời - thể nhầm lẫn vào đâu được. Nhưng có lời nào được viết quanh viền con dấu niêm phong này. Thay vào đó tòa nhà lại bị bao quanh bởi con rắn miệng ngậm đuôi. Tôi thể nhắm mắt lại kịp nhanh để xua hình ảnh lá cờ hiệu của gia đình de Clermont và con rắn ngậm đuôi phất phới trong làn gió đỉnh Sept-Tours. Con dấu niêm phong nằm trong lòng bàn tay tôi, bề mặt bằng thiếc của nó lấp lánh sáng. Tôi chú tâm nhìn vào ánh kim loại ấy, sẵn sàng chờ đợi sức mạnh tiên thị mới của mình để soi rọi ánh sáng vào bí này. Nhưng hai thập kỷ qua tôi phớt lờ phép thuật trong dòng máu của mình, và bây giờ nó chịu tới trợ giúp tôi nữa. có ảo giác nào, các kiến thức lịch sử người trần mắt thịt của tôi đành phải bắt tay vào việc. Tôi kiểm tra tỉ mỉ mặt sau của con dấu, thu nhận được các chi tiết của nó. dấu chữ thập có những đường viền sáng rực chia con dấu thành bốn phần, tương tự như cái mà Matthew mang bộ áo chẽn nhà binh của trong ảo giác tôi thấy lần trước. Trong cung phần tư phía bên phải của con dấu là mặt trăng lưỡi liềm, hai sừng cong của nó hướng thẳng lên và sáu ngôi sao điểm trong lòng nó. Ở cung phần tư phía dưới bên trái là bông hoa bách hợp cách điệu, biểu tượng truyền thống của nước Pháp. Khắc quanh mép dấu niêm phong này là ngày tháng được ghi bằng chữ số La Mã MDCI-1601 - cùng với dòng chữ “secretum Lazari” - “bí mật của Lazarus.” thể nào là trùng hợp ngẫu nhiên khi Lazarus, cũng giống ma cà rồng, thực cuộc hành trình từ cuộc sống tới cái chết và trở lại lần nữa. Hơn thế, chữ thập kia, kết hợp với hình tượng huyền thoại từ miền Đất Thánh và việc nhắc đến các hiệp sĩ, ràng dẫn đến gợi ý rằng những con dấu niêm phong trong ngăn kéo bàn của Matthew thuộc về trong số các hiệp sĩ Thập Tự Chinh được thành lập vào thời Trung Cổ. Họ nổi tiếng là các Hiệp sĩ dòng Đền, những người biến mất cách bí vào đầu thế kỷ XIV trước khi bị buộc tội là dị giáo và xấu xa. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe đến các hiệp sĩ của Lazarus. Xoay con dấu hướng ra phía ánh sáng, tôi chợt chú ý đến ngày tháng năm 1601. Đó là thời điểm muộn màng đối với hiệp sĩ từ thời Trung Cổ. Tôi lục tìm trong trí nhớ những kiện quan trọng của năm đó có khả năng soi tỏ cho bí này. Nữ hoàng Elizabeth I chém đầu Bá Tước vùng Essex, và chiêm tinh gia người Đan Mạch Tycho Brahe qua đời trong đau đớn. cái nào trong những kiện này có vẻ liên quan cả. Những ngón tay tôi lướt vết chạm khắc. Ý nghĩa của MDCI vụt lên. Matthew de Clermont. Những chữ cái này phải là chữ số La Mã. Nó là cụm viết tắt tên Matthew: MDCl. Tôi đọc nhầm chữ cái cuối cùng. Miếng kim loại chỉ rộng khoảng năm phân, nằm trong lòng bàn tay tôi, các ngón tay tôi khép lại chắc chắn quanh nó, ép bề mặt khắc hình của nó sâu vào làn da của mình. Con dấu hơn này chắc hẳn là con dấu niêm phong cá nhân của Matthew. Sức mạnh của những con dấu này to lớn đến mức chúng thường bị hủy khi có ai đó chết hoặc rời bỏ quyền lực để tránh cho chúng rơi vào tay kẻ gian. Và hiệp sĩ duy nhất có cả con dấu lớn và con dấu cá nhân trong tay chính là hiệp sĩ đứng đầu. Lý do tại sao Matthew lại giữ kín những con dấu niêm phong này làm tôi bối rối. Ai quan tâm hay thậm chí là nhớ đến các hiệp sĩ của Lazarus chứ, càng chẳng có ai bận tâm tới vai trò hiệp sĩ thời của ấy nữa. chú ý của tôi bị thu hút vào vết sáp đen con dấu lớn. “ thể nào!” Lặng điếng người, tôi thào, lắc đầu. Các hiệp sĩ trong tấm áo giáp sáng choang thuộc về quá khứ. Ngày nay họ đâu còn hoạt động nữa. Bộ áo giáp của Matthew phản chiếu ánh nến lung linh. Tôi đánh rơi con dấu trong tay vào ngăn kéo đánh xoảng cái. Da thịt lòng bàn tay tôi hằn đầy vết ấn vào và giờ nó có hình ảnh của con dấu: hình chữ thập tỏa sáng, mặt trăng lưỡi liềm, các ngôi sao, và hoa bách hợp. Lý do Matthew có những con dấu này, và lý do dấu sáp còn mới tinh là vì chúng vẫn còn được sử dụng. Các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus vẫn còn tồn tại! “Diana? ổn chứ?” Giọng Ysabeau vọng lên từ dưới chân cầu thang. “Vâng, bác Ysabeau!” Tôi gọi to, nhìn chằm chằm vào hình ảnh của con dấu tay mình. “Cháu đọc e-mail và có vài tin tức như mong đợi, chỉ thế thôi ạ!” “Ta cho Marthe lên dọn khay đĩa nhé?” “!” tôi buột miệng. “Cháu vẫn ăn.” Bước chân bà lùi xa dần về phía phòng khách. Khi yên tĩnh hoàn toàn, tôi mới thở phào. Di chuyển nhanh và khẽ khàng hết sức có thể, tôi lật con dấu khác trong cái hốc lót nhung của nó. Nó gần giống y hệt cái của Matthew, ngoại trừ góc phần tư phía bên phải chỉ có hình mặt trăng lưỡi liềm và chữ “Philippus” được khắc ở quanh đường viền. Con dấu này thuộc về cha của Matthew, có nghĩa nhóm các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus là công việc của nhà de Clermont. Chắc chắn còn có manh mối nào về hiệp sĩ bàn làm việc nữa, tôi đặt các con dấu vào chỗ cũ. Cái ngăn kéo kêu tiếng “cách” im lìm khi nó trượt trở lại vị trí vô hình bên dưới bàn làm việc. Tôi nhấc chiếc bàn mà