Chương 17 Có mùi đinh hương mạnh mẽ ở trong miệng tôi, và tôi bị cuốn như xác ướp trong chiếc chăn lông vịt của mình. Khi tôi cựa mình trong cái kén ấy, chiếc giường cũ kỹ hơi lún xuống. “Suỵt.” Đôi môi Matthew kề sát bên tai tôi, thân mình tạo thành cái giá đỡ lấy lưng tôi. Chúng tôi nằm đó giống những cái thìa úp trong ngăn kéo, chặt sát vào nhau. “Mấy giờ rồi?” Giọng tôi khàn khàn. Matthew hơi nhích người ra xem đồng hồ đeo tay của . “Khoảng hơn giờ.” “Em ngủ bao lâu rồi?” “Từ khoảng sáu giờ tối qua.” Tối qua. Tâm trí tôi vỡ òa ra thành những lời và hình ảnh: cuốn cổ thư, lời đe dọa của Peter Knox, các ngón tay tôi biến thành màu xanh phát ra những tia lửa điện, bức ảnh của bố mẹ, bàn tay của mẹ tôi lạnh cứng lại trong cái với tay bao giờ tới. “ đưa cho em thuốc.” Tôi đẩy cái chăn lông vịt, cố để bàn tay mình được tự do. “Em thích dùng thuốc, Matthew ạ.” “Lần sau mà em lại bị sốc nữa, để em chịu đựng cách vô ích đấy.” giật mạnh tấm chăn cái làm nó bật tung ra, hiệu quả hơn tất cả nỗ lực vật lộn của tôi với nó. Giọng sắc gọn của Matthew xóc lên những mảnh vỡ ký ức, và các hình ảnh mới lại dâng lên bề mặt. Gương mặt cay nghiệt của Gillian Chamberlain cảnh cáo tôi về việc cất giữ những bí mật, và mảnh giấy ra lệnh cho tôi phải nhớ lại. Trong thoáng, tôi lại trở về hồi bảy tuổi, cố gắng để hiểu làm sao mà người bố và người mẹ tuyệt vời, đầy sức sống của tôi lại biến mất khỏi cuộc đời tôi. Trong căn phòng của mình, tôi với về phía Matthew, trong khi đôi mắt trong tâm trí tôi lại nhìn thấy cánh tay mẹ với về phía bố nằm ngang trong vòng phấn. Nỗi đau buồn từ thời thơ ấu vẫn còn rơi rớt lại, nó xung đột đồng cảm mới mẻ của tuổi trưởng thành dành cho nỗ lực tuyệt vọng của mẹ muốn chạm vào bố tôi. Tôi đột ngột vùng ra khỏi vòng tay Matthew, co hai đầu gối lên sát ngực trong tư thế quả bóng cuộn chặt, cố che chở bảo vệ mình. Matthew muốn giúp – tôi có thể thấy điều đó – nhưng chắc chắn về tôi, những cảm xúc xung đột trong tôi phủ bóng khuôn mặt . Giọng của Knox lại vang lên trong đầu tôi, đầy cay độc. Hãy nhớ mày là ai. “Nhớ ?” mẩu giấy hỏi. báo trước, tôi quay lại với chàng ma cà rồng, rút ngắn khoảng cách giữa tôi và trong vội vã. Bố mẹ tôi mất, nhưng Matthew ở đây. Rúc đầu vào dưới cằm , tôi lắng nghe tới mấy phút liền tiếng đập kế tiếp bơm máu khắp hệ tuần hoàn của . Nhịp điệu nhàn nhã từ trái tim ma cà rồng nhanh chóng đưa tôi vào giấc ngủ. Nhưng trái tim tôi bỗng đập dồn khi tôi tỉnh dậy lần nữa trong đêm tối, đạp tung cái chăn lông vịt bị nới lỏng và quờ quạng ngồi dậy. Phía sau tôi, Matthew bật đèn bàn, bóng của nó vẫn hắt góc bên cạnh giường. “Sao thế em?” hỏi. “Phép thuật tìm thấy em. Các phù thủy cũng vậy. Em bị giết vì phép thuật của mình, giống như bố mẹ em bị giết!”Những lời ào ạt tuôn ra từ miệng tôi, cơn hoảng sợ tăng tốc lướt qua, và tôi loạng choạng đôi chân của mình. “.” Matthew nhổm dậy và đứng chắn giữa tôi và cánh cửa. “Chúng ta đối mặt với chuyện này, Diana ạ, dù cho nó là gì nữa. Nếu em phải chạy trốn cả đời!” phần trong tôi biết rằng đúng. Phần còn lại muốn bỏ chạy vào bóng tối. Nhưng làm sao tôi có thể cùng với ma cà rồng đứng con đường đó chứ? Bầu khí bắt đầu khuấy động xung quanh tôi như cố đánh tan cảm xúc bị mắc bẫy. Những làn khói lạnh giá bốc lên từ mép hai ống quần tôi. khí luồn lên thân thể tôi thành làn gió , nâng mái tóc ôm quanh khuôn mặt tôi bay bồng bềnh. Matthew chửi thề và bước về phía tôi, cánh tay giơ ra phía trước. Cơn gió tăng lên thành những luồng gió mạnh làm xáo trộn cả dra gường và rèm cửa. “Ổn cả rồi.” Giọng cố tình trầm xuống để nghe cho giữa cơn gió lộng và cùng lúc để làm tôi bình tĩnh lại. Nhưng điều đó vẫn đủ. Sức gió tiếp tục mạnh lên, và hai cánh tay tôi cũng đưa lên, nhào nặn khí thành cột xoáy dựng đứng bảo vệ quanh tôi giống như tấm chăn lông. Ở phía bên kia của cột khí, Matthew vẫn đứng đó, bàn tay mở rộng, mắt gắn chặt vào ánh mắt tôi. Khi tôi mở miệng để cảnh cáo hãy tránh xa, chẳng có thanh nào được thốt ra ngoài làn khí giá lạnh. “Ổn cả rồi,” lại , làm gián đoạn ánh nhìn chăm chú. “ đâu.” Cho tới khi những lời ấy, tôi bừng tỉnh. “ hứa đấy,” kiên quyết . Cơn lốc xoáy bao vây quanh tôi dao động và trở lại thành gió xoáy, sau đó là cơn gió , rồi hoàn toàn biến mất. Tôi thở hổn hển và khuỵu gối. “Chuyện gì xảy ra với em thế?” Hàng ngày tôi chạy, chèo thuyền và tập yoga, cơ thể tôi làm theo những gì tôi bảo nó. Còn bây giờ nó làm những điều tưởng. Tôi nhìn xuống để chắc chắn hai bàn tay mình phải lấp lánh ánh điện và bàn chân mình phải vẫn bị những cơn gió quất vào. “Đó là cơn gió phù thủy,” Matthew giải thích, vẫn nhúc nhích. “Em có biết đó là gì ?” Tôi nghe tới phù thủy ở Albany có thể triệu hồi những cơn bão, nhưng ai từng gọi nó là cơn gió phù thủy cả. “Em lắm,” tôi thú nhận, vẫn liếc trộm xuống bàn tay và bàn chân mình. “ vài phù thủy được thừa hưởng năng lực điều khiểncác thành tố của khí. Em là trong số đó,” . “Cái đó phải là điều khiển.” “Đây là lần đầu tiên của em.” Matthew thẳng vào vấn đề. phác tay bao quát cả căn phòng ngủ : những tấm rèm và dra giường còn nguyên vẹn, tất cả quần áo rải rác chiếc tủ com mốt và sàn nhà đều ở chính xác vị trí chúng bị bỏ lại sáng hôm trước. “Cả hai chúng ta vẫn đứng đây, và căn phòng trông chẳng có vẻ gì như có cơn lốc xoáy vừa qua cả. Vào lúc này, đó là kiểm soát.” “Nhưng em cầu nó. Có phải những chuyện này chỉ xảy đến với các phù thủy – lửa điện và gió – khi họ triệu hồi?” Tôi gạt tóc ra khỏi mắt, chuếnh choáng và kiệt sức. Quá nhiều điều xảy đến trong hai mươi tư giờ qua. Thân mình Matthew lao nghiêng về phía tôi như để kịp đỡ nếu tôi có ngã. “Ngày nay những cơn gió phù thủy và ngón tay màu xanh rất hiếm. Phép thuật ở bên trong em, Diana ạ, và nó muốn thoát ra ngoài cho dù em có cầu nó hay .” “Em cảm thấy như bị sập bẫy.” “Tối qua nên dồn em vào thế bí.” Matthew trông có vẻ xấu hổ. “Đôi khi biết phải làm gì với em nữa. Em giống như cỗ máy chuyển động ngừng. Tất cả những gì muốn ở em là cứ đứng như thế trong lúc và lắng nghe thôi.” Phải đương đầu với nhu cầu di chuyển ngừng của mình thậm chí còn khó khăn hơn nếu bạn là ma cà rồng hiếm khi có nhu cầu hít thở. lần nữa khoảng cách giữa Matthew và tôi lại đột nhiên quá rộng. Tôi bắt đầu đứng dậy. “ được tha thứ chứ?” chân thành hỏi. Tôi gật đầu. “ có thể?” hỏi, ra hiệu về phía hai bàn chân tôi. Tôi lại gật đầu. tiến ba bước nhanh đúng lúc đỡ tôi đứng lên. Cả người tôi nghiêng vào như buổi tối đầu tiên tôi gặp trong thư viện Bodleian, đứng với dáng vẻ quý tộc bình thản trong phòng đọc Công tước Humfrey. Nhưng lần này tôi lùi lại nhanh nữa. Thay vì thế tôi tự nguyện tựa hẳn vào , làn da mát lạnh dễ chịu chứ còn khủng khiếp và lạnh ngắt. Chúng tôi đứng im như thế lúc lâu, giữ chặt lấy nhau. Trái tim tôi bình lặng, và hai cánh tay vẫn thả lỏng mặc dù hơi thở run rẩy của cho biết điều này dễ dàng gì. “Em cũng xin lỗi.” Người tôi mềm mại nép vào , chiếc áo len của cào vào má tôi. “Em cố gắng giữ năng lượng của mình trong tầm kiểm soát.” “Chẳng có gì phải xin lỗi cả. Và em nên cố gắng quá để trở thành điều gì đó phải là em. Em có muốn uống trà nếu pha cho em?” hỏi, đôi môi lướt đỉnh đầu tôi. Bên ngoài, đêm tối vẫn mịt mùng. “Bây giờ là mấy giờ rồi nhỉ?” Bàn tay Matthew xoay ra giữa hai xương bả vai của tôi để có thể nhìn được mặt đồng hồ. “Mới hơn ba giờ.” Tôi rên rỉ. “Em mệt quá, nhưng trà nghe có vẻ tuyệt đấy.” “Thế pha.” dịu dàng nới hai cánh tay tôi ôm quanh eo lưng . “ quay lại ngay thôi.” muốn để rời khỏi tầm mắt, tôi thơ thẩn theo. lục qua mấy cái hộp và túi có để sẵn toàn là trà. “Em bảo là em thích trà mà,” tôi vẻ hối lỗi khi tìm được cái túi màu nâu khác trong tủ chén, nhét sau cái cái máy pha cà phê mà tôi hiếm khi dùng. “Em có lựa chọn ưu tiên nào ?” ra hiệu về cái giá chật ních. “Loại trong cái túi màu đen có nhãn vàng ấy.” Trà xanh dường như là lựa chọn dễ chịu nhất lúc này. bận rộn với cái ấm đun nước và bình trà. Rồi rót nước sôi lên những lá trà thơm ngát và đẩy cái tách cũ bị sứt về phía tôi khi trà ngấm. Mùi hương trà xanh, va ni và quýt rất khác biệt so với Matthew, tuy thế vẫn dễ chịu. cũng rót cho mình tách, hai cánh mũi phập phồng vẻ đánh giá. “ là mùi hương cũng quá tệ,” công nhận, rồi nhấp ngụm . Đấy là lần duy nhất tôi thấy uống thứ gì đó khác ngoài rượu vang. “Chúng mình ngồi đâu đây?” Tôi hỏi, ấp tách trà ấm trong hai bàn tay mình. Matthew nghiêng đầu về phía phòng khách. “Trong đó. Chúng ta cần chuyện.” ngồi vào góc chiếc sofa củ kỹ thoải mái, còn tôi tự sắp xếp cho mình ở góc đối diện. Khói từ tách trà tỏa lên quanh mặt tôi, gợi nhớ nhàng đến cơn gió phù thủy. “ cần phải hiểu tại sao Knox lại nghĩ là em phá được bùa chú cuốn Ashmole 782,” Matthew khi chúng tôi ổn định chỗ ngồi. Tôi thuật lại cuộc chuyện trong căn hộ của ông hiệu trưởng. “ rằng các bùa chú đó trở nên bất ổn vào thời điểm kỷ niệm ngày nó bị yểm bùa. Các phù thủy khác – những người biết về pháp thuật – cũng cố thử phá vỡ nó, nhưng họ đều thất bại. nghĩ em chỉ là chó ngáp phải ruồi thôi.” “ phù thủy tài năng giới hạn cuốn Ashmole 782, và nghi bùa chú này gần như thể hóa giải được. Trước đây có người nào cố gắng lấy nó mà đáp ứng được điều kiện của nó cả, cho dù họ có biết được nhiều phép thuật phù thủy đến mấy hay cố gắng bao nhiêu năm nữa.” nhìn đăm đắm vào lòng tách trà của mình. “Em làm được. Câu hỏi là làm thế nào và tại sao.” “Cái ý tưởng em có thể đáp ứng đầy đủ điều kiện của phép yểm bùa trước khi em được sinh ra còn khó tin hơn cả việc nó chỉ là sựsai lệch định kỳ. Và nếu em lần đáp ứng được các điều kiện của nó, tại sao lại được lần nữa?” Matthew mở miệng định , tôi lắc đầu. “, phải tại .” “Knox biết phép phù thủy, và các bùa chú rất phức tạp. Hay thỉnh thoảng có thể thời gian kéo chúng ra khỏi bóng tối?” tỏ vẻ bị thuyết phục. “Em ước mình có thể thấy được sơ đồ của tất cả những chuyện này.” Cái bàn màu trắng của tôi ra trong tầm mắt, với những mảnh ghép nằm đó. Dù tôi di chuyển mấy mảnh ghép – Knox, cuốn cổ thư, bố mẹ tôi – nhưng chúng vẫn từ chối chịu hợp thành bức hình. Giọng của Matthew phá ngang cơn mơ màng của tôi. “Diana?” “Dạ?” “Em làm gì thế?” “ có gì,” tôi đáp, quá nhanh. “Em sử dụng phép thuật,” , đặt tách trà của mình xuống. “ có thể ngửi thấy nó. Nhìn thấy nữa. Em tỏa sáng lờ mờ đấy.” “Em vẫn thường làm thế khi thể giải được câu đố - giống như lúc này.” Đầu tôi cúi xuống để che giấu vẻ khó khăn khi phải về chuyện này. “Em thấy cái bàn trắng và hình dung ra tất cả các mảnh ghép khác nhau. Chúng có hình dáng và màu sắc, chúng di chuyển vòng quanh cho tới khi tạo thành sơ đồ. Khi sơ đồ ấy hình thành, chúng ngừng chuyển động để chỉ ra em lần theo dấu vết đúng.” Matthew đợi lúc lâu rồi mới đáp. “Em có thường chơi trò này ?” “Thường xuyên,” tôi miễn cưỡng trả lời. “Trong lúc ở Scotland, em nhận ra nó hàm chứa nhiều phép thuật hơn em nghĩ, giống như biết có người nhìn mình mà chẳng cần quay đầu lại vậy.” “Có sơ đồ, em biết đấy,” . “Em sử dụng phép thuậtkhi em suy nghĩ.” “Ý là gì?” Những mảnh ghép bắt đầu nhảy nhót cái bàn trắng. “Khi di chuyển, em suy nghĩ gì, ít nhất là dùng đến phần lý trí của não bộ. Khi em bơi thuyền, chạy, hoặc tập yoga, em hoàn toàn ở nơi khác. Tâm trí em tiếp tục kìm giữ năng lực nữa, chúng tràn ra.” “Nhưng lúc trước em suy nghĩ đấy thôi,” tôi , “mà rốt cuộc cơn gió phù thủy vẫn đến?” “À, nhưng khi đó em cảm thấy xúc cảm mạnh mẽ,” giải thích, nhoài người tới trước chống hai khuỷu tay lên đầu gối. “Điều đó luôn kiềm giữ năng lực trí tuệ đấy. Khi các ngón tay em biến thành màu xanh da trời lúc ở với Miriam rồi sau đó là với cũng thế. Cái bàn màu trắng này của em là ngoại lệ của luật chơi thông thường.” “Tâm trạng và vận động là đủ để gây ra những mãnh lực này ư? Ai lại muốn là phù thủy nếu chỉ cần điều đơn giản cũng có thể khiến cho tất cả tanh bành hết?” “Rất nhiều người đấy, có thể tưởng tượng được.” Matthew nhìn nhanh ra hướng khác. “ muốn xin em làm vài điều vì ,” . Chiếc sofa kêu cọt kẹt khi quay lại đối diện với tôi lần nữa. “Và muốn em suy nghĩ về điều đó trước khi trả lời. Em đồng ý chứ?” “Dĩ nhiên rồi.” Tôi gật đầu. “ muốn đưa em về nhà.” “Em về Mỹ đâu!” Matthew lắc đầu. “ phải nhà của em. Nhà của cơ. Em cần phải rời khỏi Oxford.” “Em bảo là em tới Woodstock mà.” “Chòi Gác Cổ chỉ là ngôi nhà của , Diana ạ,” Matthew kiên nhẫn giải thích. “ muốn đưa em tới quê hương – tới Pháp cơ.” “Pháp ư?” Tôi gạt tóc ra khỏi mặt để nhìn hơn. “Các phù thủy vẫn tiếp tục muốn lấy Ashmole 782 và giữ riêng nó. Giả thuyết của họ là em hóa giải được bùa chú và xuất chúng của gia đình em là tất cả những gì giữ cho họ chưa dám động thủ. Khi Knox và các phù thủy khác phát ra em hề dùng phép thuật phù thủy để giành lấy cuốn cổ thư mà chính bùa chú tự mở ra cho em, bọn họ muốn biết làm thế nào và tại sao lại thế.” Hai mắt tôi nhắm lại trước hình ảnh đau nhói, đột ngột về bố và mẹ. “Và bọn họ cầu tử tế đâu.” “Có lẽ là .” Matthew hít hơi sâu, và mạch máu nơi trán giật giật. “ thấy bức hình ấy, Diana ạ. muốn em tránh xa Peter Knox và cái thư viện này. muốn em ở dưới mái nhà của trong thời gian.” “Gillian đó là các phù thủy.” Khi ánh mắt tôi gặp mắt , tôi bỗng giật mình ngạc nhiên vì đôi đồng tử xíu. Thường chúng màu đen và rất lớn, nhưng tối nay có điều gì đó khác lạ ở Matthew. Làn da của ít giống bóng ma hơn, và đôi môi bình thường tái nhợt cũng hơi có chút sắc màu. “Có đúng như thế ?” “ thể biết chắc chắn, Diana ạ. Người Hausa Nigeria tin rằng nguồn gốc sức mạnh của phù thủy chứa đựng trong những viên đá ở dạ dày. Kẻ nào đó tìm kiếm chúng trong người bố em,” vẻ hối tiếc. “ phù thủy khác có lẽ là khả năng cao nhất.” tiếng cách khẽ, và đèn chiếc máy trả lời tự động bắt đầu nhấp nháy. Tôi rên rỉ. “Đó là lần thứ năm các bà dì của em gọi đấy,” Matthew nhận xét. Dù cho lượng có vặn đến mức nào, ma cà rồng vẫn có thể nghe thấy được lời nhắn. Tôi bước tới cái bàn bên cạnh và nhấc ống lên. “Con đây, con đây,” tôi bắt đầu, át cái giọng đầy khích động của dì. “Chúng ta nghĩ là con chết rồi đấy,” dì Sarah . Ý thức về việc dì và tôi là những người nhà Bishop cuối cùng đập vào tôi cách mạnh mẽ. Tôi có thể hình dung dì ngồi trong bếp, điện thoại kề bên tai và mái tóc hoang dã ôm quanh gương mặt. Dì già dần, và bất chấp tính ương bướng cố hữu của dì, thực là tôi ở xa nhà và gặp nguy hiểm làm dì choáng váng. “Con chưa chết. Con ở trong căn hộ của mình và Matthew ở cùng con.” Tôi mỉm cười yếu ớt với . Nhưng cười đáp lại. “Chuyện gì xảy ra thế?” Em hỏi từ cái máy điện thoại phụ. Sau khi bố mẹ tôi qua đời, mái tóc của Em chuyển thành màu bạc chỉ trong vòng vài tháng. Lúc ấy vẫn còn là phụ nữ trẻ - chưa đến ba mươi - nhưng từ đó dường như Em luôn có vẻ mong manh hơn, như thể có thể bị cơn gió thổi bay mất. Giống như dì tôi, ràng rất lo lắng trước những gì xảy ra ở Oxford mà giác quan thứ sáu mách bảo . “Con cố thử gọi lại cuốn cổ thư, đó là tất cả,” tôi hời hợt , cố gắng làm họ lo lắng hơn nữa. Matthew nhìn tôi chằm chằm vẻ tán thành, tôi liền quay . Nhưng vô ích, cái nhìn chăm chăm của vẫn khoan vào bờ vai tôi. “Nhưng lần này nó ra khỏi kho sách thư viện.” “Con nghĩ chúng ta gọi điện là vì cuốn sách đó à?” dì Sarah hỏi. Những ngón tay dài lạnh giá túm lấy máy điện thoại và kéo nó ra khỏi tai tôi. “ Bishop, tôi là Matthew Clairmont,” quả quyết . Khi tôi với tới để lấy lại ống nghe; Matthew liền tóm lấy cổ tay tôi và lắc đầu, lần, vẻ cảnh cáo. “Diana bị đe dọa. Bởi những phù thủy khác. trong bọn họ là Peter Knox.” cần phải là ma cà rồng mới có thể nghe thấy cơn bùng nổ ở đầu dây bên kia. Matthew thả cổ tay tôi ra và đưa điện thoại cho tôi. “Peter Knox!” dì Sarah kêu toáng lên. Mắt Matthew nhắm lại như thể thanh ấy làm đau cả màng nhĩ của . “ ta lảng vảng ở đó bao lâu rồi?” “Ngay từ đầu,” tôi , giọng do dự. “ chính là lão pháp sư mặc bộ đồ màu nâu, kẻ cố tìm đường chui vào đầu con.” “Con để tiến quá xa chứ, phải ?” Dì Sarah thốt lên kinh hoàng. “Con làm những gì có thể, dì Sarah ạ. Con biết chính xác mình làm gì nữa, có lẽ là chút tài phép.” Em xen vào. “Con , rất nhiều người trong chúng ta gặp rắc rối với Peter Knox. Quan trọng hơn cả là bố con tin – chút nào.” “Bố con ạ?” Sàn nhà chao nghiêng dưới chân tôi, và cánh tay của Matthew ngay lập tức ôm vòng lấy eo tôi, giữ cho tôi đứng vững. Tôi dụi mắt nhưng thể loại bỏ được hình ảnh cái đầu méo mó và thân mình bị rạch của bố khỏi tâm trí mình. “Diana, có chuyện gì khác xảy ra à?” dì Sarah nhàng hỏi. “Peter Knox hẳn dọa cho con sợ mất dép, nhưng còn nhiều chuyện quá đáng hơn thế, đúng ?” Bàn tay kia của tôi chộp lấy cánh tay của Matthew. “Có ai đó gửi cho con bức hình của mẹ và bố.” Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia. “Ôi, Diana,” Em thào. “Bức hình đó ư?” dì Sarah hỏi dứt khoát. “Vâng,” tôi thầm đáp. Dì Sarah chửi thề. “Đưa máy lại cho ta .” “ ấy hoàn toàn có thể nghe thấy dì từ chỗ đứng,” tôi nhấn mạnh. “Hơn nữa, bất cứ điều gì dì cần với ấy cũng có thể với con.” Bàn tay Matthew dịch chuyển từ eo tôi nhích ra lưng chút. bắt đầu day day nó bằng cạnh bàn tay, ấn vào những chỗ cơ căng cứng của tôi cho tới khi chúng bắt đầu thư giãn ra. “Thế cả hai hãy nghe dì đây. Hãy tránh xa, xa Peter Knox ra. Và chàng ma cà rồng đó tốt hơn hết nên trông chừng con làm thế, hoặc dì bắt ta chịu trách nhiệm. Stephen Proctor là người đàn ông dễ tính nhất đời. Phải quá đáng lắm mới khiến được ông ấy thích ai đó – vậy mà ông ấy ghét cay ghét đắng gã pháp sư đó. Diana ạ, con phải về nhà ngay lập tức.” “Con về đâu, dì Sarah! Con tới Pháp với Matthew.” Ý tưởng kém phần hấp dẫn của dì Sarah thuyết phục được tôi nghe theo lời Matthew. Im lặng. “Pháp ư?” Em thều thào . Matthew đưa tay ra. “Matthew muốn chuyện với .” Tôi đưa điện thoại cho trước khi dì Sarah có thể phản đối. “ Bishop? có chương trình quản lý cuộc gọi ?” Tôi khịt mũi. Cái máy điện thoại màu nâu treo trong tường bếp ở Madison có ổ đĩa quay số và có dây nối dài cả dặm để dì Sarah có thể loanh quanh trong nhà khi chuyện. Nó mãi mãi chỉ đơn giản quay gọi được những số điện thoại trong vùng thôi. Chương trình quản lý cuộc gọi ư? Làm sao mà có được chứ! “ ư? Vậy hãy ghi lại những số máy này.” Matthew chậm rãi đọc số máy cầm tay của và số khác nữa đoán chừng là số máy của ngôi nhà kia, kèm theo những hướng dẫn chi tiết về việc quay mã vùng quốc tế. “Xin cứ gọi bất cứ lúc nào.” Thế rồi hình như dì Sarah điều gì đó châm chích, vì tôi thấy Matthew thoáng giật mình. “Tôi đảm bảo ấy được an toàn.” đưa máy cho tôi. “Con cúp máy đây. Con cả hai người. Đừng lo lắng gì nhé.” “Đừng có bảo chúng ta lo lắng nữa !” Dì Sarah gắt mắng. “Con là con của chúng ta. Chúng ta hạnh phúc vì có con; nhưng cũng lo lắng cho con rất nhiều, Diana ạ, và chúng ta luôn luôn như thế đấy.” Tôi thở dài. “Con có thể làm gì để thuyết phục các dì tin là con vẫn ổn nhỉ?” “Trước hết là nhấc máy điện thoại thường xuyên hơn,” dì dứt khoát. Khi chúng tôi chào tạm biệt nhau xong, tôi đứng cạnh Matthew, muốn nhìn vào mắt . “Tất cả chuyện này là lỗi của em như dì Sarah đấy. Em luôn hành xử như con người vô năng.” quay và bước tới phía cuối chiếc sofa, cách xa khỏi tôi để thu mình vào gian rồi thả lún mình vào đống nệm. “Cuộc mặc cả mà em ngã giá với phép thuật và chỗ đứng của nó trong cuộc đời em diễn ra từ khi em còn là đứa trẻ đơn, sợ hãi. Bây giờ, mỗi lúc em tiến bước, nó là những khớp nối tới tương lai quyết định xem em có đặt bàn chân mình xuống đúng chỗ hay .” Matthew bỗng giật mình khi tôi ngồi xuống cạnh và lặng lẽ nắm lấy tay , cưỡng lại thôi thúc muốn với rằng rồi mọi chuyện ổn cả thôi. “Ở Pháp có lẽ em được là chính mình trong vài ngày đấy – cần cố gắng, phải lo lắng về việc mắc lỗi,” tiếp tục. “Em có thể nghỉ ngơi nữa – mặc dù chưa bao giờ thấy em ngừng hoạt động đủ lâu cả. Em thậm chí còn cử động cả trong giấc ngủ nữa, em biết rồi còn gì.” “Em có thời gian nghỉ ngơi, Matthew ạ.” Tôi có những ý nghĩ thứ hai về việc rời khỏi Oxford. “Hội thảo về giả kim thuật còn chưa đầy sáu tuần nữa. Họ hy vọng em có bài thuyết trình mở đầu. Em chỉ mới vừa bắt đầu thôi, và nếu truy cập ở Bodleian em chẳng có cơ hội để hoàn thành nó đúng hạn mất.” Mắt Matthew nheo lại tỏ vẻ suy đoán. “ đoán rằng bài thuyết trình của em là về những bức minh họa của thuật giả kim đúng ? “Vâng, về những hình ảnh biểu tượng truyền thống ở .” “Thế có lẽ em có hứng thú xem bản in từ thế kỷ mười bốn cuốn Aurora Consurgens của rồi. Nó là tiếng Pháp, đáng tiếc.” Hai mắt tôi mở lớn. Aurora Consurgens là cuốn sách bàn về những thế lực đối lập trong chuyển hóa của thuật giả kim – bạc và vàng, giống cái và giống đực, bóng tối và ánh sáng. Những bức minh họa của nó khá là phức tạp và hóc búa. “Bản in sớm nhất của cuốn Aurora được biết đến là từ những năm 1420 mà?” “Của từ năm 1356.” “Nhưng cuốn sách cổ từ thời ấy được vẽ tranh minh họa,” tôi lưu ý. Việc tìm thấy cuốn sách về thuật giả kim được vẽ minh họa từ trước năm 1400 là thể - cũng ngang với việc phát ra chiếc Model-T Ford đỗ chiến trường ở Gettysburg vậy. “Cuốn này có.” “Nó có 38 hình đúng ?” “. Nó có 40.” cười. “Có vẻ như các sử gia trước đây nhầm lẫn vài chi tiết.” Các phát trong lĩnh vực này rất hiếm. Đạt được bước tiến đầu tiên với bản in có minh họa của Aurora Consurgens từ thế kỷ XIV đưa đến cơ hội để đời cho sử gia về thuật giả kim. “Những bức minh họa thêm ra ấy miêu tả cái gì thế ạ? Cả phần chữ viết nữa?” “Em phải tới Pháp để khám phá.” “Thế chúng mình thôi,” tôi lập tức . Sau mấy tuần chán nản thất vọng, việc viết phần chủ đạo trong bài thuyết trình của tôi đột nhiên trở nên khả thi. “Em vì an toàn của chính mình, nhưng nếu có cuốn cổ thư dính líu vào được ư?” lắc đầu vẻ rầu rĩ. “Quá nhiều lý tính.” “Em chưa bao giờ được biết đến là người lý tính đâu nhé,” tôi thú nhận. “Khi nào chúng ta ?” “ giờ nữa nhé?” “ giờ?” Đây phải là quyết định chóng vánh. ấy lên kế hoạch từ lúc tôi say ngủ tối qua. Mathew gật đầu. “Có chiếc máy bay đợi ở đường băng do lính quân già người Mỹ lái. Em cần bao lâu để thu gom đồ đạc của mình?” “Còn tùy thuộc vào những thứ em cần mang theo mình,” tôi đáp, đầu óc choáng váng. “ cần nhiều đâu. Chúng ta đến nơi nào khác cả. Hãy đóng hành lý quần áo ấm, và tưởng tượng được em mà có đôi giày chạy của mình. chỉ có hai chúng ta thôi, cùng với mẹ và quản gia của bà.” Mẹ của ấy! “Matthew,” tôi thều thào , “em biết là có người mẹ.” “Ai cũng có bà mẹ, Diana ạ,” , đôi mắt xám trong sáng quay về phía tôi. “ có hai người mẹ. Người phụ nữ sinh ra và Ysabeau - người phụ nữ tái sinh thành ma cà rồng.” Matthew là chuyện. Còn ngôi nhà đầy những ma cà rồng xa lạ lại là chuyện khác. Ý thức thận trọng trước việc tiến tới bước nguy hiểm như thế gạt ít nhiều niềm háo hức được thấy cuốn cổ thư kia. Vẻ do dự ngập ngừng của tôi chắc hẳn biểu lộ ra ngoài. “ suy nghĩ đến,” , giọng nhuốm vẻ tổn thương đau đớn. “Dĩ nhiên em chẳng có lý do gì để tin tưởng Ysabeau cả. Nhưng bà cam đoan với rằng em được an toàn ở bên bà và Marthe.” “Nếu tin tưởng họ, em cũng tin.” Trước ngạc nhiên của bản thân, tôi vậy, dù trong lòng vẫn lo lắng ỉ rằng phải hỏi họ liệu họ có định lấy miếng ở cổ tôi hay . “Cảm ơn em,” Matthew giản dị đáp. Ánh mắt lang thang xuống miệng tôi, và máu trong tôi râm ran đáp lại. “Em đóng gói hành lý , rửa chén tách và gọi vài cuộc điện thoại.” Khi tôi ngang qua ở phía cuối chiếc sofa, nắm lấy bàn tay tôi. lần nữa, cơn sốc do làn da lạnh giá của lại vấp phải kháng cự bởi hơi ấm đáp trả từ phía tôi. “Em làm những điều đúng đắn đấy,” thầm trước khi thả tôi ra. Hôm ấy hình như là ngày phải giặt đồ, phòng ngủ của tôi xếp đầy quần áo bẩn. Lục lọi mãi tủ quần áo tôi mới gom được vài chiếc quần đen gần giống nhau còn sạch, vài chiếc quần legging, và nửa tá áo phông dài có cổ lọ. chiếc túi vải buộc dây dùng cắm trại của Đại học Yale nổi bật ở nóc tủ, tôi bèn nhảy lên tóm lấy quai túi bằng tay. Tất cả quần áo đều tìm đường chạy vào chiếc túi cũ màu xanh trắng ấy, cả mấy cái áo len và áo lông cừu chui cổ. Tôi cũng ném luôn vào đấy nào giầy thể thao, nào tất, đồ lót và vài bộ đồ tập yoga cũ. Tôi chẳng có bộ pyjama nào tươm tất ra hồn để mặc ngủ cả. Nhớ đến bà mẹ người Pháp của Matthew, tôi bèn thả vào chiếc sơ mi chỉn chu và cái quần âu. Giọng trầm trầm của Matthew loáng thoáng từ phía hành lang cửa ra vào. Đầu tiên chuyện với Fred, rồi đến Marcus, và sauđó là với công ty xe taxi. Khoác túi vai, tôi lật đật vào phòng tắm. Bàn chải đánh răng, xà bông, dầu gội đầu và bàn chải tóc – tất cả đều được tống vào trong túi, cùng với chiếc máy sấy tóc và tuýp mascara. Tôi hiếm khi dùng mấy thứ ấy, nhưng trong trường hợp này chút trợ giúp của mỹ phẩm cũng là ý hay. Khi xong xuôi, tôi quay trở lại với Matthew ở phòng khách. lướt qua các tin nhắn di dộng của mình, chiếc túi đựng máy tính của tôi ở cạnh chân . “Chỉ thế thôi à?” hỏi, mắt nhìn chiếc túi buộc dây với vẻ kinh ngạc. “ chả bảo là em cần nhiều thứ mà?” “Đúng thế, nhưng quen với việc phụ nữ nghe theo lời mình khi liên quan tới hành lý. Khi Miriam xa cuối tuần, ta đóng gói hành lý đủ trang bị cho cả đạo quân tình nguyện, còn mẹ đòi hỏi phải có cơ số thùng xe hơi. Louisa qua đường với cái thứ em mang đâu, chứ chưa đến việc rời khỏi đất nước.” “Cùng với việc phải là người lý tính, em còn phải là người cầu kỳ nữa cơ.” Matthew gật đầu vẻ tán dương. “Em có hộ chiếu chứ?” Tôi chỉ tay. “Nó ở trong túi máy tính của em.” “Thế chúng ta có thể rồi,” Matthew , mắt quét qua căn hộ lần cuối cùng. “Bức ảnh ấy đâu rồi?” Có vẻ là sai lầm nếu cứ bỏ lại nó như thế. “Marcus giữ nó rồi,” đáp nhanh. “Marcus ở đây khi nào thế?” tôi cau mày hỏi. “Trong lúc em ngủ. Em có muốn lấy nó lại cho em ?” Ngón tay đặt hờ phím của chiếc di động. “.” Tôi lắc đầu. Chẳng có lý do nào để tôi nhìn lại thứ kinh khủng ấy lần nữa cả. Matthew xách mấy chiếc túi của tôi và tìm cách đưa tôi xuống cầu thang mà sơ sẩy gì. chiếc taxi đợi sẵn bên ngoài cổng trường. Matthew dừng lại để trao đổi chớp nhoáng với Fred. Chàng ma cà rồng đưa cho người gác cổng tấm danh thiếp, rồi hai người đàn ông bắt tay nhau. Vài trao đổi được thông qua, nhưng tôi chẳng bao giờ biết được các chi tiết cụ thể của nó. Matthew nhét tôi vào chiếc taxi, và chúng tôi lên đường, bỏ lại những ánh đèn của Oxford ở phía sau. “Tại sao chúng mình lấy xe của ?” Tôi hỏi khi chúng tôi ra vùng ngoại ô. “Thế này tốt hơn,” giải thích. “Sau này cần phải nhờ Marcus mang xe về.” Đà lắc lư của chiếc taxi ru tôi vào giấc ngủ. Dựa vào vai Matthew, tôi lơ mơ ngủ. Ở sân bay, chúng tôi cất cánh ngay sau khi được kiểm tra hộ chiếu và người phi công điền vào các giấy tờ thủ tục. Chúng tôi ngồi đối diện nhau những chiếc ghế dài xếp quanh cái bàn thấp trong suốt thời gian cất cánh. Tôi ngáp liên tục, tai ù ù khi máy bay bay lên. Khi chúng tôi đạt tới độ cao cần thiết, Matthew mở dây an toàn của và lôi ra mấy chiếc gối cùng tấm chăn từ cái tủ phía dưới mấy ô cửa sổ. “Chúng ta đến Pháp nhanh thôi.” đặt gối dựa vào phía cuối chiếc sofa, giống như cái giường đôi, và mở tấm chăn ra để đắp cho tôi. “Trong lúc ấy em nên chợp mắt chút.” Tôi muốn ngủ. là tôi sợ. Bức ảnh đó như được khắc vào trong mi mắt tôi rồi. cúi xuống cạnh tôi, tấm chăn vắt nhàng mấy ngón tay . “Sao thế em?” “Em muốn nhắm mắt lại.” Matthew ném tất cả gối xuống sàn trừ chiếc. “Lại đây,” , ngồi xuống cạnh tôi rồi vỗ lên cái hình chữ nhật màu trắng mềm mịn hấp dẫn ấy. Tôi xoay người lại, ngả xuống mặt ghế bọc da và gối đầu lên đùi , duỗi dài hai chân ra. quăng mép tấm chăn từ tay phải sang tay trái để trùm nó lên người tôi tạo thành những nếp gấp mềm mại. “Cảm ơn ,” tôi thầm. “ có gì.” đặt ngón tay lên môi mình, rồi chạm vào môi tôi. Tôi nếm thấy vị mằn mặn. “Ngủ . ở ngay đây thôi.” Tôi thực ngủ giấc sâu và mộng mị, chỉ tỉnh dậy khi những ngón tay mát lạnh của Matthew khẽ chạm vào mặt tôi và bảo chúng tôi chuẩn bị hạ cánh. “Mấy giờ rồi ?” tôi hỏi, bây giờ hoàn toàn mất phương hướng. “Khoảng tám giờ,” , nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình. “Chúng mình ở đâu thế?” Tôi xoay người ngồi dậy và cài dây an toàn vào. “Bên ngoài Lyon, vùng Auvergne.” “Ngay trung tâm của đất nước ư?” Tôi hỏi, tưởng tượng ra tấm bản đồ nước Pháp. gật đầu. “Có phải đến từ nơi đó ?” “ được sinh ra và được tái sinh ở vùng lân cận. Nhà của – nhà của gia đình – cách đây khoảng đến hai giờ đường. Chúng mình nên đến vào tầm giữa buổi sáng.” Chúng tôi hạ cánh ở khu vực tư nhân của sân bay địa phương náo nhiệt và trình hộ chiếu cùng với các giấy tờ du lịch để cho viên chức nhà nước có vẻ ngoài tẻ ngắt kiểm tra. Người này khựng lại chú ý khi ta nhìn thấy tên của Matthew. “ có thường hay du lịch thế này ?’’ Chuyến bay thế này dễ chịu hơn nhiều so với việc phải bay tuyến bay thương mại qua sân bay Heathrow của London hoặc Charles de Gaulle của Paris. “Có,” đáp mà chẳng hề tỏ ý biện hộ hay e dè. “Riêng về điều này hoàn toàn thấy vui vì mình là ma cà rồng và có tiền để đốt mỗi khi du lịch.” Matthew dừng lại phía sau chiếc Range Rover và moi từ túi ra chùm chìa khóa. mở cửa sau, xếp mấy cái túi của tôi vào xe. Chiếc Range Rover này hơi kém xa xỉ so với chiếc Jaguar của , và cũng kém tao nhã lịch lãm hơn, nhưng được bù lại ở trọng lượng. Giống như là du lịch trong chiếc xe công vụ bọc thép vậy. “ có cần chiếc xe như thế này để lái ở Pháp ?” Tôi đưa mắt nhìn những con đường bằng phẳng. Matthew bật cười. “Em vẫn chưa thấy ngôi nhà của mẹ mà.” Chúng tôi lái về hướng Tây xuyên qua vùng thôn quê đẹp đẽ, rải rác những điền trang rộng mênh mông và các sườn đồi thoai thoải. Những cánh đồng và vườn nho trải dài tứ phía, và thậm chí dưới bầu trời màu thép lạnh, vùng đất này như vẫn sáng rực lên với sắc lá đổi màu. tấm biển chỉ đường để dòng chữ Clermont-Ferrand. Đó thể là trùng hợp được, dù cách phát có khác. Matthew tiếp tục lái xe về phía Tây. Rồi chậm lại, rẽ vào con đường hẹp và tạt vào vệ đường. chỉ về phía xa xa. “Ở đó kìa,” . “Sept-Tours.” Ngay giữa trung tâm của những ngọn đồi nhấp nhô là đỉnh đồi bằng phẳng bị tòa lô cốt bằng đá màu hoa hồng và vàng nâu có lỗ châu mai nằm thống trị. Bảy tòa tháp canh hơn nằm vây quanh nó, cổng tháp đứng trấn giữ phía trước. Đây phải là tòa lâu đài xinh đẹp trong truyện thần tiên nằm phơi mình dưới ánh trăng vằng vặc. Sept-Tours là pháo đài. “Đó là nhà ư?” Tôi thở gấp. “Đó là nhà đấy.” Matthew lấy điện thoại từ trong túi áo ra và bấm số. “Maman? Chúng con sắp đến nơi rồi.” Ở đầu bên kia gì đó, rồi đường dây bị ngắt. Matthew mỉm cười se sắt và lái xe quay lại đường lớn. “Bà mong chúng mình à?” Tôi hỏi, cố giữ cho giọng mình run rẩy. “Ừ.” “Và với bà chuyện này ổn cả chứ?” Tôi hỏi điều tôi thắc mắc - có chắc ổn khi mang phù thủy về nhà ? - nhưng cần phải hỏi mới biết được. Mắt Matthew vẫn rời khỏi con đường. “Ysabeau thích những ngạc nhiên như ,” nhàng , bật cái gì đó trông giống như là máy dò đường. Chúng tôi lái xe giữa hai hàng cây dẻ, leo mãi cho tới khi lên đến Sept-Tours. Matthew lái xe vào giữa hai trong số bảy tháp canh và xuyên qua khoảng sân trong được lát đá phía trước lối vào khu trung tâm của tòa kiến trúc. Bồn cây và vườn hoa nằm lấp ló hai bên. Chàng ma cà rồng đỗ xe lại. “Sẵn sàng chưa?” hỏi kèm theo nụ cười chói lóa. “Chưa khi nào sẵn sàng như lúc này,” tôi thận trọng đáp. Matthew mở cửa xe và giúp tôi xuống. Kéo chiếc áo khoác đen, tôi ngước nhìn lên dáng vẻ đồ sộ của tòa lâu đài bằng đá. Những ranh giới ngăn cấm của lâu đài này cũng chẳng là gì so với điều chờ đợi tôi ở bên trong. Cánh cửa bật mở. “Can đảm lên,” Matthew , hôn lên má tôi.
Chương 18 Ysabeau đứng lối vào tòa lâu đài đồ sộ của bà, vẻ vương giả và băng giá, bà trừng mắt nhìn cậu con trai ma cà rồng của mình khi chúng tôi leo lên những bậc cầu thang. Matthew dừng hẳn lại để hôn lên cả hai má của bà. “Chúng ta vào trong chứ, hay mẹ muốn tiếp tục màn chào hỏi ở ngoài này?” Mẹ bước lùi lại để hai chúng tôi qua. Tôi cảm nhận được cái nhìn trừng trừng giận dữ của bà và mùi gì đó gợi nhớ đến mùi ca-ra-men và so-da vị thổ phục linh. Chúng tôi xuyên qua hành lang ngắn, tối tăm, với những mũi thương sắp thành hàng chẳng có chút mỹ quan tẹo nào, chỉ thẳng vào đầu khách. Chúng tôi vào căn phòng có trần cao và những bức tường ràng được sơn vẽ bởi họa sĩ nào đó rất giàu tưởng tượng, phản ánh về quá khứ trung cổ chưa bao giờ có. Những con sư tử, hoa bách hợp, con rắn miệng ngậm đuôi, cùng những vỏ sò được sơn vẽ tường trắng. Phía cuối phòng là cầu thang xoáy dẫn lên đỉnh của trong số các tháp canh. Toàn thân tôi phải đối mặt với tổng lực từ cái nhìn chòng chọc của Ysabeau. Mẹ của Matthew là thân của vẻ thanh lịch khủng khiếp dường như được nuôi dưỡng từ trong xương tủy của phụ nữ Pháp. Giống như cậu con trai – chàng hóa ra có vẻ hơi già so với mẹ - bà cũng mặc những tông màu đơn sắc rất riêng, nó làm giảm tối thiểu vẻ xanh xao thiếu tự nhiên ở bà. Màu sắc thích của Ysabeau là các tông trải từ màu kem cho tới nâu nhạt. Mỗi centimet bộ trang phục bà mặc đều đắt giá và đơn giản, từ mũi đôi giày da mềm màu vàng sẫm cho tới đôi bông tai đung đưa tai bà. Những mảng màu ngọc lục bảo lạnh lẽo nổi bật bao quanh đôi đồng tử đen láy, và hàng mi dài phủ bóng lên hai gò má càng tôn thêm những đường nét hoàn hảo của bà, khiến làn da vốn trắng nõn và láng mịn càng trở nên sáng chói. Mái tóc bà óng mịn như mật ong, màu hoàng kim như lụa đổ tràn xuống từ đỉnh đầu và được kết lại thành búi tóc nặng nề, trễ thấp ở dưới. “Có lẽ con thể suy xét cân nhắc nào đó rồi, Matthew.” Cách phát của bà được làm mềm ở tên cậu con trai, khiến nó nghe có vẻ cổ xưa. Giống tất cả các ma cà rồng, bà có chất giọng du dương, quyến rũ, nhưng ở bà nó còn nghe như tiếng chuông vang xa xa, trong trẻo và sâu lắng. “E ngại lời bàn ra tán vào ư, Maman? Con nghĩ mẹ tự hào vì bản thân mình là người có quan điểm cực đoan chứ?” Giọng Matthew pha lẫn cả chiều chuộng lẫn nôn nóng. ném chùm chìa khóa lên cái bàn gần đó. Chúng trượt từ bên này sang bên kia rồi kết thúc cách hoàn hảo bằng tiếng cách va chạm vào đế cái bát sứ Trung quốc. “Mẹ chưa bao giờ là người cực đoan cả!” Ysabeau tỏ vẻ ghê tởm. “ thay đổi này được đánh giá rất cao đấy.” Bà quay sang săm soi tôi từ đầu đến chân. Khuôn miệng hoàn hảo của bà mím chặt lại. Bà thích cái bà nhìn thấy – nghi ngờ gì nữa. Tôi thử ngắm nhìn mình qua đôi mắt của bà – mái tóc màu cát dày cũng chẳng được chăm sóc tử tế, những vết tàn nhang lấm tấm do ở ngoài trời quá nhiều, cái mũi quá dài so với phần còn lại của khuôn mặt. Đôi mắt là nét nổi bật nhất, những chúng chẳng thể tạo nên được khiếu thẩm mỹ về thời trang của tôi. Bên cạnh vẻ trang nhã của bà và bản chất điềm tĩnh thường trực của Matthew, tôi như chú chuột quê mùa vụng về. Tôi kéo đường viền áo khoác bằng bàn tay còn rảnh, vui mừng khi thấy có dấu hiệu nào của phép thuật các đầu ngón tay mình, và thầm mong rằng cũng có dấu hiệu nào của cái “ánh sáng lờ mờ” thần chết mà Matthew từng nhắc tới. “Maman, đây là Diana Bishop. Diana, đây là mẹ , Ysabeau de Clermont.” Các tiết được uốn lưỡi kiểu cách. Hai cánh mũi của Ysabeau hơi phập phồng. “Mẹ thích cái mùi của phù thủy.” Tiếng của bà hoàn hảo chê vào đâu được, ánh mắt sáng rực rỡ của bà gắn chặt vào mắt tôi. “ ta có vị ngọt ngào và xanh mướt kinh khủng, như mùa xuân ấy.” Matthew tuôn ra tràng thứ tiếng gì đó khó hiểu, nghe như pha trộn giữa tiếng Pháp, Tây Ban Nha, và Latin. cố thấp giọng, nhưng che giấu được cơn giận dữ trong đó. “Ca suffit,” Ysabeau vặn lại bằng thứ tiếng Pháp ràng rồi đặt bàn tay lên ngang cổ họng. Tôi nuốt khan và bất giác với tay lên cổ chiếc áo khoác của mình. “Diana.” Ysabeau với e kéo dài chứ phải là i và nhấn mạnh vào tiết đầu chứ phải là thứ hai. Bà xòe bàn tay trắng muốt lạnh giá ra và tôi đưa tay nắm hờ mấy ngón tay của bà. Matthew túm lấy tay trái tôi, và trong khoảnh khắc chúng tôi tạo nên chuỗi mắt xích kỳ lạ của ma cà rồng và phù thủy. “Encantada.” “Bà rất vui được gặp em,” Matthew , dịch lại cho tôi và bắn tia nhìn cảnh cáo về phía bà mẹ. “Đúng, đúng vậy,” Ysabeau sốt ruột , quay lại phía con trai. “Đương nhiên ấy chỉ được tiếng và tiếng Pháp mới thôi. Động vật máu nóng đại quá kém giáo dục.” bà lão người mập mạp với làn da trắng như tuyết và mái tóc đen dày rậm cách phi lý kết thành những bím tóc rối beng bao quanh đầu bước vào tiền sảnh, hai cánh tay dang rộng ra. “Matthew!” bà la lên. “Cossi anatz?” “Va plan, mercés. E tu?” Matthew ôm lấy bà và hôn lên cả hai bên má bà. “Aital aital,” bà đáp, nắm lấy khuỷu tay mình rồi tỏ vẻ giận dữ Matthew thầm vẻ cảm thông, còn Ysabeau ngẩng lên nhìn trần nhà để tìm kiếm giải thoát khỏi cảnh tượng xúc động này. “Marthe, đây là bạn tôi Diana,” , vừa kéo tôi tới trước. Marthe cũng là ma cà rồng, trong số những ma cà rồng già nhất mà tôi từng thấy. Bà ấy chắc phải ở vào tuổi sáu mươi khi được tái sinh, và dù mái tóc bà màu đen nhưng tuổi của bà lầm vào đâu được. Những nếp nhăn ngang dọc khắp khuôn mặt bà, các khớp xương hai tay bà quá xương xẩu đến nỗi có vẻ ngay cả máu của ma cà rồng cũng thể duỗi thẳng chúng ra được. “Chào mừng, Diana,” bà lão vừa bằng chất giọng khàn khàn vẻ kiên định mà cũng đường mật, vừa nhìn sâu vào mắt tôi. Bà gật đầu với Matthew và với tới bàn tay tôi, hai cánh mũi phập phồng. “Elle est une puissante sorcière,” bà với Matthew, giọng khen ngợi. “Bà em là phù thủy quyền năng,” Matthew giải thích. gần gũi của , cách nào đó làm giảm bớt cảm giác lo lắng mang tính bản năng của tôi khi có ma cà rồng hít ngửi mình. biết phải phản ứng thế nào cho đúng cách của người Pháp, tôi chỉ đành mỉm cười yếu ớt với Marthe và thầm hy vọng như thế là ổn “Em kiệt sức rồi,” Matthew , nháy mắt với tôi. mau lẹ hỏi hai nữ ma cà rồng bằng thứ tiếng lạ lùng. Kết quả là nhiều những cái chỉ trỏ, đảo mắt, mấy điệu bộ cường điệu và những tiếng thở dài. Khi Ysabeau nhắc đến tên Louisa, Matthew chằm chằm nhìn mẹ , cơn tức giận nổi lên trở lại. Giọng chuyển sang sắc bằng bằng, cộc lốc khi trả lời bà mẹ. Ysabeau nhún vai. “Dĩ nhiên rồi, Matthew,” bà thầm với vẻ giả bộ thấy . “Chúng mình sắp xếp cho em nào.” Giọng Matthew ấm áp khi với tôi. “Tôi mang đồ ăn và rượu đến,” Marthe bẳng thứ tiếng ngắc ngứ. “Cảm ơn bà,” tôi . “Và cảm ơn bà nữa, Ysabeau, vì cho phép tôi ở trong