Matthew lại phạm lỗi vì đẩy bóng quá mạnh. Hamish đặt lại bóng và tiếp tục thu hồi điểm số trong khi bạn ta bình tĩnh và im ắng trở lại. Cuối cùng Jordan đến thông báo với họ rằng đồ uống sẵn sàng ở dưới nhà. “Tỷ số thế nào?” Hamish ngó vào các vạch phấn. ta biết là mình thắng, nhưng vẫn lịch thiệp hỏi thế. “ bạn thắng, dĩ nhiên là thế.” Matthew đường hoàng ra khỏi phòng, nện giầy xuống cầu thang mạnh hơn bước chân của con người. Jordan liếc mắt nhìn đế đôi ủng bóng loáng vẻ ái ngại. “Giáo sư Clairmont trải qua ngày khó khăn, Jordan ạ.” “Vậy nên mới như thế,” ông quản gia lẩm bẩm. “Tốt hơn hết hãy mang lên chai vang đỏ khác . Tối nay dài đây.” Họ uống rượu tại nơi từng thời là khu vực đón khách của căn chòi săn. Các cửa số của nó nhìn ra khu vườn, nơi vẫn gìn giữ các bồn hoa theo lối cổ điển xưa, bất chấp tỷ lệ đối xứng của chúng chẳng phù hợp với căn chòi săn. Chúng quá to lớn - chúng thuộc về cung điện, chứ phải là công trình toi cơm thế này. Trước lò sưởi, với ly rượu tay, Hamish nhấn nút cuối cùng vào trọng tâm câu chuyện bí này. “Kể cho tôi nghe về cuốn cổ thư của Diana này , Matthew. Chính xác nó chứa đựng cái gì? Công thức dành cho đá tạo vàng để biến chì thành vàng ư?” Giọng Hamish hơi chế nhạo. “Những chỉ dẫn về cách pha chế thuốc luyện đan trường sinh để bạn có thể biến đối người trần mắt thịt thành kẻ bất tử bất lão ư?” Chàng tinh dừng việc trêu chọc ngay khi ánh mắt Matthew ngước lên nhìn thẳng vào mắt ta. “ bạn đùa đấy chứ?” Hamish thầm, giọng xúc động choáng váng. Đá luyện đan chỉ là truyền thuyết, giống như Chén Thánh hay thành phố Atlantis. Nó thể nào có được. Thế nhưng... ma cà rồng, tinh và phù thủy cũng bị cho là có đấy thôi? “Trông tôi có giống đùa ?” Matthew hỏi. “.” Hamish rùng mình. Matthew luôn tin rằng có thể sử dụng các kiến thức khoa học để tìm ra thứ có thể khiến các cư dân ma cà rồng chết và mục rữa được. Đá luyện đan vừa khít với những mơ ước đó. “Đó là cuốn sách bị thất lạc,” Matthew dứt khoát. “Tôi biết nó.” Như hầu hết các sinh vật đặc biệt khác người, Hamish từng nghe những câu chuyện đó. phiên bản cho rằng các phù thủy đánh cắp cuốn sách quý của ma cà rồng, cuốn sách nắm giữ bí mật của bất tử. Phiên bản khác lại tuyên bố chính ma cà rồng thó cuốn sách bùa chú cổ xưa của phù thủy và rồi đánh mất nó. vài kẻ còn thầm rằng đó chỉ là cuốn sách bùa chú, mà còn là cuốn sách sơ khai che giấu những điểm đặc biệt cơ bản của bốn giống loài nhân vượn trái đất. Matthew có những giả thuyết riêng về điều chứa đựng trong cuốn sách đó. nghĩ cuốn sách hé lộ lý do tại sao ma cà rồng khó có thể bị giết đến thế và vì lý do gì mà lịch sử thời sơ khai của con người và các sinh vật khác người lại chỉ có phần . “ nghĩ cuốn cổ thư về thuật giả kim này là cuốn sách của ư?” Hamish hỏi. Khi Matthew gật đầu, Hamish bật ra tiếng thở dài. “Chẳng trách gì các phù thủy lại xì xào bàn tán. Làm sao họ phát ra Diana tìm thấy cuốn sách ấy?” Matthew quay ngoắt, dữ tợn. “Ai mà biết hay thèm quan tâm chứ? Mọi rắc rối bắt đầu khi bọn họ thể giữ mồm giữ miệng.” Hamish lần nữa nhớ lại là Matthew và gia đình chẳng ưa gì phù thủy. “Tôi phải kẻ duy nhất nghe lỏm được bọn họ vào Chủ nhật ấy. Các ma cà rồng khác cũng nghe được. Và rồi tinh cũng cảm thấy có thứ gì đó thú vị sắp diễn ra, và...” “Giờ Oxford nhung nhúc toàn tinh,” bạn tinh nốt câu. “ mớ lộn xộn. Học kỳ phải sắp bắt đầu à? Con người là toán kế tiếp đấy. Họ sắp trở lại từng đàn từng lũ.” “Thế càng tệ.” Biểu của Matthew cay nghiệt, dữ dằn. “Cuốn cổ thư ấy đơn giản là bị thất lạc. Nó bị yểm bùa, và Diana phá vỡ bừa chú ấy. Thế rồi ta lại đem gửi trả nó vào kho sách thư viện và chẳng còn hứng thú để gọi nó ra nữa. Còn tôi phải là kẻ duy nhất chờ đợi ta làm điều đó.” “Matthew,” Hamish căng thẳng , “có phải bảo vệ ấy khỏi các phù thủy khác ?” “ ấy dường như chẳng nhận ra sức mạnh của bản thân. Điều đó đặt ấy vào nguy hiểm. Tôi thể để bọn họ có được ấy trước.” Matthew có vẻ đường đột, bối rối và yếu đuối. “Ôi, Matt,” Hamish lắc đầu. “ nên can thiệp vào giữa Diana và người của ấy. bạn chỉ gây ra nhiều rắc rối hơn thôi. Hơn nữa,” ta tiếp tục, “ phù thủy nào lại công khai thù địch với người nhà Bishop cả. Gia tộc của ấy quá lâu đời và có danh tiếng lẫy lừng.” Ngày nay, các sinh vật khác người còn giết hại lẫn nhau trừ phi để tự vệ. hiếu chiến còn được tán thành trong thế giới của họ. Matthew kể cho Hamish ngày xưa thế giới của họ ra sao, khi mà những cuộc trả thù đẫm máu và những mối thù truyền kiếp giữa các gia tộc diễn ra ác liệt, các sinh vật này liên tục gây chú ý của con người. “ tinh có tổ chức, và ma cà rồng dám qua mặt tôi. Nhưng phù thủy thể tin tưởng được.” Matthew nhỏm dậy, mang theo ly rượu tới bên lò sưởi. “Hãy để mặc Diana Bishop,” Hamish khuyên. “Hơn nữa, nếu cuốn cổ thư ấy bị phù phép, bạn thể nghiên cứu nó được.” “Tôi làm được nếu ấy giúp tôi,” Matthew với giọng nghe thanh thản, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. “Matthew,” chàng tinh cùng giọng mà ta từng dùng để thông báo cho người bạn vong niên của mình biết khi họ ở lớp băng mỏng, “hãy bỏ mặc phù thủy ấy vả cuốn cổ thư .” Gã ma cà rồng cẩn thận đặt ly rượu vang lên mặt lò sưởi và quay người . “Tôi nghĩ là mình có thể làm vậy, Hamish. Tôi... khao khát ấy.” Matthew , dù ra những lời này khiến cơn đói trong lan rộng hơn. Khi cơn đói của tập trung lại, trở nên dữ dội như thế này, có bất cứ thứ máu nào thỏa mãn được. Cơ thể thèm muốn thứ gì dó đặc biệt hơn. Nếu có thể nếm nó - nếm thử Diana - hẳn thỏa mãn và nỗi khắc khoải đau đớn này lắng dịu. Hamish quan sát đôi vai căng cứng của Matthew. ta ngạc nhiên việc bạn mình thèm khát Diana Bishop. ma ca rồng phải khao khát sinh vật khác, hơn bất cứ ai hay bất cứ điều gì mới kết đôi, và thèm khát chính là gốc rễ cho niềm ao ước, Hamish nghi ngờ rằng Matthew - bất chấp những lời tuyên bố hùng hồn trước đây là thể tìm được bất cứ ai có thể khuấy động tình cảm của mình - giờ phải lòng. “Vậy vấn đề thực mà bạn đối mặt lúc này phải là phù thủy hay Diana. Và nó hiển nhiên chẳng liên quan gì tới cuốn cổ thư xa xưa nào đó, mà là việc có thể hay thể nắm bắt được câu trả lời cho những nghi vấn của .” Hamish để những lời mình ra lắng dần trước khi tiếp tục. “ bạn nhận ra mình săn đuổi ấy, đúng ?” Matthew trút ra hơi thở, phần nào bớt căng thẳng khi điều đó được ra. “Tôi biết. Tôi trèo qua cửa sổ vào phòng khi ấy ngủ. Tôi bám theo khi ấy tập chạy. ấy cự tuyệt những nỗ lực giúp đỡ của tôi, và ấy càng làm thế, cơn đói của tôi càng hơn.” Gã ma cà rồng trông quá mức bối rối đến nỗi Hamish phải cắn vào môi dưới để khỏi bật cười. Những phụ nữ của Matthew kháng cự lại . Họ làm những gì bảo, bị lóa mắt trước vẻ điển trai và quyến rũ của . nghi ngờ gì nữa, bị mê hoặc rồi. “Nhưng tôi cần máu của Diana - phải về mặt thể xác. Tôi để lộ ra niềm khao khát này. cần phải rắc rối quanh quẩn bên ấy.” Matthew bỗng sa sầm nét mặt. “Tôi gì thế này? Chúng tôi thể ở gần nhau. Chúng tôi thu hút chú ý mất.” “ cần phải thế. Chúng ta cũng dành kha khá thời gian ở cùng nhau, mà có ai thấy phiền đâu,” Hamish chỉ ra. Trong những năm đầu họ kết bạn, cả hai đấu tranh để che giấu những điểm khác biệt của mình trước những cặp mắt tò mò. Mỗi người trong bọn họ đủ nổi trội, xuất chúng để thu hút quan tâm của con người. Khi họ ở cùng nhau - hai mái đầu đen cùng chụm lại sẻ chia câu chuyện đùa trong bữa tối hay ngồi trong sân bất giác hàng tiếng đồng hồ trong buổi sáng tinh mơ với những chai champagne rỗng vứt dưới chân - con người thể làm ngơ được. “Nó giống thế, biết mà,” Matthew mất hết kiên nhẫn. “Ồ, phải rồi, tôi quên.” Tính khí cáu kỉnh của Hamish bật ra. “ ai thèm quan tâm các tinh làm gì. Nhưng ma ca rồng và phù thủy? Đó mới là điều quan trọng, đúng ? Các người là những sinh vật quan trọng trong thế giới này mà!” “Hamish!” Matthew phản đối. “ biết rằng đó phải là điều tôi cảm nhận mà.” “ có kiểu khinh thường đặc trưng của ma cà rồng đối với tinh, Matthew ạ. Cả phù thủy nữa, tôi có thể bổ sung thêm như thế. Hãy suy nghĩ lâu và kỹ xem cảm thấy như thế nào về các sinh vật khác trước khi đem phù thủy này lên giường.” “Tôi hề có ý định đưa Diana lên giường,” Matthew , giọng chua chát. “Bữa tối sẵn sàng, thưa ngài.” Jordan đứng nơi khung cửa từ lúc nào. “Tạ ơn Chúa,” Hamish nhõm , đứng lên khỏi ghế. Gã ma cà rồng dễ kiểm soát hơn nếu bị phân tâm giữa cuộc chuyện và điều gì đó - bất cứ điều gì khác. Ngồi trong phòng ăn bên chiếc bàn rộng thênh thang được thiết kế để phục vụ những vị khách đáng giá lưu lại gia trang, Hamish ăn ngon lành những món đầu tiên trong khi Matthew nghịch chiếc thìa ăn súp cho tới khi món ăn của nguội lạnh. Gã ma cà rồng cúi người cái bát và khịt mũi ngửi. “Nấm và rượu nâu à?” hỏi. “Đúng vậy. Jordan muốn thử vài thứ mới mẻ, và vì món đó chứa bất cứ thứ gì thích, nên tôi cho phép ông ấy.” Matthew thường có nhu cầu bổ sung chất dinh dưỡng ở căn chòi Cadzow, nhưng Jordan là thiên tài với món súp, và Hamish mấy thích thú gì việc phải ăn mình cũng như việc phải uống mình. “Tôi xin lỗi, Hamish,” Matthew , quan sát người bạn thân ăn. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn, Matt,” Hamish , thìa súp dừng lưng chừng gần miệng. “Nhưng bạn thể tưởng tượng được việc chấp nhận bản thân là tinh hay phù thủy khó khăn biết chừng nào. Với ma cà rồng điều đó ràng và hiển nhiên. phải là ma cà rồng, và rồi là ma cà rồng. thắc mắc, có chỗ cho nghi ngờ. Còn chúng tôi phải chờ đợi, quan sát, và băn khoăn lo lắng. Nó làm cho sức mạnh ưu việt của ma cà rồng các rệt hơn gấp đôi.” Matthew xoay nhanh cán thìa bằng mấy ngón tay như xoay cái que dài. “Phù thủy biết họ là phù thủy. Họ giống tinh chút nào,” nhăn mặt . Hamish đặt thìa xuống đánh cạch tiếng và uống nốt ly rượu vang của mình. “ bạn biết rằng sinh phù thủy đối với bậc làm cha mẹ có gì bảo đảm cả. hóa ra có thể hoàn toàn là người bình thường. Hay có thể làm cả căn nhà bốc cháy. Chẳng có gì báo trước liệu khi nào, hay làm thế nào sức mạnh của phát lộ ràng.” giống như Matthew, Hamish có người bạn là phù thủy. Janine tự làm tóc, nó chưa bao giờ trông tuyệt hơn thế, và tự làm kem dưỡng da, thứ kỳ diệu. Hamish nghi ngờ rằng tất cả đều có dính líu đến phép thuật phù thủy. “Dù thế, điều đó cũng phải hoàn toàn bất ngờ,” Matthew khăng khăng cố chấp, múc ít súp vào thìa và làm sóng sánh nó nhè khiến nó càng nguội hơn. “Diana có lịch sử gia đình hàng thế kỷ để tin tưởng. Nó giống như những gì bạn từng trải qua hồi còn là cậu thiếu niên đâu.” “Tôi có thời nông nổi,” Hamish , hồi tưởng lại vài trong số những câu chuyện thời tiền tinh mà ta giữ bí mật suốt nhiều năm qua... buổi chiều năm Hamish mười hai tuổi, cuộc sống của cậu bỗng đảo lộn hoàn toàn. Cậu nhận ra, trong mùa thu dài dằng dặc của Scotland ấy, rằng cậu quá thông minh so với các giáo viên. Hầu hết bọn trẻ mười hai tuổi đều hoài nghi điều này, nhưng Hamish biết với niềm tin chắc chắn sâu sắc và chán nản. Cậu đối phó bằng cách giả bệnh để có thể trốn học, và khi trò đó hiệu nghiệm nữa, cậu đối phó bằng cách hoàn thành đống bài tập ở trường nhanh chóng hết mức có thể và từ bỏ việc làm ra vẻ bình thường. Trong tuyệt vọng, thầy hiệu trưởng cử vài người từ khoa Toán của trường đại học tới đánh giá năng lực phiền phức của Hamish - thứ năng lực khiến cậu có thể giải quyết các vấn đề trong vài phút, trong khi các bạn cùng trường của cậu phải mất tuần hoặc hơn thế. Jack Watson, tinh trẻ từ trường đại học của Glasgow có mái tóc đỏ và đôi mắt sáng màu xanh, vừa nhìn thấy đứa bé tinh nghịch Hamish Osborne nghi ngờ ngay cậu cũng là tinh. Sau khi trải qua kiểm tra ước định chính thức, được chứng minh bằng văn bản đáng kỳ vọng rằng Hamish là thần đồng toán học mà trí tuệ còn phù hợp với các tham biến toán học thông thường nữa, Watson mời cậu tham gia vào các giờ giảng ở trường đại học. ta cũng giải thích với thầy hiệu trưởng rằng đứa trẻ này nếu cứ uốn nắn, sinh hoạt trong lớp học bình thường chắc chắn trở thành kẻ điên cuồng thích phóng hỏa hay thứ gì đó có tính phá hoại tương tự thế. Sau đó, Waston làm chuyến viếng thăm tới ngôi nhà khiêm tốn của gia đình Osbornes, và trước cả gia đình kinh ngạc, ta kể cho họ về điều gì diễn ra, và chính xác có những sinh vật nào có mặt thế giới này. Percy Osborne, người xuất thân là tín đồ của giáo hội Scotland, vẫn kiên quyết cưỡng lại ý niệm về các thế lực siêu nhiên và những sinh vật khác thường cho tới khi vợ ông chỉ ra rằng ông được nuôi dạy cùng với niềm tin là có các phù thủy - vậy tại phải là cả tinh và ma cà rông nữa? Hamish khóc với vẻ nhõm, cậu còn cảm thấy trơ trọi mình nữa. Mẹ cậu ôm cậu nồng nhiệt và bảo rằng bà luôn biết cậu rất đặc biệt. Trong khi Waston vẫn còn ngồi trước lò sưởi điện uống trà với chồng và con trai bà, Jessica Osborne nghĩ bà có thể tranh thủ cơ hội này để đề cập các khía cạnh khác liên quan tới cuộc đời của Hamish có lẽ khiến cậu cảm thấy khác biệt hơn. Bà thông báo với cậu con trai ăn bánh bích quy sô--la rằng bà biết cậu chắc chắn cưới bé mê tít cậu ở nhà bên cạnh. Thay vào đó Hamish lại bị trai bé lôi cuốn, đó là chàng trai vạm vỡ mười lăm tuổi đá bóng giỏi nhất khu xóm này. Cả ông Percy lẫn Jack dường như hề ngạc nhiên hay lo lắng trước điều vừa được tiết lộ. “Mặc dù vậy,” Matthew , sau khi nhấm nháp ngụm đầu tiên món súp ấm, “toàn bộ gia đình