Bữa ăn gần như xong, tôi bắt đầu thấy thư giãn. Chúng tôi tán gẫu về Oxford trong khi tôi dọn bàn và mang pho mát, quả chín cùng hạt dẻ nướng ra bàn. “Tự nhiên nhé,” tôi , đặt cái đĩa trước mặt ta. Matthew thưởng thức mùi thơm của chút xíu dâu tây và thở phào vui sướng khi cầm lên hạt dẻ. “Chúng ấm nóng,” chàng nhận xét. chàng làm nứt lớp vỏ cứng của hạt dẻ dễ dàng bằng mấy ngón tay và bóp phần nhân hạt lộ ra khỏi vỏ. Cái kẹp vỏ hạt treo nơi mép cái tô lớn ràng là món dụng cụ bắt buộc bàn ăn đối với ma cà rồng. “Tôi có mùi hương như thế nào?” Tôi hỏi, nghịch ngợm chân ly rượu của mình. Trong lúc, có vẻ như chàng trả lời. im lặng kéo dài mỏng manh trước khi ta hướng đôi mắt đăm chiêu sang nhìn tôi. Mi mắt hạ xuống, hít thở sâu. “ có mùi hương nhựa liễu. Và mùi hoa chamolie, những bông hoa bị đổ rạp xuống.” ta lại hít ngửi và hơi mỉm cười, nụ cười buồn bã. “Có cả mùi kim ngân và lá sồi rụng nữa,” khẽ rồi thở ra, “cùng với hương gỗ phỉ mê hoặc nở rộ và mùi hoa thuỷ tiên đầu xuân. Và những thứ cổ xưa - bạc hà đắng, hương trầm, áo khoác của tiểu thư. Những mùi hương mà tôi nghĩ rằng mình lãng quên.” Mắt Matthew từ từ mở ra, và tôi nhìn vào vùng xám sâu thăm thẳm ấy, sợ hơi thở phá vỡ bùa mê mà những lời vừa tạo nên. “Thế còn tôi?” hỏi, đón giữ lấy ánh mắt tôi. “Mùi quế.” Giọng tôi ngập ngừng. “Và đinh hương. Đôi khi tôi nghĩ có mùi hoa cẩm chướng – phải loại ở trong các cửa hàng hoa, mà là loài hoa ngày xưa thường mọc ở những khu vườn nông thôn nước cơ.” “Hoa cẩm chướng,” Matthew , khóe mắt lấp lánh niềm thích thú. “ tệ đối với phù thủy.” Tôi với hạt dẻ. Xoa hạt dẻ trong hai lòng bàn tay, tôi xoay nó từ tay này sang tay kia, hỏi ấm lan lên hai cánh tay đột nhiên lạnh giá của tôi. Matthew lại ngả người ra sau ghế, dò xét nét mặt tôi với đôi mắt lấp lánh. “ làm thế nào mà biết được nên dùng gì cho bữa tối hôm nay?” chàng ra dấu về chỗ trứng cá và hạt dẻ còn lại sau bữa ăn. “À, có phép thuật đâu. Khoa động vật học giúp đỡ tôi rất nhiều,” tôi giải thích. chàng giật nảy mình, rồi phì cười tràng. “ hỏi khoa động vật học làm món gì cho tôi vào bữa tối ư?” “ hẳn,” tôi đáp đề phòng. “Có những công thức các món tái mạng, nhưng tôi gặp bế tắc khi mua thịt. Họ cho tôi biết sói xám ăn gì.” Matthew lắc đầu, nhưng chàng vẫn cười, và vẻ cáu kỉnh vì bị chọc tức của tôi tan chảy mất. “Cảm ơn ,” giản dị . “ lâu lắm rồi có ai nấu cho tôi ăn.” “ có gì mà. Rượu là phần tệ nhất đấy.” Mắt Matthew sáng lên. “ đến rượu,” chàng vừa vừa đứng lên và gập khăn ăn của mình lại, “tôi mang cho chúng ta thứ để dùng sau bữa tối.” chàng đề nghị tôi mang hai cái ly nữa ra. chai rượu cũ kỹ, được đặt hơi nghiêng ở bàn khi tôi quay lại. Nó có cái nhãn màu kem mờ nhạt với dòng chữ in đơn giản và hình vương miện . Matthew thận trọng xoắn dụng cụ mở nút chai, nó có màu đen, chắc cùng tuổi với cái chai và có vẻ dễ vỡ vụn. Lỗ mũi ta phập phồng khi rút cái nút chai ra, gương mặt mang vẻ của con mèo chắc chắn sở hữu được chú hoàng yến ngon lành. Rượu chảy ra khỏi chai như nước si rô, màu vàng của nó phản chiếu ánh sáng lung linh của những ngọn nến. “Ngửi ,” chàng ra lệnh, đưa cho tôi ly, “và cho tôi biết nghĩ gì.” Tôi đưa chiếc ly lên mũi và há hốc miệng kinh ngạc. “Nó có mùi ca ra men và quả mọng,” tôi , thắc mắc làm thế nào mà thứ có màu vàng như thế lại có thể có mùi thơm của thứ màu đỏ được. Matthew tỉ mỉ quan sát và thích thú trước phản ứng của tôi. “Nhấp ngụm xem,” gợi ý. Vị ngọt của rượu nổ bùng trong miệng tôi. Món trứng sữa vani và mơ từ bếp của các quý bà ào qua lưỡi tôi, và miệng tôi bị kích thích bởi hương vị ấy lúc lâu sau khi tôi nuốt ngụm rượu. Giống như uống phép thuật vậy. “Cái gì đây?” cuối cùng tôi cũng thốt lên lời, sau khi mùi vị ngụm rượu lạt dần. “Nó được làm ra từ những trái nho thu hoạch từ ngày xửa ngay xưa. Mùa hè ấy rất nóng và đầy nắng, người nông dân lo lắng những cơn mưa đến và phá hủy mất mùa màng. Nhưng thời tiết cứ như thế, và họ thu hoạch nho vừa kịp trước khi trở trời.” “ có thể nếm được vị nắng,” tôi và lại thu về được nụ cười tuyệt đẹp khác. “Suốt vụ mùa năm ấy ngôi sao chổi bay chiếu sáng rực cả cánh đồng nho. Nó hình ràng qua kính thiên văn tới hàng tháng trời liền, nhưng vào tháng Mười nó sáng đến mức gần như có thể đọc sách dưới ánh sáng của nó. Người nông dân xem nó như dấu hiệu những trái nho được ban phước lành.” “Chuyện này là vào năm 1986 ư? Nó là sao chổi Halley phải ?” Matthew lắc đầu. “. Đó là năm 1811.” Tôi nhìn chằm chằm kinh ngạc chất rượu vang gần hai trăm năm tuổi trong chiếc ly của mình, sợ rằng nó có thể bốc hơi ngay trước mắt mình. “Sao chổi Halley còn xuất vào năm 1759 và 1835 nữa.” ta phát cái tên thành “Hawley”. “ lấy chai rượu này từ đâu thế?” Cửa hàng rượu vang cạnh nhà ga có rượu như thế này. “Tôi mua nó của Antoine-Marie ngay khi ông chủ cửa hàng bảo với tôi là nó vô cùng khác thường,” Matthew với vẻ thích thú. Xoay chai rượu lại, tôi nhìn vào cái nhãn. Chaateau Yquem. Tôi từng nghe đến nó. “Và có nó kể từ đó,” tôi . Chàng ma cà rồng uống sô--la ở Paris vào năm 1615 và nhận được giấy phép xây dựng dinh thự từ vua Henry VIII vào năm 1536 – dĩ nhiên ta mua được rượu vang vào năm 1811. Và quanh cổ ta còn đeo chiếc bình thánh tích trông cổ xưa nữa… “Matthew,” tôi từ từ , quan sát xem ta có bất cứ dấu hiệu nào chớm cảnh báo cơn tức giận . “ bao nhiêu tuổi rồi?” Miệng ta đanh lại, nhưng vẫn giữ giọng nhàng. “Tôi già hơn vẻ ngoài của mình.” “Tôi biết điều đó,” tôi đáp, thể kiềm chế được mất kiên nhẫn của mình thêm nữa. “Tại sao tuổi tác của tôi lại quan trọng đến thế?” “Tôi là sử gia. Nếu ai đó với tôi rằng ta nhớ được hương vị sô--la được giới thiệu tới nước Pháp lần đầu hay ngôi sao chổi bay qua trời vào năm 1811, khó mà tò mò về những kiện khác mà ta có thể sống và kinh qua. sống vào năm 1536 – tôi ở ngôi nhà mà xây dựng nên. có biết Machiavelli[9] ? Có sống qua đại dịch Cái Chết Đen[10] ? Có học ở đại học Paris khi Abelard[11] giảng dạy ở đó ?” [9. Niccolo di Bernardo dei Machiavelli (3/5/1469 – 21/6/1527) là nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhà thơ, nhà soạn kịch. Ông được xem là trong những sáng tố của nền khoa học chính trị đại. Ông là nhân vật trung tâm của bộ máy chính trị nước Ý thời Phục Hưng.] [10. Cái Chết Đen là tên gọi của đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ 14 mà đỉnh điểm là ở châu Âu từ năm 1348 đến năm 1350, do bùng phát của bệnh dịch hạnh. Cái Chết Đen được coi là trong những đại dịch chết chóc nhất trong lịch sử nhân loại, ước tính nạn dịch này giết chết từ 30% tới 60% dân số của châu Âu và giảm dân số toàn cầu từ khoảng 450 triệu người xuống còn từ 350 đến 375 triệu người vào năm 1400.] [11. Peter Abelard (1079-1142) là nhà thần học, triết gia Pháp thời Trung cổ, đồng thời là nhà thần học xuất sắc. Cuộc tình bi thảm của ông với nữ tu Héloise trở thành huyền thoại và được lưu truyền tới ngày nay.] chàng vẫn im lặng. Tóc gáy tôi bắt đầu có cảm giác dựng đứng lên. “Chiếc bình thánh tích của với tôi từng ở vùng Đất Thánh. tham gia vào cuộc Thập Tự Chinh[12] ư? có nhìn thấy sao chổi Halley bay ngang qua Normandy vào năm 1066 ?” [12. Thập Tự Chinh là loạt các xung đột quân mang màu sắc tôn giáo do những người theo Kitô giáo tiến hành năm 1095 - 1291, thường được ủng hộ bởi Giáo hoàng với mục đích giải phóng Jerusalem và vùng Đất Thánh khỏi thống trị của người Hồi giáo.] Vẫn động tĩnh gì. “Có chứng kiến Charlemagne[13] đăng quang ? Có sống sót qua mùa thu của Carthage ? Có ngăn cho Attila[14]tiến tới Rome ?” [13. Charlemagne của đế quốc Karolingien (sinh năm 742 hay 747 – mất năm 814) là vị Hoàng đế đầu tiên của nước Đức.] [14. Attila (406 - 453), người châu Âu gọi ông là Attila Rợ Hung, và đặt biệt hiệu là “Ngọn roi của Thượng đế” hoặc “tai họa của trời”, là Thiên Vu của Đế quốc Hung Nô từ năm 434 đến khi qua đời vào năm 453 và là người hùng tạo dựng đế chế của người Hung trải dài từ Đức đến song Ural, rồi từ sông Danube tới biển Baltic.] Matthew giơ ngón trỏ bàn tay phải lên. “Mùa thu nào của Carthage?” “ kể cho tôi !” “Chết tiệt, Hamish Osborne!” ta lầu bầu, bàn tay nắm lại tấm khăn trải bàn. Lần thứ hai trong vòng hai ngày, Matthew nỗ lực đấu tranh tư tưởng với những điều . ta nhìn ngọn nến chớp mắt, rồi từ từ kéo ngón tay mình qua ngọn lửa. Thịt ta bùng lên thành những vết bỏng giộp màu đỏ giận dữ, thế rồi nó tự dịu thành vẻ hoàn hảo màu trắng lạnh giá chỉ trong tích tắc sau đó mà có lấy thoáng đau đớn nào biểu nét mặt. “Tôi tin rằng thể xác mình gần ba mươi bảy tuổi. Tôi được sinh ra vào thời Clovis cải đạo theo Cơ đốc giáo. Bố mẹ tôi nhớ thế, hoặc tôi cũng chẳng biết nữa. Chúng tôi tính ngày sinh nhật vào thời đó. Cứ lấy ngày của năm 500 cho gọn và thế là xong.” ta ngước nhìn tôi thoáng rồi lại hướng chú ý vào ngọn nến. “Tôi được tái sinh làm ma cà rồng vào năm 537, bởi đặc cách của Attila – sống trước thời của tôi – vừa chạm vào hầu hết các thời điểm xa nhất và gần nhất trong thiên niên kỷ trước, cái năm tôi gần hòn đá đỉnh vòm ngôi nhà của mình ở Woodstock. Bởi vì là sử gia, nên tôi cảm thấy có bổn phận phải với rằng Machiavelli ấn tượng đến mức như tưởng đâu. Ông ta chỉ là chính trị gia người Florentine – và phải là người giỏi khủng khiếp trong lĩnh vực đó đâu.” Dấu hiệu buồn chán lẻn vào giọng của . Matthew Clairmont hơn 1500 tuổi rồi. “Tôi đáng ra nên tọc mạch,” tôi tỏ vẻ bối rối, biết phải nhìn vào đâu nữa và càng lúng túng khi điều gì khiến tôi nghĩ rằng hiều biết về các kiện lịch sử mà chàng ma cà rồng này sống và trải qua giúp tôi hiểu biết hơn về ta. dòng viết của Ben Jonson thoáng qua tâm trí tôi. Nó dường như giải thích Matthew theo cách mà lễ đăng quang của Charlemagne thể có. “ ta có tuổi, nhưng có tất cả thời gian!” tôi lẩm bẩm. “Hỡi ơi, ngược lại tôi quên hết tất cả thời gian,” chàng đáp lời, vượt xa hơn tôi để du hành về tận văn chương thế kỷ 17 và tặng lại câu của Milton. Chúng tôi nhìn nhau lâu hết mức có thể, chừng nào chúng tôi còn có thể chịu được. Cái nhìn ấy tiếp tục tạo nên thứ bùa mê mong manh khác giữa chúng tôi. Tôi phá vỡ nó. “ làm gì vào mùa Thu năm 1859?” Mặt Matthew tối sầm. “Peter Knox gì với ?” “Rằng thể chia sẻ các bí mật của mình với phù thủy.” Giọng tôi nghe điềm tĩnh hơn là tôi cảm nhận. “ ư?” Matthew êm ái, nghe ít giận dữ hơn là những biểu nơi quai hàm và hai bờ vai . “Vào tháng Chín năm 1859 tôi xem lướt qua các cuốn cổ thư trong viện bảo tàng Ashmolean.” “Tại sao, Matthew?” Làm ơn hãy kể cho tôi , tôi thầm nài nỉ, bắt chéo hai ngón tay đặt trong lòng. Tôi khiêu khích ta tiết lộ phần đầu tiên trong những bí mật của mình nhưng muốn ta tự nguyện cho tôi biết phần còn lại. mánh khóe, thách đố. Chỉ kể cho tôi thôi. “Tôi đọc sắp xong bản thảo viết tay sắp sửa được đem in. Nó được nhà tự nhiên học ở Cambridge viết.” Matthew đặt ly của mình xuống. Tay tôi vụt đưa lên che miệng khi sực nhớ ra ý nghĩa quan trọng của cái ngày ấy. “Nguồn gốc.” Giống như tác phẩm lớn của Newton về vật lý học, Các nguyên lý cơ bản, đây là cuốn sách chẳng cần phải chú thích nhiều. Bất cứ ai học qua Sinh học cấp ba đều biết Nguồn gốc các loài của Darwin. “Bài báo của Darwin ở mùa hè trước đưa ra học thuyết của ông ấy về chọn lọc tự nhiên, nhưng cuốn sách này khá là khác lạ. Cái cách ông ấy chứng minh cách dễ dàng những biến đổi quan sát được trong tự nhiên và dẫn dắt từng bước chấp nhận điều có tính cách mạng to lớn đến thế kỳ diệu.” “Nhưng giả kim thuật chẳng liên quan gì tới thuyết tiến hóa cả.” Vớ lấy chai rượu, tôi tự rót cho mình thêm thứ rượu vang quý giá ấy, quan tâm đến việc nó có thể hết dần bằng việc mình phải đứng từ xa mà ngắm nhìn thứ chất lỏng thơm ngon này. “Lamarck tin rằng mỗi loài tiến hóa từ các tổ tiên khác nhau và độc lập phát triển hướng đến những hình thái tồn tại cao hơn. Nó tương tự như điều mà các nhà giả kim thuật của vẫn tin – rằng đá tạo vàng là sản phẩm cuối cùng khó nắm bắt của chuyển hóa tự nhiên từ các kim loại cơ bản trở thành những kim loại cao cấp, quý giá hơn như đồng, bạc và vàng.” Matthew với chai rượu, tôi liền đẩy nó lại phía ta. “Nhưng Darwin đồng ý với Lamarck, dù ông ấy dùng cùng thuật ngữ – ‘ chuyển hóa’ – trong các bài tham luận đầu tiên về tiến hóa.” “Ông ấy đồng ý với chuyển hóa có tính dây chuyền đó là . Nhưng học thuyết của Darwin về chọn lọc tự nhiên có thể vẫn bị xem là loạt các chuyển hóa có tính liên kết.” Có lẽ Matthew đúng và phép thuật có ở trong mọi thứ. Nó có trong thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton, và có thể cả trong thuyết tiến hóa của Darwin nữa. “Có những cuốn cổ thư về giả kim thuật ở khắp nơi thế giới.” Tôi cố gắn bám riết lấy các chi tiết trong khi vẫn chấp nhận bức tranh lớn hơn. “Tại sao lại là cuốn cổ thư của Ashmole?” “Khi tôi đọc Darwin và thấy cách ông ấy khám phá thuyết chuyển hóa của thuật giả kim thông qua sinh học như thế nào, tôi nhớ đến những câu chuyện về cuốn sách kỳ bí giải thích về nguồn gốc của ba loài chúng ta – tinh, phù thủy và ma cà rồng. Tôi luôn phủ nhận chúng như là hoang đường tưởng.” chàng nhấm nháp hớp rượu. “Hầu hết đều ngụ ý rằng câu chuyện này được che đậy khỏi cặp mắt của loài người dưới dạng cuốn sách về thuật giả kim. Việc xuất bản cuốn Nguồn gốc các loài thúc đẩy tôi tìm kiếm nó, và nếu cuốn sách như thế có tồn tại, Elias Ashmole chắc mua nó. Ông ta có năng lực phi thường trong việc tìm ra những cuốn cổ thư kỳ lạ.” “Và tìm kiếm nó ở Oxford này, vào thời điểm 150 năm trước?” “Đúng,” Matthew . “Và 150 năm trước khi nhận được cuốn Ashmole 782 ở đây, tôi được nghe kể rằng nó bị mất tích.” Tim tôi đập dồn, và ta nhìn tôi vẻ quan ngại. “Tiếp ,” tôi , vẫy tay về phía ta. “Tôi vẫn cố gắng để chạm được tay vào nó kể từ hồi ấy. Mỗi cuốn cổ thư khác của Ashmole, dù có ở đó hay , dường như đều rất hứa hẹn. Tôi nhìn thấy những cuốn cổ thư ở các thư viện khác – ở Herzog August Bibliothek nước Đức, ở Bibliothèque Nationale của Pháp, ở thư viện của dòng họ Medici tại Florence, Tòa thánh Vatican, thư viện của Quốc hội Hoa Kỳ.” Tôi chớp mắt, nghĩ đến cảnh ma cà rồng lang thang giữa những hành lang của Tòa thánh Vatican. “Cuốn cổ thư duy nhất mà tôi chưa được thấy chính là Ashmole 782. Bằng phép loại trừ đơn giản, nó chắc hẳn phải là cuốn cổ thư chứa đựng câu chuyện của chúng ta – nếu nó còn tồn tại.” “ xem nhiều cuốn cổ thư về giả kim thuật hơn tôi.” “Có lẽ,” Matthew công nhận, “nhưng điều đó có nghĩa là tôi hiểu chúng như . Dù vậy, tất cả các cuốn cổ thư tôi xem đều có chung niềm tin tuyệt đối rằng các nhà giả kim có thể giúp loại vật chất nào đó chuyển đổi thành dạng khác, tạo ra hình thái sống mới.” “Cái đó nghe giống thuyết tiến hóa,” tôi thẳng thắn . “Đúng,” Matthew nhàng đáp, “chính thế.” Chúng tôi di chuyển sang sofa, tôi cuộn người lại thành quả bóng ở đầu ghế trong khi Matthew ngã người uể oải ở đầu kia, đôi chân dài của duỗi ra trước mặt. khéo là mang theo cả chai rượu. Khi chúng tôi ổn định chỗ ngồi, đó cũng là lúc dành nhiều hơn cho chân thành giữa hai bên. “Tôi gặp tinh, Agatha Wilson, ở tiệm Blackwell vào tuần trước. Theo thông tin Internet, ấy là nhà thiết kế nổi tiếng. Agatha cho tôi biết tinh tin rằng Ashmole 782 là câu chuyện về nguồn gốc của tất cả - thậm chí cả nguồn gốc của loài người nữa. Peter Knox kể cho tôi câu chuyện khác. Ông ta nó là cuốn bí kíp phép thuật đầu tiên, nguồn gốc sức mạnh của tất cả các phù thuỷ. Knox tin rằng nó chứa đựng bí mật của bất tử,” tôi vừa vừa liếc nhìn Matthew, “cả làm thế nào để tiêu diệt ma cà rồng. Tôi nghe tinh và phù thủy về câu chuyện này – giờ tôi muốn nghe câu chuyện của .” “Ma cà rồng tin cuốn cổ thư mất ấy lý giải về tuổi thọ và sức mạnh của chúng tôi,” . “Trong quá khứ, nỗi sợ hãi của chúng tôi chính là bí mật này – nếu nó rơi vào tay phù thủy – dẫn đến diệt vong của chúng tôi. số lại sợ rằng phép thuật có liên quan đến tạo thành của chúng tôi và rằng phù thủy có thể tìm ra phương thức đảo ngược phép thuật ấy và hủy diệt ma cà rồng. Dường như cái phần đó trong truyền thuyết có thể là .” Matthew khẽ khàng ra những điều ấy, vẻ băn khoăn lo lắng. “Tôi vẫn hiểu tại sao quá chắc chắn rằng cuốn sách về nguồn gốc này – bất kể thứ nó chứa đựng trong đó là gì – lại được che giấu bên trong cuốn sách về thuật giả kim.” “ cuốn sách về giả kim thuật có thể che giấu những bí mật này bằng bề ngoài đơn giản – như Peter Knox che giấu nhân dạng của ông ta là phù thủy dưới vỏ bọc chuyên gia về huyền bí. Tôi nghĩ chính ma cà rồng hiểu ra cuốn sách đó liên quan đến thuật giả kim. Nó quá hoàn hảo để tạo thành trùng hợp ngẫu nhiên. Các nhà giả kim thuật loài người dường như nắm bắt được thứ giống ma cà rồng khi họ viết về đá tạo vàng. Trở thành ma cà rồng khiến chúng tôi gần như bất tử, nó làm hầu hết chúng tôi giàu có, và cho chúng tôi cơ hội để tích lũy vốn kiến thức cùng hiểu biết thể tưởng tượng nổi.” “Được rồi, đó là đá tạo vàng.” Đường song song giữa loại vật chất thần thoại này và sinh vật ngồi đối diện với tôi đây gây ấn tượng mạnh và làm tôi ớn lạnh. “Nhưng vẫn khó mà hình dung cuốn sách như thế lại tồn tại. Bởi điều, tất cả các câu chuyện đều mâu thuẫn với nhau. Vì ai ngu ngốc đến mức nhồi nhét quá nhiều thông tin như thế vào cùng chỗ chứ?” “Như các truyền thuyết về ma cà rồng và phù thủy, ít nhất có hạt vàng trong những câu chuyện về cuốn cổ thư này. Chúng tôi chỉ phải tìm ra hạt vàng đó là gì và gạn lọc cho tới phần cuối cùng. Sau đó chúng tôi bắt đầu hiểu được.” Gương mặt Matthew hề có dấu vết của giả dối hay lẩn tránh. Dựa vào cái cách ta dùng từ “chúng tôi,” tôi đoán chắc ta kiếm được nhiều thông tin hơn thế. “ đúng về Ashmole 782. Cuốn sách mà tìm kiếm ở ngay bên trong nó.“ “Tiếp tục ,” Matthew khẽ , cố gắng kiểm soát hiếu kỳ của mình. “ bề mặt nó là cuốn sách về thuật giả kim. Phép thuật có sai sót hoặc đó là những lỗi có chủ ý – tôi vẫn thể chắc đó là cái nào.” Tôi cắn môi trong khi tập trung, ánh mắt ta bất động ngay ở chỗ hàm răng tôi vừa làm rớm giọt máu xíu. “ có ý gì khi ‘ bề mặt nó là cuốn sách về thuật giả kim’?” Matthew đưa ly rượu của mình tới gần mũi hơn. “Đó là bản viết tay giấy da cừu. Nhưng mực bị cuốn trôi . Phép thuật che giấu nguyên bản cuốn sách. Tôi gần như đọc nổi chữ, chúng được che giấu quá khéo. Nhưng khi tôi giở trong các trang sách, ánh sáng ở ngay lề bên phải và tôi có thể thấy các dòng chữ viết chuyển động bên dưới nó.” “ có thể đọc được nó ?” “.” Tôi lắc đầu. “Nếu Ashmole 782 chứa đựng những thông tin về việc chúng ta là ai, làm thế nào chúng ta trở thành như vậy, và làm thế nào để tiêu diệt được chúng ta, quả thực nó nên bị chôn vùi .” “ tốt nếu nó bị chôn vùi trong quên lãng,” Matthew dứt khoát, “ít nhất là bây giờ. Nhưng thời điểm ấy mau chóng tới thôi, khi chúng ta cần đến cuốn sách đó.” “Tại sao? Điều gì khiến nó cấp thiết đến vậy?” “Tôi nên chỉ cho xem hơn là kể với . có thể tới phòng thí nghiệm của tôi vào ngày mai ?” Tôi gật đầu, bối rối. “Chúng ta có thể bộ tới đó sau bữa trưa,” chàng vừa vừa đứng dậy vươn người. Chúng tôi dọn sạch đến nửa chai rượu vang với cuộc chuyện trò về các bí mật và nguồn gốc vừa rồi. “ muộn rồi. Tôi nên về thôi.” Matthew nắm lấy tay nắm cửa và vặn nó. Cái tay nắm kêu lách cách và mở ra dễ dàng. cau mày. “ gặp rắc rối với ổ khóa cửa đúng ?” “,” tôi đáp, đẩy thử bộ khóa ra rồi lại kéo vào, “có rắc rối gì đâu?” “ nên nhờ người xem qua nó,” , lắc phần ổ khóa bằng kim loại cánh cửa. “Nó thể đóng kín hoàn toàn cho tới khi khóa lại.” Khi tôi rời mắt khỏi cánh cửa và ngước lên nhìn, xúc cảm tên lướt ngang qua nét mặt . “Tôi xin lỗi vì tối nay kết thúc với chủ đề nặng nề như thế,” dịu dàng . “Tôi có khoảng thời gian vui.” “Bữa tối ổn chứ?” tôi hỏi. Chúng tôi trò chuyện về bí mật của muôn loài, nhưng tôi còn băn khoăn hơn về cái dạ dày khó thết đãi của ta. “Còn hơn cả ổn nữa cơ,” chàng cam đoan với tôi. Nét mặt tôi giãn ra trước vẻ đẹp và những nét đặc trưng cổ điển nơi . Làm thế nào mà người ta có thể ngang qua đường mà há hốc miệng vì kinh ngạc nhỉ? Trước khi tôi kịp ngăn mình, những ngón chân của tôi bám vào tấm thảm trải sàn cũ kỹ, tôi kiễng chân lên để hôn nhanh lên má . Làn da mịn màng và lạnh như sa tanh, nhưng môi tôi lại cảm nhận ấm áp khác thường. Tại sao mày lại làm thế? Tôi tự hỏi mình, hạ các ngón chân trở lại và nhìn chằm chằm vào cái nắm cửa có vấn đề để giấu lúng túng của mình. Tất cả chỉ mất có vài giây, nhưng như tôi biết từ cái lần sử dụng phép thuật để lấy cuốn Những Chú giải và Thắc mắc xuống khỏi cái giá sách trong thư viện Bodleian, vài giây là đủ để thay đổi cuộc đời bạn rồi. Matthew quan sát tôi chăm chú. Khi tôi biểu dấu hiệu nào kích động hay chạy trốn, chàng liền cúi xuống và chậm rãi hôn tôi lần, rồi lần thứ hai nụ hôn tạm biệt kiểu Pháp. Mặt lướt sát mặt tôi, và uống vào hương thơm của nhựa liễu và kim ngân nơi tôi. Khi đứng thẳng người lên, ánh mắt Matthew trông còn giống màu khói hơn cả bình thường. “Chúc ngủ ngon, Diana,” kèm theo nụ cười. lúc sau, tựa người vào cánh cửa đóng, tôi đoán kiểu gì con số cũng lung linh chiếc máy trả lời tự động của mình. Ơn trời là lượng của cái máy được vặn . Dì Sarah muốn hỏi tôi cùng cái câu hỏi mà tôi tự hỏi mình. Tôi muốn trả lời.