nhà của bà.” Ysabeau khịt mũi và nhe răng. Tôi hy vọng đó là nụ cười nhưng lại sợ rằng phải thế. “Cả nước nữa, Marthe ạ,” Matthew bổ sung thêm, “Ồ, và thức ăn đường đến đây nhỉ?” “ số đến rồi,” mẹ chua chát . “Lá cây. Hàng bao tải rau và trứng. Con rất dở khi cầu bọn họ đánh xe chở những thứ đó đến vùng nông thôn này.” “Diana cần ăn, Maman. Con tưởng tượng được là mẹ có nhiều đồ ăn thức uống trong ngôi nhà này đâu.” Sợi cương dài của lòng kiên nhẫn ở Matthew tuột ra dần từ các kiện tối qua và bây giờ là cuộc trở về nhà lạnh nhạt của . “Ta cần máu tươi, nhưng ta cũng bắt Victoire và Alain tìm kiếm nó ở Paris và đem về giữa đêm hôm như thế.” Ysabeau trông cực kỳ thỏa mãn và hài lòng với chính mình khi hai đầu gối tôi run lên. Matthew trút ra hơi thở dữ dội, bàn tay đỡ dưới khuỷu tay tôi để giữ cho tôi đứng vững. “Marthe,” cầu, thể phớt lờ với Ysabeau, “bà có thể mang trứng, bánh mỳ nướng cùng ít trà lên cho Diana ?” Marthe đưa mắt nhìn Ysabeau rồi quay sang Matthew như thể bà ở sân trung tâm của Wimbledon. Bà lão bật cười khúc khích. “Òc,” bà đáp kèm theo cái gật đầu vui vẻ. “Chúng con gặp lại hai người vào bữa tối,” Matthew điềm tĩnh . Tôi cảm thấy có bốn mảnh băng găm vào hai bờ vai mình khi hai nữ ma cà rồng nhìn theo chúng tôi. Marthe điều đó với Ysabeau làm bà mẹ Matthew phải khịt mũi tỏ vẻ khó chịu còn Matthew nở nụ cười rạng rỡ. “Marthe gì thế ?” Tôi thầm, rồi chợt muộn màng nhớ ra là chẳng có cuộc trò chuyện nào, dù thầm hay to tiếng, mà bị mọi người trong ngôi nhà này nghe lỏm được. “Bà ấy chúng mình rất đẹp đôi.” “Em muốn Ysabeau tức giận với em trong suốt thời gian chúng ta ở đây đâu.” “Đừng để ý quá tới bà,” bình thản . “Mẹ vốn khẩu xà tâm phật mà.” Chúng tôi qua hành lang dẫn vào căn phòng dài với những bộ bàn ghế được sắp xếp phân loại theo nhiều phong cách và thời kỳ khác nhau. Có hai chiếc lò sưởi, và hai hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng lấp lánh cưỡi ngựa đấu thương qua đầu nhau, những cây thương sáng choang bắt chéo gọn ghẽ mà gây thương tích cho ai cả. Bức bích họa ràng được vẽ bởi cùng con người nhiệt tình có con mắt thẩm mỹ sướt mướt trang trí đại sảnh. cánh cửa đôi dẫn tới căn phòng khác, căn phòng này chất toàn những tủ sách. “Đó là thư viện ư?” tôi hỏi, ngay lập tức quên mất thái độ thù địch của Ysabeau. “Em có thể xem bản in cuốn Aurora Consurgens của bây giờ ?” “Để sau ,” Matthew dứt khoát . “Em phải ăn thứ gì đó rồi ngủ .” dẫn đường lên cầu thang quanh co khác, rồi làm hoa tiêu qua mê cung đồ gia dụng cổ xưa với vẻ thoải mái của người có kinh nghiệm lâu năm. Còn tôi qua mê cung này với vẻ ngập ngừng thăm dò hơn, hai đùi tôi xước vào mặt phía trước của mấy cái tủ com mốt và đụng vào cái lọ sứ cao làm nó lắc lư. Cuối cùng khi chúng tôi tới chân cầu thang khác, Matthew dừng lại. “Còn phải leo lâu đây, em bị mệt. Em có cần bế ?” “,” tôi nổi đóa. “ quăng em qua vai giống như những tay hiệp sĩ thời trung cổ xoáy các chiến lợi phẩm từ trận đánh được đâu.” Matthew mím chặt môi lại, mắt long lanh. “ dám cười nhạo em đâu.” Thế là phá lên cười, thanh vang dội vào các bức tường đá như thể có cả đội ma cà rồng vui nhộn đứng cầu thang. Rốt cuộc đây chính xác là nơi các hiệp sĩ bồng các quý lên gác. Nhưng tôi định trở thành trong số họ. Đến bậc thứ mười lăm hai mạng sườn của tôi căng cứng vì gắng sức. Các bậc đá mòn vẹt của tòa tháp này phải được tạo ra cho những đôi chân bình thường – ràng chúng được thiết kế để dành cho các ma cà rồng như Matthew, những sinh vật cao mét tám, cực kỳ nhanh nhẹn hoặc có cả hai yếu tố . Tôi nghiến răng và tiếp tục leo. Đến chỗ cong cuối cùng của cầu thang, căn phòng đột ngột mở ra. “Ôi.” Bàn tay tôi vụt đưa lên miệng trong kinh ngạc Tôi chẳng cần được bảo cho mới biết căn phòng này là của ai. Nó là của Matthew, hoàn toàn. Chúng tôi ở trong tòa tháp tròn duyên dáng của lâu đài - ngọn tháp vẫn giữ nguyên phần mái bằng đồng đỏ hình nón trơn nhẵn và án ngữ sau lưng tòa nhà chính đồ sộ. Hàng cửa sổ ca, hẹp làm nổi bật các bức tường, và những ô cửa lợp chì để hắt vào ánh sáng và sắc màu mùa thu từ những cánh đồng và cây cối ngoài kia. Căn phòng hình tròn, và những đường cong duyên dáng của nó rất hài hòa với những đường thẳng hiếm hoi của những tủ sách cao. lò sưởi lớn được đặt vuông vức với các bức tường, đắp tựa vào cấu trúc trung tâm của tòa lâu đài. Cái lò sưởi này thoát khỏi chú ý của người họa sỹ vẽ bích họa giàu tưởng tượng kia cách kỳ diệu. Những cái tay ghế và trường kỷ, bàn và gối quỳ, hầu như đều bị bao phủ trong màu xanh lá, nâu và vàng kim. Bất chấp kích thước của căn phòng và các phần nới rộng ra thênh thang bằng đá xám, tổng thể của nó vẫn toát lên vẻ ấm cúng dễ chịu. Hầu hết những món đồ hấp dẫn của căn phòng đều là những thứ Matthew lựa chọn giữ lại từ rất nhiều cuộc sống mà trải qua. bức tranh của Vermeer dựa vào cái giá sách bên cạnh bức tường nhà chưa tô trát. Nó khá lạ - phải là trong mấy bức sơn dầu nổi tiếng của vị họa sĩ này. Bức tranh này trông oai nghiêm khủng khiếp giống y Matthew. thanh mã tấu dài và nặng đến nỗi chẳng ai ngoài ma cà rồng có thể cầm nó mà treo lên phía lò sưởi cả, và bộ áo giáp có kích thước của Matthew đứng trong góc phòng. Đối diện là bộ xương người trông có vẻ cổ xưa treo cái khung gỗ, các khớp xương được gắn với nhau bởi thứ gì đó trông như dây đàn piano. chiếc bàn bên cạnh là hai cái kính hiển vi, cả hai đều được làm từ thế kỷ mười bảy nếu tôi nhầm. mô hình cây thánh giá có hình Chúa Jesus được trang trí công phu nạm đá màu đỏ, xanh lá và xanh da trời, được đặt vào hốc tường cùng với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng ngà voi đẹp lộng lẫy. Những bông tuyết của Matthew lại phảng phất lướt qua mặt tôi khi ngắm nhìn tôi xem xét tỉ mỉ những thứ thuộc về . “ viện bảo tàng Matthew,” tôi khẽ , biết rằng mỗi món đồ đều có câu chuyện để kể. “Chỉ là phòng làm việc của thôi mà.” “Ở đâu ...” tôi bắt đầu, tay chỉ vào mấy cái kính hiển vi. “Để sau ,” lại , “Em còn hơn ba mươi bậc thang nữa để leo cơ đấy.” Matthew dẫn tôi qua phía kia căn phòng tới chiếc cầu thang thứ hai. Cầu thang này cũng vậy, cong vút lên tận thiên đường. Sau ba mươi bậc thang chậm chạp nữa, tôi đứng trước căn phòng hình tròn khác bị chiếc giường bốn cọc khổng lồ bằng gỗ cây óc chó thống trị hoàn toàn cùng với màn và những tấm rèm treo nặng nề. Phía cao là những xà nhà và cột chống lộ để giữ cho phần đỉnh tháp bằng đồng đỏ ở đúng chỗ. chiếc bàn được đấy sát vào tường, lò sưởi được xây chìm vào bức tường khác, và mấy chiếc ghế bành thoải mái được sắp xếp phía trước chiếc lò. Đối diện, cánh cửa hé mở để lộ cái bồn tắm khổng lồ. “Nó giống như cái tổ chim ưng ấy,” tôi , ngó ra ngoài cửa sổ. Matthew ngắm nhìn khung cảnh này qua những ô cửa sổ này từ thời Trung Cổ. Tôi băn khoăn, trong thoáng chốc, về những người phụ nữ khác mà đưa đến đây trước tôi. Tôi chắc chắn mình phải là người đầu tiên, nhưng tôi nghĩ là có nhiều người khác. Lâu đài này có riêng tư mãnh liệt. Matthew tiến đến phía sau và nhìn qua vai tôi. “Em bằng lòng chứ?” Hơi thở của nhè phả vào tai tôi. Tôi gật đầu. “Bao lâu rồi?” Tôi hỏi, thể kiềm nén được. “Tòa tháp này ư?” hỏi. “Khoảng bảy trăm năm.” “Còn ngôi làng ấy? Họ có biết về gia đình ?” “Có. Giống như phù thủy, ma cà rồng được an toàn hơn khi họ tách biệt với cộng đồng dân cư sinh sống, những người biết về họ nhưng thắc mắc quá nhiều.” Tổ tiên của nhà Bishop sống ở Madison mà hề có bất kỳ ai gây chuyện om sòm để bị chú ý. Giống như Peter Knox, chúng tôi giấu mình trong vẻ ngoài bình dị. “Cảm ơn vì đưa em tới Sept-Tours,” tôi . “Em cảm thấy an toàn hơn ở Oxford.” kể đến Ysabeau. “Cảm ơn vì em dũng cảm đương đầu với mẹ .” Matthew khúc khích cười như thể nghe thấy được cả những lời tôi ra. Mùi hương cẩm chướng đặc trưng thoảng qua giọng . “Bà bảo bọc quá mức, giống như hầu hết các bậc phụ huynh.” “Em cảm thấy mình ngớ ngấn – và luộm thuộm nữa. Em mang theo thứ gì để mặc cho phù hợp với chuẩn mực của mẹ .” Tôi cắn môi, trán nhăn lại. “Coco Chanel cũng chưa đáp ứng được chuẩn mực của Ysabeau đâu. Em có lẽ nên nhắm đến cái gì cao hơn chút.” Tôi bật cười và quay người lại, tìm kiếm ánh mắt . Khi hai ánh mắt gặp nhau, tôi như ngừng thở. Ánh nhìn đắm đuối của Matthew ngưng đọng lại nơi mắt tôi, nấn ná xuống hai má và cuối cùng là bờ môi tôi. Bàn tay nâng cằm tôi lên. “Em quá sống động,” khàn khàn. “Đáng lẽ em nên ở cùng với người đàn ông trẻ hơn nhiều, nhiều.” Tôi nhón chân lên. nghiêng đầu cúi xuống. Trước khi môi chúng tôi kịp chạm nhau có tiếng khay lách cách bàn. “Vos etz arbres e branca,” Marthe ngâm nga hát, ranh mãnh liếc nhìn Matthew. bật cười và hát đối lại bằng giọng nam trung trong trẻo, “Onfruitz de gaug s'asazona.” “Đó là ngôn ngữ gì thế?” Tôi hỏi, hạ chân xuống và theo Matthew tới chỗ lò sưởi. “Tiếng cổ xưa đấy,” Marthe đáp. “Occitan.” Matthew gỡ bỏ lớp giấy bạc bọc đĩa trứng. Mùi thức ăn nóng hổi bay khắp phòng. “Marthe quyết định ngâm bài thơ trước khi em ngồi vào bàn ăn đấy.” Marthe cười giòn và kéo cái khăn lau giắt ở thắt lưng đánh vào cổ tay Matthew. thả tờ giấy bọc ra và kéo ghế ngồi. “Tới đây, tới đây nào,” bà lão , ra hiệu về phía cái ghế đối diện với . “Ngồi , ăn nào.” Tôi làm theo. Marthe rót cho Matthew ly vang từ chiếc bình thủy tinh cao quai bạc. “Mercés,” thầm , mũi ngay lập tức hướng về phía cái ly chiếc bình tương tự nữa đựng nước đá lạnh, và Marthe rót nó vào cái ly khác rồi đưa cho tôi. Bà rót ra tách trà nghi ngút khói, và tôi lập tức nhận ra nó đến từ cửa hiệu Manage Freres ở Paris. ràng Matthew tiến hành khám xét tủ ấm chén trong khi tôi ngủ tối qua và cụ thể hóa các danh sách mua sắm của . Marthe rót lớp kem dày vào tách trà trước khi Matthew kịp ngăn bà lại, tôi bèn lừ mắt nhìn cảnh cáo. Về điểm này tôi cần có đồng minh. Hơn nữa, tôi quá khát nên chẳng quan tâm lắm. ngoan ngoãn ngả người ra sau ghế, nhấm nháp ly rượu vang của mình. Marthe lấy ra từ chiếc khay của bà nhiều thứ khác nữa - bộ dao dĩa bằng bạc, muối, hạt tiêu, bơ, mứt; bánh mỳ nướng và món trứng ốp lết vàng rộm rắc gia vị thảo mộc tươi. “Merci, Marthe,” tôi với niềm biết ơn tự đáy lòng. “Ăn !” bà ra lệnh, lần này hướng chiếc khăn về phía tôi. Marthe ngắm nhìn vẻ thỏa mãn khi tôi nhiệt tình cắn những miếng đầu tiên. Thế rồi bà khịt mũi đánh hơi trong khí. Bà cau mày và hướng ánh nhìn bực tức về phía Matthew trước khi sải bước tiến tới chỗ lò sưởi. que diêm được đánh lên, củi khô bắt đầu kêu lách tách. “Marthe,” Matthew phản đối, đứng dậy cùng với ly rượu vang, “tôi có thể làm việc đó mà.” “ ấy lạnh,” Marthế cằn nhằn, ràng là bực mình rằng làm việc này trước khi ngồi vào bàn, “và cậu khát. Tôi nhóm lửa lên,” Trong vài phút ngọn lửa cháy bùng lên. Mặc dù chẳng có ngọn lửa nào có thể làm căn phòng to lớn này nóng lên ngay lập tức, nhưng nó cũng xua được giá lạnh trong khí. Marthe xoa hai bàn tay vào nhau và đứng dậy. “ ấy phải ngủ. Tôi có thể ngửi thấy mùi lo sợ ở ấy.” “ ấy ngủ khi ăn xong,”Matthew đáp, giơ tay phải lên vẻ trịnh trọng cam kết. Marthe nhìn lâu và lắc lắc ngón tay về phía như thể chàng mới 15 chứ phải là 1500 tuổi. Cuối cùng cái vẻ ngây thơ vô tội của thuyết phục được bà. Bà rời khỏi phòng, đôi bàn chân cổ xưa di chuyển xuống các bậc thang đẩy thách thức kia cách chắc chắn. “Occitan là ngôn ngữ của những người hát rong từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, có đúng ?” tôi hỏi sau khi Marthe rời . Chàng ma cà rồng gật đầu. “Em biết là nó được ở vùng phía Bắc xa xôi này đấy.” “Chúng ta phải vùng phía Bắc xa xôi đâu,” Matthew cười đáp. “ có thời Paris chẳng hơn gì thị trấn giáp ranh biên giới cả. Thế nên hầu hết người ta đều tiếng Occitan. Nhưng những ngọn đồi ngăn giữ người phương Bắc - và ngôn ngữ của họ trở nên xa xôi. Thậm chí ngay cả bây giờ người dân ở đây vẫn cảnh giác đề phòng với những người ở bên ngoài đến.” “Những lời ấy có nghĩa là gì?” tôi hỏi. “Em là cây và cành lá,” Matthew , mắt rời những đường cắt ngang dọc cảnh vùng thôn quê hiển qua ô cửa sổ gần nhất, “nơi quả khoái lạc chín muồi.” Rồi lắc đầu rầu rĩ. “Marthe ngâm nga bài hát này cả buổi chiều và làm Ysabeau phát điên lên mất.” Ngọn lửa tiếp tục lan ra sưởi ấm căn phòng, hơi nóng khiến tôi mơ màng ngủ. Đến khi món trứng hết mắt tôi díu lại. Tôi ngáp nửa chừng Matthew kéo tôi ra khỏi ghế. bế thốc tôi hai cánh tay, đôi bàn chân tôi đung đưa giữa trung. Tôi bắt đầu phản đối. “Đủ rồi,” . “Em chỉ còn vừa đủ sức ngồi thẳng dậy được thôi, chứ đừng gì đến chuyện bộ.” Rồi nhàng đặt tôi xuống cuối giường và kéo khăn phủ ra. Lớp dra giường trắng như tuyết trông tinh tươm và mời gọi. Tôi thả đầu lên núi gối tựa sẵn vào mấy hình chạm khắc quả óc chó rối rắm nơi đầu giường. “Ngủ .” Matthew cầm mấy tấm màn và kéo mạnh. “Em dám chắc là mình có thể ngủ được,” tôi khó nhọc giữa cái ngáp khác. “Em giỏi việc ngủ ngày thế này.” “Mọi biểu lại cho thấy điều ngược lại đấy,” cộc lốc. “Bây giờ em ở Pháp rồi. Em cần phải cố gắng gì cả. ở lầu dưới. Hãy gọi nếu em cần bất cứ thứ gì.” Với cầu thang dẫn từ sảnh lên tới phòng làm việc của và cầu thang khác từ phía đối diện dẫn lên phòng ngủ, ai có thể lên căn phòng này mà ngang qua chỗ Matthew. Các căn phòng này được thiết kế như thể ấy cần bảo vệ bản thân khỏi chính gia đình mình vậy. câu hỏi dâng lên môi tôi, nhưng thả màn và giật mạnh lần cuối cho chúng khép sát vào nhau khiến tôi phải thực im lặng. Những tấm màn nặng nề của chiếc giường ngăn cho ánh sáng và cả bụi bặm xuyên qua. Thư giãn trong tấm đệm êm ái, hơi ấm của cơ thể tôi khuếch tán lên thêm nhờ những lớp chăn mềm mại giường, và tôi mau chóng chìm vào giấc ngủ. Tôi thức giấc bởi tiếng sột soạt giở trang sách và ngồi thẳng dậy, cố mường tượng xem tại sao ai lại đóng kín tôi vào chiếc hộp vải như thế này. Thế rồi tôi nhớ ra. Pháp. Matthew. Ở nhà của ấy. “Matthew?” tôi khẽ gọi. vén màn nhìn xuống và mỉm cười. Phía sau , nến được thắp lên – hàng tá nến. Vài ngọn được đặt vào chân đế quanh phòng, những ngọn khác đứng trong các đài nến trang trí cầu kỳ đặt sàn nhà và mấy chiếc bàn gần đó. “Đối với người nào đó ngủ ngày em ngủ khá là ngon lành đấy,” với vẻ hài lòng. Trong chừng mực lo lắng chuyến đến Pháp có vẻ thành công. “Mấy giờ rồi ?” “ kiếm cho em cái đồng hồ đeo tay nếu em cứ suốt ngày hỏi câu đó.” Matthew liếc nhìn chiếc Cartier cũ của . “Gần hai giờ chiều rồi. Marthe có lẽ lên đây bất cứ khi nào để mang trà cho em. Em có muốn tắm và thay đồ ?” Ý nghĩ về cái vòi hoa sen nóng ấm khiến tôi háo hức hất tung chăn ra. “Vâng, làm ơn!” Matthew né người tránh hai chân tôi bay vọt xuống giường và giúp tôi đứng xuống sàn nhà, cái giường cao hơn là tôi tưởng. Sàn phòng còn lạnh nữa, những phiến đá lát sàn chọc vào hai bàn chân trần của tôi. “Túi xách của em ở trong phòng tắm, máy tính ở dưới lầu trong phòng làm việc của , và có khăn tắm sạch đấy. Em tranh thủ .” nhìn theo khi tôi tập tễnh vào phòng tắm. “Đây là cung điện à!” tôi thốt lên. bồn tắm khổng lổ màu trắng chễm chệ giữa phòng giữa hai ô cửa sổ, và cái ghế băng dài đỡ lấy túi đồ lề Yale xiêu vẹo của tôi. Trong góc phía xa, đầu vòi tắm hoa sen được lắp đặt dính vào tường. Tôi bắt đầu mở nước, đinh ninh phải đợi lúc lâu cho nó nóng lên. Kỳ diệu thay, hơi nước lập tức bao trùm lấy tôi, hương mật ong và xuân đào từ bánh xà bông lập tức xua tan cảm giác căng thẳng của 24 giờ qua. Khi các cơ bắp được thư giãn, tôi mặc vào chiếc quần jean và áo len cổ lọ, rồi đôi tất ngắn. có ổ cắm để dùng máy sấy tóc, tôi dùng khăn tắm lau chà mạnh mái tóc và chải lược trước khi túm buộc ra sau thành cái đuôi ngựa. “Marthe mang trà lên rồi,” Matthew khi tôi quay trở lại phòng ngủ, liếc nhanh qua ấm và tách trà đặt bàn. “Muốn rót cho em ít ?” Tôi thở dài khoan khoái khi chất lỏng dễ chịu ấy trôi xuống cổ họng mình. “Khi nào em được xem cuốn Aurora?” “Khi chắc chắn em mất hút vào trong thư viện như cái kiểu của em. Sẵn sàng cho chuyến tham quan học tập chưa?” “Rồi ạ.” Tôi trượt xuống rón rén đôi tất trở vào phòng tắm để lấy cái áo len. Trong khi tôi chạy lòng vòng, Matthew kiên nhẫn đứng bên đầu cầu thang chờ đợi. “Chúng mình có nên mang ấm trà xuống ?” tôi hỏi, nhón chân dừng lại. “, bà lão nổi đóa lên mất nếu để cho khách chạm vào dù chỉ cái đĩa. Đợi 24 giờ nữa hãy giúp đỡ Marthe.” Matthew lướt xuống cầu thang như thể có thể bịt mắt mà mặt đất bằng vậy. Tôi lần mò, dò dẫm những ngón tay dọc theo bức tường đá. Khi chúng tôi xuống tới phòng làm việc, chỉ chiếc máy tính của tôi, nó được cắm điện và nằm yên chiếc bàn bên cửa sổ, rồi chúng tôi xuống phòng khách. Marthe có mặt ở đó, ngọn lửa ấm áp cháy tí tách trong lò sưởi, gửi mùi khói gỗ bay khắp phòng. Tôi túm lấy Matthew. “Thư viện,” tôi . “Chuyến thăm quan cần bắt đầu từ chỗ đó. Lại căn phòng khác được chất đầy hết năm này qua năm khác những món đồ nội thất và các đồ trang trí tạp nham mấy giá trị. cái ghế gấp Savonarola của Ý nhô lên bên cạnh chiếc bàn viết kiểu Pháp, trong khi chiếc bàn bằng gỗ sồi rộng thênh thang vào khoảng năm 1700 phô bày những cái ngăn kéo trông như thể chúng đến từ viện bảo tàng thời Victoria. Bất chấp thiếu hài hòa, căn phòng vẫn được liên kết với nhau bởi hàng dặm dài những cuốn sách bìa bọc da các giá sách làm từ gỗ cây óc chó và tấm thảm Aubusson khổng lồ màu vàng nhạt, xanh dương và nâu. Như hầu hết các thư viện cổ, sách ở đây được bày giá theo kích cỡ. Có những tập bản thảo buộc dây da, để giá với gáy sách nằm trong và ngoài những cái móc trang trí, các tít được viết bằng mực rìa trước của giấy da cừu. Có những cuốn sách bé tí xíu của thời kỳ in đầu tiên và cỡ bỏ túi nằm thành hàng gọn ghẽ giá sách, tạo thành cầu nối lịch sử từ các bản thảo in từ năm 1450 tới ngày nay. số lượng những ấn bản đầu tiên hiếm có thời đại bao gồm loạt truyện Sherlock Holmes của tác giả Conan Doyle và bộ The Sword in the Stone của T. H. White cũng có ở đó. cái giá chẳng để gì khác ngoài những tờ in khổ lớn - các tài liệu về thực vật học, atlas, sách y học. Nếu tất cả thư viện này ở tầng dưới, còn kho báu nào được cất giữ trong phòng làm việc giữa tòa tháp của Matthew đây? để tôi vòng quanh phòng, ngó nghiêng các tít sách và há hốc miệng kinh ngạc. Khi tôi trở lại bên cạnh , tất cả điều tôi có thể làm là lắc đầu tin được. “Tưởng tượng xem em có gì nếu liên tục mua những cuốn sách qua hàng thế kỷ,” Matthew với cái nhún vai gợi tôi nhớ đến Ysabeau. “Các thứ chồng đống cả lên. Năm nào nhà cũng phải bỏ bớt rất nhiều. Gia đình phải làm thế. Nếu căn phòng này có kích thước của thư viện quốc gia Bibliothèque mất.” “Vậy nó ở đâu?” “ thấy là em hết kiên nhẫn rồi đấy.” tới cái giá, phóng mắt nhìn quanh các cuốn sách, rồi lôi ra cuốn sách có bìa ép nhũ màu đen và trao nó cho tôi. Khi tôi nhìn quanh để kiếm cái giá bằng nhung đặt nó lên, bật cười. “Chỉ cần mở nó ra thôi, Diana. Nó phân hủy mất đâu “ Cảm giác lạ khi cầm cuốn sách cổ thế này tay mình, nhất là khi tôi luôn nghĩ chúng là những đồ vật quý hiếm hơn là tài liệu để đọc. Cố gắng mở bìa sách ra quá rộng và làm gãy nếp bìa, tôi ngó vào bên trong. cơn bùng nổ của các sắc màu sáng chói ùa ra. “Ôi,” tôi thở