Diana chắc hẳn kỳ vọng ấy là phù thủy - và ấy, liệu ấy có sử dụng phép thuật hay ?” “Tôi nghĩ điều đó tồi tệ ngang với việc là trong số những con người vô năng đó. có thể tưởng tượng được áp lực đó ? kể đến cái cảm giác kinh khủng là cuộc đời còn thuộc về nữa ấy?” Hamish rùng mình. “Tôi thích ngu dốt mù tịt hơn.” “Nó có cảm giác thế nào,” Matthew ngần ngại hỏi, “cái ngày đầu tiên thức dậy và biết rằng mình là tinh ấy?” Gã ma cà rồng hay hỏi những câu hỏi riêng tư kiểu này. “Như được sinh ra lần nữa vậy,” Hamish . “Nó giống như sức mạnh và bối rối khi choàng tỉnh dậy, thấy mình thèm khát máu và nghe thấy tiếng cỏ lớn dần lên, từng phiến lá . Mọi thứ trông khác lạ. Mọi thứ cảm thấy đều khác lạ. Hầu hết thời gian tôi mỉm cười như kẻ ngu ngốc vừa trúng số, và thời gian còn lại tôi khóc thầm trong phòng mình. Tôi nghĩ mình tin vào điều đó - biết đấy, thực tin ý - cho tới khi tôi lén vào bệnh viện.” Món quà sinh nhật đầu tiên của Matthew dành cho Hamish, sau khi họ trở thành bạn bè, là chai Krug và chuyến tới bệnh viện John Radcliffe. Ở đó, Matthew để Hamish qua máy chụp cộng hưởng từ MRI trong khi gã ma cà rồng đưa ra cho bạn hàng loạt câu hỏi. Sau đó họ so sánh bản chụp cắt lớp của Hamish với những bản chụp giải phẫu của bộ não lỗi lạc, cả hai cùng uống champagne và chàng tinh vẫn còn mặc nguyên bộ đồ phẫu thuật. Hamish bắt Matthew chơi với những bản chụp cắt lớp lần nữa, mê mẩn với cách bộ não ta sáng lên như chiếc máy chơi pinball mỗi khi ta trả lời những câu hỏi cơ bản. Nó vẫn là món quà sinh nhật tuyệt nhất mà ta từng nhận được. “Từ những gì bạn kể vởi tôi, Diana ở cái thời điểm mà tôi trải qua trước buổi chụp MRI đó,” Hamish . “ ấy biết mình là phù thủy. Nhưng ấy vẫn cảm thấy mình sống trong giả dối.” “ ấy sống trong dối trá,” Matthew lầm bầm và nhấp ngụm súp nữa. “Diana giả vờ như ấy là con người.” “Nó thú vị sao khi biết lý do của trường hợp này? Quan trọng hơn là bạn có thể quẩn quanh bên người như thế ? thích giả dối mà.” Matthew suy nghĩ đăm chiêu nhưng trả lời. “Còn điều nữa.” Hamish tiếp tục. “Với người ghét dối trá như , giữ quá nhiều bí mật đấy. Nếu cần phù thủy này, vì lý do nào đó, phải giành được tin tưởng của ấy. Và cách duy nhất để làm điều đó là kể cho ấy nghe những điều muốn ấy biết. ấy bị kích động trước bản năng bảo vệ của , và phải chiến đấu với các bản năng ấy.” Trong khi Matthew còn nghiền ngẫm về tình huống đảo ngược, Hamish lái cuộc trò chuyện sang những biến cố mới nhất trong thành phố và chính phủ. Gã ma cà rồng càng trầm lặng hơn rồi bắt kịp câu chuyện khi nó chuyển đến những rắc rối về tài chính và chính sách. “Chắc dã nghe về những vụ giết người ở Westminster rồi,” Hamish khi Matthew hoàn toàn thư thái. “Tôi nghe. Ai đó cần phải dừng chuyện này lại.” “ ư?” Hamish hỏi. “Đó phải việc của tôi - cho đến giờ.” Hamish biết rằng Matthew có giả thuyết về các vụ giết người này - nó liên quan tới vấn đề nghiên cứu khoa học của . “ vẫn nghĩ các vụ giết người ấy là dấu hiệu cho thấy ma cà rồng biến mất?” “Đúng vậy,” Matthew . Matthew tin rằng các sinh vật khác người dần bị tuyệt chủng. Ban đầu, Hamish bác bỏ giả thuyết của bạn mình, nhưng ta bắt đầu nghĩ rằng Matthew có thể đúng. Họ quay trở lại các để tài chuyện ít rắc rối hơn và sau bữa tối lại trở lên lầu. Chàng tinh chia căn phòng tiếp tân cần thiết của căn chòi thành phòng khách và phòng ngủ. Căn phòng khách được bàn cờ lớn, cổ xưa chiếm ngự, những quân cờ được chạm trổ từ ngà voi và gỗ mun, mà xét tất cả các quyền lợi chúng đáng ra phải ở trong viện bảo tàng, nằm dưới lớp kính bảo vệ chứ phải là trong căn chòi săn vớ vẩn thế này. Giống như chiếc máy MRI, bàn cờ này cũng là món quà từ Matthew. Tình bạn của họ sâu sắc hơn qua những buổi tối dông dài như thế này, cùng chơi cờ và thảo luận về công việc. tối Matthew bắt đầu kể cho Hamsish nghe về những kỳ tích oanh liệt trong quá khứ của . Giờ đây có mấy điều liên quan tới Matthew Clairmont mà chàng tinh biết, và gã ma cà rồng là sính vật khác người duy nhất mà Hamish từng gặp khiếp sợ trước trí tuệ quyền năng của ta. Hamish, theo thói quen, ngồi xuống bên phía quân đen. “Chúng ta chơi xong ván trước chưa nhỉ?” Matthew hỏi giả vờ ngạc nhiên trước bàn cờ được sắp xếp gọn gàng, “Rồi. thắng,” Hamish cộc lốc, và nhận được trong những nụ cười tươi hiếm hoi của gã bạn mình. Cả hai bắt đầu các quân cờ, Matthew tận dụng thời gian còn Hamish di chuyển mau lẹ và quyết đoán mỗi khi đến lượt . tiếng động nào ngoại trừ tiếng nổ lách tách trong lò sưởi và tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Sau giờ chơi, Hamish nước cuối cùng trong thế cờ của mình. “Tôi có câu hỏi.” Giọng ta thận trọng trong khi chờ đợi bạn mình nước tiếp theo. “ có muốn chính phù thủy ấy - hay vi quyền lực của ấy đối với cuốn cổ thư đó thôi?” “Tôi muốn quyền năng của ấy!” Matthew bùng nổ, ra quyết định sai lầm với quân xe của mình, và Hamish nhanh chóng tóm lấy. Gã ma cả rồng cúi đầu, trông giống thiên thần thời Phục hưng hơn bao giờ hết, và tập trung nghĩ đến điều bí gì đó của Thiên đàng, “Chúa ơi, tôi biết tôi muốn gì nữa.” Hamish ngồi nín lặng hết mức. “Tôi nghĩ là tôi biết, Matt ạ.” Matthew quân tốt và đáp lại. “Các sinh vật khác ở Oxford,” Hamish tiếp, “họ nhanh chóng biết được, rằng bạn quan tâm tới điều đó hơn cả với cuốn sách cổ này. Cuối cuộc chơi của là gì hả?” “Tôi biết,” gã ma cà rồng thầm. “Tình ? Nếm thử mùi vị của ấy? Làm cho ấy thích ?” Matthew gầm gừ. “Rất ấn tượng,” Hamish bằng chất giọng chán nản. “Có rất nhiều điều tôi hiểu trong tất cả chuyện này, Hamish ạ, nhưng có ba thứ tôi biết ,” Matthew dứt khoát, cầm ly rượu để cạnh chân ở dưới sàn lên. “Tôi thèm khát máu của ấy. Tôi muốn điều khiển sức mạnh của ấy. Và tôi chắc chắn có mong ước biến ấy thành ma cà rồng.” rùng mình trước ý nghĩ này. “Thế là chưa có tình đấy nhé. bạn có câu trả lời. biết điếu mình muốn.” Matthew uống hớp rượu. “Tôi muốn điều tôi nên muốn, và tôi khao khát người tôi có thể bao giờ có.” “ sợ làm tổn thương ấy chứ?” Hamish dịu dàng hỏi. “ có những mối quan hệ với nhiều phụ nữ thuộc loại máu nóng trước đây, và chẳng bao giờ làm hại ai cả.” Chiếc ly pha lê nặng nề của Matthew gãy làm đôi. Phần lòng ly đổ xuống sàn, rượu vang đổ tung toé thảm. Hamish nhìn ánh sáng lóe lên từ phần ly khô cong nằm giữa ngón trỏ và ngón cái của gã ma cà rồng. “Ôi, Matt. Tại sao kể cho tôi?” Hamish cố kiềm chế, để chắc chắn rằng cơn sốc của mình mảy may biểu lộ ra bên ngoài. “Làm sao tôi có thể chứ?” Matthew nhìn đăm đăm vào hai bàn tay và đặt xuống đất mấy mảnh vỡ giữa mấy đầu ngón tay cho tới khi chúng lấp lánh ánh đen đỏ của hỗn hợp thủy tinh và máu. “ luôn luôn quá tin tưởng vào tôi, biết đấy.” “ ấy là ai?” “Tên ấy là Eleanor.” Matthew vấp trước cái tên ấy. dụi mạnh mu bàn tay ngang qua mắt, nỗ lực vô ích để xua hình ảnh gương mặt trong tâm trí mình. “ trai tôi và tôi đánh nhau. Giờ tôi thậm chí thể nhớ cuộc cãi vã đó là về chuyện gì. Thế rồi tôi muốn tiêu diệt ấy bằng hai bàn tay trần của mình. Eleanor cố gắng giúp tôi thấy lý lẽ. ấy ngăn giữa hai chúng tôi và...” Giọng gã ma cà rồng vỡ òa. ôm lấy đầu, chẳng buồn để ý đến việc lau sạch máu còn dính lại mấy ngón tay lành vết thương. “Tôi ấy rất nhiều, và tôi giết chết ấy.” “Chuyện này là khi nào?’ Hamish thào. Matthew hạ hai bàn tay xuống, lật ngược chúng lại để săm soi những ngón tay dài và mạnh mẽ của mình. “Nhiều năm trước. Ngày hôm qua. Điều đó có gì quan trọng chứ?” hỏi với vẻ bất cần của ma cà rồng khi đến thời gian. “Nó vô cùng quan trọng nếu mắc sai lầm này khi còn là ma cà rồng mới và kiểm soát được bản năng cùng như cơn đói của mình.” “À. Thế cũng có vấn đề đấy. Tôi giết phụ nữ khác, Cecilia Martin, chỉ mới hơn thế kỷ trước thôi. Khi đó tôi còn là ‘ma cà rồng mới’ nữa.” Matthew đứng lên khỏi ghế và bước đến cửa sổ. Hẳn muốn chạy thẳng vào màn đêm đen kia và biến mất để phải nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt Hamish. “Còn nữa ?” Hamish hỏi sắc gọn. Matthew lắc đầu. “Hai là đủ rồi. thể có người thứ ba. Chưa có.” “Kể cho tôi nghe về Cecilia ,” Hamish ra lệnh, nhoài người tới trước. “ ấy là vợ chủ nhà băng,” Matthew miễn cưỡng . “Tôi thấy ấy trong rạp opera và trở nên mê dại. Mọi người ở Paris khi đó đều mê đắm vợ của người nào đấy.” Ngón tay lượn theo đường nét gương mặt người phụ nữ tấm kính cửa sổ trước mặt. “Nó ập đến với tôi giống như kích thích thách thức. Tôi chỉ muốn nếm thử vị của ấy, đêm đó tôi tới nhà ấy. Nhưng khi bắt đầu, tôi thể dừng lại được. Và tôi cũng thể để ấy chết - ấy là của tôi, và tôi từ bỏ ấy. Tôi vừa kịp dừng uống máu đúng lúc Nhưng than ôi, ấy ghét là ma cà rồng. Cecilia lao thẳng vào ngôi nhà cháy trước khi tôi có thể ngăn ấy lại.” Hamish cau mày. “Thế giết ấy, Matt ạ. ấy tự tử mà.” “Tôi uống máu ấy cho tới khi ấy cận kề bờ vực cái chết, rồi buộc ấy uống máu của tôi, và biến ấy thành sinh vật khác người mà cần đồng ý của ấy bởi vì tôi ích kỷ và sợ hãi,” phẫn nộ . “Như thế phải là tôi giết ấy ư? Tôi lấy cuộc sống, nhân dạng, và sinh khí của ấy - đó là cái chết, Hamish ạ.” “Tại sao lại giấu tôi chuyện này?” Hamish cố để tâm đến điều người bạn thân của mình làm, nhưng nó khó khăn. “Thậm chí ma cà rồng cũng thấy xấu hổ nữa.” Matthew giọng sin sít. “Tôi ghét bản thân mình - và tôi nên thế - vì những gì tôi làm với những người phụ nữ đó.” “Vậy đừng có giữ những bí mật đó nữa, Matt ạ. Chúng hủy hoại từ bên trong.” Hamish nghĩ về điều muốn trước khi tiếp tục. “ bạn cố ý giết Eleanor và Cecilia. phải kẻ giết người.” Matthew ngừng chạy ngón tay bức tranh tưởng tượng nơi khung cửa sổ và áp trán vào tấm kính lạnh ấy. Khi cất tiếng, giọng đều đều và chết chóc. “, tôi là con quái vật. Eleanor tha thứ cho tôi vì điều đó. Cecilia bao giờ.” “ phải quái vật,” Hamish , lo lắng trước chất giọng của Matthew. “Có thể là , nhưng tôi nguy hiểm.” quay lại và đối diện với Hamish. “Đặc biệt khi quanh quẩn bên Diana. Thậm chí Eleanor cũng khiến tôi có cảm giác thế này.” Ý nghĩ duy nhất về Diana mang cơn thèm muốn trở lại, cơn co thắt lan từ tim tới khoang bụng. Mặt tối sầm lại với cố gắng để chế ngự nó. “Trở lại đây và chơi nốt ván này,” Hamish , giọng nặng nề. “Tôi có thể , Hamish ạ,” Matthew ngập ngừng . “ cần phải chia sẻ mái nhà mình với tôi đâu.” “Đừng có ngu ngốc thế,” Hamish đáp nhanh như ngọn roi quất. “ bạn đâu cả.” Matthew ngồi xuống. “Sao có thể biết Eleanor và Cecilia cũng ghét tôi?” sau vài phút. “Tôi thể tưởng tượng được điều phải làm để khiến tôi ghét , Matthew ạ. Tôi giống người em, và tôi như thế cho tới hơi thở cuối cùng của mình.” “Cảm ơn bạn,” Matthew , mặt buồn rười rượi. “Tôi cố gắng xứng đáng với điều đó.” “Đừng cố. Hãy xứng đáng với điều đó,” Hamish cộc cằn . “Tiện đây, bạn sắp sửa mất quân hậu[7] đấy.” [7. Chỗ này có chơi chữ - bishop vừa là họ của Diana, vừa có nghĩa là quân hậu trong cờ vua.] Cả hai kéo chú ý trở lại với ván cờ cách khó khăn, và họ vẫn chơi cho tới sáng sớm khi Jordan mang cà phê lên cho Hamish và chai pooc-tô cho Matthew. Ông quản gia thu nhặt chiếc ly vỡ mà bình luận gì, và Hamish cho phép ông ta nghỉ. Khi Jordan rồi, Hamish nghiên cứu toàn cục ván cờ và nước cuối cùng. “Chiếu tướng.” Matthew buông hơi thở phào và ngồi ngả ra ghế, đăm đăm nhìn bàn cờ. Quân hậu của đứng đó, bị bao quanh bởi các quân cờ khác của - những con tốt, con mã và quân xe. Phía kia bàn cờ, quân vua của bị chiếu tướng bởi quân tốt đen tầm thường. Ván cờ kết thúc, và thua. “Cần tập trung vào ván chơi hơn là bảo vệ hoàng hậu của ,” Hamish . “Tại sao lại thấy khó khăn trong việc ghi nhớ rằng đức vua mới là người thể để hi sinh?” “Đức vua chỉ ngồi đó, mỗi lúc chỉ di chuyển trong ô vuông. Còn hoàng hậu có thể di chuyển dễ dàng. Tôi thà thua còn hơn là để mất tự do của nàng.” Hamish băn khoăn biết về quân cờ hay là về Diana. “ ấy xứng đáng với cái giá đó sao, Matt?” ta khẽ hỏi. “Đúng vậy,” Matthew chút do dự, nâng quân hậu trắng từ bàn cờ lên và giữ nó giữa những ngón tay mình. “Tôi cũng nghĩ vậy,” Hamish . “Bây giờ cảm thấy theo cách này, nhưng may mắn khi cuối cùng tìm được ấy.” Mắt gã ma cà rồng lấp lánh, và miệng vặn lại thành nụ cười đau khổ. “Nhưng ấy có may mắn , Hamish? ấy có may mắn khi có sinh vật như tôi đeo đuổi?” “Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào . Hãy nhớ - bí mật. được giữ khư khư những bí mật, nếu ấy.” Matthew nhìn vào gương mặt thanh thản của hoàng hậu, những ngón tay khép lại che chở quanh hình thù được chạm khắc bé ấy. vẫn nắm nó trong tay khi mặt trời mọc, rất lâu sau khi Hamish ngủ say.
Chương 10 Cố gắng lắc mạnh cho mảnh băng vai tan sau cái nhìn chăm chăm của Matthew, tôi mở cánh cửa dẫn vào căn hộ của mình. Trong phòng, chiếc máy trả lời tự động chào đón tôi với con số 13 màu đỏ nhấp nháy. Có thêm chín tin nhắn thoại trong máy di động của tôi. Tất cả đều của dì Sarah – dì lo sốt vó về điều diễn ra ở Oxford mà các giác quan thứ sáu mách bảo dì. thể đối mặt với các bà dì còn hơn cả nhà tiên tri của mình, tôi vặn lượng của máy trả lời tự động, tắt chuông điện thoại của cả hai máy, và mệt lử leo lên giường. Sáng hôm sau, khi tôi qua chòi gác để chạy bộ, Fred vẫy tập giấy nhắn về phía tôi. “Tôi nhận chúng sau,” tôi gọi to, và giơ ngón cái lên cái lên ra hiệu . Hai bàn chân tôi nện xuống con đường bụi bẩn quen thuộc xuyên qua những cánh đồng và những đầm lầy phía bắc thành phố. Thể dục buổi sáng giúp tôi cách xa cảm giác tội lỗi vì phớt lờ cuộc gọi của các dì và tránh xa ký ức về gương mặt lạnh lùng của Matthew. Trở lại trường, tôi nhận tập tin nhắn và ném chúng vào chiếc khay. Rồi tôi trì hoãn cuộc gọi về nhà bằng loạt các nghi thức thường lệ dành cho ngày nghỉ cuối tuần dấu của mình: luộc quả trứng, pha trà, thu gom đồ giặt là, chất đống số giấy tờ bị trôi giạt khắp nơi trong phòng. Thế là tôi tiêu phí gần hết thời gian của buổi sáng, và chẳng còn gì khác ngoài việc gọi về New Yỏk. Ở đó vẫn còn sớm, những chắc ai giờ này còn có thể yên tâm nằm giường cả. “Con nghĩ con chơi trò gì thế hả Diana?” Dì Sarah hỏi thay cho lời chào. “Chúc buổi sáng tốt lành, dì Sarah.” Tôi ngả người chìm sâu vào chiếc ghế bành bên chiếc lò sưởi còn dùng đến và gác chân lên giá sách bên cạnh. Tư thế này giữ được lúc. “Đây phải là buổi sáng tốt lành gì cả.” dì Sarah gay gắt. “Chúng ta ngồi cạnh nhau rồi đây. Chuyện gì diễn ra thế?” Em nhấc máy phụ lên. “Chào Em,” tôi , lại vắt chéo hai chân. Lần này được lúc lâu hơn. “Có phải gã ma ca rồng đó làm phiền con ?” Em sốt ruột hỏi. “ hẳn ạ.” “Chúng ta biết con dành thời gian ở bên bọn ma cà rồng và tinh!” Giọng dì vỡ òa mất hết kiên nhẫn. “Con mất trí à, hay có gì lầm lẫn nghiêm trọng ở đây?” “Con mất trí, và chẳng có gì nhầm lẫn cả.” Phần sau hơi dối trá chút, nhưng tôi bắt chéo ngón tay và cầu mong điều tốt đẹp nhất. “Con nghĩ con lừa phỉnh được chúng ta à? Con thể dối phù thủy đâu!” Dì Sarah la lên. “Thôi ngay , Diana!” Kế hoạch phá sản. “Hãy để con bé , Sarah,” Em lên tiếng. “Chúng ta tin tưởng Diana có những quyết định đúng đắn, nhớ ?” Khúc im lặng kế tiếp làm tôi tin rằng chắc có cuộc tranh luận nào đó. Dì Sarah hít vào lấy hơi, nhưng Em cắt ngang. “Con ở đâu tối qua?” “Lớp yoga.” Chẳng có cách nào để quanh co trong cuộc thẩm tra này, nhưng đó là lợi thế để tôi có thể trả lời tất cả các câu hỏi, ngắn gọn và thẳng vào vấn đề. “Yoga?” Dì Sarah hỏi, ngờ vực. “Tại sao con lại tập yoga với bọn khác người ấy hả? Con biết là lộn xộn với bọn tinh và ma cà rồng là nguy hiểm mà?” “Lớp học đó được phù thủy hướng dẫn!” Tôi bắt đầu nổi giận, và như thấy gương mặt bình thản, đáng của Amira trước mắt mình. “Lớp yoga này là ý tưởng của à?” Em hỏi. “Vâng. Nó ở nhà của Clairmont.” Dì Sarah thốt lên thanh phẫn nộ. “Tôi là ta mà,” Em lẩm bẩm với dì. hướng câu tiếp theo sang tôi. “ thấy gã ma cà rồng đứng giữa con và… thứ gì đó. chắc chắn đó là gì.” “Tôi lại với mình rồi, Emily Mather, điều đó vô lý. Ma cà rồng bảo vệ phù thủy!” Giọng dì Sarah rắn đanh chắc chắn. “ chàng ma cà rồng này làm thế đấy ạ,” tôi . “Cái gì cơ? “ Em hỏi và dì Sarah hét lên. “ ta làm thế từ mấy ngày nay rồi.” Tôi cắn môi, chắc nên kể câu chuyện này như thế nào, rồi tôi đánh liều. “Có điều gì đấy xảy ra ở thư viện. Con gọi ra cuốn cổ thư, và nó bị phù phép.” Chỉ có im lặng. “ cuốn sách bị phù phép?” Dì Sarah bỗng trở nên tò mò và thích thú. “Là cuốn bí kíp phép thuật à?” Dì tôi là chuyên gia về các cuốn bí kíp phép thuật, và tài sản quý giá nhất của dì là cuốn sách cổ xưa về các lời nguyền, bùa chú được truyền lại trong gia tộc Bishop. “Con nghĩ vậy,” tôi . “Tất cả đều hữu hình và là những bức tranh minh họa về thuật giả kim.” “Gì nữa?” Dì tôi biết rằng hữu hình chỉ là bước khởi đầu khi nó chuyển thành sách bị phù phép. “Có ai đó yểm bùa lên các dòng chữ của cuốn cổ thư ấy. Có những dòng viết mờ nhạt – lớp này chồng lên lớp kia – nó chuyển động bên dưới bề mặt của các trang sách.” Đầu bên kia, dì Sarah đặt tách cà phê xuống làm phát ra thanh chói tai. “Chuyện này là trước hay sau khi Matthew Clairmont xuất ?” “Trước ạ,” tôi thầm. “Con nghĩ chuyện này đáng đề cập đến khi con kể với chúng ta là con gặp gã ma cà rồng à?” Dì Sarah chẳng hề giấu giếm cơn tức giận của mình. “Lạy Đức mẹ, Diana, sao con có thể khinh suất và liều lĩnh đến thế! Cuốn sách này bị phù phép thế nào? Và đừng có với dì là con biết đấy nhé.” “Nó có mùi rất buồn cười. Cảm giác... lẫn lộn. Ban đầu con thể nâng cái bìa sách lên được. Con áp lòng bàn tay mình lên đó.” Tôi đặt bàn tay lên đùi mình, hồi tưởng lại cái cảm giác chấp nhận tức giữa tôi và cuốn cổ thư, thầm hy vọng được thấy ánh sáng mờ ảo tỏa ra từ mình mà Matthew nhắc đến. “Và?” Dì Sarah hỏi. “Nó râm ran tê nhói ở tay con, rồi có tiếng thở dài và… thư giãn. Con có thể cảm thấy nó, xuyên qua lớp da và những lớp giấy bồi bằng gỗ.” “Làm thế nào con tháo bỏ được bùa chú này? Con có bất cứ lời nào ? Con nghĩ gì khi đó?” Tính hiếu kỳ của dì Sarah giờ hoàn toàn bị đánh thức. “ liên quan gì đến phép thuật phù thủy, dì Sarah ạ. Con cần phải xem cuốn sách để tra cứu, và con đặt lòng bàn tay duỗi thẳng lên nó, chỉ thế thôi.” Tôi hít hơi sâu. “Khi nó mở ra rồi, con ghi chép vài thứ, rồi đóng nó lại, và trả lại cuốn cổ thư ấy.” “Con trả lại nó á???” Có tiếng lạo xạo lớn khi máy điện thoại của dì Sarah đập xuống nền nhà. Tôi nhăn mặt và giơ ống nghe ra xa khỏi tai, nhưng những ngôn từ đầy sắc màu của dì vẫn nghe mồn . “Diana?” Em uể oải . “Con còn ở đó chứ?” “Con đây,” tôi đáp gọn. “Diana Bishop, con biết mà!” Giọng dì Sarah đầy quở trách. “Làm sao con có thể gửi trả vật mang phép thuật mà lại chưa hoàn toàn hiểu về nó chứ?” Dì tôi dạy tôi cách nhận ra những vật bị yểm bùa và phù phép – và phải làm gì với chúng. Bạn phải tránh chạm vào hoặc di chuyển chúng cho tới khi bạn biết phép thuật của chúng hoạt động như thế nào. Bùa chú có thể rất tinh vi, và nhiều loại bùa có cả cơ chế bảo vệ được xây dựng cho chúng. “Con phải làm gì đây, dì Sarah?” Tôi có thể nghe phản kháng của mình. “Cứ ở lì trong thư viện cho tới khi dì có thể kiểm tra nó hay sao? Hôm đó là tối thứ Sáu. Con muốn về nhà.” “Chuyện gì xảy ra khi con trả lại nó?” Dì Sarah khe khắt hỏi. “ khí chung quanh con trở nên là lạ,” tôi thú nhận. “Và cảm tưởng như thư viện bị co rút lại trong khoảnh khắc.” “Con gửi trả lại cuốn cổ thư và bùa chú lại phục hồi.” dì Sarah và rồi lại thốt ra tiếng chửi thề. “ vài phù thủy cao tay có thể lập nên câu thần chú tự động cài đặt lại như cũ khi chúng bị phá vỡ rồi. Con phải chơi với tay nghiệp dư đâu.” “Đó là năng lượng lôi kéo họ đến Oxford,” tôi , đột nhiên hiểu ra. “ phải việc con mở cuốn cổ thư ấy. Chính việc bùa chú được cài đặt lại tạo ra năng lượng ấy. Các sinh vật khác người chỉ có ở lớp yoga, dì Sarah ạ. Con bị bao vây bởi các ma cà rồng và tinh ở trong Bodleian. Clairmont đến thư viện vào tối thứ Hai, hy vọng có thể liếc qua cuốn cổ thư sau khi ta nghe hai phù thủy trò chuyện về nó. Đến thứ Ba thư viện nhan nhản toàn bọn họ.” “Còn ở chỗ này,” dì Sarah kèm theo tiếng thở dài, “khoảng từ tháng trước, bọn tinh lại bắt đầu xuất ở Madison để tìm kiếm con.” “Chắc hẳn còn có các phù thủy con có thể nhờ cậy giúp đỡ.” Em cố gắng giữ cho giọng vừa phải, nhưng tôi có thể nghe thấy lo lắng trong đó. “Có các phù thủy,” tôi ngập ngừng , “nhưng họ chẳng giúp đỡ gì. pháp sư mặc áo choàng vải tuýp nâu còn cố gắng bức ép chui vào đầu con. Ông ta chắc cũng thành công, nếu có Matthew.” “Gã ma cà rồng đó đứng chắn giữa con và vị phù thủy kia à?” Em hốt hoảng. “ thể nào! bao giờ có chuyện kẻ thứ ba can thiệp vào việc giữa hai phù thủy nếu phải là trong số phù thủy chúng ta.” “Các dì nên biết ơn và lấy làm mừng!” Tôi có thể muốn bị Clairmont thuyết giảng hay ăn sáng cùng ta lần nữa, nhưng gã ma cà rồng này xứng đáng có được chút tin tưởng. “Nếu ta có ở đó, con biết điều gì xảy ra nữa. Trước đây, có phù thủy nào từng... xâm phạm đến con như thế.” “Có lẽ con nên rời khỏi Oxford thời gian,” Em gợi ý. “Con rời khỏi đây chỉ vì có phù thủy biết cư xử trong thị trấn.” Em và dì Sarah thào với nhau, tay họ che ống . “Dì thích chuyện này chút nào,” cuối cùng dì tôi với cái giọng như thể thế giới này vỡ ra vậy. “Những cuốn sách bị phù phép ư? tinh đeo bám theo con ư? Ma cà rồng đưa con học yoga ư? Phù thủy đe dọa người nhà Bishop ư? Tưởng là các phù thủy phải tránh điều biết trước rồi chứ, Diana! Thậm chí cả con người cũng biết có điều gì đó xảy ra.” “Nếu con ở lại Oxford, con phải kín đáo, ít lộ diện hơn,” Em tán đồng. “Còn nếu thể làm thế được, con nên về nhà thời gian và để tình huống này lắng dịu xuống . Con đừng có mượn cuốn cổ thư ấy nữa. Có thể họ mất dần hứng thú thôi.” người nào trong chúng tôi tin điều này là khả dĩ. “Con chạy trốn đâu.” “Con chạy trốn,” Em quả quyết. “Con ở lại.” Và tôi để lộ ra mảy may nào hèn nhát chừng nào Matthew Clairmont còn ở quanh đây. “ ta thể ở bên con từng phút từng giờ đâu, cưng ạ,” Em buồn bã , nghe thấy cả những suy nghĩ thầm lặng của tôi. “Con nên nghĩ là .” Dì Sarah buồn rầu . “Con cần giúp đỡ của Matthew Clairmont. Con có thể tự chăm sóc bản thân,” tôi vặn lại. “Dianam gã ma cà rồng đó phải bảo vệ con xuất phát từ lòng tốt của đâu,” Em . “Con cần đáp lại thứ gì đó mà mong muốn. Con phải tìm cho ra đó là gì.” “Có lẽ ta hứng thú với thuật giả kim. Có lẽ ta chỉ buồn chán thôi.” “Ma cà rồng biết buồn chán,” dì Sarah quả quyết, “ thể buồn chán khi dòng máu của phù thủy ở gần .” Chẳng gì có thể lay chuyển được định kiến của dì tôi. Tôi muốn kể cho dì nghe về lớp học yoga, ở đó có hơn giờ đồng hồ mà tôi được tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi với các sinh vật khác, Nhưng chẳng ích gì. “Đủ rồi.” Tôi kiên quyết. “Matthew Clairmont đến gần hơn nữa, và các dì cần phải lo lắng về việc con nghịch ngợm vớ vẩn với cuốn cổ thư bị phù phép kia đâu. Nhưng con rời Oxford, và đó là kết luận cuối cùng.” “Được rồi,” dì Sarah . “Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra với con từ nơi này chúng ta cũng đành bất lực thôi.” “Con biết, dì Sarah.” “Và lần tới nếu kiếm được thứ gì đó có phép thuật – cho dù con có mong muốn nó hay – hãy cư xử sao cho giống phù thủy, chứ đừng có như mấy con người ngu ngốc đấy. Đừng có phớt lờ nó hay với bản thân rằng con tưởng tượng ra thứ đó nhé.” ngu dốt ngoan cố và việc phớt lờ các tượng siêu nhiên là những thứ đứng đầu trong danh sách chọc tức dì Sarah theo kiểu của loài người. “Hãy cư xử với nó bằng trân trọng, và nếu con biết làm gì hãy hỏi xin giúp đỡ.” “Con hứa,” tôi đáp nhanh, chỉ muốn cúp máy. Nhưng dì Sarah chưa cho qua. “Dì chưa bao giờ nghĩ là có ngày dì phải thấy người nhà Bishop trông cậy vào bảo vệ của con ma cà rồng, hơn là vào chính sức mạnh của ấy.” dì . “Mẹ của dì chắc phải trở mình trong mộ mất. Đây là hậu quả của việc tránh né con người của con đấy. Diana ạ. Con mắc phải mớ bòng bong, và tất cả là bởi vì con nghĩ mình có thể phớt lờ những di sản được kế thừa, Nó như ý con đâu.” Những lời chua chát của dì Sarah còn làm lên men cả bầu khí căn phòng lúc lâu sau khi tôi gác máy. ~*~ Buổi sáng hôm sau, tôi vươn người theo mấy động tác yoga chừng nửa giờ rồi pha ấm trà. Mùi hương vani và hương hoa của nó làm người ta thấy thoải mái, và nó có vừa đủ lượng caffeine để giúp tôi gà gật vào buổi chiều mà vẫn tỉnh táo vào buổi tối. Sau khi các lá trà ngấm nước, tôi bọc cái ấm sứ trắng vào trong chiếc khăn tắm để giữ nhiệt và mang nó tới chỗ ghế bành cạnh lò sưởi nơi dành cho những suy nghĩ sâu kín của tôi. Tĩnh tâm lại nhờ hương vị trà quen thuộc, tôi thu hai đầu gối lên sát cằm và nhìn lại tuần của mình. Cho dù bắt đầu từ chỗ nào, tôi cũng thấy mình quay trở lại với cuộc đối thoại cuối cùng với Matthew Clairmont. Có phải những nỗ lực của tôi nhằm ngăn cho phép thuật liên quan đến cuộc đời mình đều vô ích ? Bất cứ khi nào bị bế tắc với công việc nghiên cứu, tôi lại tưởng tượng ra chiếc bàn màu trắng, sáng bóng và trống trơn, rồi các bằng chứng như những miếng xếp hình cần được ghép lại với nhau. Nó khiến áp lực giảm và cảm giác như trò chơi. Bây giờ tôi đổ ào mọi thứ từ tuần qua lên chiếc bàn ấy - Ashmole 782, Matthew Clairmont, vẻ tập trung thơ thẩn của Agatha Wilson, ông pháp sư mặc áo vải tuýp, khuynh hướng dạo nhắm mắt của tôi, các sinh vật khác người trong Bodleian, cách tôi tìm cuốn Những Chú giải và Thắc mắc từ giá sách, lớp yoga của Amira. Tôi xoay những mảnh màu trắng ra và ghép chúng lại với nhau, cố tạo hình cho bức tranh, những vẫn có quá nhiều lỗ hổng và chẳng có hình ảnh ràng nào ra cả. Đôi khi nhặt lên miếng ghép bất kỳ giúp tôi hiểu ra được điều gì là quan trọng nhất. Đặt những ngón tay tưởng tượng của mình lên bàn, tôi kéo ra vật mờ mờ - và hy vọng đó là Ashmole 782. Đôi mắt đen láy của Matthew Clairmont nhìn lại tôi. Tại sao gã ma cà rồng lại quan trọng đến thế? Các mảnh ghép trong trò xếp hình của tôi bắt đầu tự di chuyển theo ý chí của riêng chúng, xoáy tít trong các khuôn hình nhanh đến mức thể theo kịp. Tôi đập hai bàn tay tưởng tượng lên bàn, và những mảnh ghép đó ngừng nhảy nhót. Hai lòng bàn tay tôi nhói đau. Điều này dường như còn giống trò chơi nữa. Nó giống như phép thuật hơn. Và nếu đúng như thế, có nghĩa tôi và sử dụng nó trong toàn bộ nghiệp học thuật của mình. Nhưng phép thuật có chỗ trong cuộc đời tôi, và tâm trí tôi cương quyết đóng lại trước cái khả năng là tôi và vi phạm vào chính các nguyên tắc của mình mà hay biết. ~*~ Ngày hôm sau, tôi đến phòng giữ đồ của thư viện vào đúng giờ như thường lệ. Tôi lên cầu thang, vòng qua góc quanh gần bàn thu sách và cưỡng lại ý chí của bản thân để đưa mắt nhìn ta. Clairmont có ở đó. “ cần gì sao?” Miriam với giọng khó chịu, xô mạnh chiếc ghế khi ta đứng dậy. “Giáo sư