Mật Mã Phù Thủy tập 1 - Deborah Harkness (Huyền Ảo) 43 Chương

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 5





      Sau bữa tối, tôi ngồi xuống chiếc trường kỷ kê bên cạnh cái lò sưởi dùng đến trong phòng khách và bật máy tính xách tay lên. Tại sao nhà khoa học có năng lực như Clairmont lại muốn xem cuốn sách về pháp thuật - thậm chí là cuốn sách bị bỏ bùa nữa chứ - đến mức phải ngồi ở Bodleian suốt cả ngày, đối diện với phù thủy, và còn đọc qua những ghi chú cổ xưa về tiến hóa hình dạng nữa? Danh thiếp của nằm trong ngăn nào đó ở túi xách. Tôi moi tấm danh thiếp ra, dựng nó dựa vào màn hình máy tính.

      Internet, dưới đường dẫn tới bài viết về vụ án mạng bí loạt trang mạng xã hội thể tránh được, có dải danh sách tiểu sử trông có vẻ hứa hẹn: trang web chuyên khoa của trong trường đại học, bài viết Wikipedia, và những đường dẫn tới các thành viên nay trong câu lạc bộ Tầng lớp Hoàng tộc.

      Tôi nhấp chuột vào trang web chuyên ngành và khịt mũi khó chịu. Matthew Clairmont là trong những thành viên thích đưa bất cứ thông tin gì lên mạng - thậm chí cả thông tin có tính chất học thuật. trang web của Đại học Yale, khách viếng thăm có thể liên hệ thông tin và lấy được tiểu sử đầy đủ của mọi thành viên giảng dạy trong khoa. Oxford ràng có quan điểm khác hẳn hướng đến việc bảo vệ riêng tư. Vì vậy chẳng có gì lạ khi ma cà rồng đến dạy học ở đây.

      Chẳng có thu hoạch gì về Clairmont ở bệnh viện cả, mặc dù danh thiếp của có ghi mối quan hệ đó. Tôi gõ “John Radcliffe thần kinh học” vào hộp tra cứu và được dẫn tới bảng tổng thể các dịch vụ của chuyên khoa. bài tham khảo riêng nào dành cho bác sĩ, ngoại trừ danh sách dài các vấn đề được quan tâm tra cứu. Nhấp chuột qua các phần theo hệ thống liên kết, cuối cùng tôi cũng tìm được chuyên trang về “thùy trán,” dù ở đó cũng chẳng có thêm thông tin bổ sung nào cả.

      Bài viết Wikipedia cũng chẳng giúp được gì, và trang của Tầng lớp Hoàng tộc cũng chẳng khá hơn. Bất cứ thứ gì hữu ích đều gián tiếp liên quan tới các trang chủ được giấu kín đằng sau các mật khẩu. Tôi gặp may khi đoán tên đăng nhập và mật khẩu của Clairmont nên bị từ chối truy cập hoàn toàn sau lần thứ sáu đoán sai.

      Nản lòng, tôi nhập đại tên của gã ma cà rồng vào công cụ tra cứu dành cho các phóng viên báo khoa học.

      “Thế chứ.” Tôi ngả người ra sau mãn nguyện.

      Matthew Clairmont có thể diện nhiều Internet, nhưng tất nhiên có hoạt động trong giới học thuật. Sau khi nhấp chuột vào hộp lệnh để lọc các kết quả theo ngày, tôi có được trang hiển thị về lịch sử học vấn của .

      Cảm giác thắng lợi ban đầu của tôi nhạt dần. phải có lịch sử học vấn. có đến bốn cái.

      Lịch sử học vấn đầu tiên bắt đầu với bộ não con người. Đa số những thành tựu vượt xa tôi, và Clairmont dường như còn tạo được danh tiếng khoa học và y học cùng lúc với việc nghiên cứu làm thế nào để thùy trán của não xử lý được những thôi thúc và ham muốn. đưa ra được số ý tưởng đột phá chủ yếu liên quan tới vai trò của cấu trúc hệ thần kinh trong việc trì hoãn thỏa mãn cá nhân, tất cả đều có liên quan tới phần vỏ não ở phía trước trán. Tôi mở cửa sổ mới để xem biểu đồ giải phẫu và vị trí phần não được nêu trong bài viết.

      vài người tranh cãi rằng tất cả uyên bác này chỉ là tự truyện sơ sài. Tim tôi đập rộn ràng. Dựa vào việc Clairmont là ma cà rồng, tôi chân thành hy vọng giỏi trong việc nắm bắt về tượng trì hoãn thỏa mãn này.

      Vài lần nhấp chuột nữa cho thấy công việc của Clairmont có chuyển hướng đáng kinh ngạc từ não người sang loài sói - sói Na Uy, chính xác là vậy. ta hẳn phải dành khoảng thời gian đáng kể để trải qua những đêm ở bán đảo Scandinavi trong quá trình nghiên cứu của mình - điều đó có vẻ chẳng thành vấn đề đối với môt ma cà rồng, nếu kể đến nhiệt độ cơ thể và khả năng nhìn trong bóng tối của bọn họ. Tôi cố gắng tưởng tượng ra trong chiếc áo paca của người Etskimo và những bộ đồ dơ dáy nhếch nhác cùng với tập giấy ghi chép giữa trời tuyết - nhưng thất bại.

      Sau đó, những đoạn tham khảo đầu tiên liên quan đến máu xuất .

      Trong khi gã ma cà rồng này ở cùng bầy sói tại Na Uy, bắt đầu phân tích máu của chúng để phân biệt các nhóm gia đình và các mẫu có tính kế thừa. Clairmont khoanh vùng được bốn thị tộc sói Na Uy, ba trong số đó có nguồn gốc bản địa. Thị tộc thứ tư, được Clairmont chỉ ra là loài sói đến từ Thụy Điển hoặc Phần Lan. kết luận có lượng đáng kinh ngạc những cặp bạn tình kết hợp chéo giữa các bầy, dẫn đến trao đổi đặc tính di truyền có ảnh hưởng đến tiến hóa giống loài.

      nay truy tìm nguồn gốc đặc trưng di truyền của các loài động vật khác cũng như cả ở loài người. Rất nhiều trong số các công bố gần đây nhất của Clairmont là về phương pháp kỹ thuật ứng dụng cho việc biến đổi màu sắc của các mẫu mô và quy trình xử lý đặc biệt các DNA già yếu.

      Tôi túm nắm tóc mình và giữ chặt, hy vọng áp lực tăng cường tuần hoàn máu và làm các khớp thần kinh mệt mỏi nóng bừng trở lại. Điều này chẳng có nghĩa lý gì. nhà khoa học nào có thể tiến hành lượng công việc nhiều thế này trong nhiều lĩnh vực khác nhau đến thế. Chỉ riêng việc đạt được các kỹ năng đó thôi tiêu tốn hơn cả đời rồi - đời người, chính xác là thế.

      ma cà rồng có thể thu gọn nó lại, nếu làm việc với các vấn đề thế này trong nhiều thập kỷ rồi. Chính xác Matthew Clairmont bao nhiêu tuổi đằng sau cái khuôn mặt chừng bốn mươi tuổi ấy?

      Tôi đứng dậy lấy tách trà mới. tay cầm tách trà nghi ngút khói, tôi lục tìm trong túi xách cho tới khi thấy cái di động của mình và dồn sức bấm số điện thoại bằng ngón cái.

      trọng những điều tuyệt vời nhất về các nhà khoa học là họ luôn mang máy điện thoại. Họ cũng trả lời máy ngay ở hồi chuông thứ hai.

      “Christopher Roberts nghe.”

      “Chris, là Diana Bishop đây.”

      “Diana!” Giọng Chris nồng ấm, và có tiếng kèn chơi nhạc vang vang phía sau. “Mình nghe cậu giành được giải nữa cho cuốn sách của cậu. Chúc mừng nhé!”

      “Cảmơn,” tôi đáp, xê xích chỗ ngồi. “Cũng khá là bất ngờ.”

      “Bất ngờ gì chứ. công trình cực kỳ xuất sắc đấy. Nhận về chuyện này, công trình tại đến đâu rồi? Cậu viết xong phần chính yếu chưa?”

      “Cũng gần xong rồi,” tôi . Đó là việc lẽ ra tôi làm, chứ phải là lần mò theo dấu vết của ma ca rồng Internet thế này. “Nghe này, mình xin lỗi vì quấy rầy cậu khi cậu trong phòng thí nghiệm. Cậu có thể cho mình phút ?”

      “Chắc chắn rồi.” chàng hét lên bảo ai đó vặn nhạc. Nó vẫn cứ ồn ào như cũ. “Giữ máy nhé.” loạt thanh nghèn nghẹt trong máy, rồi im lặng. “Tốt hơn rồi,” ta vẻ ngượng ngùng. “Mấy đứa trẻ mới đến hơi nhiều năng lượng lúc học kỳ mới bắt đầu.”

      “Nghiên cứu sinh luôn luôn tràn đầy sinh lực, Chris ạ.” Tôi cảm thấy chút day dứt vì để lỡ mất đợt nhập học và các sinh viên mới.

      “Đúng vậy. Nhưng cậu thế nào? Cậu cần gì thế?”

      Chris và tôi đến nhận vị trí trong khoa ở đại học Yale vào cùng năm, ta cũng có ý định giành vị trí giảng dạy trong khoa. Khoảng năm sau, ta đánh bại tôi và có được tư cách hội viên Mac Arthur vì thành tích xuất chúng trong vai trò nhà nghiên cứu sinh vật phân tử.

      Chris cư xử như thiên tài xa cách, khó gần khi tôi lạnh lùng gọi cho ta hỏi tại sao nhà giả kim có thể mô tả vật chất được chưng cất trong nồi như là những cành cây lớn. ai khác trong khoa Hoá học quan tâm giúp đỡ tôi, nhưng Chris gửi tới hai sinh viên làm luận án tiến sĩ để lấy các nguyên liệu cần thiết tái tạo lại cuộc thí nghiệm, rồi lại khăng khăng đưa tôi tới thẳng phòng thí nghiệm. Chúng tôi quan sát qua tường kính chiếc cốc bêse dùng để làm thí nghiệm trong lúc tảng bùn đặc màu xám trải qua biến hóa rực rỡ trở thành cái cây màu đỏ với hàng trăm cành . Chúng tôi là bạn từ hồi đó.

      Tôi hít vào hơi sâu. “Hôm trước mình vừa mớỉ gặp người.”

      Chris reo lên. Nhiều năm nay chàng vẫn kiên trì giới thiệu tôi với những người đàn ông mình gặp ở phòng tập thể hình.

      có gì lãng mạn cả,” tôi vội vàng . “ ta là nhà khoa học.”

      nhà khoa học đẹp chói lọi, đó chính xác là điều cậu cần đấy. Cậu cần thử thách - và cuộc sống.”

      “Xem ai kìa. Ngày hôm qua cậu rời khỏi phòng thí nghiệm lúc mấy giờ? Hơn nữa, có hẳn nhà khoa học chói lóa trong cuộc đời mình rồi,” tôi trêu.

      đổi đề tài.”

      “Oxford là thị trấn thế nào mà mình cứ tình cờ gặp ta. Mà dường như ta sắp trở thành nhân vật lớn ở đây rồi.” hẳn là , tôi nghĩ thầm, bắt chéo hai ngón tay, nhưng cũng gần thế. “Mình tra cứu về công việc của ta và có thể hiểu số, nhưng chắc là mình bỏ lỡ điều gì đó, bởi vì nó có vẻ như ăn khớp với nhau lắm.”

      “Đừng bảo mình ta là nhà vật lý học thiên thể nhé,” Chris . “Cậu biết là mình kém vật lý mà.”

      “Cậu là thiên tài Chris!”

      “Đúng thế,” chàng đáp ngay tắp lự. “Nhưng thiên tài của mìnhk hông mở rộng tới lĩnh vực chơi bài hay vật lý học. cái tên, làm ơn.” Chris cố gắng kiên nhẫn, nhưng có bộ não của người nào nhanh nhạy bằng ấy.

      “Matthew Clairmont.” Tên nghẹn lại trong cổ họng tôi, như mùi đinh hương đêm hôm trước.

      Chris huýt sáo. “Ngài giáo sư Clairmont dật, tránh đời.” Hai cánh tay tôi gai gai. “Cậu làm gì vậy, bỏ bùa ta bằng đôi mắt của cậu hả?”

      Vì Chris biết tôi là phù thủy, nên từ “bỏ bùa” của chàng hoàn toàn là ngẫu nhiên. “ ta ngưỡng mộ công trình của mình về Robert Boyle.”

      “Đúng rồi,” Chris giễu cợt. “Cậu biến thành những ngôi sao băng xanh vàng điên cuồng lao vào ta mà ta vẫn nghĩ về định luật của Boyle ư? ta là khoa học gia, Diana ạ, phải là thầy tu. Và nhân tiện, ta là nhân vật lớn đấy.”

      sao?” tôi hỏi giọng uể oải.

      . ta là quái nhân, giống cậu. ta bắt đầu cho xuất bản các công trình nghiên cứu khi còn là nghiên cứu sinh. Các công trình tuyệt vời, phải tác phẩm vớ vẩn đâu, cậu hạnh phúc khi tên mình được đề những cuốn sách như thế nếu cậu có thể công bố chúng sau khi kết thúc giai đoạn trong nghiệp.”

      Tôi rà soát các ghi chép, gạch xóa tờ màu vàng viết về luật. “Đó là nghiên cứu của ta về cấu trúc hệ thần kinh và phần vỏ não ở phía trán đúng ?”

      bạn làm bài tập rồi đấy nhỉ,” chàng vẻ hài lòng. “Mình theo sát lắm các công trình của Clairmont thời kỳ đầu - lĩnh vực hóa học của ta là thứ mình quan tâm - nhưng các công bố về loài sói gây ra rất nhiều hứng khởi.”

      “Thế nào cơ?”

      ta có những bản năng đáng kinh ngạc - tại sao những con sói lại chọn chỗ nhất định để sống, chúng hình thành đời sống xã hội bầy đàn như thế nào, chúng kết đôi như thế nào. ta biết như thể ta là con sói ấy.”

      “Có thể đúng thế ấy chứ.” Tôi cố giữ cho giọng mình nghe nhàng, nhưng có điều gì đó đắng ngắt và đố kỵ bùng lên trong miệng tôi và thay vì nhàng nó lại thành ra cay nghiệt.

      Matthew Clairmont chẳng gặp vấn đề gì với việc sử dụng các siêu năng lực và khát máu của mình để thúc đẩy thăng tiến trong nghiệp. Nếu gã ma cà rồng này quyết định dứt khoát về Ashmole 782 vào tối thứ Sáu, lẽ ra chạm được vào các bức minh họa của cuốn cổ thư ấy rồi. Tôi đoán chắc thế.

      “Đúng là dễ dàng hơn để lý giải về hoàn hảo công trình nghiên cứu của ta nếu ta là con sói,” Chris vẻ nhẫn nại, phớt lờ sắc thái trong giọng tôi. “Nhưng ta phải, nên cậu đành phải công nhận ta rất giỏi thôi. ta được chọn vào Tầng lớp Hoàng tộc nhờ công trình ấy đấy. Người ta gọi ta là Attenborough[5] thứ hai. Sau đó ta biến mất tăm thời gian.”

      [5. Nhà tự nhiên học nổi tiếng người , sinh năm 1926.]

      Tôi cá là như thế. “Rồi ta bất ngờ xuất trở lại, nghiên cứu về tiến hóa và hóa học à?”

      “Phải, nhưng quan tâm của ta với tiến hóa chẳng qua là phát triển tự nhiên từ công trình nghiên cứu loài sói thôi.”

      “Vậy cái gì trong hóa học của ta làm cậu thích thú hả?”

      Giọng Chris ngập ngừng. “À, ta cư xử giống nhà khoa học khi ta phát ra điều gì đấy to lớn.”

      “Mình hiểu,” tôi nhăn mặt.

      “Chúng ta trở nên thất thường và kỳ lạ. Chúng ta giấu mình trong phòng thí nghiệm và đến các hội thảo vì sợ mình có thể ra điều gì đó giúp cho ai khác có được ý tưởng đột phá,”

      “Cậu cư xử như sói ấy.” Giờ tôi biết nhiều về loài sói. Những thái độ chiếm hữu, cảnh giác mà Chris miêu tả vừa khớp với loài sói Na Uy.

      “Chính xác.” Chris cười lớn. “ ta cắn ai hay bị bắt gặp tru lên trong đêm trăng tròn à?”

      “Tớ quan tâm,” tôi lẩm bẩm. “Clairmont có thường xuyên sống dật thế ?”

      “Hỏi tớ là sai người rồi,” Chris tự nhận. “ ta có bằng y khoa, và chắc là phải khám cho các bệnh nhân, mặc dù ta chưa bao giờ nổi tiếng với vai trò bác sỹ lâm sàng. Và bọn sói thích ta. Nhưng ta chẳng đến bất cứ hội thảo nào trong ba năm qua.” Chris ngừng lát. “Chờ chút, dù thế có chuyện gì đó xảy ra mấy năm trước.”

      “Gì cơ?”

      ta lên báo - mình thể nhớ cụ thể - có phụ nữ hỏi ta câu hỏi. Đó là câu hỏi thông minh, nhưng ta lờ . ta vẫn dai dẳng. ta khó chịu và rồi nổi điên lên. người bạn tớ có mặt ở đó cậu ta chưa từng thấy ai từ nhã nhặn lịch tới giận dữ điên tiết nhanh như thế.”

      Tôi gõ lên máy, cố gắng tìm thông tin về cuộc tranh cãi này. “Tiến sĩ Jekyll và ông Hyde hử? thấy dấu hiệu vụ om sòm nào mạng cả.”

      “Mình ngạc nhiên. Các nhà hóa học vạch áo cho người xem lưng đâu. Điều đó làm tổn thương tất cả chúng tớ thời gian đáng kể. Chúng tớ muốn dân công chức nghĩ chúng tớ là những kẻ dễ khích động mắc chứng hoang tưởng tự đại. Chúng tớ nhường cái danh đó cho các nhà vật lýhọc.”

      “Clairmont có được tài trợ ?”

      “Ô hô. Có chứ. ta được tài trợ đến tận nơi. Cậu cần lo lắng cho nghiệp của giáo sư Clairmont đâu. ta có lẽ nổi tiếng là khinh thường phụ nữ, nhưng điều đó làm ta cháy túi được. Các tác phẩm của ta quá tuyệt vời mà.”

      “Cậu từng gặp ta chưa?” tôi hỏi, hy vọng Chris nhận xét về nhân cách Clairmont.

      “Chưa. Cậu chẳng tìm được đến hơn tá người dám tuyên bố là họ từng gặp ta đâu. ta giảng dạy. Mặc dù có rất nhiều chuyện, nhưng ta thích phụ nữ, và là dân trí thức hợm mình. ta trả lời thư, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu.”

      “Nghe như cậu nghĩ chuyện đó toàn là càn ấy.”

      phải càn đâu,” Chris vẻ tư lự. “Mình chỉ cho rằng điều đó là quan trọng thôi. Biết đâu ta có thể là người hé lộ những bí mật về tiến hóa hay chữa được căn bệnh Parkinson sao!”

      “Cậu khiến ta nghe như là điểm giao kết giữa Salk và Darwin ấy.”

      phải là suy luận tồi nhỉ.”

      ta giỏi thế à?” Tôi nghĩ đến cảnh Clairmont nghiên cứu những trang ghi chép của Needham với tập trung dữ dội và cho rằng là ta còn hơn cả giỏi nữa.

      “Đúng thế.” Giọng Chris chùng xuống. “Nếu tớ là dân cá cược, tớ đặt ngay tờ trăm đô-la là ta đoạt giải Nobel trước khi chết đấy.”

      Chris là thiên tài, nhưng chàng biết Matthew Clairmont là ma cà rồng. có giải Nobel nào cả - gã ma cà rồng đó đảm bảo điều đó để duy trì tình trạng “nặc danh” của mình. nhân vật đoạt giải Nobel bị chụp ảnh, ghi hình ầm ĩ.

      “Mình đánh cá đấy,” tôi với tiếng cười vang.

      bạn nên bắt đầu tiết kiệm , Diana ạ, bởi vì lần này cậu thua đấy.” Chris nén cười.

      bạn này thua lần cá cược trước. Lần ấy tôi cá với ta năm mươi đô-la rằng ta thành giảng viên chính thức trước tôi.

      “Cảm ơn Chris. Cậu giúp mình rất nhiều đấy,” tôi chân thành . “Cậu nên quay lại với bọn trẻ . Có khi lúc này chúng thổi bay cái gì đó chừng.”

      “Ừ, mình nên kiểm tra xem chúng nó thế nào. Chuông báo cháy vẫn chưa kêu, nó báo hiệu tốt lắm.” chàng chần chừ. “Thú nhận Diana. Chắc chắn cậu chẳng bao giờ bận tâm về việc chẳng may lỡ lời nếu gặp Matthew Clairmont ở bữa tiệc cocktail. Đây là cách cậu vẫn hành xử khi cậu giải quyết vấn đề rắc rối trong nghiên cứu. Điều gì ở ta khơi gợi trí tưởng tượng của cậu thế?”

      Thinh thoảng Chris có vẻ nghi ngờ tôi khác trước. Nhưng chẳng thể kể cho chàng biết được.

      “Mình có điểm yếu là những người đàn ông lịch bảnh bao.”

      Chris thở dài. “Ok, đừng kể với mình nữa. Cậu là kẻ dối trá khủng khiếp, cậu biết . Nhưng cẩn thận đấy. Nếu ta làm tan nát trái tim cậu, mình đá vào mông , và đây là học kỳ bận rộn đối với mình rồi.”

      “Matthew Clairmont làm tan nát trái tim mình được đâu,” tôi khăng khăng. “ ta là đồng nghiệp - con người chỉ có hứng thú đọc sách uyên bác, đó là tất cả.”

      “Đối với người quá tinh ranh cậu dấu hỏi đấy. Mình cá với cậu mười đô la là ta mời cậu chơi trước khi hết tuần này đấy.”

      Tôi cười. “Cậu biết được hả? Mười đô la hoặc số tiền tương đương bằng bảng - khi mình thắng.”

      Chúng tôi chào tạm biệt. Tôi vẫn biết được nhiều về Matthew Clairmont - nhưng tôi dã có phán đoán tốt hơn đối với những thắc mắc còn lại, quan trọng nhất là tại sao người nghiên cứu về đột phá trong quá trình tiến hóa lại quan tâm tới thuật giả kim từ thế kỷ mười bảy.