Chương 13 Sau bữa trưa Matthew đến đón tôi - sinh vật khác người duy nhất trong số những độc giả ở khu Selden End. Trong khi bước cạnh tôi dưới những xà nhà được sơn vẽ công phu, chàng liên tục đưa ra những câu hỏi về công việc của tôi và tôi đọc những gì. Tiết trời Oxford kiên quyết chuyển sang màu xám xịt và lạnh giá, tôi kéo cổ áo cao lên, run lẩy bẩy trong khí trời ẩm ướt. Matthew dường như chẳng bận tâm đến thời tiết và hề mặc áo khoác. Thời tiết u ám làm trông bớt đáng sợ hơn, nhưng đủ để khiến hòa hợp hoàn toàn với xung quanh. Mọi người đều ngoái lại và nhìn chằm chằm vào sảnh trung tâm của Bodleian, rồi lắc đầu. “ bị để ý đấy,” tôi bảo với chàng. “Tôi quên mất áo khoác rồi. Hơn nữa, họ chú ý đến em chứ phải tôi.” chàng tặng tôi nụ cười chói lóa. Quai hàm phụ nữ há hốc ra, bà ta thúc vào người bạn của mình, hất đầu về hướng Matthew. Tôi phá lên cười. “ sai rồi nhé.” Chúng tôi hướng về phía về trường Keble và khu khuôn viên đại học, rẽ phải ở Rhodes House trước khi bước vào mê cung những tòa nhà đại dành cho gian thí nghiệm và máy vi tính. Xây dựng dưới bóng râm của Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, giống như thánh đường khổng lồ thời Victoria dành cho khoa học, tất cả những công trình này là đài kỷ niệm dành cho kiến trúc ứng dụng đương đại tưởng. Matthew chỉ vào đích đến của chúng tôi - tòa nhà thấp, mấy nổi bật - và lôi từ túi quần ra tấm thẻ ID bằng plastic. quét thẻ qua máy đọc ở tay nắm cửa và bấm loạt mã hai chuỗi số khác nhau. Khi cánh cửa khóa lại, dẫn tôi tới chạm gác, ở đó đăng ký cho tôi là khách mời và đưa tôi tấm thẻ để cài vào áo len. “Có quá nhiều hệ thống an ninh cho phòng thí nghiệm của trường đại học,” tôi nhận xét, bực mình với vật đeo áo. ninh càng thắt chặt thêm khi chúng tôi xuôi xuống dãy hành lang dài cả dặm mà bằng cách nào đó có thể vừa khít đằng sau mặt tiền đại nhất. Đến cuối hành lang, Matthew lấy ra khỏi túi chiếc thẻ khác, quét nó và đặt ngón trỏ lên tấm kính cạnh cửa. Tấm kính rung lên tiếng kêu và bàn phím từ xuất bề mặt tấm kính. Ngón tay Matthew lướt những khóa số. Cánh cửa khẽ kêu đánh cách rồi mở ra, mùi thuốc khử trùng sạch thoảng ra gợi cho người ta nhớ tới các bệnh viện và những căn bếp chuyên dụng trống rỗng. Cái mùi ấy xuất phát từ những dải đá lát tường và sàn vỡ, thép gỉ cùng các thiết bị điện. hàng những tấm kính dựng làm tường phòng trải dài phía trước chúng tôi. căn phòng có chiếc bàn tròn để ngồi họp, phần đá nguyên khối đen làm bàn điều khiển, và vài chiếc máy tính. căn phòng khác lại bày chiếc bàn làm việc bằng gỗ cũ, chiếc ghế bành da, và tấm thảm trải sàn khổng lồ của Ba Tư chắc đáng giá cả gia tài, điện thoại, máy fax, và còn nhiều máy tính và bàn điều khiển hơn. Phía xa có những hàng rào quay quanh những tủ tài liệu, kính hiển vi, tủ làm lạnh, nồi hấp, lớp lớp những giá để ống nghiệm, máy ly tâm cùng hàng tá những thứ dụng cụ và máy móc thể nhận ra được. Toàn bộ khu vực dường như có vẻ nhàn rỗi, mặc dù từ nơi nào đó vẫn vang lên giai điệu yếu ớt của concerto chơi bằng cello của Bach và thứ gì đó nghe kinh khủng như là bản ghi thành công mới nhất của những người chiến thắng trong cuộc thi hát do hệ thống truyền hình Châu Âu tổ chức. Matthew ra dấu về phía căn phòng có tấm thảm trải sàn. “Văn phòng của tôi đây,” chàng giải thích. Rồi hướng tôi vào phòng thí nghiệm đầu tiên ở bên trái. Mọi bề mặt trong phòng đều kết hợp để máy tính, kính hiển vi, đồ đựng mẫu vật thí nghiệm được sắp xếp gọn gàng giá. Tủ tài liệu đóng dính vào tường. trong những ngăn kéo tủ có dán nhãn ghi “<0.” “Chào mừng tới phòng thí nghiệm lịch sử.” Ánh sáng màu xanh da trời khiến gương mặt trông trắng hơn, và mái tóc như đen hơn. “Đây là nơi chúng tôi nghiên cứu về tiến hóa. Chúng tôi lấy những mẫu thí nghiệm vật lý từ các nghĩa địa cổ xưa, các khu khai quật, các di chỉ hóa thạch, và các sinh vật sống, rồi sao chép DNA từ các mẫu vật đó.” Matthew mở ngăn kéo khác và lấy ra chồng đầy tài liệu. “Chúng tôi là trong số hàng trăm phòng thí nghiệm khắp thế giới sử dụng phương pháp di truyền học để nghiên cứu những vấn đề về nguồn gốc loài và tuyệt chủng. Điểm khác biệt giữa phòng thí nghiệm của chúng tôi với các phòng thí nghiệm còn lại là ở chỗ con người phải giống loài duy nhất chúng tôi nghiên cứu.” Những lời lắng xuống quanh tôi, lạnh lẽo và ràng. “ nghiên cứu di truyền học của ma cà rồng ư?” “Phù thủy và tinh nữa.” Matthew lấy chân khều cái ghế cao có bánh xe và nhàng đặt tôi ngồi đó. ma cà rồng đôi giày hiệu Converse phóng vụt qua góc quanh và vừa cất giọng oang oang ra lệnh tạm nghỉ, vừa rút đôi găng tay cao su ra. ta khoảng ngoài hai mươi, với mái tóc vàng và cặp mắt xanh của dân lướt sóng vùng California. Đứng cạnh Matthew, ta trông có vẻ mảnh khảnh, nhưng cơ thể của ta rắn chắc và sung sức. “Nhóm AB - nhóm máu hiếm,” ta thốt lên, nhìn ngắm tôi vẻ ngưỡng mộ. “Chà chà, tìm kiếm xuất sắc .” ta nhắm mắt và hít vào sau. “Lại còn là phù thủy nữa!” “Marcus Whitmore, gặp Diana Bishop . ấy là giảng viên Lịch sử đến từ Đại học Yale đấy,” Matthew cau mày với chàng ma cà rồng trẻ hơn, “và ấy ở đây với tư cách là khách mời, phải là cái gối cắm kim đâu.” “Ồ.” Marcus trông có vẻ thất vọng, rồi lại rạng rỡ. “ có phiền nếu tôi xin ít máu của ?” “Có, đó là vấn đề đấy.” Tôi chẳng hề mong ước bị chọc bởi cái xi lanh ma cà rồng chút nào. Marcus huýt sáo. “Đó là kiểu phản ứng chiến-đấu-hay-bỏ-chạy của đấy, tiến sĩ Bishop ạ. Mùi adrenaline ấy.” “Chuyện gì thế?” giọng nữ cao quen thuộc gọi với vào. Thân hình bé xíu của Miriam ra chỉ vài giây sau đó. “Tiến sĩ Bishop hơi bị choáng váng bởi phòng thí nghiệm này, Miriam ạ.” “Xin lỗi. Tôi nhận ra là ấy,” Miriam . “ có mùi khác quá. Đó là adrenaline à?” Marcus gật đầu. “Đúng rồi. có luôn bị như thế này ? Adrenaline từ đầu đến chân và có chỗ nào để trốn nữa ấy?” “Marcus.” Matthew phát ra lời răn đe lạnh thấu xương và rệt đến từng tiết. “Từ hồi tôi lên bảy,” tôi , đón lấy ánh mắt xanh đến kinh ngạc của ta. Marcus lại huýt sáo. “Thảo nào nó nhiều đến thế. ma cà rồng nào có thể làm ngơ trước mùi hương đó.” Marcus phải ám chỉ tới đặc trưng cơ thể của tôi, mặc dù chàng phác cử chỉ về phía tôi. “ về điều gì cơ?” Tôi hỏi, tò mò lấn át cả tâm trạng bồn chồn lo lắng. Matthew gạt tóc ở hai bên thái dương và tặng Marcus cái trừng mắt giận dữ thậm chí có thể làm cả sữa đông cục lại. Chàng ma cà rồng trẻ tuổi tỏ vẻ chán chường và bẻ khớp ngón tay răng rắc. Tôi nhảy dựng lên trước thanh chói tai ấy. “Ma cà rồng là những dã thú ăn thịt, Diana ạ,” Matthew giải thích. “Chúng tôi bị thu hút trước phản ứng chiến-đấu-hay-bỏ-chạy. Khi người hay động vật bắt đầu bị khích động, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi đó.” “Chúng tôi còn có thể nếm vị của nó nữa. Adrenaline làm cho máu có vị thơm ngon hơn,” Marcus . “Kích thích, mềm mượt và rồi chuyển sang vị ngọt. là món ngon tuyệt!” tiếng gầm trầm trầm phát ra từ cổ họng Matthew. Vành môi ta cong lên để lộ hai hàm răng, và Marcus bước rụt lại. Miriam đặt bàn tay kiên quyết lên cẳng tay vàng hoe của chàng ma cà rồng trẻ tuổi. “Gì thế? Tôi đói!” Marcus phản đối, lắc mạnh thoát khỏi bàn tay của Miriam. “Tiến sĩ Bishop có lẽ biết rằng ma cà rồng phải đói theo cách tự nhiên thông thường khi bị kích thích trước chất adrenaline, Marcus.” Matthew nỗ lực thấy để kiểm soát bản thân mình. “Ma cà rồng thường xuyên có nhu cầu ăn, nhưng chúng tôi thường thèm khát trò săn đuổi và phản ứng adrenaline của con mồi trước kẻ săn.” Nỗ lực kiểm soát cảm giác lo lắng, tôi hiểu ra vì sao Matthew thường mời mình ra ngoài ăn. phải mùi hương kim ngân của tôi khiến thấy đói - mà chính là tượng thừa adrenaline của tôi. “Cám ơn vì giải thích, Matthew.” Thậm chí sau buổi tối hôm qua, tôi vẫn còn mù tịt về ma cà rồng. “Tôi cố gắng để bình tĩnh lại.” “ cần đâu,” Matthew gọn lỏn. “Đó phải việc em bình tĩnh lại. Mà đó là việc của chúng tôi cần luyện tập từng chút về phép lịch và khả năng kiểm soát.” chàng quắc mắt nhìn Marcus và kéo trong các tập tài liệu ra. Miriam ném cái nhìn lo ngại về phía tôi. “Có lẽ chúng ta nên bắt đầu từ khởi điểm.” “. Tôi nghĩ tốt hơn hết là bắt đầu từ chỗ kết thúc,” Matthew đáp và mở kẹp tài liệu ra. “Họ biết về Ashmole 782 chứ?” Tôi hỏi Matthew khi thấy Miriam và Marcus tỏ dấu hiệu gì là rời . gật đầu. “Và kể với họ những gì tôi thấy à?” ta lại gật đầu. “ có kể với ai khác nữa ?” Câu hỏi Miriam dành cho tôi phản ánh cả hàng thế kỷ nghi ngờ. “Nếu ám chỉ Peter Knox, . Chỉ có dì tôi và bạn đời của dì, Emily, biết thôi.” “Ba phù thủy và ba ma cà rồng chia sẻ bí mật,” Marcus trầm ngâm , liếc nhìn Matthew. “ thú vị.” “Hãy hy vọng chúng ta có thể làm tốt việc giữ gìn nó hơn là che giấu như trước đây.” Matthew lia tập tài liệu về phía tôi. Ba cặp mắt ma cà rồng quan sát tôi chăm chú khi tôi mở tập tài liệu ra. MA CÀ RỒNG THẢ RÔNG Ở LONDON, cái tiêu đề đập vào mắt. Dạ dày tôi thót lên, và tôi gạt bài báo qua bên. Phía dưới nó là bản báo cáo về cái chết bí khác liên quan đến xác chết cạn kiệt máu. Phía dưới nữa là câu chuyện tạp chí kèm theo bức ảnh khiến nội dung của nó trở nên ràng bất chấp việc tôi thể đọc được tiếng Nga. Cổ họng nạn nhân bị xé toạc từ quai hàm tới động mạch cảnh. Còn hàng tá những vụ giết người khác nữa, được tái trong các báo cáo với đủ các thứ ngôn ngữ khác nhau. vài tử thi bị chặt đầu. Vài tử thi khác bị cạn sạch máu, chẳng còn vết máu chứng cứ nào tại trường. Những cái chết khác khiến người ta nghĩ đến chuyện nạn nhân bị thú vật tấn công, do hung bạo dã man thể các vết thương ở cổ và thân mình họ. “Chúng ta chết dần,” Matthew khi tôi đẩy những tài liệu cuối cùng sang bên. “Loài người chết dần, đó mới là điều chắc chắn.” Giọng tôi cay nghiệt. “ chỉ loài người,” . “Căn cứ theo những bằng chứng này, ma cà rồng có những dấu hiệu của sa đọa và suy vong.” “Đây là điều muốn cho tôi xem ư?” Giọng tôi run lên. “Những thứ này có gì liên quan đến nguồn gốc của các sinh vật khác người hay Ashmole 782 chứ?” Những cảnh báo mới đây của Gillian khuấy lên những ký ức đau thương trong tôi, và những bức hình này chỉ càng khoét sâu hơn vào nỗi đau đó mà thôi. “Hãy nghe tôi ,” Matthew khẽ. “Làm ơn.” Chàng ma cà rồng có lẽ để ý, và cũng có ý làm tôi sợ hãi. ta chắc hẳn phải có lý do hợp lý để chia sẻ chuyện này. Ôm lấy cái cặp đựng tài liệu, tôi ngồi xuống chiếc ghế cao của mình. “Những cái chết này,” bắt đầu, từ từ kéo lại cái cặp tài liệu ở chỗ tôi, “là kết quả của những nỗ lực vụng về để biến đổi con người thành ma cà rồng. Điều từng là bản tính tự nhiên thứ hai của chúng tôi bắt đầu trở nên khó khăn hơn. Máu của chúng tôi ngày càng mất khả năng tạo ra sống mới sau cái chết.” Thất bại trong việc tái sinh sản khiến bất cứ giống loài nào bước đến bờ tuyệt chủng. Tuy nhiên, căn cứ vào những bức hình mà tôi thấy, thế giới này cần thêm ma cà rồng nữa. “Nó dễ dàng hơn dối với những ma cà rồng già - những ma cà rồng như tôi chẳng hạn - chủ yếu sống nhờ vào máu của con người khi còn trẻ,” Matthew tiếp tục. “Là ma cà rồng có tuổi, chúng tôi ít cảm thấy bắt buộc phải tạo ra những ma cà rồng mới. Nhưng với các ma cà rồng trẻ đó lại là câu chuyện khác. Họ muốn bắt đầu cuộc sống gia đình để xua nỗi độc trong cuộc đời mới. Khi họ tìm thấy con người mà họ muốn kết đôi cùng, hoặc cố gắng sinh con, số phát ra dòng máu của mình đủ mạnh để làm điều đó.” “ rằng tất cả chúng ta sắp tuyệt chủng,” giọng tôi đều đều, cơn giận của tôi vẫn còn sôi sục. “Phù thủy đại mạnh bằng tổ tiên họ trong quá khứ.” Giọng Miriam cất lên thản nhiên. “Và các sinh nhiều con cái như xưa kia.” “Điều đó nghe chẳng giống bằng chứng gì cả - nó giống đánh giá mang tính chủ quan hơn,” tôi . “ muốn xem bằng chứng ư?” Miriam nhặt lên hai cặp tài liệu nữa và lia chúng qua mặt bàn bóng loáng vào tay tôi. “Nó đấy - dù tôi tin là hiểu nó cho lắm.” cặp được dán nhãn màu tía với dòng chữ “Benvenguda” được đánh máy gọn gàng. Tập kia dán nhãn màu đỏ, mang tên “Good, Beatrice.” Hai cặp tài liệu đều chẳng chứa gì khác ngoài các đồ thị. Các đồ thị ở những trang đầu có hình vòng cung và màu sắc rực rỡ. Bên dưới là các đồ thị biểu các đường ngang màu đen và xám diễu hành qua trang giấy trắng. “Thế là công bằng,” Marcus phản đối. “ nhà sử học nào có thể đọc mấy tài liệu đó cả.” “Đây là chuỗi DNA,” tôi , chỉ tay vào những hình ảnh đen trắng. “Nhưng mấy cái đồ thị được tô màu này là gì?” Matthew tỳ hai khuỷu tay lên mặt bàn bên cạnh tôi. “Chúng đều là kết quả kiểm tra di truyền học,” , kéo trang giấy có các đồ thị vòng cung lại gần hơn. “Những cái này cho chúng tôi biết về các ti thể trong DNA của phụ nữ tên là Benvenguda, ấy được thừa hưởng nó từ mẹ mình, và bà ngoại của mình, và mỗi tổ tiên phái nữ trước đó của ấy. Chúng kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về dòng dõi đằng mẹ ấy.” “Thế còn gen di truyền kế thừa của bố ấy sao?” Matthew cầm lên kết quả DNA màu trắng và đen. “Người bố loài người của Benvenguda ở đây, trong hạt nhân DNA của ấy - bộ gen của ấy - cùng với mẹ Benvenguda, phù thủy.” quay trở lại những cái móc vòng cung đa màu sắc. “Nhưng ti thể DNA, ở bên ngoài nhân tế bào, chỉ ghi lại các dữ liệu tổ tiên phía đằng mẹ ấy.” “Tại sao các lại nghiên cứu cả bộ gen lẫn ti thể DNA của ấy?” Tôi nghe đến bộ gen, còn ti thể DNA lại là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ đối với tôi. “Hạt nhân DNA của cho chúng tôi biết về với tư cách là cá thể đặc hữu - làm thế nào mà bộ gen kế thừa từ mẹ và bố tái tổ hợp để tạo ra . Nó là pha trộn gen của bố và gen của mẹ để cho đôi mắt màu xanh, mái tóc vàng và những nốt tan nhang. Còn ti thể DNA có thể giúp chúng ta hiểu được lịch sử của cả giống loài.” “Điều đó có nghĩa nguồn gốc và tiến hóa của các loài được ghi lại trong mỗi chúng ta,” tôi thong thả . “Nó có trong máu và trong mỗi tế bào cơ thể chúng ta.” Matthew gật đầu. “Nhưng mỗi lịch sử khởi nguyên lại kể câu chuyện khác - phải là khởi đầu mà là điểm kết thúc.” “Chúng ta quay lại với Darwin,” tôi , cau mày. “Vậy là Nguồn gốc các loài hoàn toàn về điểm xuất phát của các giống loài khác nhau. Nó cũng về quá trình chọn lọc tự nhiên và tuyệt chủng của các loài nữa.” “ số người cho rằng Nguồn gốc các loài hầu hết là về tuyệt chủng,” Marcus tán đồng, thoắt cái di chuyển sang đầu kia của cái bàn dài thí nghiệm. Tôi nhìn vào những đường cong rực rỡ của Benvenguda. “ ấy là ai thế?” “ phù thủy rất quyền năng,” Miriam , “sống ở Brittany vào thế kỷ mười bảy. Suốt cuộc đời mình, ấy tạo nên nhiều điều phi thường. Beatrice Good là trong những hậu duệ trực hệ cuối cùng của ấy.” “Gia đình của Beatrice Good đến từ Salem ư?” Tôi thầm, chạm tay vào cặp tài liệu của Beatrice. Có những người nhà Good ở đó sống bên cạnh những người nhà Bishop và nhà Proctor. “Dòng dõi của Beatrice gồm có Sarah và Dorothy Good ở Salem,” Matthew , xác nhận linh cảm của tôi. mở cặp tài liệu về Beatrice và đặt kết quả kiểm tra ti thể của ấy bên cạnh kết quả của Benvenguda. “Nhưng chúng khác nhau mà?” tôi , nhận thấy điều đó màu sắc và cách chúng được sắp xếp. “ quá khác biệt đâu,” Matthew chỉnh lại lời tôi. “Hạt nhân DNA của Beatrice có vài điểm chung với các phù thủy. Điều này chỉ ra rằng tổ tiên của ấy, qua nhiều thế kỷ, ngày càng ít dựa vào phép phù thủy trong khi họ đấu tranh để sinh tồn. biến đổi đó bắt đầu dẫn đến những đột biến tất yếu và bắt buộc trong DNA của ấy - đột biến đẩy phép thuật sang bên.” Thông điệp của nghe khoa học cách hoàn hảo, nhưng nó có ý nghĩa ám chỉ đối với tôi. “Tổ tiên của Beatrice gạt bỏ phép thuật của họ, và điều đó cuối cùng hủy diệt cả gia đình ư?” “Đó hoàn toàn là lỗi của phù thủy. Tự nhiên cũng có lỗi.” Ánh mắt Matthew đượm buồn. “Dường như phù thủy giống như ma cà rồng, cũng cảm thấy áp lực của việc sinh tồn trong thế giới mà con người ngày càng tăng thêm. tinh cũng vậy. Họ phô bày ít tài năng hơn - là điều từng phân biệt họ với dân số loài người - và nhiều điên cuồng hơn.” “Con người phải cũng tuyệt chủng ư?” tôi hỏi. “Có và ,” Matthew . “Chúng tôi nghĩ rằng loài người - cho tới nay - chứng minh khả năng thích nghi tốt hơn. Hệ thống miễn dịch của họ phản ứng nhanh hơn, và họ có tranh đấu mạnh mẽ để sản sinh ra thế hệ sau hơn là ma cà rồng và phù thủy. có thời thế giới này được phân chia cân bằng giữa người và các sinh vật khác người. Nhưng giờ con người chiếm phần đa số và các sinh vật khác chỉ chiếm có phần mười dân số thế giới.” “Thế giới này từng là nơi hoàn toàn khác khi mà các sinh vật chúng ta và loài người chiếm số lượng bằng nhau.” Miriam cất giọng tiếc nuối khi cỗ máy di truyền còn nghiêng phần ưu ái về phía chúng tôi nữa. “Nhưng hệ miễn dịch nhạy cảm của con người đưa họ tới chỗ tận diệt.” “Chúng ta khác loài người ở chỗ nào?” “Khá nhiều đấy, ít nhất là cấp độ di truyền học. Chúng ta có bề ngoài giống nhau, nhưng dưới bề mặt đó hình thái nhiễm sắc thể của chúng ta khác biệt. “Matthew phác họa biểu đồ ở phía ngoài cặp tài liệu của Beatrice Good. “Con người có hai mươi ba cặp nhiễm sắc thể trong mỗi nhân tế bào, mỗi cái sắp xếp thành chuỗi mã dài. Ma cà rồng và phù thủy có hai mươi bốn cặp nhiễm sắc thể.” “Nhiều hơn con người, nho pinot noir[15], hay