Clairmont đâu rồi?” “ ấy săn,” Miriam đáp, mắt ánh lên vẻ ưa, “ở Scotland.” săn, tôi nuốt khan. “Ồ. Khi nào ta quay lại?” “Tôi biết, tiến sĩ Bishop ạ.” Miriam khoanh tay trước ngực và để lộ ra đôi chân bé xíu. “Tôi hy vọng ta đưa tôi tới lớp yoga ở Chòi Gác Cổ tối nay,” tôi yếu ớt , cố gắng nghĩ ra lý do khả dĩ để dừng lại. Miriam quay qua và nhặt lên cuộn lông thú màu đen. ta ném nó cho tôi, và tôi tóm lấy khi nó bay tới ngang hông mình. “ để quên thứ đó trong xe ấy hôm thứ Sáu.” “Cảm ơn.” Chiếc áo len của tôi thoảng mùi hoa cẩm chướng và quế. “ nên cẩn thận hơn với mọi thứ của mình.” Miriam làu bàu. “ là phù thủy, tiến sĩ Bishop ạ. Hãy tự chăm sóc bản thân và thôi đặt Matthew vào tình huống bất khả kháng thế này .” Tôi quay gót mà lời nào rồi thẳng tới nhận các cuốn cổ thư từ chỗ Sean. “Mọi chuyện ổn chứ?” chàng hỏi, đưa mắt nhìn Miriam kèm theo cái cau mày. “Hoàn hảo.” Tôi đưa cho chàng số chỗ ngồi thường lệ của mình, trong khi Sean trông vẫn quan tâm và mỉm cười ấm áp. Sao Miriam dám với mình như thế chứ? Tôi tức bốc khói trong khi yên vị vào chỗ làm việc quen thuộc. Và rồi, các ngón tay tôi ngứa ngáy như thể có hàng trăm con côn trùng bò da. Những tia lấp lánh xíu màu xanh dương và xanh lá tạo nên cung lửa điện giữa các đầu ngón tay tôi, để lại dấu vết dòng năng lượng khi chúng phun trào ra từ các đường mép cơ thể tôi. Tôi xiết chặt và vội ngồi lên hai bàn tay. Chuyện này hay rồi. Giống như tất cả các thành viên của trường đại học, tôi thề là mang lửa hay đồ gây cháy vào trong thư viện Bodley. Lần cuối cùng các ngón tay tôi xử như thế này là khi tôi mười ba tuổi, và nhà tôi phải giải thích với mọi người rằng căn hộ bị cháy là do bắt lửa trong nhà bếp. Khi cảm giác bốc hỏa dịu rồi, tôi thận trọng nhìn quanh và thở ra nhõm. Chỉ có mình tôi trong khu Selden End. có ai chứng kiến màn trình diễn pháo hoa của tôi cả. Thận trọng rút hai bàn tay ra, tôi soi xét kỹ lưỡng xem có dấu hiệu nào nữa của hoạt động dị thường . Màu xanh dương nguội dần thành màu xám bạc khi sức mạnh rút dần khỏi những đầu ngón tay tôi. Tôi mở cái hộp đầu tiên ngay sau khi biết chắc mình đánh lửa vào nó và tỏ vẻ như có chuyện gì khác thường xảy ra. Dù vậy tôi vẫn do dự khi chạm vào máy tính vì sợ rằng các ngón tay mình đốt cháy cả bàn phím. ngạc nhiên khi tôi khó mà tập trung được, và cuốn cổ thư ấy vẫn đặt trước mặt tôi cho tới lúc gần sát giờ ăn trưa. Có lẽ chút trà giúp tôi bình tĩnh lại. Vào đầu học kỳ, người ta thường thấy chật ních người đọc trong cánh thư viện xây từ thời trung cổ của khu Công tước Humfrey. Nhưng hôm nay chỉ có duy nhất con người: phụ nữ lớn tuổi tra cứu cuốn cổ thư có tranh minh họa bằng chiếc kính lúp. Bà ta bị ngồi ép giữa tinh lạ mặt và trong những nữ ma cà rồng có mặt từ tuần trước. Gillian Chamberlain cũng ở đó, quắc mắt nhìn tôi ngang qua bốn phù thủy khác như thể tôi làm mất mặt toàn bộ giống nòi của mình vậy. Nhanh chóng qua, tôi dừng trước bàn của Miriam. “Hình nhận được các chỉ thị phải bám theo tôi tới chỗ ăn trưa. chứ?” ta đặt cây bút chì xuống với cẩn trọng quá mức. “Sau .” Miriam ở trước mặt tôi khi tôi xuống cầu thang sau. ta chỉ vào các bậc thang ở phía kia. “ xuống lối ấy.” “Tại sao? Có gì khác nhau chứ?” “Tùy muốn làm sao làm.” ta nhún vai. Xuống nhịp cầu thang nữa, tôi liếc nhìn qua ô cửa sổ cánh cửa xoay dẫn tới khu phòng đọc tầng thượng, và thở gấp. Căn phòng đầy đến mức muốn nổ tung vì các sinh vật khác người. Họ tự lập. chiếc bàn dài chẳng có gì khác ngoài tinh, rất gây chú ý bởi vì chẳng có quyển sách nào đặt trước mặt họ. Ma cà rồng ngồi ở bàn khác, thân hình họ hoàn hảo và mắt chẳng bao giờ chớp. Các phù thủy diện cách thận trọng, nhưng vẻ cau có của họ báo hiệu khó chịu hơn là tập trung, vì tinh và ma cà rồng chiếm trước những cái bàn gần cầu thang nhất. “Chúng ta là đám hỗn độn. Chẳng có con người nào lại có thể làm ngơ trước cảnh này,”Miriam nhận xét. “Tôi phải làm gì bây giờ?” tôi thào hỏi. “ gì cả. Matthew có ở đây,” ta tỉnh bơ. “Tại sao họ lại sợ Matthew đến thế?” “ phải hỏi ấy. Ma cà rồng đưa chuyện đâu. Nhưng đừng lo,” ta tiếp tục, nhe hàm răng trắng sắc nhọn ra, “những quy ước bất thành văn ấy có hiệu quả hoàn hảo, bởi vậy chẳng có gì phải sợ cả.” Thọc hai tay vào túi, tôi lập cập xuống cầu thang, xuyên qua đám du khách ở sân trong. Tại Blackwell, tôi nuốt cái bánh sandwich và chai nước. Miriam đón ánh mắt tôi khi tôi lướt qua ta đường ra cửa. ta đặt qua bên tờ báo giết người bí và bám theo tôi. “Diana,” ta khẽ khi chúng tôi qua cổng thư viện, “nhiệm vụ của là gì?” “ phải việc của ,” tôi bật lại. Miriam thở dài. Trở lại khu Công tước Humfrey, tôi tìm vị pháp sư mặc áo tuýp nâu. Miriam quan sát tôi chăm chú từ lối trung tâm, vẫn như bức tượng đá. “Ông là người đứng đầu à?” Ông ta nghiêng đầu qua bên vẻ xác nhận. “Tôi là Diana Bishop,” tôi , đưa tay ra. “Tôi là Peter Knox. Và tôi biết rất là ai. là con của Rebecca và Stephen.” Ông ta chạm vào mấy đầu ngón tay tôi. cuốn bí kíp pháp thuật từ thế kỷ mười chín ở trước mặt ông ta, và chồng sách tham khảo đặt bên cạnh. Cái tên quen quen, dù tôi thể xác định , và việc nghe tên bố mẹ mình từ miệng vị pháp sư này khiến tôi bất an. Tôi nuốt khan, khó nhọc. “Làm ơn dọn sạch… bạn bè của ông ra khỏi thư viện. Các sinh viên mới đến đây hôm nay, và chúng tôi muốn họ hoảng sợ.” “Nếu chúng tôi có được lời hòa nhã, tiến sĩ Bishop ạ, tôi chắc rằng chúng tôi có thể có vài sắp xếp được.” Ông ta đẩy cái kính lên gờ mũi. Càng đến gần Knox, tôi càng cảm thấy nguy hiểm. Làn da dưới móng tay tôi bắt đầu đau nhói như bị kim châm báo hiệu điềm may. “ việc gì phải sợ tôi cả,” ông ta tỏ vẻ âu sầu . “Ma cà rồng kia lại là chuyện khác…” “Tôi nghĩ tôi tìm thấy thứ gì đó thuộc về các phù thủy,” tôi ngắt ngang. “Tôi còn giữ nó nữa. Nếu ông muốn Ashmole 782, có phiếu cầu ở bàn trước mặt ông đấy.” “ hiểu phức tạp của tình huống này.” “Đúng, và tôi cũng muốn biết. Làm ơn hãy để tôi yên!” “Bề ngoài rất giống mẹ mình.” Ánh mắt Knox quét khắp mặt tôi. “Nhưng tôi thấy còn có chút bướng bỉnh của Stephen nữa.” Vẫn là lòng đố kỵ kèm với khó chịu thường thấy mỗi khi có phù thủy nhắc đến cha mẹ hay lịch sử gia đình tôi – như thể bằng cách ấy họ có được đòi hỏi công bằng với gia đình tôi rồi. “Tôi thử,” ông ta tiếp tục, “nhưng tôi kiểm soát các động vật kia.” Knox vẫy tay qua phía bên kia lối , nơi trong hai “chị em đáng sợ” theo dõi ông ta và tôi với vẻ thích thú. Tôi ngập ngừng rồi sang phía ta ngồi. “Tôi chắc rằng nghe cuộc trò chuyện của chúng tôi, và chắc cũng biết là tôi nằm dưới giám sát của hai ma cà rồng,” tôi . “Nếu tin tưởng Matthew và Miriam cứ việc ở lại đây. Nhưng hãy dọn sạch những kẻ khác ra khỏi phòng đọc sách tầng thượng .” “Phù thủy chẳng đáng giá khoảnh khắc trong quỹ thời gian của ma cà rồng, nhưng hôm nay làm ta ngạc nhiên đấy, Diana Bishop. Hãy đợi cho tới khi ta kể với em Clarissa rằng nó để lỡ mất điều gì.” Những lời của nữ ma cà rồng này được thốt lên bằng giọng kéo dài từ tốn chuẩn mực cho thấy dòng dõi hoàn hảo và nền giáo dục tốt. ta cười, những chiếc răng trắng bóng trong ánh sáng mờ của cánh nhà xây từ thời trung cổ. “Thách thức Knox – đứa trẻ như ư? là câu chuyện hay ta phải kể đây!” Tôi kéo ánh mắt mình rời khỏi vẻ hoàn mỹ của ta và bỏ tìm kiếm gương mặt tinh quen thuộc.
chàng tinh mê cà phê Latte lảng vảng quanh chỗ cổng kết nối máy tính, đeo tai nghe và ư ử theo điệu nhạc nào đó, trong khi đầu dây nối lủng lẳng phía đùi. Khi ta kéo cái tai nghe nhựa màu trắng ra khỏi tai, tôi cố gắng làm ta cảm nhận được tính nghiêm trọng của tình huống này. “Nghe này, cứ thoải mái lướt Net ở đây. Nhưng chúng ta có vấn đề rắc rối ở dưới lầu. cần thiết phải có tới hai tá tinh để quan sát tôi đâu.” chàng tinh thốt ra thanh có vẻ thông cảm. “ biết ngay thôi.” “Họ có thể quan sát tôi từ xa ? Ở Sheldonian chẳng hạn? Hay là White Horse ấy?” Tôi cố gắng tỏ vẻ giúp đỡ. “Nếu , người đến đọc sách bắt đầu đặt nghi vấn mất.” “Chúng tôi giống ,” ta vẻ mơ màng. “Điều đó có nghĩa là thể giúp hay là giúp?” Tôi cố gắng bình tĩnh. “Cũng như nhau cả thôi. Chúng tôi cũng cần được biết mà.” Tôi thể kiên nhẫn thêm nữa. “Bất cứ điều gì có thể làm để làm giảm bớt áp lực cho các chỗ ngồi đó cũng được đánh giá rất cao.” Miriam vẫn quan sát tôi. Phớt lờ ta, tôi trở lại bàn của mình. Cuối ngày làm việc hoàn toàn có hiệu quả, tôi véo vào sống mũi, rủa thầm, rồi thu dọn đồ dùng của mình. ~*~ Sáng hôm sau Bodleian ít đông đúc hơn nhiều. Miriam cáu tiết nguệch ngoạc viết và buồn ngẩng đầu lên khi tôi ngang qua. Vẫn chẳng có dấu hiệu nào của Clairmont. Dù vậy, mọi sinh vật vẫn tuân theo quy tắc mà vạch , miễn là im lặng, ngồi yên và tránh xa khu Selden End. Gillian ở cánh xây từ thời trung cổ, lúi húi cuốn giấy papyrus của ta, ở đó còn có hai “chị em đáng sợ” và vài tinh khác. Ngoại trừ Gillian, người thực làm việc, còn lại đều qua lại với vẻ đáng kính hoàn hảo. Khi tôi thò đầu ngó qua cánh cửa xoay vào phòng đọc sách tầng thượng sau khi làm tách trà nóng vào giữa buổi sáng, chỉ có vài sinh vật ngẩng đầu lên nhìn. chàng tinh thích cà phê và nhạc ở trong đó. ta ngoắc mấy ngón tay và ranh mãnh nháy mắt với tôi. Tôi hoàn thành lượng công việc hợp lý, dù vẫn đủ bù cho ngày hôm qua. Tôi bắt đầu bằng việc đọc những vần thơ liên quan đến thuật giả kim – những trang viết tinh vi – được cho là do Mary, người chị của Moses[8] viết. “Ba vật nếu ngươi ba giờ đồng hồ chú tâm,” phần của bài thơ viết, “ được liên kết lại với nhau Tận cùng.” Ý nghĩa của những vần thơ này đến nay vẫn còn là điều bí , mặc dù “ba vật liên kết” đó rất có thể là kết hợp hóa học của bạc, vàng và thủy ngân. Có thể Chúa làm thí nghiệm từ những vần thơ này chăng? Tôi băn khoăn, ghi chú vào các quy trình hóa học có thể liên quan. [8. Moses: trong tiếng Việt là Mô-sê hoặc Môi-se, là lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri, nhà chỉ huy quân và sử gia. Ông cũng được xem là người chép kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh, còn gọi là Ngũ kinh Moses)] Khi lật qua trang khác – bài thơ khuyết danh có tiêu đề Bài thơ ngọn lửa Sophic Tam Phần, những tương đồng giữa hình ảnh tưởng tượng của nó và bức tranh minh họa tôi xem ngày hôm qua về ngọn núi giả kim thuật là quá ràng nhầm lẫn vào đâu được. Bức tranh mô tả khó hiểu về những mỏ quặng và những người thợ mỏ đào vào lòng đất để tìm kim loại và đá quý. Nơi hầm mỏ này hai viên cổ thạch người tìm thấy, Vì đâu người xưa xưng tụng nơi đây là Vùng Đất Linh Thiêng; Có ai biết được giá trị của chúng, Sức mạnh và Giới hạn, Tạo Hóa làm sao với Thiên Nhiên Xao Động Vì chúng liệu người có Khuấy Động lên Vàng của Tạo Hóa Hay Bạc kia, Kho Báu được giấu kín chúng hé lộ ra rồi. Tôi nén tiếng rên. Nghiên cứu của tôi trở nên phức tạp hơn gấp bội nếu tôi phải kết nối chỉ hội họa với khoa học mà còn cả hội họa với thơ ca nữa. “Hẳn là rất khó để tập trung khi những con ma cà rồng giám sát thế này.” Gillian Chamberlain đứng ngay cạnh tôi, đôi mắt màu nâu nhạt của ta ánh lên ác ý dù được kiềm nén. “ muốn gì, Gillian?” “Tôi chỉ muốn thân thiện thôi mà, Diana. Chúng ta là những người chị em mà, nhớ ?” Mái tóc đen bóng của Gillian lướt cổ áo. Vẻ óng mượt của nó cho thấy ta chẳng phải lo lắng về sóng tĩnh điện. Sức mạnh của ta hẳn là thường xuyên được giải phóng ra ngoài. Tôi rùng mình. “Tôi chẳng có chị em, Gillian ạ. Tôi là con mà.” “Thế cũng tốt. Gia đình là nguyên nhân của quá đủ những rắc rối rồi. Hãy xem những gì xảy ra ở Salem ấy. Tất cả đều là lỗi của Bridget Bishop!” Giọng Gillian đượm vẻ đắc thắng. Lại thế rồi, tôi thầm nghĩ, gấp quyển sách trước mặt lại. Những người nhà Bishop lúc nào cũng là những đề tài bàn luận hấp dẫn thể cưỡng lại. “ về chuyện gì vậy, Gillian?” Giọng tôi đanh lại. “Bridget Bishop bị kết tội là phù thủy và bị xử tử hình. Bà ấy chủ mưu cuộc săn lùng phù thủy – bà ấy là nạn nhân của nó, như những người khác. biết điều đó, cũng như mọi phù thủy khác trong cái thư viện này!” “Bridget Bishop lôi kéo chú ý của con người, đầu tiên là với những người lùn của bà ta, rồi sau đó là với những bộ đồ khêu gợi và phóng đãng. cuồng loạn của loài người có lẽ qua nếu vì bà ta.” “Bà ấy được minh oan là có tội thực hành thuật phù thủy,” tôi vặn lại và xù lông. “Vào năm 1680 – nhưng ai tin điều đó cả. ai, sau khi họ tìm thấy những người lùn trong tường hầm rượu của bà ta, bị đóng đinh cứng xuyên qua người và đầu bị xé toác ra. Sau đấy Bridget chẳng làm gì để bảo vệ cho những đồng đạo phù thủy của mình khỏi bị nghi ngờ. Bà ta quá độc lập.” Giọng Gillian hạ xuống. “Đó cũng là vết xe đổ của mẹ đấy.” “Thôi , Gillian.” Bầu khí quanh chúng tôi dường như lạnh giá và sáng cách khác thường. “Mẹ và cha là những kẻ khinh khỉnh, kênh kiệu, giống như , cứ nghĩ rằng họ chẳng cần đến hỗ trợ của hội đồng phù thủy Cambridge sau khi cưới nhau. Họ có bài học rồi, đúng ?” Mắt tôi nhắm nghiền, nhưng vẫn thể ngăn nổi hình ảnh mà tôi mất gần cả cuộc đời mình để cố quên : bố mẹ tôi nằm chết giữa vòng tròn vạch bằng phấn ở nơi nào đó tại Nigeria, thân thể họ vỡ nát và đẫm máu. Lúc đó, dì tôi cho tôi biết chi tiết về cái chết của họ, bởi vậy tôi lẻn vào thư viện công cộng để tra cứu. Đó là nơi lần đầu tiên tôi trông thấy bức hình và dòng tiêu đề khủng khiếp kèm với nó. Những cơn ác mộng liên tiếp ập đến với tôi suốt nhiều năm qua. “Hội đồng phù thủy Cambridge chẳng thể làm gì để ngăn chặn vụ giết hại cha mẹ tôi cả. Họ bị giết ở lục địa khác bởi những con người lo lắng và sợ hãi.” Tôi siết chặt hai thành ghế, hy vọng ta nhìn thấy những đốt ngón tay trắng bệch của mình. Gillian cười khó chịu. “ phải con người, Diana ạ. Nếu thế hung thủ bị bắt và được giải quyết rồi.” ta cúi xuống, ghé mặt sát gần mặt tôi. “Rebecca Bishop và Stephen Proctor giữ riêng những bí mật với các phù thủy khác. Chúng tôi cần tìm ra họ. Cái chết của họ may, nhưng là cần thiết. Cha có sức mạnh hơn cả chúng tôi từng mong.” “Hãy thôi về gia đình tôi và bố mẹ tôi như thể họ là của ,” tôi cảnh cáo. “Họ bị con người giết.” tiếng động rền vang trong tai tôi, lạnh lẽo vây quanh chúng tôi càng tăng thêm. “ chắc chứ?” Gillian thầm, gửi cơn ớn lạnh thấu da mới vào tận xương tủy tôi. “Là phù thủy, biết nếu tôi dối .” Tôi gồng mình, quyết tâm để lộ ra bối rối của mình. Điều Gillian về cha mẹ tôi thể là , nhưng vẫn chưa có dấu hiệu cảnh báo đặc trưng nếu đó là lời dối – tia sáng giận dữ, cảm giác bất chấp lấn át tất cả. “Hãy nghĩ về những điều xảy đến với Bridget Bishop và cha mẹ vào lần tới khi từ chối lời mời tụ hội của hội đồng phù thủy nhé,” Gillian lẩm bẩm, đôi môi ta gần sát bên tai tôi đến nỗi tôi cảm thấy được cả hơi thở quét qua làn da. “ phù thủy nên giữ riêng những bí mật với các phù thủy khác. Những điều tồi tệ xảy đến khi ta làm thế.” Gillian đứng thẳng lại và nhìn đóng đinh vào tôi vài giây, cơn tê nhói râm ran do cái nhìn của ta kéo dài lâu hơn và khó chịu hơn. Nhìn chằm chằm vào cuốn cổ thư đóng trước mặt, tôi từ chối đáp lại ánh mắt của ta. Sau khi ta bỏ , nhiệt độ khí trở lại bình thường. Khi tim ngừng đập dồn và tiếng ồn ào trong tai dịu , tôi thu dọn vật dụng của mình với hai bàn tay run rẩy, mong muốn vô cùng được trở lại căn hộ của mình. Chất adrenaline chạy khắp người tôi, và tôi biết chắc phải mất bao nhiêu lâu mới có thể gạt bỏ được cơn hoang mang này. Cuối cùng tôi cũng ra được khỏi thư viện mà gây ra việc gì bất ngờ nữa, đồng thời tránh cái nhìn sắc bén của Miriam. Nếu Gillian đúng, chính đố kỵ của các phù thủy đồng đạo mới là điều tôi cần phải đề phòng chứ phải sợ hãi của loài người. Việc đề cập tới những sức mạnh giấu của bố khiến điều gì đó le lói lên trong trí nhớ của tôi, nhưng rồi nó lại lẩn mất khi tôi thử cố định nó lại để nhìn nó ràng hơn. Ở New College, ông Fred réo gọi tôi từ căn chòi gác với nắm thư. chiếc phong bì dày màu kem nằm ngay cùng, mang theo cảm giác đặc biệt len lỏi vào lòng tôi. Đó là lời nhắn từ hiệu trưởng, mời tôi đến uống rượu trước bữa tối. Trong căn hộ của mình, tôi cân nhắc đến việc gọi cho thư ký của ông ta và giả đò bị ốm để thoát khỏi lời mời. Đầu tôi quay cuồng, và tôi khó có thể trụ vững trong tình trạng tại dù chỉ nhấp giọt rượu nâu thôi. Nhưng trường đại học cư xử rất hào phóng khi tôi đề nghị có chỗ ở, nên ít nhất việc tôi có thể làm là bày tỏ lòng cảm kích của cá nhân mình. Trực giác về bổn phận của nhà chuyên môn bắt đầu thay thế mối lo lắng bị Gillian khuấy động lên khi nãy. Nắm chắc lấy tư cách của học giả như trong cuộc sống thường nhật, tôi quyết định nâng cao giá trị danh tiếng của mình. Thay đồ xong, tôi thẳng đường tới nhà hiệu trưởng và bấm chuông. thành viên trong số cán bộ giảng dạy ở trường ra mở cửa và dẫn tôi vào trong, đưa tôi tới phòng khách riêng. “Xin chào, tiến sĩ Bishop.” Đôi mắt xanh lam của Nicholas Marsh có những nếp nhăn nơi khóe mắt, và mái tóc bạch kim của ông cùng với gò má đỏ hồng khiến ông trông giống ông già Noel. Được xoa dịu bởi nồng nhiệt của ông, đồng thời ý thức về bổn phận của nhà chuyên môn, tôi mỉm cười đáp lại. “Giáo sư Marsh.” Tôi đón lấy bàn tay chìa ra của ông. “Cám ơn ông mời tôi.” “Chậm quá, tôi e là thế. Tôi ở Italy mà, biết đấy.” “Vâng, người thủ quỹ của trường với tôi.” “Thế là bỏ quá cho tôi vì thiếu quan tâm tới rồi nhé,” ông . “Tôi hy vọng được thực bổn phận của mình bằng cách giới thiệu với người bạn cũ của tôi mới đến Oxford được vài ngày. Ông ấy là tác giả nổi tiếng và viết về nhiều đề tài có thể khiến hứng thú đấy.” Marsh đứng sang bên, để tôi thoáng thấy mái tóc nâu dày ngả muối tiêu và ống tay áo của chiếc áo khoác bằng vải tuýp màu nâu. Tôi đông cứng trong bối rối. “Lại đây và gặp Peter Knox ,” ông hiệu trưởng , chạm vào khuỷu tay tôi. “Ông ấy biết rất nhiều về các công trình của đấy.” Ông pháp sư đứng dậy. Cuối cùng tôi nhận ra điều gì lảng tránh tôi. Cái tên Knox có mặt trong câu chuyện báo về vụ giết người liên quan tới ma cà rồng. Ông ta là chuyên gia mà cảnh sát gọi đến để khám nghiệm những cái chết có uẩn khúc bí . Các ngón tay tôi bắt đầu ngứa ngáy. “Tiến sĩ Bishop,” Knox , đưa bàn tay ra. “Tôi gặp trong thư viện Bodleian rồi.” “Vâng, tôi tin là thế.” Tôi đưa tay mình ra và nhõm khi thấy nó phát ra các tia lửa. Chúng tôi siết tay trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể. Các đầu ngón tay bàn tay phải của ông ta hơi phát sáng và cuộn lại chút xíu, tách rời của xương và da mà con người nào có thể nhận thấy được. Nó gợi tôi nhớ về thời ấu thơ, khi hai bàn tay của mẹ tôi cũng lập lòe sáng và cuộn lại để làm bánh kếp và gập đồ giặt là. Nhắm nghiền hai mắt, tôi chống đỡ trước cơn sóng phép thuật lan tràn. Tiếng điện thoại reo. “Tôi e là tôi phải nhận cuộc gọi này,” Marsh cáo lỗi. “Hãy ngồi xuống .” Tôi ngồi cách Knox ở vị trí xa nhất có thể, chiếc ghế bành bằng gỗ lung thẳng thường được dành riêng cho những sinh viên năm nhất mấy được ưu ái. Knox và tôi vẫn giữ im lặng trong khi Marsh lầm rầm chuyện và chẹp lưỡi tán thành trong điện thoại. Ông bấm nút bàn phím rồi về phía tôi, ly rượu nâu tay. “Đó là ông hiệu phó. Hai lính mới mất tích,” ông , ám chỉ các sinh viên mới. “Hai người cứ chuyện gẫu nhé, tôi phải vào phòng làm việc lát để giải quyết việc này đây. Xin thứ lỗi cho tôi nhé.” Cánh cửa ở phía xa mở ra rồi khép lại, và những giọng hội ý bị bóp nghẹt ngoài tiền sảnh trước khi im lặng. “Sinh viên mất tích ư?” Tôi ôn tồn . Chắc chắn Knox dùng phép thuật thiết kế cả vụ lộn xộn này và cú điện thoại kia để kéo Marsh . “Tôi cũng hiểu, tiến sĩ Bishop ạ,” Knox lầm bầm . “Có lẽ đây là việc may đối với trường đại học khi sắp nhầm chỗ cho bọn trẻ. Bên cạnh đó, chuyện này cho chúng ta cơ hội trò chuyện riêng.” “Chúng ta phải về chuyện gì đây?” Tôi ngửi ly rượu nâu của mình và cầu cho ông hiệu trưởng mau quay trở lại. “Rất nhiều thứ.” Tôi liếc nhanh ra cửa. “Nicholas khá là bận cho tới khi chúng ta trò chuyện xong.” “Hãy kết thúc chuyện này , để ông hiệu trưởng có thể trở lại với ly rượu của ông ấy.” “ như muốn,” Knox . “Hãy cho tôi biết điều gì mang tới Oxford, tiến sĩ Bishop.” “Thuật giả kim.” Tôi trả lời mọi câu hỏi của người đàn ông này, chỉ ước gì Marsh quay lại phòng, nhưng cũng cho ông ta biết nhiều hơn mức cần thiết. “ chắc phải biết rằng Ashmole 782 bị yểm bùa. ai mang trong huyết quản dù chỉ giọt máu của dòng tộc Bishop lại có thể thất bại trong việc khám phá nó. Tại sao gửi trả lại nó?” Đôi mắt nâu của Knox sắc lạnh. Ông ta muốn cuốn cổ thư cũng nhiều như Matthew Clairmont – có khi còn hơn thế nữa. “Tôi xong việc với nó,” khó để giữ cho giọng tôi bình thản được. “ có gì trong cuốn cổ thư ấy gợi lên hứng thú của ư?” “ gì cả.” Miệng Peter Knox vặn xoắn lại thành biểu cảm khó chịu, thù địch. Ông ta biết tôi dối. “ chia sẻ những gì thấy được với gã ma cà rồng đó à?” “Tôi cho là ông ám chỉ giáo sư Clairmont.” Khi các sinh vật khác người này từ chối dùng tên riêng, đó là cách phủ định rằng những kẻ giống bạn ngang hàng với bạn. Các ngón tay Knox lần nữa lại như bị tháo rời ra. Khi tôi tưởng ông ta định chỉ chúng về phía tôi, thay vào đó ông ta lại cuộn chúng quanh hai tay vịn của thành ghế. “Chúng tôi đều tôn trọng gia đình và những gì phải hứng chịu. Tuy nhiên, tôi phải hỏi những câu hỏi này do mối quan hệ chính thống của với sinh vật kia. phản bội lại giống nòi của cha ông mình bằng thái độ tự phụ đấy. Phải chấm dứt ngay!” “Giáo sư Clairmont là đồng nghiệp chuyên môn,” tôi , hướng cuộc chuyện ra xa khỏi gia đình mình, “và tôi chẳng biết gì về cuốn cổ thư đó cả. Nó ở trong quyền chiếm dụng của tôi có vài phút thôi. Phải, tôi biết là nó bị yểm bùa. Nhưng điều đó chẳng quan trọng đối với tôi, bởi vì tôi cầu cuốn sách ấy chỉ để tra cứu nội dung.” “Gã ma cà rồng ấy muốn cuốn sách đó từ hơn thế kỷ nay rồi,” Knox , giọng đắc thắng. “ bị cấm được phép có nó.” “Tại sao?” Giọng tôi mất vẻ thản nhiên bởi cơn giận bị đè nén. “Bởi vì nó thuộc về phù thuỷ ư? Ma cà rồng và tinh thể yểm bùa lên đồ vật được. phù thuỷ đặt bùa chú lên cuốn sách ấy, và giờ nó bị yểm bùa chú trở lại. Ông lo lắng gì chứ?” “Nhiều hơn là có thể nhận thức thấu đáo được đấy, tiến sĩ Bishop ạ.” “Tôi tự tin là tôi có thể theo kịp, ông Knox ạ,” tôi đáp trả. Miệng Knox mím chặt vẻ hài lòng khi tôi nhấn mạnh vị trí của ông ta ở bên ngoài giới học thuật. Mỗi khi vị pháp sư này nhắc đến học vị của tôi, trang trọng của ông ta nghe như là lời giễu cợt, như thể ông ta cố cho tôi thấy rằng ông ta, chứ phải tôi, mới là chuyên gia . Tôi có thể sử dụng sức mạnh của mình, và thể gọi về được chùm chìa khóa bị mất của mình, nhưng tôi thể chịu nổi khi bị ông pháp sư này tỏ vẻ bề . “Tôi thấy phiền lòng rằng – người nhà Bishop – lại kết giao với con ma cà rồng.” Ông ta giơ tay lên hướng về miệng tôi như cử chỉ phản đối sôi sục. “Chúng ta hãy thôi lăng mạ lẫn nhau bằng những điều dối trá hơn nữa. Thay vào đó, nỗi khiếp sợ tự nhiên của nên là cảm giác dành cho con thú kia, nên cảm thấy biết ơn.” Tôi vẫn im lặng, nhưng trong lòng giận điên lên. “Và tôi quan tâm bởi vì chúng ta có nguy cơ sắp gây chú ý của con người,” ông ta tiếp. “Tôi cố để các sinh vật đó ra khỏi thư viện mà.” “À, nhưng nó chỉ là thư viện thôi, đúng ? con ma cà rồng để lại những tử thi bị rút sạch máu ở khắp Westminster. Bọn tinh bồn chồn, yếu đuối cách bất thường hơn bao giờ hết do điên loạn và biến đổi năng lượng khắp thế giới. Chúng ta thể để bị phát .” “Ông với các phóng viên rằng chẳng có gì là siêu nhiên khác thường đối với những cái chết đó mà.” Knox nhìn vẻ hoài nghi. “ mong là tôi với con người mọi điều đấy chứ?” “Thực tế là tôi mong thế đấy, khi họ trả tiền cho ông.” “ chỉ là kẻ tự phụ mà còn ngu ngốc nữa. Điều đó làm tôi ngạc nhiên đấy, tiến sĩ Bishop ạ. Cha của nổi tiếng vì trực giác nhạy bén của ông ấy.” “Tôi có ngày dài rồi. Ông xong chưa?” Đột ngột đứng lên tôi bước về phía cửa ra vào. Thậm chí thường ngày cũng chẳng có ai khác ngoài dì Sarah và Em chuyện về bố mẹ tôi. Giờ – sau những tiết lộ của Gillian – còn có điều gì đó gần như ghê tởm liên quan tới chuyện đó nữa. “, chưa đâu,” Knox khó chịu . “Điều kích thích trí tò mò của tôi lúc này là làm sao phù thủy ngạo mạn được đào tạo chút nào như lại có thể xoay sở phá được bùa chú chống lại mọi nỗ lực của những phù thủy cao tay hơn rất nhiều?” “Vậy đó là lý do tất cả các người theo dõi tôi.” Tôi ngồi xuống, lưng áp sát vào thành ghế. “Đừng có tỏ vẻ thỏa mãn với bản thân thế,” ông ta xẵng giọng. “Thành công của có thể chỉ là ăn may thôi – hiệu ứng của ngày kỷ niệm liên quan tới thời điểm bùa chú này được thiết lập lần đầu chẳng hạn. Thời gian trôi có thể gây cản trở phép phù thủy, và những ngày kỷ niệm thường là thời điểm đặc biệt bất ổn. chưa cố thử gọi nó lần nữa, nhưng khi làm thế, nó có thể dễ dàng như lần đầu tiên đâu.” “Và chúng ta tổ chức kỷ niệm ngày kỷ niệm nào đây?” “Lễ kỷ niệm trăm năm mươi năm.” Tôi băn khoăn tại sao phù thủy lại yểm bùa lên cuốn cổ thư ở nơi như thế. Ai đó chắc hẳn cũng tìm kiếm nó suốt những năm qua… Tôi tái người. Chúng tôi quay trở về Matthew Clairmont và mối quan tâm của với Ashmole 782. “ theo kịp đấy chứ, phải ? Lần tới khi gặp gã ma cà rồng của , hãy hỏi làm gì vào mùa thu năm 1859. Chưa chắc kể với , nhưng có thể tiết lộ vừa đủ để tự hiểu ra.” “Tôi mệt mỏi rồi. Tại sao ông kể cho tôi, phù thủy với phù thủy, quan tâm của ông đối với Ashmole 782 là gì?” Tôi được nghe lý do vì sao tinh muốn cuốn cổ thư. Thậm chí Matthew cũng cho tôi vài lời giải thích. Còn đam mê của Knox với nó vẫn còn là mảnh thiếu trong bộ xếp hình. “Cuốn cổ thư ấy thuộc về chúng ta,” Knox dữ dội đáp. “Chúng ta là những sinh vật duy nhất có thể hiểu được những bí mật của nó và là những sinh vật duy nhất đáng tin cậy để gìn giữ những bí mật ấy.” “Cái gì ở trong cuốn cổ thư ấy?” Tôi hỏi, ngọn lửa cháy bùng lên trong tâm trí. “Những câu thần chú đầu tiên về việc tạo dựng. Những miêu tả về các bùa chú ràng buộc thế giới này lại với nhau.” Vẻ mặt Knox trở nên mơ màng. “Bí mật của vĩnh hằng. Làm thế nào phù thủy tạo ra tinh đầu tiên. Làm thế nào có thể tiêu diệt được ma cà rồng, lần và mãi mãi.” Ánh mắt ông ta xuyên thấu vào tôi. “Nó là cội nguồn của tất cả sức mạnh của chúng ta, quá khứ và tại. thể cho phép nó rơi vào tay của bọn tinh hay ma cà rồng – hay con người.” Các kiện của buổi chiều ập về với tôi, và tôi phải ép hai đầu gối vào nhau để giữ cho chúng khỏi run lên bần bật. “Chẳng có ai lại cho tất cả những thông tin đó vào trong mỗi cuốn sách cả.” “Phù thủy đầu tiên làm thế,” Knox . “Và con trai, con bà ta cũng vậy, truyền lại qua thời gian. Đó là lịch sử của chúng ta, Diana ạ. Tất nhiên là muốn bảo vệ nó khỏi những con mắt tọc mạch, đúng ?” Ông hiệu trưởng bước vào phòng như thể ông ấy vẫn đợi ngay