      Tôi lướt web cho tới khi hai mắt mỏi nhừ thể tiếp tục nữa. Khi chuông đồng hồ báo nửa đêm, tôi bị ngập lụt trong đống ghi chép về chó sói và di truyền học, nhưng vẫn chưa hé mở được bí về mối quan tâm của Matthew Clairmont đối với Ashmole 782

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 6





      Buổi sáng ngày hôm sau tiết trời xám xịt và mang hơi hướng khí đầu thu. Tôi chỉ muốn được bọc mình thành cái kén trong những lớp áo len và ở lì trong phòng.

      Liếc nhìn ra bầu trời nặng nề u ám, tôi quyết định ra sông chèo thuyền nữa. Thay vào đó tôi bắt đầu khởi động chuyến chạy bộ. Tôi vẫy tay chào người gác đêm ở chỗ cửa chòi gác, ông ta nhìn tôi với vẻ nghi ngại kèm theo sau đó là cử chỉ ra hiệu tán thành tỏ ý khích lệ.

      Mỗi bước chạy dọc theo lối bộ lại làm cho những căng thẳng trong tôi giảm chút. Khi tới lối mòn rải sỏi của khu công viên trường đại học, tôi hít thở sâu và cảm thấy thư giãn hẳn, sẵn sàng đón ngày dài làm việc trong thư viện - cho dù có bao nhiêu kẻ kỳ quái tụ họp tại đó nữa.

      Khi tôi chạy về lối cũ, người gác đêm ngăn tôi lại. “Tiến sĩ Bishop phải ?”

      “Vâng?”

      “Tôi rất lấy làm tiếc phải mời bạn của vào tối hôm qua, nhưng đó là quy định của trường. Lần tới nếu có khách, xin hãy báo cho chúng tôi biết và chúng tôi để họ lên thẳng chỗ .”

      sáng suốt có được từ chuyến chạy bộ vừa rồi bốc hơi hết.

      “Là đàn ônghay phụ nữ ạ?” Tôi hỏi gay gắt.

      phụ nữ.”

      Hai bờ vai tôi thả lỏng ra.

      ấy có vẻ rất tốt, và tôi luôn thích người Australia. Họ thân thiện và có vẻ... biết đấy...” Người gác đêm bỏ lửng câu, nhưng ý ông ta định ám chỉ ràng. Người Australia giống như người Mỹ - nhưng quá huênh hoang, tự cao. “Chúng tôi gọi lên phòng .”

      Tôi cau mày. Tôi tắt chuông điện thoại, bởi vì dì Sarah chẳng bao giờ chịu tính toán khác biệt múi giờ giữa Madison và Oxford cách chính xác và thường gọi đến vào lúc nửa đêm. Thảo nào tôi nghe thấy cuộc gọi đến.

      “Cảm ơn cho tôi biết. Chắc chắn lần tới tôi báo cho ông biết trước về các vị khách,” tôi hứa đấy.

      Trở về phòng mình, tôi bật đèn phòng tắm và xém xét hao tổn trong hai ngày qua. Những quầng thâm xuất dưới hai bên mắt hôm qua gíờ nở bung ra thành thứ gì đó gần giống như những vết bầm tím. Tôi kiểm tra cánh tay mình xem có vết bầm nào , và ngạc nhiên khi thấy bất cứ dấu vết nào. Cái siết chặt của gã ma cà rồng quá mạnh đến mửc tôi tưởng Clairmont hẳn phải làm vỡ vài mao mạch dưới da tôi.

      Tôi tắm rồi mặc chiếc quần tụt và cái áo cổ lọ. Màu đen sẫm làm nổi bật thêm chiều cao và giảm đến mức tối đa thể hình khỏe khoắn của tôi, lại còn khiến tôi trông giống như xác chết, bởi thế tôi thắt thêm qua vai chiếc áo len mềm mại màu xanh dừa. Nó làm cho mấy quầng thâm dưới mắt tôi trông xanh hơn, nhưng ít nhất là tôi còn trông như người chết nữa. Mái tóc tôi có nguy cơ dựng đứng đầu và kêu tanh tách mỗi khi tôi di chuyển. Giải pháp duy nhất là bới ngược ra sau thành túm lộn xộn thả sau gáy.

      Chiếc xe đẩy của Clairmont đầy ứ những tập cổ thư, và tôi sẵn sàng chạm mặt ta ở khu phòng đọc Công tước Humfrey. Tôi đến bàn gọi sách với đôi vai bạnh ra hiên ngang.

      lần nữa viên quản lý và các nhân viên thư viện lại xì xào bàn tán như những chú chim bồn chồn lo lắng. Lần này hoạt động của họ tập trung vào khu tam giác giữa bàn gọi sách, những cuốn danh mục sách, và văn phòng giám sát. Họ mang những chồng hộp và đẩy những xe chở đầy cổ thư dưới cặp mắt cảnh giác của mấy cái máng xối nước hình đầu thú và vào ba gian đầu tiên của khu bàn đọc cổ xưa.

      “Cảm ơn Sean.” Giọng trầm trầm, lịch thiệp của Clairmont phảng phất tít sâu phía trong các phòng đọc.

      Tin tốt là tôi còn phải chia sẻ bàn đọc với con ma cà rồng nữa.

      Cón tin xấu là tôi thể bước vào hoặc rời khỏi thư viện - hay thậm chì là gọi sách hoặc tập cổ thư - mà bị Clairmont giám sát từng động thái. Và hôm nay phòng bị trước.

      xíu chất đống lên các bài luận văn và các tập file tài liệu ở chỗ hốc tường thứ hai. ta mặc chiếc áo len rộng lùng thùng màu nâu và dài gần tới đầu gối. Khi ta rẽ ngoặt, tôi giật mình nhìn thấy người lớn phát triển đầy đủ. Đôi mắt ta có màu hổ phách và đen, nó lạnh lẽo như sương giá.

      chạm vào, nhưng làn da xanh tái, sáng mờ mờ và mái tóc bóng láng dày khác thường của ta cũng tố giác ta là ma cà rồng. Những đường sóng tóc uốn lượn như rắn bao quanh gương mặt ta và xõa xuống hai vai. ta tiến bước về phía tôi, chẳng tốn công che giấu, những chuyển động nhanh nhẹn, chắc chắn, và ném cho tôi cái liếc thoáng qua đầy khinh thường. Đây ràng phải là nơi ta muốn có mặt, và ta đổ lỗi do tôi.

      “Miriam!” Tiếng Clairmont gọi nghe êm ái, bước ra lối trung tâm. hơi khựng lại, và nụ cười lịch nở môi. “Tiến sĩ Bishop đây mà. Chúc buổi sáng tốt lành,” luồn mấy ngón tay qua mái tóc, cử chỉ đó làm cho nó trông rối bời cách nghệ thuật hơn. Tôi ngượng ngập vuốt lên tóc mình và vén lọn tóc lơ thơ ra sau tai.

      “Chào buổi sáng, giáo sư Clairmont. Lại gặp ở đây rồi.”

      “Đúng vậy. Nhưng hôm nay tôi nhập hội với ở khu Selden End nữa. Họ thu xếp phòng đọc cho chúng tôi ở đây, chúng tôi làm phiền tới ai nữa.”

      Nữ ma cà rồng đập chồng luận văn lên mặt bàn đọc.

      Clairmont cười. “Cho phép tôi giới thiệu người đồng của tôi, tiến sĩ Miriam Shephard. Miriam, đây là tiến sĩ Diana Bishop.”

      “Chào tiến sĩ Bishop,” Miriam vẻ lạnh lùng, rồi đưa tay về phía tôi. Tôi đón lấy và cảm thấy trái ngược giữa bàn tay xíu, lạnh ngắt của ta với bàn tay ấm áp của mình. Tôi định rút tay lại bàn tay ta xiết chặt hơn, dồn các khớp xương của tôi lại với nhau. Khi cuối cùng ta cũng thả ra, tôi phải kìm mình giũ tay ngay lúc đó.

      “Chào tiến sĩ Shephard.” Cả ba chúng tôi đứng đó vẻ lúng túng. Bạn hỏi ma cà rồng câu gì trước tiên vào buổi sáng? Tôi đành trở lại với lối vô vị tẻ nhạt của con người: “Tôi phải làm việc rồi.”

      “Chúc ngày làm việc hiệu quả,” Clairmont , cái gật đầu chào của cũng lạnh lùng ngang với lời chào hỏi của Miriam.

      Ông Johnson xuất bên cạnh tôi, tay bưng sẵn chồng hộp màu xám mà tôi cầu.

      “Hôm nay chúng tôi sắp chỗ cho ở A4 rồi, tiến sĩ Bishop,” ông ta , bên má phồng lên. “Tôi mang mấy thứ này lại chỗ .” Đôi vai của Clairmont quá rộng nên tôi thể nhìn vòng qua người để xem có các cuốn cổ thư ở bàn . Tôi đè nén tính hiếu kỳ và theo viên quản lý tới chỗ ngồi quen thuộc của mình ở khu Selden End.

      có Clairmont ngồi đối diện, tôi vẫn nhận thức rệt diện của trong khi lôi bút chì ra và bật máy tính lên. Lưng hướng về phía phòng trống, tôi nhặt cái hộp đầu tiên lên, lôi ra cuốn cổ thư bìa da và đặt nó vào giá đọc.

      Công việc quen thuộc là đọc và ghi chép nhanh chóng thu hút tập trung chú ý của tôi. Cuốn cổ thư đầu tiên được tôi hoàn thành trong vòng chưa tới hai giờ. Vẫn chưa tới mười giờ. Vẫn còn thời gian để đọc cuốn khác trước khi ăn trưa.

      Cuốn cổ thư ở trong chiếc hộp kế tiếp hơn cuốn trước, nhưng nó có những phác họa thú vị về bộ dụng cụ của thuật giả kim và các mẩu thông tin về công thức hóa học mà khi đọc nó, tôi thấy nó giống như kết hợp khủng khiếp nào đó giữa cuốn Nấu ăn vui vẻ tập ghi chép công thức của kẻ chuyên đầu độc. “Lấy bình đựng thủy ngân đun sôi lửa trong ba giờ,” trong các hướng dẫn bắt đầu, “và khi nó kết hợp với Đứa trẻ can đảm, hãy giữ lấy nó và để nó thối rữa cho tới khi Quạ Đen mang nó tới chỗ cái chết.” Những ngón tay tôi lướt nhanh bàn phím, tăng thêm đà làm việc trong khi từng phút tích tắc trôi qua.

      Tôi chuẩn bị sẵn tinh thẩn ngày hôm nay bị các sinh vật khác thường kia nhìn chòng chọc. Nhưng khi đồng hồ điểm giờ, tôi gần như vẫn mình trong khu Selden End. Độc giả duy nhất khác là sinh viên tốt nghiệp đeo chiếc khăn quàng cổ sọc đỏ, trắng và xanh dương của trường Keble. ta ủ ê nhìn chằm chằm vào chồng sách hiếm mà hề đọc chúng và cứ cắn móng tay mình thỉnh thoảng kêu đánh tách cái.

      Sau khi viết đầy hai mảnh phiếu cầu mới và đóng hộp mấy cuốn cổ thư của mình, tôi rời khỏi chỗ ngồi để ăn trưa, cảm thấy mãn nguyện với thành quả làm việc buổi sáng. Từ chỗ ngồi trông mấy thoải mái gần chiếc đồng hồ cổ, Gillian Chamberlain nhìn tôi chăm chăm đầy ác ý khi tôi ngang qua. Hai nữ ma cà rồng ngày hôm qua phóng những trụ băng lạnh lẽo vào da tôi, và gã tinh ở thư viện nhạc kéo thêm hai gã tinh khác đến. Cả ba tháo tung cái máy đọc vi phim, các bộ phận của chiếc máy rải rắc vương vãi khắp xung quanh và cuộn phim bung ra, bị bỏ chỏng trơ sàn nhà dưới chân chúng.

      Clairmont và trợ lý của vẫn còn bám trụ gần chỗ bàn gọi sách của phòng đọc. từng tuyên bố rằng những sinh vật này tụ tập quanh tôi, chứ phải . Nhưng thái độ của họ ngày hôm nay lại cho thấy điều ngược lại - tôi thầm nghĩ vẻ đắc thắng.

      Trong khi tôi trả lại các cuốn cổ thư, Matthew Clairmont nhìn tôi vẻ hờ hững. Dù nỗ lực rất nhiều, nhưng tôi vẫn kìm được mình thôi để ý đến ta.

      “Tất cả chỗ này xong rồi chứ?” Sean hỏi.

      “Ừ. Vẫn còn hai tập nữa ở chỗ bàn tớ. Nếu tớ có thể có những cuốn này nữa tuyệt quá.” Tôi chìa mấy tờ phiếu cầu ra. “Cậu có muốn ăn trưa cùng tớ ?”

      “Valerie vừa mới ra ngoài rồi. Tôi e là mình bị kẹt ở đây lúc nữa,” chàng vẻ nuối tiếc.

      “Ừ, thôi lần sau vậy.” Siết chặt ví tiền trong tay, tôi quay người chuẩn bị .

      Giọng trầm trầm của Clairmont làm tôi hơi khựng lại. “Miriam, đến giờ ăn trưa rồi.”

      “Tôi đói,” ta đáp lại bằng giọng nữ cao du dương trong trẻo chứa đựng cả cơn giận sôi sục.

      khí trong lành củng cố thêm khả năng tập trung của đấy.” Dấu hiệu mệnh lệnh trong giọng Clairmont còn gì để bàn cãi nữa. Miriam thở dài thườn thượt, thả cạch cái bút chì lên mặt bàn đọc, và trồi ra từ trong bóng tối theo sau tôi.

      Bữa ăn thường lệ của tôi là hai mươi phút ghé vào quán cà phê tầng hai của hiệu sách Blackwell gần đó. Tôi mỉm cười với ý nghĩ Miriam phải tự làm mình bận rộn trong suốt khoảng thời gian đó, kẹt trong Blackwell nơi các khách du lịch túm tụm lại để ngắm các tấm bưu thiếp, thấy được mùi khác biệt giữa những cuốn sách hướng dẫn của Oxford và khu vực tội phạm đích thực.

      Tôi kiếm được chiếc sandwich và ít trà rồi chen lấn tới góc xa nhất trong căn phòng đông nghẹt, ngồi giữa thành viên có nét mặt ngờ ngợ ở khoa Lịch sử đọc báo và sinh viên cùng lúc ôm cả chiếc MP3, chiếc di động và cái máy vi tính.

      Sau khi ăn xong cái sandwich, tôi nâng tách trà tay và liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi cau mày. trong những gã tinh lạ mặt ở khu Công tước Humfrey thơ thẩn chỗ cổng thư viện và nhìn lến cửa sổ hiệu Blackwell.

      Có thứ gì đó chạm lên gò má tôi, dịu dàng và thoáng qua như cảm giác của nụ hôn. Tôi ngẩng lên thấy khuôn mặt của nữ tinh khác. ta xinh đẹp, với những đường nét lôi cuốn trái ngược nhau - miệng quá rộng so với khuôn mặt thanh tú, đôi mắt màu nâu sô--la quá gần nhau lại có kích cỡ to lớn quá mức, mái tóc có màu quá sáng so với làn da màu mật ong.

      “Tiến sĩ Bishop phải ?” Thứ trọng Australia của ta khiến sống lưng tôi buốt giá như bị những ngón tay lạnh lẽo lướt qua.

      “Vâng,” tôi thầm đáp, liếc nhanh xuống cầu thang. Mái đầu đen của Miriam chẳng thấy tăm hơi đâu. “Tôi là Diana Bishop.”

      ta cười. “Tôi là Agatha Wilson. Và người bạn của ở tầng dưới biết tôi có mặt ở đây đâu.”

      Đó là cái tên lỗi mốt thích hợp với người chỉ hơn tôi khoảng mười tuổi, và khá là sành điệu nữa. Dù vậy, tên ta nghe cũng quen quen, và tôi lờ mờ nhớ là nhìn thấy cái tên này trong tờ tạp chí thời trang.

      “Tôi có thể ngồi chứ?” ta hỏi, ra hiệu về chỗ ngồi vừa bỏ trống của nhà sử học nọ.

      “Tất nhiên rồi,” tôi ậm ừ.

      Hôm thứ Hai tôi gặp con ma cà rồng. Ngày thứ Ba phù thủy cố tìm cách len lỏi vào đầu tôi. Còn ngày thứ Tư, ràng là ngày của tinh rồi.

      Mặc dù họ đeo bám tôi khắp xung quanh trường, nhưng thậm chí hiểu biết của tôi về tinh còn ít hơn là hiểu biết về ma cà rồng. vài người có vẻ thông thạo về các sinh vật này, còn dì Sarah chẳng bao giờ có thể trả lời các thắc mắc của tôi về tinh cả. Theo như miêu tả của dì, tinh được cấu thành như là tầng lớp tội phạm dưới đáy nấc thang tiến hóa. lanh lợi và óc sáng tạo thừa thãi có thể dẫn họ tới dối trá, trộm cắp, lừa đảo, và thậm chí là giết người, bởi vì họ cảm thấy mình có thể thoát ra khỏi những rắc rối đó. Thậm chí còn có nhiều phiền hà hơn nữa, theo như dì Sarah , tùy thuộc vào điều kiện sinh sống nơi họ được sinh ra. thể trước được nơi nào hay khi nào tinh xuất , vì đặc thù cha mẹ họ có thể là con người. Đối với dì tôi đây chỉ là việc pha trộn các vị trí tồn tại bên lề nấc thang sinh tồn mà thôi. Dì quý trọng dòng dõi và truyền thống gia đình của phù thủy, và dì chấp nhận bất ổn ma quái.

      Ban đầu Agatha Wilson hài lòng với việc ngồi lặng yên bên cạnh, quan sát tôi nhâm nhi tách trà. Thế rồi ta bắt đầu những ngôn từ như xoáy lốc làm tôi choáng váng. Dì Sarah thường bảo rằng chuyện với tinh là điều thể, vì họ thường bắt đầu ngay ở giữa câu chuyện.

      “Bởi vậy nguồn năng lượng mạnh mẽ chắc chắn hấp dẫn chúng ta,” ta đầu cuối, cứ như là tôi hỏi ta câu gì đó vậy. “Các phù thủy ở Oxford trong lễ hội Mabon cứ huyên thuyên như thể thế gian này có nhan nhản lũ ma cà rồng chuyên nghe lỏm mọi thứ ấy.” ta im bặt. “Chúng tôi dám tin là mình thấy lại nó lần nữa “

      “Thấy gì cơ?” tôi khẽ hỏi.

      “Cuốn sách,” ta hạ thấp giọng để giãi bày.

      “Cuốn sách?” tôi nhắc lại, giọng chán nản.

      “Phải. Sau những gì các phù thủy làm với nó, chúng tôi dám nghĩ là mình còn được thấy nó lần nữa.”

      Đôi mắt nữ tinh chú ý vào điểm ở giữa phòng. “Dĩ nhiên, cũng là phù thủy. Có lẽ là sai lầm khi với . Dù tôi nghĩ cũng như tất cả các phù thủy có thể khám phá ra người xưa làm chuyện đó như thế nào. Và giờ có đây rồi,” ta vẻ buồn bã, giơ lên tờ báo bị bỏ và đưa cho tôi.

      Dòng tiêu đề nhạy cảm lập tức đập ngay vào mắt tôi: MA CÀ RỒNG THẢ RÔNG Ở LONDON. Tôi vội vàng đọc.

      Cảnh sát thủ đô có manh mối nào cho vụ giết hai người đàn ông gây hoang dư luận ở Westminster. Các thi thể này của Daniel Bennett, 22 tuổi, và Jason Enright 26 tuổi, được tìm thấy trong ngõ hẻm đằng sau quán bar White Hart phố Alban vào sáng sớm Chủ nhật, do chính chủ quán - Reg Scott phát . Cả hai người đàn ông đều bị tổn thương động mạch cảnh và vô số vết cắn cổ, hai cảnh tay và thân người. Khám nghiệm pháp y cho biết mất máu ồ ạt là nguyên nhấn dẫn đến cái chết, mặc dù tại trường hề tìm thấy vết máu nào.

      Các cấp có thẩm quyền điều tra “những con ma cà rồng giết người” này - cư dân gán cho chúng cái tên như thế - tìm kiếm lời khuyên của Peter Knox, tác giả các cuốn sách bán chạy nhất về những điều huyền bí thời đại, bao gồm cuốn Các vấn đề đen tối: Ác quỷ thời đại và Pháp thuật lên ngôi: Cần phải dành chỗ cho trong kỷ nguyên khoa học. Knox được các cơ quan điều tra toàn thế giới tới xin tư vấn cho các vụ bị nghi ngờ là giết người hàng loạt và giết người theo nghi thức ma quỷ.

      có bằng chứng nào cho thấy đây là những kẻ giết người theo nghi thức tôn giáo,” Knox với các phóng viên báo chí tại cuộc họp báo. “Cũng có gì cho thấy đây là kẻ giết người hàng loạt cả,” ông ta thêm, bất chấp các án mạng tương tự của Christiana Nilsson ở Copenhagen mùa hè năm ngoái và Sergei Morozov ở St. Petersburg vào mùa thu năm 2007. Nhấn mạnh thêm, Knox phán đoán rằng vụ án ở London có thể dính líu đến hoặc những kẻ sát nhân thích bắt chước cách mù quáng.

      Nhưng những người dân lo ngại thành lập đội tuần tra công cộng và cảnh sát địa phương phát động chiến địch nhà nhà an toàn để trả lời cho các thắc mắc, đồng thời hỗ trợ và hướng dẫn người dân. Chính quyền khuyến cáo người dân London đề cao cảnh giác cho an toàn của họ, đặc biệt là về đêm.

      “Đó chỉ là công việc của biên tập báo cần kiếm ra câu chuyện,” tôi , trả tờ báo lại cho nữ tinh. “Cách nhấn mạnh này là để câu mồi cho nỗi sợ hãi của con người thôi.”

      “Bọn họ ư?” ta hỏi, đưa mắt liếc quanh phòng. “Tôi chắc đâu. Bọn họ chẳng bao giờ hiểu về ma cà rồng. Chúng chỉ cách loài vật bước chân thôi.” Miệng Agatha Wilson kéo căng ra hết mức trong biểu cảm chua chát. “Và nghĩ chúng tôi là những sinh vật lường trước được. Cho dù bất cứ ai trong chúng ta cũng gặp nguy hiểm nếu khiến con người chú ý đến.”

      Đây quả là cuộc trò chuyện quá mức về phù thủy và ma cà rồng ở giữa chốn công cộng thế này. Mặc dù, cậu sinh viên nọ vẫn đeo tai nghe, và tất cả các vị khách vãng lai khác đều đắm chìm trong những suy nghĩ riêng của họ hoặc tâm trí họ ở sát bên những người bạn cùng dùng bữa với mình.

      “Tôi biết bất kỳ điều gì về cuốn cổ thư hay về việc các phù thủy làm với nó, Wilson ạ. Tôi cũng có nó đâu,” tôi vội , đề phòng trường hợp ta cũng nghĩ tôi có thể ăn cắp nó.