lợn.” Marcus nháy mắt. [15. Tên loại nho làm rượu vang đỏ.] “Thế còn tinh sao?” “Họ có cùng số cặp nhiễm sắc thể như con người - nhưng họ còn có nhiễm sắc thể thừa ra nữa. Theo những gì chúng tôi có thể chính nhiễm sắc thể thừa đó khiến họ trở thành tinh,” Matthew đáp, “và có thiên hướng ổn định.” Trong khi tôi nghiên cứu bức phức họa bằng chì của , lọn tóc rơi xuống mắt tôi. Tôi gạt nó ra vẻ nóng nảy. “Có cái gì trong nhiễm sắc thể thừa đó?” khó cho tôi bây giờ phải bắt kịp Matthew trong việc lĩnh hội các kiến thức của chuyên ngành sinh vật học bậc đại học. “Chất liệu gen là điểm phân biệt chúng ta với loài người,” Matthew , “đồng thời chất liệu cũng điều chỉnh chức năng tế bào hay là cái mà các nhà khoa học gọi là ‘DNA thừa’.” “Mặc dù nó phải là đồ thừa,” Marcus . “Tất cả chất liệu gen đó phải được để dành về sau từ quá trình tiền chọn lọc, hoặc nó đợi để được sử dụng trong biến đổi tiến hóa kế tiếp. Chúng tôi chỉ biết mục đích của nó là gì thôi - cho đến nay.” “Đợi phút,” tôi xen ngang. “Phù thủy và tinh được sinh ra. Tôi sinh ra với cặp nhiễm sắc thể thừa, và bạn của - Hamish - sinh ra có nhiễm sắc thể thừa. Nhưng ma cà rồng được sinh ra - được tạo ra, từ DNA của loài người. kiếm đâu ra cặp nhiễm sắc thể nữa thế?” “Khi con người được tái sinh thành ma cà rồng, đầu tiên kẻ sáng tạo phải lấy tất cả máu của con người, nó vốn là nguyên nhân yếu kém của các cơ quan trong cơ thể. Trước khi cái chết xảy đến, kẻ sáng tạo cho người đó máu của ta hoặc ta để tái sinh,” Matthew trả lời. “Dòng máu ma cà rồng tràn vào dẫn đến đột biến gen tự nhiên trong mỗi tế bào cơ thể người ấy.” Matthew dùng cụm từ “tái sinh” vào tối hôm qua, nhưng tôi chưa bao giờ nghe đến “kẻ sáng tạo” trong mối liên quan với ma cà rồng trước đây. “Máu của kẻ sáng tạo tràn vào hệ thống cơ thể kẻ tái sinh, mang đến những thông tin di truyền mới,” Miriam . “Cũng giống như việc truyền máu của con người ấy. Nhưng máu ma cà rồng dẫn đến hàng trăm thay đổi trong DNA.” “Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm bằng chứng về biến đổi bùng nổ như thế trong bộ gen,” Matthew giải thich. “Chúng tôi tìm ra nó - những đột biến chứng mình rằng tất cả các ma cà rồng mới đều phải trải qua quá trình thích nghi tự nhiên để sống sót khi hấp thụ máu của kẻ sáng tạo. Đó chính là cái thúc đẩy cho phát triển của cặp nhiễm sắc thể thừa.” “ vụ nổ big bang trong di truyền học. Các giống như dải ngân hà sinh ra từ ngôi sao chết. Trong khoảnh khắc, hệ gen của biến thành thứ gì đó khác - thứ gì đó phải con người.” Tôi nhìn vào Matthew vẻ băn khoăn. “Em ổn chứ?” hỏi. “Chúng ta có thể nghỉ chút.” “Tôi có thể uống chút nước ?” “Tôi lấy.” Marcus đứng bật dậy khỏi chiếc ghế cao ngồi. “Có ít nước trong tủ lạnh đựng mẫu vật.” “Con người cung cấp manh mối đầu tiên chứng tỏ rằng tượng hủy hoại tế bào cấp tính do vi khuẩn và các hình thái khác của phá hủy mang tính di truyền có thể châm ngòi nhanh chóng quá trình đột biến, hơn là biến đổi từ từ của chọn lọc tự nhiên.” Miriam lôi ra cặp tài liệu từ trong ngăn kéo. Mở nó ra, ta chỉ vào khu vực đồ thị màu đen trắng. “Người đàn ông này chết năm 1375. Ông ta sống sót qua khỏi bệnh đậu mùa, nhưng căn bệnh dẫn đến đột biến trong nhiễm sắc thể thứ ba khi cơ thể ông ta nhanh chóng đối phó với vi khuẩn lan tràn vào.” Marcus quay lại cùng với nước uống của tôi. Tôi mở nắp và uống cách thèm khát. “DNA của ma cà rồng cũng đầy những đột biến tương tự thế do đề kháng với căn bệnh. Những thay đổi đó có thể từ từ dẫn đến tuyệt chủng của chúng tôi.” Matthew trông lo lắng. “Giờ đây chúng tôi cố gắng tập trung vào cái có trong máu ma cà rồng có thể châm ngòi cho phát sinh của những nhiễm sắc thể mới. Câu trả lời có thể nằm trong các ti thể.” Miriam lắc đầu. “ đời nào. Câu trả lời nằm trong hạt nhân DNA. Khi cơ thể bị máu ma cà rồng tấn công, nó bùng nổ phản ứng khiến cơ thể có khả năng nắm bắt và đồng hóa những thay đổi đó.” “Có lẽ, nhưng nếu vậy, chúng ta cũng cần quan sát tỉ mỉ hơn nữa DNA thừa. Mọi thứ đều có thể làm phát sinh những nhiễm sắc thể mới,” Marcus khăng khăng. Trong khi ba bọn họ tranh luận, tôi bèn xắn ống tay áo lên. Khi khuỷu tay và các mạch máu cánh tay tôi phơi bày trong bầu khí mát lạnh của phòng thí nghiệm, bọn họ đều hướng chú ý vào làn da của tôi, những cái nhìn lạnh lẽo. “Diana,” Matthew lạnh lùng , chạm tay vào thánh tích Lazarus của mình, “em làm gì thế?” “ vẫn còn găng tay cao su chứ, Marcus?” Tôi hỏi, tiếp tục dịch ống tay áo lên cao. Marcus nhe răng cười. “Có.” ta đứng dậy và lấy đôi găng tay cao su ra khỏi chiếc hộp gần đó. “Em phải làm vậy đâu.” Giọng Matthew tắc trong cổ họng. “Tôi biết điều đó. Tôi muốn vậy mà.” Các mạch máu của tôi thậm chí trông còn xanh hơn dưới ánh đèn phòng thí nghiệm. “Ven tốt lắm,” Miriam vừa vừa gật đầu tán thành, hành động đó gợi lên tiếng gầm gừ cảnh cáo từ chàng ma cà rồng cao lớn đứng cạnh tôi. “Nếu điều này gây rắc rối cho , Matthew ạ, hãy đợi bên ngoài ,” tôi điềm tĩnh . “Trước khi em làm thế, tôi muốn em hãy suy nghĩ ,” Matthew , cúi xuống bên tôi vẻ che chở như làm khi Peter Knox tiếp cận tôi ở thư viện Bodleian. “Chúng ta thể biết trước các kiểm tra tiết lộ điều gì. Nó là cả cuộc đời em, và lịch sử gia đình em, tất cả để trải ra trong màu đen và trắng. Em có hoàn toàn chắc chắn là mình muốn nó bị đưa ra nghiên cứu kỹ càng ?” “ có ý gì, toàn bộ cuộc đời tôi ư?” Vẻ căng thẳng trong cái nhìn chăm chăm của Matthew khiến tôi cảm thấy lúng túng. “Những kiểm tra này cho chúng ta biết rất nhiều điều hơn cả về màu mắt và màu tóc của em. Chúng cho biết những nét đặc trưng khác mà bố mẹ em truyền lại cho em. Đấy là chưa đến những đặc trưng của tất cả các nữ tổ tiên của em nữa.” Chúng tôi trao đổi cái nhìn dài. “Đó là lý do tôi muốn lấy mẫu máu,” tôi kiên nhẫn . Vẻ bối rối lướt qua nét mặt Matthew. “Tôi băn khoăn thắc mắc cả đời mình về những gì mà dòng máu Bishop làm khi nó chạy khắp huyết quản tôi. Mọi người biết về gia đình tôi đều thắc mắc. Giờ đây chúng ta biết.” Điều đó dường như vô cùng đơn giản đối với tôi. Máu của tôi có thể cho Matthew biết điều mà tôi muốn mạo hiểm khám phá bừa bãi. Tôi muốn đốt cháy đồ gỗ trong nhà, hay bay xuyên qua cây cối, hay chỉ nghĩ ý nghĩ xấu về ai đó mà khiến người ta đổ bệnh gần chết vào hai ngày sau. Matthew có thể nghĩ việc lấy máu là mạo hiểm. Đối với tôi, nó dường như an toàn giống ở nhà vậy, tất cả mọi thứ được cân nhắc. “Hơn nữa, bảo tôi là phù thủy tuyệt diệt dần. Tôi là người cuối cùng của nhà Bishop. Có thể máu của tôi giúp tìm ra lý do tại sao.” Chúng tôi nhìn nhau chăm chú, ma cà rồng và phù thủy, trong khi Miriam và Marcus kiên nhẫn chờ đợi. Cuối cùng Matthew thốt lên tiếng kêu cáu giận. “Mang cho tôi bộ dụng cụ lấy máu,” bảo Marcus. “Tôi có thể làm việc này,” Marcus vẻ đề phòng, nhanh nhẹn đeo vào đôi găng tay cao su. Miriam cố gắng giữ ta lại, nhưng Marcus vẫn tiếp tục bước tới chỗ tôi với cái hộp đựng lọ thủy tinh và kim nhọn. “Marcus,” Miriam cảnh cáo. Matthew giật lấy bộ dụng cụ từ Marcus và chặn đứng chàng ma cà rồng trẻ tuổi lại bằng cái nhìn chết chóc, kinh người. “Rất tiếc, Marcus. Nhưng nếu có ai lấy máu Diana, kẻ đó phải là ta!” Giữ lấy cổ tay tôi trong những ngón tay lạnh giá, Matthew gập cánh tay tôi lên xuống vài lần trước khi duỗi thẳng nó ra và đặt nó nhàng lên bề mặt bàn sạch bong. Có thứ gì đó gai gai thể phủ nhận khi ma cà rồng chích kim vào mạch máu của bạn. Matthew buộc mẩu dây cao su phía khủy tay tôi. “Nắm tay lại,” khẽ , kéo căng đôi găng tay và chuẩn bị xi lanh cùng cái lọ thủy tinh đựng mẫu đầu tiên. Tôi làm theo lời bảo, xiết bàn tay và quan sát các mạch máu nổi lên. Matthew chẳng buồn bận tâm đưa ra cái thông báo thường thấy là tôi cảm thấy cái nhói đau hoặc như bị ong chích. chỉ cúi xuống và chẳng nghi lễ rườm rà gì, xiên ống kim tiêm sắc nhọn vào cánh tay tôi. “Làm tốt lắm.” Tôi nới lỏng nắm tay để máu chảy ra tự do. Khuôn miệng rộng của Matthew mím chặt trong lúc đổi sang lọ thủy tinh. Khi làm xong, rút đầu kim và ném nó vào cái thùng chứa rác thải sinh học được bịt kín. Marcus thu thập các lọ thủy tinh và đưa chúng cho Miriam dán lên những mẫu nhãn có viết chữ bé tí xíu nhưng ràng. Matthew đặt miếng gạc vuông lên vết chích rồi giữ nó ở đó bằng mấy ngón tay lạnh lẽo và mạnh mẽ. Tay kia cầm lên cuộn băng dính và cố định nó chắc chắn ngang qua miếng gạc. “Ngày sinh?” Miriam quả quyết hỏi, cây bút mực ở tư thế sẵn sàng phía cái ống nghiệm. “Mười ba tháng Tám năm 1976.” Miriam nhìn chằm chằm. “Mười ba tháng Tám á?” “Phải. Sao cơ?” “Chỉ để chắc chắn thôi,” ta lẩm bẩm. “Hầu hết các trường hợp, chúng tôi muốn lấy cả miếng gạc má nữa.” Matthew mở cái túi và lấy ra hai mẩu nhựa màu trắng. Chúng giống như những mái chèo thu , phía cuối rộng ra hơi thô nháp. lời, tôi mở miệng và để Matthew xoay nhanh miếng gạc đầu tiên, rồi đến miếng kia, vào phía trong má mình. Mỗi miếng gạc được cho vào tuýp nhựa bịt kín khác nhau. “Xong rồi.” Nhìn quanh phòng thí nghiệm, hình ảnh thanh bình yên tĩnh của gian toàn thép gỉ và đèn màu xanh làm tôi nhớ đến các nhà giả kim của mình, lao động nặng nhọc bên những lò than hồng trong ánh sáng lờ mờ với những dụng cụ ngẫu tác và những chiếc nồi nấu kim loại bằng đất sét vỡ. Họ đổi gì để có cơ hội được làm việc ở nơi như thế này - với những dụng cụ có thể giúp họ hiểu được huyền bí của đấng sáng tạo toàn năng? “Các tìm kiếm ma cà rồng đầu tiên ư?” Tôi hỏi, ra hiệu về phía mấy ngăn kéo tài liệu. “Đôi khi,” Matthew chậm rãi đáp. “Còn lại chúng tôi theo dõi xem thức ăn và bệnh tật ảnh hưởng đến các giống loài như thế nào, và làm thế nào và khi nào các dòng tộc chắc chắn tới chỗ tuyệt diệt.” “Vậy có phải bốn loài tinh, con người, ma cà rồng và phù thủy chúng ta cùng chia sẻ tổ tiên chung ?” Tôi thường thắc mắc liệu cố chấp của dì Sarah rằng phù thủy có chia sẻ chút ít quan hệ với con người hoặc các sinh vật khác người khác là có căn cứ, hay đó chỉ là ảnh hưởng của truyền thống và mơ tưởng? Vào thời đại của Darwin, nhiều người nghĩ rằng cặp tổ tiên chung của loài người thể sản sinh ra quá nhiều các chủng tộc khác nhau như thế. Khi số người châu Âu da trắng nhìn thấy những người châu Phi da đen, họ liền theo học thuyết đa nguyên và tranh luận rằng các chủng tộc là hậu duệ của những tổ tiên khác nhau, có mối liên hệ nào. “ tinh, con người, ma cà rồng và phù thủy khác nhau đáng kể theo mức độ di truyền.” Mắt Matthew như xuyên thấu. hiểu điều tôi hỏi, mặc dù từ chối trả lời tôi thẳng thắn. “Nếu chứng minh chúng ta phải là các giống loài khác nhau, mà chỉ là các dòng khác nhau trong cùng loài, điều đó thay đổi mọi thứ,” tôi khuyên. “Cùng lúc chúng ta tìm ra phải làm thế nào - và liệu - bốn nhóm có mối liên quan với nhau hay . Dù sao chúng ta vẫn còn cách thời điểm đó rất xa.” đứng lên. “Tôi nghĩ thế là đủ khoa học cho ngày hôm nay rồi.” Sau khi chào từ biệt Miriam và Marcus, Matthew lái xe đưa tôi đến New College. thay đồ và quay lại để đón tôi tới lớp yoga. Chúng tôi lái xe tới Woodstock gần như trong yên lặng, cả hai đều mải đắm chìm trong những ý nghĩa riêng. Ở Chòi Gác Cổ, Matthew thả tôi xuống như thường lệ, rồi dỡ mấy tấm thảm tập ra khỏi cốp và lẳng chúng lên vai. cặp ma cà rồng lướt qua. ma cà rồng khác thoáng sượt qua tôi, và Matthew nhanh như chớp luồn các ngón tay nắm lấy bàn tay tôi. đối lập giữa chúng tôi quá ấn tượng, làn da quá lạnh giá và xanh tái, còn của tôi sống động và ấm áp. Matthew cứ nắm lấy tay tôi cho tới khi cả hai vào trong nhà. Sau giờ học chúng tôi lái xe trở về Oxford, trò chuyện về vài điều Miriam , rồi về vài thói quen hay ho của loài tinh. Khi vào bên trong cánh cổng của New College, Matthew tắt máy trước khi cho tôi xuống như thường lệ. Fred ngước lên nhìn từ màn hình an ninh khi chàng ma cà rồng tới tấm kính ngăn của chòi gác. Ông ta kéo trượt để mở nó ra. “Vâng?” “Tôi muốn cùng tiến sĩ Bishop lên phòng ấy. Liệu có ổn nếu tôi để xe ở đây, và cả chìa khóa nữa, phòng trường hợp ông cần di chuyển nó ?” Fred đưa mắt nhìn tấm biển của bệnh viện John Radcliffe và gật đầu. Matthew ném chìa khóa qua cửa sổ chòi gác. “Matthew,” tôi vội , “chỉ là lối ngang thôi mà. cần phải cùng tôi về nhà đâu.” “Dù sao, tôi ,” chàng bằng cái giọng muốn tranh cãi lâu hơn. xa lối có mái vòm của chòi gác, ra khỏi tầm nhìn của Fred, lại nắm lấy tay tôi. Lần này, cơn sốc do làn da lành lạnh của đến cùng với cú giật thót bối rối ấm áp trong lòng. Đến cuối cầu thang gác, tôi đối diện với Matthew, vẫn nắm tay . “Cảm ơn vì lại đưa em tới lớp yoga.” “Em luôn được chào đón mà.” nhét lọn tóc ương bướng của tôi ra sau tai, những ngón tay nấn ná lại má tôi. “Hãy tới nhà ăn tối vào ngày mai nhé,” khẽ . “Đến lượt trổ tài nấu nướng. có thể đón em ở đây lúc bảy rưỡi chứ ?” Tim tôi thót lên. , tôi nghiêm khắc tự nhủ với mình bất chấp nhịp đập đột ngột ấy. “Em rất thích,” tôi thốt lên thay vì câu định . Chàng ma cà rồng áp đôi môi lạnh giá lên bên má tôi, rồi bên kia. “Ma vaillante fille [16],” thầm vào tai tôi. Mùi hương lôi cuốn choáng ngợp của lấp đầy cánh mũi tôi. [16. Tiếng Pháp - có nghĩa: dũng cảm của tôi.] Lên lầu, có ai đó vặn chặt nắm cửa như cầu, và lại là cuộc chiến để xoay cái chìa trong ổ khóa. Ánh sáng lấp lánh máy trả lời tự động chào đón tôi, cho biết có tin nhắn khác của dì Sarah. Tôi tới cửa sổ và nhìn xuống, thấy Matthew vẫn ngước nhìn lên. Tôi vẫy tay. mỉm cười, đút hai tay vào túi và quay trở lại chòi gác, trượt dần vào bóng đêm như thể nó vốn thuộc về .
Chương 14 Matthew đợi tôi ở chòi gác vào đúng bảy giờ rưỡi, hoàn hảo tỳ vết như thường lệ với kết hợp đơn sắc của màu lông bồ câu và màu than, mái tóc đen của được vuốt ngược ra sau từ đường ngôi rẽ đều. chàng kiên nhẫn trụ vững trước kiểm duyệt của người gác cổng cuối tuần - ông ta gửi tới tôi cái gật đầu chào và khoan thai , “Gặp lại sau nhé, tiến sĩ Bishop.” “Em làm người ta phải lộ ra cả bản năng che chở bảo vệ đấy,” Matthew lầu bầu khi chúng tôi qua cổng. “Chúng ta đâu đây?” Chẳng thấy tăm hơi chiếc xe của chàng đâu cả. “Chúng mình dùng bữa ở trong trường tối nay,” trả lời, ra hiệu về phía thư viện Bodleian. Tôi đoán trước là đưa tôi đến Woodstock, hoặc tới căn hộ trong mấy khu nhà thời Victoria ở phía Bắc Oxford. Tôi chẳng ngờ rằng ấy có thể sống trong trường. “Ở đại sảnh, chỗ bàn cao á?” Tôi cảm thấy mình ăn mặc xuềnh xoàng kinh khủng và đưa tay kéo viền cái áo lụa đen mặc xuống. Mattew ngửa đầu ra sau phá lên cười. “ tránh ở sảnh lớn bất cứ khi nào có thể chứ. Và chắc chắn đưa em tới đó để ngồi và chỗ trống bên chiếc Bàn Tròn[17], bị soi mói dò xét bởi các ủy viên giám đốc đâu.” [17. Trong huyền thại về vua Arthur có câu chuyện vua Arthur cử các hiệp sỹ Bàn Tròn tìm Chén Thánh. Phù thủy Merlin (quân sư của Arthur) đánh dấu chỗ ngồi trống bên chiếc Bàn Tròn, và hiệp sỹ nào ngồi vào chỗ đó phải lãnh sứ mệnh lên đường tìm Chén Thánh. Merlin giữ gìn chỗ ngồi trống đó rất nghiêm ngặt để chờ ngày vị hiệp sỹ ấy thành công trở về.] Chúng tôi vòng qua góc rẽ và hướng về phía Radcliffe Camera. Khi ngang qua lối vào trường Hertford mà hề dừng lại, tôi đặt tay mình lên cánh tay . Chỉ có trường chuyên ngành ở Oxford là khét tiếng bởi chú trọng khắt khe và độc đoán đối với các thủ tục lễ tân. Nó cũng là ngôi trường nổi tiếng với những thành viên xuất sắc. “ phải là...” Matthew dừng lại. “Tại sao việc thuộc về ngôi trường nào lại là vấn đề quan trọng nhỉ?” quay nhìn nơi khác. “Nếu em thích ở giữa những người khác, dĩ nhiên, hiểu mà.” “Em lo lắng là dùng em cho bữa tối đâu, Matthew. Em chỉ chưa bao giờ đến đây thôi.” Đôi cánh cổng có những hình cuộn trang trí công phu canh gác cho ngôi trường như thể nơi đây là Xứ Sở Thần Tiên. Matthew thốt lên tiếng nôn nóng và cầm lấy tay tôi để ngăn tôi thôi nhìn ngắm hai cánh cổng. “Chỉ là tập hợp những người ở trong khu nhà cũ kỹ mà thôi.” Câu đáp cụt lủn của chẳng làm giảm giá trị của cái thực tế chính là trong khoảng hơn bảy mươi ủy viên giám đốc của ngôi trường chuyên ngành có sinh viên. “Hơn nữa, chúng ta tới phòng của .” Chúng tôi vẫn duy trì khoảng cánh, cứ mỗi bước chân Matthew lại tỏ ra thư thái dễ chịu hơn trong bóng tối như thể đồng hành với cố nhân. Chúng tôi xuyên qua cánh cửa gỗ thấp là nơi ngăn công chúng ở lại bên ngoài ranh giới yên tĩnh của ngôi trường. Chẳng có ai ở trạm gác ngoại trừ người gác cửa, có sinh viên sắp tốt nghiệp hay tốt nghiệp ở những hàng ghế băng trong sân trước. Yên tĩnh và im ắng như thể các thành viên của trường thực là “linh hồn của những con người trung thành qua đời ở đại học Oxford vậy.” Matthew nhìn xuống tôi với nụ cười bẽn lẽn. “Chào mừng đến với All Souls.” Trường chuyên ngành All Souls là kiệt tác cuối cùng của kiến trúc Gothic, tương tự như đứa con của cái bánh cưới và thánh đường, với những đỉnh tháp nhọn lộng gió và các công trình xây dựng bằng đá hết sức tinh xảo. Tôi thở phào khoan khoái, chẳng thể gì nhiều - ít nhất là trong lúc này. Nhưng Matthew có rất nhiều điều để giải thích sau đây. “Chào buổi tối, James,” với người gác cổng nhìn lên vành cặp kính hai tròng và gật đầu chào đón. Matthew giơ bàn tay lên. chiếc chìa khóa cổ đu đưa dưới cái móc da nơi ngón trỏ của . “Tôi ở lúc thôi.” “Được rồi, giáo sư Clairmont.” Matthew lại cầm lấy tay tôi. “ nào. Chúng ta cần tiếp tục chương trình giáo dục của em.” giống như câu bé tinh quái trong trò chơi săn tìm kho báu, kéo tôi . Chúng tôi cúi đầu xuống thấp để qua cánh cửa gãy đen sạm vì thời gian. Matthew bật đèn. Làn da trắng của vụt tách ra khỏi bóng tối, trông đích thực là ma cà rồng đến từng centimet. “ tốt vì em là phù thủy,” tôi chòng ghẹo. “Nhìn ở đây đủ khiến con người sợ chết khiếp.” Ở cuối nhịp cầu thang, Matthew nhập vào ổ khóa an ninh dãy số dài, rồi ấn vào chiếc chìa khóa hình ngôi sao. Tôi nghe thấy tiếng “cách” khe khẽ, và rồi kéo cánh cửa khác mở ra. Mùi nho lên men, mùi thời gian và thứ gì đó khác mà tôi thể gọi tên hợp thành làn sóng ập vào tôi. Bóng tối bị ánh đèn cầu thang xua . “Điều này chệnh ra ngoài thiên tiểu thuyết Gothic rồi đấy. đưa em đâu đây?” “Kiên nhẫn nào, Diana. còn xa nữa đâu.” Kiên nhẫn, than ôi, chẳng phải là điểm mạnh của phụ nữ nhà Bishop. Matthew với qua sau vai tôi và gạt cái công tắc khác. Lơ lửng mấy sợi dây điện giống những nghệ sĩ đu xà nhào lộn là chùm bóng đèn cũ kỹ bủa xuống vùng ánh sáng trông giống như khu chuồng ngựa dành cho những chú ngựa con Shetland thu . Tôi nhìn Matthew chớp mắt, hàng trăm câu hỏi trong ánh mắt tôi. “Phía sau em đấy,” vừa vừa gật đầu. Tiến lên trước, tôi nhận ra mùi kỳ lạ kia. Nó là mùi rượu để lâu - giống như trong các quán rượu vào sáng Chủ Nhật. “Rượu vang ư?” “Rượu vang.” Chúng tôi qua hàng tá những giá kệ, những chồng, những sọt áp sát vào tường đựng đầy rượu. Mỗi chỗ lại có tấm bảng đá đen, và con số chỉ năm được viết nguệch ngoạc bằng phần ở đó. Chúng tôi lang thang qua những thùng rượu từ Chiến tranh Thế giới Thứ nhất và Thứ hai, những chai rượu mà Florence Nightingale đóng vào rương hành lý để dành cho người nhà Crimea. Có cả rượu vang từ năm Bức tường Berlin được dựng lên và năm nó sụp đổ. Vào sâu hơn nữa trong hầm rượu, những con số ghi năm nguệch ngoạc các bảng đá đen biến