bên ngoài cửa. căng thẳng nghẹt thở, nhưng ông dường như vui sướng hề nhận thấy gì cả. “ là vụ nhặng xị chẳng ra gì.” Marsh lắc lắc mái đầu bạc trắng của mình. “Mấy cậu lính mới kiếm được cái thuyền bất hợp pháp. Giờ chúng bị kẹt dưới cây cầu và tồi tệ hơn là vì rượu mà chúng hoàn toàn hài lòng với tình huống mình mắc phải. Kết quả của lãng mạn.” “Mừng quá,” tôi lí nhí . Đồng hồ điểm tiếng bốn mươi lăm phút trôi qua, và tôi đứng dậy. “ giờ này rồi cơ à? Tôi có cái hẹn ăn tối.” “ tham dự bữa tối với chúng tôi ư?” ông hiệu trưởng cau mày hỏi. “Peter luôn mong mỏi được trò chuyện với về thuật giả kim đấy.” “Chúng tôi lại tương ngộ lần nữa. Sớm thôi.” Knox trôi chảy đáp. “Chuyến viếng thăm của tôi chắc khiến quý đây khỏi ngạc nhiên, và dĩ nhiên ấy có nhiều thứ hay ho để làm hơn là dùng bữa tối với hai ông già ở tuổi chúng ta.” Hãy cẩn thận với Matthew Clairmont. Giọng Knox vang lên trong đầu tôi. là kẻ giết người đấy. Marsh mỉm cười. “Phải rồi, dĩ nhiên là thế. Tôi hy vọng sớm gặp lại – khi các tân binh ổn định rồi.” Hãy hỏi về năm 1859. Để xem liệu có chia sẻ những bí mật của mình với phù thủy . khó có thể là bí mật nếu ông biết. Vẻ ngạc nhiên nét mặt Knox khi tôi đáp trả lại lời cảnh cáo trong đầu của ông ta theo cùng cách. Đây là lần thứ sáu tôi sử dụng phép thuật trong năm nay, nhưng lần này chắc chắn là tình tiết giảm tội. “ là vinh hạnh, thưa ngài hiệu trưởng. Và cảm ơn ông lần nữa vì để cho tôi được ở trong trường năm nay.” Tôi gật đầu với ông pháp sư. “Chào ông Knox.” Bỏ chạy khỏi nhà ông hiệu trưởng, tôi hướng thẳng về nơi náu thân thuộc của mình trong các hành lang và loanh quanh các cột trụ đó cho tới khi mạch đập của tôi thôi chạy đua nữa. Tâm trí tôi chỉ còn lùng bùng câu hỏi duy nhất: Phải làm gì bây giờ khi mà hai phù thủy – đồng loại của tôi – đe dọa tôi chỉ trong vòng có buổi chiều? Với sáng suốt bất ngờ tôi biết câu trả lời. Trở về phòng, tôi lục tìm trong túi cho tới khi các ngón tay tìm thấy tấm danh thiếp nhàu nhĩ của Clairmont, rồi tôi quay số đầu tiên. trả lời. Ngay sau khi giọng trả lời tự động của máy cất lên, tôi liền : “Matthew, là Diana đây. Tôi xin lỗi làm phiền khi ở ngoài thị trấn.” Tôi hít vào hơi sâu, cố gắng xua cảm giác tội lỗi liên quan tới quyết định kể cho Clairmont biết về Gillian và bố mẹ tôi, mà chỉ về Knox. “Chúng ta cần chuyện. Có vài chuyện xảy ra. Là ông pháp sư ở thư viện lần trước. Ông ta tên là Peter Knox. Nếu nhận được tin nhắn này, làm ơn gọi điện cho tôi.” Tôi cam đoan với dì Sarah và Em là để ma ca rồng nào can thiệp vào cuộc sống của mình. Gillian Chamberlain và Peter Knox làm tôi thay đổi quyết định. Với đôi bàn tay run rẩy, tôi hạ thấp mảnh cửa sổ và khóa cửa ra vào, ước gì mình chưa từng nghe đến Ashmole 782.
Chương 11 Đêm hôm đó, tôi thể nào ngủ nổi. Tôi ngồi ghế sofa, rồi giường, điện thoại để cạnh bên. Ngay cả ấm trà và đống e-mail cũng làm tâm trí tôi rũ bỏ được các kiện trong ngày. Ý nghĩ rằng các phù thủy có thể sát hại bố mẹ tôi là điều vượt ra ngoài nhận thức của tôi. Đẩy lùi được những ý nghĩ đó, tôi lại bị trám đầy ý nghĩ về thứ bùa chú rắc rối cuốn Ashmole 782 và mối quan tâm của Knox đối với nó. Vẫn thức chong chong cho tới bình minh, tôi tắm rửa và thay quần áo. Chẳng buồn ăn sáng, tôi ngồi cạnh cửa ra vào cho tới giờ Bodleian mở cửa, rồi bộ quãng ngắn tới thư viện và lấy chỗ ngồi thường lệ. Điện thoại vẫn ở trong túi áo, đặt chế độ rung, mặc dù tôi rất ghét khi điện thoại của người khác bắt đầu kêu vo vo và di chuyển trong im lặng. Mười giờ ba mươi, Peter Knox tản bộ vào và ngồi đối diện cuối phòng. Giả bộ cần trả lại cuốn sách, tôi tới bàn mượn sách để chắc chắn rằng Miriam vẫn ở trong thư viện. ta ở đó – và ta tức giận. “Hãy với tôi rằng gã phù thủy đó chiếm chỗ ngồ ở dưới kia .” “Có đấy. Ông ta cứ nhìn chằm chằm vào lưng tôi trong khi tôi làm việc.” “Tôi ước gì mình to lớn hơn,” Miriam nhăn nhó . “Tôi nghĩ cần phải có nhiều hơn là kích thước bề ngoài để có thể ngăn cản được sinh vật đó đấy.” Tôi tặng ta nụ cười khích lệ. Khi Matthew đến Selden End, báo trước hay tiếng động, cũng có những mảnh băng lạnh thông báo xuất của . Thay vào đó là cảm giác những bông tuyết lướt dọc theo tóc, vai và lưng của tôi, như thể kiểm tra nhanh để chắc chắn là tôi vẫn còn nguyên vẹn. Các ngón tay tôi bấu chặt lấy mặt bàn trước mặt. Trong lúc, tôi dám quay lại vì sợ có khi đó chỉ là Miriam thôi. Khi thấy rằng đó đích thị là Matthew, trái tim tôi đánh thịch tiếng to. Nhưng gã ma cà rồng nhìn về phía tôi nữa. nhìn Peter Knox chằm chằm, nét mặt dữ tợn. “Matthew,” tôi khẽ gọi, nhỏm người lên hai chân. rời mắt khỏi nam phù thủy kia và sải bước tới cạnh tôi. Khi tôi do dự cau mày trước vẻ dữ tợn của , Matthew liền tặng tôi nụ cười làm yên lòng, vững dạ. “Tôi hiểu là có vài kích động.” Matthew ở gần đến nỗi hơi mát từ cơ thể làm tôi tỉnh táo dễ chịu như cơn gió mát giữa ngày hè oi ả. “Chúng ta chẳng thể điều khiển được gì cả,” tôi đều đều, ý thức về Peter Knox. “Cuộc trò chuyện của chúng ta có thể đợi – chỉ tới cuối ngày thôi – được ?” Matthew hỏi. Những ngón tay lơ đãng chạm vào vật cộm lên chỗ xương quai xanh, nó dưới những lằn kẻ của chiếc áo len. Tôi thắc mắc biết đeo cái gì, ngay sát nơi trái tim ấy. “Chúng ta có thể tập yoga.” Mặc dù tôi thức trắng đêm, nhưng chuyến lái xe ra Woodstock trong phương diện di chuyển cách tốt như thế, sau đó lại là tiếng rưỡi đồng hồ tĩnh lại, là hoàn hảo. “Thế tuyệt,” tôi chân thành. “ cố muốn tôi làm việc ở đây với ?” hỏi, cúi người về phía tôi. Mùi hương của quá mạnh mẽ làm tôi choáng váng. “ cần phải thế đâu,” tôi vững vàng trả lời. “Hãy cho tôi biết nếu đổi ý. Còn tôi gặp ở bên ngoài Hertford lúc sáu giờ.” Matthew nhìn vào mắt tôi lúc lâu nữa. Rồi gửi cái nhìn khinh ghét về phía Peter Knox và trở lại chỗ ngồi của mình. Khi tôi ngang qua bàn để ăn trưa, Matthew húng hắng ho. Miriam ném phịch chiếc bút chì xuống vẻ khó chịu và cùng tôi. Knox bám theo tôi tới Blackwell. Matthew trông chừng việc đó. ~*~ Buổi chiều như kéo dài bất tận, và tôi gần như thể tỉnh táo được. Đến năm giờ, tôi sẵn sàng rời khỏi thư viện hơn bao giờ hết. Knox vẫn còn ở lại khu Selden End, cùng với đám người hỗn độn sặc sỡ. Matthew bộ xuống lầu với tôi, và tinh thần tôi bẫng khi guồng chân chạy thẳng về phòng, thay đồ và tóm lấy tấm thảm tập yoga của mình. Khi xe ô tô của phóng tới, tôi đứng đợi sẵn rồi. “ đến sớm,” Matthew nhận xét kèm theo nụ cười, đón lấy thảm tập của tôi và cho nó vào trong cốp. thình lình hít vào hơi khi giúp tôi vào trong xe, tôi băn khoăn biết cơ thể mình truyền thông điệp gì sang cho . “Chúng ta cần chuyện.” “ tắc đường. Chúng ta ra khỏi Oxford trước .” đóng cửa xe sau lưng tôi và trèo vào ghế lái. Giao thông đường Woodstock đông đúc hơn vì dòng sinh viên và giảng viên đại học đổ về. Matthew khéo léo điều khiển xe vòng qua những điểm phải di chuyển chậm lại. “Scotland là thế nào?” tôi hỏi khi chúng tôi ra khỏi địa phận thành phố, quan tâm chuyện gì miễn là chịu chuyện. Matthew liếc nhanh sang tôi và quay lại nhìn đường. “Tốt.” “Miriam bảo săn.” Gã ma cà rồng hơi bực bội, mấy ngón tay đưa lên chỗ cái vật cộm lên dưới áo len. “ ấy đáng lẽ nên .” “Tại sao?” “Bởi vì ta nên bàn luận vài điều với bè bạn khác giống nòi,” hơi nóng nảy. “Các phù thủy có với những sinh vật phải là phù thủy rằng họ vừa mới trở về sau bốn ngày bỏ bùa và luộc bọn dơi ?” “Phù thủy luộc dơi!” tôi phẫn nộ đáp. “Cũng thế thôi.” “ ở mình à?” tôi hỏi. Matthew đợi lúc mới trả lời. “.” “Tôi cũng đơn ở Oxford đâu,” tôi bắt đầu. “Những sinh vật ấy…” “Miriam kể với tôi rồi.” Hai bàn tay xiết chặt vào vô lăng. “Nếu tôi biết rằng phù thủy quấy rầy là Peter Knox tôi chẳng bao giờ rời Oxford.” “ đúng,” tôi thốt lên, cần phải thú nhận trước khi giải quyết đề tài về Knox. “Tôi bao giờ có thể tách rời phép thuật ra khỏi cuộc đời mình. Tôi vẫn sử dụng phép thuật trong công việc của mình, dù nhận ra. Nó có trong mọi thứ. Tôi tự lừa dối bản thân bao nhiêu năm qua.” Những lời ấy lộn xộn tuôn ra từ miệng tôi. Matthew vẫn tập trung vào việc lái xe. “Tôi thấy sợ hãi.” Bàn tay lạnh giá của chạm vào đầu gối tôi. “Tôi biết.” “Tôi phải làm gì đây?” tôi thầm. “Chúng ta tìm ra thôi,” Matthew điềm tĩnh đáp, rẽ vào cổng của Chòi Gác Cổ. chăm chú nhìn gương mặt tôi khi chúng tôi lên tới đỉnh đồi và quành xe vào vòng đỗ. “ mệt rồi. có thể tập được yoga ?” Tôi gật đầu. Matthew ra khỏi xe và mở cửa cho tôi. Lần này giúp tôi ra khỏi xe. Thay vào đó vòng ra cốp sau, lôi thảm tập của cả hai ra và khoác chúng lên vai. Các thành viên khác trong lớp học nối nhau qua, ném những cái nhìn tò mò về phía chúng tôi. Matthew đợi cho tới khi chúng tôi chỉ còn lại hai người với nhau ở chỗ đường lái xe. nhìn xuống tôi, đấu tranh với bản thân để vượt qua điều gì đó. Tôi cau mày, đầu ngả ra sau để nhìn lên mắt . Tôi vừa mới thú nhận về gắn kết với pháp thuật mà tôi nhận ra trước đây. Có điều gì kinh khủng đến mức thể kể cho tôi? “Tôi ở Scotland với người bạn cũ, Hamish Osborne,” cuối cùng . “Người đàn ông được báo chí ủng hộ ứng cử vào Quốc hội, bởi vậy ông ấy có thể là Bộ trưởng Bộ tài chính ư?” tôi kinh ngạc . “Hamish ứng cử vào Quốc Hội,” Matthew cộc lốc , chỉnh lại dây buộc của túi tập yoga. “Vậy ông ấy là gay!” tôi , nhớ lại bản tin đêm khuya gần đây. Matthew liếc nhìn tôi khinh thường. “Phải. Quan trọng hơn cả, là tinh.” Tôi biết nhiều về thế giới của các sinh vật khác người, nhưng việc tham gia vào nền chính trị hay tôn giáo của loài người cũng bị ngăn cấm. “Ồ. Tài chính là lựa chọn nghề nghiệp kỳ lạ đối với tinh.” Tôi ngẫm nghĩ trong giây lát. “Dường như điều đó lý giải vì sao ông ta giỏi đến thế trong việc tính toán phải làm gì đối với tất cả chỗ tiền đó.” “ ra rất giỏi trong việc tính toán tìm hiểu nhiều thứ.” Im lặng kéo dài, và Matthew nhúc nhích ở chỗ cửa vào. “Tôi cần xa và cần săn.” Tôi nhìn bối rối. “ để quên áo len trong xe của tôi,” , như thể đó là lời giải thích. “Miriam đem trả cho tôi mới đây rồi.” “Tôi biết. Tôi thể giữ nó. có hiểu vì sao ?” Khi tôi lắc đầu, gã ma cà rồng thở dài và rồi chửi thề bằng tiếng Pháp. “Xe của tôi toàn mùi hương của , Diana ạ. Tôi cần phải rời khỏi Oxford.” “Tôi vẫn hiểu,” tôi thú . “Tôi thể thôi nghĩ về .” đưa tay luồn xới mái tóc và nhìn xuống đường. Tim tôi đập bất thường, và lượng máu lưu thông giảm xuống làm đầu óc tư duy của tôi chậm hẳn. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu ra. “ sợ làm tổn thương tôi ư?” Tôi có nỗi sợ hãi lành mạnh đối với các ma cà rồng, nhưng Matthew khác. “Tôi thể chắc chắn.” Ánh mắt thận trọng và giọng thể lời cảnh báo. “Vậy là bỏ bởi vì những chuyện xảy ra tối thứ Sáu.” Hơi thở của tôi bỗng nhõm hẳn. “,” Matthew dịu dàng , “nó chẳng liên quan gì cả.” “Hai người vào trong, hay là định tập luôn ở ngoài đường xe thế hả?” Amira gọi ra từ ngưỡng cửa. Chúng tôi vào lớp học, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn nhau khi trong hai nghĩ rằng người kia nhìn mình. Lần trao đổi thông tin chân thành đầu tiên của chúng tôi làm thay đổi mọi thứ. Cả hai chúng tôi cố gắng tìm hiểu xem điều gì xảy đến tiếp theo. Sau khi lớp học kết thúc, khi Matthew luồn chiếc áo len qua đầu, có thứ gì đó sáng lấp lánh màu bạc đập vào mắt tôi. Thức đó được buộc quanh cổ bằng sợi dây da mảnh. Đó là cái liên tục chạm vào qua lớp áo len, hết lần này tới lần khác, giống như lá bùa vậy. “Đó là cái gì thế?” tôi chỉ. “ thứ để nhắc nhở,” Matthew đáp gọn. “Về cái gì cơ?” “Sức mạnh phá hủy của giận dữ.” Peter Knox cảnh cáo tôi phải cẩn thận khi ở gần Matthew. “Nó là thánh tích của người hành hương ư?” Hình dáng đó làm tôi nhớ đến chiếc trong viện bảo tàng Quốc. Nó trông có vẻ cổ xưa. gật đầu và kéo sợi dây ra. Nó đung đưa tự do, lấp lánh mỗi khi bắt sáng. “ chiếc bình hai quai để thờ cúng lấy từ Bethany.” Nó có hình dáng giống như cái quan tài và chỉ vừa đủ lớn để giữ vài giọt nước thánh. “Lazarus,” tôi ra hơi, mắt nhìn cái quan tài. Bethany là nơi Chúa cải tử hoàn sinh cho Lazarus. Và mặc dù được nuôi nấng như kẻ ngoại giáo, tôi vẫn biết được lý do tại sao những người theo đạo Cơ Đốc vẫn tiếp tục hành hương. Họ làm thế để chuộc tội của mình. Matthew thả chiếc bình hai quai trở vào trong áo len, giấu nó khỏi cặp mắt của những kẻ khác người vẫn còn ở đầy trong phòng. Chúng tôi chào tạm biệt Amira và đứng bên ngoài Chòi Gác Cổ trong tiết trời thu khô hanh. Ngoài trời tối om, bất chấp những chiếc đèn pha chiếu ngập ánh sáng lên các viên gạch của ngôi nhà. “ cảm thấy khá hơn chưa?” Matthew hỏi, đánh tan những ý nghĩ của tôi. Tôi gật đầu. “Thế kể cho tôi nghe điều gì xảy ra .” “Đó là cuốn cổ thư. Knox muốn có nó. Agatha Wilson – sinh vật mà tôi gặp trong Blackwell – rằng tinh muốn có nó. cũng muốn có nó. Nhưng Ashmole 782 bị yểm bùa.” “Tôi biết,” lại . con cú trắng sà xuống trước mặt chúng tôi, hai cánh của nó đập đập trong trung. Tôi lảo đảo giơ hai cánh tay lên để bảo vệ mình, hiểu sao tôi tin là nó tấn công tôi bằng chiếc mỏ và móng vuốt sắc nhọn của nó, Nhưng rồi con cú mất hứng và bay vút lên đậu mấy cây sồi dọc lối xe . Tim tôi đập dồn dập, cơn hoảng loạn đột ngột quét từ dưới chân lên. báo trước, Matthew mở cửa sau của chiếc Jaguar và đẩy tôi vào ghế ngồi. “Hãy giữ đầu cúi thấp và thở ,” , cúi thấp mình đám sỏi, những ngón tay đặt nơi đầu gối tôi. Cơn buồn nôn trào lên - ngoài nước ra chẳng có gì trong dạ dày tôi cả - nó trườn lên cổ họng làm tôi nghẹn thở. tay bưng miệng, tôi nôn khan dữ dội. Matthew với tay vén món tóc ương ngạnh của tôi ra sau tai, các ngón tay mát lạnh và dễ chịu. “ an toàn rồi,” . “Tôi xin lỗi.” Bàn tay tôi run rẩy che ngang miệng khi cơn buồn nôn lắng xuống. “Cơn hoảng loạn này bắt đầu từ tối qua sau khi tôi gặp Knox.” “ có muốn dạo chút ?” “,” tôi ngập ngừng đáp. Chỗ đậu xe có vẻ quá lớn và rất tối, hai chân tôi có cảm giác như chúng được làm ra từ cao su vậy. Matthew xem xét tôi kỹ càng bằng cặp mắt sắc bén. “Tôi đưa về nhà. Phần cuối cuộc chuyện có thể đợi sau.” kéo tôi đứng lên từ ghế sau và giữ hờ bàn tay tôi cho tới khi tôi ổn định xong vào ghế hành khách phía trước, Tôi nhắm mắt trong khi leo vào xe. Chúng tôi ngồi im lặng trong lúc, rồi Matthew xoay chìa khóa khởi động. Chiếc Jaguar nhanh chóng xuất phát. “Chuyện này có thường xảy ra ?” hỏi, giọng biểu cảm xúc. “, ơn Chúa,” tôi đáp. “Nó xảy ra rất nhiều lần khi tôi còn , nhưng giờ khá hơn nhiều rồi. Chỉ là thừa adrenaline thôi.” Cái nhìn thoáng qua của Matthew dừng lại nơi hai bàn tay tôi khi tôi gạt tóc ra khỏi mặt. “Tôi biết,” lại , nhả phanh và phóng ra đường xe của dinh thự. “ có thể ngửi thấy nó à?” Matthew gật đầu. “Nó hình thành trong kể từ lúc với tôi rằng và sử dụng pháp thuật. Đây có phải là lý do vì sao tập thể dục quá nhiều – chạy bộ, bơi thuyền, yoga ấy?” “Tôi thích sử dụng thuốc. Chúng làm tôi cảm thấy lơ mơ.” “Dù sao tập thể dục thế này có khi còn hiệu quả hơn.” “Lần này nó hiệu quả,” tôi lầm bầm, nghĩ đến hai bàn tay phóng điện gần đây. Matthew phóng xe ra khỏi khuôn viên của Chòi Gác Cổ và lên tới đường cái. tập trung vào lái xe trong khi chiếc ô tô êm ái di chuyển khẽ lúc lắc người tôi. “Tại sao gọi cho tôi?” Matthew bất chợt hỏi, cắt ngang cơn mơ màng của tôi. “Bởi vì Knox và Ashmole 782,” tôi đáp, cảm giác thoáng qua của cơn hoang mang quay trở lại trước tâm trạng thay đổi đột ngột của . “Tôi biết điều đó. Ý tôi là tại sao lại gọi tôi. còn có bạn bè – là phù thủy, con người – những người có thể giúp đỡ mà?” “ hẳn. bạn bè loài người nào biết tôi là phù thủy. phải mất nhiều ngày để giải thích điều gì thực diễn ra trong thế giới này – nếu họ chịu ở yên đủ lâu để tôi hoàn thành việc giải thích của mình. Tôi có bạn bè là phù thủy, và tôi thể lôi kéo dì tôi vào chuyện này. Đó phải lỗi của họ khi tôi làm điều gì đó ngu ngốc và gửi trả lại cuốn cổ thư khi tôi chưa hiểu về nó.” Tôi cắn môi. “Tôi nên gọi cho ư?” “Tôi biết, Diana ạ. Hôm thứ Sáu phù thủy và ma cà rồng thể là bạn mà.” “Hôm thứ Sáu tôi với rất nhiều thứ.” Matthew im lặng, tập trung cao độ vào các khúc cua đường. “Tôi biết nghĩ gì hơn nữa.” Tôi ngừng lại, cân nhắc những lời tiếp theo của mình. “Nhưng có điều tôi biết chắc. Tôi thà chia sẻ thư viện với còn hơn là với Knox.” “Ma cà rồng bao giờ có thể hoàn toàn đáng tin cậy khi họ ở bên các động vật máu nóng.” Ánh mắt Matthew tập trung vào tôi trong khoảnh khắc lạnh lẽo. “Động vật máu nóng ư?” tôi cau mày hỏi. “Con người, phù thủy và tinh – mọi loài phải là ma cà rồng.” “Tôi thà mạo hiểm để cắn còn hơn để cho Knox tuồn vào trong óc mình hòng mò tìm thông tin.” “ ta cố làm thế à?” Giọng Matthew lặng lẽ, nhưng hứa hẹn cơn thịnh nộ trong đó. “Chẳng có gì,” tôi vội vàng . “Ông ta chỉ cảnh cáo tôi về thôi.” “ nên làm vậy. ai có thể trở thành cái mà ta có, cho dù ta có cố gắng thế nào nữa. được lãng mạn hóa ma cà rồng. Knox có thể được thích nhất, nhưng ta đúng về tôi đấy.” “Người khác chọn bạn bè cho tôi – và dĩ nhiên mù quáng như Knox.” Các ngón tay tôi bắt đầu có cảm giác nhoi nhói khi cơn giận dâng lên, và tôi nhét chúng xuống dưới đùi. “Thế ra đó là chúng ta ư? Những người bạn ư?” Matthew hỏi. “Tôi nghĩ vậy. Bạn bè kể cho nhau nghe , thậm chí khi điều đó có khó khăn nữa.” Bị xáo trộn bởi nghiêm túc của cuộc trò chuyện, tôi nghịch mấy sợi len áo mình. “Ma cà rồng đặc biệt giỏi trong khoản làm bạn bè đâu.” Giọng lại giận dữ. “Nghe này, nếu muốn tôi để mặc mình…” “Dĩ nhiên là .” Matthew cắt ngang. “Chỉ là những mối quan hệ với ma cà rồng rất... phức tạp thôi. Chúng tôi có thể che chở bảo vệ - nhưng cũng có thể muốn chiếm hữu nữa. có lẽ thích thế.” “ che chở nho nghe khá là tuyệt vời đối với tôi vào lúc này đấy.” Câu trả lời của tôi mang cho đôi mắt Matthew tia nhìn yếu đuối. “Tôi nhắc nhở về điều đó khi bắt đầu phàn nàn,” , vẻ yếu đuối nhanh chóng được thay thế bằng thích thú châm biếm. rẽ vào đường Holywell tới cánh cổng vòm của chòi gác, Fred liếc nhìn chiếc xe và cười hết cỡ trước khi kín đáo nhìn nơi khác. Tôi đợi Matthew mở cửa, kiểm tra trong xe cẩn thận để chắc chắn là để quên thứ gì trong đó – dù là cái chun buộc tóc – để tránh việc phải quay trở lại Scotland. “Nhưng tất cả điều này còn hơn Knox và cuốn cổ thư ấy,” tôi vội khi Matthew đưa tôi tấm thảm tập. Nhìn thái độ của bạn nghĩ chẳng có sinh vật nào dám tiếp cận tôi từ mọi hướng. “Chuyện đó có thể đợi, Diana ạ. Và đừng lo lắng. Lần sau Peter Knox tới gần trong vòng trăm mét.” Giọng dữ tợn, và lại chạm vào chiếc bình hai quai dưới lớp áo len. Chúng tôi cần có thời gian ở cùng nhau – phải trong thư viện, mà là ở riêng hai người. “ có muốn đến ăn tối với tôi vào ngày mai ?” Tôi hỏi, hạ thấp giọng. “Sau đó, chúng ta có thể trò chuyện về những gì xảy ra.” Matthew cứng người, vẻ bối rối lướt qua nét mặt cùng với điều gì đó mà tôi thể gọi tên. Mấy ngón tay hơi khép lại quanh món thánh tích của người hành hương trước khi thả nó ra. “Tôi rất thích,” chậm rãi . “Tuyệt.” Tôi mỉm cười. “Bảy giờ rưỡi nhé?” Chàng ma cà rồng gật đầu và tặng tôi nụ cười tươi rói ngượng nghịu. Tôi vừa bước được hai bước nhớ ra là còn vấn đề cần xử lý trước tối mai. “ ăn gì?” Tôi thầm, mặt đỏ bừng. “Tôi ăn tạp,” Matthew , gương mặt sáng bừng hơn cả nụ cười khiến tim tôi lỗi nhịp. “Vậy , bảy giờ rưỡi nhé.” Tôi quay , cười và lắc đầu trước câu trả lời vô phương của . “Ồ, còn điều nữa,” tôi , quay ngược lại. “Hãy để Miriam làm việc của ấy. Tôi có thể tự chăm sóc bản thân mình mà.” “ ấy cũng với tôi như vậy,” Matthew , vòng qua phía bên cửa ghế lái. “Tôi cân nhắc chuyện ấy. Nhưng tìm thấy tôi trong khu Công tước Humfrey vào ngày mai, như thường lệ.” vào trong xe, và khi thấy tôi có vẻ gì là di chuyển, liền hạ cửa kính xuống. “Tôi khỏi cho tới khi ra khỏi tầm mắt tôi,” , nhìn tôi vẻ hài lòng. “Ma cà rồng,” tôi lẩm bẩm, lắc đầu trước lề thói cổ hủ của chàng.
Chương 12 Chẳng có kinh nghiệm nấu nướng nào của tôi dạy tôi biết phải cho chàng ma cà rồng ăn gì khi ta đến dùng bữa tối. Trong thư viện, tôi dành gần hết ngày mò mẫm Internet để tìm kiếm thực đơn liên quan đến các món ăn sống, mấy cuốn cổ thư bị bỏ quên bàn. Matthew ta là kẻ ăn tạp, nhưng đó thể là . ma cà rồng hẳn phải thích hợp với các món chưa nấu chín hơn nếu ta từng là kẻ ăn kiêng máu. Nhưng Matthew quá văn minh lịch nên nghi ngờ việc ta ăn bất cứ thứ gì tôi đặt ra trước mặt. Sau khi thực những tra cứu rộng rãi nhất về ẩm thực, tôi rời thư viện vào giữa buổi chiều. Matthew phải tự mình làm “Pháo đài Bishop” ngày hôm nay, điều này chắc hẳn khiến Miriam hài lòng. Tôi cũng rất sung sướng vì chẳng có bất cứ dấu hiệu nào của Peter Knox và Gillian Chamberlain trong khu Công tước Humfrey. Thậm chí Matthew trông cũng khoái chí khi tôi lóc cóc chạy dọc lối ở giữa để trả lại mấy cuốn cổ thư. ngang qua vòm che của hiệu Radcliffe Camera, nơi các sinh viên sắp tốt nghiệp đọc những cuốn sách được chỉ định, rồi ngang qua những bức tường từ thời Trung cổ của trường Jesus, tôi mua sắm dọc phố chợ Oxford’s Covered. Cầm tờ giấy liệt kê tay, tôi dừng lại đầu tiên ở cửa hàng thịt để mua thịt thỏ và thịt thú rừng tươi, rồi đến chỗ bán cá để mua cá hồi Scotland. Ma cà rồng có ăn rau xanh nhỉ? Tôi gọi điện tới khoa động vật học và hỏi về thói quen ăn uống của loài sói. Họ hỏi tôi là loại sói nào. Tôi trông thấy sói xám trong chuyến dã ngoại rất lâu trước đây khi tới vườn thú Boston, và đó là màu thích của Matthew, bới vậy tôi trả lời là sói xám. Sau khi đọc liến láu danh sách dài các động vật có vú ngon lành và giải thích rằng đó là “món ăn được thích hơn cả,” giọng buồn tẻ ở đầu bên kia bảo tôi rằng sói xám cũng ăn cả quả hạch, các loại hạt và trái mọng nữa. “Nhưng nên cho chúng ăn!” giọng cảnh báo. “Chúng phải là thú kiểng trong nhà đâu.” “Cảm ơn về lời khuyên,” tôi , cố gắng cười thành tiếng. Cửa hàng tạp hóa tỏ vẻ nuối tiếc khi phải bán cho tôi ít rau vườn mùa hè cuối cùng và dâu tây dại thơm phức. túi hạt dẻ cũng tìm đường chui vào túi đồ căng phồng của tôi. Tới lượt cửa hiệu rượu vang, ở đó tôi đành phó mặc cho người bán hàng tư vấn về đủ các loại rượu, ông ta hỏi liệu “quý ông đó có hiểu biết về rượu vang .” Điều đó đủ khiến tôi rơi vào cơn xoáy lộn chẳng biết làm sao. Người bán hàng chớp lấy lúng túng của tôi để kết cuộc bán cho tôi vài chai vang đặc biệt của Pháp và Đức dành cho vua chúa. Rồi ông ta nhét tôi vào chiếc taxi để tôi hồi tỉnh dần khỏi cơn choáng váng đeo dính suốt chuyến xe trở về trường. Về tới phòng, tôi quét tất cả giấy tờ khỏi chiếc bàn mòn vẹt từ thế kỷ mười tám vốn vừa là bàn làm việc vừa là bàn ăn rồi di chuyển nó tới gần lò sưởi hơn. Tôi bày bàn ăn cẩn thận, dùng bộ đồ sứ và bạc cổ ở trong tủ chén bát của mình, cùng với những ly pha lê nặng nề chắc hẳn phải là những món đồ còn sót lại từ thời vua Edward VII từng được sử dụng trong phòng sinh hoạt chung của sinh viên năm cuối. Các quý bà trung kiên trong bếp của tôi cung cấp cho tôi chồng khăn vải lanh trắng tươm mà giờ chúng được xếp nếp bàn, gập cạnh bộ đồ ăn bạc, và trải chiếc khay gỗ được đẽo khắc mà tôi dùng bưng đồ trong quãng đường ngắn từ bếp ra. Khi bắt tay vào làm bữa tối, tôi mới thấy việc nấu nướng cho ma cà rồng cũng mất mấy thời giờ. Bạn thực ra chẳng phải nấu nướng gì nhiều. Đến bảy giờ nến được thắp lên, thức ăn sẵn sàng ngoại trừ những thứ có thể làm xong chỉ trong nháy mắt, và tất cả những thứ còn lại đâu vào đấy cả. Tủ quần áo của tôi chẳng có mấy thứ quý giá để “ăn tối với ma cà rồng”. Tôi thể ăn tối với Matthew trong bộ vest hay bộ đồ mà tôi mặc để gặp ông hiệu trưởng. Con số quần âu dài màu đen và quần legging tôi sở hữu thể tin được, nhưng hầu hết đều bị dây bẩn vết trà, vết dầu mỡ thuyền hoặc cả hai. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy chiếc quần swishy trông hơi giống quần ngủ ở phần dưới nhưng khá là phong cách. Đúng thế . Mặc độc chiếc áo ngực và cái quần dài, tôi chạy vào phòng tắm và chải mái tóc màu vàng rơm dài quá vai của mình. Nó chỉ rối ở phía đuôi mà còn đe dọa dựng đứng lên da đầu tôi mỗi lần chiếc lược chạm vào. Trong thoáng chốc tôi cân nhắc việc dùng máy làm xoăn tóc, nhưng tới lúc Matthew đến cố lắm cũng chỉ có nửa mái đầu được hoàn thành thôi. ta tới đúng giờ. Tôi biết chắc vậy. Trong khi đánh răng, tôi nghĩ đến thứ duy nhất có thể làm với mái tóc mình đó là túm nó ra sau và búi lại thành búi. Búi tóc làm cằm và mũi tôi trông nhọn hơn, nhưng lại khiến gò má tôi cao lên và làm tóc tôi tách xa ra khỏi mắt, chỗ mà gần đây nó hay bị hút vào. Tôi ghim chặt nó lại, và lọn tóc ngay lập tức thông xuống. Tôi thở dài. Gương mặt mẹ nhìn lại tôi từ trong gương. Tôi nghĩ đến việc bà trông xinh đẹp nhường nào khi ngồi vào bàn ăn tối, tôi thắc mắc biết bà làm gì để làm đôi mắt màu xanh nhạt và hàng lông mi của mình nổi bật như thế, và tại sao khuôn miệng rộng của bà lại trông khác khi bà mỉm cười với tôi hay bố tôi. Nhưng tiếng kim đồng hồ gấp gáp loại bỏ mọi ý nghĩ về việc biến đổi vẻ bề ngoài của tôi tương tự như thế. Tôi chỉ còn có ba phút để tìm cái áo sơ mi, hoặc tôi phải đón tiếp Matthew Clairmont, vị giáo sư lỗi lạc của khoa Hóa sinh và khoa Thần kinh học, trong bộ đồ lót của mình. Tủ quần áo có hai chiếc khả dĩ, màu đen và màu xanh đêm. Chiếc màu xanh đêm có ưu điểm là sạch , và nó trở thành nhân tố quyết định để giành được đặc ân lựa chọn. Nó cũng có cái cổ buồn cười dựng thẳng đứng lên phía lưng và hai cánh cổ áo hướng về phía trước mặt rồi hạ thấp xuống thành đường cổ hình chữ V. Hai ống tay áo tương đối bó sát, phần cuối là hai cổ tay áo dài cứng hơi loe ra và kết thúc ở giữa mu bàn tay. Tôi đeo đôi khuyên tai bạc có tiếng gõ cửa. Lồng ngực tôi xao xuyến trước thanh ấy như thể đây là buổi hẹn hò. Tôi gạt bỏ ý nghĩ đó ngay lập tức. Khi tôi mở cửa, Matthew đứng bên ngoài trông như hoàng tử trong cổ tích, cao lớn và chững chạc. Mỗi tội vẫn thói quen thường lệ, chàng mặc tuyền màu đen, điều đó chỉ khiến trông càng nổi bật ấn tượng hơn – giống ma cà rồng hơn. Matthew kiên nhẫn đợi tại chỗ trong khi bị tôi ngắm nghía. “Ôi! Phép lịch của tôi đâu mất rồi? Xin mời vào, Matthew. Câu đó có tác dụng như là lời mời chính thức để vào nhà tôi phải nhỉ?” tôi nghe về nghi thức này TV hoặc đọc trong sách. chàng nhoẻn miệng cười. “Quên hầu hết những gì nghĩ là mình biết về ma cà rồng , Diana. Đó chỉ là cử chỉ lịch bình thường thôi. Tôi bị chặn lại bởi hàng rào bí ngăn giữa tôi và phụ nữ xinh đẹp đâu.” Matthew phải hơi khom người để qua khung cửa. ta ẵm tay chai rượu vang và mấy bông hồng trắng. “Dành cho đây,” ta , tặng tôi cái nhìn ngưỡng mộ và đưa tôi những bông hoa. “Có chỗ nào cho tôi để thứ này trong khi chờ món tráng miệng ?” ta liếc mắt xuống chai rượu. “Cảm ơn , tôi thích hoa hồng lắm. Chỗ bậu cửa sổ thế nào?” tôi gợi ý, trước khi vào