      “Hãy gọi tôi là Agatha.” ta tập trung nhìn vào hoa văn tấm thảm. “Lúc này thư viện giữ nó. Họ bảo trả lại nó à?”

      ta ám chỉ các phù thủy ư? Hay ma cà rồng? Hay thủ thư? Tôi chọn lựa các “bị can khả nghi nhất”.

      “Phù thủy à?” tôi thầm.

      Agatha gật đầu, ánh mắt ta phiêu du khắp căn phòng.

      . Khi tôi dùng nó xong, tôi chỉ đơn giản là trả lại nó về kho của thư viện thôi.”

      “A, kho sách,” Agatha ranh mãnh . “Mọi người nghĩ thư viện chỉ là tòa nhà thôi, nhưng nó phải vậy.”

      lần nữa tôi nhớ đến cơn rùng mình ma quái mà tôi cảm thấy sau khi Sean đặt cuốn cổ thư lên băng tải.

      “Thư viện là thứ mà các phù thủy lúc nào cũng thèm muốn,” nàng tiếp tục. “Nhưng cuốn sách ấy thuộc về các . Phù thủy nên giành lấy quyền quyết định giữ nó ở đâu và ai là người được xem nó.”

      “Có điều gì đặc biệt ở cuốn cổ thư này vậy?”

      “Cuốn sách đó giải thích vì sao chúng ta có mặt ở đây,” ta , giọng dường như có phần tuyệt vọng. “Nó kể câu chuyện của chúng ta - mở đầu, đoạn giữa, thậm chí là kết thúc nữa. tinh chúng tôi cần hiểu vị trí của mình trong thế giới này. Nhu cầu của chúng tôi còn lớn hơn cả của phù thủy hay ma cà rồng nữa kia.” Lúc này ta còn rối trí nữa. ta giống như chiếc camera thường xuyên bị mất tiêu điểm cho tới khi có ai đó đến và vặn lại ống kính vào đúng khớp thẳng hàng.

      “Các vị biết vị trí của mình trong thế giới này mà,” tôi bắt đầu. “Có bốn loài sinh vật - con người, tinh, ma cà rồng, và phù thủy.”

      “Và tinh đến từ đâu? Chúng tôi được tạo ra như thế nào? Tại sao chúng tôi lại ở đây?” Đôi mắt nâu của ta chớp chớp. “Các người có biết sức mạnh của mình đến từ đâu ? biết ?”

      ,” tôi thầm đáp, và lắc đầu.

      ai biết cả,” ta đăm chiêu . “Mỗi ngày chúng tôi đều băn khoăn tự hỏi. Ban đầu con người nghĩ tinh là các thiên thần hộ mệnh. Sau đó họ tin chúng tôi là các vị thần, tạo ra trái đất và tội lỗi từ những đam mê của chính chúng tôi. Con người ghét chúng tôi bởi vì chúng tôi khác biệt, họ bỏ rơi những đứa con của họ nếu chúng là những tinh. Họ buộc tội chúng tôi chiếm giữ linh hồn họ và khiến họ điên cuồng mất trí. tinh thông minh nổi bật khác thường nhưng chúng tôi sa đọa, xấu xa - giống như ma cà rồng.” Giọng ta giờ đây ràng giận dữ, mặc dù nó chẳng bao giờ to hơn tiếng lầm bầm trong miệng. “Chúng tôi chẳng bao giờ khiến ai điên loạn cả. Thậm chí còn hơn cả phù thủy, chúng tôi chính là nạn nhân của nỗi sợ hãi và lòng đố kỵ của loài người.”

      “Phù thủy cũng có những truyền thuyết xấu xa mà họ phải chịu đựng và đấu tranh đấy chứ,” tôi , lòng nghĩ đến những cuộc săn lùng phù thủy và các cuộc hành quyết tiếp nối sau đó.

      “Phù thủy sinh ra phù thủy. Ma cà rồng tạo ra các ma cà rồng khác. Các người có những câu chuyện gia đình và ký ức để an ủi khi thấy đơn hay mất phương hướng. Chúng tôi chẳng có gì ngoài những câu chuyện cổ tích được loài người kể lại. nghi ngờ gì khi có quá nhiều tinh bị loạn trí như thế. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là được lướt qua các tinh khác ngày nào đó và biết rằng chúng tôi giống họ. Con trai tôi là trong những kẻ may mắn. Nathaniel có người mẹ là tinh, người có thể thấy được các dấu hiệu và giúp nó hiểu được đó là gì.” ta nhìn ra hướng khác lúc để lấy lại bình tĩnh. Khi ánh mắt ta và tôi gặp nhau lần nữa, chúng trông buồn. “Có thể con người đúng. Có thể chúng tôi bị ma quỷ ám. Tôi thấy những thứ ấy, Diana ạ. Những điều tôi nên thấy.”

      tinh có thể là những kẻ nhìn xa trông rộng. Ai biết được liệu những gì họ thấy có đáng tin cậy - giống như những hình ảnh mà phù thủy có?

      “Tôi nhìn thấy máu và nỗi sợ hãi. Tôi thấy ,” ta , đôi mắt lại thất thần. “Đôi lúc tôi thấy gã ma cà rồng đó. ta muốn cuốn sách này từ lâu lắm rồi. Nhưng thay vào đó tìm thấy . hiếu kỳ.”

      “Tại sao Matthew Clairmont lại muốn cuốn sách ấy?”

      Agatha rùng mình. “Ma cà rồng và phù thủy chia sẻ suy nghĩ với chúng tôi, thậm chí cả khi gã ma cà rồng của cho chúng tôi điều biết, và dù cho thích tinh hơn hầu hết đồng loại của . Quá nhiều bí mật, và quá nhiều con người thông minh ngày nay. Họ phát ra nếu chúng ta cẩn thận. Loài người thích sức mạnh - và cũng thích những bí mật.”

      ta phải là gã ma cà rồng của tôi.” Tôi đỏ mặt.

      chắc chứ?” ta hỏi, mắt nhìn chăm chăm vào màu vàng crom chiếc máy pha cà phê như thể đó là tấm gương phép thuật vậy.

      “Chắc,” tôi đáp ngay.

      cuốn sách có thể nắm giữ bí mật lớn - thứ có thể thay đổi cả thế giới. phù thủy. biết ngôn ngữ có sức mạnh của nó. Và nếu gã ma cà rồng của biết bí mật này, cần nữa đâu.” Đôi mắt nâu của Agatha lúc này đầy thương cảm và ấm áp.

      “Matthew Clairmont có thể tự mình cầu lấy cuốn cổ thư nếu ta muốn nó đến thế.” Ý nghĩ ta có thể làm việc đó ngay lúc này khiến tôi thấy ớn lạnh cách khó hiểu.

      “Khi lấy lại nó,” ta nài nỉ, tóm chặt lấy cánh tay tôi, “hãy hứa với tôi rằng phù thủy các phải là người duy nhất cần biết các bí mật của nó nhé. tinh cũng là phần của câu chuyện. Hứa với tôi .”

      Tồi cảm thấy cơn hoảng hốt thoảng qua trong cái đụng chạm của ta, và đột nhiên cảm giác được hơi nóng của căn phòng cùng sức ép của mọi người trong đó. Theo bản năng tôi tìm kiếm lối thoát gần nhất trong khi tập trung vào nhịp thở của mình, cố kềm nén những biểu đầu tiên của phản ứng hoảng sợ. “Tôi hứa,” tôi do dự lẩm bẩm đáp, chắc điều mình đồng ý là gì.

      “Tốt,” ta lơ đãng , rồi thả cánh tay tôi ra. Đôi mắt ta lại lơ đãng phiêu du. “ tốt vì chuyện với tôi.” Agatha lại lần nữa nhìn chăm chú xuống tấm thảm. “Chúng ta gặp lại nhau. Hãy nhớ nhé, vài lời hứa quan trọng hơn những lời hứa khác đấy.”

      Tôi thả chiếc ấm và tách trà vào cái khay nhựa màu xám đựng rác rồi vứt cái túi đựng bánh sandwich . Khi tôi ngoái lại liếc nhìn, Agatha đọc mục thể thao tờ nhật báo London nhà sử học bỏ lại.

      đường ra khỏi Blackwell, tôi thấy Miriam đâu, nhưng tôi có thể cảm thấy ánh mắt của ta.

      ~*~


      Khu Selden End đầy những con người bình thường trong khi tôi ra ngoài, tất cả bọn họ đều bận rộn với công việc và hoàn toàn mù tịt trước cái hội nghị những sinh vật khác người ở quanh họ. ghen ti với ngu dốt của họ, tôi cầm cuốn cổ thư lên, quyết tâm tập trung, nhưng thay vì thế tôi lại thấy tâm trí mình suy nghĩ về cuộc trò chuyện ở Blackwell và các kiện trong mấy ngày qua. Ở mức độ trực diện những hình ảnh minh họa trong Ashmole 782 dường như liên quan gì tới những điều Agatha Wilson vừa . Và nếu Matthew Clairmont cùng nữ tinh này quá quan tâm tới cuốn cổ thư ấy đến vậy, tại sao họ cầu mượn nó?

      Tôi nhắm mắt, nhớ lại những chi tiết trong cuộc đối mặt với cuốn cổ thư và cố gắng tạo ra phông nền nào đó cho các kiện mấy ngày qua bằng cách làm cho tâm trí mình trống rỗng và tưởng tượng ra vấn đề như là trò chơi ghép hình chiếc bàn trắng tinh, rồi sau đó sắp xếp lại các hình khối có màu sắc vào. Nhưng cho dù ở chỗ nào nữa, vẫn chẳng có hình ảnh nào lên ràng cả. Nản chí, tôi đẩy cái ghế bành ra khỏi bàn và về phía lối ra.

      “Cậu có mượn quyển nào nữa ?” Sean hỏi khi chàng nhận mấy cuốn cổ thư từ tay tôi. Tôi đưa cho ta tệp phiếu cầu vừa mới điền vào. chàng mỉm cười trước độ dày của tệp phiếu đó nhưng chẳng lời nào.

      Trước khi rời , tôi cần làm hai việc. Đầu tiên là vấn đề xã giao lịch đơn giản thôi. Tôi chắc bọn họ làm thế nào, nhưng những ma cà rồng này giữ cho tôi khỏi bị quẫn trí trước dòng bất tận các sinh vật khác ở khu Selden End. Phù thủy và ma cà rồng thường có cơ hội để cảm ơn nhau, nhưng Clairmont bảo vệ tôi hai lần trong hai ngày qua. Tôi muốn là kẻ vô ơn, hoặc có đức tin mù quáng như dì Sarah và bạn bè của dì ở hội đồng phù thủy Madison.

      “Giáo sư Clairmont?”

      Gã ma cà rồng ngước nhìn lên.

      “Cảm ơn ,” tôi cách giản dị, bắt gặp cái nhìn chòng chọc của và giữ nguyên cho đến khi phải quay nhìn nơi khác.

      có gì,” lẩm bẩm, vẻ ngạc nhiên trong giọng .

      Việc thứ hai được suy tính kỹ càng hơn. Nếu Matthew Clairmont cần tôi, tôi cũng cần . Tôi muốn cho tôi biết tại sao Ashmole 782 lại thu hút chú ý nhiều đến thế.

      “Có lẽ nên gọi tôi là Diana,” tôi nhanh, trước khi lại mất tinh thần.

      Matthew Clairmont mỉm cười.

      Tim tôi ngừng đập trong phần mấy giây. Đây phải làm nụ cười mỉm lịch mà giờ tôi quen thấy. Đôi môi nhoẻn lên, khiến toàn bộ khuôn mặt rạng rỡ hẳn. Chúa ơn, đẹp quá, tôi lại thầm nghĩ, thoáng chút sững sờ.

      “Được thôi,” nhàng đáp; “nhưng thế cũng phải gọi tôi là Matthew.”

      Tôi gật đầu đồng ý, tim vẫn đập ngắt quãng thất thường. Có thứ gì đó lan tỏa khắp thân thể tôi, nới lỏng hết dấu vết băn khoăn lo lắng còn vương lại sau cuộc gặp gỡ mong đợi với Agatha Wilson.

      Mũi Matthew hơi hếch lên nhạy bén. Nụ cười của rộng mở hơn. Cho dù cơ thể tôi phản ứng thế nào, đánh hơi thấy cả. Còn gì nữa, nhận ra điều đó rồi.

      Tôi đỏ cả mặt.

      “Chúc buổi tối vui vẻ, Diana.” Giọng nấn ná chỗ tên tôi, làm nó nghe khêu gợi và lạ lẫm.

      “Chúc ngủ ngon, Matthew,” tôi đáp lại, yếu thế rút lui vội vàng.

      Hôm ấy, chèo thuyền con sông vắng lặng lúc trời chiều chạng vạng, tôi thấy có cái bóng mờ màu khói thấp thoáng con đường chạy song song với dòng sông, luôn luôn ở phía trước tôi chút, giống như ngôi sao tối sẫm dần lôi tôi về.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 7





      2:15, tôi choàng dậy bởi cảm giác kinh hoàng của người chết đuối. Quất vào tôi từ trong chỗ núp, sức mạnh của giấc mơ biến đổi nó thành cây tảo biển nặng nề, ướt át, và tôi cố di chuyển tới chỗ làn nước sáng hơn ở phía . Ngay khi tôi làm thế có thứ gì đó tóm lấy mắt cá chân và kéo tôi xuống sâu hơn.

      Như mỗi lần gặp ác mộng, tôi giật mình tỉnh dậy rồi bắt đầu tìm kiếm xem ai tóm lấy mình. Vài phút trôi qua, tôi nằm đó, mất hết phương hướng, cơ thể ướt đẫm mồ hôi và nghe tiếng tim đập ngắt nhịp dội lại qua lồng ngực. Thận trọng, tôi ngồi dậy.

      gương mặt trắng toát nhìn tôi chằm chằm từ cửa kính tối om, hai mắt hõm sâu.

      Quá muộn tôi mới nhận ra đó chỉ là hình ảnh mình phản chiếu trong tấm kính. Tôi vừa vặn vào kịp phòng tắm trước khi cơn buồn nôn trào lên. Thế rồi tôi mất đến ba mươi phút khổ sở khom mình bồn cầu dưới sàn nhà lạnh ngắt, đổ lỗi cho Matthew Clairmont và những sinh vật khác người kia. Cuối cùng tôi cũng bò được về giường và ngủ thêm vài tiếng nữa. Tinh mơ hôm đó, tôi lê mình vào chỗ để bộ đồ chèo thuyền.

      Khi tôi đến chỗ chòi gác, người gác cửa nhìn tôi vẻ kinh ngạc. “ định ra đó trong sương mù vào giờ này chứ, tiến sĩ Bishop? trông như cây nến cháy cạn đến tận cùng rồi ý, nếu phiền tôi thế. Nằm nghỉ ngơi phải là ý tưởng tốt hơn à? Ngày mai con sông vẫn ở đó chứ có chạy đâu mất đâu?”

      Sau khi cân nhắc lời khuyên của Fred, tôi lắc đầu. “, tôi thấy khỏe hơn nếu ra đấy.” Ông ta nhìn tôi vẻ nghi ngại. “Với lại tuần này các sinh viên cũng trở lại rồi.”

      Mặt đường trơn trượt đầy hơi nước nên tôi chạy chậm hơn bình thường để xem xét thời tiết cũng như mệt mỏi của mình trước khi ra quyết định. Lộ trình quen thuộc đưa tôi ngang qua trường Oriel và tới cánh cổng sắt đen cao lớn nằm giữa Merton và Corpus Christi. Chúng bị khóa từ khi trời nhá nhem tối cho tới lúc bình minh để ngăn cho mọi người ra ngoài bãi cỏ tiếp giáp với dòng sông, nhưng điều đầu tiên bạn học được khi chơi chèo thuyền ở Oxford là làm thế nào để leo qua đó. Tôi trèo qua mấy cánh cổng ngon ơ.

      nghi thức quen thuộc nữa là đưa con thuyền xuống nước. Cho tới lúc con thuyền lướt ra xa khỏi cầu tàu và vào sương mù huyền ảo, tôi hầu như cảm thấy bình thường.

      Khi có sương mù, chèo thuyền càng làm ta thấy giống như bay hơn. Bầu khí bóp nghẹt các thanh thông thường của chim muông, của xe cộ, nhưng lại khuếch đại hơn tiếng khỏa nước nhàng của hai mái chèo và tiếng cọt kẹt từ chỗ ngồi con thuyền. có đường bờ sông và các mốc ven bờ quen thuộc để định hướng cho bạn, chẳng có gì để chỉ dẫn bạn ngoài chính bản năng của của mình.

      Tôi đắm mình vào nhịp điệu đung đưa, thư thái, thính giác và thị giác của tôi nắm bắt lấy thay đổi nhất trong tiếng mái chèo, nó báo cho tôi biết rằng tôi đến gần bờ quá hay cái bóng báo hiệu tiếp cận của con thuyền khác. Sương mù quá dày đến nỗi tôi nghĩ đến việc quay trở lại, nhưng viễn cảnh về dòng sông thẳng tắp, trải dài lôi cuốn vô cùng.

      Vừa đến chỗ quán rượu, tôi thận trọng rẽ thuyền sang. Có hai tay chèo bơi thuyền xuôi theo dòng nước, mải mê tranh luận về chiến lược cạnh tranh với đối thủ hòng giành chiến thắng giải phong cách riêng của Oxford trong cuộc đua có tên “Đụng nhau.”

      “Các có muốn trước ?” tôi gọi to.

      “Có!” tiếng đáp lại rất nhanh. Cặp vận động viên qua mà hề bị lỗi nhịp sải tay chèo.

      Tiếng mái chèo khua nước của họ mờ dần. Tôi quyết định chèo trở lại nhà thuyền và chấp nhận dừng cuộc dạo chơi sông. Chỉ là hành trình ngắn, nhưng khó ở sau ba đêm liên tiếp thiếu ngủ đỡ nhiều.

      Cất dụng cụ vào chỗ cũ, tôi khóa cửa nhà thuyền và dạo bước chậm rãi dọc con đường mòn hướng vào thị trấn. là quá yên tĩnh trong buổi sớm mù sương khi mà thời gian và gian như lùi xa dần. Tôi nhắm mắt, tưởng tượng mình ở đâu cả - phải Oxford, cũng ở bất cứ nơi nào trái đất này.

      Khi tôi mở mắt ra, hình thù màu đen chồm tới trước mặt tôi. Tôi giật mình và thở hổn hển sợ hãi. Hình hài đó hướng về phía tôi và hai tay tôi theo bản năng giơ ra gạt tránh nguy hiểm.

      “Diana, tôi xin lỗi. Tôi tưởng trông thấy tôi rồi.” Đó là Matthew Clairmont, khuôn mặt nhăn lại vẻ lo lắng.

      “Tôi nhắm mắt bộ mà.” Tôi tóm chặt vào cổ chiếc áo len lông cừu, và hơi lùi lại chút. Tôi tựa người vào cái cây cho tới khi hơi thở chậm trở lại.

      có thể kể cho tôi nghe điều gì đó ?” Clairmont hỏi khi tim tôi thôi đánh trống trận.

      “Nếu định hỏi tại sao tôi lại ra sông trong sương mù khi mà ma cà rồng, tinh và phù thủy bám theo mình thế này, tôi chẳng có gì để kể với đâu.” Tôi muốn bị bài thuyết giảng - phải sáng hôm nay.

      .” Giọng chút cay nghiệt. “Mặc dù đó là câu hỏi tuyệt vời đấy. Tôi định hỏi là tại sao lại dạo mà nhắm mắt cơ.”

      Tôi cười to. “Cái gì - làm thế à?”

      Matthew lắc đầu. “Ma cà rồng chỉ có năm giác quan thôi. Và chúng tôi thấy rằng tốt nhất là nên sử dụng tất cả các giác quan ấy,” vẻ nhạo báng.

      “Chẳng có gì là thần thông cả, Matthew. Đó là trò tôi vẫn chơi từ khi còn thôi. Nó khiến dì của tôi phát điên lên. Tôi thường về nhà với hai chân thâm tím và trầy xước vì đâm phải bụi rậm và cây cối.”

      Gã ma cà rồng tỏ vẻ đăm chiêu. đút hai tay vào túi quần màu xám đen và nhìn đăm đắm vào sương mù. Hôm nay mặc chỉếc áo len màu xanh xám làm mái tóc trông tối hơn, nhưng mặc áo khoác. thiếu sót quá nổi bật, trong thời tiết này. Đột nhiên cảm thấy mình lôi thôi lếch thếch, tôi thầm ước gì cái quần bó để chèo thuyền của mình có cái lỗ ở đằng sau bắp đùi trái vì bị mắc vào cạnh thuyền.

      “Chuyến dạo bằng thuyền của sáng nay thế nào?” Cuối cùng Clairmont hỏi, như thể biết gì cả. chắc chắn ra ngoài để tản bộ buổi sáng đâu.

      “Tốt,” tôi đáp gọn lỏn.

      “Sáng sớm nay nơi đây vắng lặng nhỉ.”

      “Vâng, nhưng tôi thích thế khi dòng sông đông đúc.”

      mạo hiểm khi chèo thuyền vào thời tiết này sao, khi mà có quá ít người ra ngoài thế này?” Tiếng êm dịu, dường như còn là gã ma cà rồng theo dõi nhất động của tôi nữa, và có lẽ tôi đón nhận câu hỏi của bằng cố gắng trò chuyện vụng về.

      “Mạo hiểm thế nào cơ?”

      “Nếu có chuyện gì xảy ra, nhỡ ai trông thấy sao?”

      Trước đây tôi chưa bao giờ thấy sợ khi ở sông, nhưng có lý. Tuy thế, tôi rũ bỏ cảm giác ấy ngay. “Các sinh viên trở về đây vào thứ Hai. Tôi tận hưởng khoảnh khắc thanh bình cuối cùng thôi.”

      “Học kỳ bắt đầu vào tuần tới à?” Clairmont nghe có vẻ ngạc nhiên.

      giảng dạy trong khoa, đúng ?” tôi cười lớn.

      “Về cơ bản là thế, nhưng tôi thực gặp các sinh viên. Tôi ở đây để nghiên cứu nhiều hơn.” Miệng mím chặt. Gã ma cà rồng này thích bị cười nhạo.

      “Hẳn là tuyệt lắm.” Tôi nghĩ đến lớp học ba trăm chỗ ngồi của mình và tất cả đều là sinh viên năm thứ nhất đầy lo âu, mong ngóng.

      “Cũng khá. Trang thiết bị phòng thí nghiệm của tôi thắc mắc về những giờ đồng hồ thuyết giảng dài dằng dặc của tôi. Và tôi có tiến sĩ Shephard cùng trợ lý khác, tiến sĩ Whitmore, bởi vậy nên tôi hoàn toàn độc.”