thành các bảng phân loại như “Vang đỏ Cổ” hay “Rượu vang Chính vụ Thành phố cảng.” Rồi chúng tôi tới cuối căn phòng. tá cánh cửa khóa kín, im lìm, và Matthew mở trong những cánh cửa ấy. Ở đây có điện, nhặt lên cây nến và cắm nó chắc chắn vào cái giá nến bằng đồng trước khi thắp sáng. Bên trong, mọi thứ đều gọn gàng và cổ xưa như chính Matthew, nhưng bị phủ dưới lớp bụi. Những giá kệ bằng gỗ có những chỗ trống sít sao để giữ cho rượu vang khỏi rơi xuống sàn nhưng cũng có thể lấy ra dễ dàng từng chai làm cho toàn bộ cái giá bị sụp đổ. Có những vết bẩn màu đỏ ở cạnh thanh rầm cửa nơi rượu vang phun ra hết năm này qua năm khác. Mùi nho cũ, mùi nút bần đóng chai và mùi nấm mốc vẩn lên đầy trong khí. “Chỗ này là của ?” Tôi nghi ngờ hỏi. “Phải, nó là của . Vài ủy viên giám đốc được có hầm rượu riêng.” “Ở đây có thứ gì mà phía ngoài kia có chứ?” Căn phòng sau lưng tôi chắc hẳn phải có tất cả những chai rượu của mỗi vụ sản xuất trước đây. Cửa hàng rượu vang ngon nhất của Oxford giờ đây dường như quá nghèo nàn và thiếu thốn cách lố bịch khi so sánh với căn phòng này. Matthew mỉm cười bí . “Tất cả các loại.” di chuyển nhanh chóng qua căn phòng cửa sổ, vui vẻ lôi ra mỗi chỗ chai. đưa cho tôi chai rượu màu đen, nặng trịch với hình vẽ cái khiên vàng nhãn và chiếc giỏ lưới ở phía nút chai. Champagne - Dom Perignon. Chai tiếp theo được làm từ thủy tinh màu xanh đen, với cái nhãn màu kem đơn giản và chữ viết màu đen. tặng nó cho tôi với cái vung tay hơi bay bướm, và tôi trông thấy đề ngày: năm 1976. “Năm sinh của em!” tôi thốt lên. Matthew ra với hai chai rượu nữa: chai có nhãn dài, hình bát giác và được gắn kín bằng thứ gì đó trông giống như hắc ín. Còn chai thứ hai có miếng thẻ cũ làm từ sợi gai được thắt xung quanh cổ chai bằng sợi dây bẩn bụi. “Chúng ta chứ?” Matthew hỏi, thổi tắt ngọn nến. khóa cửa cẩn thận, giữ thăng bằng hai chai rượu tay kia, rồi thả chiếc chìa khóa vào túi quần. Chúng tôi để lại phía sau mùi rượu vang và leo trở lên tầng trệt. Trong khí mờ tối, Matthew dường như tỏa sáng với vẻ vui sướng, ôm đầy rượu tay. “ là buổi tối tuyệt vời,” vui vẻ . Chúng tôi lên căn hộ của , nó đẹp hơn tôi tưởng tượng nhưng dường như có phần kém hoành tráng hơn. Các phòng hơn căn hộ của tôi ở New College, tọa lạc đỉnh trong những dãy cổ xưa nhất ở All Souls, đầu những góc hẹp cách buồn cười và có chỗ nhô lên dốc xuống kỳ lạ. Mặc dù trần nhà đủ cao để điều chỉnh cho thích hợp với chiều cao của Matthew, căn hộ này dường như vẫn quá để chứa được chàng. phải khom người khi qua mỗi cánh cửa, và bệ cửa sổ thấp ngang bắp đùi . Căn hộ này chỉ thiếu mỗi kích thước, còn các phòng được trang hoàng quá trời đồ nội thất. tấm thảm Aubusson bạc màu được trải ngang qua sàn các phòng, án ngữ nó là bộ sưu tập đồ nội thất nguyên bản của William Morris. Chẳng hiểu sao mà kiến trúc thế kỷ 15, thảm sàn thế kỷ 18, và đồ đạc bằng gỗ sồi thô kệch của thế kỷ 19 ở cạnh nhau lại trông đẹp nguy nga lộng lẫy và mang đến cho căn hộ bầu khí của câu lạc bộ dành riêng cho các quý ông thời Edward đến vậy. bàn ăn rộng mênh mông được kê ở góc xa trong căn phòng chính, sách báo và hỗn hợp đủ loại giấy vụn của đời sống học giả được sắp xếp gọn gàng ở đầu - những tờ ghi nhớ về chính sách mới, tạp chí nghiên cứu khoa học, những cầu danh cho thư từ và các bài phê bình của các chuyên gia. Mỗi chồng được chặn xuống bằng món đồ khác nhau. Chúng gồm bài báo trong tấm kính nặng màu nâu, hòn gạch cũ, cái mề đay bằng đồng mà nghi ngờ gì chính là giải thưởng nào đó mà giành được, và cái que cời lửa . Ở đầu kia bàn, tấm vải dạ mềm mại trải lớp gỗ, được giữ chặt bằng chân nến bằng bạc thời các vua George đẹp lộng lẫy mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy bên ngoài viện bảo tàng. dãy ly uống rượu vang với các hình dáng khác nhau được sắp hàng ngũ chỉnh tề đứng canh gác cho những chiếc đĩa trắng giản dị, và còn nhiều đồ bằng bạc từ thời các vua George nữa. “Em thích nó.” Tôi nhìn quanh vẻ hài lòng. có mẩu đồ gỗ nội thất hay món đồ trang trí nào ở trong căn phòng này là của trường cả. Tất cả đều hoàn hảo, và mang tinh túy phong cánh của Matthew. “Em ngồi .” giải thoát cho hai chai rượu vang khỏi mấy ngón tay mỏi nhử của tôi và đưa chúng vụt tới chỗ trông giống như cái tủ xếp được trang trí. “All Souls nghĩ là các ủy viên giám đốc ăn trong phòng của họ,” giải thích khi tôi nhìn vào tiện nghi sơ sài của căn bếp, “bởi vậy nên chúng ta làm đến hết mức có thể.” Thứ tôi sắp ăn ngang với bữa tối ngon nhất trong thị trấn, nghi ngờ gì nữa. Matthew ném chai champagne vào trong cái xô bạc đầy đá và đến ngồi cùng tôi chiếc ghế bành ấm cúng dễ chịu đặt bên sườn cái lò sưởi còn dùng đến. “ ai để em đốt lửa trong các lò sưởi của Oxford nữa đâu.” ảo não ra hiệu về phía vách lò quây bằng đá trống đó. “Khi mọi lò sưởi được đốt lên, thành phố này có mùi như lửa đốt rác vậy.” “ đến Oxford lần đầu tiên là khi nào?” Tôi hy vọng câu hỏi mở của mình đảm bảo với rằng tôi phải tò mò tọc mạch vào cuộc sống trong quá khứ của . “Lần này là vào năm 1989.” duỗi đôi chân dài cùng với tiếng thở phào thư giãn. “ đến Oriel với tư cách là sinh viên nghiên cứu khoa học và lưu lại thời gian nữa để lấy học vụ Tiến sĩ. Khi giành được giải Học Bổng Nghiên Cứu Sinh All Souls, đột ngột chuyển đến đây trong năm. Khi học vị của hoàn thành, trường đại học đề nghị trao cho vị trí và các thành viên bầu làm ủy viên giám đốc.” Mỗi lúc là điều gì đó kinh ngạc lại nhảy vọt ra. giải cho nghiên cứu sinh ư? Mỗi năm chỉ có hai giải này. “Và đây là lần đầu tiên ở All Souls à?” tôi cắn môi, và bật cười. “Chúng mình hãy hoàn thành cho xong chủ đề này nhé,” , giơ hai tay lên và bắt đầu đánh dấu các trường đại học. “ là thành viên - lần - của Merton, Magdalen, và Đại học các trường chuyên nghiệp. từng là thành viên của New College và Oriel hai lần. Và đây là lần đầu tiên All Souls thu hút chú ý của .” Nhân câu trả lời này lên bằng thừa số của Cambridge, Paris, Padua, và Montpellier - tất cả các trường trong số đó, tôi dám chắc từng có sinh viên tên Matthew Clairmont trong sổ sách của họ, hoặc vài biến thể khác của cái tên đó. Câu trả lời cùng với những suy luận ấy mang đến cơn hoa mắt chóng mặt cứ nhảy nhót và dâng lên mãi trong đầu tôi. ấy nghiên cứu những gì, trong suốt những năm ấy, và nghiên cứu cùng với ai? “Diana?” Giọng thích thú của Matthew xuyên qua những ý nghĩ của tôi. “Em có nghe ?” “Em xin lỗi.” Tôi nhắm mắt và xiết chặt tay đùi, cố gắng giữ cho thần trí nghĩ vơ vẩn nữa. “Nó giống như căn bệnh ý. Em thể giữ cho trí tò mò ở yên khi bắt đầu hồi tưởng lại.” “ biết. Đó là trong những khó khăn mà chàng ma cà rồng phải đối mặt khi ta ở bên phù thủy là nhà sử học.” Matthew bĩu môi chế giễu, nhưng ánh mắt lấp lánh như những ánh sao đen. “Nếu muốn tránh những khó khăn này trong tương lai, em gợi ý là nên tránh khu vực tham khảo môn cổ tự học của Bodleinan.” Tôi chanh chua đáp. “ nhà sử học là tất cả những gì phải xoay xở xử lý lúc này đây.” Matthew êm ái nhấc chân lên. “Thế em đói chưa nào?” Tại sao chàng cứ tiếp tục làm điều bí - tôi đói khi nào chứ? “Rồi,” tôi đáp, cố tách mình ra khỏi chiếc ghế bành sâu kiểu Morris. Matthew đưa tay ra. Tôi túm lấy nó, và nâng tôi dậy dễ dàng. Chúng tôi đứng đối diện nhau, người gần sát. Tôi lại dán mắt vào cái bình thánh tích Bethany gồ lên dưới lớp áo lên của . Ánh mắt lướt qua tôi, để lại vệt dài cảm giác bông tuyết rơi da tôi. “Em trông đáng .” Tôi cúi đầu xuống, và lọn tóc bướng bỉnh mọi khi lại xòa xuống mặt. lại đưa tay lên như mọi lần, vén nó ra sau tai tôi. Lần này những ngón tay vẫn tiếp tục đặt sau ót tôi. nâng mái tóc tôi lên và để từng lọn tóc rơi qua những kẽ ngón tay như thể đó là dòng nước vậy. Tôi rùng mình khi bầu khí mát lạnh chạm vào da thịt. “ thích mái tóc của em,” thào. “Nó có mọi màu sắc có thể tưởng tượng được - thậm chí có cả những sợi đỏ và đen nữa.” Tôi nghe tiếng hít vào đột ngột - ấy thu được mùi hương mới. “ ngửi thấy gì vậy?” Giọng tôi chắc nịnh, và vẫn chưa dám ngước lên gặp ánh mắt . “Em,” thầm trong hơi thở. Ánh mắt tôi thoáng ngước lên nhìn . “Chúng mình ăn tối chứ?” Sau đó, khó mà tập trung vào các món ăn được, nhưng tôi làm hết sức. Matthew kéo cái ghế bị xô lệch của tôi ra, từ chỗ ngồi ấy tôi có thể nhìn bao quát cả căn phòng ấm áp, đẹp đẽ. Từ chiếc tủ lạnh xíu, lấy ra hai cái đĩa, mỗi đĩa có sáu con hàu tươi ngon làm tổ đỉnh luống kem trộn nhàu giống như những vệt sáng của ngôi sao. “Bài giảng số dành cho em bao gồm hàu và champagne.” Matthew ngồi xuống và giơ ngón tay lên giống như ông hiệu trưởng sắp đắm mình vào môn học thích. với chai rượu vang trong tầm tay và kéo nó ra khỏi cái thùng. Với cú xoay bật đánh bốp cái nút bần ra khỏi cổ chai. “Em luôn thấy điều đó khó hơn cả,” tôi bình luận thờ ơ, nhìn những ngón tay mạnh mẽ, tao nhã của . “ có thể dạy em mở nút chai ra bằng thanh gươm nếu em muốn.” Matthew cười tươi hết cỡ. “Dĩ nhiên, con dao cũng hiệu quả mà, nếu em có thanh gươm ở quanh mình.” rót tí chất lỏng ấy vào ly của chúng tôi, nó kêu xì xèo và nhảy nhót trong ánh nến. nâng ly hướng về phía tôi. “À la tienne.” “À la tienne.” Tôi nâng cái lý kêu xèo xèo lên và ngắm nhìn những bong bóng vỡ ra bề mặt của nó. “Tại sao các bong bóng lại xíu thế nhỉ ?” “Bởi vì rượu này quá lâu năm. Hầu hết champagne đều được uống trước nó rất lâu rồi. Nhưng thích rượu lâu năm - nó nhắc nhớ đến cái cách mà champagne thường được thưởng thức trước đây.” “Nó bao nhiêu năm tuổi rồi ?” “Già hơn em đấy,” Matthew đáp. dùng tay để tách vỏ hàu ra - việc này thường cần đến con dao rất sắc và rất nhiều khéo léo - rồi liệng vỏ vào trong cái bát thủy tinh đặt giữa bàn. đưa đĩa cho tôi. “Nó có từ năm 1961.” “Làm ơn hãy với em đây là thứ rượu nhiều tuổi nhất mà chúng ta uống tối nay ,” tôi , nghĩ lại chai rượu mang đến vào bữa tối hôm thứ Ba, tôi cắm bông hồng trắng cuối cùng của vào vỏ chai của nó và đặt bàn cạnh giường ngủ của mình. “ đời nào,” và nở nụ cười tươi rói. Tôi khêu phần hàu trong mảnh vỏ đầu tiên cho vào miệng. Mắt tôi trợn tròn khi miệng mình đầy hương vị của Đại Tây Dương. “Giờ uống . “ cầm ly của mình lên và nhìn tôi nhấp ngụm thứ chất lỏng vàng óng đó. “Em cảm nhận được mùi vị gì ?” Bọt mịn của rượu và những con hàu xung động cùng với vị muối biển mặn mòi tạo thành cảm giác vô cùng mê hoặc đầu lưỡi. “Cứ như là cả đại dương ở trong miệng em vậy,” tôi trả lời, nhấp thêm ngụm khác. Chúng tôi dùng xong món hàu rồi chuyển tới đĩa sa-lát khổng lồ. Mỗi món rau xanh của nó đều rất đắt tiền đối với con người, quả hạch này, rồi những quả mọng và món dầu trộn ngon lành làm bằng champagne nho và dầu ô liu mà Matthew trộn ngay tại bàn. Những lát thịt xíu tô điểm cho món sa-lát này là thịt gà gô từ sân Chòi Gác Cổ. Chúng tôi nhấm nháp thứ Matthew gọi là “rượu sinh nhật,” nó có mùi giống như nước lau sàn hương chanh hòa cùng mùi khói, với vị giống như phấn viết và kẹo bơ đường. Món kế tiếp là món hầm, với những khoanh thịt trong nước xốt thơm phức. Miếng cắn đầu tiên cho tôi biết đó là thịt bê, kèm với táo và chút kem, ăn cùng với cơm. Matthew ngắm tôi ăn, mỉm cười khi tôi nếm vị chua của táo lần đầu tiên. “Nó là công thức nấu ăn cổ từ vùng Normandy,” . “Em có thích ?” “Nó tuyệt quá. làm món này đấy à?” “,” . “Đầu bếp của nhà hàng của Mục Sư Già nấu đấy - ông ta còn cung cấp cho những chỉ dẫn quý giá về cách làm thế nào để nó bị cháy khi hâm nóng lại.” “ có thể hâm nóng bữa tối của em bất cứ lúc nào.” Tôi để cho hơi ấm từ món hầm thấm đẫm vào mình. “ ăn kìa.” “, đói.” tiếp tục ngắm tôi ăn lúc nữa, rồi trở vào bếp để đem ra chai rượu khác. Nó được gắn kín bằng sáp ong đỏ. cắt lát mỏng xuyên qua lớp sáp ong và lôi cái bút bần ra. “Hoàn hảo,” dõng dạc , cẩn thận rót chất lỏng đỏ tươi ấy vào chiếc bình đựng rượu bên cạnh. “ có thể ngửi thấy mùi của nó ư?” Tôi vẫn chắc về phạm vi năng lực khứu giác của ấy. “Ồ, có chứ. Nhất là rượu này.” Matthew rót cho tôi chút và cũng rót chút vào chiếc ly của chính mình. “Em sẵn sàng để nếm thử thứ thần diệu chưa?” hỏi. Tôi gật đầu. “Đây là Chaateau Margaux làm từ vụ nho rất tuyệt vời. Vài người còn coi nó là thứ rượu vang đỏ ngon nhất từng được sản xuất.” Chúng tôi nâng ly, tôi bắt chước theo từng động tác của Matthew. đưa mũi lại gần ly, và tôi cũng kề mũi mình vào. Mùi hương hoa violet ập lên tôi. Lần nếm thử đầu tiên của tôi giống như uống nhung mượt vậy. Sau đó là sữa, sô--la, đào, và cơn lũ những hương vị làm mờ ý thức của tôi và mang trở lại những ký ức về mùi hương xa xưa, mùi hương của những công trình bố tôi nghiên cứu sau khi ông hút thuốc và dọn sạch bào gỗ khỏi chiếc bút chì hai ngăn. Điều cuối cùng tôi nhận thấy là hương vị đầy kích thích nhắc tôi nhớ tới Matthew. “Thứ này có hương vị giống !” Tôi . “Như thế nào?” hỏi. “Kích thích,” tôi , đột ngột đỏ hết cả mặt từ má đến tận chân tóc. “Chỉ kích thích thôi à?” “. Đầu tiên em nghĩ nó giống như hương hoa - violet - bởi vì nó có mùi như thế. Nhưng rồi em nếm thấy tất cả các loại hương vị. Thế nếm thấy gì?” Phản ứng của Matthew thú vị và ít ngượng ngùng hơn phản ứng của tôi. ngửi, lắc xoáy tròn và nếm thử. “Hoa violet - đồng ý với em ở điểm đó. Những bông hoa violet đỏ tía bọc đầy đường. Elizabeth Tudor thích kẹo hoa violet, và chúng làm răng của bà ta sâu sạch.” lại nhấp ngụm nữa. “Mùi khói của những điếu xì-gà ngon lành, giống loại từng có mặt trong câu lạc bộ Marlborough khi hoàng tử xứ Wales ghé thăm. Những quả mâm xôi dại hái trong hàng rào bên ngoài chuồng ngựa của Chòi Gác Cổ và nho Hy Lạp dầm trong rượu brandy.” Quan sát ma cà rồng sử dụng những quyền năng giác quan của ta chắn chắn phải là trong những trải nghiệm siêu thực nhất đối với bất cứ ai. chỉ ở việc Matthew có thể nhìn và nghe được những điều tôi thể - mà khi cảm nhận thứ gì đó, thứ năng lực tri giác ấy quá sắc bén và chính xác. phải quả mâm xôi bất kỳ nào đó, mà nó là quả mâm xôi khác thường, từ nơi khác thường hoặc thời điểm khác thường. Matthew tiếp tục uống rượu, còn tôi ăn nốt món hầm. Tôi cầm ly rượu của mình lên với tiếng thở dài thỏa mãn, và nghịch chân ly rượu cho nó bắt ánh sáng từ những ngọn nến. “ nghĩ em có mùi vị như thế nào?” tôi thắc mắc, giọng đùa cợt. Matthew phóng bật lên đôi chân, gương mặt trắng bệch giận dữ. Khăn ăn rơi xuống sàn. mạch máu trước trán căng ra trước khi co lại. Tôi điều sai lầm! đến bên cạnh tôi chỉ trong chớp mắt, và kéo mạnh tôi đứng lên khỏi ghế. Những ngón tay bấu chặt lấy hai khuỷu tay tôi. “Có truyền thuyết về ma cà rồng mà chúng ta chưa bàn luận đến, phải nhỉ?” Ánh mắt xa lạ, nét mặt trở nên khủng khiếp. Tôi cố vặn tay ra nhưng những ngón tay càng ấn sâu hơn. “Đó là khi gã ma cà rồng nhận ra quá mê đắm phụ nữ thể kiềm chế được bản thân mình.” Tâm trí tôi lướt nhanh qua những gì xảy ra. ấy hỏi tôi nếm thấy mùi vị ra sao. Tôi nếm thấy vị của ấy. Thế rồi cho tôi biết mùi vị nếm được và tôi ... “Ôi, Matthew,” tôi thầm. “Em thắc mắc thấy sao nếu nếm thử mùi vị em ư?” Giọng Matthew chùng xuống thành thứ gì đó trầm sâu hơn và nguy hiểm hơn. Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy khiếp sợ. Trước khi cảm giác đó dấy lên mạnh hơn, thả hai cánh tay tôi ra. Tôi kịp phản ứng hay rút tay lại. Matthew luồn những ngón tay qua tóc tôi, hai ngón tay cái của ép vào phía sau đầu tôi. Tôi lại bị bắt lần nữa, và cảm giác đông cứng ập đến, tỏa lan ra từ tiếp xúc lạnh lẽo của . Có phải tôi say vì hai ly rượu vang ? Hay tôi bị bỏ thuốc mê? Điều gì khác nữa có thể giải thích cho cái cảm giác mà tôi thể thoát ra được lúc này? “ chỉ hương thơm của em làm tôi hạnh phúc đâu. Tôi có thể nghe thấy dòng máu phù thủy của em khi nó di chuyển qua các huyết mạch.” Đôi môi lành lạnh của Matthew chạm vào tai tôi, hơi thở của ngọt ngào. “Em có biết là dòng máu của phù thủy tạo thành tiếng nhạc ? Giống như tiếng hát của nàng Siren mê hoặc chàng thủy thủ, đòi ta phải hướng mũi thuyền vào vách đá, tiếng gọi của dòng máu trong người em có thể hủy hoại cả tôi và em nữa đấy.” Lời lặng lẽ và thiết tha như thể chuyện với tâm thức của tôi. Đôi môi của chàng ma cà rồng bắt đầu dịch chuyển dần lên quai hàm tôi. Mỗi chỗ môi chạm vào đều như đông cứng, rồi sau đó bùng cháy khi máu tôi dồn trở lại bề mặt làn da. “Matthew,” hơi thở tôi tắc lại nơi cuống họng. Tôi nhắm mắt mong chờ cái cảm giác hai hàm răng cắn vào cổ mình mà thể, muốn nhúc nhích. Nhưng thay vào đó đôi môi hối hả của Matthew áp lên môi tôi. Hai cánh tay khóa chặt quanh người tôi, và những ngón tay đỡ lấy mái đầu tôi. Môi tôi hé mở dưới làn môi , hai bàn tay bị kẹt giữa lồng ngực của và của tôi. Bên dưới lòng bàn tay tôi, trái tim đập, chỉ lần. Cùng với nhịp đập của trái tim ấy, nụ hôn thay đổi. Matthew đòi hỏi ít hơn, nhưng cơn khao khát trong cái chạm xiết của trở thành thứ gì đó vừa hạnh phúc vừa đau đớn. Hai bàn tay dịu dàng di chuyển tới trước cho tới khi chúng khum lại quanh khuôn mặt tôi, và rồi miễn cưỡng kéo người ra. Lần đầu tiên, tôi nghe thấy thanh êm rung lên. Nó giống tiếng thở của con người. Đó là thanh trong giây lát lượng oxy qua hai lá phổi mạnh mẽ của ma cà rồng. “ lợi dụng sợ hãi của em. Đáng ra nên thế.” Matthew thầm. Hai mắt tôi nhắm lại, và tôi vẫn cảm thấy say ngây ngất, mùi quế và đinh hương của xua tan hương violet trong rượu. Bồn chồn yên, tôi xao xuyến trong vòng tay xiết chặt của . “Đứng yên nào,” , giọng khàn khàn. “ thể kiểm soát bản thân nếu bước đâu.” Trong phòng thí nghiệm ấy, cảnh báo tôi về mối quan hệ giữa động vật ăn thịt và con mồi. Giờ đây cố gắng bắt tôi phải đứng im như chết để con dã thú trong mất hứng thú với tôi. Nhưng tôi chết. Mắt tôi hé mở. nhầm lẫn vào đâu được cái nhìn sắc lạnh gương mặt . Đó là thèm khát, là cơn đói. Bây giờ Matthew là sinh vật của bản năng. Nhưng tôi cũng có những bản năng của mình. “Em an toàn khi ở bên .” Tôi thốt ra những lời ấy bằng đôi môi vừa lạnh cứng vừa cháy bỏng, chưa quen với cảm giác nụ hôn của chàng ma cà rồng. “ phù thủy - an toàn với gã ma cà rồng ư? bao giờ chắc chắn được về điều đó đâu. Chỉ mất khắc thôi, em thể ngăn tôi nếu tôi tấn công, và tôi cũng ngăn nổi bản thân mình.” Ánh mắt chúng tôi gặp nhau và bị khóa chặt ở đó. Matthew thốt lên tiếng trầm trầm ngạc nhiên. “Em mới can đảm làm sao.” “Em chưa bao giờ can đảm cả.” “Khi em cho máu trong phòng thí nghiệm, cách em đón nhận ánh nhìn của ma cà rồng, cách em cầu những sinh vật khác người đó ra khỏi thư viện, thậm chí em còn quay trở lại đó hết ngày này sang ngày khác, cho bọn người đó cản trở em làm điều mình muốn - tất cả đều là dũng cảm.” “Đó là bướng bỉnh.” Dì Sarah giải thích khác biệt ấy từ rất lâu trước đây. “ từng thấy dũng khí giống như của em trước đây - hầu hết là từ những người phụ nữ.” Matthew tiếp tục cứ như tôi gì. “Đàn ông có dũng khí ấy. Ý chí mạnh mẽ quyết tâm của đàn ông bọn được sinh ra bên ngoài nỗi sợ hãi. Nó chỉ đơn thuần là tỏ vẻ can đảm và có dũng khí thôi.” Cái liếc nhìn của thoáng qua tôi, mang theo những bông tuyết lạnh. Khoảng khắc chúng chạm vào tôi, chúng tan chảy thành cảm giác mát lạnh trong ngần. ngón tay lành lạnh với ra bắt lấy giọt nước mắt từ bờ mi tôi. Nét mặt buồn khi nhàng hạ tôi ngồi vào ghế và cúi mình bên cạnh tôi, đặt bàn tay lên đầu gối tôi còn tay kia đặt thành ghế tạo thành vòng tròn bảo vệ. “Hãy hứa với rằng em bao giờ đùa giỡn với ma cà rồng - thậm chí cả với - về dòng máu hay mùi vị của em như thế nào.” “Em xin lỗi,” tôi thầm , buộc mình được quay nhìn chỗ khác. lắc đầu. “Em với từ trước là em biết nhiều về ma cà rồng. Điều em cần hiểu là ma cà rồng nào có thể miễn dịch được trước sức cám dỗ nhường này. Những ma cà rồng có lương tâm dành gần hết thời gian cuộc đời họ để cố gắng hình dung xem người ta có mùi vị ra sao. Nếu em gặp ma cà rồng có lương tâm - và có rất nhiều kẻ đứng trong danh sách đó đấy - có Chúa mới giúp được em.” “Em suy nghĩ.” Tôi vẫn thể suy nghĩ gì. Tâm trí tôi còn xoáy trộn trong ký ức về nụ hôn của , cơn xúc động mãnh liệt và cơn đói có thể sờ thấy được của . cúi xuống, đầu tựa vào vai tôi. Cái bình thánh tích từ Bethany tuột ra từ cổ áo len của và đung đưa như quả lắc, cái quan tài xíu của nó lóe sáng dưới ánh nến. quá đỗi khẽ khàng, “Phù thủy và ma cà rồng được sinh ra để cảm thấy những cảm xúc theo cách này. trải nghiệm những xúc cảm mà chưa bao giờ...” đột ngột ngừng lại. “Em biết.” Tôi thận trọng tựa má mình lên tóc . Mái tóc ấy giống như sa tanh đúng như vẻ bề ngoài của nó. “Em cũng cảm thấy chúng.” Trước những lời tôi thổ lộ, hai cánh tay Matthew ở nguyên chỗ cũ bỗng từ từ cử động và xiết chặt lấy quanh eo tôi. Cảm giác lành lạnh của da thịt xuyên qua quần áo của tôi, nhưng tôi rùng mình. Ngược lại tôi càng di chuyển tới gần sát hơn để có thể choàng hai cánh tay qua vai . chàng ma cà rồng có thể thoái mái dễ chịu giữ nguyên tư thế này suốt mấy ngày liền. Thế nhưng đối với phù thủy đơn thuần điều đó là khả dĩ. Khi tôi khẽ thay đổi tư thế, Matthew nhìn bối rối, và rồi gương mặt sáng lên khi hiểu ra. “ quên mất,” , nâng người lên với uyển chuyển mau lẹ và bước ra xa khỏi tôi. Đầu tiên tôi cử động chân rồi đến chân kia, khôi phục lại tuần hoàn cho đôi bàn chân. Matthew đưa cho tôi ly rượu và quay lại chỗ ngồi của mình. Khi yên vị, tôi cố gắng gợi cho thứ gì đó để suy nghĩ ngoài việc tôi có mùi vị như thế nào. “Câu hỏi thứ năm phải trả lời để giành được học bổng là gì vậy?” Các ứng cử viên được mời ngồi làm bài kiểm tra liên quan đến bốn câu hỏi kết hợp cả chiều rộng lẫn chiều sâu tư duy cực kỳ phức tạp và hiểm hóc. Nếu bạn vượt qua được bốn câu hỏi đầu tiên đó, bạn được hỏi “câu hỏi thứ năm” nổi tiếng. Nó hẳn là câu hỏi, mà là từ duy nhất kiểu như “nước” hay “vắng”. Tùy thuộc vào ứng viên đó quyết định trả lời như thế nào, và chỉ câu trả lời xuất sắc nhất mới giúp bạn thắng được vị trí ở All Souls. với qua bàn - mà làm bản thân bị bắt lửa - và rót thêm ít rượu vào lý của tôi. “Dục vọng,” , cố ý tránh ánh mắt tôi. Quá nhiều đối với kế hoạch nghi binh. “Dục vọng ư? Vậy viết gì?” “Chỉ có hai cảm xúc giữ cho thế giới này quay hết năm này sang năm khác.” ngập ngừng, rồi tiếp tục. “ thứ là sợ hãi. Còn thứ kia là thèm khát. Đó là những gì viết.” Tôi nhận thấy tình phải nhân tố trong câu trả lời của . Đó bức tranh thú tính phàm tục, cuộc chiến giằng co giữa hai xung lực ngang sức nhưng đối chọi nhau. Tuy nhiên, trong đó có hồi chuông của mà còn hơn cả những điều vẫn được người ta trơn tru: “tình làm thế giới này quay.” Matthew tiếp tục bóng gió gợi ý rằng dục vọng của - chủ yếu liên quan đến máu - là quá mạnh mẽ đến nỗi nó đặt mọi thứ khác vào vòng nguy hiểm. Nhưng ma cà rồng phải sinh vật khác người duy nhất phải xoay sở kiềm chế trước những thôi thúc mạnh mẽ như thế. Nhiều thứ trong những cái được đánh giá là phép màu lại đơn giản chỉ là khao khát trong hành động. Dù phép thuật phù thủy cần có thêm bùa phép và nững nghi thức, nhưng chỉ cần điều ước, nhu cầu, cơn đói quá mạnh mẽ thể bị chối từ - những điều này có thể chuyển thành kỳ tích khi chúng lướt qua tâm trí phù thủy. Và nếu Matthew sắp sửa kể cho tôi nghe về những bí mật của ấy, dường như việc giữ kín những bí mật của tôi công bằng. “Phép thuật khởi nguồn từ khát khao tạo nên thực. Đó chính là cách em kéo cuốn Những Chú giải và Thắc mắc xuống khỏi giá sách vào đêm chúng ta gặp nhau,” tôi chậm rãi . “Khi phù thủy tập trung vào cái mà ta mong muốn, và rồi tưởng tượng ra cách có thể đạt được nó ta có thể khiến chuyện đó xảy ra. Thế nên em luôn phải rất cẩn thận trong công việc của mình.” Tôi nhấp hớp rượu, tay run rẩy chiếc ly. “Thế rồi em dành hầu hết thời gian của mình để cố gắng mong muốn thứ gì, giống như vì cùng vài lý do nào đó.” Bông tuyết của Matthew thoáng lướt qua rung rinh hai má tôi. “Nếu ám chỉ đến nỗi sợ hãi mà khi em bắt đầu có gì có thể ngăn em lại được - đúng vậy. Em muốn nhìn lại cuộc sống nơi em nắm được mọi thứ mà phải tự kiếm được nó.” “Vậy là em kiếm được mọi thứ gấp hai rồi. Đầu tiên em giành được nó bằng cách đơn giản bình thường, thế rồi em có được nó lần nữa thông qua công việc và nỗ lực.” bật cười chua chát. “Là sinh vật thuộc thế giới khác có nhiều lợi thế lắm, đúng ?” Matthew gợi ý chúng tôi ngồi cạnh chiếc lò sưởi tắt lửa từ lâu. Tôi uể oải người ghế sofa, và mang ít bánh quy quả hạch tới chiếc bàn bên cạnh trước khi biến mất vào trong bếp lần nữa. Khi trở lại, mang ra chiếc khay với chai rượu màu đen cổ xưa ở đó - nút chai được rút ra - và hai ly rượu chứa thứ chất lỏng màu hổ phách. đưa ly cho tôi. “Hãy nhắm mắt lại và cho biết em ngửi thấy mùi gì,” lại hướng dẫn tôi bằng cái giọng của ủy viên trong ban lãnh đạo Oxford. Hai mí mắt tôi ngoan ngoãn hạ xuống. Chất rượu này dường như xưa cũ nhưng đầy sức sống. Nó có mùi hương của những bông hoa, quả hạch, kẹo chanh và thứ gì đó khác của thế giới quá khứ xa xưa mà tôi - cho tới giờ - chỉ có thể đọc và hình dung về nó. “Nó có mùi hương giống như quá khứ. Nhưng phải quá khứ chết chóc. Nó quá sống động.” “Hãy mở mắt ra và nhấp ngụm .” Khi chất lỏng ngọt ngào, tươi sáng ấy xuống cổ họng, hương vị cổ xưa và đầy sức mạnh đó chảy tràn qua các huyết mạch của tôi. Vị máu của ma cà rồng chắc phải giống thứ này. Tôi giữ những ý nghĩ ấy cho riêng mình. “ cho em biết đó là thứ gì chứ?” “Rượu ngọt và mạnh,” đáp với nụ cười tươi rói. “Rượu mạnh và ngọt rất cổ xưa.” “Bao nhiêu tuổi?” Tôi nghi ngờ hỏi. “Có già như ?” bật cười. “. Em muốn uống bất cứ thứ gì già như đâu. Nó được sản xuất năm 1795, từ những quả nho lớn lên những hòn đảo của Madeiras. Nó khá là nổi tiếng vào thời đó, nhưng bây giờ chẳng còn ai chú ý đến nó cả.” “Ngon tuyệt,” tôi với vẻ thỏa mãn và ham muốn. “Em chưa bao giờ uống thứ gì ngon đến thế.” lại bật cười và thoải mái ngồi xuống trong những chiếc ghế kiểu Morris. Chúng tôi trò chuyện về thời gian ở All Souls, về Hamish - hóa ra cũng là người từng được giải thưởng - và những cuộc phiêu lưu của họ trong Oxford. Tôi bật cười trước những câu chuyện của về bữa tối khủng khiếp trong đại sảnh và phải chạy trốn đến Woodstock như thế nào sau mỗi bữa ăn để loại bỏ sạch mùi vị của thịt bò nấu chín khỏi miệng mình. “Em trông mệt rồi,” cuối cùng , đứng lên sau khi uống cạn ly nữa và trò chuyện với tôi thêm giờ nữa. “Em mệt .” Bất chấp mệt mỏi của mình, tôi cần phải với điều trước khi đưa tôi về nhà. Tôi cẩn thận đặt ly rượu của mình xuống. “Em quyết định rồi Matthew ạ. Thứ Hai này em gọi lại Ashmole 782.” Chàng ma cà rồng ngồi thụp xuống. “Em biết làm cách nào mà mình phá vỡ được bùa chú lần đầu tiên, nhưng em thử lại lần nữa. Knox mấy tin rằng em thành công.” Miệng tôi mím chặt lại. “Ông ta biết điều gì ư? Ông ta thể phá vỡ bùa phép lần nào. Khi em mở được cuốn sách ra, đọc được chữ trong bản giấy da cừu có phép thuật ấy, chúng nằm bên dưới những hình vẽ.” “Em có ý gì, em biết mình làm gì để phá vỡ được bùa chú đó ư?” Trán Matthew nhăn lại bối rối. “Em dùng những từ gì? Em gọi lên những sức mạnh nào?” “Em phá bùa chú mà ý thức gì cả,” tôi giải thích. “Chúa ơi, Diana.” lại phóng dậy lần nữa. “Knox có biết rằng em dùng phép thuật ?” “Em với ông ta.” Tôi nhún vai. “Với lại, điều đó có gì quan trọng đâu?” “Nó quan trọng bởi vì em phá bỏ trạng thái bị yểm bùa của cuốn sách, thế rồi em bắt gặp nó mở sẵn ra cho em như thế. Ngay lúc này đây các sinh vật khác chờ đợi để chứng kiến bất cứ cách phản bùa nào em sử dụng, sao chép nó nếu có thể và giành lấy Ashmole 782 cho chính họ. Khi các đồng đạo phù thủy của em phát ra bùa chú ấy mở ra cho em theo ý muốn của riêng nó, họ còn kiên nhẫn và cư xử tử tế thế nữa.” Gương mặt giận dữ của Gillian lướt nhanh qua trước mắt tôi, kèm thêm hồi ức mạnh mẽ về bài diễn thuyết dài ngoằng của ta về những phù thủy qua đời để tọc mạch vào bí mật của bố mẹ tôi. Tôi gạt những ý nghĩ đó sang bên, dạ dày quặn lên, và tập trung vào kẽ hở trong lời tranh luận của Matthew. “Bùa chú đó được xây dựng từ hơn thế kỷ trước khi em sinh ra. Đó là điều thể.” “Chỉ vì có điều gì đó dường như thể làm nó sai ngược lại so với ,” dứt khoát. “Newton biết điều đó. thể được Knox làm gì khi hiểu ra mối quan hệ của em với bùa chú ấy.” “Em gặp nguy hiểm dù có gọi hay gọi ra cuốn cổ thư ấy,” tôi hiểu ra. “Knox bỏ qua chuyện này, đúng ?” “Ừ,” miễn cưỡng đồng ý. “Và ngần ngại sử dụng phép thuật với em thậm chí nếu mọi người ở Bodleian có nhìn thấy việc làm. có thể kịp tới chỗ em được.” Ma cà rồng nhanh, nhưng phép thuật còn nhanh hơn. “Thế em ngồi gần bàn với . Chúng ta biết ngay khi cuốn cổ thư được giao đến.” “ thích điều này,” Matthew , ràng lo lắng. “ can đảm và liều lĩnh chỉ cách nhau lằn ranh , Diana ạ.” “Đó phải là liều lĩnh - Em chỉ muốn lấy lại cuộc sống của mình thôi.” “ thế nào nếu đây chính là cuộc sống của em?” hỏi. “ ra sao nếu em thể tránh xa pháp thuật sau tất cả chuyện này?” “Em giữ lại những phần của nó.” Nhớ lại nụ hôn của và cảm xúc mãnh liệt đột ngột của sức sống bền bỉ cùng với nó, tôi nhìn thẳng vào mắt để biết được cũng được bao gồm trong đó. “Nhưng em bị hăm dọa nữa đâu.” Matthew vẫn còn lo lắng về kế hoạch của tôi trong khi cùng tôi về nhà. Khi tôi rẽ vào hẻm New College để lối cổng sau, cầm lấy tay tôi. “ phải chỉ cuộc sống của em thôi đâu,” . “Em có trông thấy cái nhìn của người gác cổng đó với ? muốn ông ta biết rằng em an toàn trong trường.” Chúng tôi tìm đường ra lối bộ gồ ghề của phố Holywell, ngang qua lối vào quán Turf, và qua cổng New College. Chúng tôi tản bộ qua người gác cổng đầy cảnh giác, vẫn giữ tay trong tay. “Mai em vẫn bơi thuyền chứ?” Matthew hỏi khi đến dưới chân cầu thang. Tôi rên rỉ. “, em còn có cả nghìn lá thư giới thiệu phải viết kia kìa. Em ở trong phòng và dọn sạch cái bàn làm việc.” “Còn tới Woodstock để săn,” vẻ ngẫu nhiên tỉnh bơ. “Thế săn tốt nhé,” tôi , vẻ tỉnh bơ kém. “Khi biết ra ngoài để săn tìm hươu nai cho chính mình mà em thấy khó chịu chút nào sao?” Matthew nghe có vẻ sửng sốt. “. Thi thoảng em ăn thịt gà gô. Đôi khi uống máu hươu nai.” Tôi nhún vai. “Em thấy có gì khác biệt cả.” Mắt Matthew lấp lánh. hơi duỗi thẳng mấy ngón tay nhưng vẫn thả tay tôi ra. Thay vào đó nâng nó lên môi và chầm chậm đặt nụ hôn dịu dàng lên hõm sâu trong lòng bàn tay tôi. “Lên giường nhé,” , thả các ngón tay tôi ra. Ánh mắt để lại những vệt dài băng đá và tuyết phía sau khi chúng nấn ná lại chỉ khuôn mặt mà còn cả người tôi nữa. Tôi lặng lẽ nhìn lại , ngạc nhiên rằng nụ hôn lòng bàn tay có thể thân thiết đến thế. “Chúc ngủ ngon,” tôi thở ra hơi dài. “Em gặp vào thứ Hai nhé.” Tôi trèo lên những bậc thang hẹp dẫn lên căn hộ của mình. Cho dù ai vặn chặt lại nắm đấm cửa cũng tạo ra cả mớ lộn xộn chỗ cái khóa, và ổ khóa kim loại cùng lớp gỗ cửa bị bao bọc trong những vết trầy xước còn mới. Vào trong phòng rồi, tôi bật đèn lên. Máy trả lời tự động nhấp nháy, dĩ nhiên là thế. Đến bên cửa sổ, tôi đưa tay lên để ra hiệu với rằng tôi an toàn ở trong nhà. Vài giây sau, khi tôi ngó ra ngoài, Matthew biến mất.
Chương 15 Sáng thứ Hai, khí vẫn thấm đẫm vẻ kỳ diệu thường thấy của mùa Thu. Cả thế giới cảm giác khô hanh và sáng sủa, và thời gian dường như treo lơ lửng ở đó. Tôi phóng ra khỏi giường vào lúc bình minh và lôi bộ dụng cụ chèo thuyền đợi sẵn ra, háo hức được ra ngoài. Dòng sông vắng tanh vào giờ đồng hồ đầu tiên. Khi mặt trời ló ra nơi đường chân trời, sương mù bị đốt nóng đẩy lùi về phía mép nước, vì thế tôi chèo thuyền xuyên qua những dải sương mù xen kẽ với những dải nắng hồng ấm áp. Khi tôi dừng lại ở bến thuyền, Matthew đợi sẵn ở đó những bậc thang cong cong dẫn đến bao lơn nhà thuyền, cái khăn quàng cũ kỹ sọc nâu của New College vắt quanh cổ . Tôi trèo ra khỏi thuyền, chống hai tay lên hông và nhìn chằm chằm vào vẻ tin được. “Ở đâu có cái thứ đó thế?” Tôi chỉ vào cái khăn quàng. “Em nên biết kính trọng các tiền bối hơn chứ,” vừa vừa cười tươi ranh mãnh, quăng đầu khăn qua vai. “Hình như mua nó năm 1920, nhưng thể nhớ chính xác. Sau khi Đại Chiến kết thúc, tất nhiên là thế.” Vừa lắc đầu, tôi cầm lấy mái chèo vào nhà thuyền. Hai đoàn thuyền lướt qua bên cạnh bến tàu trong liên kết hoàn hảo và mạnh mẽ ngay lúc tôi nâng chiếc thuyền của mình lên khỏi mặt nước. Hai đầu gối tôi hơi nhúng xuống nước và chiếc thuyền đu lên rồi lật lại cho tới khi cả trọng lượng của nó được đặt lên đầu tôi. “Tại sao em để giúp em việc đó nhỉ?” Matthew , nhấp nhổm từ chỗ đứng của mình. “ có cơ hội đâu.” Tôi bước chân vững vàng khi mang cái thuyền vào bên trong. Khi chiếc thuyền nằm yên ổn giá để của nó, Matthew dễ dàng lái tôi vào câu chuyện về bữa sáng ở quán cà phê của Mary và Dan. ấy phải ngồi bên cạnh tôi nhiều giờ trong ngày, còn tôi đói ngấu sau khi dùng sức nhiều vào buổi sáng. hướng tôi vào quán với cái vẻ nổi bật hẳn giữa những người khách ăn xung quanh, bàn tay đặt chắc chắn lưng tôi hơn lần trước. Mary chào đón tôi như người bạn cũ, và Steph đến làm phiền cùng với cuốn thực đơn nữa mà chỉ thông báo “như thường lệ” khi ta đến gần bàn. có dấu hiệu nào trong giọng của ta cho thấy đấy là câu hỏi, và khi thức ăn đến - đĩa chất đầy trứng, thịt lợn muối xông khói, nấm và khoai tây - tôi thấy vui vì mình khăng khăng đòi thứ gì đó có vẻ quý phái hơn. Sau bữa sáng, tôi chạy thong thả qua chòi gác cổng và lên thẳng phòng mình để tắm và thay quần áo. Fred ngó qua cửa sổ để xem xem chiếc Jaguar của Matthew có đỗ ở bên ngoài cổng . Những người gác cổng kiểu gì cũng đặt tiền cá cược cho việc thi nhau dự đoán về mối quan hệ có tính trang trọng kỳ lạ của chúng tôi. Sáng nay là lần đầu tiên tôi thuyết phục được chàng vệ sĩ tháp tùng chỉ đơn giản thả tôi xuống xe thôi. “Bây giờ là ban ngày, và Fred lo lắng yên nếu chắn trước cổng của ông ấy đúng ngay giờ giao hàng thế này đấy,” tôi phản đối khi Matthew sắp trèo ra khỏi xe. trừng mắt, nhưng cuối cùng cũng phải đồng ý rằng chỉ cần đỗ ngang lối vào chỗ thanh chắn cổng cũng đủ để tạo ra đợt ùn tắc kéo dài. Sáng nay, mọi bước trong nghi thức thường ngày của tôi đều chậm rãi và thong thả. Tôi tắm lâu và thư giãn ung dung, dòng nước ấm chảy qua những cơ bắp mệt mỏi của tôi. Vẫn vội vã, tôi mặc vào chiếc quần dài màu đen thoải mái, cái áo cổ lọ để giữ cho vai khỏi gai lên trong thư viện ngày lạnh giá thêm, và chiếc áo len màu xanh đêm được trùm ra phía ngoài cách hợp lý để làm bớt màu đen nặng nề. Mái tóc được túm lại thành cái đuôi ngựa buộc trễ. Lọn tóc ngắn phía trước lại rơi xòa xuống như thường lệ, tôi vừa cằn nhằn vừa thô bạo vén nó ra sau tai. Bất chấp mọi nỗ lực của tôi, cơn bồn chồn lo lắng vẫn dâng lên khi tôi đẩy mở hai cánh cửa ra vào bằng kính của thư viện. Người bảo vệ nheo mắt nhìn nụ cười ấm áp khác thường của tôi, và ông ta cũng mất khoảng thời gian lâu khác thường để đối chiếu gương mặt tôi với bức hình tấm thẻ đọc. Cuối cùng ông ta cũng chấp nhận và tôi chạy hết tốc lực lên cầu thang dẫn tới khu Công tước Humfrey. Chưa đầy giờ đồng hồ kể từ khi tôi gặp Matthew lúc sáng, nhưng thấy dấu hiệu diện của trải dài cả gian đầu tiên trong khu bàn đọc thời Elizabeth của cánh nhà xây từ thời trung cổ. ngẩng lên khi tôi thả cái laptop xuống bề mặt sứt sẹo của chiếc bàn gỗ. “Ông ta ở đây à?” Tôi thào, muốn nhắc đến tên của Knox. Matthew gật đầu dứt khoát. “Trong khu Selden End.” “À, theo như em biết ông ta có thể đợi ở dưới đó cả ngày đấy,” tôi thầm, cầm lên tờ phiếu cầu từ cái khay nông hình chữ nhật bàn đọc. đó tôi viết “Ashmole MS 782”, tên tôi, và mã số thẻ đọc của tôi. Sean ngồi bàn thu sách. “Tớ gửi hai món này trong kho nhé,” tôi bảo chàng và mỉm cười. chàng vào trong phòng và trở ra với những cuốn cổ thư của tôi, rồi chìa tay nhận lấy tờ phiếu cầu mới của tôi. đặt nó vào cái phong bì bìa cứng màu xám mòn cũ và gửi tới kho sách. “Tớ có thể chuyện với cậu chút ?” Sean hỏi. “Được chứ.” Tôi ra hiệu tỏ ý rằng Matthew nên ở nguyên chỗ cũ và theo Sean qua cánh cửa lật vào khu Arts End - khu này cũng giống như Selden End, chạy vuông góc với chiều dài của thư viện cổ. Chúng tôi đứng bên dưới hàng cửa sổ lợp chì mở tung để ánh nắng yếu ớt buổi sáng tràn vào. “ ta quấy rầy cậu à?” “Giáo sư Clairmont ư? !” “Đó phải việc của tớ, nhưng tớ thích ta.” Sean nhìn xuống lối trung tâm với vẻ lo lắng như thể Matthew nhảy dựng lên và nhìn trừng vào chàng. “Cả nơi này chật ních những kẻ ngác ngơ lạ hoắc suốt cả tuần trước.” thể đồng ý, tôi đành ậm ừ cho qua. “Cậu cho tớ biết nếu có điều gì ổn nhé?” “Dĩ nhiên rồi, Sean. Nhưng giáo sư Clairmont ổn cả. Cậu cần phải lo lắng về ấy đâu.” Người bạn cũ của tôi trông có vẻ bị thuyết phục lắm. ~*~ “Sean có thể biết em khác biệt - nhưng dường như em khác biệt bằng đâu,” tôi bảo Matthew sau khi trở lại chỗ ngồi của mình. “Chút ít thôi,” mơ hồ, cầm quyển sách đọc lên. Tôi bật máy tính và cố gắng tập trung vào công việc của mình. Vài giờ nữa cuốn cổ thư ấy mới xuất được. Nhưng nghĩ đến thuật giả kim còn khó khăn hơn bao giờ hết, khi mà tôi kẹt giữa ma cà rồng và cái bàn mượn sách như thế này. Mỗi lần những cuốn sách mới được đem ra từ kho sách là tôi lại ngước lên nhìn. Và rồi, có những bước chân khẽ khàng đến từ hướng khu Selden End. Trong chiếc ghế của mình Matthew trở nên căng thẳng. Peter Knox dạo bước tới và dừng lại. “Chào tiến sĩ Bishop,” lão lãnh đạm . “Chào ông Knox.” Tiếng tôi đáp lại cũng lạnh lùng kém, rồi tôi trở lại tập trung vào cuốn sách để mở trước mặt. Knox tiến bước về phía tôi. Matthew khẽ mà hề rời mắt khỏi tập bản thảo của Needham: “Trừ khi tiến sĩ Bishop mong muốn chuyện với ông, là tôi đứng dậy đấy.” “Tôi rất bận.” cảm giác ép chặt quanh trán tôi, và giọng thầm trong đầu tôi. Mỗi gram năng lượng của tôi đều gồng lên tống khứ lão phù thủy này ra khỏi những ý nghĩ của mình. “Tôi là tôi bận mà,” tôi nhắc lại cách lạnh lùng. Matthew đặt bút chì xuống và toan đẩy người ra khỏi cái bàn. “Ông Knox sắp rời rồi, Matthew ạ.” Quay về phía máy tính của mình, tôi đánh vài câu hoàn toàn vô nghĩa. “Tôi hy vọng hiểu điều mình làm,” Knox nhổ nước miếng. Matthew gầm lên, tôi vội nhàng đặt bàn tay mình lên cánh tay . Ánh mắt Knox gắn chặt vào nơi cơ thể của phù thủy chạm vào cơ thể ma cà rồng. Cho tới thời điểm đó Knox mới chỉ nghi ngờ rằng Matthew và tôi gần gũi quá mức để chọc tức các phù thủy. Nhưng giờ lão chắc chắn. Mày kể cho nghe những gì mày biết về cuốn sách của chúng ta. Giọng đắc thắng của Knox vang lên trong đầu tôi, và dù cố gắng đẩy lùi xâm nhập của lão, nhưng pháp sư này quá mạnh. Khi lão phản đòn lại những nỗ lực của tôi, tôi thở gấp gáp. Sean nhìn lên từ phía bàn gọi sách với bộ dạng hoảng hốt. Cánh tay Matthew run lên, tiếng gầm gừ lắng xuống nhưng vẻ hăm dọa còn đáng sợ hơn. “Lúc này ai thu hút chú ý của con người thế nhỉ?” Tôi rít lên với gã phù thủy, ép chặt cánh tay Matthew để cho biết rằng tôi cần giúp đỡ của ấy. Knox mỉm cười khó chịu. “ thu hút chú ý chỉ của loài người vào sáng nay rồi đấy, tiến sĩ Bishop ạ. Trước khi trời tối, mọi phù thủy ở Oxford này biết là kẻ phản bội!” Cơ bắp của Matthew cuộn lên, đưa tay lên cái bình thánh tích đeo trước cổ. Ôi, Chúa ơi, tôi nghĩ thầm, ấy sắp sửa giết chết phù thủy ngay trong Bodleian này. Tôi đặt mình trực diện chắn giữa hai bọn họ. “Đủ rồi,” tôi khẽ bảo Knox. “Nếu ông rời khỏi đây, tôi bảo Sean là ông quấy rối tôi và nhờ ta gọi nhân viên an ninh đấy.” “Khu Selden End ngày hôm nay khá chói nắng,” Knox lần cuối, phá vỡ thế cân não. “Có lẽ tôi di chuyển sang khu vực này của thư viện.” rồi lão thản nhiên bỏ . Matthew nâng bàn tay tôi ra khỏi cánh tay và bắt đầu gói ghém đồ dùng của mình. “Chúng ta rời khỏi đây.” “, chúng ta đâu cả. Chúng ta rời khỏi cho tới khi nào lấy được cuốn cổ thư ấy.” “Em nghe thấy gì sao?” Matthew nóng nảy . “ ta đe dọa em đấy! cần cuốn cổ thư này, nhưng cần...” đột ngột dừng lại. Tôi đẩy Matthew vào chỗ ngồi của . Sean vẫn nhìn chằm chằm về phía chúng tôi, bàn tay ta đặt lên máy điện thoại. Vừa mỉm cười, tôi vừa lắc đầu với ta trước khi quay lại với chàng ma cà rồng. “Đó là lỗi của em. Em đáng ra nên chạm vào trong khi ông ta đứng đó,” tôi thầm, nhìn xuống bờ vai , nơi bàn tay tôi vẫn đặt đó. Những ngón tay mát lạnh của Matthew nâng cằm tôi lên. “Em hối hận về đụng chạm ấy hay về mà gã phù thủy đó nhìn thấy ở em?” “ cái nào cả,” tôi thầm đáp. Đôi mắt xám của chuyển từ buồn bã sang ngạc nhiên trong tích tắc. “Nhưng em muốn mình là kẻ liều lĩnh.” Khi Knox lại đến gần lần nữa, bàn tay Matthew tì chặt vào cằm tôi hơn, các giác quan của dồn sang gã phù thủy này. Khi Knox lưu lại cách xa vài bàn, chàng ma cà rồng chuyển chú ý trở lại tôi. “Thêm lời nào nữa từ ta chúng ta rời dù có cuốn cổ thư hay . Ý là thế, Diana ạ.” Tôi nghĩ đến những hình vẽ minh họa về thuật giả kim mà sau đó được chứng minh là thể có. Lời cảnh cáo của Gillian về những gì xảy ra với những phù thủy giữ riêng các bí mật đối với phù thủy khác, và lời tuyên bố chính thức của Knox rằng tôi là kẻ phản bội, chúng cứ vang lên trong đầu tôi. Khi Matthew cố bắt tôi ngừng việc để ăn trưa, tôi từ chối. Cuốn cổ thư vẫn còn chưa xuất , và chúng tôi thể ở Blackwell khi nó tới – và khi Knox ở quá gần như thế này. “ thấy là em ăn gì trong bữa sáng à?” tôi hỏi khi Matthew vẫn khăng khăng. “Em đói.” bạn tinh thích cà phê của tôi lởn vởn ngang qua sau đó, đung đưa bộ tai nghe. “Này,” ta đưa tay vẫy Matthew và tôi. Matthew ngước lên nhìn sắc lẻm. “ hay lại gặp hai người. Liệu tôi có thể kiểm tra email của mình ở dưới kia khi vị phù thủy này ở đây với hai người ?” “Tên là gì?” Tôi hỏi, cố giấu nụ cười. “Timothy,” ta trả lời, lắc mình về phía sau hai gót chân. ta đôi bốt cao bồi chẳng cân xứng gì cả, chiếc màu đỏ còn chiếc màu đen. Đôi mắt ta cũng chẳng liên quan gì đến nhau – bên màu xanh dương còn bên kia màu xanh lá. “ có thể kiểm tra email bất cứ lúc nào, Timothy ạ.” “ là số đấy.” chàng búng ngón tay về phía tôi, xoay gót chiếc bốt màu đỏ rồi rảo bước .” giờ sau tôi đứng dậy, thể kiên nhẫn thêm được nữa. “Cuốn cổ thư ấy đáng lẽ bây giờ phải đến rồi.” Ánh mắt chàng ma cà rồng bám theo tôi ngang qua khoảng cách hơn hai mét tới chỗ bàn gọi sách. Cảm giác rắn và khô cứng như băng đá, còn mềm mại như bông tuyết nữa, chúng cứ bám dính vào hai bả vai tôi. “Chào Sean. Cậu kiểm tra hộ tớ xem liệu cuốn cổ thư tớ cầu sáng nay được phát tới chưa nhé?” “Chắc ai đó mượn nó rồi,” Sean đáp. “Chẳng có gì cho cậu cả.” “Cậu chắc chứ?” ai khác có được nó cả. Sean lật lướt qua các phiếu cầu và tìm thấy tờ của tôi. Mẩu giấy đính cùng với nó là ghi chú. “Nó thất lạc rồi.” “Nó thể thất lạc được. Tớ thấy nó vài tuần trước mà.” “Xem nào.” chàng vòng qua bàn, hướng về phía văn phòng viên quản lý phòng đọc. Matthew rời mắt khỏi tập bản thảo của mình rồi ngẩng lên quan sát khi Sean gõ vào khung cửa ra vào để mở. “Tiến sĩ Bishop muốn cuốn cổ thư này, và nó được ghi chú là thất lạc,” Sean giải thích. chàng đưa ra tờ phiếu cầu. Johnson tra cứu trong cuốn sách để bàn làm việc của mình, ông lướt ngón tay mấy dòng chữ viết nguệch ngoạc của các thế hệ quản lý phòng đọc trước đây. “À, phải. Cuốn Ashmole 782. Nó bị thất lạc từ năm 1859. Chúng tôi có bản chụp dạng phim.” Chiếc ghế của Matthew bị kéo đánh xoẹt ra khỏi bàn. “Nhưng tôi thấy nó vài tuần trước mà?” “Điều đó là thể, tiến sĩ Bishop ạ. ai thấy cuốn sách này từ 150 năm nay rồi.” Ông Johnson chớp chớp mắt đằng sau cặp kính dày cộp của mình. “Tiến sĩ Bishop, tôi có thể chỉ cho xem vài thứ khi có thời gian được ?” Giọng Matthew khiến tôi giật nẩy. “Vâng, dĩ nhiên rồi.” Tôi đờ đẫn quay về phía . “Cảm ơn ông,” tôi thầm với Johnson. “Chúng ta rời khỏi đây. Ngay bây giờ!” Matthew rít lên. Ở lối giữa các dãy bàn, các nhóm sinh vật khác người có mặt đều tập trung chú ý vào chúng tôi. Tôi nhìn Knox, Timothy, “chị em đáng sợ”, Gillian - và vài gương mặt xa lạ khác nữa. Phía những tủ sách cao, các bức chân dung cổ của những ông hoàng, bà chúa và các nhân vật lừng lẫy khác được dùng để trang trí cho những bức tường của phòng đọc Công tước Humfrey, cũng nhìn xuống chúng tôi trừng trừng với mọi vẻ mặt phản đối gay gắt. “Nó thể bị thất lạc được. Em thấy nó mà,” tôi chết lặng người nhắc lại. “Chúng ta nên nhờ họ kiểm tra xem.” “Bây giờ đừng về nó nữa – thậm chí đừng có nghĩ về nó.” thu nhặt các thứ của tôi với tốc độ chớp nhoáng, hai bàn tay hoa lên trước mắt tôi khi lưu công việc làm dở của tôi và tắt máy tính . Tôi bèn ngoan ngoãn đọc nhẩm thuộc lòng các vị vua chúa của trong đầu, bắt đầu với William Kẻ Chinh Phục, để dứt ra khỏi những ý nghĩ về cuốn cổ thư mất tích kia. Knox ngang qua, bận rộn bấm tin nhắn chiếc máy di động. Theo sau ông ta là hai “chị em đáng sợ”, những kẻ tỏ ra dữ tợn hơn hẳn thường lệ. “Tại sao tất cả bọn họ lại bỏ ?” Tôi hỏi Matthew. “Em gọi lại cuốn Ashmole 782 được. Bọn chúng sắp tập hợp lại.” dúi chiếc túi sách và máy tính vào tay tôi rồi nhặt hai cuốn cổ thư của tôi lên. Tay kia ngoặc vào khuỷu tay tôi và kéo tôi tới bàn gọi sách. Timothy vẫy tay buồn bã từ khu Selden End trước khi làm dấu hiệu hòa bình và quay mất. “Sean, tiến sĩ Bishop quay về trường cùng với tôi để giúp tôi giải quyết vấn đề mà tôi gặp phải trong bản thảo của Needham. Hôm nay ấy cần những cuốn sách này nữa. Và tôi cũng quay trở lại đâu.” Matthew đưa Sean mấy hộp đựng sách. Sean tặng cho chàng ma cà rồng cái nhìn tăm tối trước khi ném chúng vào đống sách ở gần và về phía tủ khóa giữ cổ thư. Chúng tôi trao đổi lời nào đường xuống cầu thang nhưng lúc đẩy cửa kính bước vào khu sân trong của thư viện, tôi sẵn sàng bùng nổ với hàng loạt câu hỏi. Peter Knox uể oải tựa vào những thanh rào chắn bằng sắt quây quanh bức tượng đồng William Herbert. Matthew đột ngột dừng lại, và bước nhanh bước lên trước tôi để che chở tôi sau vóc người to lớn của . “Tiến sĩ Bishop, vậy là lấy lại nó được,” Knox vẻ hiểm độc. “Tôi bảo đó là ăn may mà. Dù người nhà Bishop cũng thể phá vỡ bùa chú đó nếu được rèn luyện phép thuật phù thủy đến nơi đến chốn. Mẹ còn có thể xoay sở với nó được, nhưng có vẻ có tài như mẹ mình.” Matthew cong môi lên nhưng gì. Khi cố gắng can thiệp vào giữa những phù thủy, thể kháng cự trấn áp được Knox. “Nó thất lạc. Mẹ tôi có tài năng nhưng bà phải là tên mật thám.” Tôi nổi giận, và Matthew khẽ đưa tay để giữ tôi im lặng. “Nó và thất lạc,” Knox . “Rốt cuộc tìm thấy nó. Dù sao cũng tốt là cố phá vỡ bùa chú lần thứ hai đấy.” “Sao lại thế?” Tôi hỏi mất cả kiên nhẫn. “Bởi vì chúng ta thể để lịch sử của mình rơi vào tay những con thú vật như . Phù thủy và ma cà rồng trộn lẫn được, tiến sĩ Bishop ạ. Có những lý do tuyệt vời dành cho điều đó đấy. Hãy nhớ là ai. Nếu nhớ ra, phải hối hận đấy.” phù thủy nên giữ riêng những bí mật với các phù thủy khác. Những điều tồi tệ xảy đến khi ta làm như vậy. Giọng của Gillian vang lên trong đầu tôi, các bức tường của Bodleian như ép sát lại. Tôi cố gạt bỏ cơn hoang mang trôi dần lên. “Còn đe dọa ấy lần nữa, ta giết mi ngay tại chỗ đấy.” Giọng Matthew điềm tĩnh, nhưng cái nhìn băng giá của kẻ qua đường cho thấy gương mặt cố che giấu những xúc cảm dữ dội hơn nhiều. “Matthew,” tôi khẽ . “ phải ở đây.” “Giờ lại còn giết chết những phù thủy ư, Clairmont?” Knox khịt mũi tỏ vẻ khinh bỉ. “Ngươi hết ma cà rồng và con người để làm hại rồi sao?” “Hãy để ấy yên.” Mặc dù giọng vẫn giữ nguyên vẻ điềm nhiên, nhưng cơ thể ở tư thế sẵn sàng tấn công nếu Knox di chuyển thớ thịt về phía tôi. Gương mặt lão phù thủy vặn xoắn lại. “ đời nào! ta thuộc về chúng ta, chứ phải mày. Cả cuốn cổ thư ấy nữa.” “Matthew,” tôi nhắc lại van nài hơn nữa. Gần đó, cậu bé loài người chừng mười ba tuổi đeo khuyên mũi và có nước da tái đục chăm chú quan sát với vẻ thích thú. “Con người nhìn chúng ta đấy.” với tay ra sau và nắm lấy tay tôi. Cơn sốc bởi nước da lạnh giá xảy đến đồng thời với ấm áp và cơn xúc động mạnh khi tôi bị ràng buộc vào . kéo tôi tới trước, nép tôi vào dưới vai mình. Knox bật cười khinh bỉ. “Cần phải làm hơn thế nữa mới giữ cho ta an toàn được, Clairmont ạ. ta lấy cuốn cổ thư ấy về cho bọn ta. Chúng ta đảm bảo điều đó.” lời nào, Matthew đẩy tôi qua sân trong thư viện rồi hướng về phía con đường mòn rải sỏi bao quanh Camera Radcliffe. đưa mắt nhìn vào hai cánh cổng sắt đóng kín của All Souls, chửi thề và tiếp tục giữ tôi thẳng tới High Street. “ còn xa nữa,” , xiết chặt tay tôi hơn. Matthew thả tôi ra ở chỗ chòi gác, trao cho người gác cửa cái gật đầu cụt lủn đường lên căn hộ của mình. Chúng tôi lên căn phòng áp mái của , nó vẫn ấm áp và dễ chịu như tối hôm thứ Bảy vừa rồi. Matthew ném chùm chìa khóa lên cái tủ búp phê và màu mè kiểu cách đặt tôi ngồi vào ghế sofa. biến mất vào trong bếp và trở ra với ly nước. đưa nó cho tôi, và mãi cho tới khi nhìn có vẻ cau có u ám quá mức, tôi mới nhấp ngụm và gần như bị sặc. “Tại sao em lại thể lấy cuốn cổ thư ấy lần thứ hai nhỉ?” tôi lo sợ rằng Knox đúng. “Đáng ra nên làm theo bản năng của mình.” Matthew đứng bên cửa sổ, siết chặt rồi lại nới lỏng bàn tay phải và hoàn toàn chẳng để ý gì đến tôi. “Chúng ta hiểu mối liên hệ của em với bùa chú ấy. Em ở vào tình thế nguy hiểm nghiêm trọng kể từ khi em thấy Ashmole 782.” “Knox có lẽ chỉ đe dọa, Matthew ạ, làm điều gì ngu ngốc trước quá nhiều nhân chứng như thế.” “Em ở lại Woodstock vài ngày. muốn em tránh xa Knox - thêm lần gặp mặt nào ở trường nữa, ngang qua ta ở Bodleian nữa.” “Nếu Knox đúng - em thể lấy lại cuốn cổ thư ấy - thèm để ý đến em nữa đâu.” “Đó là ý nghĩ viển vông, Diana. Knox muốn hiểu được bí mật của Ashmole 782 cũng nhiều như em hay vậy.” Vẻ hoàn hảo thường ngày của Matthew lộ vẻ đau đớn. cào những ngón tay qua mái tóc cho tới khi nó bù xù cả lên như con bù nhìn. “Làm sao mà cả và lão ta đều quá chắc chắn về các bí mật trong những dòng chữ kia vậy?” Tôi thắc mắc, về phía cái lò sưởi. “Nó là cuốn sách về thuật giả kim. Có thể tất cả chỉ là thế thôi.” “Giả kim thuật là câu chuyện về sáng tạo, được kể lại theo phương diện hóa học. Các sinh vật đều là hóa học, được vẽ thành bản đồ phương diện sinh học.” “Nhưng khi Ashmole 782 được viết ra, họ đâu có biết gì về sinh học hay chia sẻ các hiểu biết về hóa học của ?” Mắt Matthew nheo lại thành hai khe hẹp. “Diana Bishop, bị sốc vì thiển cận của em đấy. Các sinh vật tạo nên cuốn sách ấy có thể biết về DNA, nhưng điều gì chứng minh cho em rằng họ có cùng những thắc mắc về sáng tạo ra thế giới giống như các nhà khoa học đại?” “Các văn bản về thuật giả kim là những câu chuyện ngụ ngôn, dụ, phải là những cuốn hướng dẫn thực hành.” Tôi gửi lại nỗi sợ hãi và tâm trạng thất vọng của mấy ngày trước cho . “Chúng có thể giấu những to lớn, nhưng thể dựng lên môt thí nghiệm đáng tin cậy dựa chúng được.” “ chưa bao giờ là em thể,” Matthew đáp, mắt vẫn tối sầm trong cơn giận dữ kiềm nén. “Nhưng chúng ta về những độc giả tiềm năng là những phù thủy, tinh và ma cà rồng. chút năng lực đọc siêu phàm, chút sáng tạo khác thường, và vài ký ức xa xưa để lấp đầy vào những khoảng trống đó có thể cho các sinh vật này thông tin mà chúng ta muốn họ có được.” “Thông tin mà các muốn họ có!” Tôi nhớ đến lời hứa của mình với Agatha Wilson, và cao giọng. “ cũng tồi tệ như Knox. muốn Ashmole 782 để thỏa mãn tò mò của bản thân mình.” Hai bàn tay tôi ngứa ngáy khó chịu khi tôi chộp lấy đồ đạc của mình. “Bình tĩnh lại .” Có nét sắc cạnh trong giọng mà tôi thích. “Thôi việc bảo em phải làm gì !” Cảm giác ngứa ngáy trở nên dữ dội hơn. Các ngón tay tôi chuyển sang màu xanh dương sáng chói và bắt đầu xì ra những tia lửa vòng cung kêu xèo xèo như nến pháo. Tôi thả rơi cái laptop và giơ hai bàn tay lên. Matthew đáng lẽ ra phải kinh hãi, nhưng thay vào đó trông có vẻ tò mò thích thú. “Cái đó có thường xảy ra ?” Giọng thận trọng sắc thái. “Ồ, .” Tôi chạy vào bếp, để lại những vệt lấp lánh dài Matthew ấn tôi vào cửa. “ phải nước,” gọn lỏn. “Chúng có mùi điện tích.” À. Điều đó giải thích cho lần cuối tôi làm cháy cả căn bếp. Tôi đứng nín lặng, giơ hai bàn tay lên giữa hai chúng tôi. Cả hai quan sát vài phút cho đến khi màu xanh dương biến mất khỏi các đầu ngón tay tôi và những tia sáng lấp lánh tắt hoàn toàn, để lại mùi khét lẹt đặc trưng của dây điện hỏng. Khi đợt pháo hoa kết thúc, Matthew uể oải tựa vào khung cửa nhà bếp với vẻ thờ ơ của nhà quý tộc thời Phục Hưng đợi người ta vẽ chân dung cho mình. “Tốt rồi,” , nhìn tôi bằng vẻ điềm tĩnh của con đại bàng sẵn sàng vồ lấy con mồi của mình, “cái đó thú vị. Em có thường như thế mỗi khi nổi giận ?” “Em nổi giận!” tôi đáp, quay ngoắt khỏi . Bàn tay phóng ra và xoay tôi trở lại đối diện với . “Em thoát khỏi chuyện này dễ dàng đâu.” Giọng Matthew nhàng, nhưng sắc cạnh trở lại. “Em nổi giận. vừa mới thấy. Và em để lại ít nhất cái lỗ thảm nhà để chứng minh điều đó.” “Hãy thả em ra!” Miệng tôi vặn vẹo thành cái vẻ mà dì Sarah vẫn gọi là “vẻ bẳn tính” của tôi. Nó đủ khiến cho các sinh viên của tôi phải run lên. Ngay lúc này đây tôi hy vọng nó khiến Matthew co rúm lại thành quả bóng và lăn . Ít nhất là tôi muốn ấy thả cánh tay mình ra để tôi có thể thoát khỏi chỗ đó. “ cảnh cáo em. Tình bạn với ma cà rồng phức tạp lắm. thể để em bây giờ cho dù có muốn nữa.” Tôi cố ý di chuyển ánh mắt xuống bàn tay . Matthew bỏ tay ra kèm theo cái khịt mũi nóng nảy, và tôi quay ra nhặt lấy túi xách của mình. Bạn nên quay lưng vào chàng ma cà rồng nếu bạn cãi vã. Hai cánh tay Matthew phóng tới ôm quanh tôi từ phía đằng sau, ấn lưng tôi vào sát lồng ngực chặt đến nỗi tôi có thể cảm thấy được từng thớ thịt cuồn cuộn. “Bây giờ,” vào tai tôi, “chúng ta chuyện như những sinh vật văn minh về những gì diễn ra. Em chạy trốn khỏi đây - khỏi được đâu.” “Thả em ra, Matthew!” Tôi vùng vẫy trong hai cánh tay . “.” Khi tôi cầu người đàn ông phải ngừng làm điều gì đó, người nào từng từ chối - dù là ta hỉ mũi trong thư viện hay cố lần tay lên áo tôi sau bộ phim. Tôi lại vùng vẫy. Hai cánh tay Matthew càng siết chặt hơn. “Ngừng chống trả .” cất tiếng thích thú. “Em mệt trước lâu đấy, đảm bảo với em thế.” Trong lớp học tự vệ phụ nữ, họ dạy tôi phải làm gì nếu bị tóm từ phía sau. Tôi nâng bàn chân dậm mạnh lên chân . Matthew di chuyển chân tránh khỏi tầm nhắm, nên cú đạp mạnh của tôi nện thẳng xuống sàn. “Chúng mình có thể làm thế cả buổi chiều nếu em muốn,” thầm. “Nhưng thành khuyên nên làm thế đâu. Phản xạ của nhanh hơn em nhiều lắm.” “Thả em ra và chúng ta có thể chuyện,” tôi qua hai hàm răng nghiến chặt. Matthew khẽ cười, hơi thở kích thích của mơn man lên vùng da trần sau gáy tôi. “Đó phải là nỗ lực xứng đáng để thương lượng đâu, Diana. , chúng ta chuyện như thế này. muốn biết các ngón tay của em có thường xuyên chuyển sang màu xanh dương .” “ thường xuyên.” Huấn luyện viên khuyên tôi nên thư giãn nếu bị tóm từ phía sau và trượt ra khỏi hai cánh tay của kẻ tấn công. Nhưng cái ôm xiết của Matthew chỉ thêm chặt. “Vài lần, khi còn , em đốt mấy thứ - tủ bếp, nhưng có lẽ bởi vì em cố cho tay vào bồn rửa và ngọn lửa càng trở nên tệ hơn. Rèm phòng ngủ, hay hai lần gì đó. cái cây bên ngoài nhà - nhưng nó chỉ là cái cây thôi.” “Còn sau này?” “Nó xảy ra tuần trước, khi Miriam làm em nổi giận.” “ ta làm thế nào?” hỏi, tựa má vào phía sau đầu tôi. Cảm giác dễ chịu, nếu tôi bỏ qua thực tế là khóa chặt lấy tôi bất chấp mong muốn của tôi. “ ấy bảo em là em cần phải học cách tự chăm sóc bản thân mình và thôi dựa dẫm vào bảo vệ của . ấy buộc tội em chơi trò người đàn bà gặp nạn.” Chỉ ý nghĩ đó thôi khiến máu tôi sôi lên và các ngón tay tôi lại bắt đầu ngứa ngáy. “Em là rất nhiều thứ, Diana ạ, nhưng người đàn bà mắc nạn phải. Em có phản ứng này hai lần trong chưa đầy tuần.” Giọng Matthew nghe trầm ngâm. “Thú vị đấy.” “Em nghĩ thế.” “Ừ, biết là em nghĩ thế,” , “nhưng nó cũng thú vị mà. Giờ chúng mình hãy chuyển sang chủ đề khác.” Miệng lướt xuống tai tôi, và tôi cố gắng tránh mà được. “Chuyện phi lý quan tâm đến bất cứ thứ gì ngoại trừ cuốn cổ thư là thế nào vậy hả?” Tôi đỏ mặt. Điều này xấu hổ. “Dì Sarah và Em chỉ dành thời gian ở bên em vì muốn thứ gì đó. Em cho rằng đó là Ashmole782.” “Nhưng đó phải , đúng ?” , lướt đôi môi và kề má nhàng vào tóc tôi. Máu trong người tôi bắt đầu ngân nga đáp lại. Thậm chí tôi còn có thể nghe thấy tiếng ngân ấy. Matthew lại bật cười, lần này với vẻ thỏa mãn. “ nghĩ là em tin. Chỉ muốn biết chắc chắn thôi.” Cơ thể tôi thư giãn thanh thản trong vòng tay . “Matthew...” tôi bắt đầu. “ thả em ra,” , cắt ngang lời tôi. “Nhưng đừng có nhảy bổ tới cửa đấy, hiểu ?” lần nữa chúng tôi là con mồi và dã thú. Nếu tôi chạy, bản năng của mách bảo phải đuổi bắt. Tôi gật đầu, và nới lỏng hai cánh tay khỏi người tôi, để lại cho tôi cảm giác chống chếnh kỳ lạ. “ làm gì với em đây?” Matthew đứng đó, hai tay chống nạnh, nụ cười nửa miệng gương mặt. “Em là sinh vật làm cáu tiết nhất mà từng gặp đấy.” “ có ai biết được phải làm gì với em đâu.” “Điều đó tin.” ngắm nghía tôi lúc. “Chúng mình đến Woodstock.” “! Em tuyệt đối an toàn ở trong trường.” Matthew cảnh cáo tôi về các ma cà rồng và bảo vệ che chở. đúng - tôi thích điều đó tẹo nào. “Em an toàn,” với cơn giận lóe lên trong mắt. “Có kẻ nào đó cố đột nhập vào căn hộ của em rồi đấy.” “Cái gì cơ?” tôi thất kinh. “Cái ổ khóa lỏng, nhớ ?” Thực có những vết xước mới ổ khóa đó. Nhưng tôi quyết định rằng Matthew cần biết về chuyện này. “Em ở lại Woodstock cho tới khi Peter Knox rời khỏi Oxford.” Nét mặt của tôi hẳn lộ hoang mang. “ quá tệ đâu,” dịu dàng . “Em có mọi buổi tập yoga mà em muốn.” Với Matthew trong dáng vẻ chàng vệ sĩ thế này, tôi chẳng có nhiều lựa chọn. Và nếu ấy đúng - điều này nghĩa là đúng - có ai đó lẻn qua Fred và vào được căn hộ của tôi. “ nào,” , cầm cái túi laptop của tôi lên. “ đưa em về New College và đợi trong khi em lấy đồ đạc. Nhưng cuộc chuyện này về mối liên hệ giữa Ashmole 782 và những ngón màu xanh da trời của em chưa kết thúc đâu,” tiếp, buộc tôi phải nhìn vào mắt . “Nó mới chỉ bắt đầu thôi.” Chúng tôi xuống bãi đỗ xe của các ủy viên, và Matthew lấy chiếc Jaguar ra khỏi chỗ đỗ rồi hướng về phía New College. Tới cổng chòi gác, tôi , “Em quay lại,” rồi quàng cái túi laptop qua vai khi thả tôi xuống xe. “Tiến sĩ Bishop, có thư,” Fred gọi với ra từ chòi gác. Tôi thu nhặt các thứ trong ngăn đựng thư của mình, đầu ong ong vì căng thẳng và lo lắng. Tôi vẫy tập thư về phía Matthew trước khi hướng lên căn hộ của mình. Vào trong phòng, tôi đá văng đôi giầy ra, day day hai bên thái dương, và nhìn liếc qua cái máy nhận tin nhắn. Ơn trời, nó nhấp nháy. Thư từ có gì ngoài những tờ hóa đơn và cái phong bì lớn màu nâu đánh máy tên tôi đó. có tem, chắc nó được gửi đến từ ai đó ở trong trường. Tôi lướt ngón tay vào và lôi ruột bên trong ra. mẩu giấy bình thường được kẹp cùng thứ gì đó trơn nhẵn và sáng bóng. Mẩu giấy có đánh máy dòng chữ duy nhất. “Nhớ ?” Hai tay run bắn, tôi đánh rơi mảnh giấy. Tờ giấy chao nghiêng rơi xuống sàn, để lộ ra bức ảnh bóng loáng quen thuộc. Tôi chỉ mới thấy nó được in lại bằng màu đen trắng các tờ báo. Bức này có màu, và nó sáng láng sống động như vào cái ngày nó được chụp, năm 1983. Thân hình mẹ tôi nằm úp mặt trong vòng tròn bằng phấn, chân trái cùa bà ở vào góc độ thể có. Cánh tay phải của bà với về phía bố tôi, ông nằm ngửa sàn, đầu bị đánh bẹp bên và vết thương dài sâu tách đôi phần thân từ cổ họng xuống đến háng. Ruột của ông bị lôi ra ngoài, nằm bên cạnh ông mặt đất. tiếng kêu nửa rên rỉ nửa gào thét phát ra từ miệng tôi. Tôi sụp xuống sàn nhà, run lẩy bẩy nhưng thể rời mắt khỏi tấm hình. “Diana!” Tiếng Matthew nghe điên cuồng, nhưng ở quá xa để có thể chăm sóc tôi. Trong khoảng cách ấy có ai đó lắc nắm đấm cửa. Tiếng bàn chân vang lên nơi cầu thang, chiếc chìa khóa cào vào ổ khóa. Cánh cửa ra vào bật mở, và tôi ngước lên nhìn vào gương mặt tái mét của Matthew, cùng với vẻ mặt lo lắng của Fred. “Tiến sĩ Bishop?” Fred hỏi. Matthew di chuyển nhanh đến mức Fred chắc chắn phải biết là ma cà rồng. cúi xuống trước mặt tôi. Răng tôi đánh lập cập cùng với cơn sốc. “Nếu tôi đưa ông chìa khóa, ông có thể đưa chiếc xe tới All Souls hộ tôi ?” Matthew hỏi với qua vai. “Tiến sĩ Bishop được khỏe, và ấy nên ở mình.” “Đừng lo, giáo sư Clairmont. Chúng tôi giữ nó ở đây trong khu đất của ông hiệu trưởng,” Fred đáp. Matthew ném chùm khóa cho người gác cổng, và Fred bắt gọn cả chùm. Liếc nhanh về phía tôi vẻ lo lắng, ông đóng cửa lại. “Em nôn mất,” tôi thều thào. Matthew kéo tôi đứng lên và dắt tôi vào phòng tắm. Sụp người cạnh bồn cầu, tôi nôn ọe, thả rơi bức hình xuống sàn để tóm chặt lấy hai bên thành bồn. Khi dạ dày trống rỗng, phần tệ hại nhất của cơn chấn động lắng xuống, nhưng cứ vài giây cơn run rẩy lại lan ra khắp người tôi. Tôi khép mi mắt và với lên để xả nước, người chúi xuống bồn cầu. Đầu tôi quay cuồng. Matthew kịp túm lấy tôi trước khi tôi bị đập vào tường phòng tắm. Đột ngột tôi thấy chân mình còn ở mặt đất nữa. Lồng ngực của Matthew áp sát vào bờ vai bên phải của tôi và cánh tay đỡ dưới hai đầu gối tôi. Thoáng chốc sau nhàng đặt tôi lên giường và bật đèn sáng, xua bóng tối . Cổ tay tôi nằm trong những ngón tay mát lạnh của , và với tiếp xúc của , mạch đập của tôi bắt đầu chậm lại dần. Điều đó khiến tôi có thể tập trung vào gương mặt . Nó trông bình tĩnh hơn bao giờ hết, ngoại trừ mạch máu màu đen xíu trán đập khoảng mỗi phút lần. “ lấy cho em thứ gì để uống.” thả cổ tay tôi ra và đứng dậy. đợt sóng hoảng sợ khác lại ập lên người tôi. Tôi vùng đứng lên, tất cả bản năng mách bảo tôi chạy càng xa càng nhanh càng tốt. Matthew tóm lấy hai vai tôi, cố gắng tạo liên hệ bằng ánh mắt. “Dừng lại, Diana.” Dạ dày tôi xâm lấn cả hai lá phổi, ép ra tất cả khí, và tôi vùng vẫy chống lại cái siết chặt của , chẳng thèm biết hay quan tâm gì. “Để em !” tôi cầu xin, dùng cả hai tay đẩy vào ngực . “Diana, nhìn này.” Giọng Matthew còn thờ ơ, và ánh mắt cũng còn lạnh như ánh trăng nữa. “Có chuyện gì ổn à?” “Bố mẹ em. Gillian với em là các phù thủy giết bố mẹ em.” Giọng tôi gấp gáp và run rẩy. Matthew điều gì dó bằng ngôn ngữ tôi hiểu được. “Chuyện xảy ra khi nào? Họ ở đâu? Ả phù thủy ấy để lại tin nhắn điện thoại của em à? ta đe dọa em à?” Cái nắm tay của mạnh thêm lên. “Nigeria. ta những người nhà Bishop luôn luôn rắc rối.” “ cùng em. Hãy để gọi vài cuộc điện thoại trướcđã.” Matthew hít vào hơi thở sâu rúng động cả người. “Anhrất tiếc, Diana.” “ đâu cơ?” Chẳng gì có ý nghĩa cả. “Tới Châu Phi.” Matthew nghe có vẻ lúng túng. “Ai đó phải nhận diện các thi thể.” “Bố mẹ em bị giết khi em bảy tuổi mà.” Mắt mở lớn vẻ bàng hoàng. “Mặc dù nó xảy ra cách đây lâu rồi, nhưng bọn họ, tất cả các phù thủy, đều muốn về chuyện đó những ngày này - Gillian, Peter Knox.” Run lẩy bẩy khi cơn hoảng loạn leo thang, tôi cảm thấy tiếng gào thét dâng lên nơi cổ họng mình. Matthew ép chặt tôi vào người trước khi tiếng thét ấy phun trào, giữ lấy tôi chặt đến nỗi đường nét cơ bắp và xương của làm da tôi buốt nhói. Tiếng thét chuyển thành tiếng nức nở. “Những điều tồi tệ xảy đến với những phù thủy giữ các bí mật. Gillian vậy.” “Cho dù ta gì, để Knox hay bất cứ phù thủy nào làm hại em. Bây giờ có em rồi.” Giọng Matthew dữ dội, cúi đầu và tựa má lên tóc tôi trong khi tôi khóc. “Ôi, Diana. Tại sao em kể với ?” Nơi nào đó ở trung tâm linh hồn tôi, sợi xích han gỉ bắt đầu tháo ra. Nó tự giải phóng chính mình, từng mắt từng mắt xích , từ nơi yên nghỉ ai thấy được, nó chờ đợi . Hai bàn tay tôi, nắm chặt thành nắm đấm ấn vào ngực , cũng mở ra cùng với nó. Sợi xích tiếp tục rơi, tới nơi sâu thẳm khôn cùng, nơi chẳng có gì khác ngoài bóng tối và Matthew. Cuối cùng nó bật ra với tất cả độ dài của nó, néo chặt tôi vào chàng ma cà rồng. Bất chấp cuốn cổ thư, bất chấp thực là đôi bàn tay tôi chứa đủ điện áp để làm chạy cả cái lò vi sóng, và bất chấp cả bức ảnh kia, chừng nào tôi còn được kết nối với chừng đó tôi vẫn an toàn. Khi những tiếng nức nở của tôi lắng xuống, Matthew lùi lại. “ lấy cho em ít nước, và sau đó em nằm nghỉ.” sắc trong giọng chào mời cuộc tranh cãi, và quay lại chỉ trong vài giây mang theo ly nước cùng hai viên thuốc xíu. “Uống cái này ,” , đưa chúng cho tôi. “Thuốc gì thế?” “Thuốc an thần.” Cái nhìn nghiêm khắc của khuyến khích tôi cho cả hai viên thuốc vào miệng, ngay lập tức, kèm theo ngụm nước. “ luôn mang theo chúng từ khi em bảo với là em phải chịu đựng những cơn hoảng loạn.” “Em ghét uống thuốc an thần.” “Em bị sốc, và em có quá nhiều adrenaline trong hệ tuần hoàn. Em cần nghỉ ngơi.” Matthew kéo cái chăn lông vịt cuốn quanh người tôi cho tới khi tôi như bị bọc trong tảng kén. ngồi hẳn lên giường, hai chiếc giầy của nện xuống sàn trước khi duỗi thẳng chân, lưng tựa vào mấy cái gối. Khi kéo thân mình được bọc kín trong chiếc chăn lông vịt của tôi ép sát vào người , tôi thở dài mệt mỏi. Tay trái ôm ngang qua giữ lấy tôi cách chắc chắn. Cả người tôi, cùng tất cả những thứ bao bọc nó, vừa khít với cách hoàn hảo. Thuốc bắt đầu tác dụng vào hệ tuần hoàn của tôi. Khi tôi lơ mơ ngủ điện thoại của Matthew rung lên trong túi quần của , làm tôi giật mình. “ có gì đâu, có lẽ là Marcus đấy,” , áp môi lên trán tôi. Nhịp tim tôi đập đều đều. “Cố nghỉ ngơi . Em còn mình nữa.” Tôi vẫn có thể cảm thấy sợi xích neo giữ tôi vào với Matthew, neo giữ phù thủy với ma cà rồng. Cùng với những mắt xích của nó xiết chặt lại và tỏa sáng, tôi ngủ thiếp .
Chương 16 Bầu trời tối đen bên ngoài cửa sổ phòng Diana trước khi Matthew có thể để nằm đó. Ban đầu chợp mắt được, nhưng cuối cùng ấy chìm vào giấc ngủ sâu. ghi nhớ những thay đổi tinh vi của mùi hương khi cơn sốc của Diana lắng dịu dần, dữ tợn lạnh lùng quét qua mỗi lần nghĩ tới Peter Knox và Gillian Chamberlain. Matthew thể nhớ được khi nào từng cảm thấy khao khát che chở bảo vệ nhường ấy đối với sinh vật khác. đồng thời cũng cảm nhận được nhiều xúc cảm khác mà thấy miễn cưỡng phải công nhận hay đặt tên cho chúng. ấy là phù thủy, tự nhắc nhở mình khi ngắm nhìn say ngủ. ấy dành cho ngươi đâu. Càng tự nhủ thầm, lại càng thấy điều đó chẳng có mấy ý nghĩa. Cuối cùng nhàng rút người và rón rén ra khỏi phòng, để hé cửa phòng khi cựa mình. Còn mình trong tiền sảnh, chàng ma cà rồng trút ra cơn giận dữ lạnh lùng vẫn ỉ sôi sục trong mấy tiếng đồng hồ qua. dữ dội của nó gần như làm nghẹt thở. kéo sợi dây da từ cổ áo ra và chạm vào bề mặt trơn nhẵn, cũ mòn của cái quan tài bạc Lazarus. Tiếng thở đều đều của Diana là tất cả những gì giữ cho khỏi lao vào đêm tối săn lùng hai phù thủy kia. Những chiếc đồng hồ của Oxford điểm tám giờ, tiếng chuông buồn chán quen thuộc của chúng nhắc Matthew nhớ tới cuộc gọianh để lỡ. lôi chiếc điện thoại ra khỏi túi và kiểm tra tinnhắn, ngón cái lật giở nhanh qua mục khai báo tự động đến từ hệthống an ninh của các phòng thí nghiệm và Chòi Gác Cổ. Có mấy tin nhắn từ Marcus. Matthew cau mày. Marcus có thiên hướng báo độngkiểu này. Cái gì có thể khẩn cấp đến thế nhỉ? “Matthew.” Giọng quen thuộc ấy còn chút nào sức mê hoặc khôi hài thường lệ. “Con có kết quả kiểm tra DNA của Diana rồi. Chúng ... đáng kinh ngạc. Hãy gọi cho con.” Giọng ghi vẫn trong khi ngón tay Matthew bấm phím khác điện thoại. bới tung mái tóc bằng bàn tay rảnh trong khi chờ Marcus nhấc máy. Chỉ mất có duy nhất hồi chuông. “Matthew.” có chút ấm áp nào trong câu trả lời của Marcus, chỉ có cảm giác nhõm. mấy tiếng đồng hồ từ lúc Matthew bỏ qua các tin nhắn. Marcus thậm chí kiểm tra cả những nơi ở Oxford mà Matthew thích đến, viện bảo tàng Pitt Rivers, nơi người ta thường thấy vị giáo sư này phân đôi chú tâm vào cả bộ xương hóa thạch của con thằn lằn sấm lẫn bức chân dung của Darwin. Cuối cùng Miriam tống khứ chàng ra khỏi phòng thí nghiệm, vì cáu tiết với những câu hỏi liên tu bất tận của ta về nơi Matthew có thể ở và cùng với ai. “ ta ở bên cạnh nàng, dĩ nhiên là thế rồi,” Miriam thế vào xế chiều, giọng ta đầy vẻ chê trách. “Còn nơi nào khác nữa? Và nếu còn việc gì để làm về nhà và đợi điện thoại của ta ở đó . cản trở tôi đấy.” “Các kiểm tra cho thấy điều gì?” Giọng Matthew trầm trầm, nhưng cơn thịnh nộ của có thể nghe thấy . “Có chuyện gì xảy ra thế?” Marcus hỏi nhanh. Bức ảnh nằm lật ngửa sàn phòng tắm thu hút chú ý của Matthew. Diana giữ chặt lấy nó vào buổi chiểu. Mắt nheo lại thành hai khe hẹp khi nhìn vào hình ảnh đó. “Con ở đâu?” cất tiếng bực bội. “Nhà,” giọng Marcus bứt rứt yên. Matthew nhặt bức ảnh lên khỏi sàn và lẩn theo mùi của nó tới chỗ mẩu giấy trượt xuống dưới gầm chiếc trường kỷ. đọc từ duy nhất của tin nhắn, hít vào hơi sắc lạnh. “Mang các báo cáo và hộ chiếu của ta tới New College. Phòng của Diana ở trong khuôn viên, nóc tòa bảy tầng ấy.” Hai mươi phút sau Matthew mở cửa, mái tóc dựng đứng lên và vẻ tàn bạo nét mặt . Chàng ma cà rồng trẻ tuổi phải tự rèn luyện bản thân để bước giật lùi lại. Marcus đưa ra cặp tài liệu làm từ giấy Manilla cùng với cuốn hộ chiếu màu nâu sẫm cuộn bên ngoài, mọi cử động đều nhàng khoan thai, và kiên nhẫn chờ đợi. chàng định bước vào căn hộ của phù thủy mà được cho phép của Matthew, nhất là khi Matthew trong tâm trạng thế này. cho phép từ từ rồi cũng đến, cuối cùng Matthew cũng cầm lấy tập giấy tờ và bước sang bên để Marcus vào. Trong khi Matthew xem xét kỹ càng các kết quả kiểm tra của Diana, Marcus tỉ mỉ quan sát . Cái mũi thính của cậu bắt được mùi gỗ cũ kỹ và mùi vải cũ kỹ, hòa cùng với mùi nỗi sợ hãi của phù thủy và những xúc cảm được kiểm soát vừa đủ của Matthew. Lông cổ của cậu dựng đứng trước hợp nhất của những cảm xúc mong manh bất ổn đó, và tiếng gầm gừ bất giác mắc lại trong cổ họng. Nhiều năm qua, Marcus hiểu giá trị những phẩm chất cao thượng của Matthew – lòng trắc , lương tâm và nhẫn nại của đối với những điều quý. Matthew cũng biết những khuyết điểm của mình, giận dữ thống trị quanh họ. Đặc biệt, mỗi lúc cơn thịnh nộ của có sức hủy diệt quá mức khi chất độc tràn ra khắp hệ thần kinh lại biến mất hàng tháng trời, thậm chí là hàng năm trời để học cách chấp nhận với những gì gây ra. Và Marcus chưa bao giờ thấy người cha của mình giận dữ cách lạnh lùng tàn nhẫn như lúc này. Matthew Clairmont bước vào cuộc đời Marcus năm 1777 và làm thay đổi nó mãi mãi. xuất trong nông trang gia đình Bennett ở phía mặt nhà bị đạn pháo bắn phá chằng chịt, mang theo vị Hầu tước Lafayette bị thương từ chiến trường giết chóc của trận đánh Brandwine[18]. Matthew cao lớn vượt lên như tòa tháp lừng lững giữa những người đàn ông khác, quát tháo ra lệnh với mọi người mà chẳng cần để ý đến cấp bậc. [18. Marie-Joseph Paul Yves Roch Gilbert du Motier (6/9/1757 - 20/5/1834), thường được gọi Hầu tước Lafayette, là quân nhân, nhà quý tộc người Pháp từng tham gia Cách mạng Hoa kỳ với hàm trung tướng và là chỉ huy lực lượng Vệ binh quốc gia trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Tới Hoa Kỳ năm 1777 khi nước Pháp còn chưa tham dự vào cuộc chiến, Lafayette phục vụ trong Quân đội Lục địa dưới quyền George Washington. Trận Brandywine, trận đánh đầu tiên Lafayette tham gia, tuy bị thương nhưng ông vẫn chỉ huy thành công cuộc rút quân.] ai bàn cãi trước những mệnh lệnh của – kể cả Lafayette, ông ta vẫn đùa cợt với người bạn cùng bất chấp thương tích của mình. Tuy nhiên, khiếu hài hước của vị hầu tước này cũng thể cản được những lời trách mắng của Matthew. Khi Lafayette cự cãi rằng ông ta có thể xoay sở được trong khi còn nhiều binh sĩ thương tích nghiêm trọng hơn cần được chăm nom, Clairmont xổ ra tràng tiếng Pháp quá chuẩn, đế vào thêm mấy lời tục tĩu và những tối hậu thư khiến người của hầu tước cũng phải nhìn với vẻ kính sợ và ông ta nín lặng luôn. Marcus lắng nghe, trợn tròn mắt khi người lính Pháp ấy mắng nhiếc cả người đứng đầu bộ phận chăm sóc y tế của quân đoàn, bác sĩ Shippen đáng kính, bác bỏ kế hoạch điều trị của ông là “man rợ.” Thay vào đó Clairmont cầu vị bác sĩ thứ hai, John Cochran, nhận lệnh điều trị cho Lafayette. Hai ngày sau người ta nghe thấy Clairmont và Shippen tranh cãi về những điểm ưu việt hơn của giải phẫu học và sinh lý học bằng tiếng Latin trôi chảy – để giải khuây cho nhân viên y tế và tướng Washington. Matthew giết nhiều lính hơn cả phần được chia trước khi quân đội Đại lục bị đánh bại tại Brandywine. Những người đàn ông mang vào bệnh viện những câu chuyện bịa đặt quá đáng về can đảm của ta chiến trận. vài người còn tuyên bố ta thẳng vào phòng tuyến của quân địch mà hề nao núng trước súng đạn và những lưỡi lê. Khi tiếng súng ngưng, Clairmont khăng khăng đòi Marcus phải ở lại với vị hầu tước với tư cách là y tá chăm sóc của ông. Vào mùa Thu, khi Lafayette có thể cưỡi ngựa lại, hai người bọn họ biến mất vào những cánh rừng của Pennsylvania và New York. Họ quay trở lại với đội quân những chiến binh Oneida. Người Oneida gọi Lafayette là “Kayewla” vì tài điều khiển ngựa khéo léo của ông. Matthew họ xem như là “atlutanu’n,” người thống lãnh các chiến binh, bởi có khả năng dẫn dắt tài tình những người đàn ông vào chiến trận. Matthew lưu lại với đội quân khá lâu sau khi Lafayette trở về Pháp. Marcus cũng tiếp tục phục vụ với tư cách là trợ lý của bác sĩ phẫu thuật tầm tầm. Ngày qua ngày cậu cố gắng cầm máu vết thương cho binh lính bị thương bởi súng hỏa mai, đại bác và gươm. Matthew luôn tìm Marcus mỗi khi trong những chàng trai của bị thương. Marcus có tài năng trời phú cho việc chữa lành các vết thương. Chẳng bao lâu sau khi quân độị Đại lục đến Yorktown vào năm 1781, Marcus bị cơn sốt. Tài năng chữa lành bệnh trời phú của cậu chẳng có ý nghĩa gì nữa. Cậu nằm chỗ, lạnh cóng và run bần bật, chỉ được chăm sóc khi ai đó có thời gian. Sau bốn ngày chịu đựng, Marcus biết mình chết dần. Khi Matthew đến thăm người lính của , lần nữa lại cùng với Lafayette, trông thấy Marcus nằm cái võng hỏng ở góc phòng và có mùi của cái chết. Chàng sĩ quan Pháp ngồi bên cạnh chàng trai trẻ khi đêm tối chuyển dần sang ngày và chia sẻ câu chuyện của mình. Marcus nghĩ ràng mình mơ. người đàn ông uống máu và thể chết ư? Sau khi nghe điều đó, Marcus bắt đầu tin rằng cậu vừa chết và bị hành hạ bởi trong những con ác quỷ mà cha cậu cảnh báo là nó săn đuổi phần tội lỗi trong con người cậu. Chàng ma cà rồng phải giải thích rằng Marcus có thể sống sót khỏi cơn sốt, nhưng có cái giá của nó. Đầu tiên cậu phải tái sinh. Sau đó cậu phải săn, giết và uống máu – thậm chí cả máu người. Trong thời gian, nhu cầu của cậu đối với máu có tác dụng với các vết thương và bệnh tật. Matthew hứa gửi Marcus tới trường đại học khi cậu quen với cuộc sống mới. Ngay trước lúc rạng đông, khi cơn đau bắt đầu trở nên nhức nhối, Marcus quyết định muốn sống hơn cả nỗi sợ hãi trước cuộc sống mới mà ma cà rồng này vừa bày ra. Matthew mang cậu ra khỏi bệnh viện và vào rừng, khi đó cậu yếu đến mức thập tử nhất sinh và hừng hực sốt. Họ tới chỗ những người Oneida đợi sẵn để dẫn cả hai vào trong núi. Matthew uống cạn máu cậu trong thung lũng hoàn toàn cách biệt, nơi ai có thể nghe thấy những tiếng kêu gào của chàng trai. Thậm chí bây giờ Marcus vẫn nhớ cơn khát mãnh liệt theo sau đó. Cậu phát điên lên với nó, thèm khát được nuốt bất cứ thứ gì lạnh giá và là chất lỏng. Cuối cùng Matthew dùng răng xé rách cổ tay và để Marcus uống. Dòng máu đẩy sức mạnh của ma cà rồng mang cậu trở lại cuộc sống đầy kinh ngạc. Người Oneida bình thản chờ đợi ở miệng hang và ngăn cho Marcus ra tay tàn phá những nông trại gần đó khi cơn đói máu nổi lên. Họ nhận ra Matthew là ai ngay giây phút xuất ở làng của họ. giống Dagwanoenyent, vị phù thủy sống trong gió xoáy và thể chết. Tại sao các vị thần quyết định trao tặng chiến binh người Pháp kia những món quà này đó là điểu bí đối với người Oneida, nhưng người ta vẫn biết thần linh luôn có những quyết định khó hiểu. Tất cả những gì họ có thể làm là đảm bảo chắc chắn con cháu mình biết về truyền thuyết Dagwanoenyent, cẩn thận hướng dẫn chúng làm thế nào giết chết được những sinh vật như người chiến binh này bằng cách thiêu cháy, nghiền xương thành bột và rải rắc vào trong bốn ngọn gió để chúng thể hồi sinh được nữa. Trái lại, Marcus lại hành xử như đứa trẻ, cậu gào hú với cảm giác thất vọng và nhu cầu đòi hỏi. Khi Matthew săn về con hươu để nuôi chàng ma cà rồng trẻ, giờ được tái sinh như là con trai của , Marcus nhanh chóng hút cạn máu nó. Nó thỏa mãn cơn đói của cậu nhưng làm mờ tiếng đập đều đều trong huyết mạch khi dòng máu cổ xưa của Matthew tràn ngập khắp cơ thể cậu. Sau tuần mang con mồi mới giết còn tươi về hang, Matthew quyết định rằng Marcus sẵn sàng để tự săn mồi cho mình. Cha và con trai lần theo dấu vết của hươu nai và gấu xuyên qua những cánh rừng sâu và dọc theo những đỉnh núi dài đầy ánh trăng để cảm nhận thay đổi trong gió mang đến mùi hương tươi mới về đường của chúng. Và dạy chàng trai chuyên chữa lành các vết thương cách giết con mồi. Trong những ngày đầu ấy, Marcus muốn máu dồi dào hơn. Cậu cũng cần nó để dập tắt cơn khát vô cùng của mình và nuôi cơ thể đói cồn cào của mình. Nhưng Matthew đợi cho tới khi Marcus có thể nhanh chóng lần theo dấu vết của con hươu, hạ nó, và hút cạn máu nó là gây ra lộn xộn nào mới để cho cậu săn con người. Phụ nữ bị cấm được động tới. Điều này quá khó hiểu đối với những ma cà rồng mới sinh, Matthew giải thích, khi mà ranh giới giữa tình dục và cái chết, giữa ve vãn và việc săn mồi - quá đẹp đẽ và cám dỗ. Ban đầu hai cha con ăn những lính ốm bệnh. vài người cầu xin Marcus tha mạng cho họ, và Matthew dạy cậu làm cách nào để uống máu những động vật máu nóng mà giết chết họ. Sau đó họ săn bọn tội phạm, những kẻ này khóc lóc van xin lòng nhân từ nhưng xứng đáng với điều đó. Trong mỗi trường hợp cụ thể Matthew lại giải thích cho Marcus hiểu tại sao cậu lại chọn người đó làm con mồi. Đạo đức của Marcus phát triển lên cùng với những lần cân nhắc thận trọng mà họ phải có khi ma cà rồng chấp nhận với những điều ta cần làm để sinh tồn. Matthew nổi tiếng bởi ý thức về cái đúng và cái sai của phát triển đến mức cao thượng, tinh tế. Những phán quyết của chỉ sai lầm khi chúng được đưa ra trong cơn giận dữ. Marcus được kể cho nghe rằng cha hề có xu hướng với thứ cảm xúc nguy hiểm đó trong quá khứ. Có lẽ là vậy, nhưng tối nay ở Oxford, gương mặt Matthew mang cùng biểu cảm giết chóc như hồi ở Brandywine - mà chẳng hề có bãi chiến trường nào để trút bỏ cơn thịnh nộ của . “Con nhầm lẫn rồi.” Mắt Matthew dại khi châm chú nghiền ngẫm các kết quả kiểm tra DNA của Diana. Marcus lắc đầu. “Con phân tích máu của ấy hai lần rồi. Miriam xác nhận những gì tìm thấy được với DNA lấy từ miếng gạc. Con công nhận là các kết quả đáng kinh ngạc.” Matthew hít vào hơi thở run run. “Chúng vô lý hết sức.” “Diana sở hữu gần như mọi gen trội mà chúng ta chưa bao giờ thấy ở phù thủy.” Miệng mím chặt thành đường thẳng dữ tợn khi lật giở đến những trang cuối cùng. “Nhưng các chuỗi này khiến chúng ta lo ngại.” Matthew lướt nhanh qua các dữ liệu. Có hơn hai mươi tư chuỗi DNA, vài cái ngắn và vài cái dài, cùng với những dấu hỏi màu dỏ xíu của Miriam đánh ở bên cạnh. “Chúa ơi,” kêu lên, ném tập tài liệu trả lại chỗ cậu con trai. “Chúng ta vừa mới có đủ chuyện để lo lắng rồi. Gã khốn nạn Peter Knox đó đe dọa ấy. muốn cuốn cổ thư. Diana cố thử gọi nó lại, nhưng Ashmole 782 trở về thư viện và xuất lần nữa. Đáng mừng là Knox bị thuyết phục - vào lúc này - rằng lần đầu ấy có được cuốn sách là bởi cố ý phá vỡ bùa chú của nó.” “ ấy ư?” “. Diana nhận thức hay kiểm soát được bất cứ điều gì phức tạp rắc rối như thế. Sức mạnh của ấy hoàn toàn được rèn luyện. ấy để lại cái lỗ tấm thảm của ta.” Matthew trông chua chát, và cậu con trai phải cố nén để cười. Cha cậu những món đồ cổ của mình. “Thế chúng ta giữ Knox tránh xa ấy và cho Diana cơ hội làm quen với năng lực của bản thân. Điều đó nghe có vẻ quá khó.” “Knox phải là mối bận tâm duy nhất của ta. Diana nhận được những thứ này trong thư đến hôm nay.” Matthew cầm bức ảnh lên cùng cả mảnh giấy đính kèm với nó và đưa cho con trai. Khi tiếp tục, giọng trở nên dứt khoát, nguy hiểm. “Bố mẹ của ấy. Ta nhớ là nghe về hai phù thủy người Mỹ bị giết ở Nigeria, nhưng lâu rồi. Ta chưa bao giờ liên kết họ với Diana cả.” “Chúa linh thiêng,” Marcus khẽ thốt lên. Nhìn chằm chằm vào bức hình, cậu cố tưởng tượng thế nào nếu nhận được bức hình về người bố của mình bị xé toạc thành nhiều mảnh và ném dưới bụi bẩn cho đến chết. “Còn nữa. Từ những gì ta có thể ghép nối lại với nhau, từ lâu Diana vẫn tin rằng bố mẹ mình bị con người giết hại. Đó là lý do chính yếu khiến ấy cố gắng tách phép thuật ra khỏi cuộc sống của mình.” “Điều đó hiệu quả, đúng ?” Marcus thầm nghĩ tới DNA của phù thủy. “Ừ,” Matthew đồng ý, nét mặt khắc nghiệt. “Trong khi ta ở Scotland, phù thủy người Mỹ khác, Gillian Chamberlain, cung cấp thông tin cho Diana biết rằng phải con người mà chính là các phù thủy đồng đạo giết bố mẹ ấy.” “Bọn họ ư?” “Ta chắc. Nhưng có điều tình huống này ràng hơn là việc phù thủy khám phá ra cuốn Ashmole 782.” Giọng Matthew chuyển sang vẻ chết chóc. “Ta tìm hiểu cho ra chuyện này.” Thứ gì đó màu bạc lóe sáng nơi chiếc áo len màu tối của cha cậu. Ông ấy mang chiếc quan tài của Lazarus, Marcus nhận ra. ai trong gia đình chuyện công khai về Eleanor St.Leger hay những kiện xung quanh cái chết của ấy, vì sợ khiến Matthew nổi cơn thịnh nộ. Năm 1140, khi Matthew ở Paris và vui vẻ nghiên cứu về triết học, Marcus hiểu rằng cha cậu muốn rời khỏi đó. Nhưng khi người đứng đầu gia tộc, cha của Matthew, Philippe, gọi trở lại Jerusalem để giúp giải quyết những cuộc xung đột vẫn tiếp diễn quấy phá Vùng Đất Thánh rất lâu sau khi hiệp ước Thập Tự Chinh của Thành phố thứ II được ký kết, Matthew tuân theo mà thắc mắc gì. gặp Eleanor, đối xử như bạn bè với gia tộc người đông đúc của , và kiên quyết . Nhưng gia tộc St.Leger và gia tộc De Clermont thường xuyên ở vào thế đối đầu, và những người em của Matthew – Hugh, Godfrey và Baldwin — cố thuyết phục đặt người phụ nữ đó qua bên để rảnh đường cho họ tiêu diệt gia tộc của . Matthew từ chối. hôm, cuộc cãi vã giữa Baldwin và Matthew về vài vấn đề chính trị có liên quan đến gia tộc St.Leger trở nên gay gắt và vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trước khi Philippe phát ra và ngăn chặn cuộc tranh cãi lại, Eleanor can thiệp vào. Đến khi Matthew và Baldwin tỉnh táo lại, mất quá nhiều máu thể hồi phục được nữa. Marcus vẫn hiểu tại sao Matthew lại để Eleanor chết nếu ấy nhiều đến thế. Giờ đây Matthew chỉ đeo chiếc bình thánh tích của khi e sợ giết hại ai đó hay khi nghĩ đến Eleanor St.Leger - hoặc cả hai điều ấy. “Bức ảnh đó là đe dọa - và phải là có hiệu quả. Hamish nghĩ tên tuổi của gia tộc Bishop khiến các phù thủy khác phải dè chừng hơn, nhưng ta sợ là ngược lại mới đúng. Cho dù tài năng thiên bẩm của ấy lớn lao đến thế nào, Diana cũng thể tự bảo vệ bản thân được, và cái tính độc lập quá mức chết tiệt ngăn ấy cầu được giúp đỡ. Ta cần con ở bên ấy vài giờ.” Matthew rời mắt khỏi bức hình của Rebecca Bishop và Stephen Proctor. “Ta tìm Gillian Chamberlain.” “Cha có chắc là Gillian gửi đến bức hình đó ?” Marcus lưu ý. “Có hai mùi hương khác nhau ở đó.” “Mùi kia thuộc về Peter Knox.” “Nhưng Peter Knox là thành viên của Đại Hội Đồng đấy!” hội đồng chín thành viên của tinh, phù thủy và ma cà rồng được thành lập từ thời Thập Tự Chinh - trong đó mỗi loài sinh vật khác người đều được an toàn bằng cách để ai thu hút chú ý của loài người. “Nếu cha có động thái nào về phía , đó bị coi như là hành động thách thức đối với uy quyền của họ. Cả gia tộc bị liên lụy. Cha nghiêm túc nghĩ đến việc đặt chúng ta vào nguy hiểm chỉ để trả thù phù thủy đấy chứ?” “Con nghi ngờ lòng trung thành cùa ta, đúng ?” Matthew gầm ghè. “, con nghi ngờ phán quyết của cha thôi,” Marcus kịch liệt , đối mặt với người cha mà hề sợ hãi. “Trò lãng mạn nực cười này là đủ tồi tệ rồi. Đại Hội Đồng vừa mới có lý do để chống lại cha. Xin đừng cho họ thêm lý do khác nữa.” Trong chuyến viếng thăm đầu tiên của Marcus tới Pháp, bà nội ma cà rồng của cậu giải thích rằng bây giờ cậu bị ràng buộc bởi hiệp ước ngăn cấm những mối quan hệ gần gũi giữa các loại sinh vật khác nhau, cũng như việc can thiệp vào tôn giáo và chính trị của loài người. Tất cả những ảnh hưởng tương tác khác với loài người - bao gồm cả chuyện tình ái - đều phải tránh nhưng được chấp nhận chừng nào chúng dẫn đến rắc rối. Marcus luôn thích dành thời gian ở bên các ma cà rồng khác, bởi vậy mà các điều khoản của hiệp ước này chẳng mấy quan trọng đối với cậu – cho tới lúc này đây. “ ai quan tâm đâu,” Matthew chống chế, đôi mắt màu xám lơ đãng hướng về phía cánh cửa phòng ngủ của Diana. “Chúa ơi, ấy hiểu về hiệp ước đó,” Marcus khinh khỉnh , “và cha cũng có ý định cho ấy biết. Cha biết là cha thể giữ mãi bí mật này với ấy được.” “Hội đồng bắt tuân theo lời hứa được lập ra từ gần nghìn năm trước trong thế giới khác trước rất nhiều như thế này đâu.” Ánh mắt Matthew bây giờ gắn chặt vào bức tranh in cổ hình nữ thần Diana giương cung nhắm vào người thợ săn chạy trốn xuyên qua cánh rừng. nhớ đến đoạn thơ trong cuốn sách được người bạn viết cách đây rất lâu – Bởi vì họ còn là những thợ săn, mà là kẻ bị săn – và rùng mình. “Hãy suy nghĩ trước khi cha làm điều này, Matthew ạ.” “Ta có quyết định của mình rồi.” tránh ánh mắt của cậu con trai. “Con canh chừng ấy trong khi ta và bảo đảm ấy ổn cả, được chứ?” Marcus gật đầu, thể từ chối sức cuốn hút nguyên sơ trong giọng của cha mình. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng Matthew, Marcus tới chỗ Diana. Cậu vén bên mi mắt của , rồi tới bên kia, và cầm cổ tay lên. Cậu khịt mũi, còn sợ hãi và cơn sốc bao quanh nữa. Cậu cũng nhận thấy chất thuốc vẫn luân chuyển qua các mạch máu của . Tốt, cậu nghĩ thầm. Ít nhất cha nhanh trí cho ta liều an thần. Marcus tiếp tục thăm dò tình trạng của Diana, quan sát làn da cả phút liền và lắng nghe tiếng thở của . Khi xong xuôi, cậu đứng im lìm bên cạnh phù thủy, ngắm nhìn trong giấc mơ. Trán cau lại như thể tranh cãi với ai đó. Sau cuộc kiểm tra, Marcus biết được hai điều. Thứ nhất, Diana ổn. ta vừa trải qua cú sốc trầm trọng và cần nghỉ ngơi, nhưng có thương tổn lâu dài nào cả. Thứ hai, mùi của cha cậu có ở khắp người ta. Ông chủ tâm làm thế, để đánh dấu Diana và mọi ma cà rồng biết thuộc về ai. Tình huống này tiến xa hơn mức Marcus có thể tưởng tượng. Việc tách cha cậu ra khỏi phù thủy này khó khăn lắm đây. Nhưng cậu phải làm thế, nếu những câu chuyện mà bà nội cậu kể là . Sau nửa đêm Matthew xuất hỉện trở lại. trông thậm chí còn giận dữ hơn lúc ra , nhưng vẫn sạch tinh tươm, hoàn hảo như thường lệ. lướt những ngón tay qua mái tóc và sải bước thẳng vào phòng Diana mà lời nào với cậu con trai. Marcus biết tốt hơn hết là nên hỏi Matthew sau. Sau khi cha cậu bước ra từ phòng phù thủy, Marcus chỉ hỏi, “Cha thảo luận về kết quả DNA với Diana chứ?” “,” Matthew đáp cụt lủn, mảy may tỏ dấu hiệu hối lỗi vì giấu những thông tin trọng đại này. “Ta cũng ra việc các phù thủy của Đại Hội Đồng có thể làm với ấy đâu. ấy chịu đủ rồi.” “Diana Bishop mong manh dễ vỡ như cha nghĩ đâu. Cha có quyền giữ những thông tin đó cho mình, nếu cha còn tiếp tục ở bên ấy.” Marcus biết rằng cuộc đời ma cà rồng được đo phải bằng giờ hay năm mà bằng những bí mật được tiết lộ hay giữ kín. Ma cà rồng giữ gìn các mối quan hệ cá nhân của họ, những cái tên họ nhận vào gia đình, và chi tiết của nhiều cuộc đời mà họ trải qua. Dù vậy, cha cậu là người giữ nhiều bí mật hơn cả, và thôi thúc che giấu chính gia đình mình những điều này càng làm mọi chuyện trầm trọng hơn thêm. “Đừng có xía vào chuyện này, Marcus,” cha cậu hầm hè. “Đấy phải chuyện của con.” Marcus chửi thề. “Những bí mật chết tiệt của cha sắp trở thành mối hủy hoại gia đình này rồi đấy.” Matthew tóm lấy cổ cậu con trai trước khi cậu kịp hết. “Những bí mật của ta giữ cho cái gia đình này được an toàn trong nhiều thế kỷ qua, con trai ạ. Con ở đâu ngày hôm nay nếu nhờ những bí mật của ta hả?” “Thức ăn cho côn trùng và giun đất trong ngôi mộ vô danh nào đó ở Yorktown, con nghĩ thế,” Marcus ra hơi, dây thanh quản của câu bị ép chặt. Suốt những năm qua, Marcus cố gắng nhưng thành công trong việc khám phá ra vài bí mật của cậu. Ví dụ như, cậu chưa bao giờ biết được ai mách cho Matthew rằng cậu đanglàm mưa làm gió ở New Orleans sau khi Jefferson mua vùng đất Louisiana[19]. Ở đó, cậu tạo ra gia đình ma cà rồng cũng ầm ĩ và quyến rũ như chính cậu từ những công dân trẻ nhất và ít có tinh thần trách nhiệm nhất của thành phố này. Lũ con cháu của Marcus – bao gồm con số đáng báo động những tay cờ bạc và vô công rỗi nghề - liều lĩnh trước phát của con người mỗi khi chúng ra ngoài sau khi trời tối. Các phù thủy của New Orleans, Marcus còn nhớ, rằng họ muốn chúng phải rời khỏi thành phố này. [19. Louisiana là vùng đất thuộc lãnh thổ của Pháp ở Bắc Mỹ, được Hoa Kỳ mua lại vào năm 1803. Việc mua đất này là khoảnh khắc quan trọng trong nhiệm kỳ tổng thống của Thomas Jefferson. Vào lúc đó, việc mua vùng đất này gặp phải phản đối từ trong nước và bị coi là vi hiển. Mặc dù cảm nhận rằng Hiến pháp Hoa Kỳ có điều khoản nào đến việc mua bán đất nhưng Jefferson quyết định mua Louisiana vì ông cảm thấy khó chịu trước sức mạnh của Pháp và Tây Ban Nha ngăn cản lối giao thương của người Mỹ đến Hải cảng New Orleans.] Thế rồi Matthew xuất , được mời và báo trước, cùng với ma cà rồng lai đẹp lộng lẫy: Juliette Durand. Matthew và Juliette tiến hành chiến dịch để mang gia đình của Marcus vào vòng kiềm tỏa. Chỉ trong vài ngày, họ hình thành được liên minh ma quỷ với gã ma cà rồng công tử bột trẻ tuổi người Pháp ở quận Garden, là kẻ có mái tóc màu vàng kim chẳng hợp gì và tính nết tàn nhẫn độc ác khét tiếng cả vùng Mississippi. Đó là khi rắc rối thực bắt đầu. Chưa đầy hai tuần lễ sau, cái gia đình mới của Marcus đáng kể cách bí hiểm. Khi số lượng chết và biến mất tăng lên, Matthew đưa ra bàn tay giúp đỡ và thầm về những nguy hiểm của New Orleans. Juliette, người mà Marcus bắt đầu ghét cay ghét đắng ngay sau vài ngày đầu biết ả ta, mỉm cười vẻ bí mật và thủ thỉ những lời khích lệ vào tai cha cậu. Ả là sinh vậtlôi cuốn, hấp dẫn nhất mà Marcus từng gặp, và cậu thấy rùng mình khi ả và cha cậu tách riêng ra sau cuộc hội ngộ ấy. Dưới sức ép từ phía những đứa con còn lại, Marcus thành kính cam đoan về cách cư xử nếu Matthew và Juliette chịu rời . Matthew đồng ý, sau khi bày tỏ những gì mong muốn từcác thành viên của gia tộc De Clermont. “Nếu các người quyết định coi ta là người ông,” cha cậu dạy thế trong suốt cuộc chuyện cực kỳ khó chịu trước diện của những ma rồng cao niên và mạnh nhất của thành phố, “ hãy cẩn trọng hơn nữa.” Ký ức đó đến giờ vẫn khiến Marcus tái người. Ai hay cái gì cho Matthew và Juliette cái quyền hành động như vậy vẫn còn là bí . Sức mạnh của cha cậu, xảo quyệt của Juliette, và ánh hào quang của cái tên gia tộc De Clermont có lẽ giúp họ giành được trợ giúp của các ma cà rồng khác. Nhưng có gì đó còn hơn thế nữa. Mọi sinh vật khác người ở New Orleans – thậm chí cả phù thủy – đều đối xử với cha cậu như người hoàng tộc. Marcus thắc mắc liệu cha cậu có phải là thành viên của Đại Hội Đồng trong suốt những năm qua . Điều đó lý giải được vấn đề lớn. Giọng của Matthew xua những hồi ức của cậu con trai. “Diana có lẽ rất dũng cảm, Marcus ạ, nhưng ấy cần phải biết mọi điều vào lúc này.” thả Marcus ra và bước . “Vậy ấy có biết về gia đình chúng ta ? Các đứa con khác của cha ấy?” ta có biết về cha của cha ? Marcus ra câu hỏi cuối cùng. Dù vậy Matthew biết cậu nghĩ gì. “Ta kể những chuyện của các ma cà rồng khác “ “Cha mắc sai lầm đấy,” Marcus , lắc đầu. “Diana cảm ơn cha vì giữ kín những điều này với ấy đâu. “Bởi vậy như con và Hamish – khi ấy sẵn sàng, ta kể cho ấy mọi chuyện – nhưng phải là trước lúc đó.” Giọng cha cậu chắc nịch. “Điều bận tâm duy nhất của ta lúc này là đưa Diana ra khỏi Oxford “ “Cha mang ấy tới Scotland ư? Chắc chắn là ấy cách xa tầm với của bất cứ kẻ nào khi ở đó.” Marcus ngay lập tức nghĩ tới khu điền trang biệt lập của Hamish. “Hay cha để ấy ở Woodstock trước khi cha ?” “Trước khi ta đâu?” Gương mặt Matthew bối rối. “Cha bảo con mang hộ chiếu đến mà?” Giờ đến lượt Marcus bối rối. Cha cậu là thế - ông tức giận và biến thành con người khác cho tới khi lấy lại được kiểm soát tốt hơn. “Ta định để Diana lại.” Matthew lạnh lùng . “Ta đưa ấy tới Sept-Tours” “Cha thể nào đặt ấy vào cùng mái nhà với Ysabeau được!” Giọng bị sốc của Marcus vang lên trong căn phòng . “Đó cũng là nhà của ta nữa,” Matthew , quai hàm bạnh ra thành đường thẳng ương bướng. “Bà nội vẫn công khai khoe khoang về những phù thủy mà bà giết và đổ lỗi cho mọi phù thủy bà gặp về những gì xảy đến với Louisa và ông nội.” Gương mặt Matthew nhăn lại, và Marcus cuối cùng hiểu. Bức ảnh gợi cha cậu nhớ đến cái chết của ông nội Philippe và trận chiến điên cuồng của Ysabeau trong nhiều năm tiếp theo. Matthew ép hai lòng bàn tay vào hai bên thái dương, như thể cố gắng cách tuyệt vọng để nhào nặn kế hoạch tốt hơn từ bên ngoài nhét vào trong đó. “Diana liên quan gì đến bi kịch đó cả. Ysabeau hiểu.” “Bà hiểu – cha biết bà hiểu mà,” Marcus bướng bỉnh . Cậu bà nội của mình và muốn bà bị tổn thương. Và nếu Matthew – đứa con cưng của bà – mang phù thủy về nhà, điều đó khiến bà đau đớn. Vô cùng đau đớn. “ có nơi nào an toàn bằng Sept-Tours cả. Các phù thủy phải suy nghĩ lại trước khi dám dây vào Ysabeau – đặc biệt lại ở ngay trong nhà của bà.” “Vì Chúa, xin đừng để hai người bọn họ mình với nhau.” “Ta làm thế đâu,” Matthew hứa. “Ta cần con và Miriam chuyển đến chỗ trạm gác của Chòi Gác Cổ, hy vọng như thế khiến bọn chúng tin rằng Diana ở đó. Cuối cùng chúng cũng phát ra thôi, nhưng chúng ta có thể kéo dài thời gian được vài ngày. Chìa khóa ta để ở chỗ người gác cổng. Hãy trở lại đó sau vài giờ nữa, khi ta và Diana rồi. Hãy lấy cái chăn lông vịt từ giường Diana – còn mùi hương của ấy đó – và lái xe tới Woodstock. Ở đó cho tới khi các con nhận được tin của ta.” “Cha có thể tự bảo vệ mình và phù thủy ấy cùng lúc chứ?” Marcus khẽ hỏi. “Ta có thể xử trí được,” Matthew với vẻ chắc chắn. Marcus gật đầu, và hai ma cà rồng xiết chặt cánh tay, trao nhau cái nhìn đầy ý nghĩa. Bất cứ điều gì họ cần phải với nhau vào khoảnh khắc này dường như được ra từ rất lâu. Còn lại mình, Matthew thả người lún sâu vào chiếc ghế sofa và đan hai bàn tay ôm lấy đầu. phản đối kịch liệt của Marcus làm lung lay. ngước lên và lại nhìn chăm chú vào bức tranh in hình nữ thần săn bắn đuổi theo con mồi. dòng khác từ bài thơ cổ kia lại lên trong tâm trí . “Ta thấy nàng xuất từ rừng ấy,” thầm, “Nữ thợ săn của ta, Diana dấu.” Trong phòng ngủ, khoảng cách quá xa để động vật máu nóng có thể nghe được, nhưng Matthew nghe thấy Diana cựa mình và khóc òa lên. lao đến bên và kéo vàovòng tay mình. che chở quay trở lại, với ý nghĩa hoàn toàn mới và có chủ đích. “ ở đây,” thầm vào suối tóc như cầu vồng của Diana. nhìn xuống gương mặt ngủ của , miệng mímchặt và đôi lông mày cau lại dữ tợn. Đó là gương mặt ngắm suốt nhiều giờ đồng hồ và biết rất , nhưng mâu thuẫn trái ngược của nó vẫn quyến rũ . “Có phải em bỏ bùa rồi ?” thắc mắc thành lời. Sau đêm nay, Matthew biết việc cần có trở nên quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Ngay cả gia đình và lần nếm máu kế tiếp của cũng quan trọng bằng việc biết rằng được an toàn trong tầm tay . Nếu điều đó có nghĩa là bị bỏ bùa mê, quả là gã đàn ông lạc lối mất rồi. Hai cánh tay xiết chặt hơn, giữ Diana chìm sâu trong giấc ngủ vì cho phép bản thân mình làm thế khi còn thức. thở dài, rúc vào gần sát hơn. Nếu phải là ma cà rồng, hẳn nhận ra được yếu ớt của , thầm những lời này khi níu chặt lấy chiếc bình thánh tích lẫn cái áo len của , nắm tay yên nghỉ chắc chắn ngay chỗ trái tim . “ bị lạc lối đâu. Em tìm thấy rồi.” Matthew thoáng băn khoăn biết có phải tưởng tượng hay , nhưng biết là phải. Diana có thể nghe được những ý nghĩ của . phải là mọi lúc, phải khi tỉnh táo – vẫn chưa. Nhưng chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi Diana biết được mọi điều về . biết những bí mật của , bóng tối và những điều khủng khiếp mà đủ can đảm đối mặt. trả lời trong tiếng thào yếu ớt khác. “Em đủ dũng cảm cho cả hai chúng mình.” Matthew cúi đầu xuống phía . “Em phải thế.”