bếp để kiếm cái lọ. Cái lọ hoa kia của tôi là chiếc bình cổ thon, và người quản lý đồ uống của phòng sinh hoạt chung năm cuối mới đến phòng tôi vài giờ trước để chỉ cho tôi cái lọ này khi tôi bày tỏ nghi ngờ tin là mình có món đồ như thế. “Hoàn hảo,” Matthew đáp. Khi tôi trở lại cùng lọ hoa, ta vơ vẩn quanh phòng nhìn ngắm những tác phẩm chạm khắc. “ biết , những thứ này quá tệ đâu,” ta khi tôi đặt lọ hoa lên chiếc tủ com mốt sứt sẹo thời Napoleon. “Hầu hết là những cảnh săn bắn, tôi e là thế.” “Cái đó lọt khỏi mắt tôi đâu,” Matthew đáp, miệng cong lên vẻ thích thú. Tôi đỏ mặt vì ngượng. “ đói chưa?” Tôi hoàn toàn quên mất món nhấm nháp và rượu, thứ bắt buộc phải có để phục vụ trước bữa tối. “Tôi sẵn sàng ăn rồi,” chàng ma cà rồng rồi toét miệng cười. Trở lại phòng bếp, tôi lấy hai đĩa đồ ăn ra khỏi tủ lạnh. Đĩa thứ nhất là món cá hồi hun khói với là tươi rắc phía và nhúm nụ bạch hoa dầm cùng dưa chuột bao tử bày khéo léo bên cạnh, có thể hiểu chúng như là để trang trí nếu ma cà rồng ăn rau xanh. Khi tôi quay lại cùng với đồ ăn, Matthew đợi bên chiếc ghế bành ở chỗ xa bếp nhất. Rượu vang được bày sẵn chiếc khay bạc quý giá mà tôi vẫn dùng để giữ tiền xu lẻ, dù chính nhân vật hay giúp đỡ ở phòng sinh hoạt chung của sinh viên năm cuối giải thích rằng thực ra nó được dùng để đựng rượu. Matthew ngồi xuống trong khi tôi mở nút chai vang trắng của Đức. Tôi rót hai ly rượu mà làm rớt giọt và đến chỗ ta. Vị khách của tôi tập trung cao độ, ta đón lấy ly rượu vang trắng trước cái mũi khoằm dài của mình. Tôi đợi cho ta hoàn thành nốt những gì nghĩ, băn khoăn hiểu ma cà rồng có bao nhiêu giác quan cảm nhận trong mũi, giống như loài chó. Tôi biết điều tối thiểu về ma cà rồng. “Rất ngon,” cuối cùng ta và mở mắt ra mỉm cười với tôi. “Tôi chịu trách nhiệm chọn rượu,” tôi vội , trải khăn ăn lên đùi. “Người đàn ông ở cửa hàng rượu chọn mọi thứ giúp tôi, bởi vậy nếu nó ngon cũng phải lỗi của tôi đâu đấy.” “Rất ngon mà,” chàng lại , “và món cá hồi trông cũng tuyệt nữa.” Matthew cầm dao và dĩa lên rồi cắt miếng cá. Vừa quan sát ta qua hai hàng mi để xem liệu ta có thể thực ăn , tôi vừa chất ít dưa chua, nụ bạch hoa dầm và ít cá hồi lên cái dĩa của mình. “ ăn giống người Mỹ,” ta bình luận sau khi nhấp ngụm rượu. “Vâng,” tôi , nhìn vào cái dĩa tay trái của mình và con dao ăn tay phải. “Tôi cho rằng mình ở nước quá lâu mất rồi. có thể thực ăn thứ này chứ?” Tôi buột miệng, thể nhịn thêm. chàng cười lớn. “Có, tôi tình cờ cũng thích cá hồi hun khói mà.” “Nhưng ăn mọi thứ,” tôi khăng khăng, hướng chú ý trở lại đĩa thức ăn của mình. “Đúng,” ta công nhận, “nhưng hầu như món nào tôi cũng có thể cắn thử vài miếng. Dù nó hợp khẩu vị tôi lắm, trừ phi là đồ sống.” “ kỳ lạ. Nếu ma cà rồng có những giác quan hoàn hảo như thế. tất cả các món ăn đều phải có vị tuyệt vời chứ?” Mon cá hồi có mùi vị trong trẻo và tươi mới như nước lạnh. chàng cầm ly rượu lên, ngắm nghía thứ chất lỏng màu hoàng kim pha xanh nhạt ấy. “Rượu vang hương vị tuyệt ngon. Còn thức ăn chỉ có mùi vị hỏng đối với ma cà rồng khi nó được nấu chín hoàn toàn.” Tôi xét lại thực đơn với cảm giác bẫng cả người. “Nếu thức ăn có mùi vị ngon lành, tại sao cứ liên tục mời tôi ra ngoài ăn?” tôi hỏi. Ánh mắt của Matthew lướt qua hai má, mắt và nấn ná lại miệng tôi. “Việc ở bên khi ăn dễ dàng hơn. Mùi thức ăn nấu chín làm tôi buồn nôn.” Tôi chớp chớp mắt nhìn chàng, vẫn lúng túng. “Chừng nào tôi buồn nôn, tôi thấy đói nữa,” Matthew , giọng bực bội. “Ồ!” Các miếng ghép khớp nhau lách cách. Tôi vừa mới hiểu ra là Matthew thích mùi hương của tôi. Thực điều đó mới khiến ta thấy đói bụng. Ôi. Tôi đỏ bừng mặt. “Tôi tưởng biết về ma cà rồng chứ,” chàng nhàng hơn, “và đó là lý do tại sao mời tôi ăn chứ?” Tôi lắc đầu, xiên miếng cá hồi khác. “Hiểu biết của tôi về ma cà rồng còn ít hơn cả những gì hầu hết con người biết. Và chút ít kiến thức dì Sarah dạy tôi chắc cũng cần phải nghi ngờ, nếu xét theo những định kiến của dì. Dì khá là chắc chắn, ví dụ như về việc ăn kiêng của . Dì ma cà rồng chỉ uống máu, bới vì đó là tất cả những gì cần để tiếp tục sống. Nhưng điều đó đúng, phải ?” Mắt Matthew nheo lại, và giọng ta đột ngột lạnh tanh. “. cần nước để sống. Nhưng đó có phải là tất cả những gì uống ?” “Có phải tôi nên về chuyện này ?” Các câu hỏi của tôi khiến ta tức giận. Lo lắng, tôi cuốn hai chân mình quanh chân ghế và nhận ra là mình mang giày. Tôi đãi khách với đôi chân trần! “ thể ngăn được hiếu kỳ, tôi cho là thế,” Matthew đáp sau khi cân nhắc câu hỏi của tôi lúc lâu. “Tôi uống rượu và có thể ăn đồ ăn – có lẽ tôi thích đồ ăn chưa nấu chín hơn, hoặc các món để lạnh, bởi nó có mùi.” “Nhưng thức ăn và rượu cung cấp dinh dưỡng cho ,” tôi đoán. “ cần uống máu – tất cả các loại máu.” ta nao núng. “Và phải đợi ở bên ngoài cho tới khi tôi mời vào nhà. Còn điều gì khác nữa mà tôi lầm về ma cà rồng ?” Nét mặt Matthew nối tiếp biểu của nhẫn nại bền bỉ. ta ngồi ngả ra sau ghế, cầm theo ly rượu của mình. Tôi với ngang qua bàn để rót thêm cho ta. Nếu tôi sắp công kích ta bằng những câu hỏi, ít nhất tôi cũng có thể tập kích ta rượu nữa. Nhoài người qua những cây nến làm áo sơ mi của tôi suýt cháy. Matthew túm lấy chai rượu vang. “Tại sao tôi làm nhỉ?” ta gợi ý. ta tự rót cho mình thêm chút nữa và đổ đầy ắp ly của tôi trước khi trả lời. “Hầu hết những gì biết về tôi – về ma cà rồng – là do loài người tưởng tượng nên. Những truyền thuyết này làm cho loài người có thể sống chung quanh chúng ta. Những sinh vật khiến họ khiếp sợ. Và tôi phải chỉ về ma cà rồng thôi đâu nhé.” “Mũ đen, dơi, chổi.” Đó là bộ ba tội lỗi trong những truyền thuyết về phù thủy, chúng hóa thành những màn ngoạn mục, lố lăng trong lễ Halloween hàng năm của con người. “Chính xác.” Matthew gật đầu. “Đâu đó trong mỗi câu chuyện kể này, có hạt vàng , vài điều làm con người kinh sợ và giúp họ chối từ việc chúng ta có . Nét đặc trưng nổi bật mạnh nhất của loài người là sức mạnh chối từ của họ. Tôi có cuộc sống dài và mạnh mẽ, có những năng lực siêu nhiên, tinh có sức sáng tạo kinh hoàng. Con người có thể thuyết phục bản thân họ đổi trắng thành đen. Đó là món quà trời ban của họ.” “Cái gì là trong câu chuyện về ma cà rồng được phép bước vào nhà nếu được mời?” ép được ta tiết lộ chuyện ăn uống, tôi chuyển sang nghi thức vào cửa của ma cà rồng. “Loài người chung sống với chúng tôi toàn bộ thời gian. Họ chỉ khước từ việc công nhận tồn tại của chúng tôi bởi vì chúng tôi có ý nghĩa gì trong cái thế giới hữu hạn của họ. khi họ cho phép chúng tôi vào trong thế giới của họ - nhìn thấy chúng tôi thực là ai – chúng tôi ở lại, cũng như khi mời ai đó vào nhà khó có thể đuổi họ ra được. Họ còn có thể làm ngơ chúng tôi thêm nữa.” “Vậy là nó giống như những câu chuyện về ánh nắng mặt trời,” tôi chậm rãi . “ phải là thể ra ngoài nắng, nhưng khi ở dưới nắng, khó để loài người nhận ra . Thà rằng chấp nhận việc lại giữa bọn họ, nên loài người mới kể với nhau rằng thể sống sót được dưới ánh nắng mặt trời.” Matthew lại gật đầu. “Họ cố gắng để phớt lờ chúng tôi, dĩ nhiên là thế rồi. Làm sao chúng tôi có thể ngồi thu lu trong nhà cho tới khi trời tối! Nhưng chúng tôi có ý nghĩa nhiều hơn với loài người sau khi chạng vạng – và điều đó cũng đúng đối với phù thủy các nữa. nên thấy những ánh nhìn khi bước vào căn phòng hay xuống phố.” Tôi nghĩ đến diện mạo bình thường của mình và liếc nhìn ta vẻ nghi ngờ. Matthew cười lặng lẽ. “ tin tôi, tôi biết. Nhưng đó là . Khi con người nhìn thấy sinh vật trong chúng ta giữa ban ngày ban mặt, họ cảm thấy thoải mái. Chúng ta có quá nhiều thứ hơn họ - quá cao lớn, quá mạnh mẽ, quá tự tin, quá sáng tạo, quá quyền năng, quá khác biệt. Họ cố gắng cách khó nhọc để úp cái vung méo của chúng ta cho vừa với chiếc nồi tròn của họ trong suốt hàng nghìn năm qua.” Tôi đứng dậy để dọn các đĩa ăn xong, thấy vui mừng vì Matthew ăn mọi thứ trừ chỗ rau trang trí. ta rót thêm ít rượu vang Đức vào ly của mình trong khi tôi lấy hai đĩa đồ ăn nữa ra khỏi tủ lạnh. Mỗi đĩa được sắp xếp gọn gàng những lát thịt thú rừng tái, chúng mỏng đến mức người bán thịt khăng khăng là bạn có đọc cả Thư Oxford xuyên qua chúng. Ma cà rồng thích rau xanh. biết rau củ và pho mát thế nào nhỉ? Tôi chất nhúm củ cải đường vào giữa mỗi đĩa và nạo pho mát Pacma lên . chiếc bình cổ thon đáy rộng đựng đầy rượu vang đỏ được đưa vào giữa bàn, nhanh chóng thu hút chú ý của Matthew. “Tôi có thể chứ?” ta hỏi, mảy may nghi ngờ lo lắng về nhiệt tình của tôi. ta với lấy chiếc bình thủy tinh giản dị, rót ít vang vào ly của chúng tôi rồi đưa lên mũi ngửi. “Côte-Rootie,” ta vẻ hài lòng. “ trong những loại tôi thích.” Tôi đưa mắt nhìn chiếc bình thủy tinh. “ có thể nhận biết chỉ bằng việc ngửi nó thôi à?” Matthew cười. “ vài câu chuyện về ma cà rồng là thực. Tôi có khứu giác đặc biệt – thị giác hiếm có, và cả thính giác nữa. Nhưng thậm chí con người cũng có thể được đây là rượu Côte-Rootie mà.” ta nhắm mắt. “Năm 2003 phải ?” Miệng tôi há hốc. “Đúng rồi!” Trò này còn hay hơn cả xem game show. Có chiếc vương miện xíu nhãn chai. “Chiếc mũi của có cho biết ai làm ra nó ?” “Có, nhưng là vì tôi vào những cánh đồng trồng nho này,” chàng ngượng ngùng thú nhận như thể ta bị bắt quả tang bày trò lừa gạt tôi. “ có thể ngửi thấy mùi những cánh đồng trong rượu này ư?” Tôi thò mũi vào ly rượu, thấy người khi mùi phân ngựa có trong đó. “Đôi khi tôi tin là mình nhớ được mọi điều từng ngửi thấy. Chuyện đó có lẽ có phần hoang tưởng, nhưng các mùi hương mang lại những hồi ức mạnh mẽ. Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên tôi ngửi thấy mùi sô--la như thể nó mới là ngày hôm qua thôi.” “ ư?” tôi chúi người tới trước ghế của mình. “Đó là năm 1615. Chiến tranh kết thúc, đức vua Pháp kết hôn với công chúa Tây Ban Nha mà chẳng ai thích cả - đặc biệt là đức vua.” Khi tôi mỉm cười, ta cười đáp lại, mặc dù ánh mắt vẫn đắm chìm với hình ảnh xa xăm nào đó. “ ta mang sô--la tới Paris. Nó cũng có vị đắng ngắt như tội lỗi và suy đồi. Chúng tôi uống cacao nguyên chất, pha với nước và có đường.” Tôi cười. “Nghe kinh khủng. Ơn Đức mẹ là ai đó tìm ra sô--la được làm ngọt.” “Đó là con người, tôi e là thế. Ma cà rồng thích nó đắng với đậm đặc hơn.” Chúng tôi cầm dĩa lên và bắt đầu thưởng thức món thịt thú rừng. “Món này có hương vị Scotland nhiều hơn,” tôi , ra hiệu về phía món thịt bằng con dao ăn của mình. Matthew nhai miếng. “ con nai đỏ. chàng nai đực trẻ trung của vùng Tây Bắc Scotland xét theo mùi vị của nó.” Tôi lắc đầu vẻ thích thú. “Như tôi ,” ta tiếp tục, “ vài câu chuyện là có thực.” “ có thể bay ?” tôi hỏi, và cũng biết câu trả lời. Matthew khịt mũi. “Dĩ nhiên là . Chúng tôi nhường phần đó cho phù thủy, vì các có thể điều khiển những thành tố khác. Nhưng chúng tôi mạnh và nhanh. Ma cà rồng có thể chạy và nhảy, điều đó khiến con người nghĩ là chúng tôi có thể bay. Chúng tôi cũng có hiệu suất cao nữa.” “Hiệu suất cao?” tôi đặt dĩa xuống, chắc liệu thịt thú rừng tái có phải là món mình ưa thích . “Cơ thể của chúng tôi lãng phí nhiều năng lượng. Chính vì thế chúng tôi có rất nhiều năng lượng để di chuyển khi cần.” “ hô hấp nhiều,” tôi , nhớ lại lớp yoga và nhấp ngụm vang. “,” Matthew đáp. “Tim chúng tôi đập thường xuyên. Chúng tôi cần phải ăn thường xuyên. Người chúng tôi lạnh, điều đó làm chậm lại hầu hết các quá trình hoạt động của thể xác và giúp lý giải tại sao chúng tôi sống lâu.” “Câu chuyện đào sâu chôn chặt đây! ngủ nhiều nhưng khi ngủ ngủ say như chết.” ta cười hết cỡ. “ bắt đầu nắm được vấn đề rồi đấy.” Đĩa của Matthew trống trơn mọi thứ ngoại trừ củ cải đường, còn của tôi hết sạch chỉ trừ thịt thú rừng. Tôi dọn đợt đĩa thứ hai và mời ta rót thêm rượu. Món chính là phần duy nhất trong bữa ăn, cầu phải nóng sốt, cũng quá nóng sốt. Tôi làm món kỳ quặc giống như bánh quy nhưng từ bột hạt dẻ. Việc còn lại là sấy khô giòn ít thịt thỏ. Danh mục nguyên liệu bao gồm lá hương thảo, tỏi và cần tây. Tôi quyết định bỏ tỏi . Với khứu giác của ta, tôi chắc hẳn là mùi quá mạnh so với mọi thứ khác – đó là hạt vàng trong truyền thuyết về ma cà rồng. Cần tây cũng bị loại trừ. Ma cà rồng dứt khoát thích rau rồi. Gia vị dường như phải là vấn đề chính, bởi vậy tôi giữ lại lá hương thảo và đặt ít hạt tiêu lên miếng thịt thỏ trong khi làm giòn nó trong chảo. Để riêng ra thịt thỏ của Matthew mới chín sơ, tôi nấu món thịt của mình chín kỹ hơn chút, hy vọng rằng nó loại bỏ được vị thịt thú rừng sống trong miệng mình. Sau khi sắp xếp mọi thứ thành khối nghệ thuật, tôi chuyển món ăn ra bàn. “Đây là món được nấu chin, tôi e là thế - nhưng chỉ vừa đủ thôi.” “ nghĩ đây là bài kiểm tra theo kiểu nào đó đấy chứ?” Matthew nhăn mặt. “, ,” tôi vội . “Nhưng tôi vốn chưa quen làm vui lòng ma cà rồng.” “Tôi thấy nhõm khi nghe điều đó,” chàng làu bàu rồi ngửi món thịt thỏ. “Mùi thơm ngon.” Trong khi cúi xuống dĩa thức ăn, hơi nóng từ món thịt thỏ làm phát tán mùi quế và đinh hương rất đặc trưng của ta. Matthew xiên lên chút bánh quy hạt dẻ. Khi nó du lịch vào miệng chàng rồi, mắt ta mở lớn. “Hạt dẻ ư?” “ gì khác ngoài hạt dẻ, dầu ô liu, và ít bột nở.” “Và muối nữa. Và nước, lá hương thảo và hạt tiêu,” chàng điềm nhiên nhận xét, lấy thêm miếng bánh nữa. “Cứ theo như chế độ ăn uống bị giới hạn của giỏi khi có thể đoán ra chính xác thứ mình cho vào miệng.” tôi lẩm bẩm giễu cợt.