      Thời tiết ẩm, và tôi bị lạnh. Hơn nữa, có điều gì đấy tự nhiên lắm khi trao đổi những lời nhận xét hài hước với ma cà rồng trong tiết trời u ám đặc quánh thế này. “Tôi nên về nhà rồi.”

      có muốn nhờ ?”

      Bốn ngày trước tôi chấp nhận lời mời lên xe của ma cà rồng, nhưng sáng hôm nay đó dường như là ý tưởng tuyệt. Hơn nữa, nó cho tôi cơ hội để hỏi xem tại sao nhà hóa sinh lại thấy hứng thú với cuốn cổ thư về phép thuật từ thế kỷ mười bảy.

      “Có,” tôi đáp.

      Cái nhìn ngượng nghịu, vui mừng của Clairmont hoàn toàn làm nguôi cơn giận. “Xe tôi đỗ gần đây thôi,” , ra dấu về hướng trường Christ Church. Chúng tôi bước trong im lặng tới vài phút, bị bao bọc trong màn sương mù xám xịt và cảm giác lạ lẫm của nỗi đơn, phù thủy và ma cà rồng. Matthew thong thả thu ngắn sải chân mình để song song với tôi, và có vẻ thoải mái hơn khi ở ngoài trời, như lúc ở trong thư viện.

      “Đây là trường của à?”

      , tôi chưa bao giờ là thành viên ở đây cả.” Cách diễn đạt khiến tôi băn khoăn biết từng là thành viên trong những đại học thế nào. Rồi tôi bắt đầu nghĩ cuộc đời của kéo dài bao lâu rồi. Đôi khi dường như già nua ngang với Oxford vậy.

      “Diana?” Clairmont dừng lại tự lúc nào.

      “Hả?” Tôi bắt đầu nghĩ miên man và hướng về phía bãi đỗ xe của trường.

      “Lối này cơ,” Matthew , chỉ về hướng ngược lại.

      Matthew dẫn tôi tới khu đất xíu có tường bao quanh. chiếc Jaguar màu đen được hạ mui đỗ ngay dưới tấm biển màu vàng chóe đề dòng chữ TUYỆT ĐỐI ĐỖ XE Ở ĐÂY. Chiếc xe có tờ giấy phép của bệnh viện John Radcliffe treo ở gương chiếu hậu.

      “Tôi hiểu rồi,” tôi , hai tay chống nạnh. “ đỗ xe ở bất cứ nơi nào muốn.”

      “Thông thường tôi vẫn là công dân gương mẫu cơ, nhưng thời tiết sáng nay lại gợi ý là có lẽ nên có đặc cách,” Matthew chống chế. Gã ma cà rồng với cánh tay vòng qua người tôi để mở khóa cửa. Chiếc Jaguar này là mẫu xe cổ, có công nghệ đời mới nhất của loại chìa khóa bấm điều khiển từ xa và hệ thống định vị, nhưng nó trông như vừa mới được kéo ra khỏi sàn trưng bày. kéo cánh cửa mở ra, và tôi chui vào trong, hàng ghế bọc da màu nâu nhạt tiệp màu với bộ đồ thân mình tôi.

      Tôi chưa bao giờ ngồi chiếc xe nào xa hoa đến thế. Những nghi ngờ tồi tệ nhất của dì Sarah về ma cà rồng được khẳng định nếu dì biết họ lái những chiếc Jaguar trong khi dì phải chiếc Honda Civic xập xệ bị gỉ sét thành màu nâu xỉn của miếng trứng bị nướng cháy trong lò.

      Clairmont cho xe lăn bánh dọc theo con đường ra tới cổng Christ Church, nơi chờ đợi khe hở để hòa vào dòng giao thông buổi sáng sớm bị thống trị bởi những chiếc xe tải giao hàng, xe bus và xe đạp. “ có muốn ăn sáng trước khi tôi đưa về nhà ?” ngẫu nhiên hỏi, tay vẫn kiềm chặt chiếc vô lăng bóng lộn. “ chắc là đói lắm sau bài vận động buổi sáng ấy?”

      Đây là bữa ăn thứ hai Clairmont mời tôi. Đây là kiểu của ma cà rồng ư? Có phải họ thích quan sát người khác ăn nhỉ?

      kết hợp của ma cà rồng và việc ăn uống làm tâm trí tôi xoay ra nghĩ tới thói quen ăn kiêng của ma cà rồng. Mọi người hành tinh này đều biết rằng ma cà rồng uống máu người. Nhưng đó có phải là tất cả những gì họ ăn ? còn dám chắc chắn rằng việc ngồi trong chiếc xe lái loanh quanh với ma cà rồng là ý tưởng hay, tôi kéo cao khóa chiếc áo lông cừu cổ lọ và nhích sát ra phía cửa thêm hai phân nữa

      “Diana?” Matthew giục.

      “Tôi có thể ăn,” tôi do dự nhận lời, “và tôi giết người để có tách trà đấy.”

      gật đầu, đưa mắt trở lại con đường. “Tôi biết nơi.”

      Clairmont lái xe lên đồi và rẽ ngay xuống High Street. Chúng tôi ngang qua tượng đài vợ vua George II đứng dưới mái vòm trường Queen, rồi hướng về phía vườn thực vật của Oxford. im lặng trong chiếc ô tô càng khiến cho Oxford trông có dáng vẻ thế giới khác hơn bình thường, những đường xoáy ốc và tháp canh ra đột ngột bên ngoài tĩnh lặng và sương mù mờ ảo.

      Chúng tôi chuyện, và yên lặng của làm tôi nhận ra là mình dịch chuyển, chớp mắt liên tục, hít thở và chỉnh lại tư thế ngồi nhiều đến thế nào. phải Clairmont. chưa bao giờ chớp mắt và hiếm khi thở, mỗi cú xoay vô lăng hay nhấn ga của đều nhàng nhất và hiệu quả cao nhất, cứ như thể cuộc đời dài dằng dặc đòi hỏi cần phải giữ gìn và bảo tồn năng lượng của bản thân. Tôi lại thắc mắc biết Matthew Clairmont bao nhiêu tuổi.

      Gã ma cà rồng phóng xuống lề con phố, thắng phanh trước quán cà phê bé tí xíu chật cứng toàn dân địa phương ngốn ngấu ăn vội những đĩa thức ăn. vài người đọc báo, những người khác tán gẫu với mấy người hàng xóm ngồi bàn kế bên. Tất cả bọn họ, tôi để ý với cảm giác thích thú, đều uống những cốc trà to tướng.

      “Tôi biết chỗ này đấy,” tôi .

      “Đó là thông tin được bảo mật,” ranh mãnh đáp. “Họ muốn dân trường đại học phá hủy bầu khí này.”

      Tôi tự động quay ra mở cửa xe, nhưng trước khi tôi chạm vào tay cầm, Clairmont ở đó và mở nó ra cho tôi.

      “Làm thế nào mà đến đằng này nhanh thế?” Tôi làu bầu.

      “Phép thuật,” trả lời qua hai vành môi bĩu lên. Hình như, Clairmont chấp nhận để phụ nữ tự mở cửa xe chẳng kém gì việc chấp nhận cho phụ nữ tranh cãi với mình.

      “Tôi có khả năng tự mở cửa cho mình,” tôi vừa vừa trèo ra khỏi xe.

      “Tai sao phụ nữ ngày nay nghĩ việc tự mở cửa quan trọng thế nhỉ?” lảnh lót . “ có tin đó là bằng chứng ràng cho sức mạnh thể chất của mình ?”

      , nhưng nó là dấu hiệu thể độc lập của chúng tôi.” Tôi đứng khoanh tay trước ngực, thách thức cãi lại tôi và nhớ ra chuyện Chris về cách cư xử của Clairmont với người phụ nữ hỏi quá nhiều trong cuộc hội thảo.

      lời nào, đóng cánh cửa xe sau lưng tôi và mở cánh cửa quán cà phê. Tôi kiên quyết đứng tại chỗ, đợi cho bước vào. làn gió ấm áp tràn ra, khí ẩm mang theo mùi thơm của thịt lợn muối béo ngậy và bánh mỳ nướng. Miệng tôi bắt đầu ứa nước miếng.

      thể cổ hủ thế được,” tôi vừa vừa thở dài, quyết định tranh đấu nữa. có thể mở cửa cho tôi sáng hôm nay, miễn là sẵn sàng mua bữa sáng nóng hổi cho tôi.

      “Sau thôi,” gã ma cà rồng lẩm bẩm đáp.

      Trong quán, chúng tôi qua các bàn chật ních người. Da Clairmont, vốn trông gần như bình thường lúc ở ngoài trời sương mù, giờ lộ màu tái nhợt dưới ánh đèn ảm đạm của quán. cặp đôi là con người nhìn chằm chằm khi chúng tôi qua. Ma cà rồng thấy .

      Đây phải là ý tưởng hay ho, tôi khó chịu nghĩ khi càng lúc càng có nhiều ánh mắt con người soi xét chúng tôi

      “Xin chào Matthew,” giọng phụ nữ vui vẻ cất lên từ sau quầy. “Hai người ăn sáng hả?”

      Gương mặt chàng sáng hẳn lên. “Hai suất nhé, Mary. Dan thế nào?”

      “Đủ khỏe để phàn nàn rằng ấy chán ngấy phải nằm giường rồi. Chắc chắn ấy bình phục.”

      “Quả là tin tuyệt vời,” Clairmont . “ có thể cho quý đây chút trà khi rảnh được ? ấy đe dọa giết người vì nó đấy.”

      cần phải thế đâu, bạn quý,” Mary cười bảo tôi. “Chúng tôi phục vụ trà mà cần phải đổ máu đâu.” Người phụ nữ thận trọng di chuyển thân hình phốp pháp của mình ra khỏi cái quầy bằng formica và dẫn chúng tôi tới cái bàn nằm ở góc xa kế bên cánh cửa nhà bếp. Hai tấm thực đơn bọc nhựa được đặt lên bàn đánh cạch tiếng. “ được đặc cách ở đây Matthew ạ. Tôi cho Steph đưa trà đến. Cứ ở đây bao lâu tùy ý.”

      Clairmont chủ động sắp xếp cho tôi ngồi dựa lưng vào tường. ngồi đối diện, chắn giữa tôi và phần còn lại của quán, uốn cong tờ thực đơn thành cái ống và để nó nhàng trải trở ra mấy ngón tay mình, hiển nhiên là nổi giận rồi. Trước diện của những kẻ khác, gã ma cà rồng này luôn bồn chồn yên và dễ cáu giận, giống như lúc ở trong thư viện. thấy dễ chịu hơn khi hai chúng tôi ở riêng với nhau.

      Tôi nhận ra ý nghĩa của thái độ này và biết ơn kiến thức mới của mình về sói Na Uy. bảo vệ tôi.

      nghĩ ai có vẻ là nguy cơ đe dọa, hả Matthew? Tôi bảo là tôi có thể tự chăm lo cho bản thân mình mà.” Giọng tôi cất lên hơi ít vẻ gay gắt hơn là dự định.

      “Phải, tôi chắc là có thể,” vẻ hồ nghi.

      “Xem này,” tôi , cố gắng giữ cho giọng mình bình thản, “ tìm cách ngăn... họ tránh xa khỏi tôi bởi vậy mà tôi có thể hoàn thành số việc.” Các bàn quá gần nhau nên tôi thể nêu cụ thể bất cứ chi tiết nào. “Tôi biết ơn vì điều đó. Nhưng đây là quán cà phê đầy những con người. Mối nguy hiểm duy nhất giờ đến từ việc lôi kéo chú ý của họ mà thôi. chính thức hết nhiệm vụ rồi.”

      Clairmont hất đầu về phía quầy tính tiền. “Gã đàn ông ở đằng kia với bạn rằng trông ‘ngon lành’.” Gã ma cà rồng cố gắng nhấn mạnh điều , nhưng khuôn mặt tối sầm. Tôi nín cười.

      “Tôi nghĩ sắp cắn tôi đâu,” tôi .

      Làn da gã ma cà rồng đổi màu xanh xám.

      “Từ những gì tôi hiểu về tiếng lóng đại ‘ngon lành’ là lời khen, chứ phải là đe dọa.”

      Clairmont tiếp tục quắc mắt nhìn.

      “Nếu thích những gì nghe thấy, đừng có lắng nghe các cuộc chuyện trò của người khác nữa,” tôi đề nghị, mất kiên nhẫn với điệu bộ tỏ vẻ nam tính của .

      dễ hơn làm,” phát biểu, cầm chai Marmite lên.

      phiên bản trẻ trung hơn, mảnh mai hơn của Mary xuất cùng với ấm trà bằng gốm nâu khổng lồ và hai cái cốc vại. “Sữa và đường ở bàn nhé, Matthew,” ta , đưa mắt tò mò nhìn tôi.

      Matthew thực những thủ tục giới thiệu cần thiết. “Steph, đây là Diana. ấy từ Mỹ đến và thăm thú nơi này.”

      à? có sống ở California ? Tôi thèm được đến California chết được.”

      , tôi sống ở Connecticut,” tôi vẻ tiếc nuối.

      “Đó là trong những bang phải ?” Steph thất vọng thấy .

      “Phải. Và nó đầy tuyết.”

      “Tôi thích những cây cọ và ánh mặt trời cơ.” Vừa đả động đến tuyết, ta hoàn toàn mất hứng thú với tôi. “Nó thế nào nhỉ?”

      “Tôi rất đói rồi,” tôi vẻ xin lỗi, rồi gọi hai trứng bác, bốn miếng bánh mỳ, và vài lát thịt lợn muối xông khói.

      Steph, ràng là người có vấn đề ở tai, ta viết cầu gọi món mà chẳng bình luận gì, rồi thu lại thực đơn của chúng tôi. “Chỉ trà thôi hả Matthew?”

      gật đầu.

      Khi Steph ra khỏi tầm nghe, tôi nghiêng người tới trước. “Họ có biết về ?”

      Clairmont cũng ngả người tới trước, mặt chỉ cách mặt tôi đúng hai mươi phân. Sáng nay có mùi hương ngọt ngào hơn, giống như hương hoa cẩm chướng tươi. Tôi hít vào sâu.

      “Họ biết là tôi hơi khác người. Mary có lẽ nghi ngờ tôi còn hơn cả khác người nữa, nhưng bà ấy tin rằng tôi cứu sống Dan, vậy nên bà ấy quyết định rằng điều đó thành vấn đề.

      cứu chồng bà ấy như thế nào?” Ma cà rồng được cho là cướp mạng sống của con người, chứ phải cứu người.

      “Tôi thấy ông ta cứ bị chuyển qua chuyển lại ở Radcliffe trong khi bệnh viện lại thiếu bác sỹ. Mary xem chương trình miêu tả những triệu chứng của chứng đột quỵ, và bà ấy nhận ra các dấu hiệu đó khi chồng mình bắt đầu vật vã. có bà ấy, ông ta có lẽ chết hoặc bị liệt hoàn toàn rồi.”

      “Nhưng bà ấy nghĩ là chính cứu Dan mà?” vẻ bảnh bao của gã ma cà rồng này đạng khiến tôi choáng váng. Tôi nhấc nắp ấm trà để thay thế mùi hương cẩm chướng bằng mùi thơm của trà đen.

      “Mary cứu ông ấy trước, nhưng sau đó ông ấy nhập viện và có phản ứng khủng khiếp với thuốc đều trị. Tôi kể với rằng Mary là người tinh mắt chưa nhỉ? Khi bà ấy đem những lo lắng của mình tới gặp trong các bác sĩ, ông ta gạt sang bên. Tôi... nghe lỏm được - và can thiệp.”

      có thường gặp các bệnh nhân ?” Tôi rót cho mỗi người cốc trà lớn nghi ngút khói và đặc tới mức có thể cho cả cái thìa dựng đứng trong đó được. Hai bàn tay tôi khẽ run lên trước ý nghĩ ma cà rồng lảng vảng ở John Radcliffe giữa những người bệnh và người bị thương.

      ,” đáp, nghịch ngợm lọ đường, “chỉ khi nào họ có ca cấp cứu thôi.”

      Đẩy cốc trà về phía Matthew; tôi đưa mắt nhìn lọ đường. đưa nó cho tôi. Tôi lấy chính xác nửa thìa cà phê đường và nửa chén sữa cho vào trà của mình. Đây chỉ là ý thích thôi - đen như hắc ín, dấu vết của đường cắt vào vị đắng ngắt, rồi lượng sữa vừa đủ để làm cho nó trông đỡ giống cái ao cá. Cuối cùng, tôi khuấy món đồ uống được pha chế đó theo chiều kim đồng hồ. Ngay khi kinh nghiệm cho tôi biết nó làm tôi bỏng rát lưỡi được nữa, tôi bắt đầu nhấp ngụm. Hoàn hảo.

      Gã ma cà rồng tủm tỉm cười.

      “Gì thế?” Tôi hỏi

      “Tôi chưa bao giờ thấy có ai thưởng thức trà với thái độ chăm chút đến từng chi tiết như thế.”

      “Hẳn là dành nhiều giờ với những người uống trà nghiêm túc rồi. Vấn đề ở chỗ cần đo được độ đậm đặc trước khi cho đường và sữa vào.” Cốc trà tỏa khói nghi ngút chưa được động tới vẫn ở trước mặt . “Tôi hiểu rồi, thích trà đặc.”

      “Trà hẳn là món giải khát của tôi,” Clairmont , lời giãi bày của hơi chùng xuống.

      “Đồ uống của gì?” Ngay phút câu hỏi được thốt ra khỏi miệng, tôi ước gì mình có thể rút nó lại. Tâm trạng chuyển từ vui vẻ thích thú sang bặm môi giận dữ.

      còn phải hỏi sao?” gay gắt . “Thậm chí cả con người cũng biết câu trả lời cho câu hỏi đó.”

      “Tôi xin lỗi. Tôi nên hỏi.” Tôi ghì chặt cái cốc, cố giữ mình bình tĩnh.

      nên.”

      Tôi im lặng uống trà. Cả hai cùng ngẩng lên khi Steph đến với chiếc giỏ đựng đầy bánh mỳ nướng và đĩa chất có ngọn trứng với thịt lợn xông khói.

      “Mẹ tôi nghĩ là cần món rau,” Steph giải thích khi mắt tôi mở lớn trước ụ nấm và khoai tây chiên kèm theo bữa sáng. “Bà trông như người chết ấy.”

      “Cảm ơn hai người!” tôi . Bài phê bình của Mary về ngoại hình chẳng làm giảm niềm cảm kích của tôi trước bữa ăn hoành tráng.

      Steph toét miệng cười, Clairmont tặng tôi cái nhếch môi khi tôi cầm dĩa lên và cho phép mình đánh chén.

      Mọi thứ đều nóng sốt và thơm phưng phức, vừa chín giòn bề mặt vừa mềm tan ở bên trong. Cơn đói nguôi dần, tôi bắt đầu tấn công bài bản vào giỏ bánh mỳ nướng, nhặt miếng bánh hình tam giác nguội ngắt đầu tiên lên và phết bơ lên bề mặt. Gã ma cà rồng quan sát tôi ăn cùng với vẻ chú tâm sâu sắc như khi ngắm tôi chế biến món trà của mình.

      “Vậy tại sao là khoa học?” Tôi đánh bạo hỏi, đút miếng bánh mỳ vào miệng, thế là phải trả lời.

      “Tại sao lại là lịch sử?” Giọng cộc lốc, nhưng né tránh được tôi dễ dàng đâu.

      trước.”

      “Tôi cho rằng tôi cần biết vì sao mình lại ở đây,” Clairmont , dán mắt xuống bàn. dùng lọ đường làm lâu đài và lấy những gói đường màu xanh để xây thành con hào bao quanh.

      Tôi đông cứng người trước giống nhau giữa lời giải thích của và những gì Agatha kể cho tôi ngày hôm trước về Ashmole 782. “Câu hỏi đó dành cho các triết gia, phải khoa học gia.” Tôi mút giọt bơ ngón tay mình để giấu vẻ bối rối.

      Đôi mắt ánh lên cơn sóng giận dữ đột ngột khác. “ tin thế chứ - rằng các nhà khoa học quan tâm tới lý đo tại sao?”

      “Họ từng quan tâm tới các lý do tại sao,” tôi thừa nhận, liếc mắt dè chừng. biến đổi tâm trạng đột ngột của đích thực là khủng khiếp. “Nhưng giờ dường như họ chỉ còn quan tâm đến câu hỏi làm thế nào - làm thế nào mà cơ thể hoạt động, làm thế nào mà các hành tinh chuyển động...”

      Clairmont khịt mũi tỏ vẻ khinh .thường. “Đó phải những nhà khoa học chân chính.” Mấy người sau lưng đứng dậy để , Matthew căng thẳng đề phòng nếu bọn họ quyết định xô cái bàn.

      “Và nhà khoa học chân chính.”

      bỏ qua câu đánh giá của tôi bình luận gì.

      hôm nào đó phải giải thích cho tôi về mối liên hệ giữa thần kinh học, nghiên cứu DNA, hành vi động vật, và tiến hóa. Chúng ràng là chẳng ăn nhập gì với nhau.” Tôi cắn miếng bánh mỳ nữa.

      Lông mày trái của Clairmont rướn lên. “ điều tra tôi qua các bài báo khoa học!” sắc sảo .

      Tôi nhún vai. “ chiếm ưu thế công bằng. biết tất cả về công việc của tôi. Tôi chỉ san bằng thế trận thôi.”

      lầm bầm điều gì đó nghe như là tiếng Pháp. “Tôi có rất nhiều thời gian để suy nghĩ,” đáp lại thẳng thừng bằng tiếng , mở rộng hơn nữa con hào bao quanh lâu đài của mình bằng vòng tròn những gói đường khác. “Chẳng có liên hệ nào giữa chúng cả.”

      dối,” tôi khẽ phản bác.

      ngạc nhiên, lời buộc tội của tôi khiến Clairmont nổi đóa, nhưng tốc độ biến đổi tâm trạng đó vẫn khiến tôi sửng sốt. Nó là lời nhắc nhở rằng tôi dùng bữa sáng với sinh vật có thể làm chết người được.

      “Thế cho tôi biết mối liên hệ đó ,” qua kẽ răng.

      “Tôi chắc nữa,” tôi thành trả lời. “Có thứ gì đó liên kết chúng lại với nhau, nó dẫn đến niềm hứng thú nghiên cứu của và khiến chúng có ý nghĩa. Cũng có thể kẻ trí thức khoác lác, nhưng điều này nực cười - cứ nhìn vào những việc làm được đánh giá cao đến mức nào biết - hoặc có thể dễ chán nản, nhưng có vẻ phải là tuýp người có thể chán những gì liên quan đến tri thức và trí tuệ. Thực tế ngược lại.”