Matthew vẫn dùng để đặt rượu vang buổi chiều của tới chỗ tủ sách. bận tâm việc tôi xem qua cả thư viện của - tôi vừa tự nhủ với mình như vậy, vừa đá đôi giầy lười ra. Bề mặt bóng loáng của chiếc bàn kêu tiếng kẽo kẹt cảnh cáo khi tôi đu chân và đứng lên , nhưng khối gỗ vẫn chắc chắn. Tôi nuốt vào hơi sâu và kéo ra món đồ đầu tiên ở ngang tầm mắt. Đó là cuốn sách cổ xưa nhất mà tôi từng đặt tay vào. Tấm bìa da của nó lên tiếng phàn nàn khi được mở ra, mùi da cừu cũ dâng lên từng trang giấy. “Carmina qui quondam studio florente peregi/ Flebilis heu maestos cogor inire modos,” dòng đầu tiên viết. Mắt tôi rưng rưng lệ. Đây là tác phẩm của Boethius từ thế kỷ thứ VI - Niềm an ủi của triết học - được viết trong tù khi ông chờ chết. “Công vịệc của ta từng tặng cho ta những bài ca vui vẻ, và lao động mang đến cho ta vinh quang/ Nhưng giờ đây, trong nước mắt của những điệp khúc buồn, ta phải quay trở lại.” Tôi tưởng tượng ra hình ảnh Matthew, bị tước mất Blanca và Lucas, hoang mang ngơ ngác trong hình hài ma cà rồng mới mẻ, và đọc những lời do người đàn ông bị kết án viết ra. Lặng lẽ cảm ơn bất cứ người nào mang cho cuốn sách này với niềm hy vọng giúp vơi đau khổ, tôi trả cuốn sách trở lại chỗ cũ. Kế tiếp là cuốn cổ thư có tranh minh họa đẹp đẽ của Genesis, thánh thi về sáng thế. Màu xanh dương và đỏ đậm trông mới nguyên như hồi chúng mới được vẽ. Lại cuốn cổ thư có tranh minh họa khác - cuốn sách về thực vật của Dioscorides, nó cũng nằm ở tầng cùng giá sách, cùng với hơn tá các sách kinh khác, vài cuốn về luật, và cuốn bằng tiếng Hy Lạp. Giá sách thấp bên dưới cũng chứa chừng ấy số sách - hấu hết là Kinh Thánh, cùng cuốn sách y học và bản in rất mới của bộ sách giáo khoa từ thế kỷ XVII. Nó miêu tả nỗ lực của Isidore xứ Seville hòng nắm bắt tất cả kiến thức nhân loại, và nó chắc hẳn cuốn hút hiếu kỳ vô tận của Matthew. Ở trang đầu tiên để tên “MATHIEU,” cùng với cụm từ “meus liber” – “cuốn sách của tôi.” Cắc cuốn còn lại giá bao gồm những cuốn về lịch sử, sách luật, sách về y học và quang học, triết học Hy Lạp, sách về các bảng kê tài chính, các cuốn sách được sưu tầm từ buổi khởi nguyên của giáo hội đáng chú ý như Bernard của Clairvaux, những câu chuyện lãng mạn của hiệp sĩ - cuốn có liên quan đến vị hiệp sĩ biến thành chó sói mỗi tuần lần. Nhưng có cuốn nào hé lộ các thông tin mới về Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus cả. Tôi nén tiếng kêu thất vọng và trèo xuống khỏi bàn. Kiến thức của tôi về các hiệp sĩ Thập Tự Chinh còn rất thô sơ. Hầu hết bọn họ đều khởi nghiệp là những binh lính nổi tiếng về lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật. Các Hiệp sĩ dòng Đền luôn là những người đầu tiên bước vào trận chiến và là người cuối cùng rời khỏi đó. Nhưng các nỗ lực chinh chiến của họ chỉ giới hạn quanh vùng đất Jerusalem. Họ còn chiến đấu ở Châu Âu nữa, nhiều người trong số đó chỉ đáp lại mệnh lệnh của tăng lữ chứ vâng theo đức vua hay những thế lực trần tục khác. Sức mạnh của các hiệp sĩ chỉ dành cho quân đội. Họ còn xây nhà thờ, trường học và nhà thương cho người bị hủi. Các quân nhân bảo vệ quyền lợi của hiệp sĩ Thập Tự Chinh, dù là linh hồn, tiền bạc hay thể xác. Ma cà rồng như Matthew có tính chiếm hữu và cát cứ đến cùng, do đó phù hợp cách lý tưởng với vai trò quân nhân. Nhưng quyền lực quân đội cũng là thứ dẫn đến suy sụp của họ. Vua chúa và tăng lữ bắt đầu đố kỵ với giàu có và ảnh hưởng của họ. Vào năm 1312, giáo hoàng và vua Pháp tìm cách khiến các Hiệp sĩ dòng Đền phải giải tán, để khỏi phải lo lắng trước sức mạnh của tình huynh đệ to lớn và nổi tiếng nhất ấy. Hầu hết các hiệp sĩ đều dần dần khánh kiệt do thiếu trợ cấp và lợi tức. Dĩ nhiên tất cả các giả thiết đều bị ỉm . tổ chức ở cấp độ quốc tế phức tạp và rộng lớn khó mà bị loại bỏ chỉ qua đêm, nên tan rã đột ngột của các Hiệp sĩ dòng Đền dẫn đến đủ các câu chuyện hoang đường về họ. Người ta cho rằng những Hiệp sĩ dòng Đền vẫn sống lang bạt và hoạt động ngầm, và người ta vẫn tìm kiếm dấu vết của giàu có trong những huyền thoại ấy. Thực tế chưa ai từng tìm thấy bằng chứng về việc tiền được dốc ra khỏi hầu bao để hỗ trợ cho mưu đồ đó. Tiền. trong những bài học đầu tiên mà các sử gia được học: đó là lần theo dòng tiền. Tôi định vị lại việc tìm kiếm của mình. Dáng vẻ cứng cáp của cuốn sổ cái đầu tiên hữu ngay cái giá thứ ba, bị kẹp giữa cuốn Quang học của Al-Hazen và cuốn sử thi lãng mạn của Pháp. ký tự tiếng Hy Lạp viết bằng mực rìa trước của cuốn sách: α. Ký tự đó hẳn là đánh dấu mục phân loại, tôi rà soát các giá và xác định được cuốn sách về bảng kê tài chính thứ hai. Nó cũng có chữ Hy Lạp - β. Mắt tôi soi thấy γ, δ, và ε, rải rác các giá khác nữa. cuộc tìm kiếm cẩn thận hơn xác định được phần còn lại, tôi chắc chắn thế. Cảm giác y như Eliot Ness vẫy vẫy nắm hóa đơn thuế đuổi theo Al Capone[30], tôi giơ bàn tay lên. còn thời gian để phung phí cho việc leo lên kiếm tìm nữa. Cuốn