gấp. Các bản in khác của Aurora Consurgens mà tôi thấy được tốt lắm. “Nó đẹp quá. có biết ai vẽ các bức minh họa này ?” “ phụ nữ tên là Bourgot Le Noir. Bà khá nổi tiếng ở Paris vào khoảng giữa thế kỷ XIV.” Matthew cầm quyển sách từ tay tôi và mở hẳn ra. “Đó. Giờ em có thể xem nó hẳn hoi rồi.” Bức tranh minh họa đẩu tiên vẽ hình vị nữ hoàng đứng ngọn đồi , che chở cho bảy sinh vật bé bên trong chiếc áo choàng xòe rộng của bà. Những dây nho thanh nhã tạo thành khung cho bức hình, chúng xoắn xuýt với nhau vắt ngang qua trang giấy hảo hạng. Đôi chỗ những nụ hoa mới hé nở tung thành những bông hoa, chim chóc đậu cành lá. Trong bóng chiều, chiếc váy dài thêu chỉ vàng của nữ hoàng sáng lấp lánh nền đỏ son rực rỡ. Ở cuối trang sách, người đàn ông trong chiếc áo choàng đen ngồi đỉnh cái khiên, đeo tấm huy hiệu màu đen và bạc. Người đàn ông hoàn toàn bị thu hút về phía nữ hoàng, vẻ sung sướng mê mẩn biểu lộ nét mặt ta và hai bàn tay đưa lên vẻ khấn nài. “ chẳng ai tin được điều này. bản in vô danh của Aurora Consurgens – với những bức hình minh họa được vẽ bởi người phụ nữ ư?” Tôi lắc đầu kinh ngạc. “Làm sao em viện dẫn nó được đây?” “ cho thư viện Beinecke mượn cuốn sách này trong năm, nếu điều đó có thể giúp ích được cho em. danh, dĩ nhiên là thế. Cũng như Bourgot, các chuyên gia đó là công trình của cha ấy. Nhưng ra tất cả là của ấy. Chúng ta có thể nhờ nơi nào đó nhận cuốn sách,” Matthew lơ đãng , đưa mắt nhìn quanh. “ hỏi Ysabeau xem mấy thứ của Godfrey ở đâu.” “Godfrey?” Trước mắt tôi là hình ảnh chiếc gia huy lạ lẫm mang hình dáng bông hoa bách hợp, bao quanh là con rắn uốn tròn miệng ngậm đuôi của chính nó. “ trai .” vẻ lơ đãng rời khỏi giọng Matthew, nét mặt sa sầm. “ ấy chết năm 1668, trong cuộc chiến quỷ quái của Louis XIV.” nhàng đóng cuốn sách lại, để nó lên chiếc bàn gần đấy. “ mang cuốn cổ thư này lên phòng làm việc của sau, để em có thể xem xét nó kỹ càng hơn. Buổi sáng Ysabeau thường đọc báo ở đây, còn lại nó luôn bỏ trống. Em được chào đón đến ngắm nghía các giá sách ở đây bất cứ khi nào em thích.” Với lời hứa đó, kéo tôi qua phòng khách vào đại sảnh. Chúng tôi đứng cạnh chiếc bàn có kê cái bát sứ Trung Quốc, chỉ cho tôi thấy các nét đặc trưng của căn phòng, bao gồm cả gian phòng trưng bày nghệ thuật của các gánh hát rong cổ, cửa lật mái nhà để thả khói ra trước khi các lò sưởi và ống khói được xây dựng, và lối lên tòa tháp canh hình vuông để canh chừng đường chính tiếp cận lâu đài. Việc leo lên đó có thể đợi hôm nào khác. Matthew dẫn tôi xuống tầng hầm thấp hơn, với mê cung những kho thực phẩm, hầm chứa rượu, bếp, phòng cho gia nhân và tủ để đồ ăn. Marthe bước ra từ gian bếp, bột mỳ phủ cánh tay bà lên tới tận khuỷu, bà đưa cho tôi ổ bánh mỳ tươi ấm nóng mới lấy ra từ lò nướng. Tôi nhai ổ bánh trong khi Matthew dạo bước qua các hành lang, chỉ ra mục đích sử dụng trước đây của mỗi căn phòng – nơi chứa ngũ cốc, nơi treo thịt thú rừng, nơi để làm phó mát. “Ma cà rồng ăn bất cứ thứ gì mà?” tôi bối rối . “, nhưng những vị chủ nhà của chúng ta có. Marthe thích nấu nướng.” Tôi hứa tiếp tục làm cho bà lão được bận rộn. Ổ bánh mỳ ngon lành, những quả trứng hoàn hảo. Chặng dừng chân kế tiếp của chúng tôi là khu vườn. Mặc dù chúng tôi xuống nhịp cầu thang để vào các gian bếp, nhưng lâu đài vẫn còn tầng trệt nữa. Các bụi hoa hồng phủ kín hai bến lối , vài bụi vẫn còn mấy bông hoa nở đơn độc. Nhưng mùi hương kích thích trí tò mò của tôi lại phải là hương hoa. Tôi thẳng tới tòa nhà vọng ra tiếng kêu rống. “Cẩn thận đấy Diana,” gọi với, sải bước qua đám sỏi, “Balthasar cắn đấy.” “Con nào là Balthasar?” Matthew vòng qua lối vào chuồng ngựa, ánh nhìn lo lắng nét mặt. “Con ngựa giống này dùng xương sống của em như là cây cột để chà cọ đấy,” đáp. Tôi đứng quay lưng vào con ngựa cao lớn nặng nề trong khi chú chó to lớn tai cụp và chú chó săn sói vòng quanh hai chân tôi, khịt mũi đánh hơi tôi vẻ thích thú. “Ồ, cậu bé cắn em đâu.” Chú ngựa giống Percheron khổng lồ khéo léo giụi đầu để cọ tai vào hông tôi. “Và các quý ông này là ai thế?” tôi hỏi, xoa rối bộ lông cổ chú chó săn sói trong khi chàng tai cụp cố gắng ngậm lấy bàn tay tôi. “Con chó săn là Fallon, còn con tai cụp là Hector.” Matthew búng ngón tay và cả hai chú chó đầu chạy tới bên cạnh , ngoan ngoãn ngồi xuống quan sát nét mặt để chờ đợi những hiệu lệnh khác. “Làm ơn tránh xa con ngựa ấy ra.” “Tại sao? Nó ngoan mà.” Balthasar nằm ẹp xuống đất vẻ đồng ý và vểnh cái tai ra sau tỏ vẻ kiêu ngạo với Matthew. “Nếu những con thiêu thân lao mình vào ánh sáng ngọt ngào cuốn hút nó, chỉ bởi vì nó biết rằng ngọn lửa ấy có thể nuốt chửng nó,” Matthew thầm trong hơi thở. “Balthasar chỉ ngoan ngoãn cho tới khi nó thấy buồn chán thôi. muốn em hãy tránh xa nó trước khi nó đá đổ cửa chuồng ngựa xuống.” “Chúng ta làm ông chủ mày lo lắng đấy, và ông ấy bắt đầu ngâm những đoạn thơ tăm tối do giáo sĩ điên cuồng người Italia viết rồi kìa. Tao trở lại vào ngày mai với thứ gì đó ngòn ngọt nhé.” Tôi quay sang hôn lên mũi Balthasar. Cu cậu vẩy đuôi, bốn vó dậm nhảy vẻ nôn nóng. Matthew cố gắng giấu vẻ ngạc nhiên. “Em nhận ra ư?” “Giordano Bruno. Nếu con hươu đực khát nước chạy tới bờ suối, chỉ bởi vì nó để ý thấy cánh cung tàn nhẫn,” tôi tiếp tục. “Nếu con kỳ lân kia chạy về cái tổ trinh bạch của nó, chỉ bởi vì nó nhìn thấy cái thòng lọng chờ sẵn.” “Em biết tác phẩm của The Nolan[20] ư?” Matthew dùng lối bí hiểm của thế kỷ XVI để ám chỉ bản thân mình. [20. Giordano Bruno (1548 tại Nola - 17/2/1600 tại Roma) hay còn gọi là Bruno Nolan, là nhà triết học, linh mục, nhà vũ trụ học và nhà huyền bí người Ý. Bruno được biết đến là người ủng hộ Thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus và ông là trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ỷ tưởng về Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ là bao la vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội là dị giáo và bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600. Ông được coi là tấm gương đầu hy sinh cho khoa học.] Mắt tôi nheo lại. Chúa lòng lành, ấy quen biết cả Bruno lẫn Machiavelli ư? Matthew có vẻ hay bị cuốn hút vào mỗi nhân cách kỳ lạ từng sống đời. “Ông ấy là người ủng hộ ban đầu của Copernicus, còn em là sử gia. Làm thế nào biết tác phẩm của Bruno?” “ là độc giả vĩ đại mà,” đáp đánh trống lảng. “ biết ông ấy!” Giọng tôi ra vẻ cáo buộc. “Ông ấy phải là tinh ?” “ con người vượt qua mức thiên tài điên loạn quá thường xuyên, e là thế.” “Đáng lẽ em phải biết. Ông ấy tin có cuộc sống ngoài trái đất và nguyền rủa nhà thờ dị giáo đường lên giàn hỏa thiêu,” tôi lắc đầu . “Thế nhưng ông ấy hiểu được sức mạnh của niềm khao khát.” Tôi sắc sảo quan sát chàng ma cà rồng. “Khao khát thúc giục, trong khi nỗi sợ kiềm hãm ta. Có phải Bruno là nhân vật chính trong bài luận của ở All Soul ?” “ chút.” Quai hàm Matthew bạnh ra. “Em vui lòng tránh xa chỗ đó ra chứ? Chúng mình có thể trò chuyện về triết học vào dịp khác.” Những ý nghĩ khác lởn vởn qua tâm trí tôi. Còn điều gì đó khác nữa về tác phẩm của Bruno có thể khiến Matthew nghĩ về bản thân. Ông ấy viết về nữ thần Diana. Tôi bước xa khỏi chuồng ngựa. “Balthasar phải là chú ngựa con đâu,” Matthew cảnh cáo, kéo khuỷu tay tôi . “Em có thể thấy điều đó mà. Nhưng em biết điều khiển cậu bé.” Cả cuốn cổ thư về giả kin thuật và triết gia người Italia đều biến mất khỏi tâm trí tôi khi tôi nghĩ đến thử thách như thế. “Em cũng cưỡi ngựa đấy chứ?” Matthew hỏi vẻ hoài nghi. “Em lớn lên ở vùng thôn quê và cưỡi ngựa từ khi còn bé – huấn luyện ngựa, cưỡi chúng nhảy qua chướng ngại vật, và mọi thứ.” Ở lưng chú ngựa còn giống bay hơn cả chèo thuyền. “Chúng ta có những con ngựa khác. Còn Balthasar ở nguyên đây,” dứt khoát . Cưỡi ngựa là phần thưởng ngoài dự kiến của chuyện đến Pháp này, điều gần như khiến cho diện lạnh lùng của Ysabeau trở nên có thể khoan thứ được. Matthew dẫn tôi tới đầu kia của chuồng ngựa, nơi sáu con thú ngoan ngoãn hơn đợi sẵn. Hai trong số chúng to lớn và đen tuyền – mặc dù to lớn bằng Balthasar, con ngựa cái màu hạt dẻ khá tròn trịa, con kia là chú ngựa thiến màu hồng. Còn có hai con ngựa giống Andalusia màu xám nữa, chân lớn và cổ cong. con tiến tới cửa để xem cái gì vào địa phận của nàng. “Đây là Nar Rakasa,” , khẽ xoa mõm nó. “Tên nó có nghĩa là ‘vũ công lửa.’ Nhà thường chỉ gọi nàng là Rakasa thôi. Nó di chuyển đẹp lắm, nhưng tính rất ngang ngạnh. Em và nó hợp nhau lắm đấy.” Tôi từ chối cắn câu, mặc dù đó là lời mời chào quyến rũ. Tôi để Rakasa đánh hơi tóc và mặt mình. “Chị em của nó tên là gì?” “Fiddat – nghĩa là bạc.” Fiddat tiến tới trước khi nghe Matthew nhắc đến tên nó, đôi mắt đen của nó biểu lộ vẻ trìu mến. “Fiddat là ngựa của Ysabeau.” Matthew chỉ vào hai con màu đen. “Còn hai con kia là của . Dahr và Sayad” “Những cái tên ấy có nghĩa là gì?” tôi hỏi, bước tới ngăn chuồng của chúng. “Dahr là tiếng Ả Rập nghĩa là thời gian, còn Sayad nghĩa là thợ săn,” Matthew giải thích rồi bước đến nhập hội cùng tôi. “Sayad thích được cưỡi qua những cánh đồng chơi đuổi bắt và nhảy qua hàng rào. Dahr kiên nhẫn và mền tính.” Chúng tôi tiếp tục chuyến tham quan, Matthew lưu ý tôi các đặc điểm của những ngọn núi và chỉ hướng thị trấn cho tôi. chỉ cho tôi xem những chỗ lâu đài được sửa lại và cách những người thợ dùng các loại đá khác bởi vì loại đá nguyên bản còn nữa. Chuyến tham quan kết thúc cũng là lúc tôi còn lo lạc đường được nữa – ở chỗ phần tháp trung tâm khó mà lầm lẫn được. “Tại sao em lại mệt thế nhỉ?” tôi ngáp dài khi chúng tôi quay về lâu đài. “Em hết thuốc chữa,” Matthew vẻ phát cáu. “Em có cần phải kể lại chi tiết các kiện trong 36 giờ qua ?” Trước thúc giục của , tôi đồng ý chợp mắt giấc nữa. Để ở lại phòng làm việc, tôi leo lên cầu thang và nhào lên giường, quá mệt đến mức buồn thổi tắt nến. Lát sau tôi mơ thấy mình cưỡi ngựa xuyên qua cánh rừng tối tăm. Tôi mặc chiếc áo dài rộng lùng thùng màu xanh lá cây thắt đai quanh eo, chân đôi xăng đan, dây dạ của chúng buộc bắt chéo quanh mắt cá và bắp chân tôi. Những con chó sủa vang, bốn chân chúng đạp đổ những bụi cây thấp phía sau tôi. cái bao đựng tên ghì chặt vai, bàn tay tôi nắm chặt cây cung. Bất chấp các thanh báo điềm xấu có kẻ truy đuổi theo mình, tôi hề cảm thấy sợ hãi. Trong giấc mơ, tôi mỉm cười biết mình có thể chạy vượt xa những kẻ săn đuổi kia. “Bay ,” tôi ra lệnh – và con ngựa tuân theo.
Chương 19 Sáng hôm sau, ý nghĩ đầu tiên của tôi cũng là cưỡi ngựa. Tôi luồn bàn chải tóc qua mái tóc mình, súc miệng và mặc vào người cái quần legging ôm sát. Đó là thứ gần giống cái quần cưỡi ngựa nhất mà tôi có bên mình. Giầy chạy bộ làm tôi thể giữ gót chân bàn đạp ngựa, bởi thế nên tôi thay bằng đôi giày lười của mình. chiếc áo phông dài tay và áo chui cổ lông cừu là hoàn thiện bộ đồ của tôi. Túm hết tóc ra sau thành cái đuôi ngựa, tôi trở lại phòng ngủ. Matthew nhướng lông mày lên khi tôi xộc vào phòng, cánh tay đưa ra chặn lại cho tôi tiến xa hơn. đứng tựa người vào lối có mái vòm rộng rãi dẫn tới cầu thang, phục trang đẹp đẽ như thường lệ với cái quần cưỡi ngựa màu xám sẫm và chiếc áo len đen. “Chúng mình cưỡi ngựa vào buổi chiều nhé.” Tôi mong được cưỡi ngựa ngay. Bữa tối với Ysabeau quá là căng thẳng, và tiếp sau đấy giấc ngủ của tôi y như cơn ác mộng. Matthew phải leo lên gác để kiểm tra tôi tới mấy lần. “Em khỏe mà. Vận động và khí tươi mát là những thứ tốt nhất thế giới này đối với em.” Khi tôi cố qua mặt lần nữa, làm tôi phải đứng lại chỉ bằng cái nhìn u ám. “Nếu em ngất ngưỡng yên ngựa là mang em về nhà đấy. Hiểu chứ?” “ hiểu.” Xuống dưới nhà, tôi hướng tới phòng ăn, nhưng Matthew kéo tôi về hướng khác. “Chúng mình hãy ăn ở trong bếp,” khẽ. có bữa sáng trịnh trọng cùng với Ysabeau nhìn chằm chằm tôi qua tờ Le Monde. Đó là tin tức được vui mừng đón nhận. Chúng tôi ăn ở nơi có vẻ là phòng của quản gia, trước ngọn lửa cháy rực rỡ bên chiếc bàn được sắp cho hai người – dù tôi là người duy nhất ăn những món ăn tuyệt vời và đầy tú hụ của Marthe. bình trà to đại đặt chiếc bàn gỗ tròn sứt sẹo, được bọc trong chiếc khăn lanh để giữ nóng. Marthe liếc nhìn tôi vẻ quan tâm lo lắng, tặc lưỡi trước màu xanh tái và những quầng thâm dưới mắt tôi. Khi tay dĩa của tôi chậm lại, Matthew với sang chồng hộp xếp thành hình kim tự tháp cùng với cái mũ cáp bọc nhung đen. “Tặng em,” rồi đặt chúng lên bàn. Tự chiếc mũ cáp đó là lời giải thích. Nó có hình dáng giống chiếc mũ mềm chóp cao, với dải lụa sọc màu đen gấp ở gáy. Bất chấp lớp lụa phủ ngoài và dải ruy băng của nó, chiếc mũ này cứng cáp và được làm ra cốt giữ cho cái hộp sọ mềm của con người khỏi bị vỡ vụn nếu có đập xuống đất. Tôi ghét chúng, nhưng đó là phòng xa khôn ngoan. “Cảm ơn ,” tôi . “Cái gì trong những chiếc hộp này thế? “Em mở chúng ra .” Trong hộp đầu tiên là chiếc quần cưỡi ngựa màu đen với lớp da lộn đắp bên trong chỗ hai đầu gối để kẹp vào yên ngựa. Chúng thoải mái hơn rất nhiều so với cái quần legging trơn tuột của tôi và trông cũng vừa vặn nữa. Matthew hẳn phải gọi nhiều cuộc điện thoại hơn và chuyển qua các kích thước ước lượng trong khi tôi chợp mắt. Tôi mỉm cười với vẻ biết ơn. Trong hộp còn có chiếc áo vest độn màu đen đuôi dài với các miếng kim loại cứng chống đỡ được may vào các đường may nổi của áo. Trông nó y như cái mai rùa – thoải mái và cồng kềnh. “Cái này cần thiết.” Tôi giơ nó lên, nhăn mặt. “Nó cần nếu em sắp cưỡi ngựa.” Giọng chẳng biểu chút dấu hiệu cảm xúc nào. “Em bảo với là em có kinh nghiệm. Nếu vậy em hẳn thích nghi được ngay với trọng lượng của nó.” Sắc diện của tôi ửng hồng và đầu những ngón tay có cảm giác ngứa ngáy cảnh báo. Matthew quan sát tôi vẻ thích chí, còn Marthe tới cửa và khịt mũi hít ngửi. Tôi hít thở đều cho tới khi cảm giác ngứa ran ngưng lại. “Em đeo dây an toàn xe ô tô của ,” Matthew đều đều. “ em mặc bộ áo đó cưỡi con ngựa của .” Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm để so bì ý chí. Ý nghĩ về bầu khí tươi mát đánh bại tôi, và ánh mắt Marthe lấp lánh ánh vui nhộn thích thú. ràng cuộc thương lượng của chúng tôi xem cũng vui như trận đấu khẩu giữa Matthew và Ysabeau vậy. Tôi kéo cái hộp cuối cùng về phía mình trong im lặng nhượng bộ. Cái hộp này dài và nặng, mùi da xộc lên khi nắp của nó được nhấc ra. Bốt. Đôi bốt màu đen dài đến đầu gối. Tôi chưa bao giờ biểu diễn cưỡi ngựa và trò giải khuây cũng hạn chế nên chưa từng sở hữu đôi bốt cưỡi ngựa đúng quy cách thế này. Nó đẹp, phần bắp chân cong cong duyên dáng và là da mềm dễ uốn. Các ngón tay tôi chạm vào bề mặt sáng bóng của nó. “Cảm ơn ,” tôi thốt lên, thích thú với điều ngạc nhiên dành cho tôi. “ khá chắc chắn là chúng vừa đấy,” Matthew , ánh mắt dịu dàng. “ nào ,” Marthe hồ hởi từ chỗ cửa ra vào. “ thay đồ .” Bà lão vừa đưa tôi vào phòng giặt là tôi đá văng đôi giày lười và cởi cái quần legging ra. Bà cầm cái quần cũ sờn hiệu Lycra bằng cotton trong khi tôi vặn vẹo xỏ vào chiếc quần cưỡi ngựa. “Ngày xưa phụ nữ cưỡi ngựa như đàn ông đâu,” Marthe , ngó những cơ bắp chân tôi và lắc đầu. Matthew trao đổi điện thoại khi tôi trở lại, gửi các chỉ thị cho tất cả những ai ở trong thế giới của và cầu có quản lý của . ngước lên nhìn vẻ hài lòng. “Thế dễ chịu hơn đấy.” đứng lên và cầm lấy đôi bốt. “ có đế để rút giày ở đây. Em phải đôi giày khác tới chỗ tàu ngựa rồi.” “, em muốn nó ngay bây giờ cơ,” tôi , các ngón tay xòe ra. “Thế ngồi xuống.” lắc đầu trước vẻ nôn nóng của tôi. “Em bao giờ được bốt lần đầu tiên mà có trợ giúp đâu.” rồi Matthew nhắc cả cái ghế cùng với tôi ngồi đó và xoay nó lại để có nhiều gian thao tác hơn. giơ ra chiếc bốt chân phải, và tôi thọc bàn chân mình vào sâu tới mắt cá chân. đúng - có lực kéo mạnh bàn chân tôi qua chỗ cong cứng được. đứng phía chân tôi, nắm vào gót và mũi bốt rồi nhàng lựa luồn nó vào trong khi tôi kéo miếng da về hướng khác. Sau vài phút chật vật, bàn chân tôi thọc được hẳn vào trong ống giày. Matthew ấn lần dứt khoát duy nhất và chiếc bốt ốp vào bắp chân tôi. Khi mang cả hai chiếc bốt vào rồi, tôi giơ hai chân ra ngắn nhìn cách thích thú. Matthew kéo mạnh và vỗ , rồi luồn mấy ngón tay lạnh ngắt của vào quanh vành để chắc chắn là máu huyết của tôi có thể lưu thông. Tôi đứng lên, hai chân cảm giác dài khác thường, bước vài bước còn hơi bị cứng ở mắt cá chân, rồi hơi xoay người. “Cảm ơn .” Tôi choàng hai cánh tay quanh cổ , hai mũi bốt lướt qua mặt sàn. “Em rất thích chúng.” Matthew mang áo vest và mũ của tôi ra chuồng ngựa, cũng như vẫn mang máy tính và thảm tập yoga cho tôi ở Oxford. Cửa chuồng ngựa mở toang, có tiếng ồn ào vọng ra. “Geoges à?” Matthew gọi. người đàn ông bé rắn rỏi tuổi tác khó đoán – mặc dù phải ma cà rồng – bước vòng ra từ góc quanh, ông ta mang bộ cương và chiếc bàn chải lông ngựa. Khi chúng tôi ngang qua ngăn chuồng của Balthasar, con ngựa đực dậm chân giận dữ, hất hất đầu. hứa rồi mà, cu cậu có vẻ muốn vậy. Trong túi áo tôi có quả táo vòi vĩnh được từ Marthe. “Của mày đây, cậu bé,” tôi , đưa quả táo ra lòng bàn tay duỗi phẳng. Matthew thận trọng quan sát khi Balthasar vươn cổ và đưa cặp môi mềm mại ngậm lấy quả táo từ tay tôi. Khi quả táo nằm trong miệng nó rồi, cu cậu nhìn ông chủ của mình với vẻ đắc thắng. “Phải, tao thấy là mày cư xử như chàng hoàng tử,” Matthew cộc lốc, “nhưng điều đó có nghĩa là mày cư xử giống con quỷ ngay khi có cơ hội.” Balthasar gõ móng xuống đất ra chiều khó chịu. Chúng tôi qua phòng để đồ. Ngoài yên ngựa, dây cương, giữa phòng còn có khung gỗ dùng để đặt thứ trông giống như cái ghế bành có những trụ chống kỳ lạ ở bên. “Chúng là cái gì thế?” “Yên ngựa bên,” Matthew vừa vừa cởi giày rồi bước vào đôi bốt cao sờn nhiều. Hai bàn chân xỏ xuống dễ dàng chỉ bằng cú giậm gót đơn giản và cái giật mạnh phía vành. “Ysabeau thích dùng chúng hơn.” Trong bãi giữ ngựa, Dahr và Rakasa ngoảnh đầu nhìn chúng tôi với vẻ thích thú trong khi Georges và Matthew bắt đầu bàn luận chi tiết về những khó khăn chúng tôi có thể phải đối mặt. Tôi xòe lòng bàn tay ra cho Dahr, thấy tiếc rằng còn trái táo nào trong túi nữa. Chú ngựa thiến tỏ vẻ thất vọng khi đánh hơi thấy mùi thơm ngọt ngào kia. “Lần sau nhé,” tôi hứa, luồn tay xoa dưới cổ chàng rồi đến cạnh Rakasa. “Chào người đẹp.” Rakasa nhấc chân phải phía trước lên và vểnh đầu về phía tôi. Tôi vuốt ve phía cổ và vai nàng, để nàng quen với hơi và va chạm của tôi, rồi tôi kéo cái yên, kiểm tra độ xiết căng của dây đai yên và chắc chắn rằng tấm chăn lót bên dưới đủ mềm mại. Rakasa quanh lần theo mùi thơm và khụt khịt mũi ẩm ĩ, dụi mũi vào cái áo cổ lọ của tôi chỗ lúc trước để trái táo. nàng hất đầu vẻ phẫn nộ. “Cả mày cũng thế,” tôi bật cười hứa với Rakasa rồi đặt bàn tay trái lên gần đuôi nàng cách chắc chắn. “Chúng ta xem nhé.” Những con ngựa thích được sờ vào chân cũng như hầu hết phù thủy thích nhúng người trong nước. Nhưng ngoài những thói quen và mê tín, tôi bao giờ cưỡi ngựa mà chưa kiểm tra chắc chắn xem chỗ móng mềm của chúng có bị dính thứ gì vào . Khi đứng thẳng lên, tôi thấy hai người đàn ông quan sát tôi chăm chú. Georges điều gì đó ra hiệu tôi làm được. Matthew đăm chiêu gật đầu, và đưa cho tôi chiếc