      Clairmont ngắm tôi cho tới khi im lặng trở nên khó chịu. Dạ dày tôi bắt đầu than phiền về lượng thức ăn mà tôi mong muốn nó hấp thụ. Tôi rót tách trà mới và pha thêm các thứ vào trong khi chờ mở lời.

      cũng là phù thủy tinh ý đấy.” Ánh mắt gã ma cà rồng thể thán phục miễn cưỡng.

      “Ma cà rồng phải là sinh vật duy nhất biết săn, Matthew ạ.”

      “Đúng. Tất cả chúng ta đều săn lùng thứ gì đó, đúng Diana?” kéo dài và nhấn giọng ở cái tên của tôi. “Giờ đến lượt tôi. Tại sao là lịch sử?”

      đâu có trả lời tất cả các câu hỏi của tôi!” Và tôi vẫn còn chưa hỏi câu hỏi quan trọng nhất.

      Matthew lắc đầu cương quyết, tôi bèn chuyển hướng hoạt động của mình từ việc săn tìm thông tin sang bảo vệ bản thân khỏi những nỗ lực thâu tóm thông tin của .

      “Đầu tiên là gọn ghẽ của nó, tôi cho là thế.” Giọng tôi nghe có vẻ ngập ngừng đến ngờ. “Quá khứ dường như quá dễ đoán định, như thể chẳng có gì xảy ra ở đó khiến ta phải kinh ngạc cả.”

      cứ như kẻ có mặt ở nơi đó ấy nhỉ,” gã ma cà rồng cộc lốc.

      Tôi cười khan. “Tôi khám phá ra điều đó cũng khá sớm. Nhưng ban đầu dường như nó như thế. Ở Oxford các giáo sư làm cho quá khứ trở thành câu chuyện gọn gàng có mở đầu, thân bài và kết thúc. Mọi thứ dường như đều hợp lý và hiển nhiên. Những câu chuyện của họ lôi kéo tôi, chính là nó. Chẳng có đề tài nào khác làm tôi hứng thú. Tôi bắt đầu trở thành nhà sử học và chưa bao giờ hối hận.”

      “Ngay cả khi khám phá ra rằng tồn tại của loài người – cả trong quá khứ hay trong tại - đều có logic ư?”

      “Lịch sử chỉ trở nên thách thức hơn khi nó ít gọn gàng hơn thôi. Mỗi khi tôi cầm cuốn sách hay tài liệu của quá khứ lên, tôi lại bước vào trận chiến với những con người sống cách đây hàng trăm năm. Họ có những bí mật và những nỗi ám ảnh riêng - tất cả những thứ đó họ tiết lộ hoặc bao giờ tiết lộ ra. Công việc của tôi là khám phá và lý giải những điều đó.”

      “Thế nếu thể sao? Nếu họ từ chối lý giải sao?”

      “Điều đó bao giờ xảy ra,” tôi sau khi suy xét kỹ câu hỏi của Matthew. “Ít nhất tôi nghĩ có chuyện ấy. chỉ cần biết lắng nghe. ai muốn giữ những bí mật cả, ngay cả người chết cũng thế. Con người ta để lại manh mối ở khắp nơi, và nếu chú ý, có thể ráp chúng lại với nhau.”

      “Vậy nhà sử học đồng thời là thám tử,” nhận xét.

      “Đúng vậy. Với mức đặt cọc rất thấp.” Tôi ngồi thẳng lại ghế, nghĩ rằng cuộc phỏng vấn kết thúc.

      “Thế tại sao lại là lịch sử của khoa học?” tiếp tục.

      “Thử thách của những trí tuệ vĩ đại, tôi cho là thế!” Tôi cố gắng để nghe có vẻ liến thoắng, đồng thời cố cao giọng ở cuối câu, nhưng thất bại ở cả hai ý định.

      Clairmont cúi đầu xuống và bắt đầu từ từ tháo dỡ lâu đài có hào bao quanh.

      Linh cảm mách bảo tôi tiếp tục im lặng, nhưng chuỗi mắt xích những bí mật của tôi bắt đầu bị nới lỏng. “Tôi muốn biết làm thế nào con người quyết định được về những gì thấy được trong cái thế giới có quá ít phép màu nhiệm này,” tôi bất ngờ thêm. “Tôi cần phải hiểu làm thế nào mà họ thuyết phục được bản thân tin rằng phép thuật quan trọng.”

      Đôi mắt màu xám lạnh lùng của gã ma cà rồng ngước lên nhìn vào mắt tôi. “ tìm thấy chưa?”

      “Rồi và chưa.” Tôi ngập ngừng. “Tôi thấy tính logic mà họ sử dụng, niềm tin rằng thế giới này là nơi đầy quyền năng và phép thuật thể lý giải nổi dần bị bào mòn bởi tính logic của khoa học thực nghiệm. Dù vậy cuối cùng họ thất bại. Phép thuật chưa bao giờ biến mất. Nó vẫn đợi chờ trong lặng lẽ, đợi con người quay trở lại với nó khi họ tìm thấy được điều khoa học mong muốn.”

      “Vì vậy nên đó là thuật giả kim,” .

      ,” tôi quả quyết. “Thuật giả kim là trong những hình dạng sơ khai của khoa học thực nghiệm.”

      “Có thể. Nhưng tin rẳng thuật giả kim chẳng có tí phép thuật nào.” Giọng Matthew chắc nịch. “Tôi đọc công trình của . hề, ngay cả khi có thể hoàn toàn giấu nhẹm suy nghĩ đó .”

      “Vậy nó là thứ khoa học kèm theo phép thuật. Hoặc phép thuật có tính khoa học, nếu thích thế hơn.”

      thích cái nào hơn?”

      “Tôi chắc nữa,” tôi đáp chống chế.

      “Cảm ơn .” Cái nhìn của Clairmont lên rằng biết tôi thấy khó khăn tới mức nào khi về chuyện này.

      “Có gì đâu. Tôi nghĩ thế.” Tôi gạt tóc ra khỏi mắt, cảm thấy đôi chút xao động. “Tôi có thể hỏi chuyện khác ?” Ánh mắt cảnh giác, nhưng vẫn gật đầu. “Tại sao lại hứng thú với công trình của tôi về thuật giả kim ấy?”

      Matthew gần như trả lời, định gạt câu hỏi này sang bên, thế rồi lại cân nhắc. Tôi cho biết bí mật. Giờ đến lượt .

      “Những nhà giả kim cũng muốn biết tại sao chúng ta có mặt ở đây.” Clairmont - tôi có thể thấy điều đó - nhưng nó giúp tôi lý giải được tại sao lại quan tâm tới Ashmole 782. liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Nếu ăn xong, tôi nên đưa về trường thôi. chắc là muốn mặc thêm quần áo ấm trước khi tới thư viện.”

      “Tôi chỉ muốn tắm cái.” Tôi đứng dậy và vươn người, vặn cổ làm thư giãn sau khi ngồi lâu tư thế. “Tôi phải tới lớp yoga tối nay thôi. Tôi ngồi làm việc bàn giấy quá nhiều rồi.”

      Mắt gã ma cà rồng lấp lánh tia sáng. “ tập yoga à?”

      thể sống được nếu thiếu nó,” tôi đáp. “Tôi thích vận động và tĩnh tâm.”

      ngạc nhiên,” . “Cách chèo thuyền đó chính là kết hợp giữa vận động và tĩnh tâm.”

      Hai má tôi ửng hổng. quan sát tôi tỉ mỉ cả sông lẫn trong thư viện.

      Clairmont đặt tờ hai mươi bảng lên bàn và vẫy tay chào Mary. Bà vẫy tay đáp lại, rồi gã ma cà rồng khẽ chạm vào khuỷu tay tôi, hướng tôi qua giữa các bàn và vài vị khách còn lại trong quán.

      học yoga với ai?” hỏi sau khi mở cửa ô tô và để tôi ngồi an vị bên trong.

      “Tôi tới phòng tập ở High Street. Chỗ đó có giáo viên mà tôi thích, nhưng phòng tập ấy gần, và ăn mày nên đòi xôi gấc.” New Haven có vài phòng tập yoga, nhưng Oxford tụt hậu ở khoản này.

      Clairmont ngồi vào xe, xoay chìa khóa, và quay xe trở ra đường cách gọn ghẽ trước khi hướng trở về thị trấn.

      tìm được lớp học mình cần ở đó đâu,” khẳng định.

      cũng tập yoga à?” tôi bị mê hoặc trước hình ảnh tưởng tượng thân hình vạm vỡ của vặn xoắn lại lúc luyện tập.

      “Cũng thi thoảng,” . “Nếu muốn tới lớp yoga với tôi vào ngày mai, tôi có thể đón bên ngoài Hertford lúc sáu giờ. Tối nay đành phải đương đầu với phòng tập trong thị trấn thôi, nhưng ngày mai buổi tập tuyệt vời đấy.”

      “Phòng tập của ở đâu? Tôi gọi điện để xem họ có lớp tập tối nay .”

      Clairmont lắc đầu. “Họ mở cửa tối nay. Chỉ có tối thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và Chủ nhật thôi.”

      “Ồ,” tôi thốt lên thất vọng. “Lớp học đó thế nào?”

      thấy. Rất khó miêu tả.” cố nín cười.

      Trước ngạc nhiên của tôi, chúng tôi về đến chòi gác. Ông Fred thò cổ ra để xem ai chạy xe vào trong cổng, và thấy biển số của bệnh viện Radcliffe, ông ta bèn bước ra xem có chuyện gì.

      Clairmont để tôi xuống xe. Ở bên ngoài, tôi vẫy tay chào Fred và chìa tay ra. “Tôi được thưởng thức bữa sáng rất ngon. Cảm ơn về món trà và cùng tôi.”

      “Bất cứ lúc nào,” đáp. “Tôi gặp ở thư viện.”

      Fred huýt sáo khi Clairmont phóng . “Xe đẹp lắm, tiến sĩ Bishop. Bạn của à?” Công việc của ông ta là biết nhiều nhất có thể những chuyện xảy ra trong trường nhằm giữ an ninh trật tự cũng như để thỏa mãn thói tò mò chịu được, đó là phần trong bản mô tả công việc của người gác cửa.

      “Tôi cho là vậy,” tôi đăm chiêu đáp.

      Về phòng, tôi lôi hộp đựng hộ chiếu ra và lấy tờ mười đôla ra khỏi chỗ cất giữ tiền đô Mỹ. Phải mất tới mấy phút tôi mới tìm được cái phong bì. Sau khi nhét tờ đô la vào trong mà chẳng viết lời nhắn nào, tôi đề địa chỉ gửi Chris, và viết dòng chữ “THU ĐƯỜNG HÀNG in hoa ở phía trước, rồi kẹp bưu phí cần thiết vào góc phía .

      Chris bao giờ để tôi quên ta thắng lần cá cược này. bao giờ.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 8





      “Thành , cái ô tô của trông phô trương quá.” Tóc cứ bám dính vào mấy ngón tay tôi và kêu lách tách trong khi tôi cố gẳng gạt nó ra khỏi mặt.

      Clairmont uể oải tựa người vào thành chiếc Jaguar trong dáng vẻ là lượt và thư thái. Thậm chí bộ đồ tập yoga của cũng toàn màu xám đen đặc trưng, trông mới cứng, mặc dù có vẻ ít tinh tế chỉn chu hơn so với bộ đồ mặc tới thứ viện.

      Ngắm chiếc ô tô đen bóng loáng và gã ma cà rồng tao nhã, tôi cảm thấy bồn chồn khó hiểu. Hôm nay phải là ngày tốt lành. Cái băng tải trong thư viện bị hỏng, và họ có vẻ mãi mãi kiếm được mấy cuốn cổ thư cho tôi. Ý tưởng về phần dàn ý chính cho bài thuyết trình vẫn mờ mịt, tôi bắt đầu vừa nhìn lịch với cảm giác hoảng hốt lo lắng, vừa tưởng tượng phòng đầy chật các bạn đồng nghiệp dồn dập hỏi tôi những câu hỏi khó. gần tới tháng Mười rồi, và cuộc hội thảo là vào tháng Mười .

      nghĩ chiếc ô tô dễ lẩn tránh hơn ư?” Clairmont hỏi, đưa tay ra đỡ lấy thảm tập yoga cho tôi.

      hẳn thế.” Đứng dưới trời chiều chạng vạng, ràng là ma cà rồng đáng sợ, các sinh viên sắp tốt nghiệp và giảng viên lũ lượt ngang qua dám liếc nhìn lại tới lần thứ hai. Nếu họ mà thể cảm thấy là ai - hiểu là cái gì, đứng giữa ban ngày ban mặt - chiếc xe chỉ là thứ vụn vặt chẳng đáng để tâm. Cảm giác khó chịu khiến da tôi gai gai.

      “Tôi làm gì sai ư?” Đôi mắt xám xanh của mở lớn vẻ ngây thơ. mở cửa xe, hít hơi sâu khi tôi lướt ngang qua.

      Tâm trạng của tôi bùng nổ. “ đánh hơi tôi đấy à?” Sau ngày hôm qua tôi ngờ rằng cơ thể mình cung cấp cho mọi loại thông tin, tôi chẳng thích thế tẹo nào.

      “Đừng có cám dỗ tôi,” Clairmont thầm, đóng sập cửa lại. Tôi hơi dựng tóc gáy khi ngấm dần ngụ ý trong lời của . bật mở cốp xe cho chiếc thảm của tôi vào.

      khí buổi tối tràn vào xe khi gã ma cà rồng trèo vào mà chẳng cần bất cứ nỗ lực hay tỏ vẻ lúng túng khi phải khom lưng xuống. Gương mặt nhăn lại thành vẻ tư lự cảm thông. “ ngày tồi tệ hả?”

      Tôi tặng cái lườm. Clairmont biết chính xác ngày hôm nay của tôi thế nào. và Miriam lại có mặt ở phòng đọc Công tước Humfrey để giữ cho các sinh vật khác người kia tránh xa môi trường tiếp xúc trực tiếp quanh tôi. Khi chúng tôi rời khỏi thư viện để thay đồ tập yoga, Miriam ở lại để chắc chắn là chúng tôi bị đoàn tinh bám theo - hoặc trường hợp tệ hơn.

      Clairmont khởi động xe và hướng xuống đường Woodstock mà chẳng tỏ ý cố gắng chuyện trò gì. Chẳng có gì khác con đường này ngoài những ngôi nhà nối tiếp nhau.

      “Chúng ta đâu đây?” tôi nghi ngờ hỏi.

      “Tới với yoga,” điềm tĩnh đáp. “Căn cứ theo tâm trạng của , tôi phải cần nó đấy.”

      “Và yoga ở đâu?” tôi đòi hỏi. Chúng tôi ra vùng ngoại ô hướng tới Blenheim.

      thay đổi ý định rồi à?” Giọng Matthew hơi bực tức. “Tôi có nên đưa trở lại phòng tập ở High Street ?”

      Tôi rùng mình nghĩ đến buổi học vô cảm tối qua. “.”

      “Vậy thư giãn di. Tôi bắt đâu. Để cho người khác gánh vác mọi chuyện có khi còn dễ chịu hơn đấy. Hơn nữa, đây điều bất ngờ đấy.”

      “Hừm,” tôi càu nhàu. bật nhạc lên, tiếng nhạc cổ điển đổ tràn ra từ mấy cái loa.

      “Hãy thôi nghĩ ngợi và thử lắng nghe ,” ra lệnh. “Nghe Mozart thể căng thẳng được.”

      Tôi vừa kịp nhận ra mình an vị ghế với tiếng thở dài và nhắm mắt lại. Chuyển động của chiếc Jaguar quá tinh tế và các thanh bên ngoài trở nên xa xôi đến mức tôi cảm thấy mình như lơ lửng mặt đất, được nâng lên bởi những đôi tay nhạc vô hình.

      Chiếc xe chậm, rồi chúng tôi dừng lại trước cánh cổng sắt cao lớn mà thậm chí tôi còn thoáng nghĩ là thể cạo gỉ cho nó được. Những bức tường hai bên xây bằng gạch màu đỏ ấm áp, nền tường gạch được đan xen lộn xộn, theo hình mẫu nào. Tôi ngồi thẳng lên chút.

      thể thấy chỗ tập từ đây đâu,” Clairmont cười . hạ cửa kính xuống và bấm loạt con số bàn phím bóng loáng. tiếng píp vang lên và cánh cổng dịch chuyển mở ra.

      Sỏi lạo xạo dưới lốp xe khi chúng tôi qua cánh cổng khác trông còn cũ kỹ hơn cái đầu tiên. Nó có hoa văn uốn lượn, chỉ là lối có mái vòm do hai bức tường gạch thấp hơn nhiều so với những bức tường đối diện hai bên ở đường Woodstock bắc qua nối với nhau. Chiếc cổng vòm này có khoảng trống xíu ở đỉnh; cùng với những cửa sổ ở hai bên trông giống như những ô cửa trời. Bên trái cổng là trạm gác bằng gạch đẹp nguy nga, với mấy ống khói xoắn và những cửa sổ lợp chì. tấm bảng bằng đồng với phần mép bạc màu để dòng chữ CHÒI GÁC CỔ.

      “Tuyệt đẹp!” tôi trầm trồ.

      “Tôi cũng nghĩ thích nó.” Gã ma cà rồng tỏ ra hài lòng.

      Xuyên qua bóng tối ngày dày đặc, chúng tôi vào khuôn viên. bầy hươu nai vội nhảy phốc trước tiếng động của chiếc xe, rồi nhảy vào vùng bóng râm được bảo vệ khi đèn pha của chiếc Jaguar quét qua mặt đất. Chúng tôi leo lên ngọn đồi thoai thoải con đường uốn lượn quanh co. Chiếc xe chậm lại rồi nhích từng chút khi chúng tôi lên tới đỉnh và đèn pha rọi vào bóng tối.

      “Ở kia,” Clairmont , đưa tay trái lên chỉ.

      ngôi nhà hai tầng nằm trong trang viên mang phong cách vương triều Tudor được xây bao quanh cái sân ở chính giữa. Những viên gạch của nó rực rỡ trong ánh sáng từ những chiếc đèn công suất lớn chiếu xuyên qua cành lá của mấy cây sồi sần sùi để làm sáng cả mặt tiền của tòa nhà.

      Tôi thề là tôi thốt nổi nên lời. Clairmont nhìn tôi trong cơn sốc, và cười khúc khích.

      cho xe vòng tới trước và đỗ đằng sau chiếc Audi thể thao đời mới. tá xe đỗ sẵn ở đó, và đèn pha tiếp tục quét xuống khắp ngọn đồi.

      có chắc là tôi tập được ?” Tôi tập yoga được hơn mười năm, nhưng điều đó có nghĩa là tôi giỏi môn này. ràng là tôi chưa hỏi trước xem liệu đây có phải là lớp học nơi mà người ta giữ thăng bằng được với cẳng tay chống xuống và hai chân lơ lửng giữa trung hay .

      “Nó là lớp hỗn hợp,” Clairmont đảm bảo với tôi.

      “Được rồi.” Tâm trạng bồn chồn của tôi càng lên cao bất chấp câu trả lời dễ chịu của .

      Clairmont lấy thảm tập yoga của hai chúng tôi ra khỏi cốp xe. chậm rãi di chuyển trong khi những người đến cuối cùng hướng về phía lối ra vào rộng lớn, rồi bước tới cánh cửa xe phía tôi ngồi và chìa tay ra. Cái này mới đây, tôi lưu ý trước khi đặt tay mình vào bàn tay . Tôi vẫn còn chưa hoàn toàn thấy thoải mái khi cơ thể hai chúng tôi tiếp xúc nhau. lạnh cực kỳ, và đối lập giữa thân nhiệt của hai chúng tôi khiến tôi rụt lùi lại.

      Gã ma cà rồng khẽ giữ lấy bàn tay tôi và kéo để giúp tôi ra khỏi xe. Trước khi thả tay tôi ra, khẽ bóp khích lệ. Ngạc nhiẻn, tôi liếc nhìn và bắt gặp cũng nhìn lại. Cả hai chúng tôi vội bối rối nhìn hướng khác.

      Chúng tôi bước vào ngôi nhà qua cổng vòm khác và khoảng sân trong. Tòa trang viên ở trong tình trạng được bảo quản đáng ngạc nhiên. có kiến trúc sư nào về sau cho phép cắt bớt những khung cửa sổ cân xứng hài hòa thời vua George hay những phòng kính cầu kỳ xây thêm kiểu Victoria. Chúng tôi có lẽ ngược thời gian.

      thể tin được,” tôỉ thầm .

      Clairmont cười hết cỡ và hướng tôi qua cánh cửa gỗ lớn để mở thanh chặn bắng sắt. Tôi thở hổn hển. Mặt bên ngoài ấn tượng khác thường rồi, nhưng bên trong lộng lẫy tuyệt vời. Hàng kilomet vải lanh xếp nếp đóng khung ốp tường ở tứ phía, tất cả đều sáng bóng và rực rỡ, Có ai đó nhóm lửa cho chiếc lò sưởi khổng lổ ở giữa phòng. cái bàn đơn kê niễng và mấy chiếc ghế dài trông cũng cổ như ngôi nhà, chỉ có mỗi ánh đèn điện là bằng chứng duy nhất cho thấy chúng tôi có mặt ở thế kỷ hai mươi mốt.

      Những hàng giày xếp trước ghế băng, và hàng đống áo len, áo khoác phủ kín bề mặt gỗ sồi đen của mấy chiếc ghế. Clairmont đặt chìa khóa lên bàn và cởi giày. Tôi cởi giày và theo .

      “Nhớ rằng tôi đây là lớp hỗn hợp chứ?” gã ma cà rồng hỏi khi chúng tôi đến cánh cửa được đóng khung ốp ván, Tôi ngước nhìn lên và gật đầu. “Nó đây. Nhưng chỉ có cách duy nhất để vào được căn phòng này - phải là người trong số chúng tôi.”

      kéo cánh cửa mở ra. Hàng tá những cặp mắt tò mò thúc mạnh, nhoi nhói và lạnh buốt hướng về phía tôi. Căn phòng đầy những tinh, phù thủy và ma cà rồng. Họ ngồi những tấm thảm màu sắc tươi sáng - số ngồi khoanh chân, số khác quỳ - chờ đợi giờ học bắt đầu. vài tinh đeo tai nghe. Các phù thủy xì xào bàn tán. Các ma cà rồng ngồi lặng lẽ, khuôn mặt biểu lộ rất ít cảm xúc.

      Quai hàm tôi rớt xuống.

      “Xin lỗi,” Clairmont . “Tôi sợ đến nếu tôi kể với - nhưng đây là lớp học tốt nhất ở Oxford đấy.”

      phù thủy cao lớn có mái tóc ngắn màu đen huyền và làn da màu cà phê kem dạo bước về phía chúng tôi, phần còn lại của căn phòng quay , tiếp tục im lặng tĩnh tâm. Clairmont, khi nãy hơi căng thẳng lúc chúng tôi bước vào, giờ thoái mái hơn thấy khi phù thủy kia đến chỗ chúng tôi.

      “Matthew.” Chất giọng khàn khàn của ta hơi pha chút sắc Ấn Độ. “Chào mừng.”

      “Amira.” gật đầu chào. “Đây là mà tôi kể với , Diana Bishop.”

      Nữ phù thủy thân mật nhìn tôi, đôi mắt nắm bắt từng chi tiết gương mặt tôi. ta mỉm cười. “Diana, rất vui được gặp . mới tập yoga à?”

      .” Tim tôi đập dồn với làn sóng bồn chồn lo lắng mới. “Nhưng đây là lần đầu tiên tôi đến đây.”

      Nụ cười của ta rạng rỡ hơn. “Chào mừng tới Chòi Gác Cổ.”

      Tôi băn khoăn biết có kẻ nào ở đây biết về Ashmole 782 , nhưng chẳng có gương mặt nào quen thuộc cả và bầu khí trong phòng cởi mở và thư thái, hề có căng thẳng thường thấy giữa các sinh vật này.

      bàn tay mạnh mẽ và ấm áp vòng qua eo lưng tôi, tim tôi lập tức đập chậm lại. Tôi nhìn Amira kinh ngạc. ta làm như thế nào vậy?

      Amira thả tay khỏi eo lưng tôi, và mạch của tôi đập ổn định trở lại. “Tôi nghĩ và Diana thấy thoải mái nhất ở đây,” ta với Clairmont. “Hãy ổn định chỗ ngồi và chúng ta bắt đầu.”

      Chúng tôi tháo thảm tập ở sau phòng rồi đóng cửa lại. có ai ở ngay bên phải tôi, nhưng phía bên kia khoảng sàn trống, hai tinh nhắm mắt ngồi thế hoa sen. Vai tôi nhói lên cái. Tôi giật mình, thắc mắc biết ai nhìn mình. Cảm giác đó nhanh chóng biến mất.

      Xin lỗi, giọng tỏ ý hối lỗi khẽ cất lên rành rành trong đầu tôi.

      Giọng ấy xuất phát từ phía trước căn phòng, cùng hướng với cảm giác nhoi nhói. Amira hơi cau mày với ai đó ở hàng đầu trước khi hướng cả lớp tập trung vào.

      Ngược với thói quen, tôi ngoan ngoãn gập người trong tư thế khoanh chân vòng tròn khi ấy bắt đầu , và sau vài giây Clairmont cũng làm theo.

      “Giờ các bạn hãy nhắm mắt lại.” Amira cầm lên chiếc điều khiển từ xa xíu, và giai điệu nhàng của bài hát tĩnh tại vang lên. Nó nghe cổ xưa, và ma cà rồng thở dài hạnh phúc

      Mắt tôi thơ thẩn nhìn quanh, và bị bức tường trát vữa trang trí công phu của thứ chắc thời từng là đại sảnh của ngôi nhà làm cho phân tán.

      “Hãy nhắm mắt lại,” Amira lại khẽ nhắc. “Để xả bỏ những lo âu, phiền muộn và bản ngã của mình là khó. Đó là lý do chúng ta có mặt ở đây tối nay.”

      Những lời lẽ quen thuộc - tôi nghe những biến tấu của chủ đề này trước đây, trong những lớp yoga khác - nhưng chúng mang ý nghĩa mới mẻ khi cất lên trong căn phòng này.

      “Tối nay chúng ta đến đây để học cách điều khiển, chế ngự năng lượng của mình. Chúng ta dành cả đời tranh đấu và mệt mỏi để trở thành kẻ phải là chính mình. Hãy buông xả những ham muốn đó. Hãy kính trọng chính con người của bạn.”

      Amira hướng dẫn chúng tôi vài động tác kéo căng người nhàng vả bảo chúng tôi ngồi quỳ gối để làm ấm cột sống trước khi đẩy người vào thế con chó. Chúng tôi giữ nguyên tư thế đó trong vài nhịp thở trước khi chống hai tay xuống chân và đứng dậy.

      “Bàn chân bạn hãy cắm rễ chắc chắn xuống đất,” Miriam hướng dẫn, “làm tư thế trái núi.”

      Tôi tập trung vào hai bàn chân và cảm thấy cái xóc nẩy bắt ngờ từ dưới sàn nhà. Hai mắt tôi mở lớn.

      Chúng tôi làm theo Amira khi ấy bắt đầu các động tác kéo giãn xương - vinyasas. Chúng tôi giơ tay hướng lên trán rồi cúi gập người xuống, hai bàn tay chạm đất cạnh hai bàn chân. Chúng tôi nâng nửa thân lên sao cho sống lưng song song với sàn nhà, rồi đẩy người tới trước và duỗi hai chân ra sau trong tư thế chống đẩy. Hàng chục tinh, ma cà rồng và phù thủy cúi người và uốn mình thành những đường cong duyên dáng, hướng mặt lên trong tư thế rắn hổ mang. Chúng tôi tiếp tục gập và nâng người duỗi tay qua đầu lần nữa trước khi nhàng chắp hai tay vào nhau. Sau đó Amira để chúng tôi tự tập theo nhịp cơ thể của mỗi người. bấm nút điều khiển, và giai điệu chậm rãi của bài Rocket man do Elton John sáng tác bao trùm khắp gian phòng.

      nhạc phù hợp cách kỳ lạ, tôi lặp lặp lại các động tác tương tự trong lúc, hít thở khí vào các cơ bắp căng lên và thở bật ra hơi đẩy tất cả mọi ý nghĩ vướng bận ra khỏi đầu. Sau đó chúng tôi bắt đầu loạt các động tác lần thứ ba, và năng lượng trong phòng thay đổi.

      Ba phù thủy bồng bềnh trôi cách sàn gỗ chừng hai mươi centimet.

      “Ở nguyên dưới đất,” Amira bằng giọng vừa phải.

      Hai phù thủy lặng lẽ trở lại mặt sàn. Người thứ ba phải nhào xuống như chim nhạn để trở về mặt đất, thậm chí hai tay ta còn chạm sàn trước cả hai chân.

      Cả tinh và ma cà rồng đều gặp rắc rốí với nhịp điệu cơ thể. vài tinh làm động tác quá chậm tới mức tôi thắc mắc liệu có phải họ bị kẹt . Các ma cà rồng lại gặp vấn để ngược lại, cơ bắp mạnh mẽ của họ cứ cuộn lại rồi đàn hồi ra với cường độ đột ngột dữ dội.

      nhàng thôi,” Amira thầm. “ cần phải thúc bách, cần phải căng thẳng.”

      Dần dần năng lượng trong phòng ổn định trở lại. Amira hướng dẫn chúng tôi thực loạt động tác đứng. Đến đây các ma cà rồng ràng là giỏi nhất, họ có thể giữ vững tư thế hàng phút mà chẳng cần nỗ lực. Tôi nhanh chóng thôi còn lo lắng về những sinh vật có mặt trong căn phòng này với mình, hay việc liệu tôi có thể theo kịp lớp học . Chỉ có khoảnh khắc đó và động tác tập.

      Đến khi chúng tôi nằm xuống sàn để làm động tác cây cầu và lưỡi cày, mọi người trong phòng đều đầm đìa mồ hôi - ngoại trừ các ma cà rồng, thậm chí trông họ còn chẳng có lấy tí mồ hôi nào. vài ma cà rồng còn làm động tác thăng bằng ngang trụ bằng tay và trồng cây chuối, nhưng tôi làm thế. Tuy nhiên, Clairmont có. Trông như đính với mặt đất chỉ bằng tay, còn toàn bộ cơ thể nằm trục thẳng đứng, hoàn hảo, chạm đất.

      Phần khó nhất đối với tôi trong bất cứ lần luyện tập nào là tư thế xác chết - savasana. Tôi gần như thể nằm ngửa duỗi thẳng tay chân mà động đậy gì. Thực tế việc mọi người khác có vẻ thấy tư thế này thư giãn chỉ càng làm tăng thêm lo lắng của tôi. Tôi nằm im hết mức có thể, mắt nhắm, cố gắng co giật chân tay. tiếng chân sột soạt đến giữa tôi và Matthew.

      “Diana,” Amira thầm , “tư thế này thích hơp với . Hãy lăn người qua bên .”

      Hai mắt tôi bật mở. Tôi nhìn chăm chú vào đôi mắt to đen thẳm của phù thủy, và thấy xấu hổ khi ấy bằng cách nào đó lật tẩy được bí mật của tôi.

      “Cuộn người thành quả bóng .” Bối rối, tôi làm theo những gì ấy bảo. Cơ thể tôi lập tức thư giãn. ấy vỗ vào vai tôi. “Mở mắt ra nữa.”

      Tôi quay về phía Clairmont. Amira đứng chắn làm giảm bớt ánh sáng, nhưng vẻ rực rỡ từ làn da tỏa sáng mờ của cho phép tôi nhìn thấy các đường nét.

      Nhìn nghiêng trông giống như hiệp sĩ thời trung cổ nằm đỉnh hầm mộ ở tu viện Wesminster: đôi chân dài, thân mình dài, hai cánh tay dài, và gương mặt mạnh mẽ khác thường. Có cái gì đó cổ xưa trong dáng vẻ của , mặc dù trông bề ngoài chỉ hơn tôi có vài tuổi. Tôi lần theo đường nét vầng trán của bằng ngón tay tưởng tượng, và từ nơi ngón tay tôi gặp đường chân tóc lởm chởm, mái tóc hơi dựng trùm lên qua vầng trán lỗi lạc cùng đôi lông mày rậm màu đen. Ngón tay tưởng tượng của tôi trèo lên chóp mũi và lần xuống bờ môi của .

      Tôi đếm khi Matthew thở. Đến con số hai trăm lồng ngực mới nâng lên. hít thở lúc lâu, lâu sau đó.

      Cuối cùng Amira bảo cả lớp đến lúc hòa nhập trở lai với thế giới bên ngoài. Matthew quay về phía tôi và mở mắt ra. Gương mặt dịu dàng, mà tôi cũng vậy. Có những chuyển động xunh quanh chúng tôi, nhưng vẫn kéo tôi ra được. Tôi nằm im ở đó, đắm chìm vào ánh mắt của chàng ma cà rồng. Matthew vẫn hoàn toàn chờ đợi, nhìn tôi quan sát . Khi tôi ngồi dậy, căn phòng quay tròn khi máu của tôi đột ngột chuyển khắp cơ thể.

      Cuối cùng căn phòng cũng ngừng xoay tít. Amira kết thúc giờ luyện tập bằng điệu nhạc và rung mấy cái chuông xíu được đính chặt vào mấy ngón tay. Lớp học kết thúc.

      Có những tiếng thào khẽ khàng vang lên khắp phòng khi ma cà rồng chào tạm biệt ma cà rồng và phù thủy chào tạm biệt phù thủy. Các tinh sôi nổi hơn, họ sắp xếp những cuộc họp mặt lúc nửa đêm ở các câu lạc bộ quanh Oxford, hỏi nhau xem nơi nào chơi nhạc jazz hay nhất. Họ cuốn theo năng lượng này, tôi nhận ra và mỉm cười, nhớ lại miêu tả của Agatha về những điều lôi kéo tâm hồn của tinh. Hai nhà đầu tư ngân hàng đến từ London - cả hai đều là ma cà rồng - trò chuyện về cơn lũ những vụ giết người giải quyết được ở London. Tôi nghĩ đến Westminster và cảm thấy thoáng khó chịu. Matthew quắc mắt nhìn họ, và họ bắt đầu chuyển sang hẹn nhau ăn trưa vào ngày mai.

      Mọi người phải thành hàng ngang qua chỗ chúng tôi để ra về. Các phù thủy gật đầu với chúng tôi vẻ tò mò. Thậm chí các tinh còn toét miệng cười và trao đổi những cái nhìn đầy ngụ ý. Các ma cà rồng cố tình tránh tôi, nhưng ai cũng chào Clairmont.

      Cuối cùng chỉ còn Amira, Matthew và tôi ở lại. nhặt thảm tập của mình và bước nhàng về phía chúng tôi. “Tập tốt lắm, Diana,” .

      “Cảm ơn , Amira. Đây là lớp học mà tôi bao giờ quên.”

      được chào đón bất cứ khi nào. Dù có hay có Matthew cùng,” ấy thêm, vỗ vào vai . “ đáng lẽ nên báo trước cho ấy.”

      “Tôi sợ Diana đến. Nhưng tôi nghĩ ấy thích lớp học, nếu ấy cho nó cơ hội.” Gã ma cà rồng nhìn tôi bẽn lẽn.

      “Khi nào rời khỏi phòng các bạn tắt đèn nhé?” Amira gọi với lại qua vai, ra khỏi phòng được nửa đường.

      Mắt tôi du ngoạn vòng đến những món đá quý hoàn hảo của đại sảnh. “Công nhận đây là điều ngạc nhiên,” tôi tỉnh bơ, vẫn chưa sẵn sàng tháo móc thả .

      tiến đến sau lưng tôi, mau lẹ tiếng động. “ niềm vui nữa, tôi hy vọng thế. thích lớp học này mà?”

      Tôi chậm rãi gật đầu và quay sang để trả lời. Matthew gần sát đến mức làm tôi bối rối, và khác biệt về chiều cao của chúng tôi có nghĩa là tôi phải ngước mắt lên để phải nhìn chằm chằm vào vùng cổ của . “Tôi thích lắm.”

      Gương mặt Matthew vỡ ra thành nụ cười làm đứng tim người khác. “Tôi rất vui.” khó mà dứt ra khỏi cơn sóng ngầm trong mắt . Để phá vỡ bùa mê của đôi mắt ấy, tôi cúi xuống và bắt đầu cuộn tấm thảm của mình. Matthew tắt đèn và cầm lấy đồ đạc của mình. Chúng tôi xỏ giầy vào ở hành lang, nơi chiếc lò sưởi lớn tắt lửa, chỉ còn lại đống than hồng ỉ.

      Matthew cầm chùm chìa khóa lên. “Tôi có thể làm vui vẻ bằng ít trà trước khi chúng ta trở về Oxford ?”

      “Ở đâu cơ?”

      “Chúng ta ra chỗ chòi gác,” Matthew đáp đơn giản.

      “Có quán cà phê ở đó à?”

      , nhưng ở đấy có căn bếp. Có chỗ cho chúng ta ngồi nữa. Tôi có thể pha trà,” khiêu khích.

      “Matthew,” tôi thốt lên, choáng váng, “đây là nhà à?”

      Đúng lúc đó chúng tôi đứng lối ra vào, nhìn ra sân giữa. Tôi thấy phiến đá phía cánh cổng ngôi nhà ghi: 1536.

      “Tôi xây dựng nó,” , tỉ mỉ quan sát tôi.

      Matthew Clairmont ít nhất năm trăm tuổi rồi!

      “Những chiến lợi phẩm của phong trào cải cách ở châu Âu thế kỷ XVI,” tiếp. “Vua Henry tặng tôi mảnh đất này, với điều kiện tôi phá bỏ cái tu viện có ở đây và bắt đầu lại. Tôi cứu những gì có thể, nhưng khó mà lấy lại được nhiều. Năm ấy, đức vua trong tâm trạng rất xấu. Có thiên thần ở chỗ này và kia nữa, và vài tác phẩm bằng đá mà tôi thể chống lại đành phá hủy . Còn lại tất cả đều mới được xây dựng.”

      “Tôi chưa bao giờ nghe thấy ai mô tả về ngôi nhà được xây từ đầu thế kỷ mười sáu mà là ‘mới xây dựng’ cả.” Tôi cố gắng nhìn ngôi nhà bằng cách nhìn của Matthew nhưng với tư cách là phần của . Đây là ngôi nhà mà muốn sống gần năm trăm năm trước. Ngắm nhìn nó tôi hiểu về hơn. Nó yên ắng và tĩnh mịch, chân và cứng rắn. Cũng như . chi tiết thừa - trang hoàng thừa thãi, trò tiêu khiển.

      “Nó đẹp,” tôi giản dị .

      “Bây giờ nó quá lớn để sống ở đây,” Matthew đáp, “chưa kể đến nó quá mong manh. Mỗi lần tôi mở cánh cửa sổ là có thứ gì đấy dường như đổ ập xuống, bất chấp được bảo dưỡng cẩn thận. Tôi để Amira sống ở vài phòng và mở cửa ngôi nhà cho học viên của ấy đến vài lần tuần.”

      sống ở chỗ ngôi nhà gác cổng à?” tôi hỏi khi chúng tôi ngang qua khu đất rộng ngoài trời được rải sỏi và lát gạch để tới chỗ chiếc xe.

      phần thời gian thôi. Tôi sống ở Oxford cả tuần, cuối tuần mới về đây. Nó yên tĩnh hơn.”

      Tôi nghĩ đó quả là thử thách đối với ma cà rồng khi phải sống và bị vây quanh bởi những sinh viên sắp tốt nghiệp ồn ào, chủ nhân của những cuộc trò chuyện mà thể nghe lỏm.

      Chúng tôi trở lại xe và lái đoạn ngắn tới ngôi nhà gác. Từng thời là diện mạo của tòa dinh thự, nó hơi kiểu cách và được tô điểm nhiều hơn nhà chính. Tôi ngắm hai ống khói xoắn và những hoa văn xây bằng gạch công phu.

      Matthew rên rỉ. “Tôi biết mà. Những cái ống khói này là sai lầm. Gã thợ xây đá ấy sống chết cố thử tay nghề làm chúng. họ làm việc cho Wolsey ở điện Hampton, và người đàn ông này dĩ nhiên chẳng từ chối.”

      gạt cái công tắc đèn gần cửa, và gian phòng chính của căn nhà gác cổng tắm trong ánh sáng rực rỡ màu hoàng kim. Sàn nhà lát đá phiến bền chắc và lò sưởi bằng đá to lớn có thể nướng được cả con bò.

      lạnh à?” Matthew hỏi trong khi về phía phần gian phòng được biến thành căn bếp đại, bóng loáng. Căn bếp bị chiếc tủ lạnh thống trị, nổi bật lên hẳn so với cái lò nướng ở đó. Tôi cố gắng nghĩ về thứ có thể cất giữ trong tủ lạnh.

      “Hơi hơi.” Tôi kéo chiếc áo len sát vào người. Thời tiết ở Oxford vẫn còn tương đối ấm áp, nhưng mồ hôi khô của tôi khiến tôi có cảm giác lạnh giá.

      “Thế đốt lò sưởi lên,” Matthew gợi ý. Nó được chuẩn bị sẵn, và tôi làm nó cháy bùng lên bằng que diêm dài lấy ra từ chiếc cốc vại cổ bằng thiếc.

      Matthew nhóm lửa đun ấm nước, còn tôi dạo quanh phòng, thu thập những chi tiết về khiếu thấm mỹ của . Đồ thuộc da màu nâu và đồ gỗ đen bóng loáng nổi bật những phiến đá lát sàn. tấm thảm cũ có cách phối màu ấm áp giữa màu đỏ và màu xanh dương, cùng những nét chấm phá của sắc nâu vàng. Phía mặt lò sưởi là bức chân dung khổng lồ của người đẹp từ cuối thế kỷ mười bảy có mái tóc đen huyền, và mặc bộ váy dài màu vàng lộng lẫy. nghi ngờ gì nữa, bức tranh này là bút họa của quý ngài Peter Lely.

      Matthew nhận thấy vẻ quan tâm của tôi. “Chị tôi, Louisa,” vừa vừa vòng qua quầy bếp với khay trà đầy tràn. nhìn lên bức tranh, gương mặt thoáng nét u buồn. “Chao ôi, chị ấy xinh đẹp.”

      “Chuyện gì xảy đến với chị ấy?”

      “Chị ấy tới Barbados, với ý định trở thành nữ hoàng của xứ Ấn Độ. Chúng tôi cố gắng với chị ấy rằng việc ra thiếu hiểu biết tới hòn đảo giống như sở thích của chị đối với các quý ông trẻ tuổi, nhưng chị ấy nghe. Louisa thích cuộc sống ở xứ thuộc địa. Chị ấy đầu tư vào đường và nô lệ.” thoáng u ám vụt qua mặt . “Trong cuộc nổi loạn đảo, những gã chủ đồn điền bạn bè của chị ấy phát ra chị ấy là ai và quyết định loại bỏ chị. Chúng chặt đầu Loiusa và cắt rời từng phần thân thể chị ấy. Sau đó chúng thiêu chị và đổ tội lên đầu bọn nô lệ.”

      “Tôi rất tiếc,” tôi , nhưng biết những lời này tương xứng với việc phải đối mặt với mất mát to lớn như thế.

      cố gượng cười. “Cái chết này cũng chỉ khủng khiếp ngang với người phụ nữ hứng chịu nó mà thôi. Tôi chị mình, nhưng chị ấy làm cho điều đó dễ chịu gì. Chị ấy mê mải với mỗi thú vui trụy lạc của từng năm tuổi chị ấy sống. Nếu có thừa mứa, quá độ chị ấy chính là người sở hữu nó.” Matthew rùng mình thoát khỏi gương mặt xinh đẹp lạnh lẽo của người chị vẻ khó nhọc. “ rót trà chứ?” đề nghị. đặt khay trà xuống chiếc bàn thấp bóng loáng làm bằng gỗ sồi ở phía trước lò sưởi, nằm giữa hai chiếc trường kỷ được bọc quá nhiều da thuộc.

      Tôi đồng ý, vui mừng khi được vơi bớt tâm trạng nặng nề mặc dù lúc này tôi có quá nhiều thắc mắc mà buổi tối chuyện chắc cũng đủ để hỏi hết. Đôi mắt to đen láy của Louisa nhìn tôi, và tôi chắc chắn làm rớt giọt chất lỏng nào lên mặt chiếc bàn gỗ sáng bóng này đề phòng trường hợp nó từng thuộc về ấy. Matthew nhớ mang cả bình sữa to và đường, tôi thêm gia vị vào trà của mình cho tới khi nó có màu sắc chính xác y như mong muốn rồi mới ngả người chìm vào đống gối tựa kèm theo cái thở phào.

      Matthew lịch cầm cốc trà của mình mà nâng lên môi lấy lần.

      phải làm thế vì tôi đâu, biết mà,” tôi vừa vừa liếc nhìn tách trà.

      “Tôi biết.” nhún vai. “Là thói quen thôi, cũng dễ chịu khi làm thế mà.”

      bắt đầu tập yoga khi nào?” Tôi hỏi, chuyển đề tài.