sổ kế toán đầu tiên trượt ra khỏi chỗ của nó và rơi vào lòng bàn tay chờ sẵn của tôi. [30. Al Capone là “bố già” người Mỹ chính hiệu, lấy mô hình tổ chức tội phạm của Italia và biến nó thành nghiệp đoàn tội phạm theo kiểu Mỹ. Trong thế giới ngầm, Al Capone khét tiếng với những vụ thanh toán thương tiếc, thậm chí là bạn làm ăn, nếu nghi ngờ kẻ đó cản đường mình. Eliot Ness giao nhiệm vụ thu thập các bằng chứng về tội buôn bán rượu lậu của Al Capone.] Các ghi chép của nó là vào năm 1117 và số liệu được nhiều người khác nhau ghi chép. Những cái tên và những con số nhảy nhót trang giấy. Các ngón tay tôi bận rộn, thu vào tất cả các thông tin chúng có thể lấy được từ phần viết tay này. Vài gương mặt lờ mờ thoáng tấm giấy da cừu - Matthew, người đàn ông u ám có cái mũi diều hâu; người đàn ông có mái tóc sáng như màu đồng được đánh bóng; và người khác nữa có đôi mắt nâu ấm áp cùng khuôn mặt nghiêm trang. Bàn tay tôi vẫn tiếp tục lướt số tiền nhận được vào năm 1149. “Eleanor Regina, 40.000 Mác Đức.” Đó là số tiền gây sửng sốt - nhiều hơn nửa năm thu nhập của vương quốc miền Nam nước khi đó. Tại sao hoàng hậu lại chi nhiều tiền đến thế cho đội quân được ma cà rồng dẫn dắt? Nhưng thời Trung Cổ nằm quá xa so với chuyên môn của tôi để có thể trả lời cho câu hỏi đó hoặc để biết nhiều hơn về những con người dính líu đến cuộc chuyển nhượng này. Tôi đóng sập cuốn sổ lại và tới tủ sách từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII. Náu mình giữa những cuốn sách khác là cuốn sổ mang ký hiệu nhận diện bằng chữ cái Hy Lạp. Hai mắt tôi mở lớn hơn dù nó vốn mở ra sẵn rồi. Căn cứ vào cuốn sổ cái này, các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus chi trả - cách thể tin nổi - cho hàng loạt các cuộc chiến tranh, hành hóa, dịch vụ, các kỳ công về ngoại giao, bao gồm chu cấp của hồi môn cho Mary Tudor khi bà ta kết hôn với vua Philip của Tây Ban Nha, mua đại bác cho trận chiến ở Lepanto, hối lộ người Pháp để họ có mặt tại Hội đồng Trent, và tài trợ cho các hoạt động quân của Liên Minh Lutheran Schmalkaldic. Trong năm, họ chu cấp cho Mary Stuart trở lại ngai vàng Scotland và trả những món nợ khá lớn của Elizabeth I cho thị trường giao dịch hối phiếu Antwerp. Tôi dọc theo giá sách để kiếm các cuốn sách khác đánh dấu bằng chữ cái Hy Lạp. giá sách thế kỷ XIX, có cuốn mang ký tự hình chữ chi dày đặc gáy sách bằng vải hồ màu xanh dương nhạt. Bên trong, những số tiền khổng lồ được kê tỉ mỉ, cùng với các khoản tiền bán bất động sản làm đầu tôi choáng váng - làm sao người có thể mua bán cách bí mật hầu hết các nhà máy ở Manchester được chứ? - và những cái tên quen thuộc của hoàng tộc, quý tộc, tổng thống và các tướng lĩnh trong Nội chiến. Cũng có cả những khoản chi hơn cho học phí, trợ cấp quẩn áo, sách vở, các món hồi môn, hóa đơn bệnh viện, và những món tiền phạt trả cho khoản vay quá hạn tính theo ngày. Bên cạnh những cái tên xa lạ là các chữ viết tắt “MLB” hay “FMLB.” Tiếng Latin của tôi được tốt lắm, nhưng tôi chắc chắn chữ viết tắt đó là “Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus ở Bethany” - militie Lazari a Bethania, hoặc filia militie hay filius militie - các con và con trai của những hiệp sĩ này. Và nếu họ vẫn còn dốc quỹ chi tiêu vào giữa thế kỷ XIX, ngày hôm nay, ở thế kỷ XXI này, chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra. Ở nơi nào đó thế giới này, mảnh giấy - giao dịch bất động sản, hợp đồng - vẫn được đóng bằng con dấu niêm phong lớn của chàng hiệp sĩ với lớp sáp màu đen đậm. Và Matthew sử dụng nó. Nhiều giờ đồng hồ sau, tôi trở lại khu vực Trung Cổ trong thư viện của Matthew và mở cuốn sổ kế toán cuối cùng. Những số tiền gây sửng sốt đúng như mong đợi, nhưng khoảng năm 1310 con số ghi chép tăng lên đột ngột. Bởi vậy cả dòng tiền cũng thế. Và, kèm với vài cái tên còn có dấu gạch chéo màu đỏ. Năm 1313 cạnh trong những chỗ đánh dấu này là cái tên mà tôi nhận ra: Jacques de Molay, vị kiện tướng cuối cùng của các Hiệp sĩ dòng Đền. Ông ta bị thiêu cọc vì tội dị giáo vào năm 1314. năm trước khi bị tử hình, ông ta chuyển mọi thứ mình sở hữu cho các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus. Có hàng trăm cái tên được đánh dấu chéo màu đỏ. Tất cả bọn họ đều là Hiệp sĩ dòng Đền ư? Nếu vậy bí của các Hiệp sĩ dòng Đền được làm sáng tỏ. Các hiệp sĩ này và tiền của họ hề biến mất, mà chỉ đơn giản là được sát nhập vào nhóm của Lazarus. Đó thể là được. Chuyện thế này cần có quá nhiều kế hoạch và phối hợp sắp đặt. Và ai có thể giữ mưu đồ bí mật to lớn nhường ấy. Ý tưởng này có vẻ hợp lý như các câu chuyện về... Phù thủy và ma cà rồng. Chuyện các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus còn đáng tin bằng chuyện tôi là phù thủy! Theo như các giả thuyết, điểm yếu chính của họ là vì họ quá phức tạp. có cuộc đời nào đủ dài để tập hợp lượng thông tin cần thiết, xây dựng mối liên kết giữa tất cả các nhân tố cần thiết, và rồi sắp đặt những kế hoạch luôn vận động. Trừ phi dĩ nhiên rồi, người chủ mưu là những ma cà rồng. Nếu là ma cà rồng hoặc, hơn nữa, gia tộc ma cà rồng - thời gian chỉ là vấn đề cỏn con. Như tôi biết từ nghiệp học giả của Matthew, ma cà rồng có tất cả thời gian mà họ cần. Giờ tôi hiểu khắc nghiệt của việc ma cà rồng trong lúc nhét cuốn sổ kế toán trở lại giá sách. Nó chỉ là vấn để tuổi tác, trong đó bao gồm những khó khăn hay thói quen ăn uống, hay thực tế rằng ấy giết người và còn phải như vậy nữa. Đó chính là những bí mật. Matthew và tích lũy những bí mật - lớn như các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus và con trai Lucas, như mối quan hệ của vớỉ William Harvey và Charles Darwin - từ hơn thiên niên kỷ nay. Cuộc đời tôi có lẽ quá ngắn ngủi để có thể nghe hết tất cả những bí mật ấy, chưa đến việc hiểu được chúng. Nhưng chỉ có ma cà rồng là những kẻ giữ những bí mật. Tất cả các sinh vật đều học cách làm như vậy để vượt ra ngoài nỗi sợ bị khám phá và để gìn giữ điều gì đó - bất cứ điều gì - chỉ để bản thân họ được ở trong thị tộc, bộ tộc, và thế giới của mình. Matthew đơn thuần là thợ săn, kẻ giết người, nhà khoa học hay ma cà rồng, mà còn là mạng lưới những bí mật, cũng như tôi. Bởi vì chúng tôi ở bên nhau, nên chúng tôi cần quyết định những bí mật nào được chia sẻ và những bí mật nào cứ để chúng qua . Chiếc máy tính rung lên trong căn phòng im ắng khi tôi ấn vào nút nguồn để tắt. Bánh sandwich của Marthe khô cứng và trà nguội lạnh, nhưng tôi có nhấm nháp nên bà lão thể nghĩ công sức của mình được coi trọng. Xong xuôi, tôi ngồi ngả người ra sau và nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. Các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus đánh thức con người sử gia trong tôi, và bản năng phù thủy mách bảo tôi rằng mỗi tình huynh đệ gắn bó của họ là điểm quan trọng để hiểu được Matthew. Nhưng tồn tại của họ phải là bí mật quan trọng nhất của . Matthew canh giữ chính bản thân mình - canh giữ bản ngã sâu tận cùng trong . Tiếp tục là công việc phức tạp và tinh vi. Chúng tôi là những sinh vật trong các câu chuyện thần thoại - ma cà rồng, phù thủy, hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng choang. Nhưng vẫn còn thực rắc rối cần đối mặt. Tôi bị đe dọa, và các sinh vật vẫn theo dõi tôi trong Bodleian với hy vong tôi gọi lại cuốn sách mà mọi người đều muốn nhưng chẳng ai hiểu nó. Phòng thí nghiệm của Matthew là đích nhắm tới. Và mối quan hệ của chúng tôi gây bất ổn cho tình hình lắng dịu mong manh được duy trì giữa tinh, con người, ma cà rồng và phù thủy. Đây là thế giới mới, trong đó các sinh vật đấu đá nhau và đạo quân bí mật có thể bị gọi ra hoạt động chỉ bằng cái dấu niêm phong bằng đồng thiếc gắn vào giọt sáp màu đen. Thảo nào Matthew luôn thích gạt tôi qua bên. Tôi thổi tắt nến và leo cầu thang lên phòng ngủ. Kiệt sức, tôi nhanh chóng chìm vào mộng mị, các giấc mơ của tôi đầy những hiệp sĩ, dấu niêm phong bằng đồng thiếc và những cuốn sổ kế toán vô tận. bàn tay thon thả lành lạnh chạm vào vai tôi, làm tôi tỉnh dậy ngay lập tức. “Matthew?” tôi ngồi bật dậy. Gương mặt trắng trẻo của Ysabeau lờ mờ tỏa sáng trong tối. “Cuộc gọi cho này.” Bà đưa tôi chiếc di động màu đỏ của mình và rời khỏi phòng. “Dì Sarah ạ?” tôi kinh hãi lo sợ có điều gì xảy đến với các bà dì của mình. “Ổn cả rồi, Diana.” Là Matthew. “Có chuyện gì thế?” Giọng tôi lo sợ. “Có phải thỏa thuận với Knox rồi ?” “. thể đạt được tiến triển gì ở đó. Chẳng còn việc gì cho ở Oxford nữa. muốn về nhà, với em. có mặt ở đó trong vài giờ nữa.” Giọng nghe khàn khàn lạ lùng. “Có phải em mơ?” “Em mơ đâu,” Matthew . “Còn nữa, Diana...” ngập ngừng. “ em.” Đó là điều tôi muốn nghe nhất. Những tế bào bị lãng quên trong tôi bắt đầu lặng lẽ ngân nga hát trong bóng tối. “Hãy đến đây và với em điều đó,” tôi dịu dàng , hai hàng mi ứa lệ, cảm giác như mây. “Em vẫn chưa đổi ý chứ?” “ bao giờ!” tôi dữ dội đáp. “Em gặp nguy hiểm, cả gia đình em cũng vậy. Em có sẵn sàng mạo hiểm vì điều đó, vì ?” “Em lựa chọn rồi.” Chúng tôi chào tạm biệt và miễn cưỡng gác máy, e sợ im lặng kéo theo sau bao lời vừa . Trong khi , tôi như bơ vơ đứng ở giữa ngã tư đường, nhìn thấy được con đường phía trước. Mẹ tôi nổi tiếng về năng lực tiên tri phi thường. Liệu bà có đủ quyền năng để thấy điều gì chờ đợi chúng tôi khi cả hai tiến bước tiến đầu tiên đến với nhau ?
Chương 26 Tôi chờ đợi tiếng bánh xe nghiến con đường rải sỏi kể từ lúc ấn nút ngừng cuộc thoại chiếc di động xíu của Ysabeau - cũng từ lúc đó nó hề rời khỏi tầm mắt tôi. ấm trà mới và đồ ăn sáng đợi sẵn khi tôi bước từ phòng tắm ra, máy điện thoại vẫn cầm tay. Tôi nuốt vội vàng thức ăn, quàng vào người bộ đồ đầu tiên mà tay mình chạm vào, và bay xuống cầu thang với mái tóc ướt nhẹp. Vài tiếng nữa Matthew mới về tới Sept-Tours, nhưng tôi quyết tâm đợi sẵn. Ban đầu tôi đợi chiếc sofa cạnh lò sưởi trong phòng khách, băn khoăn biết có chuyện gì xảy ra ở Oxford khiến Matthew thay đổi quyết định như thế. Marthe mang cho tôi cái khăn tắm và dùng nó chà mạnh lau khô mái tóc tôi khi thấy tôi chẳng tỏ vẻ gì là định tự mình làm. Càng gần đến lúc sắp về tới, tôi càng muốn lại trong hành lang hơn là ngồi ở phòng khách. Ysabeau xuất và đứng chống nạnh nhìn. Tôi vẫn tiếp tục, bất chấp vẻ diện cấm đoán của bà, cho tới khi Marthe mang cái ghế gỗ ra cửa trước. Bà lão thuyết phục tôi ngồi đó, mặc dù công trình chạm khắc cái ghế ràng được thiết kế để làm những người sử dụng nó phải quen với khổ ải nơi địa ngục. Khi những đường nét đầu tiên của chiếc Range Rover tiến vào vào sân trong, tôi bay ra ngoài. Lần đẩu tiên kể từ khi chúng tôi quen biết nhau, Matthew tới cửa trước tôi. vẫn sải đôi chân dài khi hai cánh tay tôi khóa quanh cổ , ngón chân chỉ vừa vặn chạm đất. “Đừng làm thế nữa,” tôi thầm, mắt nhắm chặt, nước mắt đột ngột tuôn trào. “Đừng bao giờ làm vậy nữa.” Đôi cánh tay Matthew cuốn quanh tôi, và vùi mặt vào cổ tôi. Chúng tôi ôm lấy nhau lời nào. lúc sau, Matthew nới lỏng vòng tay xiết chặt và nhàng đặt tôi đứng xuống. nâng khuôn mặt tôi trong tay, và cảm giác quen thuộc của những bông tuyết và sương giá lại tan ra da tôi. Tôi thâu lại mọi chi tiết mới trong dáng vẻ để lưu vào bộ nhớ, chẳng hạn như các nếp nhăn tí xíu ở khóe mắt, hay đường cong rệt của vết hõm dưới cặp môi đầy đặn. “Than ôi,” Matthew thầm bối rối, “ sai lầm.” “Sai lầm ư?” Giọng tôi hoang mang. “ nghĩ biết mình nhớ em nhiều đến thế nào. Nhưng thực chẳng biết gì cả.” “ cho em nghe .” Tôi muốn nghe lại lần nữa những lời điện thoại đêm qua. “ em, Diana, chúa phù hộ, cố gắng để em.” Gương mặt tôi dịu trong đôi tay . “Em cũng , Matthew, bằng cả trái tim mình.” điều gì đó tinh tế biến đổi trong cơ thể . phải mạch đập của , vì còn mấy nhịp tim đập nữa, cùng phải làn da - thứ vẫn mát lạnh diệu kỳ. Thay vào đó là thanh tắc nghẹn trong cổ họng, lời thầm khao khát gửi niềm xao xuyến xuyên thấu con người tôi. Matthew nhận thấy nỗi thèm khát ấy, và nét mặt trở nên dữ tợn. cúi đầu, ép khít đôi môi lạnh giá của vào môi tôi. Cơ thể tôi thay đổi, mảnh mai cũng chẳng huyền ảo. Các khớp xương của tôi như có lửa đốt, hai bàn tay tôi vòng ra sau gáy kéo cúi xuống. Khi cố gắng kéo người ra, tôi lại càng ghì sát hông về phía mình. Đừng quá nhanh, tôi thầm nghĩ. Môi kề sát môi tôi kinh ngạc. Hai tay tôi trượt xuống thấp hơn, ôm vòng ra sau lưng với dáng vẻ chiếm hữu, hơi thở của lại ngắt quãng cho tới lúc nó trở thành tiếng rên khe khẽ nơi cuống họng. “Diana,” cất tiếng, dấu hiệu cảnh cáo trong giọng . Nhưng bằng nụ hôn của mình, tôi cầu cho tôi biết rắc rối đó là gì. Và lời đáp lại duy nhất của Matthew là môi lại áp lên môi tôi. vuốt ve động mạch nơi cổ tôi, rồi bàn tay trượt xuống áp vào bầu ngực trái của tôi mơn trớn lớp vải áo bên ngoài vùng da nhạy cảm. Tay kia kéo tôi áp sát vào người hơn nữa. lúc lâu sau, Matthew nới vòng tay ra chút xíu đủ để có thể : “Giờ em là của rồi.” Môi tôi vẫn còn tê cóng chưa đáp lại được, nên tôi gật đầu và cứ giữ nguyên vòng tay xiết chặt sau lưng . nhìn tôi chăm chú. “Vẫn do dự chứ?” “.” “Chúng ta là rồi, kể từ giờ phút này trở . Em có hiểu vậy?” “Em hiểu.” Tôi hiểu, ít nhất là ai hay thứ gì có thể tách tôi khỏi Matthew được nữa. “ ấy hiểu đâu.” Tiếng Ysabeau rung lên ngay sân trong. Matthew cứng người lại, hai cánh tay vòng người tôi che chở. “Với nụ hôn đó hai người phá vỡ mọi điều luật ràng buộc thế giới của chúng ta lại với nhau và giữ cho chúng ta được an toàn. Matthew, con đánh dấu lên phù thủy đó với tư cách là người thuộc về con. Và Diana, hiến dâng dòng máu phù thủy của mình - sức mạnh của - cho ma cà rồng. quay lưng lại với đồng loại của mình và giao ước bản thân cho sinh vật là kẻ thù của .” “Đó là nụ hôn thôi mà,” tôi run run . “Đó là lời thề. Và bằng việc lập lời thề này với nhau, hai người là những kẻ phạm luật. Cầu Chúa cứu giúp cả hai.” “Vậy chúng con là những kẻ phạm luật,” Matthew khẽ . “Chúng con có nên , Ysabeau?” Tôi nghe thấy giọng của đứa trẻ bị tổn thương sau giọng của người đàn ông này. Thứ gì đó trong tôi rạn vỡ vì khiến phải lựa chọn giữa hai người phụ nữ. Mẹ sải bước về phía trước và tát thẳng vào mặt mạnh. “Sao con dám hỏi câu hỏi ấy?” Cả mẹ và con trai cùng bị sốc. Dấu tay thon thả của Ysabeau hằn má Matthew trong phần giây - đỏ, rồi xanh lam - trước khi mờ dần . “Con là đứa con trai ta thương nhất,” bà tiếp tục, giọng rắn như thép. “Và Diana giờ là con ta - ta cũng mang trách nhiệm như của các con. Cuộc chiến của các con là cuộc chiến của ta, kẻ thù của các con cũng là kẻ thù của ta.” “Mẹ cần phải che chở cho chúng con đâu, Maman.” Tiếng Matthew căng như dây cung. “ càn thế là đủ rồi. Các con sắp bị săn lùng đến tận cùng trái đất bởi tình các con chia sẻ. Chúng ta chiến đấu với tư cách gia đình.” Ysabeau quay sang tôi. “Còn con, con - con chiến đấu như con hứa. Con khinh suất, liều lĩnh - những kẻ dũng cảm thường là thế - nhưng ta thể đổ lỗi cho can đảm của con. Con cần con trai ta cũng nhiều như con cần khí để thở, và nó muốn con cũng như nó chưa từng mong muốn ai hay thứ gì kể từ khi ta tạo ra nó. Vậy là xong, chúng ta làm điều tốt nhất có thể.” Ngoài mong đợi, Ysabeau kéo tôi về phía bà và ép đôi môi lành lạnh của bà lên má phải rồi đến má trái của tôi. Tôi sống dưới mái nhà của người phụ nữ này mấy ngày qua, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được chào đón chính thức. Bà bình tĩnh nhìn Matthew và bày tỏ quan điểm của mình. “Việc đầu tiên bây giờ là Diana cần sống giống như phù thủy chứ phải giống con người thảm bại nào đó. Những người phụ nữ của gia đình de Clermont tự bảo vệ bản thân mình.” Matthew nhảy dựng lên. “Con bảo vệ an toàn cho ấy.” “Đấy chính là lý do vì sao con luôn thua khi chơi cờ đấy, Matthew.” Ysabeau chĩa thẳng ngón tay vào . “Giống như Diana, quân hậu gần như có sức mạnh vô hạn. Vậy mà con khăng khăng bao bọc ấy và để bản thân chịu thương tích. Đây phải trò chơi, và yếu đuối của ấy đặt tất cả chúng ta vào nguy hiểm.” “Hãy ở ngoài chuyện này , mẹ Ysabeau,” Matthew cảnh cáo. “ ai được ép buộc Diana phải trở thành thứ mà ấy muốn.” Ysabeau tặng cậu con trai điệu cười khẩy kiêu kỳ. “Chính xác. Chúng ta để Diana ép buộc bản thân là con người nữa, ấy phải như vậy. ấy là phù thủy. Và con là ma cà rồng. Nếu đây phải chúng ta vướng vào mớ lộn xộn thế này. Matthew, mon cher, nếu phủ thủy này có can đảm để ở bên con ấy chẳng có lý do gì phải sợ sức mạnh của mình cả.” “Mẹ đúng đấy, Matthew,” tôi . “ nào, chúng ta nên vào trong nhà.” Matthew vẫn nhìn mẹ với ánh mắt cảnh giác. “Em lạnh rồi, và chúng ta cần chuyện về Oxford. Rồi chúng ta sề giải quyết chủ đề về pháp thuật sau.” “Em cũng cần phải kể nghe vài chuyện xảy ra ở đây.” “Còn rất nhiều thời gian để em kể cho nghe mọi thứ,” Matthew , rồi dắt tôi về phía lâu đài. Marthe đợi sẵn bên ngưỡng cửa. Bà lão tặng cái ôm mãnh liệt như thể vừa trở về trong chiến thắng huy hoàng, và rồi sắp đặt ổn thỏa cho chúng tôi chỗ ngồi trước ánh lửa sáng chói trong phòng khách. Matthew chiếm vị trí bên cạnh tôi và quan sát tôi uống trà. Mỗi lúc lại đặt tay lên đầu gối tôi, hoặc vuốt lớp vải áo lên hai vai tôi, hoặc gạt lọn tóc về chỗ cũ, như thể cố gắng bù đắp cho vắng mặt ngắn ngủi của mình. Khi bớt căng thẳng, những câu hỏi bắt đầu. Bỏ qua cách mào đầu thông thường, đầu tiên tôi hỏi về chuyến bay như thế nào, rồi nhanh chóng chuyển sang chuyện về Oxford. “Marcus và Miriam có ở phòng thí nghiệm khi cuộc đột nhập xảy ra ?” Tôi hỏi. “Có,” đáp, nhấp ngụm rượu, “nhưng bọn trộm tiến xa được. Hai người bọn họ gặp nguy hiểm nào cả. “Tạ ơn Chúa,” Ysabeau thào, nhìn chăm chăm vào ngọn lửa. “Chúng tìm kiếm thứ gì?” “Thông tin. Về em,” miễn cưỡng trả lời. “Kẻ nào đó cũng đột nhập vào căn hộ của em ở New College.” Vẫn còn bí mật chưa được tiết lộ. “Fred thất kinh,” Matthew tiếp tục. “Ông ta cam đoan họ lắp đặt khóa cửa mới cho phòng em và lắp cả camera tại cầu thang của em nữa.” “Đó phải lỗi của Fred. Với những sinh viên mới, chỉ cần bước chân tự tin và có chiếc khăn quàng của trường đại học là được qua cổng. Nhưng chẳng có gì cho chúng lấy cả! Chẳng lẽ chúng lần theo các nghiên cứu của em?” Ý nghĩ ấy nghe kỳ cục. Ai có đủ quan tâm đến lịch sử thuật giả kim để sắp đặt cuộc đột nhập như thế chứ? “Các ghi chép nghiên cứu của em đều ở trong máy tính cả rồi.” Matthew siết tay tôi chặt hơn. “Nhưng phải chúng theo đuổi công trình của em đâu. Chúng lật tung phòng ngủ và phòng tắm của em lên. Bọn nghĩ chúng tìm kiếm mẫu DNA của em - tóc, da, và các mẩu móng tay bị cắt. Khi chúng thể đột nhập vào phòng thí nghiệm, chúng tới lục lọi trong nhà của em.” Tay tôi run run. Tôi cố gắng rút tay ra khỏi tay , vì muốn biết tin tức này tác động xấu đến tôi như thế nào. Matthew nắm chặt tay tôi. “Em độc trong chuyện này, nhớ ?” nhìn tôi đắm đuối. “Vậy đó phải là vụ đột nhập bình thường. Đó là sinh vật khác người, kẻ nào đó muốn biết về chúng ta và về Ashmole 782.” gật đầu. “Thế , bọn chúng tìm được gì đâu. phải trong nhà em.” Khi Matthew tỏ vẻ hiểu, tôi giải thích. “Ngày xưa mẹ em luôn bắt em phải vệ sinh bàn chải tóc trước khi đến trường vào mỗi buổi sáng. Đó là thói quen ăn sâu. Bà bắt em cho tóc vào bồn cầu và xả nước - cả móng tay của em nữa.” Bây giờ Matthew có vẻ sửng sốt, “Em có nhớ bà gì với em ?” hỏi. “ lắm.” Chỉ còn những hồi ức nhạt nhòa khi tôi ngồi thành bồn tắm trong khi mẹ làm các công việc quen thuộc theo lịch trình mỗi sáng và tối, nhưng nhiều lắm. Tôi nhíu mày tập trung, những kỷ niệm mơ hồ trở lên sáng tỏ hơn. “Em nhớ mình đếm đến hai mươi. Rồi ở chỗ nào đấy đường , em xoay tròn và điều gì đó...” “Mẹ em có thể nghĩ gì?” Matthew mơ màng lớn. “Tóc và móng tay mang rất nhiều thông tin di truyền.” “Ai mà biết chứ? Mẹ em nổi tiếng bởi khả năng thấy trước tương lai. Mà biết đâu bà suy nghĩ như người nhà Bishop - nhà em vốn toàn những người có đầu óc bình thường mà.” “Mẹ cháu điên đâu, Diana, và phải mọi chuyện đều có thể giải thích bằng khoa học đại, Matthew ạ. Từ nhiều thế kỷ nay, các phù thủy tin rằng tóc và móng tay có chứa sức mạnh,” Ysabeau lên tiếng. Marthe lầm bầm tán thành và đảo mắt chán ngán trước ấu trĩ của những người trẻ tuổi. “Phù thủy sử dụng chúng để nguyền rủa,” Ysabeau tiếp tục. “Những lời nguyền ràng buộc, tình dược - chúng đều phụ thuộc vào những món như thế.” “Bác bảo cháu bác phải là phù thủy mà, Ysabeau?” tôi kinh ngạc . “Ta biết rất nhiều phù thủy trong suốt những năm qua. ai trong số bọn họ để lại dù chỉ sợi tóc hay mẩu móng tay để rồi sợ rằng phù thủy khác tìm được chúng.” “Mẹ chưa bao giờ với cháu.” Mẹ tôi còn giấu tôi những bí mật gì nữa đây? “Đôi khi, đối với người mẹ, tiết lộ những bí mật cách từ từ là điều tốt nhất cho đứa con của họ.” Ysabeau liếc từ tôi sang cậu con trai. “ có biết ai đột nhập vào ?” tôi nhớ tới các khả năng Ysabeau nêu lên. “Ma cà rồng cố vào phòng thí nghiệm, nhưng bọn chắc về căn hộ của em. Marcus nghĩ đó là ma cà rồng và phù thủy cùng hợp tác, nhưng nghĩ chỉ có phù thủy thôi.” “Đây là lý do vì sao giận dữ đến thế? Bởi vi các sinh vật xâm phạm vào khu vực của em ư?” “Phải.” Lại là câu trả lời chỉ có tiết. Tôi chờ đợi phần còn lại của nó. “ có thể lờ kẻ xâm phạm vào đất đai hoặc phòng thí nghiệm của , Diana ạ, nhưng thể đứng yên khi có kẻ nào đó làm vậy với em. Nó như lời đe dọa, và đơn giản... là thể. Giữ cho em được an toàn chính là bản năng lức này đây.” Matthew luồn những ngón tay trắng muốt qua tóc, áp vào bên tai. “Vậy là chính vụ đột nhập ở New College thuyết phục quay về với em ư?” Tôi hỏi, dịu dàng vuốt tóc trở vào nếp. Đôi bàn tay Matthew nhanh như ánh chớp ôm lấy hai má tôi. “ cần khích lệ nào để ở bên cạnh em. Em rằng em kể từ khi cưỡng lại ý muốn đánh bằng cái mái chèo ở chỗ dòng sông.” Ánh mắt hoàn toàn tin tưởng. “Nhưng em còn lâu hơn thế - từ khoảnh khắc nhìn thấy em sử dụng phép thuật để lấy cuốn sách từ giá xuống tại Bodleian. Em trông vô cùng nhõm, và rồi lại vô cùng hối lỗi.” Ysabeau đứng lên, bà thấy thoải mái trước cái cách bày tỏ cảm xúc công khai của cậu con trai. “Chúng ta để hai người ở lại.” Marthe bắt đầu sột soạt chỗ cái bàn, chuẩn bị rời vào bếp, nơi bà lão kiểu gì cũng bắt tay vào làm bữa đại tiệc mười món. “, Maman. Mẹ nên nghe phần còn lại.” Ysabeau ngả người trở lại chiếc ghế bành. “Vẫn luôn có những oán thù giữa các sinh vật khác người - đặc biệt là ma cà rồng và phù thủy, nhưng Diana và con mang những căng thẳng đó ra ánh sáng công khai. Dù vậy, đó chỉ là cái cớ. Đại Hội Đồng chẳng bận tâm đến quyết định phá bỏ hiệp ước của chúng con đâu.” “Hãy thôi chuyện kiểu đánh đố , Matthew,” Ysabeau cộc cằn. “Ta hết kiên nhẫn rồi.” Matthew nhìn tôi vẻ buồn bã trước khi đáp lại. “Đại Hội Đồng chỉ quan tâm tới Ashmole 782 và bí liên quan đến việc Diana tìm ra nó như thế nào. Phù thủy để mắt tới cuốn cổ thư đó ít nhất là lâu bằng . Bọn họ ngờ rằng em lại là người giành được nó. ai tưởng tượng ra được lại là kẻ tiếp cận em đầu tiên.” Những nỗi sợ hãi xưa cũ lại len lỏi nổi lên, cho tôi biết có điều gì đó sai lầm sâu bên trong con người tôi. “Nếu vì lễ hội Mabon,” Matthew tiếp tục, “những phù thủy quyền năng hẳn có mặt ở Bodleian, những phù thủy biết tầm quan trọng của cuốn cổ thư ấy. Nhưng bọn họ bận rộn với lễ hội và lơi là cảnh giác. Họ giao nhiệm vụ đó cho phù thủy trẻ, và ta để em - và cuốn cổ thư - lọt ra khỏi tầm tay.” “Gillian tội nghiệp,” tôi thầm. Peter Knox chắc phải tức giận với ấy lắm. “Quả là thế.” Miệng Matthew mím chặt. “Nhưng Đại Hội Đồng cũng luôn để mắt tới em - phải vì cuốn sách kia, mà vì sức mạnh của em.” “Bao lâu rồi?” Tôi thể hết câu. “Có lẽ là cả đời em.” “Kể từ khi bố mẹ em mất...” Những ký ức bao giờ ngủ yên từ thời thơ ấu thấp thoáng quay trở lại trong tôi, ký ức về cảm giác râm ran nhoi nhói khi bị phù thủy nhìn chăm chú trong lúc chơi đu ở trường, hay cảm giác về cái nhìn lạnh buốt của ma cà rồng tại bữa tiệc sinh nhật người bạn. “Vậy là bọn họ theo dõi em kể từ khi bố mẹ em qua đời.” Ysabeau mở miệng toan , nhưng bà nhìn mặt con trai và suy nghĩ thêm. “Nếu bọn họ có em, bọn họ cũng có cuốn sách, hoặc là họ nghĩ vậy. Em kết nối với Ashmole 782 theo cách nào đó đầy quyền năng mà vẫn chưa hiểu được. Và có lẽ bọn họ cũng hiểu được vì sao.” “Thậm chí cả Peter Knox cũng ư?” “Marcus dò hỏi. Thằng bé rất giỏi dụ dỗ lấy thông tin từ người khác. Cho đến giờ chúng ta có thể Knox vẫn còn bối rối.” “Em muốn Marcus mạo hiểm vì em. Cậu ấy cần phải tránh xa chuyện này, Matthew.” “Marcus biết tự chăm lo cho mình.” “Em cũng có chuyện cần kể với . Nếu có thêm cơ hội cân nhắc, chắc tôi hoàn toàn mất tinh thần. Matthew cầm lấy cả hai tay tôi, cánh mũi khẽ phập phồng “Em mệt rồi,” , “và đói nữa. Có lẽ chúng mình nên đợi cho tới sau bữa trưa.” “ có thể ngửi thấy khi nào em đói à?” tôi nghi ngờ hỏi. “ công bằng.” Matthew ngửa đầu ra sau và cười phá lên. giữ hai cánh tay tôi và kéo chúng ra phía sau để chúng sải ra như hình dáng đôi cánh. “Câu này lại được thốt ra từ miệng phù thủy, là người mà nếu muốn có thể đọc được cả suy nghĩ của như thể chúng được viết ra băng giấy. Diana, em , biết khi nào em đổi ý. biết khi nào em nghĩ những ý nghĩ xấu, kiểu như nhảy qua hàng rào bãi đất vui biết chừng nào. Và gần như có thể nhận biết chính xác khi nào em đói,” , hôn tôi để giải thích ràng. “ về việc em là phù thủy,” tôi cất lời khi xong và hơi nín thở, “ còn nhớ chúng ta nhắc về nước phù thủy trong danh sách các năng lực di truyền của em .” “Gì cơ?” Matthew nhìn tôi lo lắng. “Chuyện đó xảy ra khi nào thế?” “Ngay khi phóng xe khỏi Sept-Tours. Em cho phép mình khóc trong lúc còn ở đây. Nhưng khi rồi, em khóc - rất nhiều.” “Em khóc,” đăm chiêu , kéo hai bàn tay tôi trở lại phía trước. lật ngửa chúng lên và xem xét tỉ mỉ lòng bàn tay cùng các ngón tay tôi, “rồi nước xuất từ bàn tay em ư?” “Nó tuôn ra từ khắp nơi.” Tôi . Cặp lông mày nhướng lên vẻ lo sợ. “Hai bàn tay em, tóc em, mắt em, hai chân em - thậm chí cả miệng em nữa. Như là chẳng còn chỗ nào chừa lại cho em nữa, hoặc nếu có em chẳng là gì khác ngoài nước và nước. Em nghĩ mình bao giờ còn được nếm bất cứ thứ gì khác ngoại trừ vị muốn mặn.” “Em ở mình à?” Giọng Matthew chuyển sang nôn nóng. “, , dĩ nhiên là ,” tôi vội vàng đáp. “Marthe và mẹ cũng ở đó. Chỉ là họ thể tới gần em thôi. Có rất nhiều nước, Matthew ạ. Cả gió nữa.” “Cái gì dừng nó lại?” hỏi. “Ysabeau.” Matthew quay sang nhìn mẹ lâu. “Bà hát cho em nghe.” Hai hàng mi nặng trĩu của chàng ma cà rồng hạ xuống, che khuất đôi mắt . “ có thời bà luôn ca hát. Cảm ơn, Maman.” Tôi chờ đợi vớỉ tôi rằng Ysabeau cũng từng hát cho nghe và rằng bà còn làm thế kể từ khi Philippe chết. Nhưng chẳng gì với tôi cả. Thay vào đó, bao bọc tôi trong cái ôm mãnh liệt, và tôi cố để tâm chuyện tin tưởng tôi hoàn toàn. Khi ngày còn chưa tàn, niềm vui được trở về nhà của Matthew dễ lan truyền sang người khác. Chúng tôi chuyển từ phòng ăn trưa lên phòng làm việc của . sàn nhà trước lò sưởi, phát ra hầu hết những chỗ tôi có máu buồn. Từ đầu đến cuối vẫn chẳng thể để tôi bước vào sau những bức tường mà xây dựng để ngăn cản các sinh vật khác tiếp cận các bí mật của . Chúng tôi dùng bữa tối yên bình với Ysabeau, người vẫn dõi theo cơn thức tỉnh từ ánh sáng nơi trái tim của Matthew. Nhưng bà quan sát tỉ mỉ, nét mặt đượm buồn. Cởi bỏ nỗi nuối tiếc của mình và khoác vào bộ đồ ngủ sau bữa tối, tôi lo lắng về cái ngăn kéo bàn và biết mùi hương của mình có còn vương lớp nhung lót các con dấu niêm phong hay . Tôi cứng cỏi lời chúc ngủ ngon trước khi Matthew rút lui ở mình trong phòng làm việc. Nhưng nhanh chóng xuất trở lại ngay sau đó trong cái quần ngủ kẻ sọc và chiếc áo phông đen bạc màu, hai bàn chân trần dài mảnh khảnh. “Em muốn nằm ở bên phải hay bên trái?” suồng sã hỏi, khoanh tay đứng đợi cạnh cây cột giường. Tôi phải là ma cà rồng, nhưng tôi có thể quay ngoắt lại đủ nhanh khi cần thiết. “Nếu em phiền, thích ở bên trái hơn,” trang trọng . “ yên tâm hơn hơn nếu được nằm chắn giữa em và cánh cửa.” “Em... em quan tâm đâu,” tôi lắp bắp. “Vậy nằm nhích vào .” Matthew cầm lấy cái chăn từ tay tôi và tôi làm theo lời bảo. chui vào dưới lớp chăn đằng sau tôi kèm theo tiếng rên khoan khoái. “Đây là cái giường dễ chịu nhất trong nhà đấy. Mẹ tin bọn cần bận tâm tới mấy thứ chăn đệm kể từ khi cả nhà dành rất ít thời gian ngủ nghê. Những cái giường của bà như lò luyện ngục ấy.” “ ngủ cùng với em à?” tôi hoảng hốt, cố gắng và thất bại trong việc giữ cho giọng mình được bình thản giống như . Matthew duỗi cánh tay phải ra và kéo tôi vào cho tới khi đầu tôi nằm gọn vai . “ nghĩ là mình có thể,” . “Dù thực tế chẳng ngủ đâu.” Nhích vào sát , tôi đặt lòng bàn tay lên trái tim để có thể biết mỗi lúc nó đập. “ làm gì?” “Ngắm em, dĩ nhiên là thế rồi.” Đôi mắt sáng ngời. “Và khi nào chán làm thế - nếu chán làm thế rồi,” hôn lên hai hàng mi tôi, “ đọc. Ánh nến có làm phiền em ?” “,” tôi trả lời. “Em là người ngủ ngáy đấy. có gì đánh thức được em đâu.” “ thích thử thách,” dịu dàng . “Nếu chán, tìm ra thứ gì đó đánh thức em dậy.” “ dễ chán thế cơ à?” Tôi trêu, với tay lên luồn vào mái tóc . “Em phải đợi và thấy,” cười ranh mãnh. Hai cánh tay mát lạnh và dễ chịu, cảm giác an toàn khi có diện của còn êm ái hơn bất kỳ bài hát ru nào. “Chuyện này có bao giờ ngừng lại ?” tôi khẽ hỏi. “Đại Hội Đồng à?” Giọng Matthew lo lắng. “ biết.” “.” Tôi nhấc đầu lên trong ngạc nhiên. “Em quan tâm đến chuyện ấy.” “Thế ý em là gì?” Tôi hôn lên cái miệng hơi trêu chọc của . “Cảm giác này khi em ở cùng - như là em sống trọn vẹn lần đầu tiên trong đời.” Matthew mỉm cười, biểu cảm ngọt ngào và ngượng ngùng chẳng giống chút nào. “ hy vọng thế đâu.” Thở phào mãn nguyện, tôi lại áp đầu lên lồng ngực và chìm vào giấc ngủ mộng mị.