áo cùng với mũ. Chiếc áo ấm áp và cứng cáp – nhưng tệ như tôi tưởng. Cái mũ vướng vào túm tóc, tôi kéo cái chun buộc tóc thấp xuống trước khi buộc dải băng lại dưới cằm. Matthew ở sau lưng tôi đúng lúc để đưa cho tôi dây cương và nâng bàn chân tôi lên chỗ bàn đạp của Rakasa. “Em chẳng bao giờ đợi cho tới lúc giúp em nhỉ?” cằn nhằn bên tai tôi. “Em có thể tự mình lên ngựa mà,” tôi nóng nảy đáp. “Nhưng em cần làm thế.” Hai tay Matthew khum lại nắm vào cẳng chân và nâng tôi lên yên dễ dàng. Sau đó kiểm tra độ dài của bàn đạp, kiểm tra lại đai yên và cuối cùng tới chỗ con ngựa của . đu người lên yên vẻ thành thục như thể ở lưng ngựa hàng trăm năm rồi vậy. Khi ngồi vững vàng lưng Dahr, trông giống ông hoàng. Rakasa bắt đầu nhảy lên nôn nóng, và tôi nhấn hai gót chân xuống. nàng dừng lại trông có vẻ bối rối. “Yên nào,” tôi thầm. Rakasa gật đầu và nhìn chăm chú về phía trước, hai tai vẩy tới vẩy lui. “Cho bé vòng quanh bãi tập trong khi kiểm tra yên cương của nhé,” Matthew đột nhiên , đu đầu gối trải lên vai Dahr và táy máy nghịch ngợm sợi dây da treo bàn đạp. Tôi nheo mắt. Mấy sợi dây đó cần phải điều chỉnh gì cả. ấy kiểm tra kỹ năng cưỡi ngựa của tôi thôi. Tôi cho Rakasa dạo bước nửa đường quanh bãi tập để cảm nhận dáng của nàng. nàng giống Andalusia này nhún nhảy, chân nhấc lên với vẻ tinh tế và đặt xuống vững vàng trong chuyển động lắc lư, duyên dáng. Khi tôi ép hai gót giày vào sườn nó, cuộc dạo bước nhủn nhảy của Rakasa chuyển sang dáng chạy nước kiệu nhịp nhàng khoan thai. Chúng tôi lướt ngang qua Matthew, chàng thôi giả bộ chỉnh lại yên cương. Georges tựa người vào hàng rào, miệng cười rạng rỡ. xinh đẹp, tôi thầm lặng lẽ. Tai trái Rakasa bật ra sau, và nàng cất bước chạy hơn. Khi bắp chân tôi ép vào hông Rakasa, ngay phía sau chỗ bàn đạp, eo nàng chuyển sang phi nước đại, bốn vó sải ra trong trung, cổ uốn cong xuống. Matthew giận dữ thế nào nếu chúng tôi nhảy qua hàng rào bãi này nhỉ? Giận dữ, tôi chắc chắn thế. Rakasa chạy quanh qua góc, và tôi cho nàng chạy chậm lại thành nước kiệu . “Thế nào?” tôi hỏi. Geoges gật đầu và mở cánh cửa bãi tập. “Em ngồi vững đấy,” Matthew , đưa mắt nhìn xuống chỗ ngồi của tôi. “Tay cũng vững nữa. Em ổn thôi. Nhân tiện đây,” tiếp tục với sắc chuyện đều đều, ngả người về phía tôi và hạ thấp giọng, “nếu lúc nãy em mà nhảy qua cái hàng rào phía sau kia, cuộc dạo chơi hôm nay hẳn kết thúc rồi.” Rồi chúng tôi ra khỏi khu vườn và qua cánh cổng cũ. Cây cối bắt đầu dày hơn, Matthew lướt nhìn rà soát qua cánh rừng. Tiến vài bước vào khu rừng, bắt đầu thư giãn, xem xét mọi sinh vật trong phạm vi xung quanh và phát ra rằng chẳng có gì trong số đó là loại có hai chân cả. Matthew thúc Dahr chạy nước kiệu, và Rakasa ngoan ngoãn đợi tôi cũng thúc nàng giống thế. Tôi làm theo, ngạc nhiên lần nữa trước vẻ nhịp nhàng duyên dáng khi nàng di chuyển. “Dahr là loại ngựa gì vậy?” tôi hỏi, để ý thấy dáng di êm ái đều đều của nó. “ cho rằng em nên gọi nó là ngựa chiến,” Matthew giải thích. Đó là những con ngựa mang các hiệp sĩ tới cuộc Thập Tự Chinh. “Cậu bé là ngựa nòi về tốc độ và lanh lẹ đấy.” “Em tưởng ngựa chiến là những con ngựa to lớn trong chiến trận chứ?” Dahr to lớn hơn Rakasa, nhưng nhiều lắm. “Có thời chúng to lớn. Nhưng đủ lớn để chở bất cứ người đàn ông nào trong gia đình này vào chiến trận, nhất là khi bọn mang áo giáp lưng và vũ khí nữa. Gia đình huấn luyện những chú ngựa như Dahr và cưỡi chúng cho vui, còn bọn chiến đấu lưng những con ngựa Percherons như Balthasar.” Tôi nhìn chớp mắt vào phần giữa hai tai của Rakasa, gom hết can đảm để chuyển sang chủ đề khác. “Em có thể hỏi vài điều về mẹ ?” “Dĩ nhiên rồi,” Matthew , vặn người yên ngựa. đặt nắm tay lên hông và nhàng giữ cương ngựa ở tay kia. Giờ tôi biết hoàn toàn chắc chắn là hiệp sĩ thời trung cổ trông như thế nào khi ở lưng ngựa. “Tại sao bà lại ghét phù thủy đến thế? Ma cà rồng và phù thủy là kẻ thù truyền kiếp, nhưng căm ghét của Ysabeau với em còn vượt xa hơn thế. Nó có vẻ mang tính cá nhân.” “ cho rằng em muốn câu trả lời hay hơn là việc em có mùi giống mùa xuân.” “Vâng, em muốn biết lý do .” “Bà ghen tỵ.” Matthew vỗ lên vai Dahr. “Bà ghen tỵ vì cái gì cơ chứ?” “Hãy xem nhé. Sức mạnh của em – đặc biệt là năng lực tiên tri của phù thủy. Em có khả năng sinh con và truyền lại sức mạnh đó cho thế hệ mới. Và việc em có thể chết dễ dàng, cho là thế,” Matthew , giọng trầm tư. “Ysabeau có và Louisa là con đấy thôi!” “Phải, Ysabeau tạo ra bọn . Nhưng nghĩ nó giống với việc sinh đứa trẻ ra.” “Tại sao bà lại đố kỵ với nhãn quan thứ hai của phù thủy.” “Chuyện đó hẳn liên quan tới việc Ysabeau được tạo ra như thế nào. Người tạo ra bà hỏi xin đồng ý trước,” gương mặt Matthew sa sầm lại. “Ông muốn lấy bà làm vợ, đưa bà và biến bà thành ma cà rổng. Trước đó bà nổi tiếng là nhà tiên tri và đủ trẻ trung để hy vọng có con. Khi bà trở thành ma cà rồng, cả hai khả năng ấy đều biến mất. Bà bao giờ vượt qua được chuyện đó, và phù thủy chính là kẻ liên tục gợi cho bà nhớ đến cuộc sống mà bà mất.” “Tại sao bà ghen tỵ với việc phù thủy có thể chết dễ dàng?” “Bởi vì bà nhớ cha .” đột ngột ngừng lại, và ràng là tôi dồn ép đủ rồi. Cây cối thưa dần, hai tai Rakasa nôn nóng vẩy tới vẩy lui. “Tiến lên nào,” với vẻ nhẫn nại, ra dấu về phía cánh đồng trải dài phía trước chúng tôi. Rakasa chồm tới trước khi tôi chạm gót vào mình nó, hơi kéo căng hàm thiếc. nàng chầm chậm leo lên đồi, và khi lên tới đỉnh nàng ta nhảy dựng lên hất đầu ràng vui sướng khi Dahr vẫn còn đứng ở dưới chân đồi. Tôi điều khiển cho Rakasa vòng nhanh theo hình số tám, đổi hướng cho nàng phi tới để bị trượt chân khi quành qua các góc. Darh cất bước – phải là phi nước kiệu mà là nước đại – cái đuôi màu đen của cu cậu phất phới phía sau và bốn vó sải mặt đất với tốc độ thể tin được. Tôi thở gấp, khẽ kéo dây dương của Rakasa để nàng dừng lại. Ra đó chính là lợi điểm của ngựa chiến. Chúng có thể tăng tốc từ 0 tới 60 dặm giờ giống như chiếc xe thể thao xịn. Matthew chẳng cần mất sức để làm cho con ngựa của phóng chậm lại khi tới gần, nhưng Dahr vẫn dừng khi vừa khít cách chúng tôi 20 mét, hai mạng sườn chàng hơi nhô ra vì ráng sức. “Phô trương ! cho em nhảy qua hàng rào nhưng lại để mình trình diễn màn như thế hả?” “Dahr chưa vận động đủ. Đây chính xác là điều nó cần đấy.” Matthew cười khoái trá và vỗ lên vai con ngựa của mình. “Em có hứng thú đua ? Bọn để bên em xuất phát trước, dĩ nhiên là thế,” kèm theo cái cúi đầu phong nhã. “ đấy nhé. Tới đâu nào?” Matthew chỉ cái cây đơn độc đỉnh dải đồi và quan sát tôi, sẵn sàng canh chừng dấu hiệu chuyển động đầu tiên. chọn cái đích mà bạn có thể lao qua mà đâm phải bất kỳ thứ gì. Có thể Rakasa giỏi trong việc dừng đột ngột như Dahr. Tôi chẳng làm gì được để khiến chàng ma cà rồng ngạc nhiên, và cũng chẳng có cửa nào cho ngựa của tôi – vì dáng phi nhịp nhàng uyển chuyển của nàng thể đánh bại được Dahr khi phóng lên dải đồi. Dù sao, tôi vẫn háo hức muốn thấy nàng của mình trình diễn tốt đến thế nào. Tôi nhoài người tới trước và vỗ vào cổ Rakasa, tì cằm mình lên làn da nóng ấm của nàng trong tích tắc và nhắm mắt lại. Bay , tôi thầm khích lệ Rakasa. Rakasa phóng về phía trước như thể vừa bị quất vào mông, và những bản năng của tôi trỗi dậy. Tôi nâng người lên khỏi yên để nàng có thể mang trọng lượng cơ thể tôi dễ dàng hơn, rồi nới lỏng tay cương. Khi tốc độ của Rakasa ổn định, tôi hạ thấp người xuống yên, kẹp thân mình nóng ấm của nó giữa hai chân mình. Hai bàn chân tôi thả khỏi hai cái bàn đạp cần thiết, và những ngón tay tôi đan vào bờm của nó. Matthew và Dahr ầm ầm lao tới phía sau chúng tôi. Giống y như trong giấc mơ, khi những con chó và ngựa đuổi theo phía sau tôi. Bàn tay trái nắm lại như cầm thứ gì đó, tôi khom người xuống áp sát vào cổ Rakasa, mắt nhắm lại. Bay , tôi lặp lại, nhưng giọng trong đầu còn giống giọng tôi nữa. Rakasa đáp lại bằng cách tăng tốc hơn nữa. Tôi cảm thấy cái cây ngày càng gần hơn. Matthew chửi rủa bằng tiếng Occitan, và Rakasa ngoạch sang bên trái ở phút cuối cùng rồi chạy chậm lại thành nước kiệu và sau đó là nước kiệu. Dây cương của Rakasa bị giật mạnh. Tôi hoảng hốt choàng mở mắt. “Có phải em lúc nào cũng cưỡi ngựa lạ hết tốc lực, mắt nhắm, cầm cương, và cần bàn đạp ?” Giọng Matthew nghe giận dữ điên cuồng. “Em nhắm mắt chèo thuyền – thấy. Và em còn nhắm mắt bộ nữa. vẫn nghi ngờ rằng có phép thuật dính líu vào những chuyện này. Em chắc chắn dùng phép thuật khi cưỡi ngựa, nếu em chết rồi. tin là em bảo Rakasa phải làm gì bằng tâm thức chứ phải bằng tay và chân!” Tôi lấy làm kinh ngạc liệu điều có phải là . Matthew thốt lên nóng nảy và xuống ngựa bằng cách nhún chân phải vòng qua đầu Dahr, đá chân trái ra khỏi bàn đạp và trượt xuống bên cạnh con ngựa, mặt hướng ra ngoài. “Xuống ngay!” thô lỗ , giật lấy sợi cương lỏng lẻo của Rakasa. Xuống ngựa theo lối truyền thống, tôi quàng chân phải qua mông Rakasa. Khi lưng tôi quay về phía , Matthew với tay bế thốc tôi xuống khỏi mình ngựa. Giờ tôi biết tại sao thích xuống ngựa mặt hướng ra ngoài hơn. Nó giúp bạn khỏi bị túm từ phía sau và kéo xuống khỏi mình ngựa. xoay tôi lại và ôm nghiến tôi vào lồng ngực mình. “Trời ạ,” thầm trong tóc tôi. “Đừng bao giờ làm bất cứ điều gì như thế nữa nhé, xin em đấy.” “ bảo em phải lo lắng về những gì mình làm mà. Đó là lý do tại sao mang em tới Pháp mà,” tôi , bối rối trước phản ứng của . “ xin lỗi,” thiết tha . “ cố gắng can thiệp vào. Nhưng khó khăn khi nhìn em sử dụng những sức mạnh mà em hiểu – đặc biệt là khi em ý thức được mình làm gì.” Matthew để tôi đứng đó và quay ra phía lũ ngựa, buộc dây cương lại để chúng bỏ lang thang được nhưng vẫn cho chúng được tự do gặm những nhánh cỏ thưa thớt. Khi quay trở lại nét mặt rầu rĩ. “ có cái này cần cho em xem.” dắt tôi tới chỗ cái cây, chúng tôi ngồi xuống dưới tán của nó. Tôi thận trọng ngồi gập hai chân về phía để đôi bốt cứa vào chân. Matthew đơn giản ngồi xuống, đầu gối tỳ đất, hai bàn chân thu lại dưới bắp đùi. thò tay vào túi quần ngựa và lôi ra mảnh giấy có những cái vạch ngang màu đen và xám nền trắng. Nó được gấp lại và giở ra vài lần rồi. Đó là bản báo cáo kết quả DNA. “Của em à?” “Của em đấy.” “Khi nào thế?” Những ngón tay tôi lần theo các vạch ngang trang giấy. “Marcus mang kết quả này đến New College. muốn cho em biết ngay sau khi bọn xấu kia vừa nhắc em nhớ đến cái chết của bố mẹ.” ngập ngừng . “ có đúng khi đợi đến giờ?” Khi tôi gật đầu đồng ý, Matthew trông bớt hẳn căng thẳng. “Nó gì thế?” tôi hỏi. “Chúng ta hiểu hết được mọi điều,” chậm rãi đáp. “Nhưng Marcus và Miriam nhận định các chỉ số trong DNA của em là các chỉ số họ chưa bao giờ thấy trước đây.” Phần viết tay xíu nhưng ràng của Miriam gạch nối dẫn xuống phía trái trang giấy và vài vạch ngang được khoanh tròn bằng bút đỏ rồi vạch nối xuống bên phải. “Đây là gen dành cho tiền nhận thức,” Matthew tiếp tục, chỉ vào vòng khoanh tròn đầu tiên bị nhòe mờ. Ngón tay tò từ di chuyển xuống phía dưới trang giấy. “Cái này là để bay. Cái này giúp phù thủy tìm thứ gì đó thất lạc.” tiếp tục thuyết minh trơn tru lưu loát về các sức mạnh và năng lực hồi cho tới khi đầu tôi quay mòng mòng choáng váng. “Cái này là để chuyện với người chết, cái này là biến hóa, cái này là siêu năng lực di chuyển đồ vật từ xa, cái này là để yểm bùa chú, cái này là bỏ bùa , cái này là những lời nguyền. Em còn có khả năng đọc ý nghĩ, thần giao cách cảm và thấu cảm – chúng ở bên cạnh nhau.” “Điều này là thể!” Tôi chưa bao giờ nghe đến phù thủy nào lại có nhiều hơn hoặc hai sức mạnh cả. Matthew vừa mới kể ra tá. “ nghĩ những thứ này là đúng cả đấy, Diana ạ. Những sức mạnh này có thể chưa bao giờ biểu lộ , nhưng em được thừa hưởng gen di truyền có tố chất liên quan đến chúng.” lật trang giấy. Lại có nhiều khoanh tròn màu đỏ và những chú giải tỉ mỉ hơn nữa của Miriam. “Đây là các thành tố cơ bản. Đất diện trong hầu hết các phù thủy, số có có thêm khí hoặc nước. Em có cả ba thành tố đó, điều này bọn chưa bao giờ thấy trước đây. Và em cũng có cả lửa nữa. Lửa là thành tố rất, rất hiếm đấy.” Matthew chỉ vào bốn vết nhòe mờ mờ. “Các thành tố cơ bản là gì?” Chân tôi cảm thấy cơn gió hiu hiu khó chịu, các ngón chân râm ran tê. “Các chỉ số cho thấy em có tố chất gen thiên về khuynh hướng điều khiển hoặc nhiều hơn các thành tố này. Chúng lý giải tại sao em có thể gọi lên cơn gió phù thủy. Căn cứ theo đó em còn có thể ra lệnh cho cả lửa phù thủy và nước phù thủy nữa.” “Thế còn đất làm gì?” “Phép thuật liên quan đến cây cỏ, sức mạnh đó ảnh hưởng đến phát triển của mọi vật – cơ bản là thế. Kết hợp với yểm bùa, nguyền rủa và bỏ bùa mê – hay bất cứ gì trong số đó – có nghĩa em chỉ có các năng lực pháp thuật mạnh mẽ mà còn có tài thiên bẩm về thuật nữa.” Dì của tôi giỏi dùng bùa chú. Emily giỏi món đó nhưng lại có thể bay ở khoảng cách ngắn và tiên thị được tương lai. Những năng lực này là khác biệt cơ bản giữa các phù thủy – phân biệt họ ra thành phù thủy sử dụng được thuật, giống như Sarah, với phù thủy dùng phép thuật. Tôi vùi mặt vào hai bàn tay. Viễn cảnh của việc nhìn thấy trước tương lại như mẹ tôi cũng đủ khiếp sợ rồi. Điều khiển các thành tố ư? Trò chuyện với người chết ư? “Có danh sách dài các sức mạnh tờ giấy đó. Chúng ta chỉ mới thấy được – gì nhỉ? – bốn hay năm cái trong số đó nhỉ?” khủng khiếp. “ ngờ là chúng mình thấy nhiều hơn thế rồi đấy – như cái cách em nhắm mắt di chuyển, năng lực giao tiếp với Rakasa, và các ngón tay phát sáng nữa. Chúng mình chỉ chưa đặt tên cho những năng lực ấy mà thôi.” “Làm ơn với em chỉ có thế thôi .” Matthew do dự. “ chắc đâu.” lật sang trang khác. “Bọn vẫn chưa thể xác định được những điểm sáng này.Trong hầu hết các trường hợp, chúng ta phải đánh giá các yếu tố tương quan giữa những hoạt động của phù thủy – số có hàng trăm năm tuổi với bằng chứng DNA của họ. Có thể rất khó để chúng ăn khớp với nhau.” “Các xét nghiệm này có giải thích vì sao phép thuật của em bây giờ mới dần ra ?” “Chúng ta cần xét nghiệm để biết được điều đó. Phép thuật của em biểu ra giống như nó thức giấc sau giấc ngủ dài. Ngủ quên quá lâu khiến nó trở nên bồn chồn, hiếu động và giờ nó muốn làm theo cách của nó. Dòng máu quậy phá,” Matthew nhàng . đứng dậy cách phong nhã đỡ tôi đứng lên. “Ngồi đất em bị cảm lạnh mất, và phải tốn thời gian khủng khiếp để thanh minh với Marthe nếu em có bị làm sao.” huýt sáo gọi ngựa. Chúng sải bước về phía chúng tôi, vẫn trệu trạo nhai bữa tiệc bất ngờ có được. Chúng tôi cưỡi ngựa thêm giờ nữa, khám phá những khu rừng và cánh đồng xung quanh Sept-Tours. Matthew chỉ ra những lối tốt nhất để săn thỏ và chỗ cha dạy bắn nỏ mà cần nhắm bắn. Khi chúng tôi trở lại chỗ chuồng ngựa, những lo âu về kết quả xét nghiệm của tôi được thế chỗ bằng giác vui vẻ dễ chịu mệt lử. “Các thớ thịt của em ngày mai đau nhừ mất,” tôi rên rỉ. “Em cưỡi ngựa nhiều năm nay rồi.” “ ai đoán ra được từ cách em cưỡi ngựa ngày hôm nay đâu,” . Chúng tôi ra khỏi khu rừng và vào cánh cổng đá của lâu đài. “Em là kỵ sĩ giỏi đấy, Diana, nhưng em được tự mình ra ngoài đâu. Em quá dễ bị lạc đường.” Matthew lo lắng việc tôi bị lạc đường. lo tôi bị phát . “Em đâu mà.” Những ngón tay dài của vẫn nắm chặt dây cương từ năm phút trước, giờ nới lỏng ra. Chàng ma cà rồng này quen với việc ra lệnh và được tuân theo tức . Chàng ta quen với việc đưa ra các đề nghị và thỏa thuận các giao kèo. Và cái tâm trạng thường xuyên nóng nảy của chàng ta chẳng giấu vào đâu được. Điều khiển Rakasa nép gẩn vào Dahr, tôi với qua nâng lòng bàn tay Matthew lên rồi ép môi mình vào làn da thịt cứng rắn và lạnh giá của . Hai con ngươi của giãn ra kinh ngạc. Tôi thả tay ra và giục Rakasa tiến lên trước, hướng thẳng về phía chuồng ngựa.
Chương 20 Ysabeau nhân từ mà vắng mặt trong bữa trưa. Ăn xong tôi muốn lên thẳng phòng làm việc của Matthew và bắt đầu nghiên cứu cuốn Aurora Consurgens nhưng lại thuyết phục tôi nên tắm trước. hứa hẹn rằng việc đó làm cho cảm giác căng cứng cơ dễ chịu hơn. Lên nửa chừng cầu thang, tôi phải dừng lại để xoa bóp đôi chân bị chuột rút làm cho đau thắt. Kiểu này là tôi phải trả giá cho hăng hái nhiệt tình ban sáng rồi. Việc tắm táp quả là tuyệt như thiên đường – lâu, nóng và thư giãn. Tôi mặc vào cái quần âu màu đen, áo len và đôi tất ngắn, rồi cuốc bộ xuống lầu nơi ngọn lửa ấm áp tỏa sáng trong lò. Da thịt tôi chuyển thành màu cam và đỏ lựng như là tôi vừa hơ hai bàn tay trước lửa vậy. Cái đó có giống như việc điểu khiển lửa ? Các ngón tay tôi tê tê đáp lại câu hỏi đó, tôi vội thọc hai tay vào túi quần cho an toàn. Matthew ngước lên từ bàn làm việc. “Cuốn cổ thư của em ở bên cạnh máy tính đấy.” Cuốn sách bìa đen hút tôi lại chỗ nó y như thỏi nam châm. Tôi ngồi vào bàn và mở nó ra, rồi cầm nó lên cách cẩn thận. Màu sắc thậm chí còn rực rỡ hơn là tôi nhớ. Sau khi ngắm chớp mắt vị nữ hoàng kia tới vài lần, tôi giở trang đầu tiên. “Incipit tractatus Aurora Consurgens intitulatus.” Những lời này quen, “Đây là lời mở đầu của luận thuyết mang tên Bình Minh Ló Rạng,” tôi vẫn cảm thấy rùng mình sung sướng vì được tận mắt chiêm ngưỡng cuốn cổ thư của thời kỳ đầu tiên. “ ấy đến với tôi, mang theo bao điều tốt đẹp. ấy nức tiếng là nhà thông thái phương Nam, là người nổi bật đường phố, và giữa đám đông,” tôi đọc thầm, dịch ra từ tiếng Latin. tác phẩm tuyệt đẹp, tràn ngập những diễn giải từ Thánh Kinh cũng như các văn bản khác. “ có cuốn Kinh Thánh ở đây ?” khôn ngoan hơn nếu tôi có thứ hữu ích khác trợ giúp khi xem cuốn cổ thư này. “Có – nhưng chắc nó ở chỗ nào. Em có muốn tìm nó ?” Matthew hơi nhổm dậy khỏi ghế, nhưng ánh mắt vẫn dán chặt vào màn hình máy tính của mình. “, để em tự tìm.” Tôi đứng lên và lướt ngón tay dưới rìa giá sách gần nhất. Những cuốn sách của Matthew được sắp phải theo kích cỡ mà theo thứ tự thời gian. Các cuốn ở giá đầu tiên quá cổ xưa đến nỗi tôi dám nghĩ đến nội dung của chúng nữa – những tác phẩm thất lạc của Aristotle chẳng hạn, có thể chứ? Có thể là bất cứ gì. Khoảng nửa số sách của Matthew được xếp xoay gáy vào trong để bảo vệ những mép sách mỏng manh dễ hỏng. Nhiều cuốn trong số này được đánh dấu ràng dọc theo các rìa trang sách, những chữ cái đậm màu đen giải thích ràng về tít sách và tên tác giả. Được nửa vòng căn phòng, các cuốn sách được quay gáy ra, các tít sách và tên tác giả được rập nổi bằng vàng và bạc lấp lánh. Tôi lướt qua những cuốn dày và phần ruột bên trong xộc xệch, vài cuốn có những ký tự Hy Lạp ở bìa trước. Tôi tiếp tục , tìm kiếm cuốn sách in khổ lớn và dày. Ngón trỏ của tôi đông cứng lại trước cuốn bọc bìa da màu nâu và mạ vàng. “Matthew, làm ơn em biết Bibiia Sacra 1450[21] phải là cái em nghĩ .” [21. Là cuốn Kinh Thánh đầu tiên được Johannes Gutenberg – người phát minh ra phương pháp in dấu – in ra vào năm 1450.] “Ok, nó phải cái em nghĩ đâu,” máy móc đáp theo, các ngón tay chạy đua bàn phím với tốc độ vượt hẳn con người. chẳng mấy để ý xem tôi làm gì và chẳng biết tôi gì nữa. Bỏ cuốn Kinh Thánh Gutenberg ở chỗ của nó, tôi tiếp tục dọc theo các giá sách, hy vọng đó phải là cuốn duy nhất có sẵn cho tôi. Phần lớn các cuốn sách của Matthew vẫn trong tình trạng mới nguyên. Xét theo chủ nhân của chúng điều này cũng hoàn toàn gây ngạc nhiên cho lắm. Dù vậy vẫn có vài quyển mòn hỏng khá nhiều. Ví dụ như cuốn sách cao mỏng mảnh ở giá cuối cùng có nhiều góc rách sờn, có thể thấy cả những lớp giấy bồi xuyên qua lớp da bìa sách. Tò mò xem điều gì khiến nó được thích đến thế, tôi lôi nó xuống và mở ra vài trang. Đó là cuốn sách về giải phẫu học của Vesalius từ năm 1543, là cuốn đầu tiên mô tả cơ thể con người bị cắt xẻ ra chính xác đến từng chi tiết. Những cuốn sách bị sờn cũ khác của Matthew bao gồm các tác phẩm về điện lực, kính hiển vi và sinh lý học. Nhưng cuốn sách bị mòn vẹt nhiều nhất lại nằm các giá sách của thế kỷ XIX: ấn bản đầu tiên cuốn Nguồn gốc các loài của Darwin. Lén liếc nhìn về phía Matthew, tôi lôi cuốn sách xuống khỏi giá với cái kiểu lén lút của tên trộm giả làm khách mua hàng. Nó có bìa màu xanh lá, dòng tít và tên tác giả được mạ vàng, lớp da bên ngoài bị cọ sờn. Matthew viết tên bằng bản in khắc chữ đồng rất đẹp ở tay gấp. bức thư được kẹp vào bên trong. “Thưa Ngài,” nó bắt đầu. “Lá thư ngày 15 tháng Mười của Ngài cuối cùng tới chỗ tôi. Tôi lấy làm hổ thẹn vì việc hồi chậm trễ của mình. Tôi có nhiều năm thu thập các cơ sở thực tế để có thể đề cập tới biến dị và nguồn gốc của các loài, và tán thành của ngài đối với các lý lẽ này đến vừa lúc cuốn sách của tôi được chuyển tới tay nhà xuất bản.” Nó được ký tên là “C. Darwin,” và đề ngày tháng là năm 1859. Hai người đàn ông này vẫn trao đổi thư từ nhiều tuần lễ trước khi cuốn Nguồn gốc các loài được xuất bản vào tháng Mười năm đó. Các trang sách dày đặc những chú thích của chàng ma cà rồng viết bằng bút chì và bút mực, khó lắm mới thấy được centimet giấy trống. Có ba chương được chú thích dày dịt hơn cả. Đó là các chương về bản năng, lai giống, và mối quan hệ qua lại giữa các giống loài. Chương thứ bảy của Darwin về bản năng tự nhiên chắc hẳn là chương hay được ma cà rồng giở đến đọc nhất. Matthew gạch chân cụ thể các trang sách và viết lên phần còn trống của các trang mà các ý tưởng của Darwin làm phấn khích hơn cả. “Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng: những bản năng nhờ thuần hóa mà có đươc và những bản năng bị mất phần là do tâp quán, phần là do con người chọn loc và tích lũy qua nhiều thế hệ liên tiếp nhau, những tập quán và hành động thuộc về trí tuệ khác thường, những thứ ấy ban đầu do hiểu biết mà chúng ta goi là ngẫu nhiên.[22]” Các chỗ Matthew đánh dấu nguệch ngoạc bao gồm những nghi vấn về bản năng có thể do thu nhận tích lũy được hay là ngẫu nhiên có thể có trong tự nhiên. “Có thể nào cái mà chúng ta duy trì như những bản năng là điều mà loài người từ bỏ thông qua ngẫu nhiên và thói quen?” đặt câu hỏi phía lề bên dưới. Tôi chẳng cần hỏi cũng biết những ai được bao gồm trong cái “chúng ta” đó. ấy ám chỉ các sinh vật khác người – chỉ có ma cà rồng, mà còn có cả phù thủy và tinh nữa. [22. Những dòng này được trích từ cuốn Nguồn gốc các loài của Charles Darwin, NXB Tri Thức, 2009, do Trần Bá Tín dịch, Bùi Văn Nam Sơn giới thiệu.] Trong chương về lai giống, hứng thú quan tâm của Matthew bị thu hút về phía các vấn đề di truyền chéo và việc mất khả năng sinh nở. “Việc lai chéo lần đầu giữa những dạng sinh vật khác nhau đủ để xếp chúng là loài, con lai của chúng,” Darwin viết, “rất hay bị vô sinh (nhưng phải là mọi lúc mọi nơi).” bản phác thảo cây phả hệ dày đặc những chú thích ở trang bên cạnh được gạch chân bên dưới. Có dấu hỏi ở chỗ gốc cây phả hệ và chỗ bốn nhánh cây. “Tại sao phối hôn cận huyết lại dẫn đến việc vô sinh hay điên loạn?” Matthew thắc mắc ở chỗ thân cây. Phía đầu trang, viết “1 loài hay 4?” và “ tinh được tạo ra như thế nào?” Tôi đưa ngón tay lần theo chỗ viết tay. Đây là đặc tính của tôi – chuyển những dòng chữ nguệch ngoạc của các nhà khoa học thành thứ gì đó có thể nhận biết và hiểu được đối với người khác. Ở ghi chú cuối cùng, Matthew dùng kỹ thuật quen thuộc để che giấu những ý nghĩ của mình. viết kết hợp cả tiếng Pháp và tiếng Latin – và sử dụng lối viết tắt cổ xưa dành cho chữ “ tinh” bằng cách bỏ tất cả các phụ , trừ phụ đầu và phụ ấm cuối, rổi thêm vào những dòng kẻ thẳng phía nguyên . Bằng cách đó, ai lướt qua cuốn sách của mà trông thấy từ “ tinh” để đừng lại xem xét tỉ mỉ hơn. “ tinh được tạo ra như thế nào?” Matthew thắc mắc thế từ năm 1859. vẫn tìm kiếm câu trả lời suốt thế kỷ tới nay. Khi Darwin bắt đầu bàn về mối quan hệ qua lại giữa các loài, ngòi bút của Matthew cũng ngừng chạy đua qua các trang khiến những chữ in gần như thể đọc nổi. trang viết giải thích, “Từ buổi bình minh đầu tiên của cuộc sống, người ta thấy mọi sinh vật đều giống nhau ở các mức độ giảm dần, vì vậy chúng có thể được xếp thành những nhóm dưới nhóm,” Matthew viết từ ‘NGUỒN GỐC” bằng các chữ cái hoa màu đen lớn. Xuống dưới vài dòng, đoạn viết khác lại được gạch chân đến hai lần: “ tồn tại của các nhóm có ý nghĩa đơn giản, nếu nhóm thích hợp với việc sống đất, nhóm khác ở dưới nước, nhóm ăn thịt, nhóm khác lại ăn rau; nhưng trường hợp đưa ra khác hoàn toàn về bản chất; bởi vì ràng là thậm chí các thành viên trong cùng nhóm phụ cũng có những thói quen khác nhau.” Có phải Matthew tin rằng chế độ ăn của ma cà rồng là thói quen hơn là đặc tính hạn chế của giống loài? Tiếp tục đọc tôi tìm thấy manh mối tiếp theo. “Cuối cùng, số lớp tượng được xem xét trong chương này, đối với tôi có vẻ quá ràng để công bố rằng vô số loài, giống và họ sinh vât sinh sống trong thế giới nàỵ , tất cả đều có nguồn gốc từ những bố mẹ chung, và tất cả đều có biến đổi trong quá trình di truyền qua các đời.” Ở ngoài lề Matthew viết “NHỮNG BỐ MẸ CHUNG” và “ce qui expliquetout[23].” [23. Điều này giải thích tất cả mọi thứ.] Chàng ma cà rồng tin rằng học thuyết về cặp tổ tiên duy nhất của loài người giải thích cho mọi điều – hay ít nhất ấy tin thế vào năm 1859. Matthew nghĩ có thể tinh, loài người, ma cà rồng và phù thủy cùng có chung tổ tiên. khác biệt lớn giữa chúng ta là do di truyền, thói quen và chọn lọc. Tại phòng thí nghiệm, ấy lảng tránh khi tôi hỏi liệu chúng ta là loài hay bốn loài khác nhau nhưng bây giờ, trong thư viện của mình, thể lảng tránh tôi được nữa. Matthew vẫn dán mắt vào cái máy tính của mình. Đóng cuốn Aurora Consurgens lại để bảo vệ các trang sách của nó và từ bỏ việc tìm kiếm cuốn Kinh Thánh bình thường hơn, tôi mang cuốn sách của Darwin tới bên lò sưởi và cuộn người lại chiếc sofa. Tôi mở nó ra, định bụng cố tìm hiểu về chàng ma cà rồng căn cứ những ghi chú mà viết trong cuốn sách. vẫn còn là điều bí đối với tôi - có lẽ ngay cả ở Sept-Tours này cũng vậy. Matthew ở Pháp khác hoàn toàn với Matthew ở . chưa bao giờ quên mình vào công việc kiểu thế này. Ở đây hai vai còn căng cứng dữ dội thủ thế mà hoàn toàn thư giãn, thả lỏng, và bờ môi dưới của bị giữ lại dưới chiếc răng nanh hơi dài, sắc nhọn mỗi khi gõ vào bàn phím. Đó là dấu hiệu của tập trung, cũng như những nếp nhăn ấn đường của . Matthew chẳng biết bị tôi để ý, những ngón tay bay các phím chữ tạo thành tiếng lách cách ồn ào máy tính bằng lực mạnh đáng kể. kết thúc câu trong văn bản, ngả người ra sau ghế và vươn vai. Rồi ngáp. Tôi chưa bao giờ thấy ấy ngáp trước đây. Có phải cái ngáp của giống như đôi vai hạ thấp kia, là dấu hiệu của nghỉ ngơi thư giãn ? Sau cái hôm lần đầu chúng tôi chạm trán, Matthew bảo với tôi rằng thích biết về môi trường của mình. Ở đây biết đến từng centimet của nơi này – mọi mùi hương đều thân thuộc, cũng như mọi sinh vật lang thang gần đây đều nắm . Và rồi mối quan hệ của với mẹ và Marthe. Họ là gia đình, đây là phân thứ bậc kỳ lạ của ma cà rồng, và họ cho tôi gia nhập vì lợi ích của Matthew. Tôi quay trở lại với Darwin. Nhưng việc tắm táp và chiếc lò sưởi ấm áp cùng với tiếng gõ lách cách đều đều liên miên dứt của ru tôi vào giấc ngủ. biết bao lâu sau, tôi tỉnh giấc, thấy mình được đắp chiếc chăn, cuốn Nguồn gốc các loài nằm dưới sàn nhà, được gấp lại gọn gàng với mảnh giấy đánh dấu chỗ tôi đọc. Tôi đỏ ửng mặt. Tôi bị bắt quả tang rình mò mất rồi. “Chúc buổi tối tốt lành,” Matthew cất tiếng từ chiếc sofa đối diện. thả mảnh giấy vào cuốn sách đọc rồi đặt nó xuống đầu gối. “ có thể mời em chút vang chứ?” Rượu vang nghe rất, rất tuyệt đấy. “Vâng, được ạ.” Matthew tới cái bàn từ thế kỷ XVIII gần đầu cầu thang, đó đặt cái chai nhãn, nút chai được khui ra nằm bên cạnh. rót hai ly rượu và mang ly tới cho tôi trước khi ngồi xuống. Tôi hít hơi vào, đón trước câu hỏi đầu tiên của . “Quả mâm xôi và núi đá.” “Với phù thủy em khá giỏi trong chuyện này đấy.” Matthew gật đầu tán thành. “Em uống cái gì đây?” tôi hỏi, nhấp ngụm. “Nó có cổ ? Hiếm ?” Matthew ngửa đầu ra sau và phá lên cười. “Đều cả. Nó có lẽ được đóng chai khoảng năm tháng trước thôi. Đấy là rượu vang địạ phương, từ những cánh đồng nho phía dưới đường lớn ấy. Chẳng có gì khác thường, chẳng có gì đặc biệt cả.” Nó có thể khác thường hay đặc biệt, nhưng nó tươi mới và có hương vị của gỗ cùng với đất giống như bầu khí xung quanh Sept-Tours này. “ thấy rằng em từ bỏ việc tìm kiếm cuốn Kinh Thánh để đổi lấy thứ có tính khoa học hơn. Em thích Darwin à?” hỏi nửa chừng sau khi ngắm nhìn tôi uống ly rượu vang lúc. “Có phải vẫn tin rằng các sinh vật chúng ta và loài người là hậu duệ của cặp cha mẹ chung ? Có phải khác nhau giữa chúng ta chỉ là đặc trưng của chủng tộc ?” phát ra thanh nôn nóng sốt ruột. “ bảo với em ở phòng thí nghiệm rồi mà – biết.” “ chắc chắn vào năm 1859 rồi. còn nghĩ rằng việc uống máu có thể chỉ đơn giản là thói quen ăn uống, phải là điểm để phân biệt.” “Em có biết là có bao nhiêu tiến bộ khoa học được thay thế từ thời đại Darwin cho tới ngày nay ? Đặc quyền của nhà khoa học là được thay đổi tư duy khi những thông tin mới mẻ đến soi sáng nó.” uống chút rượu và đặt cái ly lên đầu gối, xoay nó để ánh sáng từ lò sưởi phản chiếu lên thứ chất lỏng bên trong. “Bên cạnh đó, còn có nhiều bằng chứng khoa học để con người có ý niệm về bản năng chủng tộc nữa. Nghiên cứu đại cho rằng hầu hết các quan niệm về chủng tộc chẳng hơn gì phương thức cổ lỗ sĩ của con người để giải thích về những khác biệt dễ nhận thấy giữa bản thân họ và người khác.” “Câu hỏi về lý do tại sao ở đây – tại sao mà tất cả chúng ta lại ở đây – nuốt trọn rồi,” tôi chậm rãi . “Em có thể thấy điều đó từng trang sách của Darwin.” Matthew ngắm nhìn chăm chú ly rượu của mình. “Đó chỉ là câu hỏi đáng hỏi thôi mà.” Giọng nhàng, nhưng nét mặt nhìn nghiêng nghiêm nghị, cứng rắn, với những đường nét sắc cạnh và vầng trán nặng nề. Tôi muốn làm dịu những đường nét ấy và biến nó thành nụ cười, nhưng vẫn chẳng nhúc nhích được khỏi chỗ ngồi trong khi ánh lửa lò sưởi nhảy múa làn da trắng và mái tóc đen sẫm của . Matthew lại nhấc cuốn sách của lên nâng niu nó những ngón tay thon dài trong khi ly rượu vang cầm tay kia. Tôi nhìn đăm đăm vào ngọn lửa khi ánh sáng cửa nó lụi dần. Lúc đồng hồ bàn làm việc điểm bảy giờ, Matthew đặt cuốn sách xuống. “Có lẽ chúng mình nên gia nhập hội với Ysabeau ở phòng khách trước bữa tối thôi.” “Vâng,” tôi đáp, hai vai hơi căng ra. “Nhưng để em thay đồ trước .” Tủ quần áo của tôi thể so bằng góc tủ đồ của Ysabeau, nhưng tôi muốn Matthew phải hoàn toàn xấu hổ vì mình. Như mọi khi, trông như sẵn sàng để bước vào phòng họp của ban giám đốc hay lên sàn diễn thời trang ở Milan trong chiếc quần âu đen và chọn lựa mới tinh từ nguồn cung cấp vô tận những chiếc áo len của . Những cuộc đối mặt ở cự ly ngắn dạo gần đây thuyết phục tôi tin rằng tất cả đều là hàng cashmere - dày dặn và gợi cảm. Lên lầu, tôi mọc rễ ra với những món đồ trong chiếc túi vải cắm trại của mình và lựa ra được chiếc quần âu màu xám cùng chiếc áo len màu xanh sapphire làm từ sợi len kéo cách tinh tế với cổ áo bó sát hình phễu và hai ống tay phồng có dáng như quả chuông. Tóc tôi gợn sóng đúng cách, nhờ vào việc tắm sớm vừa rồi và thực tế là nó khô trong khi bị đè nghiến dưới mái đầu tôi chiếc sofa dưới nhà. Với điều kiện eo hẹp tối thiểu để có thể trình điện được, tôi xỏ chân vào đôi giày lười và bắt đầu xuống thang gác. Đôi tai thính nhạy của Matthew bắt được tiếng di chuyển của tôi và gặp tôi ở ngay chỗ đầu cầu thang. Khi trông thấy tôi, đôi mắt sáng lên lấp lánh, và nụ cười từ tốn nở rộng khuôn mặt . “ thích em mặc màu xanh da trời cũng nhiều như màu đen vậy. Em đẹp lắm,” thầm, trang trọng hôn lên cả hai má tôi. Máu trong người tôi dồn lên hai má khi Matthew nâng mái tóc tôi qua vai, những lọn tóc rơi xuống qua kẽ những ngón tay thon dài trắng muốt của . “Giờ đừng để Ysabeau làm em phiền lòng cho dù bà có điều gì nữa nhé.” “Em cố,” tôi đáp với tiếng cười khẽ khàng, ngập ngừng ngước lên nhìn . Khi chúng tôi tới phòng khách, Marthe và Ysabeau có mặt ở đó. Mẹ bị vây quanh bởi loạt báo viết bằng đủ các ngôn ngữ chính của châu Âu, cùng với tờ bằng tiếng Do Thái và tờ khác bằng tiếng Ả Rập. Marthe đọc cuốn truyện về vụ giết người bí với cái bìa sách trông ghê rợn, đôi mắt đen láy của bà lão phóng lướt các dòng với tốc độ đáng ganh tỵ. “Chúc buổi tối tốt lành, Maman,” Matthew , tiến đến đặt lên mỗi gò má lạnh giá của Ysabeau nụ hôn. Hai cánh mũi bà phập phồng khi nghiêng người từ bên này sang bên kia để hôn bà, ánh mắt lạnh lẽo của bà găm vào tôi vẻ giận dữ. Tôi biết điều gì khiến bà tặng cho tôi cái nhìn u tối đến thế. Matthew có mùi hương giống tôi. “Lại đây, ,” Marthe , vỗ lên chỗ nệm bên cạnh bà và ném về phía mẹ Matthew cái lừ mắt cảnh cáo. Ysabeau nhắm mắt lại. Khi chúng mở ra, cơn giận dữ biến mất, thay vào đấy là cái gì đó giống như nhẫn nhục cam chịu. “Gab es einen anderen Tod,” Ysabeau thầm với cậu con trai khi Matthew nhặt tờ Die Welt lên, bắt đầu quét mắt qua các tiêu đề và thốt lên thanh vẻ ghê tởm “Ở đâu thế ạ?” tôi hỏi. xác người cạn máu khác được tìm thấy. Nếu Ysabeau nghĩ bà loại được tôi ra khỏi cuộc trò chuyện bằng tiếng Đức bà nên nghĩ lại. “Munich,” Matthew , gương mặt vùi trong các trang báo. “Chúa ơi, tại sao ai làm gì đó với chuyện này ?” “Chúng ta phải cẩn trọng với những điểu chúng ta mong ước, Matthew ạ,” Ysabeau . Bà đột ngột thay đổi chủ đề. “Chuyến cưỡi ngựa của thế nào, Diana?” Matthew ngó lên cảnh giác nhìn bà mẹ qua tờ Die Welt. “Tuyệt lắm ạ. Cảm ơn bác cho phép cháu cưỡi Rakasa,” tôi đáp, ngồi lại cạnh Marthe và buộc mình phải đáp lại ánh nhìn của Ysabeau mà chớp mắt . “Con ngựa đó quá ngang ngạnh so với thích của ta,” bà chuyển chú ý sang phía cậu con trai, chàng đủ biết để chúi mũi trở lại với tờ báo của mình. “Fiddat dễ bảo hơn nhiều. Khi ta già, ta thấy phẩm chất đó ở những con ngựa đáng khen ngợi.” Cả ở những đứa con trai nữa, tôi thầm nghĩ. Marthe mỉm cười khích lệ với tôi rồi đứng lên bận bịu chuẩn bị bên chiếc tủ búp phê. Bà lão mang ly rượu vang lớn tới choYsabeau và ly hơn cho tôi. Rồi bà quay trở lại chỗ cái bàn và đến với ly khác dành cho Matthew. hít ngửi nó vẻ tán thưởng. “Cảm ơn, Maman,” , nâng ly của mình lên tỏ vẻ tôn kính “Hein, chẳng nhiều nhặn gì mà,” Ysabeau , nhấp ngụm cùng thứ rượu vang ấy. “Vâng, có gì nhiều. Chỉ là trong những thứ con thích thôi. Cảm ơn vì mẹ nhớ.” Matthew thưởng thức hương vị rượu vang trước khi để thứ chất lỏng ấy trôi xuống họng. “Có phải tất cả ma cà rồng đều thích rượu vang như ?” Tôi vừa hỏi Matthew vừa ngửi thứ rượu vang cay cay của mình. “ lúc nào cũng uống được, và chẳng bao giờ bị say cả dù chỉ chút xíu.” Matthew cười toe toét. “Hầu hết ma cà rồng đều thích rượu vang hơn cả. Còn như uống say bí tỉ gia đình luôn luôn nổi tiếng là có khả năng tự chủ đáng ngưỡng mộ, đúng thế , Maman?” Ysabeau phát ra tiếng khịt mũi chẳng xứng với quý bà chút nào. “Thỉnh thoảng. Đối với rượu vang, có lẽ thế.” “Bác nên là nhà ngoại giao mới phải, Ysabeau. Bác rất giỏi trong việc dùng câu trả lời mập mờ,” tôi . Matthew phá lên cười. “Trời ạ, chưa bao giờ nghĩ đến cái ngày mà mẹ được cho là có tính cách ngoại giao. Nhất là với miệng lưỡi của bà. Ysabeau luôn giỏi ngoại giao bằng chiến tranh hơn.” Marthe cười khúc khích tán thành. Cả Ysabeau và tôi đều tỏ vẻ phẫn nộ, điều đó chỉ càng khiến lại reo lên cười lần nữa. Bầu khí tại bàn ăn tối ấm cúng hơn đáng kể so với tối hôm trước. Matthew ngồi ở đầu bàn, Ysabeau bên trái còn tôi ngồi bên phải. Marthe qua lại liên miên từ bếp tới bên cạnh lò sưởi rồi tới chỗ bàn, lúc này bà lão ngồi xuống nhấp ngụm vang rồi tham gia đôi chút vào cuộc trò chuyện. Những cái đĩa đầy ắp thức ăn tới rồi – mọi thứ từ súp nấm dại cho tới thịt chim cút, rồi tới những lát thịt bò thái mỏng. Tôi ngạc nhiên thốt lên rằng sao ai đó còn cần ăn uống lại có thể nêm nếm món ăn khéo léo đến thế. Marthe đỏ ửng mặt và cười tủm tỉm lộ ra những lúm đồng tiền. Bà lão đập mạnh vào Matthew khi cố kể lại những câu chuyện vể các thảm họa bếp núc hoành tráng của bà. “Bác có nhớ cái vụ bánh nướng nhân thịt chim câu ?” cười như nắc nẻ. “ ai có thể giải thích được vì sao bác phải cho những con chim đó nhịn ăn trong vòng 24 tiếng trước khi bỏ lò chúng, hoặc vì sao trông cái bánh lại y như chậu nước cho chim tắm.” Câu chuyện này mang về cho chàng cú bạt vào sau đầu. “Matthew,” Ysabeau cảnh cáo, vừa đưa tay gạt những giọt nước mắt chảy ra sau chầu cười thả phanh, “con nên trêu chọc Marthe. Con cũng có phần tham dự vào các thảm họa ấy trong suốt những năm đó còn gì.” “Cậu cũng đâu có kém gì,” Marthe tuyên bố, mang sang phía kia ít sa lát. Tiếng của bà vững vàng lên thấy qua từng giờ, như thể bà chỉnh nút vào thứ ngôn ngữ này mỗi khi chuyện trước mặt tôi. Bà quay lại chỗ cái tủ búp phê và đem về bát quả hạch đặt giữa Matthew và Ysabeau. “Khi cậu làm ngập lụt cả tòa lâu đài với cái ý tưởng về việc hứng nước từ mái nhà, là này,” bà , bật mấy ngón tay đánh tách. “Khi cậu tập hợp thuế, là hai này. Rồi vào mùa xuân, cậu buồn chán nên buổi sáng cậu tỉnh dậy và tới thẳng nước Ý để gây chiến. Cha cậu phải quỳ gối cầu xin tha thứ của đức vua. Và sau đó là ở New York nữa!” bà lão reo lên đắc thắng. Ba ma cà rồng tiếp tục trao qua đổi lại những hồi ức xưa. Dù vậy, ai trong bọn họ về quá khứ của Ysabeau. Khi có điều gì đó được nhắc tới có đụng chạm đến bà, hay cha của Matthew, hay chị , là cuộc trò chuyện lại trượt sang hướng khác cách trang nhã. Tôi để ý thấy kiểu ấy và thầm thắc mắc lý do vì sao nhưng gì cả, hài lòng để cho buổi tối nay phát triển theo chiều hướng như họ mong muốn và thấy dễ chịu cách lạ lùng khi lại được là thành viên của gia đình – cho dù là gia đình ma cà rồng! Sau bữa tối chúng tôi trở lại phòng khách, nơi lửa bùng lên mạnh mẽ hơn lúc trước. Những ống khói của tòa lâu đài này nóng dần lên với mỗi khúc củi được ném vào vỉ lò. Những ngọn lửa cháy nóng hơn, và căn phòng gần như có cảm giác ấm áp. Matthew đảm bảo cho Ysabeau được thoải mái, mang tới cho bà ly vang khác và đặt cần gạt lên chiếc máy nhạc gần kề. Thay vào đó, Marthe pha cho tôi tách trà, rồi ấn chiếc tách và cái đĩa vào hai bàn tay tôi.. “Uống ,” bà lão bảo, ánh mắt quan sát tôi chăm chú. Ysabeau cũng nhìn tôi uống và đưa mắt nhìn Marthe lâu. “Nó giúp ngủ ngon.” “Bà pha thứ này ư?” Nó có vị thảo mộc và hoa. Bình thường tôi thích uống trà thảo mộc, nhưng thức uống này tươi mát và hơi nhậm đắng. “Đúng vậy,” bà lão trả lời, nhướng mày về phía cái nhìn chăm chăm của Ysabeau. “Tôi pha nó kỹ lắm đấy. Mẹ tôi dạy tôi. Tôi cũng dạy cho nữa.” Điệu nhạc khiêu vũ vang lên khắp gian phòng, sôi động và nhịp nhàng. Matthew kéo mấy chiếc ghế bành đến cạnh lò sưởi, tạo ra khoảng sàn nhà quang đãng. “Vòles dancar amb ieu?” Matthew hỏi mẹ, và đưa cả hai bàn tay ra. Nụ cười của Ysabeau rực rỡ, khiến cả gương mặt bà trở nên đáng , những nét lạnh lùng chuyển thành vẻ đẹp sao tả xiết, “Òc,” bà đáp, đặt hai bàn tay nhắn vào tay . Ca hai tiến tới trước lò sưởi, đợi cho bản nhạc kế tiếp bắt đầu. Khi Matthew và mẹ bắt đầu khiêu vũ, họ khiến cho Astaire và Rogers[24] cũng trở nên vụng về lóng ngóng. Thân mình họ tiến vào rồi tách ra, xoay vòng ra xa nhau sau đó lại nhún và xoay. chạm từ Matthew làm Ysabeau nhảy say sưa hơn, và chỉ chuyển động lượn sóng hay ngập ngừng dù nhất từ phía Ysabeau cũng khiến có phản ứng tương ứng. [24. Hai vũ công lừng danh người Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ XX.] Ysabeau nhún mình cúi chào duyên dáng, còn Matthew quét tay tạo thành cử chỉ cúi đầu chào chính xác ngay lúc tiếng nhạc dần rồi dứt hẳn. “Con luôn luôn là vũ công tuyệt vời,” Ysabeau tự hào . “À, nhưng giỏi bằng mẹ được – và hiển nhiên là càng tuyệt vời bằng Bố,” Matthew , đặt Ysabeau ngồi yên vị chiếc ghế của bà. Đôi mắt Ysabeau tối sầm lại, và cái nhìn đau đớn đến xé lòng thoáng qua gương mặt. Matthew cầm tay bà lên và ép môi lướt những đốt ngón tay trắng muốt của bà. Ysabeau cố gượng cười đáp lại. “Giờ tới lượt em,” , đến chỗ tôi. “Em thích nhảy, Matthew,” tôi phản đối, giơ tay lên để gạt . “ thấy điều đó khó mà tin được,” , cầm lấy bàn tay phải của tôi bằng tay trái của mình và kéo tôi lại gần. “Em vặn uốn cơ thể mình thành những hình dạng khác thường, lướt mặt nước trong chiếc thuyền rộng chỉ bằng cái lông chim, và phi ngựa như gió. Khiêu vũ có lẽ là bản tính thứ hai đấy.” Bản nhạc tiếp theo nghe giống như thứ nhạc nào đó có lẽ được ưa chuộng ở các phòng khiêu vũ của Paris những năm 1920. Tiếng kèn trumpet và trống cái nổi lên khắp gian phòng. “Matthew, hãy cẩn thận với ấy,” Ysabeau nhắc nhở khi di chuyển tôi ngang qua sàn phòng. “ ấy vỡ vụn đâu, Maman.” Matthew dẫn bước điệu vũ, bất chấp những nỗ lực ương bướng nhất của tôi cố dẫm lên chân mỗi khi có cơ hội. Với bàn tay phải đặt eo lưng tôi nhàng hướng tôi vào các bước nhảy đúng nhịp. Tôi bắt đầu nghĩ đến những chỗ hai chân mình phải cố gắng di chuyển để nhảy cho đúng, nhưng điều này chỉ khiến mọi thứ tệ hơn. Lưng tôi căng cứng, và Matthew càng ghì tôi chặt hơn. “Thư giãn nào,” thầm vào tai tôi. “Em cố dẫn dắt đấy. Em chỉ cần theo thôi.” “Em thể,” tôi thầm đáp lại, xiết chặt vai như thể là cái phao cứu sinh. Matthew lại xoay chúng tôi vòng quanh. “Có, em có thể. Hãy nhắm mắt lại, thôi nghĩ đến nó và để cho làm phần còn lại.” Ở trong vòng tay , dễ dàng để làm theo những gì hướng dẫn. thấy những hình dáng xoay tít và màu sắc của căn phòng đổ dồn về phía mình từ mọi phía, tôi có thể thả lỏng và thôi lo lắng rằng mình sắp đâm sầm vào đâu đó. Dần dần, di chuyển hai cơ thể chúng tôi trong bóng tối trở nên thú vị. Tôi nhanh chóng có thể tập trung vào phải điều mình làm mà là điều đôi chân và hai cánh tay bảo tôi làm. Cảm giác như bồng bềnh trôi. “Matthew.” Giọng Ysabeau nhuốm sắc cảnh báo. “Le chatoiement.” “Con biết,” lầm bầm đáp. Các cơ bắp hai vai tôi căng thẳng lo lắng. “Hãy tin ,” khẽ vào tai tôi. “ có được em rồi.” Hai mắt vẫn nhắm chặt, tôi thở phào vui sướng. Chúng tôi tiếp tục xoay cùng nhau mê mải. Matthew nhàng thả tôi ra, làm tôi xoay ra tới đầu những ngón tay , rồi cuốn tôi trở lại dọc theo cánh tay mình cho tới khi lưng tôi áp sát vào lồng ngực . Nhạc ngưng. “Mở mắt ra em,” khẽ . Hai mí mắt tôi từ từ nâng lên. Cảm giác bổng bềnh vẫn mơ hồ đọng lại. Khiên vũ tuyệt vời hơn tôi tưởng – ít nhất là với bạn nhảy khiêu vũ hơn thiên niên kỷ rồi và chẳng bao giờ dẫm vào ngón chân mình. Tôi định ngẩng lên để cảm ơn , nhưng khuôn mặt gần sát hơn tôi nghĩ. “Em nhìn xuống ,” Matthew . Cúi xuống, tôi phát ra các ngón chân mình lơ lửng cách sàn nhà tới mấy centimet. Matthew buông tôi ra. phải nâng tôi lên. Tôi nâng mình lên. khí nâng tôi lên. Cùng với phát đó, trọng lượng quay trở lại hạ cơ thể tôi xuống thấp hơn nửa khoảng cách tới mặt sàn. Matthew nắm lấy cả hai khuỷu tay tôi và giữ cho hai bàn chân tôi chạm mạnh xuống sàn phòng. Từ chỗ ngồi của mình bên lò sưởi, Marthe khe khẽ ngâm nga giai điệu. Mái đầu Ysabeau quay ngoắt ra, hai mắt nheo lại. Matthew mỉm cười làm yên lòng tôi, trong khi tôi còn mải tập trung vào cái cảm giác lạ thường của mặt đất ở dưới chân mình. Lẽ nào mặt đất vẫn luôn luôn có vẻ sống động đến thế? Lẽ nào vẫn có hàng ngàn bàn tay xíu chờ đợi dưới đế giày để tóm lấy tôi hay nâng tôi lên như thế? “Em có vui ?” Matthew hỏi khi những nốt nhạc cuối cùng trong bài hát của Marthe dần, ánh mắt láp lánh những tia sáng. “Vui ,” tôi đáp, bật cười, sau khi ngẫm nghĩ về câu hỏi của “ hy vọng là thế. Giờ có lẽ để thay đổi, em hãy mở mắt khi cưỡi ngựa nhé.” rồi ôm ghì lấy tôi, khuôn mặt ngập tràn hạnh phúc. Ysabeau bắt đầu hát cùng bài hát mà Marthe ngâm nga. Dù kẻ nào ngắm nàng khiêu vũ, Thân hình uyển chuyển duyên dáng quá , Lời có thể thốt, thực là ai sánh bằng nàng khắp thế gian, Bà hoàng vui vẻ của chúng ta. Biến , biến , những kẻ đố kỵ, Hãy để chúng ta, để chúng ta, Khiêu vũ cùng nhau, cùng nhau. “Biến , biến , những kẻ đố kỵ,” Matthew lặp lại khi những thanh cuối cùng của giọng mẹ mờ dần, “hãy để chúng ta khiêu vũ cùng nhau.” Tôi lại cười vang. “Em nhảy vớỉ . Nhưng cho tới khi em khám phá ra cái việc bay lượn này diễn ra như thế nào, có bạn nhảy nào khác cả.” “ đúng ra em bồng bềnh trôi, chứ phải bay lượn,” Matthew chỉnh tôi. “Bồng bềnh, bay lượn – dù gọi nó là gì nữa, tốt hơn hết là làm vậy với những người xa lạ.” “Đồng ý,” . Marthe bỏ cái sofa để tới chiếc ghế bành gần Ysabeau. Matthew và tôi ngồi với nhau, bàn tay vẫn bện chặt vào nhau rời. “Đây là lần đầu tiên của ấy à?” Ysabeau hỏi , giọng bà thành bối rối. “Diana sử dụng phép thuật, Maman, ngoại trừ vài thứ nhặt,” giải thích. “ ấy đầy sức mạnh, Matthew ạ. Dòng máu phù thủy sôi réo trong huyết quản của ấy, ấy nên sử dụng nó vào những việc lớn lao hơn.” cau mày. “Việc sử dụng hay là do ấy.” “Trẻ con thế là đủ rồi,” bà , chuyển chú ý sang tôi. “ đến lúc phải trưởng thành rồi Diana ạ, và gánh lấy trách nhiệm với việc là ai.” Matthew khẽ gầm gừ. “Đừng có gầm gừ với mẹ, Matthew de Clermont! Mẹ điều cần phải .” “Mẹ bảo ấy phải làm gì. Đó phải việc của mẹ.” “Cũng phải của con, con trai ạ!” Ysabeau vặn lại. “Xin lỗi!” Giọng cất cao của tôi khiến họ chú ý và nhà de Clermont, cả mẹ và con trai, đều nhìn tôi chăm chú. “Cháu quyết định việc liệu có sử dụng phép thuật của mình hay – và dùng như thế nào. Nhưng,” tôi , quay sang phía Ysabeau, “đúng là thể làm ngơ lâu hơn nữa. Dường như nó vỡ tung ra khỏi cháu. Tối thiểu, cháu cần phải học cách kiểm soát sức mạnh của mình.” Ysabeau và Matthew tiếp tục nhìn tôi chớp mắt. Cuối cùng Ysabeau gật đầu. Matthew cũng làm theo. Chúng tôi tiếp tục ngồi bên lò sưởi cho tới khi các súc gỗ cháy tàn. Matthew nhảy với Marthe và mỗi người trong bọn họ thỉnh thoảng lại reo lên khi đoạn nhạc gợi họ nhớ đến buổi tối bên đống lửa khác. Nhưng tôi nhảy lần nào nữa, và Matthew ép tôi. Cuối cùng đứng đậy. “Tôi đưa người duy nhất trong chúng ta cần phải ngủ lên giường ngủ.” Tôi cũng đứng lên, vuốt phẳng ống quần chỗ bắt đùi. “Chúc ngủ ngon, bác Ysabeau. Chúc ngủ ngon, bà Marthe. Cảm ơn cả hai về buổi tối thú vị và đầy ngạc nhiên này.” Marthe mỉm cười đáp lại tôi. Ysabeau cố hết sức nhưng chỉ xoay sở được vẻ mặt nhăn nhó. Matthew để tôi dẫn đường và đặt hờ bàn tay lên lưng tôi khi chúng tôi leo lên cầu thang gác. “Em đọc sách chút nhé,” tôi , quay lại phía khi chúng tôi lên tới phòng làm việc của . Matthew ở ngay phía sau tôi, gần sát đến mức tiếng thở rời rạc, yếu ớt của cũng có thể nghe được. đưa tay giữ lấy gương mặt tôi. “Em yểm bùa nào lên tôi thế?” ánh mắt sục sạo khắp khuôn mặt tôi. “Nó đơn thuần là đôi mắt em – dù chúng thực khiến tôi thể suy nghĩ đúng đắn được – hay là mùi hương giống như mật ong của em.” vùi mặt vào cổ tôi, bàn tay luồn vào tóc tôi trong khi bàn tay kia lướt xuống lưng, kéo hông tôi về phía mình. Cơ thể tôi mềm nhũn tựa vào , như thể nó được tạo ra để vừa in với chỗ đó. “Hay là can đảm của em,” thầm làn da tôi, “và cách em di chuyển mà suy nghĩ gì, và ánh sáng mờ ảo em phát ra khi tập trung cao độ - hay khi em bay bồng bềnh bên tôi.” Tôi nghiêng cổ, để da thịt mình được tận hưởng nhiều tiếp xúc từ . Matthew từ từ xoay mặt tôi hướng về phía ngón tay cái kiếm tìm hơi ấm làn môi tôi. “Em có biết rằng miệng em thường mím lại khi ngủ ? Dường như em hài lòng lắm với những giấc mơ của mình, nhưng thích nghĩ rằng em mong muốn được hôn hơn.” Từng lời thốt ra mang nặng hơn hưởng Pháp. Ý thức được bộ dạng chê trách của Ysabeau ở dưới lầu, cũng như thính giác ma cà rồng bén nhạy của bà, tôi cố gắng kéo người ra. Chẳng ăn thua gì, hai cánh tay Matthew càng xiết chặt. “Matthew, mẹ …” cho tôi cơ hội kịp hết câu. Với tiếng kêu khe khẽ thỏa mãn, áp môi mình vào môi tôi, nhàng nhưng triệt để, cho tới khi chỉ hai bàn tay tôi – mà cả thân thể tôi – ùa lên cảm giác râm ran, náo nức. Tôi hôn đáp lại , cảm thấy mình vừa như bồng bềnh bay vừa như rơi xuống cho tới khi tôi còn ý thức được điểm kết thúc của cơ thể mình và điểm bắt đầu của là đâu nữa. Môi lướt lên hai má và mi mắt tôi. Khi nó cọ xát vào vành tai tôi, tôi thở ra gấp gáp. Đôi môi Matthew cong lên thành nụ cười, và lần nữa lại ép chúng lên môi tôi. “Môi em đỏ lựng như túc ấy, và mái tóc em cũng sống động,” khi gần kết thúc nụ hôn mãnh liệt làm tôi nghẹt thở. “ thế ư? Tóc em có gì đặc biệt đâu?” tôi , túm lấy nắm tóc kéo ra. “Tóc Ysabeau trông như sa-tanh ấy, cả Marthe cũng vậy. Của em bù xù – sặc sỡ như cầu vòng và khó bảo nữa.” “Đó là lý đo vì sao nó,” Matthew , dịu dàng trả tự do cho các lọn tóc. “Nó hoàn hảo, giống như cuộc sống này. Nó như mái tóc của ma cà rồng, tất cả đều láng bóng và hoàn mỹ. thích em phải là ma cà rồng, Diana ạ.” “Còn em thích là ma cà rồng, Matthew.” bóng đen vụt qua ánh mắt , rồi biến mất trong thoáng chốc. “Em thích mạnh mẽ của ,” tôi , hôn cũng nồng nhiệt như hôn tôi. “Em thích trí thông minh của . Đôi khi em còn thích cả tính hống hách của nữa. Nhưng hơn cả,” tôi nhè cọ chóp mũi mình vào mũi , “em thích mùi hương của .” “Em thích ư?” “Em thích.” Mũi tôi di chuyển vào chỗ lõm sâu giữa hai xương đòn của , và nhanh chóng biết được đó là phần ngọt ngào đậm hương vị nhất ở . “Muộn rồi. Em cần nghỉ ngơi.” buông tôi ra vẻ miễn cưỡng. “Lên giường cùng với em.” Mắt mở to kinh ngạc trước lời mời ấy, còn máu chạy dồn cả lên mặt tôi. Matthew đặt tay tôi lên chỗ trái tim . Nó đập lần, khỏe khoắn. “ lên,” , “nhưng ở lại. Chúng mình còn thời gian, Diana ạ. Em mới biết chỉ trong vài tuần. cần phải gấp gáp đâu.” y như ma cà rồng. Thấy vẻ thất vọng của tôi, Matthew liền kéo tôi lại gần và hôn thêm nụ hôn dài nữa. “ lời hứa,” , khi hôn tôi xong, “về điều đến. Đúng lúc.” Đến lúc rồi đó. Nhưng môi tôi hết lạnh cứng rồi lại nóng bỏng, khiến tôi thoáng băn khoăn trong giây liệu mình sẵn sàng như mình nghĩ chưa. Lên lầu , căn phòng sáng rực ánh nến và hơi ấm từ lò sưởi. Làm thế nào để Marthe có thể xoay sở lên tới đây, thay hàng tá nến và thắp sáng để chúng vẫn cháy vào giờ ngủ quả là điều bí , nhưng căn phòng chẳng có lấy ổ điện nào và tôi thấy biết ơn gấp đôi nỗ lực của bà. Thay quần áo trong phòng tắm phía sau cánh cửa khép hờ, tôi lắng nghe các kế hoạch của Matthew vào ngày hôm sau. Chúng liên quan đến cuộc dạo dài, chuyến cưỡi ngựa lâu khác, và nhiều việc để nghiên cứu hơn. Tôi đồng ý với tất cả kế hoạch – với điều kiện là làm việc trước. Cuốn cổ thư về thuật giả kim gọi tôi, còn tôi háo hức xem xét nó tỉ mỉ hơn. Tôi trèo lên chiếc giường bốn cọc rộng mênh mông của Matthew, chèn chăn chặt quanh người tôi trước khi kẹp tắt những ngọn nến. “Hát cho em ,” tôi , quan sát những ngón tay dài của dũng cảm di chuyển xuyên qua những ngọn lửa cháy. “ bài hát cổ xưa – bài mà Marthe thích ý.” Sở thích tinh quái của bà lão đối với các bài tình ca là quá rồi. im lặng lúc trong khi quanh phòng, thổi tắt nến và kéo vệt tối dài phía sau khi căn phòng chìm dần vào bóng đêm. bắt đầu hát bằng chất giọng nam trung khỏe khoắn. “Ni muer ni viu ni no guaris, Ni mal no-m sent e si l’ai gran, Quar de s’amor no suy devis, Ni no sai si ja n’aurai ni quan, Qu’en lieys es tota le merces Que-m pot sorzer o decazer.” Bài hát đầy ắp tình thương mến, khát khao, và chênh vênh bên đau buồn. Đến lúc Matthew trở lại bên cạnh tôi, bài hát kết thúc. để lại ngọn nến cháy phía đầu giường. “Những lời ấy có nghĩa là gì?” Tôi với lấy bàn tay . “ chết, cũng sống, bệnh tật, cũng có đau đớn trong cơn bệnh của ta, bởi tình của nàng dành cho ta.” cúi xuống hôn lên trán tôi. “Ta biết liệu khi nào mình có được tình ấy, bởi tất cả may mắn hạnh phúc khiến ta hưng vượng hay mục rỗng đều nằm trong sức mạnh của nàng.” “Ai viết nó thế?” Tôi hỏi, bị ấn tượng mạnh bởi trùng hợp khi những lời ca ấy lại được chính ma cà rồng hát lên. “Cha viết nó dành cho Ysabeau. Còn người khác mượn tạm nó vậy,” Matthew , ánh mắt lấp lánh và nụ cười rạng rỡ mãn nguyện. khe khẽ ngâm nga bài hát khi xuống cầu thang. Tôi nằm lại giường , ngắm nhìn ngọn nến cháy cuối cùng cho đến khi nó chảy hết.
Chương 21 Buổi sáng sau khi tắm xong, tôi liền được chàng ma cà rồng bê khay đồ ăn sáng lên chào hỏi. “ bảo với Marthe là em muốn làm việc sáng nay,” Matthew vừa giải thích, vừa nâng cái nắp đậy giữ nóng thức ăn lên. “Hai người làm hư em đấy.” Tôi giở chiếc khăn ăn để sẵn ghế cạnh bàn. “ nghĩ là tính cách của em gặp bất cứ nguy hiểm thực nào đâu.” Matteh cúi người tặng tôi nụ hôn dài, mắt màu khói xám. “Buổi sáng tốt lành. Em ngủ có ngon ?” “Rất ngon.” Tôi đỡ lấy dĩa đồ ăn từ tay , hai má đỏ ửng hồi tưởng lại lời mời tối hôm qua. Tối qua tôi dang rộng vòng tay với . Và còn đôi chút nhói đau khi tôi nhớ lại lời khước từ dịu dàng của , nhưng nụ hôn sáng nay khẳng định rằng chúng tôi trượt qua giới hạn của tình bạn và chuyển sang hướng mới. Sau bữa sáng chúng tôi xuống lầu, bật máy tính và bắt đầu làm việc. Matthew để cuốn Kinh Thánh Vulgate[25] được dịch ra tiếng hoàn hảo kể từ thế kỷ XIX bàn, bên cạnh cuốn cổ thư kia. [25. Phiên bản tiếng Latin từ cuối thế kỷ thứ IV của Kinh Thánh.] “Cảm ơn ,” tôi cầm cuốn sách lên với qua vai. “ tìm thấy nó dưới nhà. Thực ra nó vẫn chưa đủ tốt đối với em đâu.” cười tươi rói. “Em tuyệt đối đối xử với cuốn Kinh Thánh Guntenberg như là cuốn sách tham khảo đâu, Matthew.” Giọng tôi cất lên nghe nghiêm nghị hơn dự định, chẳng khác nào bà giáo lên lớp. “ thông làu Thánh Kinh từ đầu tới cuối, từ xuôi tới ngược. Nên nếu em có thắc mắc nào, có thể hỏi đây,” đề xuất. “Em cũng sử dụng như cuốn sách tham khảo đâu.” “Tùy em muốn làm gì làm,” nhún vai cười . Máy tính mở bên và cuốn cổ thư về thuật giả kim để trước mặt, tôi nhanh chóng mải mê đọc, phân tích và ghi lại các ý tưởng của mình. Duy chỉ có lần bị ngắt quãng khi tôi cầu Matthew thứ gì đó để chặn các trang sách lại trong khi tôi đánh máy. lục lọi xung quanh và tìm thấy tấm mề đay bằng đồng với chân dung của vua Louis XIV đó và bàn chân bằng gỗ xíu mà khẳng định là của thiên thần người Đức. giao ra hai món đồ đó ra chừng nào có vật bảo đảm để đổi lại. Và rồi cũng cảm thấy hài lòng khi tôi tặng nụ hôn ngọt ngào để làm tin. Aurora Consurgens là trong những cuốn nguyên bản đẹp nhất về thuật giả kim được truyền lại, nó thể suy tưởng về hình tượng phái nữ của Thông Thái, cũng như đưa ra những khám phá về kết hợp hóa học của các sức mạnh đối lập trong tự nhiên. Phần bản tự của nó cũng gần tương tự như các bản in tôi tham khảo ở Zurich, Glasgow và London. Nhưng phần tranh minh họa khá là khác biệt. Họa sĩ Bourgot Le Noir là bậc thầy trong lĩnh vực của bà. Mỗi bức minh họa đều tỉ mỉ chính xác và đẹp lung linh. Nhưng tài năng của bà đơn giản nằm trong tinh thông về mặt kĩ thuật. Nét bút của bà vẽ các nhân vật nữ biểu nhạy cảm khác biệt. Thông Thái lên đầy sức mạnh, nhưng đồng thời cũng mạnh mẽ, dịu dàng. Trong bức minh họa đầu tiên, Thông Thái bảo vệ cho thân của bảy nguyên tố kim loại trong chiếc áo choàng của mình, bà thể niềm kiêu hãnh mãnh liệt của người mẹ. Còn có hai bức minh họa – như Matthew hứa hẹn – nằm trong bất cứ bản in nào của Aurora Consurgens được biết tới trước đây. Cả hai đều thể câu chuyện mang tính dụ cuối cùng dành cho hôn lễ hóa học của vàng và bạc. Bức thứ nhất kèm với những lời do nguyên tố tính nữ trong biến đổi của thuật giả kim. Thường được miêu tả như nữ hoàng mặc váy trắng cùng với các biểu tượng của mặt trăng để cho thấy liên kết của bà với kim loại bạc, Bourgot biến bà trở thành nhân vật đẹp đáng sợ với những con rắn bạc thay cho mái tóc, gương mặt trong bóng tối như mặt trăng bị mặt trời che khuất trong kì nguyệt thực. Tôi lặng lẽ đọc phần văn bản kèm, dịch từ tiếng Latin sang tiếng : “Hãy quay về phía ta bằng tất cả trái tim người. Đừng chối từ ta bởi ta là u và bóng tối. Ánh lửa của mặt trời biến đổi ta. Biển kia bao quanh ta. Mặt đất sụp đổ bởi chuyển động của ta. Đêm đen phủ tràn mặt đất khi ta chìm sâu vào bùn lầy, và bản thế của ta bị che lấp.” Nữ Hoàng Mặt Trời nâng ngôi sao lòng bàn tay mở rộng của mình. “Từ đáy sâu của nước ta khóc cho ngươi, và từ sâu trong lòng đất ta gọi cho những ai bỏ qua ta,” tôi tiếp tục. “Hãy tìm ta. Nhìn ta. Và nếu người thấy ai khác giống ta, ta ban tặng kẻ đó ánh sao mai.” Môi tôi mấp máy theo từng câu chữ, và bức minh họa của Bourgot làm cho lời văn ấy sống động hẳn lên khi thể nét mặt của Nữ Hoàng Mặt Trăng vừa sợ hãi bị chối bỏ lại vừa ngượng ngịu tự hào. Bức minh họa độc nhất vô nhị thứ hai ở trang kế tiếp và kèm theo những lời do nguyên tố nam , Đức Vua Mặt Trời vàng. Tóc gáy tôi dựng đứng lên trước bút họa của Bourgot vẽ cái quan tài bằng đá nặng nề, nắp của chiếc quan tài hé mở vừa đủ để lộ thân thể bằng vàng nằm bên trong. Mắt đức vua nhắm lại thanh thản, nét mặt ngài biểu niềm hy vọng như thể ngài mơ thấy siêu thoát của mình. “Bây giờ ta trở dậy và vào thành phố. các đường phố ta tìm phụ nữ trong trắng để cưới nàng,” tôi đọc, “khuôn mặt nàng xinh đẹp, thân hình nàng còn đẹp đẽ hơn, y phục nàng là đẹp hơn thảy. Nàng lăn hòn đá lối vào hầm mộ của ta và tặng ta đôi cánh chim câu để ta có thể bay cùng nàng tới thiên đàng sống bên nhau trọn kiếp.” Đoạn này gợi tôi nhớ tới cái bình thánh tích ở Bethany của Matthew và chiếc quan tài bằng bạc xíu của Lazarus. Tôi đưa tay với cuốn Kinh Thánh. “Phúc Mark 16, thánh thi số 55, và quyển thứ 5 của Kinh Cựu Ước, đoạn 40.” Giọng Matthew cắt ngang im lặng, các chỉ dẫn tham khảo được tuôn ra như cái mục lục tự động của cuốn Kinh Thánh. “Làm sao biết được em đọc cái gì?” Tôi vặn người quay lại ghế để nhìn hơn. “Môi em cử động đấy thôi,” đáp, mắt vẫn dán lên màn hình máy vi tính, các ngón tay gõ lách cách bàn phím. Mím chặt môi, tôi quay trở lại với bản văn. Tác giả dựa mỗi đoạn trích từ thánh kinh để vẽ nên câu chuyện về giả kim thuật phù hợp kể về cái chết và sáng tạo, diễn giải và liên kết chúng lại với nhau. Tôi kéo cuốn Kinh Thánh ngang qua mặt bàn. Nó được bao bọc trong tấm da đen và có dấu thập vàng trang trí bìa. Mở ra Phúc Mark[26], tôi rà soát đến chương 16. Nó ở đó, Mark 16, “Họ với nhau: Ai lăn tảng đá ra khỏi mộ cho chúng ta?” [26. trong bốn sách Phúc trong Tân Ước viết về cuộc đời, chết và Phục sinh của Chúa Giê-su.] “Tìm thấy nó chưa?” Matthew ôn tồn hỏi. “Rồi.” “Tốt.” Căn phòng lần nữa trở nên im ắng. “Đoạn về ngôi sao mai ở đâu thế?” Thỉnh thoảng cái lý lịch ngoại đạo của tôi lại là trở ngại nghiêm trọng trong công việc. “Khải Huyền thứ 2, đoạn 28.” “Cảm ơn .” “Đó là vinh hạnh của .” tiếng cười bị nén lại phát ra từ bàn làm việc bên kia. Tôi cắm cúi vào cuốn cổ thư và phớt lờ nó. Sau hai tiếng đồng hồ đọc đoạn viết tay chữ Gothic tí xíu và tra cứu các đoạn tham khảo Kinh Thánh tương ứng, tôi sẵn sàng cưỡi ngựa ngay khi Matthew khởi xướng nghỉ giải lao. Chúng tôi thấy ánh mặt trời kể từ khi đến Sept-Tours, nhưng cả hai đều chẳng bận tâm đến điều đó. Matthew dường như thư thái, bình thảnh hơn, còn tôi vui sướng đến ngạc nhiên khi được rời xa Oxford. Những lời de dọa của Gillian, bức ảnh của bố mẹ tôi, thậm chí cả Peter Knox nữa – tất cả đều lùi xa dần theo mỗi giờ đồng hồ trôi qua. Khi chúng tôi dạo ra vườn, Matthew sôi nổi tán gẫu về vấn đề rắc trong công việc liên quan tới những sợi bị thiếu của thứ gì đó đáng lẽ phải có trong mẫu máu. phác họa ra trung nhiễm sắc thể trong khi cố gắng giải thích, chỉ vào những khu vực có vấn đề, và tôi gật đầu mặc dù vẫn mù tịt về cái thứ ấy. Lời lẽ tiếp tục sang sảng cất lên từ miệng , và choàng cánh tay qua vai tôi, kéo tôi lại gần. Chúng tôi quay trở lại chỗ hàng rào. người đàn ông mặc đồ đen đứng ngoài cánh cổng mà chúng tôi cưỡi ngựa qua vào ngày hôm qua. Cách ta đứng dựa vào cây dẻ với dáng vẻ lịch lãm của con báo vơ vẩn kiếm mồi cho thấy ta là con ma cà rồng. Matthew hất tôi nấp ra phía sau . Người đàn ông uyển chuyển kéo người ra khỏi thân cây xù xì và thong thả dạo bước về phía chúng tôi. Lúc này thực tế là ma cà rồng được khẳng định bởi làn da trắng và đôi mắt đen sẫm to đùng cách tự nhiên. Vẻ hung ác của là điểm thiếu hoàn hảo duy nhất gương mặt khác gì thiên sứ, với những nét cân xứng và mái tóc đen quăn rủ xuống tới cổ áo. con và mảnh người hơn Matthew, nhưng sức mạnh toát ra từ là thể phủ nhận được. Đôi mắt gửi những ánh nhìn lạnh giá ghim sâu vào làn da tôi, nơi nó xuyên qua như vết nhơ vấy bẩn. “Domenico,” Matthew điềm tĩnh , mặc dù giọng nghe lớn hơn thường lệ. “Matthew.” Ánh nhìn thoáng qua mà gã ma cà rồng đặt lên Matthew chứa đầy căm thù. “Nhiều năm rồi nhỉ.” Tông giọng bình thản của Matthew cho thấy xuất đột ngột của gã ma cà rồng này chỉ là cố ý hàng ngày. Domenico tỏ vẻ suy tư. “Đó là khi nào nhỉ? Ở Farrara à? Cả hai chúng ta đều chiến đấu chống lại giáo hoàng – dù vì những lý do khác nhau. Ta cố gắng cứu Venice. Còn ngươi cố gắng cứu các hiệp sĩ dòng Đền[27].” [27. Các Hiệp sĩ dòng Đền trong những dòng tu quân đội Kito giáo nổi tiếng nhất thời xưa. Được thành lập từ sau cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất năm 1096 để bảo vệ người châu Âu hành hương tới Jerusalem sau khi thành phố này bị xâm chiếm, dòng tu này tồn tại khoảng 2 thế kỉ trong thời Trung cổ.] Matthew chậm rãi gật đầu, ánh mắt gắn chặt vào gã ma cà rồng kia. “Ta nghĩ chắc là ngươi đúng.” “Sau đó, bạn của ta, ngươi dường như biến mất. Chúng ta sẻ chia biết bao nhiêu cuộc phiêu lưu thời trẻ - biển khơi, hay ở Vùng Đất Thánh. Venice thường xuyên đầy ắp những trò tiêu khiển dành cho ma cà rồng như ngươi, Matthew.” Domenico lắc đầu vẻ đau khổ. Gã ma cà rồng trong cánh cổng lâu đài này trông có vẻ là người Venice – hoặc giống sinh vật gì đó xấu xa lai giữa thiên thần và ác quỷ. “Tại sao ngươi đến thăm ta khi ngươi qua lại giữa Pháp và trong các nơi ngươi thường lui tới hả?” “Nếu ta là nguyên cớ để công kích, Domenico, quá lâu rồi để có bất kỳ mối bận tâm nào giữa chúng ta nay.” “Có lẽ, nhưng có điều hề thay đổi trong tất cả những năm tháng qua. Đó là bất cứ khi nào có vụ khủng hoảng là lại có tên De Clermont ở gần đó.” quay sang tôi, có thứ gì đó tham lam, thèm muốn nở bừng nét mặt. “Đây chắc hẳn là phù thủy mà ta nghe rất nhiều.” “Diana, quay về nhà !” Matthew đanh giọng . Cảm giác về nguy hiểm có thể sờ thấy được, tôi chần chừ, muốn để lại mình. “ !” lại , giọng vút lên sắc bén như thanh kiếm. Domenico chiếu tướng vào thứ gì đó phía vai tôi và mỉm cười. luồng gió lạnh buốt sượt qua tôi và cánh tay cứng rắn lạnh lẽo luồn qua tay tôi. “Domenico,” giọng du dương êm ái của Ysabeau vang lên. “ là cuộc viếng thăm ngoài mong đợi.” trang trọng cúi đầu. “Quý bà, vui mừng khi thấy bà vẫn khỏe mạnh như thế này. Làm thế nào bà biết là tôi ở đây vậy?” “Ta ngửi thấy mùi của cậu,” Ysabeau khinh khỉnh . “Cậu đến đây, đến nhà của ta mà được mời. Mẹ cậu gì nếu bà ấy biết cậu cư xử theo lối ấy nhỉ?” “Nếu mẹ tôi còn sống, chúng ta có thể hỏi bà,” Domenico đáp với tàn bạo cố che giấu. “Maman, đưa Diana trở vào nhà .” “Dĩ nhiên, Matthew. Ta để cho hai người chuyện.” Ysabeau quay người, kéo tôi theo. “Ta rời khỏi đây nhanh hơn nếu các người để ta chuyển lời nhắn của mình,” Domenico tuyên bố rồi lên giọng cảnh cáo. “Nếu phải quay trở lại, ta mình thôi đâu. Chuyến viếng thăm hôm nay là cử chỉ xã giao dành cho bà đấy, Ysabeau.” “ ấy có cuốn sách đó,” Matthew sắc lạnh. “Ta đến đây vì cái cuốn sách phù thủy chết tiệt ấy, Matthew. Hãy cứ để chúng giữ nó. Ta đến đây từ Đại Hội Đồng.” Ysabeau thở ra hơi và dài, như thể bà nín thở từ nhiều ngày rồi. câu hỏi mấp máy môi tôi, nhưng bà im lặng với ánh nhìn cảnh cáo. “Làm tốt lắm, Domenico. Với tất cả những trách nhiệm mới của mình, ta ngạc nhiên là ngươi có thời gian để ghé thăm những người bạn cũ đấy.” Giọng Matthew đầy khinh miệt. “Tại sao Đại Hội Đồng lại phí thời gian cho những chuyến viếng thăm trọng thể tới gia đình de Clermont, khi mà có những ma cà rồng để lại đầy rẫy những xác chết cạn sạch máu khắp châu Âu cho loài người điều tra tìm kiếm hả?” “Ma cà rồng bị cấm hút máu người – mặc dù bất cẩn này đáng tiếc. Ngươi biết đấy, cái chết bám theo ma cà rồng bất cứ nơi đâu chúng ta tới.” Domenico giũ sạch trơn hành động hung ác đó, và tôi rùng mình trước coi thường vô tình đối với sinh mạng của các sinh vật máu nóng yếu đuối. “Nhưng hiệp ước ràng ngăn cấm bất cứ mối quan hệ nam nữ bất chính nào giữa ma cà rồng và phù thủy.” Tôi quay ra nhìn Domenico chòng chọc. “Ông cái gì?” “ ta có thể !” Domenico xiết hai bàn tay vẻ nhạo báng khoái trá. “Tại sao để cho phù thủy này tham gia vào cuộc chuyện nhỉ?” Matthew vòng tay ra kéo tôi tới trước. Ysabeau vẫn giữ nguyên cánh tay luồn qua tay kia của tôi. Chúng tôi đứng thành hàng ngắn, kết nối chặt chẽ giữa ma cà rồng, phù thủy, và ma cà rồng. “Diana Bishop.” Domenico cúi thấp đầu. “ là hân hạnh được gặp phù thủy mang dòng dõi cổ xưa, danh giá như thế này. Còn quá ít những gia đình cổ còn lại với chúng ta.” Mỗi lời thốt ra – cho dù lối diễn đạt có trang trọng đến thế nào – đều nghe như đe dọa. “Ông là ai?” tôi hỏi. “Và tại sao ông quan tâm tới người tôi ở cùng chứ?” Gã cư dân thành Venice nhìn tôi với vẻ thích thú trước khi ngật đầu ra sau rú lên cười. “Bọn họ thích tranh cãi y như bố mình, nhưng ta tin.” Các ngón tay tôi hơi tê tê râm ran, và cánh tay Ysabeau siết chặt hơn. “Có phải ta khiến cho phù thủy của các ngươi tức giận ?” Ánh mắt Domenico dán vào cánh tay Ysabeau. “Hãy điều ngươi đến đây để rồi cút khỏi vùng đất nhà ta.” Giọng Matthew hoàn toàn là đàm thoại bình thường. “Tên ta là Domenico Michele. Ta biết Matthew từ khi ta được tái sinh, và Ysabeau cũng lâu gần như thế. Nhưng ta biết về Louisa đáng nhiều hơn cả, dĩ nhiên là thế. Tuy nhiên chúng ta nên đá động tới người chết.” Gã cư dân Venice làm dấu thánh mình vẻ giả tạo. “Ngươi nên cố gắng đừng nhắc tới chị ta hơn.” Matthew cất lời điềm tĩnh, nhưng Ysabeau trông đằng đằng sát khí, đôi môi trắng bệch. “Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi,” tôi , lần nữa lôi kéo chú ý của Domenico. Ánh mắt gã ma cà rồng sáng lấp lánh với vẻ đánh giá lộ liễu. “Diana,” Matthew , thể ngăn tiếng gầm trong cổ họng. Gần như gầm lên với tôi vậy. Marthe xuất từ khu bếp, vẻ hốt hoảng gương mặt. “Ta thấy ta hưng hăng hơn hầu hết đồng loại của mình đấy. Đó có phải là lý do vì sao ngươi mạo hiểm mọi thứ để giữ ta ở bên ? Có phải ta mua vui cho ngươi ? Hay ngươi định hút máu ta khi ngươi chán và rồi vứt bỏ ta như ngươi làm với các động vật máu nóng khác?” Hai bàn tay Matthew đưa lên chạm vào chiếc quan tài của Lazarus, thứ duy nhất rành rành như cục u dưới lớp áo len của . còn chạm vào nó kể từ lúc chúng tôi tới Sept-Tours. Ánh mắt sắc bén của Domenico cũng phát ra cử chỉ ấy, và nụ cười đáp trả của đầy hận thù. “Cảm giác tội lỗi ư?” Giận điên trước cái cách Domenico khiêu khích Matthew, tôi mở miệng định . “Diana, quay vào nhà ngay lập tức.” Giọng Matthew cho thấy lát nữa chúng tôi có cuộc chuyện nghiêm túc và vui vẻ gì. đẩy tôi về phía Ysabeau và đặt mình trực diện chặn giữa mẹ , tôi với gã cư dân thành Venice hắc ám kia. Cùng lúc Marthe ở gần bên, hai cánh tay bắt chéo trước thân hình cứng cáp mô phỏng dáng vẻ nổi bật ấn tượng của Matthew. “ được trước khi nàng phù thủy này nghe những gì ta phải . Ta đến đây để cho lời cảnh báo, Diana Bishop ạ. Mối quan hệ giữa phù thủy và ma cà rồng là bị cấm. phải rời khỏi ngôi nhà này và được có mối liên hệ nào nữa với Matthew de Clermont hay bất cứ ai trong gia đình . Nếu tuân theo, Đại Hội Đồng tiến hành bất cứ biện pháp cần thiết nào để bảo toàn hiệp ước.” “Tôi biết cái Đại Hội Đồng của ông, và tôi đồng ý với cái hiệp ước như thế,” tôi vẫn còn điên tiết. “Hơn nữa, những hiệp ước đó thể đem thi hành được. Chúng phải là tự nguyện.” “ là sử gia kiêm luật sư hả? Phụ nữ đại các với giáo dục tốt quá quyến rũ. Nhưng phụ nữ giỏi trong tín ngưỡng tôn giáo,” Domenico tiếp tục vẻ buồn phiền, “đó là lý do vì sao chúng ta bao giờ nghĩ rằng việc giáo dục cho các là xứng đáng. Có phải nghĩ chúng ta bám chặt vào ý tưởng của kẻ dị giáo Calvin khi chúng ta lập ra những lời hứa này với nhau ? Khi hiệp ước được tuyên thề, nó bao hàm tất cả ma cà rồng, tinh và phù thủy - quá khứ, tại và tương lai. Đây phải con đường mà có thể thích theo thích thôi.” “Ngươi chuyển lời cảnh cáo của mình rồi, Domenico,” Matthew , giọng mềm như lụa. “Đó là tất cả những gì ta phải với nàng phù thủy,” gã cư dân thành Venice đáp. “Nhưng ta còn có nhiều điều để với ngươi nữa.” “Thế Diana quay vào nhà. Đưa ấy khỏi đây ngay, Maman,” ngắn gọn. Lần này mẹ làm theo những gì cầu ngay lập tức, và Marthe theo sau. “Đừng,” Ysabeau rít lên khi tôi ngoái lại nhìn Matthew. “Cái thứ đó đến từ đâu thế?” Marthe hỏi khi chúng tôi an toàn trong nhà. “Từ địa ngục, có lẽ thế,” Ysabeau . Bà thoáng chạm mấy đầu ngón tay vào mặt tôi, rồi vội vàng rụt lại khi chúng gặp hơi nóng của cơn giận dữ má tôi. “ dũng cảm, ạ, nhưng điều làm là liều lĩnh khinh suất. phải là ma cà rồng. Đừng có liều mình tranh cãi với Domenico hay bất cứ kẻ nào trong liên minh của . Hãy tránh xa bọn chúng ra.” Ysabeau cho tôi thời gian kịp phản ứng, bà tăng tốc đưa tôi qua khu bếp, phòng ăn, phòng khách và vào đại sảnh. Cuối cùng bà dắt tôi hướng tới khung cửa vòm dẫn lên tòa tháp canh khủng khiếp nhất. Hai bắp chân tôi căng cứng trước ý nghĩ phải leo lên. “Chúng ta phải lên,” bà khăng khăng. “Matthew tìm chúng ta ở đó.” Sợ hãi và tức giận đẩy tôi lên nửa chừng cầu thang. Đến nửa sau tôi hoàn toàn chế ngự được ý chí. Nhấc bàn chân lên khỏi bậc cuối cùng, tôi thấy mình đứng mái nhà phẳng với tầm nhìn xa đến hàng dặm. cơn gió thổi qua, làm xổ tung các bím tóc và xua tan màn sương mù xung quanh tôi. Ysabeau nhanh chóng di chuyển tới cây cột vươn hàng chục mét lên trời cao. Bà kéo lên lá cờ hiệu màu đen hình chữ chi vẽ con mãng xà ngậm đuôi màu bạc. Nó giương lên trong ánh sáng ảm đạm, con rắn ngậm đuôi tỏa sáng lung linh. Tôi chạy tới cạnh xa nhất của bức tường có lỗ châu mai, và Domenico ngẩng lên nhìn. Giây lát sau, ngọn cờ tương tự được kéo lên đỉnh tòa nhà trong làng và hồi chuông bắt đầu rung lên. Đàn ông và đàn bà từ từ bước ra khỏi những ngôi nhà, quán bar, văn phòng làm việc, mặt hướng về phía Sept-Tours, nơi biểu tượng cổ xưa của bất tử và tái sinh phần phật bay trong gió. Tôi nhìn Ysabeau, câu hỏi rành rành lên mặt tôi. “Gia huy của chúng ta là lời cảnh báo cho dân làng sẵn sàng cảnh giác,” bà giải thích. “Chúng ta chỉ thả bay cờ hiệu khi có những kẻ khác ở cùng chúng ta. Dân làng trở nên quá quen thuộc với việc sống giữa ma cà rồng, và dù họ chẳng còn sợ hãi chúng ta nữa, nhưng chúng ta vẫn giữ nó cho những dịp như thế này. Thế giới đầy rẫy những ma cà rồng thể tin tưởng được, Diana ạ. Domenico Michele là trong số đó.” “Bác cần phải với cháu điều đó. là kẻ quái quỷ thế nào?” “ trong những người bạn cũ nhất của Matthew,” Ysabeau lẩm bẩm, đưa mắt nhìn con trai, “điều đó khiến trở thành kẻ thù rất nguy hiểm.” Tôi chuyển chú tâm sang Matthew, tiếp tục trao đổi lời qua tiếng lại với Domenico ngang qua khoảng cách chính xác được định ước. cái bóng mờ màu đen xám di chuyển, và gã cư dân thành Venice bị hất văng ra phía sau về phía cây dẻ chỗ đứng tựa khi nãy. tiếng rắc lớn vang lên bãi đất. “Làm tốt lắm,” Ysabeau thầm. “Marthe đâu rồi ạ?” Tôi ngoái nhìn về phía cầu thang. “Ở trong hành lang. Chỉ để đề phòng thôi.” Ánh mắt sắc sảo của Ysabeau vẫn dán chặt vào cậu con trai. “Domenico đến đây và xé toạc cổ họng cháu sao?” Ysabeau chuyển cái nhìn chăm chăm lấp lánh sang tôi. “Tất cả chỉ có thế dễ chịu, bé quý ạ. Domenico chơi đùa với trước. thường thích chơi đùa với mỗi con mồi của mình. Và thích có cử tọa chứng kiến.” Tôi nuốt khan. “Cháu có thể tự chăm lo cho bản thân được.” “ có thể, nếu có sức mạnh nhiều như Matthew tin tưởng. Các phù thủy rất giỏi trong việc tự bảo vệ bản thân họ, ta thấy, với đôi chút nỗ lực và tẹo can đảm,” Ysabeau . “Cái Đại Hội Đồng mà Domenico nhắc đến là gì thế?” tôi hỏi. “Là hội đồng gồm chín thành viên – mỗi giống loài tinh, phù thủy, và ma cà rồng cử ra ba đại diện. Nó được thành lập trong thời kỳ Thập Tự Chinh để giữ cho chúng ta bị phơi bày ra trước loài người. Chúng ta bất cẩn và dính líu qua nhiều tới chính trị của bọn họ và các hình thức điên rồ khác nữa.” Giọng Ysabeau cay đắng. “Tham vọng, kiêu hãnh, các sinh vật tham lam như Michele bao giờ hài lòng với số phận của chúng trong cuộc sống và luôn muốn nhiều hơn – chúng lái chúng ta tuân theo hiệp ước.” “Và mọi người đồng ý với các điều kiện hiển nhiên đó ư?” lố bịch khi nghĩ rằng những lời hứa hẹn do các sinh vật từ thời Trung Cổ lập nên lại có ảnh hưởng đến Matthew và tôi. Ysabeau gật đầu, cơn gió thoảng hất mấy lọn tóc màu nâu óng ả bay quanh mặt bà. “Khi chúng ta phối kết với sinh vật khác, chúng ta quá nổi bật, dễ gây chú ý. Khi chúng ta bắt đầu dính líu đến những cuộc tình với loài người, bọn họ bắt đầu nghi ngờ thông minh tài giỏi của chúng ta. Loài người là những sinh vật nhanh nhẹn và đáng thương, nhưng bọn họ hoàn toàn ngu ngốc.” “Với từ ‘phối kết’, bác ám chỉ các bữa tối và khiêu vũ chứ ạ?” “ ăn tối, khiêu vũ – hôn và hát cho nhau nghe,” Ysabeau nhấn mạnh. “Và điều xảy đến sau khi khiêu vũ và hôn cũng bị ngăn cấm. Chúng ta cũng đầy kiêu ngạo trước khi chấp nhận hiệp ước ấy. Chúng ta đông hơn, và chúng ta quen với việc lấy bất cứ thứ gì mình muốn, bất kể giá nào.” “Lời hứa này còn bao gồm điều gì khác nữa?” “ chính trị hay tôn giáo. Quá nhiều ông hoàng và giáo trưởng là các sinh vật khác người. khi con người bắt đầu viết các sử ký của họ việc chuyển từ cuộc đời này sang cuộc đời mới tiếp theo trở nên khó khăn hơn.” Ysabeau rùng mình. “Ma cà rồng thấy việc giả vờ chết và chuyển sang cuộc sống mới khi con người cứ sục sạo xung quanh khó khăn.” Tôi liếc nhanh nhìn Matthew và Domenico, nhưng họ vẫn tiếp tục chuyện bên ngoài các bức tường của lâu đài. “Vậy,” tôi lặp lại, đếm đầu ngón tay các mục cấm. “ phối kết giữa các loại sinh vật khác người. nghiệp trong chính trị hay tôn giáo. Còn gì khác nữa ạ?” Hình như tính bài ngoại và chống đối dữ dội của dì tôi đối với việc tôi học luật xuất phát từ hiểu biết hoàn thiện của dì về hiệp ước lâu đời này. “Có. Nếu bất cứ sinh vật khác người nào phá vỡ hiệp ước, Đại Hội Đồng có trách nhiệm dừng hành vi thiếu đúng đắn đó và duy trì lời tuyên thệ” “Vậy nếu có hai sinh vật phá vỡ hiệp ước sao?” im lặng căng thẳng giữa chúng tôi. “Theo ta biết điều đó chưa từng xảy ra,” bà dứt khoát. “Vì thế rất tốt nếu hai đứa các con làm như vậy.” Đêm qua tôi đưa ra lời đề nghị đơn thuần là Matthew cùng chia sẻ chiếc giường với tôi. Nhưng biết đó phải là lời đề nghị đơn thuần. phải tôi hay chắc chắn, hay vì tình cảm của . Matthew muốn biết có thể bao xa trước khi Đại Hội Đồng can thiệp. Đáp án đến nhanh chóng. Họ để chúng tôi tiến xa hơn nữa. Cảm giác nhõm của tôi nhanh chóng bị thay thế bằng cơn giận dữ. ai than phiền khi mối quan hệ của chúng tôi tiến triển, và ấy có lẽ bao giờ cho tôi biết về Đại Hội Đồng hay hiệp ước. im lặng của bao hàm cả mối quan hệ của tôi với gia đình mình và với . Có lẽ tôi xuống mồ mà vẫn cho rằng dì tôi và Ysabeau là những kẻ có lòng tin mù quáng. Thay vì thế họ sống phụ thuộc vào lời hứa được lập nên từ cách đây rất lâu – điều mấy thông cảm được nhưng xét theo mặt nào đó lại có thể tha thứ được. “Con trai bác cần thôi giấu giếm cháu những điều này.” Tâm trạng tôi bừng bừng, cảm giác râm ran gia tăng các đầu ngón tay. “Và bác nên ít bận tâm về Đại Hội Đồng mà lo lắng nhiều hơn về điều cháu làm khi cháu gặp lại con trai bác đây.” Ysabeau khịt mũi coi thường. “ chẳng kịp làm được gì trước khi nó quở mắng về việc nghi ngờ quyền hạn của nó trước mặt Domenico.” “Cháu phải phục tùng uy quyền của Matthew!” “ bé quý của ta, còn nhiều thứ phải học về ma cà rồng lắm,” bà với vẻ thỏa mãn. “Và bác cũng còn nhiều điều nên biết về cháu. Cả Đại Hội Đồng cũng vậy.” Ysabeau tóm vào hai tay tôi, những ngón tay bà bấm sâu vào da thịt tôi. “Đây phải là trò chơi, Diana! Matthew sẵn sàng quay lưng với các sinh vật mà nó biết từ nhiều thế kỷ nay để bảo vệ quyền lợi trước bất kì điều gì tưởng tượng là mình muốn trong cuộc đời phù du thoáng qua của . Ta cầu xin đừng để nó làm thế. Họ giết nó nếu nó khăng khăng cố chấp.” “ ấy là người đàn ông tự chủ, bác Ysabeau,” tôi lạnh lùng. “Cháu bảo Matthew làm gì cả.” “, nhưng có sức mạnh sai khiến nó. Hãy bảo nó là từ chối phá vỡ hiệp ước vì nó, vì quyền lợi của nó – hoặc rằng chẳng có tình cảm gì với nó hơn là tò mò – phù thủy vốn nổi tiếng hiếu kì mà.” Bà đẩy tôi ra. “Nếu nó, biết phải gì.” “Kết thúc rồi,” Marthe gọi vọng ra từ chỗ đầu cầu thang Cả hai chúng tôi cùng lao tới mép tòa tháp. con ngựa đen cùng người cưỡi nó phóng ra khỏi khu tàu ngựa và nhảy qua hàng rào bãi đất thả ngựa trước khi ầm ầm lao vào cánh rừng.