      “Cùng thời gian Louisa sang Barbados. Tôi tới xứ khác thuộc Ấn Độ - vùng Đông Ấn - và kẹt ở Goa trong suốt đợt gió mùa. Chẳng có việc gì để làm ngoài uống rượu nhiều và tìm hiểu về Ấn Độ. Người theo yoga hồi đó rất khác, họ chú trọng phần linh hồn hơn hầu hết những giáo viên ngày nay. Tôi gặp Amira vài năm trước khi tôi thuyết trình tại hội nghị ở Mumbai. Ngay khi tôi nghe ấy dẫn dắt lớp học, tôi nhận thấy ấy có được món quà trời ban của những người theo yoga cổ xưa, ấy có những mối bận tâm như số phù thủy vẫn có trong việc tỏ ra thân thiện với ma cà rồng.” Có thoáng cay đắng trong giọng .

      mời ấy tới Quốc?”

      “Tôi giải thích những điều có thể có ở đây, và ấy đồng ý thử. Đến giờ gần mười năm rồi, và lớp học vẫn đông đúc mỗi tuần. Dĩ nhiên, Amira cũng có dạy các lớp riêng khác, chủ yếu là cho con người.”

      “Tôi chưa từng thấy phù thủy, ma cà rồng và tinh cùng chia sẻ bất cứ điều gì - chưa từng nghĩ tới lớp học yoga,” tôi thú nhận. Những điều cấm kỵ ngăn các sinh vật này hòa hợp với nhau quá mạnh mẽ. “Nếu với tôi điều đó có thể xảy ra, chắc tôi tin đâu.”

      “Amira là ngườỉ theo chủ nghĩa lạc quan, ấy những thử thách. Ban đầu nó cũng dễ dàng. Các ma cà rồng từ chối có mặt trong cùng căn phòng với tinh suốt trong những ngày đầu, và dĩ nhiên ai tin tưởng các phù thủy khi họ bắt đầu phô diễn rồi.” Giọng phản lại chính những định kiến thâm căn cố đế của mình. “Bây giờ hầu hết mọi người trong phòng đều công nhận chúng ta có nhiều điểm chung hơn là khác biệt và cư xử với nhau khá hòa nhã lịch .”

      “Chúng ta có thể trông giống nhau,” tôi , hớp ngụm trà và thu hai đầu gối lên sát ngực, “nhưng chúng ta chắc chắn cảm thấy giống nhau.”

      “Ý là sao?” Matthew hỏi, chăm chú nhìn tôi.

      “Cảm giác khi ta nhận ra ai đó là trong số chúng ta - sinh vật khác người,” tôi đáp, bối rối. “Những cú thúc , cảm giác nhoi nhói, lạnh giá.”

      Matthew lắc đầu. “, tôi biết. Tôi phải là phù thủy.”

      cảm thấy thế khi tôi nhìn ư?” tôi hỏi.

      . có thể cảm nhận được à?” Mắt gã ma cà rồng nhìn chân và làm gợn lên phản ứng quen thuộc da tôi.

      Tôi gật đầu.

      cho tôi biết cảm giác đó thế nào .” nhoài người tới trước. Mọi thứ dường như bình thường đến hoàn hảo, nhưng tôi cảm thấy như cái bẫy được giăng sẵn.

      “Nó... lạnh giá,” tôi chậm rãi , chắc nên tiết lộ đến mức nào, “giống như có mảnh băng lạnh mọc lên từ dưới da ấy.”

      “Cái đó nghe có vẻ dễ chịu gì.” Trán hơi nhăn lại.

      dễ chịu,” tôi thành trả lời. “Hơi kỳ lạ chút. Các tinh là tệ nhất - khi họ nhìn tôi chăm chú, cảm giác như bị hôn ấy.” Tôi nhăn mặt lại.

      Matthew phá lên cười và đặt cốc trà của mình xuống bàn. chống hai khuỷu tay lên đầu gối và nghiêng người về phía tôi, “Vậy là có sử dụng chút sức mạnh phù thủy của mình rồi.”

      Cái bẫy sập xuống.

      Tôi nhìn xuống sàn, giận điên, hai má ửng đỏ. “Tôi ước gì tôi chưa bao giờ mở cuốn Ashmole 782 hay lấy cái bài báo chết tiệt đó xuống khỏi giá sách! Đó chỉ là lần thứ năm tôi dùng phép thuật trong năm nay, và cái máy giặt nên hỏng, bởi vì nếu tôi yểm bùa nước tràn ra thành cơn lũ và phá hủy cả căn hộ tầng dướỉ mất.”

      Cả hai bàn tay giơ lên trong tư thế đầu hàng. “Diana, tôi quan tâm xem có dùng phép thuật hay . Nhưng tôi ngạc nhiên trước số lần sử dụng nó đấy.”

      “Tôi dùng phép thuật hay sức mạnh hay tà thuật hoặc bất cứ thứ gì muốn gọi nó. Đó phải con người tôi!” Hai má tôi đỏ bừng bừng.

      “Đó phải con người . Nó ở trong máu của . Nó ở trong xương tủy kia. sinh ra phù thủy, cũng giống như sinh ra có mái tóc vàng và đôi mắt xanh ấy.”

      Tôi chưa bao giờ có thể giải thích cho ai hiểu lý do tôi lảng tránh phép thuật. Dì Sarah và Em bao giờ hiểu. Matthew cũng vậy thôi. Tách trà của tôi nguội lạnh, và cơ thể tôi vẫn trong trạng thái quả bóng căng cứng trong khi cố lảng tránh cái nhìn dò xét của gã ma cà rồng.

      “Tôi muốn thế,” cuối cùng tôi qua hai hàm răng nghiến chặt, “và đừng bao giờ hỏi về nó nữa.”

      “Điều đó có gì sai nào? chẳng vui mừng trước năng lực thấu cảm của Amira tối nay đấy thôi. Đó là phần lớn trong răng lực phép thuật của ấy. Các tài năng của phù thủy có hơn hay kém gì việc có tài năng về nhạc hay thơ phú đầu - nó chỉ khác nhau thôi.”

      “Tôi muốn là người khác biệt,” tôi giận dữ . “Tôi muốn cuộc đời giản di, bình thường... giống như những con người.” người chẳng dính líu gì đến chết chóc, nguy hiểm và nỗi sợ hãi bị phát , tôi thầm nghĩ, miệng mím chặt để cố thốt lên những lời đó. “ chắc hẳn ước mình là người bình thường chứ?”

      “Tôi có thể với với tư cách là nhà khoa học, Diana ạ, rằng chẳng có thứ gì là ‘bình thường’ cả.” Giọng mất dần vẻ dịu dàng thận trọng. “‘Bình thường’ là câu chuyện kể trước giờ ngủ - câu chuyện ngụ ngôn bịa đặt - mà loài người kể cho nhau để cảm thấy dễ chịu hơn khi phải đối mặt với những bằng chứng ‘bất bình thường’ xảy ra đầy rẫy quanh họ .”

      Chẳng có gì trong những điều lay chuyển được kết luận của tôi rằng việc là sinh vật khác người trong cái thế giới bị con người thống trị là nguy hiểm.

      “Diana, nhìn tôi này.”

      ngược lại bản năng của mình, tôi làm theo.

      cố gạt phép thuật của mình sang bên, chỉ vì tin các nhà khoa học làm như thế từ hàng trăm năm trước. Vấn đề là,” khẽ khàng tiếp tục, “nó chẳng có tác dụng. Thậm chí chính con người cũng thể đẩy phép thuật ra khỏi thế giới của họ hoàn toàn. như vậy với chính mình. Phép thuật vẫn tiếp tục quay trở lại.”

      “Chuyện này khác,” tôi thầm. “Đây là cuộc đời tôi. Tôi có thể kiểm soát cuộc đời mình.”

      có gì khác cả.” Giọng điềm tĩnh và chắc chắn. “ có thể cố tránh xa pháp thuật, nhưng chẳng có tác dụng gì đâu, như câu chuyện vể Robert Hooke và Issac Newton ấy. Cả hai người bọn họ đều biết rằng chẳng có thế giới nào mà có phép thuật. Hooke là người xuất chúng, với năng lực có thể suy nghĩ xuyên suốt các vấn đề khoa học trong gian ba chiều, xây dựng các dụng cụ đo lường và các thí nghiệm. Nhưng ông ta bao giờ đạt đến mức viên mãn cả, bởi ông ta quá sợ hãi trước của tự nhiên, Còn Newton? Ông ta là nhân vật có trí tuệ biết sợ hãi nhất mà tôi từng biết. Newton sợ những gì thể trông thấy hay lý giải cách dễ dàng - ông ta theo nó. Là sử gia chắc biết đó chính là thuật giả kim và niềm tin của ông ta vào những thế lực quyền năng siêu hình lớn dần, biến đối và dẫn dắt ông ta tới lý thuyết về lực hấp dẫn.”

      “Vậy tôi là Robert Hooke trong câu chuyện này,” tôi . “Tôi cần phải là huyền thoại như Newton.” Như mẹ tôi.

      “Những nỗi sợ hãi của Hooke khiến ông ta trở nên cay đắng và đố kỵ,” Matthew cảnh báo. “Ông ta dành cả đời chỉ để ngoái nhìn lại và mô phỏng những thí nghiệm của người khác. có đường để sống.”

      “Tôi đâu có để phép thuật dính líu đến công việc của mình,” tôi bướng bỉnh .

      phải là Hooke, Diana ạ.” Matthew dữ dội . “Ông ta chỉ là con người, và ông ta hủy hoại đời mình bằng việc cố chống lại quyến rũ của pháp thuật. Còn phù thuỷ. Nếu làm giống thế, nó hủy diệt .”

      Nỗi sợ hãi bắt đầu len lỏi vào những suy nghĩ của tôi, kéo tôi ra xa khỏi Matthew Clairmont. làm tôi xiêu lòng và khiến mọi chuyện nghe có vẻ như bạn hoàn toàn có thể là sinh vật khác người mà phải bận tâm hay gặp hậu quả nào. Nhưng ma cà rồng, thể tin cậy được. Và sai lầm vế pháp thuật. chắc chắn sai. Nếu toàn bộ cuộc đời tôi cuộc đấu tranh vô ích chống lại kẻ thù tưởng tượng.

      Và tôi sợ đó là lỗi của chính mình. Tôi để phép thuật xen vào cuộc sống của mình - ngược lại những nguyên tắc mình đặt ra - và cùng với phép thuật ma cà rồng lẻn vào cuộc đời tôi. Hàng tá những sinh vật kia bám theo sau đó. Nhớ lại cái cách phép thuật làm tôi mất cha mẹ, tôi lại cảm thấy những đấu hiệu khởi đầu của cơn hoảng sợ trong hơi thở gấp và làn da rân ran như kiến bò.

      “Sống có phép thuật là cuộc sống duy nhất mà tôi biết để sống sót, Matthew ạ.” Tôi thở chậm để cho những cảm giác kia bám rễ sâu hơn, nhưng khó khăn khi linh hồn của bố mẹ tôi ở ngay trong căn phòng này.

      sống giả dối - và chẳng thể thuyết phục ai cả. nghĩ thờ ơ qua như con người.” Giọng Matthew đều đều, gần như giọng bác sĩ chẩn bệnh. “ chẳng đánh lừa được ai ngoại trừ chính mình. Tôi thấy cách họ nhìn . Họ biết khác biệt.”

      “Điều đó vô lý.”

      “Mỗi khi nhìn Sean, khiến ta nên lời.”

      “Cậu ấy từng phải lòng tôi khi tôi còn là sinh viên sắp tốt nghiệp,” tôi bừa.

      “Sean vẫn phải lòng - vấn đề phải ở đó. Nhưng nếu ông Johnson cũng là trong những người hâm mộ sao? Ông ấy tệ gần như Sean vậy, lo sợ trước những thay đổi tâm trạng nhất của và lo lắng bởi vì có thể phải ngồi ở chỗ khác. Mà chỉ có con người thôi đâu. làm cho Dom Berno sợ gần chết khi quay ra và nhìn ta chòng chọc.”

      “Vị tu sĩ trong thư viện ư?” Giọng tôi tin được. “ làm ông ấy sợ hãi, chứ phải tôi!”

      “Tối biết Dom Berno từ năm 1718,” Matthew cộc lốc. “ ta biết tôi quá để có thể sợ tôi. Chúng tôi gặp nhau tại bữa tiệc ở nhà Công tước xứ Chandos, ở đấy ta hát cho vai Damon trong vở Acis và Galatea của Handel. Tôi cam đoan với , chính sức mạnh của chứ phải của tôi khiến ta giật mình.”

      “Đây là thế giới của con người, Matthew ạ, phải câu chuyện thần tiên. Con người đông đảo hơn và sợ chúng ta.Và chẳng có gì mạnh mẽ hơn nỗi sợ hãi của con người cả - phải phép thuật, phải sức mạnh của ma cà rồng. gì cả.”

      “Nỗi sợ hãi và phủ định là những việc con người làm giỏi nhất, Diana ạ, nhưng đó phải là con đường mở ra cho phù thủy.”

      “Tôi sợ.”

      “Phải, sợ,” khẽ , nhấc chân lên. “Và tôi nghĩ đến lúc tôi đưa về nhà rồi.”

      “Nghe này,” tôi , mong muốn tìm hiểu thông tin về cuốn cổ thư gạt tất cả ý nghĩ khác của tôi sang bên, “chúng ta đều thấy hứng thú với Ashmole 782. Ma cà rồng và phù thủy thể là bạn bè, nhưng chúng ta có thể cùng làm việc.”

      “Tôi chắc vậy đâu,” Matthew dửng dưng.

      Chuyến xe trở về Oxford khá yên lặng. Loài người sai lầm khi về ma cà rồng, tôi ngẫm nghĩ. Để khiến mình sợ hãi, họ tưởng tượng ra ma cà rồng là những kẻ khát máu. Nhưng chính xa cách của Matthew, kết hợp với cơn giận dữ chớp nhoáng và tâm trạng thay đổi bất ngờ mới là điều khiến tôi sợ hãi.

      Khi chúng tôi về đến hẻm New College, Matthew lấy thảm tập từ cốp sau ra cho tôi.

      “Chúc kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ,” mà chẳng biểu lộ cảm xúc gì.

      “Chúc ngủ ngon, Matthew. Cảm ơn đưa tôi tới lớp yoga.” Giọng tôi cũng trống rỗng y như , tôi kiên quyết quay đầu nhìn lại, mặc dù cái nhìn lạnh giá của vẫn dõi theo tôi xa dần.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 9





      Matthew lái xe qua những nhịp cầu cao cong vút bắc qua con sông Avon. tìm đến khung cảnh quen thuộc của vùng Lanarkshire với những ngọn đồi dốc đứng, bầu trời đêm đen thẳm, hoang vắng nhưng cũng êm đềm. Ở phần bên này của Scotland có rất ít vẻ dịu dàng hay lôi cuốn, và vẻ đẹp khắc nghiệt, khủng khiếp của nó thích hợp với tâm trạng lúc này. chuyển hướng xuống xuyên qua con hẻm màu vàng chanh trước đây từng là con đường dẫn tới cung điện còn nay nó chẳng dẫn tới đâu cả, dấu vết lạc lõng của cuộc sống cao quý xa hoa mà giờ chẳng ai còn ham muốn nữa. Dừng lại ở lối cửa hậu của chòi săn cổ xưa, nơi những phiến đá nâu xù xì sắc nét tương phản với màu vữa xtuco mịn màng phía ngoài, trèo ra khỏi chiếc Jaguar và nhấc mấy túi xách ra khỏi cốp sau.

      Căn chòi chào đón với cánh cửa ra vào màu trắng để mở sẵn. “ bạn trông như quỷ ấy.” tinh có giọng sang sảng, mái tóc đen huyền, đôi mắt nâu lấp lánh và cái mũi khoằm đặt bàn tay lên chốt cửa, soi xét nhìn người bạn thân thiết của mình từ đầu tới chân.

      Hamish Osborne gặp Matthew Clairmont ở Oxford gần hai mươi năm trước. Giống như hầu hết các sinh vật khác người, họ được dạy dỗ phải biết dè chừng nhau và biết phải cư xử như thế nào cho đúng. Nhưng rồi cả hai trở nên thể tách rời khi họ nhận ra mình cùng chia sẻ khiếu hài hước và niềm đam mê lý tưởng giống nhau.

      Gương mặt Matthew rành rành nét giận dữ và vẻ nín nhịn biểu trong chuỗi những biểu cảm nhanh chóng tiếp nhau. “Mừng được gặp bạn,” cộc cằn , vứt mấy cái túi xách xuống cạnh cửa. uống vào mùi khí trong trẻo, mát lạnh của ngôi nhà, hương vị của vữa trát tường cũ kỹ và mùi gỗ già, cùng mùi oải hương và bạc hà cay là nét đặc hữu của Hamisk.

      Jordan, người quản gia của Hamish, lặng lẽ xuất , mang theo mùi dầu đánh bóng đồ gia dụng hương chanh và mùi hồ vải. Nó vẫn chưa đẩy hết được hương kim ngân và bạc hà đắng của Diana ra khỏi cánh mũi Matthew, nhưng cũng giúp ích khá nhiều.

      hân hạnh được gặp ngài,” ông ta trước khi lên gác mang theo túi xách của Matthew. Jordan là quản gia của ngôi trường cũ. Dù ông ta được trả hậu để giữ kín những bí mật của ông chủ mình, nhưng Jordan bao giờ để lộ với linh hồn sống nào việc Osborne là tinh hay thỉnh thoảng ta còn giao du với những ma cà rồng nữa.

      “Cảm ơn ông, Jordan.” Matthew rà soát tiền sảnh tầng dưới để tránh nhìn vào mắt Hamish. “Tôi thấy rồi nhé, vừa mới tậu bức Hamilton mới.” Gã ma cà rồng nhìn cách say mê về phong cảnh lạ lẫm bức tường phía góc xa.

      có hay phát thấy những thứ tôi mới kiếm về nhà đâu nhỉ?” Cũng giống như Matthew, trọng của Hamish gần như là của vùng Oxbridge pha lẫn vài sắc khác. Trong trường hợp của ta đó là cách phát “r” trong cổ của khu đường phố ở Glasgow.

      về những thứ mới giành được , William Ngọt Ngào thế nào rồi?” William là người mới của Hamish, con người quá đáng và dịu dàng đến nỗi Matthew đặt nickname cho chàng theo tên loài hoa mùa xuân. sến. Giờ Hamish dùng cái nickname đó như là cách gọi , và William bắt đầu quấy rầy những người bán hoa trong thành phố để có được những chậu hoa đó tặng bạn bè.

      “Hay gắt gỏng lắm,” Hamish vừa vừa cười lặng lẽ. “Tôi hứa với chàng ta kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh ở nhà.”

      bạn cần phải đâu, biết đấy. Tôi trông đợi điều đó mà.” Tiếng Matthew nghe cũng gắt gỏng.

      “Phải, tôi biết. Nhưng lâu rồi chúng tôi gặp nhau, và Cadzaw mùa này đẹp vô cùng.”

      Matthew trợn mắt nhìn Hamish, vẻ tin rành rành gương mặt nam tinh.

      “Chúa ơi, bạn cần săn đúng ?” đó là tất cả những gì Hamish có thể .

      “Tồi tệ ,” gã ma cà rồng đáp, lời đáp nhanh như gió thoảng.

      “Chúng ta có thời gian để uống ly trước chứ, hay bạn cần thẳng tới đó luôn?”

      “Tôi tin là mình hoàn toàn có thể uống ly rượu ,” Matthew bằng giọng coi thường.

      “Tuyệt. Tôi vừa kiếm được chai vang cho ít whiskey cho tôi đây.” Hamish cầu Jordan lấy ít rượu vang ngon ra khỏi hầm rượu ngay sau khi nhận được cuộc gọi của Matthew lúc rạng sáng. ta ghét phải uống mình, còn Matthew từ chối động tới rượu whiskey. “Sau đó có thể kể cho tôi tại sao phải khẩn cấp săn vào kỳ nghỉ cuối tuần tháng Chín đẹp thế này.”

      Hamish dẫn Matthew ngang qua những sàn nhà bóng loáng và lên cầu thang tới thư viện. Ván ốp tường màu nâu ấm áp được thêm vào từ thế kỷ mười chín phá hủy ý định ban đầu của kiến trúc sư nhằm tạo ra nơi rộng rãi, duyên dáng cho các quý bà thế kỷ mười tám chờ các đức ông chồng của họ bận rộn với môn thể thao quý tộc này. Trần nhà màu trắng tinh khối vẫn còn đến nay, được trang trí bằng hoa cùng với những thiên thần bận rộn đội các vòng hoa được trát nổi - chỉ trích liên tiếp đối với tính đại.

      Hai người đàn ông an vị trong những chiếc ghế bành bọc da nằm bên sườn lò sưởi, nơi ngọn lửa rực rỡ vừa mới lấy góc của lạnh lẽo mùa thu. Hamish cho Matthew xem chai rượu vang, gã ma cà rống thốt lên tiếng tán thưởng. “Cái đó hay đấy.”

      “Tôi cũng nghĩ thế. Quý ông ở Berry Brothers và Rudd cam đoan với tôi là nó rất tuyệt.” Hamish rót rượu vang và mở cái nút chai ở chiếc bình cổ thon cùa mình ra. Ly rượu tay, hai người đàn ông ngồi trong yên lặng của tình bầu bạn.

      “Tôi xin lỗi vì lôi kéo bạn vào tất cả chuyện này,” Matthew bắt đầu. “Tòi trong tình huống khó khăn. Nó ... rắc rối.”

      Hamish cười khúc khích. “ bạn lúc nào chẳng thế.”

      Matthew bị Hamish Osborne hấp dẫn phần vì tính thẳng thắn của ta và phần vì giống hầu hết các tinh, ta có trình độ và khó mà làm ta bối rối được. Qua nhiền năm, phần lớn bạn bè của gã ma cà rồng này là những tinh, có tài năng và đáng nguyền rủa ở mức ngang nhau. Hamish là dễ chịu hơn cả để bầu bạn. có những trận cãi vã nóng bỏng, những cơn bùng nổ của linh lợi hoang dã, hay những lần chán chường nguy hiểm. Thời gian với Hamish là im lặng trải dài, được tiếp nối bằng những cuộc đàm luận sắc sảo say mèm, tất cả được ta tô màu bằng cách nhìn cuộc đời rất trong sáng và thanh thản.

      Những điểm khác biệt ở Hamish còn mở rộng tới cả trong công việc, phải trong những nghề nghiệp tinh thường theo đuổi như nghệ thuật hay nhạc. Thay vì thế, ta có tài năng trong lĩnh vực tiền bạc - làm ra và chỉ ra những điểm yếu hiển nhiên thị trường và trong các công cụ tài chính quốc tế. ta lấy sáng tạo đầy cá tính của tinh và ứng dụng nó vào những bảng tính toán chứ phải là những bản sonata, ta am tường hết những phức tạp, rắc rối của thị trường hối đoái với độ chính xác phi thường. Chính vì thế mà được các vị chủ tịch các quốc vương và nhiều thủ tướng tới tham vấn.

      Niềm say mê khác thường của tinh dành cho kinh tế học cuốn hút Matthew, cũng như thoải mái bị ràng buộc của ta khi ở giữa loài người. Hamish thích được ở cùng với họ và tìm ra những khiếm khuyết của họ, hào hứng hơn là khó chịu. Đó là tài sản được kế thừa từ thời thơ ấu của ta, với người cha là nhà môi giới bảo hiểm và mẹ là phụ nữ làm nội trợ. gặp Osbornes lạnh lùng điềm tĩnh, Matthew có thể hiểu được cả tin ngây thơ của Hamish.

      Tiếng lách tách của lò sưởi và mùi hương êm dịu của rượu whiskey trong khí bắt đầu có hiệu quả, và Matthew cảm thấy thư giãn thanh thản hơn. ngồi nhỏm người tới trước, giữ ly rượu vang nhàng giữa những ngón tay, thứ chất lỏng màu đỏ lấp lánh trong ánh lửa lò sưởi.

      “Tôi biết bắt đầu từ đâu nữa,” run run .

      “Từ chỗ kết thúc, tất nhiên là thế. Tại sao bạn lại nhấc máy và gọi cho tôi nhi?”

      “Tôi cần chạy trốn khỏi phù thủy.”

      Hamish quan sát gã bạn của mình lúc, để ý thấy tâm trạng bối rối thấy của Matthew. Cách nào đấy, Hamish chắc chắn vị phù thủy đó phải là đàn ông.

      “Điều gì khiến cho vị phù thủy này đặc biệt đến thế nhỉ?” ta khẽ hỏi.

      Matthew ngước mắt lên nhìn từ dưới đôi lông mày nặng nề. “Mọi thứ.”

      “Ồ. bạn gặp rắc rối, đúng ?” Cách phát chữ “r” của Hamish sâu trong đó vẻ cảm thông và thích thú.

      Matthew cười mấy dễ chịu. “ có thể thế, đúng vậy.”

      “Phù thủy này có cái tên chứ?”

      “Diana. ấy là sử gia. Và là người Mỹ.”

      “Nữ thần săn bắn,” Hamish chậm rãi , “Ngoại trừ cái tên cổ xưa, ta có phải là phù thủy bình thường ?”

      ,” Matthew đáp ngay tắp lự, “ ấy còn xa mới tới mức bình thường.”

      “Á à. Rắc rối đây,” Hamish dò xét nét mặt của gã bạn mình để tìm những dấu hiệu cho thấy Matthew bình tĩnh lại, nhưng thay vào đó ta lại thấy rằng Matthew hăm hở chiến đấu.

      ấy là người nhà Bishop,” Matthew chờ đợi. biết kiểu gì ông bạn tinh này cũng nắm được tính quan trọng của gợi ý, cho dù gợi ý đó có mập mờ đến bao nhiêu nữa.

      Hamish sàng lọc, phân loại trong đầu và thấy được điều ta tìm kiếm. “Ở Salem, Massachusetts à?”

      Matthew gật đầu dứt khoát. “ ấy là người cuối cùng của tộc phù thủy Bishop. Cha ấy là người nhà Proctor.”

      Hamish huýt sáo khe khẽ, “ phù thủy kép đây, với dòng dõi pháp thuật đàng hoàng, bạn chưa bao giờ gặp ai đuợc bằng nửa như thế, đúng ? ấy chắc mạnh lắm.”

      “Mẹ ấy đúng vậy, Tôi biết nhiều lắm về cha ấy. Dù vậy, Rebccca Bishop - đó là câu chuyện khác. Bà ấy sử dụng bùa chú khi lên mười ba tuổi, điều mà hầu hết các phù thủy thể làm được kể cả sau đời sống học tập và thử nghiệm. Và thời thơ ấu bà ấy được biết đến như nhà tiên tri có năng lực dáng kinh ngạc.”

      biết bà ta chứ, Matt?” Hamish phải hỏi, Matthew sống nhiều cuộc đời và qua nhiều con đường với quá nhiều người đến nỗi bạn cũng thể biết được hết tất cả.

      Matthew lắc đầu, “. Mặc dù, luôn có những câu chuyện về bà ấy - và rất nhiều những đố kỵ. biết các phù thủy là thế nào rồi đấy,” đáp, giọng thoáng vẻ khó chịu thường thấy mỗi khi đề cập tới giống loài này.

      Hamish để lời bình luận về phù thủy qua bên và nhìn Matthew qua vành kính của mình.

      “Còn Diana?”

      ấy tuyên bố ấy dùng phép thuật.”

      Có hai sợi chỉ mảnh trong câu ngắn gọn ấy cần được giật thử. Hamish kéo sợi dễ hơn trước. “Gì cơ, dùng vào bất cứ việc gì? Tìm chiếc khuyên tai sao? Nhuộm tóc sao?” Giọng Hamish đầy nghi ngờ.

      ấy thuộc tuýp đeo khuyên và nhuộm tóc. ấy là tuýp chèo hơn ba dặm giờ sông trong con thuyền nguy hiểm bé tí xíu.”

      “Với lai lịch xuất thân của ta tôi thấy khó tin là ta chưa bao giờ dùng đến sức mạnh của mình.” Hamish là người theo chủ nghĩa thực dụng đồng thời cũng là người mơ mộng. Đó là lý do vì sao ta quá giỏi đối với tiền bạc của người khác. “Và bạn cũng tin điều đó, hay hề nghĩ là ấy dối thế?” Sợi chỉ thứ hai được giật.

      ấy mình chỉ dùng phép thuật thi thoảng - cho những thứ rất thôi.” Matthew do dự, luồn những ngón tay vuốt tóc để nửa mái tóc dựng đứng lên, rồi hớp ngụm vang. “Tôi theo dõi ấy, và thấy ấy sử dụng phép thuật còn hơn cả chút . Tôi có thể ngửi thấy nó,” , lần đầu tiên kể từ lúc đến, giọng mới thẳng thắn và cởi mở đến thế. “Mùi của nó giống như cơn bão điện từ vừa mới nổ ra ấy, hay sét mùa hè. Có vài lần tôi còn có thể trông thấy nó nữa cơ. Diana tỏa sáng lung linh khi ấy tức giận hoặc mải miết vào công việc.” Và khi ấy ngủ nữa, gã ma cà rồng thầm nghĩ rồi cau mày. “Chúa ơi nhiều lần tôi còn nghĩ mình thậm chí có thể nếm thử nó nữa cơ.”

      ta tỏa sáng ư?

      “Cũng chẳng có gì dặc biệt, mặc dù có thể cảm thấy năng lượng ấy theo cách nào đó. Chatoiemen[6] - ánh sáng phù thủy của ấy rất yếu. Hồi tôi còn trẻ, chỉ có những phù thủy mạnh nhất, nhiều quyền năng nhất mới phát ra ánh sáng. Ngày nay điều đó lại càng hiếm hoi. Diana ý thức được mình tỏa sáng như thế, ấy thậm chí còn mù tịt về ý nghĩa quan trọng của việc đó nữa.” Matthew rùng mình, bàn tay nắm chặt lại thành nắm đấm.

      [6. Tiếng Pháp có nghĩa là ‘Ánh sáng lung linh’.]

      Ông bạn tinh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vẫn còn sớm, nhưng ta biết được lý do vì sao bạn mình có mặt ở Scotland.

      Matthew Clairmont .

      Jordan vào, khả năng lựa chọn thời điểm của ông ta đúng lúc chê vào đâu được. “Người theo hầu săn ra chỗ chiếc xe Jeep, thưa ngài. Tôi bảo với cậu ta là ngài cần cậu ấy phục vụ hôm nay.” Người quản gia biết rằng mấy cần thiết phải có người dẫn đường để lần theo dấu vết của hươu nai khi mà bạn ma cà rồng ở trong nhà.

      “Tuyệt,” Hamish , nhổm dậy và uống cạn ly của mình. ta còn muốn thêm nhiều whiskey nữa, nhưng tốt hơn hết là phải giữ mình tỉnh táo.

      Matthew ngước lên. “Tôi tự , Hamish ạ. Tôi thích săn mình hơn.” Gã ma cà rồng thích săn cùng các sinh vật máu nóng, danh mục đó bao gồm người, tinh và phù thủy. luôn dành ngoại lệ cho Hamish, nhưng hôm nay muốn được mình khi kiểm soát được niềm khao khát với Diana Bishop.

      “Ồ, chúng ta săn,” Hamish , mắt ánh lên tia nhìn ranh mãnh. “Chúng ta đuổi theo thú săn.” Ông bạn tinh này có kế hoạch làm tâm trí người bạn thân bận rộn cho tới khi bớt cảnh giác và sẵn sàng chia sẻ điều gì xảy ra ở Oxford, chứ phải là muốn thoát ra khỏi những chuyện đó. “Thôi nào, hôm nay là ngày đẹp trời. bạn vui vẻ thôi.”

      Ra đến bên ngoài, Matthew trèo vào chiếc Jeep dùng để săn của Hamish cách dứt khoát. Cả hai người bọn họ đều thích lang thang bằng chiếc xe này hồi còn ở căn chòi Cadzow, mặc dù chiếc Land Rover luôn là phương tiện được lựa chọn hàng đầu tại các chòi săn của người Scotland. Matthew bận tâm việc bị lạnh cóng khi lái nó, còn Hamish thấy nó vui nhộn đầy nam tính.

      Lên đến đồi, Hamish vừa vào số chiếc Jeep - gã ma cà rồng nép người xuống mỗi khi nghe thấy thanh ấy - vừa cho xe leo lên chỗ chú nai gặm cỏ. Matthew nhắm đôi hươu đực ở vách đá cheo leo bên cạnh và bảo Hamish dừng xe. ra khỏi chiếc Jeep khẽ khàng và thu mình núp bên bánh trước, như bị thôi miên.

      Hamish mỉm cười và tham gia cùng bạn.

      Người bạn tinh từng săn đuổi hươu nai cùng với Matthew trước đây nên hiểu mình cần làm gì. Gã ma cà rồng này thường xuyên ăn uống, dù hôm nay Hamish chắc chắn rằng nếu bỏ mặc tự xoay sở, Matthew về nhà sau khi trời tối với vẻ no nê - và vùng đất này bớt hai chú hươu đực nữa. Bạn của ta có tính cách dã thú cũng như động vật ăn thịt vậy. Chính việc săn xác định đặc điểm nhận dạng của ma cà rồng, chứ phải cái cách họ ăn hay họ ăn cái gì. Thỉnh thoảng, khi Matthew thấy bồn chồn ngủ được, lại ra ngoài và lần theo dấu vết bất cứ thứ gì có thể đeo đuổi mà giết nó.

      Trong khi Matthew quan sát chú hươu, Hamish quan sát . Có vấn đề rắc rối ở Oxford. ta có thể cảm nhận thấy điều đó.

      Matthew ngồi kiên nhẫn tới vài tiếng đồng hồ sau đó, cân nhắc xem những con hươu đực này có đáng đeo đuổi . Thông qua các giác quan phi thường của mình: khứu giác, thị giác, và thính giác, theo dõi từng cử động của chúng, phát thói quen của chúng, và phán đoán từng phản ứng của chúng trước tiếng cành cây gãy hay con chim bay lên. tập trung chú ý của gã ma cà rồng đầy vẻ thèm muốn, nhưng bao giờ thể mất kiên nhẫn. Với Matthew, thời khắc quyết định đến là khi con mồi của nhận thấy nó bị tấn công và bao vây.

      Ánh chiều nhập nhoạng, cũng là lúc đứng dậy và gật đầu với Hamish. Thế là đủ cho ngày đầu tiên rồi, và dù cần ánh sáng để có thể trông thấy lũ hươu nai nữa, cũng biết rằng Hamish cần phải xuống núi.

      Khi họ về đến căn chòi săn, trời tối đen như mực, và Jordan bật tất cả đèn lên, khiến cho tòa nhà trông thậm chí còn kỳ cục hơn nữa, nó như tọa lạc giữa xứ sở chẳng thuộc về đâu cả.

      “Căn chòi này chẳng bao giờ trông tử tế chút nào cả,” Matthew bằng giọng đối thoại bình thường nhưng vẫn có ý châm chọc. “Robert Adam hẳn phát điên mất khi nhận món hoa hồng này.”

      chia sẻ suy nghĩ của mình về hoang phí nho này của tôi nhiều lần rồi, Matthew ạ,” Hamish bình thản , “và tôi quan tâm nếu bạn có hiểu được các nguyên lý cơ bản trong thiết kế kiến trúc hơn tôi hay , hoặc liệu có tin rằng Adam là gã điên xây dựng nên - như cái cách thường gọi là gì ấy nhỉ? - ‘công trình xây dựng toi cơm thiếu đầu óc ở cái xứ Lanarkshire khỉ ho cò gáy này hay . Tôi nó, và điều gì bạn có thể thay đổi được tình ấy.” Họ có kiểu trò chuyện thường xuyên như vậy kể từ Hamish tuyên bố ta mua lại căn chòi - toàn bộ cùng với đồ gia dụng, cậu bé theo hầu săn và Jordan - từ nhà quý tộc chẳng sử dụng gì đến tòa nhà này và cũng chẳng có tiền để sửa sang nó nữa. Matthew rất khó chịu. Tuy nhiên, với Hamish, căn chòi Cadzow là mốc đánh dấu ta vươn lên rất xa gốc rễ Glasgow của mình và có thể tiêu tiền vào điều gì đó thích dù thực tế.

      “Hừm,” Matthew hậm hực cáu kỉnh.

      Tính khí gắt gỏng thích hợp hơn với tâm trạng bối rối lo âu, Hamish nghĩ. ta chuyển sang bước kế tiếp trong kế hoạch của mình.

      “Bữa tối lúc tám giờ,” ta , “trong phòng ăn.”

      Matthew ghét phòng ăn đó, nó lộng lẫy, vòm trấn cao tít và lạnh lẽo. Và quan trọng hơn là thấy phát ốm bởi vẻ lòe loẹt và yểu điệu nữ tính của nó. Đó là căn phòng ưa thích của Hamish.

      Matthew rên rỉ. “Tôi đói.”

      bạn bị bỏ đói rồi,” Hamish mau mắn , căn cứ vào sắc diện của Matthew. “Bữa ăn thực lần cuối cùng của là khi nào thế?”

      “Vài tuần trước.” Matthew nhún vai với vẻ thèm đếm xỉa gì tới trôi của thời gian. “Tôi nhớ nữa.”

      “Tối nay có rượu vang và súp. Ngày mai - ăn gì là tùy ở . có cần ít thời giờ riêng tư trước bữa tối , hay mạo hiểm chơi bi-da với tôi?” Hamish chơi bi-da cực giỏi và thậm chí còn giỏi hơn cả trò snooker - trò mà ta chơi từ khi còn là chàng thiếu niên. ta kiếm tiền lần đầu tiên ở khu chơi bi-da của Glasgow và có thể đánh bại bất cứ đối thủ nào. Matthew từ chối chơi snooker đất với ta lần nào nữa, chẳng vui gì khi lần nào cũng thua, cho dù có là bạn bè nữa. Thay vào đó, cố thử dạy bạn mình chơi trò carambole, trò chơi cổ của người Pháp có dùng bóng và gậy đánh; nhưng Matthew lại luôn thắng trò này. Thế là trò bi-da trở thành thỏa hiệp khả dĩ nhất.

      thể cưỡng lại lời thách đấu dưới bất cứ dạng nào, Matthew đồng ý. “Tôi chơi với .”

      Chiếc bàn chơi bi-da bọc nỉ của Hamish ở trong căn phòng đối diện với thư viện. ta có mặt ở đó, mặc chiếc áo len và quần âu khi Matthew quay trở lại trong chiếc sơ mi trắng và quần jean. Gã ma cà rồng vốn tránh mặc đồ trắng vì nó làm trông như bóng ma và gây chú ý, nhưng đó là chiếc áo sơ mi chỉnh tề duy nhất mà mang theo. đóng gói hành lý cho chuyến di săn chứ phải cho buổi họp mặt riêng và ăn tối.

      Matthew cầm cây gậy chơi của mình lên và đứng phía cuối chiếc bàn. “Sẵn sàng chưa?”

      Hamish gật đầu. “Chúng ta chơi khoảng giờ, được chứ? Sau đó ta xuống dưới làm ly.”

      Hai người đàn ông uốn cong những cây gậy. “Hãy nhàng với tôi nhé, Matthew,” Hamish lẩm bẩm trước khi đánh bóng. Matthew khịt mũi khi bóng trúng ở điểm xa nhất, đập vào đường biên và nẩy trở lại.

      “Tôi lấy bên trắng,” Matthew khi những quả bóng ngừng lăn và bóng của đến gần nhất. cầm quả bóng khác và ném nó cho Hamish. Chàng tinh đặt quả bóng màu đỏ lên vạch đánh dấu của nó và đứng lùi lại.

      Cũng như trong cuộc săn, Matthew đổ xô vào giành điểm số. đặt mười lăm điểm vào hàng, đặt quả bóng màu đỏ vào cái túi lưới khác. “Nếu bạn phiền,” lè nhè kéo dài giọng, chỉ về phía chiếc bàn. Hamish đặt quả bóng màu vàng của mình lên đó bình luận gì.

      Matthew kết hợp những đường đánh cơ bản đưa quả bóng màn đỏ xuống lỗ bằng cú tricker đánh trúng nhiều bóng cùng lúc, điều vốn phải sở trường của . Cú bóng liên hoàn ấy trúng cả vào quả màu vàng và quả màu đỏ của Hamish mà chỉ bằng gậy, nó chỉ đòi hỏi sức mạnh mà còn cần cả khéo léo nữa.

      gặp phù thủy đó ở đâu thế?” Hamish bất ngờ hỏi sau khi Matthew đánh trúng liên hoàn bóng vàng và đỏ.

      Matthew lấy lại quả bóng trắng và chuẩn bị cho cú đánh tiếp theo. “Bodleian.”

      Đôi lông mày của chàng tinh nhướng lên vẻ ngạc nhiên. “Bodleian ư? Từ bao giờ bạn lại thường có mặt ở thư viện thế?”

      Matthew bị vướng, quả bóng trắng của nảy lò cò qua đường viên bàn bi-da rồi rơi xuống sàn. “Từ khi tôi tới buổi hòa nhạc và nghe lỏm được hai phù thủy chuyện về nữ phù thủy người Mỹ lấy được cuốn cổ thư mất tích từ lâu,” đáp. “Tôi thể hiểu tại sao những phù thủy ấy lại làm cái chuyện chết tiệt đó.” bước lùi ra khỏi bàn, tức giận vì sai sót của mình.

      Hamish nhanh chóng chơi mười lăm điểm của mình. Matthew đặt quả bóng của mình lên bàn và nhặt viên phấn lên để đánh dấu điểm cho Hamish.

      “Vậy là chỉ loanh quanh ở đó và lân la trò chuyện với ấy để tìm hiểu hả?” Chàng tinh cho cả ba quả bóng xuống lỗ chỉ bằng cú đánh.

      “Tôi đến đó tìm ấy, đúng thế.” Matthew quan sát trong khi Hamish di chuyển quanh bàn. “Tôi tò mò.”

      ấy có vui mừng khi thấy bạn ?” Hamish nhàng hỏi, làm cú trick nữa. ta biết rằng ma cà rồng, phù thủy và tinh hiếm khi giao thiệp. Họ thích dành thời gian cho nhóm gắn bó khép kín của cùng đồng loại hơn. Tình bạn với Matthew là mối quan hệ hiếm có, và những bạn bè tinh của Hamish nghĩ việc để cho ma cà rồng tiếp cận quá gần là điên rồ. Vào đêm cũng giống hôm nay, ta nghĩ họ có thể cũng có lý.

      hẳn. Ban đầu Diana hoảng sợ, mặc dù ấy vẫn đón ánh mắt tôi mà hề nao núng. Đôi mắt ấy khác thường - xanh lam và hoàng kim, xanh lá và xám lạnh,” Matthew mơ màng . “Sau đó ấy muốn đánh tôi. ấy có mùi vô cùng tức giận.”

      Hamish cười ngất. “Nghe giống như phản ứng chính đáng vì bị ga ma cà rồng phục kích trong Bodleian.” ta quyết định tử tế với Matthew và cứu gã bạn mình khỏi phải trà lời nữa. Chàng tinh đánh quả bóng vàng về phía quả màu đỏ, chủ ý làm nỏ nẩy lên vừa đủ để quả bóng đỏ trôi về phía trước mà chỉ va đụng vào nó thôi. “Chết tiệt,” ta rên rỉ. “ cú phạm luật.”

      Matthew trở lại bàn, đánh thêm vài điểm, và cố thực hoặc hai cú liên hoàn nữa.

      “Hai người có gặp nhau bên ngoài thư viện ?” Hamish hỏi khi chàng ma cà rồng vừa lấy lại được chút bình tĩnh.

      “Thực ra, tôi gặp ấy nhiểu lắm, ngay cả khi ở trong thư viện. Tôi ngồi ở khu và ấy ngồi ở khu khác. Nhưng tôi đưa ấy ăn sáng, và tới Chòi Gác Cổ, để gặp Amira.”

      Hamish khó khăn lắm mới giữ cho quai hàm ngậm lại được. Matthew biết nhiều phụ nữ trong bao nhiêu năm qua mà hề đưa họ tới Chòi Gác Cổ. Và cái việc ngồi đối diện tận cuối thư viện này là sao chứ?

      “Ngồi cạnh ta trong thư viện chắc chẳng thể dễ dàng nếu có hứng thú với ta đúng ?”

      “Tôi hứng thú với ấy!” Cây gậy của Matthew bùng nổ sức mạnh đánh văng quả bỏng trắng. “Tôi muốn cuốn cổ thư kia. Tôi cố gắng kiếm tìm nó trong hơn trăm năm qua. ấy chỉ cần điền vào phiếu cầu và lấy được nó ra từ kho sách của thư viện.” Giọng đầy ghen tị.

      “Cuốn cổ thư nào, hả Matt?” Hamish cố hết sức để kiên nhẫn, nhưng cuộc trao đổi nhanh chóng trở nên thể kiên nhẫn nổi nữa. Matthew đưa ra thông tin từng chút giống tên keo kiệt chia ra từng xu vậy. Càng căng thẳng bực mình hơn khi những tinh có đầu óc tư duy nhanh chóng lại phải giao du với các sinh vật chẳng coi khoảng thời gian hơn thập kỷ là vấn đề gì quan trọng.

      cuốn sách về thuật giả kim từng thuộc về Elias Ashmole. Diana Bishop là sử gia được đánh giá cao trong các nghiên cứu về thuật giả kim.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :