Chương 41 ngày trước lễ Halloween, cảm giác nôn nao cồn cào gan ruột tôi. Vẫn ở giường, tôi với sang Matthew. “Em lo lắm.” gập cuốn sách đọc dở và kéo tôi lại gần. “ biết. Em lo lắng từ trước khi mở mắt ra cơ.” Ngôi nhà rộn rã hẳn lên. Chiếc máy in của dì Sarah cứ đẩy ra hết trang này đến trang khác trong phòng làm việc. Tivi được bật, và cái máy sấy than vãn rên rỉ ở đằng xa như thể nó phản đối dưới chồng quần áo giặt là khác. Đánh hơi cái là tôi biết dì Sarah và Em phong lưu tận hưởng cà phê tiêu thụ trong ngày, và dưới hành lang có tiếng kêu vù vù của máy sấy tóc. “Có phải chúng mình là những người cuối cùng thức dậy ?” tôi có gắng làm dịu cảm giác cồn cào của mình. “Chắc vậy,” Matthew mỉm cười, vẻ u ám lo lắng phảng phất trong mắt . Dưới nhà, dì Sarah làm trứng bác trong khi Em lôi ra khỏi lò những khay bánh xốp nướng. Nathaniel chộp lấy hết cái này tới cái khác từ trong hộp cách gọn gàng và cho vào miệng mình nhai rôm rốp. “Hamish đâu?” Matthew hỏi. “Trong phòng làm việc của tôi, dùng máy in.” Dì Sarah nhìn lâu rồi quay lại với cái chảo của dì. Marcus bỏ dở trò xếp chữ để dạo cùng cha cậu. Cậu túm lấy nắm quả hạch khi . Hít hà món bánh xốp nướng với tiếng rên thèm khát tuyệt vọng. “Chuyện gì diễn ra thế?” tôi hỏi . “Hamish làm công việc của luật sư,” Sophie trả lời, phết lớp bơ dày lên chiếc bánh xốp. “ ấy có những giấy tờ phải ký.” Gần trưa, Hamish gọi chúng tôi vào phòng ăn. Chúng tôi vào cầm theo những ly rượu vang và cốc, tách. ta trông như ngủ. Các chồng giấy tờ gọn gàng được xếp bề mặt rộng thênh thang của cái bàn, cùng với mấy thỏi xi đen và hai con dấu thuộc về các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus – , lớn. Tim tôi đập vào dạ dày rồi thót lên tận họng. “Ta ngồi chứ nhỉ?” Em hỏi. mang vào ấm cà phê mới và cái tách của Hamish. “Cảm ơn Em,” Hamish với vẻ biết ơn. Hai chiếc ghế trống đặt ở đầu bàn. ta ra hiệu cho Matthew và tôi ngồi vào chỗ đó và nhấc lên chồng giấy tờ thứ nhất. “Chiều hôm qua chúng tôi thông qua loạt các vấn đề cấp thiết liên quan tới tình huống mà chúng ta gặp phải lúc này.” Tim tôi đập dồn thêm, và tôi lại đưa mắt nhìn mấy con dấu niêm phong. “Bớt cái vẻ luật gia , Hamish, nếu phiền,” Matthew , bàn tay siết lưng tôi. Hamish trừng mắt nhìn và tiếp tục. “Diana và Matthew vượt thời gian, như kế hoạch, vào dịp lễ Halloween. Hãy lờ mọi chuyện khác mà Matthew bảo làm.” Hamish tỏ vẻ vui thích ra mặt khi nêu ra phần này trong thông điệp của mình. “Chúng tôi thống nhất rằng là tốt nhất nếu mọi người… biến mất cùng lúc. Trong cái khoảnh khắc đó cuộc sống của các bạn vẫn tiếp tục.” Hamish đặt văn bản trước mặt tôi. “Đây là quyển ủy nhiệm, Diana ạ. Nó ủy quyền cho tôi – hoặc bất cứ ai giữ vị trí tổng quản – được hành động cách hợp pháp vì quyền lợi của .” Quyền ủy nhiệm ban cho du hành vượt thời gian – ý niệm vốn trừu tượng – ý nghĩa chốt hạ mới mẻ. Matthew rút ra khỏi túi cây bút mực. “Đây,” , đặt cây bút trước mặt tôi. Ngòi bút cổ xưa ép vào tay tôi, nó lạo xạo khi tôi ký tên mình lên dòng kẻ. Khi tôi ký xong, Matthew lấy nó và thả giọt sáp đen nóng ấm xuống bên dưới, rồi với tay lấy con dấu cá nhân của ấn vào giọt sáp ấy. Hamish cầm lên tập giấy tờ kế tiếp. “Những lá thư này cũng phải ký. cái để thông báo cho những người tổ chức hội thảo của biết rằng thể thuyết trình vào tháng Mười . Lá kia đề nghị được xin nghỉ vì lý do sức khỏe trong năm tới. Bác sĩ của – ông Marcus Whitmore – viết vào dự phòng trước. Trong trường hợp thể trở về vào Tháng tư, tôi gửi đề nghị của tới Yale.” Tôi cẩn thận đọc các lá thư và kí vào với bàn tay run rẩy, từ bỏ cuộc đời của tôi ở thế kỷ XXI. Hamish chống hai bàn tay vững vàng vào cạnh bàn. ràng ta chuẩn bị để điều gì đó. “ có gì phải khi Matthew và Diana quay về với chúng ta.” ta dùng từ nếu, nhưng dù thế nào nó vẫn lơ lửng bay quanh phòng. “Mỗi khi thành viên trong công ty hoặc gia đình de Clermont chuẩn bị thực hành trình dài hoặc vắng mặt thời gian, công việc của tôi là đảm bảo công việc của họ được hợp lệ. Diana, có di chúc.” “Vâng.” Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. “Nhưng tôi cũng có bất cứ tài sản nào cả - thậm chí chiếc ô tô cũng có.” Hamish đứng thẳng lên. “Điều đó hoàn toàn đúng, phải Matthew?” “Đưa nó cho tôi,” Matthew miễn cưỡng . Hamish đưa cho tập văn bản dày cộp. “Cái này được thảo ra khi lần cuối về Oxford.” “Trước vụ La Pierre,” tôi , chạm vào các trang giấy ấy. Matthew gật đầu. “Về cơ bản, đó là hợp đồng hôn nhân của chúng mình. Nó dàn xếp chuyển phần ba tài sản cá nhân của cho em vĩnh viễn. Ngay cả khi em rời bỏ , những tài sản này vẫn là của em.” Nó được đề ngày tháng trước khi về Sept-Tours – trước cả lúc chúng tôi nguyện kết đôi suốt đời theo tục lệ của ma cà rồng. “Em bao giờ bỏ , và em muốn thứ này.” “Em thậm chí còn chưa biết nó là thứ gì cơ mà,” Matthew , đặt xấp giấy trước mặt tôi. Có quá nhiều thứ phải tiếp nhận. khoản tiền gây sửng sốt, ngôi nhà ở quảng trường độc nhất của London, căn hộ ở Paris, dinh thự ở ngoại ô Rome, Chòi Gác Cổ, ngôi nhà ở Jerusalem, và còn nhiều nhà cửa khác ở các thành phố như Venice và Seville, mấy cái máy bay, vài chiếc ô tô – đầu óc tôi xoáy lộn. “Em có công việc ổn định rồi.” Tôi đẩy các tờ giấy ra. “Cái này hoàn toàn cần thiết.” “Dù sao nó cũng là của em,” Matthew cộc cằn . Hamish để cho tôi thu gom lại điềm tĩnh của mình trước khi thả xuống trận oanh tạc kế tiếp của ta. “Nếu Sarah chết, cũng được thừa kế ngôi nhà này với điều kiện nó là của Emily chừng nào ấy còn muốn nó. Và là người thừa kế duy nhất của Matthew. Vậy có tài sản rồi – và tôi cần biết các nguyện vọng của .” “Tôi về chuyện này nữa.” Ký ức về Satu và Juliette vẫn còn mới nguyên, và cái chết có cảm giác như quá gần. Tôi đứng lên định chạy chốn nhưng Matthew tóm lấy tay tôi và giữ lấy cách chắc chắn. “Em cần phải làm điều này, mon coeur. Chúng mình thể bỏ mặc Marcus và Sarah thu xếp được.” Tôi ngồi lại và im lặng nghĩ về chuyện làm gì với số tài sản thể tưởng tượng được và cái trang trại đổ nát này và ngày nào đó có thể là của tôi. “Di sản của tôi được chia đều cho các đứa con của chúng tôi,” cuối cùng tôi . “Bao gồm tất cả con của Matthew - con ma cà rồng và con đẻ - mà ấy có và bất cứ đứa con nào chúng tôi có thể có với nhau. Chúng có cả ngôi nhà Bishop khi Em để lại.” “Tôi lo vụ đó,” Hamish cam kết với tôi. Các văn bản còn lại bàn được đựng trong ba cái phong bì. Hai chiếc có dấu niêm phong của Matthew. Chiếc kia có dải ruy băng màu đen bạc cuốn quanh, dấu xi phủ lên cái nút thắt. Treo vào sợi ruy băng đó là vật hình tròn dày cộp màu đen to như chiếc đĩa ăn tráng miệng được đóng dấu niêm phong lớn của các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazaus. “Cuối cùng chúng ta cần thu xếp cho dòng tu. Khi cha Matthew thành lập các Hiệp sĩ dòng thành Lazarus, họ nổi tiếng bởi việc giúp đỡ bảo vệ những người thể tự bảo vệ mình. Mặc dù hầu hết các sinh vật lãng quên chúng ta, nhưng chúng ta vẫn còn tồn tại. Và chúng ta vẫn phải tiếp tục làm vậy ngay cả sau khi Matthew ra . Ngày mai, trước khi Marcus rời khỏi nhà, Matthew chính thức từ bỏ chức vị trong dòng tu và chỉ định con trai ấy làm đại thống chế.” Hamish trao cho Matthew hai phong bì mang dấu niêm phong cá nhân của . Sau đó ta trao cho Nathaniel chiếc phong bì có dấu xi lớn. Mắt Miriam trợn tròn. “Khi Marcus nhận chức vị mới của cậu ấy, điều mà cậu ấy làm ngay lập tức,” Hamish , trao cho Marcus cái nhìn nghiêm nghị, “là gọi điện cho Nathaniel – người đồng ý gia nhập vào dòng tu với tư cách là trong tám thống lãnh tỉnh. Khi Nathaniel bẻ niêm phong quyết định bổ nhiệm này, ta là Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus.” “Các người thể tiếp tục cho những tinh như Hamish và Nathaniel làm thành viên của dòng tu được! Làm sao Nathaniel chiến đấu được chứ?” Miriam thét lên kinh hãi. “Bằng những cái này,” Nataniel , ngọ ngoạy các ngón tay trong trung. “Tôi biết về máy tính, và tôi có thể làm phần việc của mình.” Giọng thoáng dữ tợn, và ta ném về phía Sophie ánh nhìn hung dữ ngang thế. “ có ai làm cho vợ hay con tôi cái việc mà họ làm cho Diana.” im lặng sững sờ. “Đó chưa phải là tất cả.” Hamish kéo cái ghế và ngồi xuống, đan các ngón tay vào nhau trước mặt mình. “Miriam tin rằng chiến tranh sắp nổ ra. Tôi tán thành. Cuộc chiến này bắt đầu rồi.” Mọi con mắt trong phòng hướng vào Hamish. ràng đó là lý do vì sao người ta muốn ta giữ vai trò trong chính phủ - và tại sao Matthew lại để ta là người đứng thứ hai sau mình. ta sinh ra để làm lãnh đạo. “Trong căn phòng này, chúng ta hiểu tại sao cuộc chiến như thế có thể xảy ra. Đó là vì Diana và những điều kinh khủng mà Đại Hội Đồng làm để cố tìm hiểu về sức mạnh ấy được thừa hưởng. Đó là vì việc khám phá ra Ashmole 782 và nỗi sợ hãi của chúng ta rằng những bí mật của cuốn sách này có thể bị mất vĩnh viễn nếu nó rơi vào tay phù thủy. Và đó là vì niềm tin chung của chúng ta rằng ai có quyền bảo hai sinh vật khác người thể nhau – cho dù họ có thể thuộc giống loài nào nữa.” Hamish bao quát cả căn phòng để chắc chắn rằng chú ý của mọi người đều bị phân tán trước khi tiếp tục. “ còn lâu nữa loài người mới biết về cuộc xung đột này. Họ phải thừa nhận rằng tinh, ma cà rồng và phù thủy ở xung quanh họ. Khi điều đó xảy ra, chúng ta cần hội đồng ngầm của Sophie hoạt động thực , chứ chỉ danh nghĩa. có thương vong, kích động và hỗn loạn. Và chúng ta – hội đồng ngầm và các hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus – là người giúp cho họ hiểu toàn bộ ý nghĩa của nó, để đảm bảo rằng mất mát và hủy diệt là nhất.” “Ysabeau đợi các vị ở Sept-Tours.” Giọng Matthew lặng lẽ và bình tĩnh. “Vùng đất của lâu đài có thể là lãnh địa duy nhất mà các ma cà rồng khác dám vượt qua. Sarah và Emily cố gắng giữ các phù thủy trong tầm kiểm soát. Danh tiếng nhà Bishop có lẽ giúp được. Còn các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus bảo vệ Sophie và đứa bé.” “Vậy chúng ta phân tán ra,” dì Sarah , gật đầu với Matthew. “Sau đó tập hợp lại tại nhà de Clermont. Và khi đó, chúng ta tìm cách hành động tiếp, cùng nhau.” “Dưới lãnh đạo của Marcus.” Matthew nâng ly rượu còn nửa của mình lên. “Vì Marcus, Nathaniel, và Hamish. Danh dự và cuộc sống dài lâu.” “ lâu lắm rồi tôi mới được nghe câu ấy,” Miriam dịu dàng . Marcus và Nathaniel cùng né tránh chú ý, và có vẻ thoải mái với những trọng trách mới của họ. Hamish có phần mệt mỏi. Sau phần nâng ly chúc mừng ba người đàn ông - tất cả bọn họ trông còn quá trẻ để phải lo lắng cho cuộc sống dài lâu - Em dẫn chúng tôi vào bếp ăn trưa. dọn ra cả bàn tiệc bàn bếp, và chúng tôi quây quần quanh phòng sinh hoạt gia đình, cố tránh cái thời khắc phải bắt đầu lời tạm biệt. Cuối cùng cũng đến lúc Sophie và Nathaniel lên đường. Marcus cho vài thứ hành lý của hai vợ chồng vào cốp sau chiếc xe thể thao màu xanh bé của cậu. Cậu và Nathaniel đứng đó, hai mái đầu vàng rực kề sát vào nhau chuyện trò, trong lúc Sophie tạm biệt Sarah và Em. Khi chào họ xong, quay sang tôi. Tôi bị xua vào phòng khách để chắc chắn bị ai tình cờ chạm vào người. “Đây thực là chia tay, Diana,” với tôi ngang qua hành lang. Con mắt thứ ba của tôi mở ra, và trong ánh mắt trời lấp lánh lan can cầu thang, tôi thấy mình được bao bọc trong những cái ôm nồng nhiệt của Sophie. “Ừ,” tôi , ngạc nhiên và dễ chịu trước ảo giác ấy. Sophie gật đầu như thể trông thấy hình ảnh thoáng ấy của tương lai. “Thấy , tôi bảo mà. Có lẽ con bé có mặt ở đây khi quay lại đấy. Nhớ nhé, là mẹ đỡ đầu của con bé.” Trong khi đợi Sophie và Nathaniel chào tạm biệt, Matthew và Miriam đặt tất cả bí ngô vào đường xe chạy. Bằng cái vẩy tay và thầm vài câu, dì Sarah thắp sáng chúng. Vẫn còn vài giờ nữa trời mới tối, nhưng ít nhất Sophie có thể biết được đêm Halloween trông chúng như thế nào. vỗ tay và lao xuống các bậc thềm để nhào vào vòng tay Matthew và rồi Miriam. Cái ôm cuối cùng của là dành cho Marcus, cậu ta cũng khẽ trao đổi với vài câu trước khi nhét vào ghế hành khách có dây an toàn đeo ngang. “Cảm ơn về chiếc xe,” Sophie , thán phục phần gỗ ốp bảng đồng hồ. “Nathaniel quen lái xe nhanh, nhưng bây giờ ấy lái như bà già rồi – vì lo cho đứa bé mà.” “ chạy quá tốc độ nhé,” Matthew kiên quyết , nghe như ông bố. “Hãy gọi cho chúng tôi khi các bạn về đến nhà.” Chúng tôi vẫy tay theo họ. Khi họ ra khỏi tầm nhìn, dì Sarah dập tắt lửa ở các quả bí ngô. Matthew quàng tay quanh người tôi khi những thành viên còn lại trong gia đình tản mạn quay trở vào nhà. “Tôi chuẩn bị xong cho rồi, Diana,” Hamish , bước ra hàng hiên. mặc áo khoác, chuẩn bị rời New York trước khi quay lại London. Tôi ký vào hai bản di chúc, chúng được Em và Sarah làm chứng. Hamish cuộn bản lại và thả vào trong cái ống bằng kim loại. ta xuyên qua hai đầu ống những sợi ruy băng màu đen bạc và niêm phong nó bằng xi mang con dấu của Matthew. Matthew đứng đợi bên cạnh chiếc xe thuê màu đen trong khi Hamish lời tạm biệt lịch với Miriam, hôn Em và dì Sarah rồi mời họ đến ở với đường họ tới Sept-Tours. “Gọi cho tôi nếu cần bất cứ thứ gì,” ta với dì Sarah, cầm tay dì và xiết chặt cái duy nhất. “ có số của tôi rồi đấy.” quay sang tôi. “Tạm biệt, Hamish.” Tôi hôn lại bên hai má. “Cảm ơn vì tất cả những gì làm để tâm trí Matthew được thảnh thơi.” “Tôi chỉ làm công việc của mình thôi mà,” Hamish với vui vẻ miễn cưỡng. Giọng hạ xuống. “Hãy nhớ những gì tôi với . có cách nào để cầu cứu giúp đỡ nếu cần.” “Tôi cần nó,” tôi . Vài phút sau, động cơ xe khởi động và Hamish cũng rời , đèn đuôi xe màu đỏ nhấp nháy trong bóng chiều nhập nhoạng. Ngôi nhà thích trống trải mới này của nó và phản ứng bằng cách đẩy đồ đạc trượt quanh rồi rên rỉ khe khẽ mỗi khi có ai rời khỏi hoặc bước vào căn phòng. “Tôi nhớ họ lắm,” Em thú nhận khi làm bữa tối. Ngôi nhà thở dài đồng cảm. “ nào,” dì Sarah với tôi, lấy con dao khỏi tay Em. “Hãy đưa Matthew về Sept-Tours và trở lại đây kịp lúc làm món sa lát.” Sau nhiều bàn bạc, cuối cùng chúng tôi quyết định trở về buổi tối mà tôi tìm thấy cuốn Nguồn gốc các loài của . Nhưng đưa Matthew về Sept-Tours có nhiều cách thức hơn tôi tưởng. Hai cánh tay tôi ôm quá nhiều thứ để giúp tôi định hướng – chiếc bút và hai cuốn sách từ phòng làm việc của – đến nỗi Matthew phải ôm eo tôi. Rồi chúng tôi mắc kẹt. Những bàn tay vô hình dường như nâng bàn chân tôi lên, từ chối cho tôi hạ nó xuống Sept-Tour. Càng ngược lại thời gian xa hơn những sợi tơ mắc vào chân tôi càng dày đặc hơn. Và thời gian cũng bám dính vào Matthew như những thân leo chắc khỏe. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được phòng làm việc của Matthew. Căn phòng y như khi chúng tôi rời , lửa được nhóm lên và chai rượu vang đợi sẵn bàn. Tôi thả mấy cuốn sách và cây bút lên ghế sofa, run lên mệt mỏi. “Có gì ổn à?” Matthew hỏi. “Nó như thể có nhiều quá khứ cùng nhau lao đến, và thể lội qua chúng được. Em sợ có thể thả tay ra.” “ cảm thấy gì khác lạ cả,” Matthew . “Nó có lâu hơn trước ít, nhưng biết trước, xa như vậy kiểu gì cũng lâu hơn mà.” rót rượu cho cả hai, và chúng tôi bàn bạc xem có nên xuống nhà dưới hay . Cuối cùng, khao khát được thấy Ysabeau và Marthe của chúng tôi thắng thế. Matthew nhắc tôi nhớ là tôi mặc cái áo len màu xanh, đường cổ cao của nó che chỗ cuốn băng của tôi, vậy nên tôi lên lầu để thay đồ. Khi tôi trở xuống, gương mặt từ từ vỡ ra thành nụ cười tán thưởng. “Em vẫn xinh đẹp y như lúc đó,” rồi hôn tôi đắm đuối. “Có lẽ còn hơn cơ.” “Cẩn thận đấy,” tôi cười, cảnh cáo . “ vẫn chưa quyết định là em đâu đấy.” “Ồ, quyết định rồi,” , lại hôn tôi. “ chỉ cho em biết thôi.” Những phụ nữ ngồi ở đúng chỗ chúng tôi mong đợi. Marthe với cuốn truyện án mạng bí và Ysabeau với đống báo của bà. Cuộc trò chuyện có thể chính xác như trước, nhưng cũng chẳng sao. Phần khó khăn nhất buổi tối là ngồi nhìn Matthew nhảy cùng với mẹ . Biểu cảm buồn vui lẫn lộn nét mặt khi giúp bà xoay tròn mới mẻ, và dứt khoát giữ bà lại trong cái ôm mãnh liệt khi điệu nhảy của họ kết thúc. Khi mời tôi nhảy, tôi xiết chặt bàn tay hơn vẻ đồng cảm. “Cảm ơn em về điều này,” thầm vào tai tôi khi xoay tròn tôi. còn đặt nụ hôn vào cổ tôi – chuyện đó hẳn là xảy ra vào lần trước rồi. Matthew chấm dứt buổi tối y như làm lần trước, bằng cách thông báo rằng đưa tôi ngủ. Lần này chúng tôi chúc ngủ ngon và biết rằng đó là lời chào từ biệt. Chuyến trở về của chúng tôi cũng nhiều sóng gió, nhưng ít sợ hãi hơn vì quen với nó. Tôi hoảng loạn hay mất tập trung khi thời gian cản đường của chúng tôi, mà vẫn chú tâm vào quy trình làm bữa tối quen thuộc ở ngôi nhà Bishop. Chúng tôi về kịp và còn nhiều thời gian để làm món sa lát. Trong suốt bữa tối, dì Sarah và Em chiêu đãi các ma cà rồng chuyện về những cuộc phiêu lưu mạo hiểm trong những năm tháng trưởng thành của tôi. Khi các dì hết chuyện, Matthew chọc ghẹo Marcus về các thương vụ kinh doanh bất động sản thảm hại của cậu vào thế kỷ XIX, những cuộc đầu tư khổng lồ mà cậu thực trong lĩnh vực công nghệ mới ở thế kỷ XX chẳng bao giờ có kết quả và tính yếu đuối bất di bất dịch của cậu trước những người phụ nữ tóc đỏ. “Tôi biết tôi thích cậu mà.” Sarah vuốt ngọn tóc đỏ ngang bướng của dì và rót thêm whiskey cho Marcus. Bình minh ngày Halloween quang đãng và sáng sủa. Thường có tuyết vào dịp này, nhưng năm nay thời tiết có vẻ khá khẩm hơn. Matthew và Marcus dạo lâu hơn thường lệ, còn tôi nấn ná ở bữa trà và cà phê với Sarah và Em. Khi điện thoại reo, tất cả đều giật mình. Dì Sarah trả lời, và chúng tôi đoán rằng đó là cuộc gọi ngoài mong đợi căn cứ vào nửa đoạn đối thoại của dì. Dì gác máy và đến nhập hội với chúng tôi ở cái bàn trong phòng sinh hoạt gia đình. “Đó là Faye, ấy và Janet ở quán Những kẻ săn. Họ muốn biết liệu chúng ta có tham gia với họ trong chuyến du ngoạn mùa Thu . Họ lái xe tới Arizona, rồi quay lên Seatle.” “Nữ thần chắc bận rộn lắm đây,” Em cười . Trong nhiều ngày bọn họ cố gắng nghĩ xem làm thế nào thoát khỏi Madison mà gây nên đợt sóng gió những lời ngồi lê đôi mách. “Tôi nghĩ ra rồi. Chúng ta ra đường lớn, sau đó đến gặp Ysabeau.” Chúng tôi mang các túi thức ăn và các thứ nhu yếu ra chiếc xe cũ nổi trội của Sarah. Khi nó chất đầy đến nỗi bạn khó mà nhìn nổi ra ngoài gương chiếu hậu, họ bắt đầu đưa ra các chỉ thị. “Kẹo ở quầy bếp,” Em dặn dò. “Và bộ đồ hóa trang của treo ở cánh cửa phòng pha chế, Nó vừa đẹp với con đấy. À, đừng quên tất nhé. Bọn trẻ thích tất lắm.” “Con quên đâu,” tôi cam đoan với , “cả mũ nữa, dù nó hết sức lố bịch.” “Dĩ nhiên con phải đội mũ rồi!” dì Sarah phẫn nộ thốt lên. “Đó là truyền thống. Hãy nhớ tắt lửa trước khi rời khỏi. Tabitha phải được cho ăn vào đúng bốn giờ. Nếu , nó gào toáng lên đấy.” “Chúng con có thể lo chuyện này mà. Dì để lại danh sách rồi,” tôi , vỗ vào vai dì. “Con có thể gọi tới quán Những kẻ săn để cho chúng ta biết Miriam và Marcus rồi được ?” Em hỏi. “Đây. Cầm lấy cái này.” Matthew , đưa điện thoại của cho các di kèm theo nụ cười. “ hãy tự gọi cho Marcus. Ở chỗ chúng tôi đến chẳng nhận được sóng đâu.” “Cậu chắc chứ?” Em nghi ngờ hỏi lại. Tất cả chúng tôi đều biết điện thoại của Matthew như là cánh tay thêm ra của , và kỳ lạ khi thấy nó rời khỏi tay . “Hoàn toàn chắc chắn. Hầu hết dữ liệu được xóa rồi, nhưng tôi để lại vài số điện thoại liên lạc đó đấy. Nếu các dì cần gì – bất cứ thứ gì cũng được, hãy gọi ai đó. Nếu các dì cảm thấy lo lắng, hoặc có điều gì đó lạ lùng xảy ra, hãy liên lạc với Ysabeau hoặc Hamish. Họ sắp xếp để đón các dì, cho dù các dì ở đâu nữa.” “Họ có trực thăng đấy,” tôi thầm với Em, và luồn cánh tay mình qua cánh tay . Điện thoại của Marcus đổ chuông. “Nathaniel,” cậu ta , nhìn vào màn hình rồi bước ra xa để nhận cuộc gọi trong cử chỉ riêng tư, dáng vẻ giống hệt như cha cậu thường làm. Mỉm cười buồn bã, Matthew quan sát con trai mình. “Hai người ấy tự khiến mình vướng vào đủ loại rắc rối, nhưng ít nhất Marcus cảm thấy quá đơn.” “Họ ổn cả,” Marcus , quay lại với chúng tôi và ngắt máy. Cậu mỉm cười, đưa tay luồn qua mái tóc trong cử chỉ khác gợi nhớ đến Matthew. “Tôi nên báo cho Hamish biết, vậy nên tôi chào tạm biệt hai người ở đây rồi gọi cho ấy.” Em ôm chặt Marcus lúc lâu, nước mắt rưng rưng. “Gọi cho chúng tôi nữa nhé,” nồng nhiệt bảo. “Chúng tôi muốn biết cả hai người đều ổn.” “Cẩn thận nhé.” Mắt Sarah nhắm chặt khi dì kéo Marcus vào vòng tay mình. “Đừng có nghi ngờ bản thân mình.” Lời tạm biệt của Miriam với các dì tôi điềm tĩnh hơn, còn của tôi kém xa thế. “Chúng ta rất tự hào về con,” Em , ôm lấy khuôn mặt tôi, bây giờ nước mắt dàn giụa mặt . “Bố mẹ con cũng cảm thấy thế. Hãy chăm sóc cho nhau nhé.” “Chúng con làm,” tôi hứa với , nước mắt đua nhau rơi. Sarah nắm hai bàn tay tôi. “Hãy nghe lời thầy dạy của con – cho dù họ có là ai nữa. Đừng khi chưa nghe họ trước.” Tôi gật đầu. “Con có nhiều năng lực bẩm sinh hơn bất cứ phù thủy nào dì từng gặp – có lẽ còn hơn bất cứ phù thủy nào từng sống trong nhiều, nhiều năm,” Sarah tiếp. “Dì mừng là con lãng phí nó. Phép thuật là món quà, Diana ạ, cũng giống như tình vậy.” Dì quay sang Matthew. “Tôi tin cậy giao phó cho cậu thứ rất quý giá đấy. Đừng làm tôi thất vọng.” “Tôi làm dì thất vọng, Sarah,” Matthew hứa. Dì nhận những nụ hôn của chúng tôi, rồi chạy xuống các bậc thềm đến chỗ chiếc xe đợi. “Những cuộc chia ly khó khăn đối với Sarah,” Em giải thích. “Chúng ta chuyện vào ngày mai nhá, Marcus.” Em trèo vào trong ghế trước, vẫy tay qua vai. Chiếc xe xào xạo lăn bánh, xóc nẩy lên đường xe chạy rồi hướng về phía thị trấn. Khi chúng tôi trở vào nhà, Miriam và Marcus đợi ở tiền sảnh, túi xách đặt dưới chân. “Chúng tôi nghĩ hai người nên có chút thời gian ở riêng.” Miriam , đưa cái túi vải buộc dây của cho Marcus, “và tôi ghét phải tạm biệt lâu.” ta nhìn xung quanh. “Chà,” giọng mạnh mẽ, hướng xuống các bậc thềm, “hẹn gặp lại khi hai người quay lại.” Sau khi lắc đầu trước dáng vẻ rút lui của Miriam, Matthew vào phòng ăn và trở lại với cái phong bì. “Cầm lấy nó,” với Marcus, giọng lạnh lùng. “Con bao giờ muốn là đại thống chế,” Marcus . “Con nghĩ ta muốn sao? Đây là nguyện vọng của cha ta. Philippe bắt ta hứa dòng tu rơi vào tay Baldwin. Ta cầu con cùng làm việc đó thôi.” “Con hứa.” Marcus nhận cái phong bì. “Con ước gì cha phải .” “Xin lỗi, Marcus.” Tôi nuốt thứ gì đó nghèn nghẹn trong cổ họng và đặt những ngón tay ấm áp lên da thịt lạnh giá của cậu. “Vì cái gì?” Nụ cười của cậu rạng rỡ và chân . “Vì làm cha con hạnh phúc ư?” “Vì đặt cậu vào chức vụ này và để lại đằng sau đống lộn xộn như thế.” “Con sợ chiến tranh, nếu đó là điều mẹ ám chỉ. thức dậy trở lại của Matthew mới làm con lo lắng.” Marcus bẻ dấu niêm phong. Với tiếng gãy rắc tưởng như bình thường của miếng xi đó, cậu trở thành đại thống chế của các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus. “Je suis à votre commande, seigneur,” Matthew thầm , cúi đầu. Baldwin cũng những lời như thế ở La Guardia. Chúng nghe khác khi được thốt lên cách chân thành. “Vậy con ra lệnh người phải trở về và nhận lại các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus,” Marcus mạnh mẽ , “trước khi con gây ra mớ lộn xộn. Con phải người Pháp, và tất nhiên con phải là hiệp sĩ.” “Con còn có nhiều hơn dòng máu Pháp trong người đấy, con là người duy nhất ta tin cậy giao phó công việc này. Hơn nữa, con có thể dựa vào vẻ quyến rũ nổi tiếng của người Mỹ. Và biết đâu, cuối cùng con lại thích làm đại thống chế!” Marcus khịt mũi và bấm vào số tám điện thoại của mình. “ xong,” cậu nhanh gọn với người ở đầu dây bên kia. Vài lời trao đổi ngắn. “Cảm ơn.” “Nathanile nhận vị trí của mình,” Matthew thầm, hai khóe miệng giần giật. “Tiếng Pháp của ta hay đến kinh ngạc.” Marcus cau có nhìn cha, ra xa để thêm vài lời với chàng tinh rồi quay trở lại. cái nhìn lâu giữa cha và con trai, bàn tay áp vào lưng chặt – buổi tiễn biệt mẫu mực như hàng trăm buổi tiễn biệt khác. Dành cho tôi là nụ hôn dịu dàng, lời thầm “May mắn nhé,” và rồi Marcus cũng mất. Tôi với sang nắm lấy bàn tay Matthew. Chúng tôi còn lại mình.
Chương 42 “Giờ chỉ còn chúng mình và các hồn ma.” Dạ dày tôi sôi réo ầm ĩ. “Món ưa thích của em là gì?” hỏi. “Pizza,” tôi đáp ngay. “Em nên ăn nó khi còn có thể. Đặt , chúng mình lấy.” Từ lúc đến đây, chúng tôi ra các khu lân cận quanh ngôi nhà Bishop, và có cảm giác lạ lùng khi lái xe vòng quanh vùng Madison tuyệt vời trong chiếc Range Rover cạnh ma cà rồng như thế này. Chúng tôi quay về đường tới Hamilton, ngang qua vùng đồi phía nam vào thị trấn trước khi lộn lại lên phía bắc để lấy bánh pizza. Suốt chuyến du ngoạn bằng xe, tôi nhận ra chỗ mình hay bơi hồi và nơi người bạn trai đầu tiên sống. Thị trấn ngập tràn những đồ trang trí Halloween – mèo đen, phù thủy cưỡi chổi, thậm chí cả những cái cây được trang trí bằng những quả trứng màu da cam và màu đen. Ở phần bên này của thế giới, chỉ có phù thủy mới tổ chức lễ hội nhân dịp này cách nghiêm túc. Chúng tôi tới chỗ bán pizza, Matthew trèo ra khỏi xe với tôi, có vẻ thèm bận tâm rằng phù thủy hoặc con người có thể thấy chúng tôi. Tôi kiễng lên hôn , và đáp lại bằng tiếng cười vô tư lự. sinh viên cao đẳng cắt bánh cho chúng tôi ngước lên nhìn Matthew với vẻ ngưỡng mộ giấu giếm khi đưa miếng bánh. “ may ấy phải là phù thủy,” khi chúng tôi trở lại trong xe. “ ấy biến em thành con kỳ nhông và cuốn cán chổi mất.” Được no bụng bằng bánh pizza – xúc xích bò heo rắc thêm tiêu và nấm – tôi giải quyết đống bừa bộn còn lại trong bếp và phòng sinh hoạt gia đình. Matthew mang ra ôm giấy tờ từ phòng ăn và đốt chúng trong lò sưởi nhà bếp. “Chúng mình làm gì với những cái này đây?” hỏi, giơ lên lá thư của mẹ tôi, ba dòng thơ bí và trang sách từ cuốn Ashmode 182. “Để chúng lại trong phòng khách ,” tôi bảo , “ngôi nhà coi giữ chúng.” Tôi tiếp tục tất bật giặt là và dọn lại phòng làm việc của Sarah. Mãi cho tới khi lên nhà để cất quần áo của chúng tôi tôi mới nhận thấy cả hai chiếc máy tính mất tích. Tôi bổ nhào xuống lầu hốt hoảng. “Matthew, máy tính biến mất rồi!” “Hamish giữ chúng rồi,” , giữ tôi trong vòng tay và nhàng vuốt tóc tôi ra sau đầu. “Ổn cả mà. có ai trong nhà đâu em.” Vai tôi giãn ra, nhưng tim vẫn nện thình thịch trước ý nghĩ có Domenico hoặc Juliette khác thình lình xuất . pha trà, rồi xoa bóp hai bàn chân tôi trong khi tôi uống. Trong lúc đó chuyện về những thứ tầm phào – những ngôi nhà ở Hamilton gợi nhớ đến địa điểm và thời điểm nào đó khác, lần đầu tiên đánh hơi thấy mùi khoai tây, và nghĩ gì khi nhìn thấy tôi chèo thuyền ở Oxford… cho tới khi tôi hoàn toàn thư giãn trong hơi ấm. Matthew luôn rất khác khi có ai đó ở xung quanh, nhưng bây giờ tương phản càng đặc biệt rệt hơn khi gia đình của chúng tôi rời hết. Từ khi đến ngôi nhà này dần dần phải chịu trách nhiệm với tám sinh mạng khác. trông coi tất cả bọn họ, kể đến họ là ai hay họ có quan hệ với như thế nào, với cùng vẻ dữ dội và hung tợn. Giờ chỉ còn sinh vật duy nhất phải chăm lo. “Chúng mình có nhiều thời gian để trò chuyện,” tôi trầm ngâm, nghĩ đến cơn lốc xoáy những ngày qua kể từ khi chúng tôi gặp nhau. “ chỉ có hai chúng mình.” “Những tuần qua gần như là các kiếp nạn trong Kinh Thánh vậy. nghĩ thứ chúng ta duy nhất thoát được là nạn dịch châu chấu.” ngừng lời. “Nhưng nếu vũ trụ này muốn thử thách chúng ta theo cách cũ đó, đây được tính là thử thách cuối cùng rồi. Tối nay là vừa tròn bốn mươi ngày đấy.” Quá ít thời gian, nhưng có quá nhiều chuyện xảy ra. Tôi đặt cái cốc rỗng lên bàn và với lấy tay . “Chúng ta đâu, Matthew?” “Em có thể đợi thêm chút nữa , mon coeur?” nhìn ra cửa sổ. “ muốn ngày hôm nay kết thúc . Và trời tối nhanh thôi.” “ thích chơi trò gia đình với em, đúng ?” món tóc xòa xuống trước trán , nhưng tôi gạt nó ra sau. “ rất thích chơi trò gia đình với em,” , tóm lấy tay tôi. Chúng tôi trò chuyện bên nhau khoảng nửa giờ nữa Matthew lại liếc ra ngoài trời. “ lên gác và tắm . Hãy dùng hết giọt nước cuối cùng trong bể chứa và tắm vòi sen nóng, lâu vào. Em có thể thi thoảng thèm pizza trong những ngày sắp tới, nhưng điều đó chẳng là gì so với việc thèm tắm nước nóng đâu. Trong vài tuần nữa, em muốn giết người để được tắm vòi sen đấy.” Matthew mang đồ hóa trang Halloween của tôi lên trong khi tôi tắm: chiếc quần lửng bó màu đen, đôi bốt gót nhọn cao cổ và cái mũ chóp nhọn. “ có thể hỏi những cái này là gì ?” vung vẩy đôi tất có sọc ngang đỏ trắng. “Đó là đôi tất mà Em nhắc đấy.” Tôi rên rỉ. “ ấy biết nếu em mang chúng.” “Nếu còn điện thoại, chụp hình em trong những thứ gớm guốc này và tống tiền em vĩnh viễn.” “Có thứ gì có thể khiến im lặng ?” Tôi chìm người sâu hơn vào bồn tắm. “Chắc chắn là có đấy,” Matthew , ném đôi tất ra sau lưng. Đầu tiên chúng chỉ đùa. Trong bữa tối hôm qua và lần nữa trong bữa sáng nay, chúng tôi tránh đả động đến truyện đây có lẽ là cơ hội cuối cùng được ở bên nhau. Tôi vẫn còn là người thiếu kinh nghiệm, mà Em bảo với tôi thậm chí những người vượt thời gian giàu kinh nghiệm nhất cũng chưa chắc dự đoán trước được khi di chuyển giữa quá khứ và tương lai, và họ nhận ra lạc trong lưới thời gian là chuyện dễ dàng đến thế nào. Matthew cảm thấy tâm trạng thay đổi của tôi và đáp lại, ban đầu hết sức dịu dáng sau đó càng chiếm hữu mãnh liệt hơn đòi hỏi tôi thể nghĩ đến điều gì khác ngoài . Bất chấp nhu cầu hiển nhiên muốn được an ủi và yên lòng lần nữa, chúng vẫn chưa trải qua đêm tân hôn. “Khi nào chúng mình an toàn,” thầm, hôn dọc theo xương đòn của tôi. “Khi nào có nhiều thời gian hơn.” Ở chỗ nào đó, vết chủng đậu sưng tấy của tôi bị vỡ mủ, Matthew kiểm tra và tuyên bố nó lành – miêu tả kỳ lạ đối với cái vết thương hở toác to như đồng xu. tháo băng ở cổ tôi, để lộ ra những đường khâu trần trụi của Miriam và cả ở cánh tay tôi nữa. “Em là người chóng lành đấy,” hài lòng và hôn vào mặt trong khuỷu tay chỗ uống máu từ mạch máu tôi. Da tôi nóng ran lên khi môi chạm vào. “ kỳ lạ. Da em ở chỗ đó lạnh lắm.” Tôi chạm vào cổ mình. “Cả ở đây nữa.” Matthew lướt ngón tay của qua chỗ động mạch cảnh ở cổ tôi. Tôi rùng mình trước đụng chạm ấy. Số lượng đầu dây thần kinh ở chỗ ấy có vẻ như tăng lên đến ba lần. “Quá mức nhạy cảm,” Matthew , “như là em có phần ma cà rồng vậy.” cúi xuống và áp môi lên động mạch của tôi. “Ôi,” tôi thở gấp, giật lùi lại trước cảm giác mãnh liệt ấy. Canh giờ, tôi tự cài khuy chiếc váy đen. Với cái đuôi sam sau lưng, tôi như bước ra từ tấm ảnh thế kỉ XIX. “Tiếc là chúng mình quay lại thế chiến thứ nhất,” Matthew , đưa tay kéo hai ống tay áo của chiếc váy. “Nếu em làm bà giáo khó tính vào khoảng năm 1912 cũng phải thích đấy.” “ phải với những cái này.” Tôi ngồi lên giường và bắt đầu kéo đôi tất kẻ sọc như cái kẹo lên. Matthew cười rú lên và năn nỉ tôi đội cái mũ vào ngay lập tức. “Em tự thiêu mình mất,” tôi phản đối. “Hãy để cho tới lúc đèn lồng bí ngô được thắp sáng .” Chúng tôi ra ngoài mang theo diêm để thắp sáng những quả bí ngô theo cách của loài người. Nhưng cơn gió thoảng qua đá văng ý tưởng đó, nó làm cho chúng tôi rất khó quẹt diêm và càng thể giữ cho những ngọn nến sáng được lâu. “Chết tiệt,” tôi nguyền rủa. “Thành quả của Sophie nên bị lãng phí.” “Em có thể dùng câu thần chú ?” Matthew hỏi, chuẩn bị đánh que diêm khác. “Nếu em chẳng được tích gì, thậm chí là giả vờ làm phù thủy trong dịp lễ Halloween.” Ý nghĩ phải giải thích cho Sophie về thất bại của mình khiến tôi tập trung vào mục tiêu trước mặt, thế là ngọn bấc bừng sáng lên. Tôi thắp thêm 11 trái bí ngô nữa được đặt rải rác dưới đường xe , mỗi trái lại ngạc nhiên hơn hoặc kinh hãi hơn lần trước. Đúng sáu giờ có tiếng đập cửa dữ dội và tiếng thét ầm ĩ “Trick or treat!” Matthew chưa bao giờ trải qua lễ Halloween ở Mỹ, hào hứng chào đón những vị khách đầu tiên của chúng tôi. Bất cứ ai ở bên ngoài cũng nhận được nụ cười làm đứng tim của , trước khi cười toe toét và vẫy tay ra hiệu về phía tôi. phù thủy bé xíu và chàng ma cà rồng hơi lớn hơn chút chìa tay ra bậc cửa. “Trick or treat,” chúng ngâm nga , giơ những chiếc áo gối ra. “Cháu là ma cà rồng,” cậu bé , “em ấy là phù thủy đấy.” “Chú thấy rồi,” Matthew nghiêm trang , nhìn chiếc áo choàng và bộ mặt hóa trang trắng toát. “Chú cũng là ma cà rồng đây.” Cậu bé săm soi vẻ chê bai. “Mẹ chú nên chăm chỉ hơn để làm đồ hóa trang cho chú. Chú trông chẳng giống ma cà rồng gì cả. Áo choàng của chú đâu rồi?” Chàng ma cà rồng bé soải hai cánh tay ra, chiếc áo choàng sa tanh dang ra như đôi cánh của con dơi. “Thấy chưa, chú cần có áo choàng để bay. Nếu chú thể biến thành dơi được đâu.” “À, đó là vấn đề nhỉ. Áo choàng của chú ở nhà, và bây giờ chú thể bay về nhà để lấy nó được. Có lẽ khi cần chú mượn của cháu.” Matthew thả nắm kẹo vào mỗi áo gối, cặp mắt của hai đứa bé mở lớn tròn xoe trước rộng rãi của . Tôi ngó ra cửa để vẫy bố mẹ chúng. “ ấy cũng giống phù thủy đấy,” bé líu lo , gật đầu tán thưởng trước đôi tất sọc đỏ trắng và đôi bốt đen của tôi. Trước hối thúc của bố mẹ, chúng hét lên những tiếng cảm ơn khi lóc cóc chạy xuống lối và trèo vào chiếc ô tô đợi. Suốt ba giờ tiếp theo, chúng tôi đón chào cả tập đoàn các công chúa tiên, cướp biển, ma, bộ xương người, tiên cá, người ngoài hành tinh và cùng nhiều phù thủy và ma cà rồng khác nữa. Tôi nhàng bảo Matthew là hãy phát cho mỗi tinh thanh kẹo thôi, và nếu thôi phân phát từng vốc bánh kẹo ngay bây giờ chúng tôi hết sạch kẹo trước khi trò trick-or-treat kết thúc lúc chín giờ mất. Tuy thế, cứ theo cái vẻ vui thích rành rành của khó mà phê bình được. Phản ứng của với bọn trẻ tiết lộ khía cạnh hoàn toàn mới về . Cúi thấp xuống để ít có vẻ đáng sợ hơn, hỏi bọn trẻ về những bộ đồ hóa trang của chúng và bảo với mỗi cậu trai trẻ muốn làm ma cà rồng rằng cậu ta là sinh vật đáng sợ nhất mà từng trông thấy. Nhưng cuộc chạm trán của với nàng thiên thần mang đôi cánh ngoại cỡ và mặc chiếc sa mỏng là làm tôi thót tim nhất. Quá choáng ngợp và kiệt sức vì cuộc chơi, bé òa khóc khi Matthew hỏi bé thích thanh kẹo nào. trai bé, chàng cướp biển trẻ có miếng da bịt mắt khoảng sáu tuổi, hốt hoảng thả tay bé ra. “Chúng ta hỏi mẹ cháu nhé.” Matthew bế bổng nàng tiên cánh tay mình và tóm vào dải khăn rằn ri của chàng cướp biển. trao cả hai đứa trẻ an toàn vào vòng tay đợi sẵn của bố mẹ chúng. Thế nhưng khi tới chỗ họ, nàng tiên quên cả khóc. Thay vào đó, tay bé bám dính lấy cổ áo len của Matthew và tay kia cầm cây đũa phép vỗ vào đầu , lặp lặp lại, “Úm ba la, Úm ba la, bùm!” “Khi bé lớn lên, và nghĩ đến Bạch Mã Hoàng Tử, chàng ta trông giống đấy,” tôi bảo khi quay lại nhà. cơn mưa kim tuyến rớt xuống khi cúi đầu để hôn tôi. “ được phủ toàn phấn tiên kìa,” tôi cười vang và phủi đám kim tuyến còn lại khỏi tóc . Khoảng tám giờ, khi cơn lũ những nàng tiên và cướp biển chuyển thành các thiếu niên theo phong cách Gothic đánh son môi màu đen và mặc quần áo may bằng da chăng đầy những sợi xích, Matthew đưa cho tôi giỏ bánh kẹo và rút lui vào phòng khách. “Nhát gan,” tôi trêu, sửa cái mũ thẳng thớm trước khi mở cửa cho đám trẻ bụi bặm khác. Chỉ còn ba phút nữa là có thể an toàn tắt đèn hiên mà làm hỏng danh tiếng lễ Halloween của nhà Bishop, chúng tôi nghe thấy tiếng gõ cửa lớn khác và tiếng gào lên “Trick or treat!” “Có thể là ai đây?” tôi rên rỉ, hất cái mũ ra sau đầu. Hai pháp sư trẻ đứng ở bậc thềm trước. là cậu bé giao báo, cậu ta cùng với cậu bạn cao lêu đêu có làn da xấu xí và cái mũi nhọn mà tôi ngờ ngợ nhận ra là người thuộc gia tộc O’Neil. Những bộ đồ hóa trang của chúng như nó vốn thế, bao gồm quần jean rách te tua, áo phông cài đầy kim băng, máu giả, răng nhựa và cái xích chó dài. “ phải thế này hơi kỳ quặc sao, Sammy?” “Bây giờ tớ là Tham rồi.” Sammy vỡ giọng, than trầm bổng ngờ, và bộ răng giả làm cho tiếng cậu ta nghe khào khào. “Chào Sam.” Còn khoảng nửa tá kẹo dưới đáy giỏ. “Cháu cứ tự nhiên với phần còn lại này. Bọn định tắt đèn rồi. Đáng lẽ cháu phải ở quán Những kẻ săn chơi trò đập táo chứ?” “Chúng cháu nghe đèn bí ngô của nhà năm nay thực ấn tượng.” Sammy nhấp nhổm đổi hết chân này sang chân kia. “Và, ừm, à…” cậu ta đỏ mặt và tháo hàm răng nhựa ra. “Rod thề rằng cậu ta trông thấy ma cà rồng ở đây ngày hôm kia. Cháu cá với cậu ấy 20 đô là nhà Bishop bao giờ để con ma cà rồng vào nhà cả.” “Điều gì khiến các cháu chắc là nhận ra con ma cà rồng nếu trông thấy hả?” Chàng ma cà rồng được bàn đến bước ra khỏi phòng khách và đứng sau lưng tôi. “Các quý ông,” khẽ. Hai cậu thiếu niên nhìn như rớt cả quai hàm. “Chúng cháu phải là con người hay thực ngu ngốc mới nhận ra ông ta,” Rod , kinh hãi. “Ông ta là ma cà rồng to lớn nhất mà cháu từng thấy.” “Tuyệt quá!” Sammy ngoác miệng cười đến mang tai. Cậu ta đập tay với cậu bạn và vơ lấy kẹo. “Đừng quên trả tiền thua cược nhé, Sam,” tôi nghiêm nghị . “Và Samuel này,” Matthew , giọng Pháp của rệt hơn bình thường, “tôi có thể đề nghị cậu – như đặc ân đối với tôi - là đừng kể cho bất cứ ai khác biết chuyện này được ?” “ bao giờ ư?” Sammy ngần ngại trước ý nghĩ phải giữ cho riêng mình thông tin lý thú đến thế. Miệng Matthew giần giật. “Ồ . Tôi hiểu ý cậu. Cậu có thể giữ im lặng cho tới mai được ?” “Chắc chắn rồi ạ!” Sammy gật đầu, nhìn sang Rod để xác nhận. “Chỉ còn ba tiếng nữa thôi mà. Chúng cháu có thể làm được. vấn đề gì.” Rồi chúng nhảy lên xe đạp và quay đầu. “Đường tối lắm,” Matthew cau mày lo lắng. “Chúng ta nên lái xe đưa chúng .” “Chúng ổn cả thôi. Chúng phải là ma cà rồng nhưng dứt khoát có thể tìm đường về thị trấn được mà.” Hai chiếc xe đạp phanh kít lại làm sỏi bắn tung tóe. “ có muốn chúng cháu tắt hộ mấy cái lồng đèn bí ngô ?” Giọng Sammy hét lên từ đường lối xe chạy. “Nếu cháu muốn làm,” tôi . “Cám ơn.” Rod O’Neil vẫy tay về phía bên trái còn Sammy vẫy về bên phải, thổi tắt tất cả các đèn lồng với vẻ tự nhiên đáng ghen tị. Hai cậu bé đạp xe , những chiếc xe nẩy lên các vết lún ở đường, cuộc hành trình của chúng dễ dàng hơn nhờ ánh trăng sáng và giác quan thứ sáu của phù thủy thiếu niên chớm nở. Tôi sập cửa và tự người vào đó, rên rỉ. “Hai bàn chân giết em đây.” Tôi tháo dây đôi bốt và tháo văng chúng , rồi ném cái mũ lên các bậc thang. “Trang sách của cuốn Ashmode 182 biến mất rồi.” Matthew lặng lẽ loan báo, tựa người vào cầu thang. “Còn lá thư của mẹ em?” “Cũng biến mất.” “Vậy là đến lúc rồi.” Tôi kéo người ra khỏi cánh cửa cũ kỹ, và ngôi nhà khẽ rên rỉ. “Pha cho mình ít trà rồi gặp ở phòng sinh hoạt gia đình nhé. lấy túi xách.” đợi tôi chiếc ghế dài, chiếc cặp da để gần chân còn quân cờ vua bằng bạc cùng chiếc bông tai vàng nằm bàn cà phê. Tôi đưa ly rượu vang và ngồi xuống bên cạnh. “Đó là ly rượu cuối cùng đấy.” Matthew nhìn tách trà của tôi. “Và đó cũng là tách trà cuối cùng cho em đấy.” luồn hai bàn tay qua tóc vẻ lo lắng và hít vào hơi sâu. “ thích đến thời điểm nào đó gần hơn, khi có ít chết chóc và dịch bệnh hơn,” bắt đầu, giọng ngập ngừng, “và nơi nào đó gần hơn, có trà và hệ thống cấp nước. Nhưng nghĩ em thích nó khi quen với nó rồi.” Tôi còn chưa biết “nó” là khi nào và ở đâu. Matthew cúi xuống để mở khóa. Khi mở chiếc cặp ra và nhìn vào thứ nằm cùng, buông tiếng thở dài nhõm. “Ơn Chúa. sợ Ysabeau có thể gửi nhầm.” “ vẫn chưa mở cặp ra à?” tôi ngạc nhiên trước tự chủ của . “Chưa.” Matthew nhấc ra cuốn sách. “ muốn nghĩ về nó quá nhiều. Chỉ đề phòng thôi.” đưa tôi cuốn sách. Nó có bìa da đen với đường bao màu bạc giản dị. “Nó đẹp quá,” tôi , lướt ngón tay mình lên bề mặt. “Em mở ra .” Matthew có vẻ bồn chồn. “Em biết được nơi chúng mình đến nếu làm thế à?” Giờ món đồ thứ ba ở trong tay tôi lại cảm thấy miễn cưỡng cách lạ lùng. “ nghĩ vậy.” Bìa trước cọt kẹt mở ra, mùi giấy và mực cũ lẫn vào đâu được dâng lên trong khí. có trang trắng in hoa văn, có trang đề tên chủ nhân cuốn sách, có những trang trắng thêm như các nhà sưu tầm thế kỷ XVIII, XIX thường cho vào sách của họ. Và bìa cuốn sách khá nặng, cho thấy những tấm gỗ được giấu bên dưới lớp da mềm mịn. Hai dòng chữ được viết bằng mực đậm trang đầu tiên, kiểu chữ sin sít, cứng nhắc cuối thế kỷ XVI. “Tặng Matt dấu của tôi,” tôi đọc lớn. “Ai từng mà từ cái nhìn đầu tiên chứ?” Lời đề tặng có chữ ký nhưng nó rất quen. “Shakepeare ư?” tôi ngước mắt nhìn Matthew. “ phải nguyên gốc[43],” đáp, vẻ mặt căng thẳng. “ có vẻ gì đó ba hoa khi thu thập những lời của người khác đúng ?” [43. Thực chất đây là câu thơ trong bài thơ cùng tên của Christopher Marlowe – nhà thơ, dịch giả người , đồng thời là trong những nhà viết kịch lớn nhất thời đại Elizabeth và là người tiền nhiệm xuất sắc của William Shakepeare.] Tôi từ từ lật sang trang. Đây phải cuốn sách in mà là bản thảo, được viết cùng kiểu chữ như lời đề tặng. Tôi nhìn gần hơn để trông cho . Hoàn thành công việc nghiên cứu của ngươi Faustus, và bắt đầu Lắng nghe tận trong sâu thẳm đức tin héo tàn của ngươi. “Chúa ơi,” tôi thốt lên giọng khản đặc, đóng sập cuốn sách lại. Hai bàn tay tôi run rẩy. “ ta cười như kẻ ngốc khi nghe đến phản ứng của em đấy,” Matthew bình phẩm. “Đây có phải là cái em nghĩ đến ?” “Có lẽ.” “Làm sao có được nó?” “Kit[44] tặng nó cho .” Matthew khẽ chạm vào bìa cuốn sách. “Faustus luôn là niềm thích của .” [44. Tên gọi thân mật của Christopher Marlowe] Christopher Marlowe viết vở kịch này kể về Faustus – kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy tri thức và sức mạnh phép thuật. Tôi mở cuốn sách và lướt các ngón tay lời đề tặng trong khi Matthew tiếp tục. “Kit và là bạn – những người bạn tốt – trong thời đại nguy hiểm khi có rất ít sinh vật có thể tin cậy được. Bọn khơi ra đủ trò quái quỷ. Khi Sophie lấy quân cờ mà thua về tay ta từ trong túi ra, dường như ràng nước cổ xưa chính là đích đến của chúng mình.” Thế nhưng, cảm giác các đầu ngón tay tôi dò ra được lời đề tặng phải là tình bạn bè. Đây là dâng hiến của người tình. “Có phải cũng ông ấy ?” tôi khẽ hỏi. “,” Matthew đáp gọn. “ mến Kit, nhưng phải kiểu như em ám chỉ, cũng phải như cách ta mong muốn. Bọn bao giờ tiến quá mức bạn bè.” “ ta có biết là ai ?” Tôi ôm cuốn sách vào ngực như báu vật vô giá. “Có. Bọn thể có những bí mật. Hơn nữa, ta là tinh và là kẻ nhạy cảm khác thường với điều đó. Em nhanh chóng phát ra việc cố giấu giếm Kit bất cứ điều gì là hoàn toàn vô ích.” “Vậy chúng ta đến nước ,” tôi từ từ . “Chính xác là khi nào?” “Năm 1590.” “Ở đâu?” “Hàng năm, nhóm bọn lại gặp gỡ ở Chòi Gác Cổ nhân kỳ lễ Các Thánh và Các Đẳng. Ít người còn dám tổ chức chúng, nhưng Kit lại cảm thấy táo bạo và mạo hiểm để tưởng niệm chúng theo cách nào đó. ta đọc cho bọn nghe bản thảo cuối cùng của cuốn Faustus – ta luôn bực mình với nó, chẳng bao giờ thấy thỏa mãn cả. Bọn uống rất nhiều, chơi cờ vua và thức thâu đêm.” Matthew kéo tập bản thảo ra khỏi vòng tay tôi. đặt nó lên bàn và cầm lấy hai tay tôi. “Chuyện này ổn thỏa cả với em chứ, mon coeur? Chúng mình nhất thiết phải đâu. Chúng mình có thể nghĩ ra thời điểm nào đấy khác.” Nhưng quá muộn rồi. Sử gia trong tôi bắt đầu nắm bắt những cơ hội về cuộc sống ở nước thời Elizabeth. “Có những nhà giả kim ở vào năm 1590.” “Ừ,” đáp vẻ cảnh giác. “Nhưng có ai trong bọn họ thích thú khi có người quẩn quanh, vì chất độc thủy ngân và thói quen công việc lạ lùng của họ. Quan trọng hơn, Diana ạ, là có những phù thủy – những phù thủy quyền năng có thể hướng dẫn cho phép thuật của em.” “ đưa em đến các rạp hát chứ?” “ có thể giữ em tránh xa chúng sao?” Đôi lông mày nhướng lên. “Có lẽ là .” Trí tưởng tượng của tôi hình dung ra viễn cảnh rộng mở ấy. “Chúng mình có thể dạo xuyện qua Sàn giao dịch Hoàng gia ? Sau khi họ thắp đèn ấy?” “Có.” kéo tôi vào vòng tay mình. “Và đến St. Paul để nghe thuyết giảng, rồi tới Tyburn để xem hành quyết. Chúng mình thậm chí tán gẫu với viên thư ký của Nhà thương điên nữa.” Cơ thể rung lên vì tiếng cười bị kìm nén. “Chúa lòng lành, Diana. sắp đưa em tới thời đại đầy bệnh dịch truyền nhiễm, ít tiện nghi, có trà và nha sĩ rất tệ, vậy mà tất cả những gì em nghĩ đến chỉ là sàn giao dịch Gresham trông ra sao vào buổi tối.” Tôi lùi lại nhìn với vẻ phấn khích. “Em được gặp Nữ hoàng chứ?” “Tuyệt đối .” Matthew ép sát tôi vào người với thoáng rùng mình. “Chỉ nghĩ đến cái điều em có thể với Elizabeth Tudor – và điều và ta với em – là khiến tim chao đảo rồi.” “Nhát gan,” tôi câu này lần thứ hai trong buổi tối nay. “Em vậy nếu biết bà ta hơn. Bà ta ăn các cận thần vào bữa sáng.” Matthew ngừng ngang. “Bên cạnh đó, còn vài việc khác chúng ta có thể làm vào năm 1590 đấy.” “Là gì thế?” “Ở nơi nào đó vào năm 1590, có cuốn cổ thư mà đến ngày thuộc về Elias Ashmode. Chúng ta có thể tìm kiếm nó.” “Cuốn cổ thư đó chắc chưa bị xé trang nào, và phép thuật của nó chắc cũng chưa bị phá vỡ.” Tôi gỡ mình ra khỏi vòng tay và ngồi lại lên ghế đệm, nhìn chằm chằm vẻ băn khoăn vào ba món đồ chiếc bàn cà phê. “Chúng mình phải trở về đúng thời điểm.” “Chúng ta làm được. Sarah với rằng chúng mình được mang theo bất cứ món đồ nào trở về quá khứ. Marthe làm cho em chiếc vày dài và cho chiếc sơ mi.” Matthew lại với chiếc cặp da lần nữa và lôi ra hai bộ đồ bằng vải lanh thô với ống tay dài và diềm cổ diêm dúa. “Bà ấy phải khâu vội bằng tay ấy. Chúng hấp dẫn lắm, nhưng ít nhất chúng khiến bất cứ người nào gặp chúng ta đầu tiên bị sốc.” giũ chúng ra và chiếc túi bằng nhung đen rơi xuống từ các nếp vải lanh. Matthew cau mày. “Cái gì đây?” rồi nhặt nó lên. mẩu giấy nhắn được ghim bên ngoài. mở nó ra. “Từ Ysabeau. ‘Đây là món quà kỷ niệm của cha con. Ta nghĩ có lẽ con thích tặng nó cho Diana. Nó trông hơi lỗi mốt nhưng hợp với bàn tay của ấy.’” Trong túi là chiếc nhẫn được làm từ ba dải vàng riêng rẽ xoắn vào nhau. Hai dải bên ngoài được tạo hình thành hai ống tay áo lộng lẫy, công phu, nạm những viên đá quý giống như đồ thêu ren trang trí. bàn tay bằng vàng khum khum cong lên từ mỗi ống áo, được mô phỏng hoàn hảo đến từng khớp xương xíu, từng sợi gân mảnh mai và từng cái móng tay xinh. Giữ hai bàn tay, dải vàng bên trong, là viên đá trông như thủy tinh. Nó trong veo và tỳ vết, đặt trong cái mặt vát bằng vàng với nền sơn đen nổi bật. Nó là viên kim cương hoàn hảo. “Cái này thuộc về viện bảo tàng chứ phải ngón tay em.” Tôi bị thôi miên bởi đôi bàn tay như đó và cố gắng nghĩ đến trọng lượng của viên đá mà chúng nắm giữ. “Mẹ từng đeo nó suốt,” Matthew rồi cầm nó lên. “Bà gọi nó là chiếc nhẫn tốc ký vì bà có thể viết lên kính bằng đầu nhọn của viên kim cương.” Ánh mắt sắc sảo của ngắm nghía kỹ lưỡng chiếc nhẫn vẫn chưa phải là của tôi. Bằng cú vặn ở hai bàn tay bằng vàng, ba dải nhẫn xòe ra trong lòng bàn tay . Mỗi dải đều được chạm khắc – những chữ viết uốn vòng quanh bề mặt phẳng nhẵn của chúng. Chúng tôi nhìn chăm chú vào từng dòng chữ xíu. “Chúng là thơ – những vần thơ được viết ra từ niềm đam mê. Câu này viết a ma vie de coer entier,” Matthew đọc, đầu ngón tay trỏ của chạm vào bề mặt vàng lấp lánh. “Đó là tiếng Pháp cổ, nghĩa là ‘cuộc đời ta cũng như toàn bộ trái tim ta.’ Và đây nữa, mon debut et ma fin, với chữ cái alpha và chữ omega.” Tiếng Pháp của tôi đủ để dịch câu đó – “khởi đầu của ta và kết thúc của ta.” “Còn dải phía trong có chữ gì thế?” “Nó khắc ở cả hai mặt.” Matthew đọc các dòng chữ, xoay ngược chiếc nhẫn. “Se souvenir du passe, et qu’il ya un avenir. Hãy ghi nhớ quá khứ, ở đó có tương lai. “Những vần thơ này hoàn toàn thích hợp với chúng mình.” kỳ lạ là Philippe dành tặng Ysabeau từ rất lâu trước đây để hôm nay chúng có ý nghĩa đối với cả Matthew và tôi. “Ma cà rồng cũng có thể xuyên thời gian theo cách nào đó.” Matthew khớp chiếc nhẫn vào với nhau. cầm bàn tay trái của tôi lên và quay , sợ phản ứng của tôi. “Em đeo nó chứ?” Tôi đỡ lấy cằm các ngón tay mình, xoay đầu về phía tôi rồi gật đầu, thể lên lời. Nét mặt Matthew chuyển sang ngượng ngùng, ánh mắt hạ cánh xuống bàn tay tôi, lúc ấy vẫn được giữ trong tay . luồn chiếc nhẫn vào ngón cái của tôi và nó nằm lại ngay phía khớp ngón tay. “Cùng với chiếc nhẫn này cưới em, và cùng với tấm thân mình thể kính trọng với em.” Giọng Matthew trầm lặng, hơi run chút. khoan thai di chuyển chiếc nhẫn sang ngón trỏ của tôi, trượt nó xuống tận khớp nối ở giữa. “Và với tất cả tài sản của mình thế gian này xin trao cho em.” Chiếc nhẫn nhảy cách qua ngón giữa của tôi và trượt về đích ngón áp út. “Nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần.” nâng tay tôi lên miệng mình và ánh mắt lần nữa hướng đế mắt tôi, đôi môi lành lạnh áp lên da tôi. “Amen.” “Amen,” tôi lặp lại. “Vậy là giờ chúng ta kết hôn trong con mắt của các ma cà rồng và theo luật lệ của nhà thờ.” Chiếc nhẫn có cảm giác nặng, nhưng Ysabeau đúng, nó hợp với tôi. “Trong mắt em nữa, hy vọng thế.” “Dĩ nhiên trong mắt em chúng mình kết hôn rồi.” Có điều gì đó từ niềm hạnh phúc của tôi chắc chắn được bộc lộ ra, bởi vì nụ cười đáp lại của rộng mở và chân thành hơn bất cứ lúc nào tôi được thấy. “Hãy xem Maman có thêm bất ngờ nào nữa .” quay lại chiếc cặp da và lôi ra thêm vài cuốn sách nữa. Có mẩu giấy nhắn khác, cũng của Ysabeau. “Những thứ để bên cạnh cuốn sách mà con cầu,” Matthew đọc. “Ta cũng gửi chúng – chỉ để đề phòng.” “Chúng cũng từ năm 1590 ạ?” “,” Matthew , giọng có ve suy tư, “ thứ nào trong đó cả.” thò tay vào túi lần nữa. Khi bàn tay trồi lên, nó nắm chặt chiếc bình thánh tích bạc của Bethany. có mẩu giấy nhắn nào giải thích vì sao nó ở đó. Đồng hồ ngoài tiền sảnh điểm mười giờ. Chúng tôi đến lúc phải – sắp rồi. “ ước gì mình biết được tại sao bà gửi những thứ này.” Giọng Matthew lo lắng. “Có lẽ bà nghĩ chúng mình nên mang theo những thứ khác quý báu đối với .” Tôi biết quyến luyến của đối với chiếc quan tài bạc bé này mạnh mẽ đến mức nào. “, nếu nó khiến em khó tập trung vào năm 1590 hơn mang.” liếc sang chiếc nhẫn bàn tay trái của tôi, và tôi khép các ngón tay lại. có cách nào để tháo nó ra, cho dù nó có đến từ năm 1590 hay . “Chúng ta có thể gọi cho Sarah và hỏi xem dì nghĩ thế nào.” Matthew lắc đầu. “. Đừng làm phiền dì ấy. Chúng ta biết mình cần làm gì – mang theo ba món đồ và gì khác ngoài từ quá khứ hay tại có thể cản đường. Chúng mình dành ngoại lệ cho chiếc nhẫn, giờ nó ở tay em rồi.” mở cuốn sách cùng và đông cứng người lại. “Cái gì thế ?” “Những chú giải của trong cuốn sách này – và nhớ là cho chúng vào đó.” “Nó hơn 400 tuổi rồi. Có lẽ quên.” Bất chấp những lời tôi , cơn ớn lạnh chạy xuyên qua sống lưng tôi từ dưới lên . Matthew lật giở qua vài trang nữa và hít vào hơi sắc lạnh. “Nếu chúng ta bỏ lại những cuốn sách này ở phòng khách, cùng với cả cái bình thánh tích, ngôi nhà trông giữ chúng chứ?” “Nó làm nếu chúng ta đề nghị nó,” tôi . “Matthew, chuyện gì xảy ra thế?” “ kể với em sau. Chúng mình nên thôi. Những cái này,” , nâng mấy cuốn sách và cái quan tài Lazarus, “cần ở lại đây.” Chúng tôi lặng lẽ thay đồ. Tôi cởi bỏ mọi thứ người cho tới khi hoàn toàn trần trụi, rùng mình khi chiếc váy lanh trượt qua vai. Gấu váy lướt qua hai ống tay tôi rồi đổ trùm xuống tận mắt cá chân, cổ áo rộng được kéo khép lại khi tôi giật mạnh sợi dây buộc. Matthew cởi quần áo ra và nhanh chóng mặc cái áo sơ mi của vào – chẳng lạ gì với kiểu quần áo này nữa. Nó gần chạm đầu gối , và hai cẳng chân trắng của lộ ra bên dưới. Trong khi tôi thu gom đống quần áo, Matthew vào phòng ăn và xuất lại với tờ giấy, cái phong bì và chiếc bút mực ưa thích của . Bàn tay lướt nhanh qua trang giấy, gập nó lại rồi đút vào chiếc phong bì. “ lời nhắn cho Sarah,” giải thích. “Chúng ta cũng nhờ ngôi nhà giữ hộ.” Chúng tôi mang những cuốn sách thừa, mẩu giấy nhắn và chiếc bình thánh tích vào phòng khách. Matthew cẩn thận đặt chúng lên ghế sofa. “Chúng mình để đèn sáng chứ?” Matthew hỏi. “,” tôi . “Chỉ để đèn hiên thôi, đề phòng trường hợp họ về nhà khi trời vẫn tối.” Có vệt lờ mờ màu xanh lá cây khi chúng tôi tắt đèn. Đó là bà ngoại tôi, đung đưa chiếc ghế của bà. “Tạm biệt, bà ngoại.” Bridge Bishop ở cạnh bà. Tạm biệt Diana. “Ngôi nhà cần trông nom những thứ kia bà ạ.” Tôi chỉ vào đống đồ ghế sofa. Đừng lo lắng về chuyện gì ngoại trừ nơi cháu sắp đến. Chúng tôi chậm rãi dọc chiều dài ngôi nhà tới cửa sau, tắt hết đèn khi chúng tôi qua. Trong phòng sinh hoạt gia đình, Matthew cầm cuốn Faustus, chiếc bông tai và quân cờ vua lên. Tôi nhìn quanh lần cuối căn bếp màu nâu thân thuộc. “Tạm biệt mày nhé, ngôi nhà.” Tabitha nghe tiếng tôi bèn chạy vụt từ phòng pha chế ra. nàng đột ngột khựng lại và nhìn chòng chọc vào chúng tôi chớp mắt. “Tạm biệt, ma petite[45],” Matthew , khom lưng xuống gãi tai nó. [45. bé của tôi.] Chúng ta quyết định rời từ kho chứa hoa bia. Nó yên tĩnh, có dấu tích nào của cuộc sống đại để làm chúng tôi xao lãng. Chúng tôi qua vườn táo và lớp quả phủ đầy sương giá bằng đôi chân trần của mình, cái lạnh làm bước chân nhanh hơn. Khi Matthew kéo cánh cửa kho hoa bia mở ra, hơi thở của tôi tỏa khói mờ trong màn đêm giá lạnh. “Em lạnh cóng rồi.” Tôi kéo chiếc váy dài sát vào hơn, răng đánh lập cập. “ có lửa ấm khi chúng ta đến Chòi Gác Cổ,” , đưa cho tôi chiếc bông tai. Tôi đeo chiếc bông tai vào rồi đưa tay đỡ lấy tượng nữa thần từ tay Matthew. “Còn gì nữa ?” “Rượu vang – dĩ nhiên là thế - vang đỏ.” Matthew đưa nốt cho tôi cuốn sách và cuộn tôi vào vòng tay , đặt nụ hôn dứt khoát lên trán tôi. “Khu phòng của ở đâu?” Tôi nhắm mắt lại, nhớ đến Chòi Gác Cổ. “ lầu, ở mặt phía tây của sân trong, nhìn ra khu vướn hươu nai.” “Và nó có mùi hương thế nào?” “Như ở nhà thôi,” . “Khói gỗ và thịt nướng từ những người hầu phục vụ bữa tối, sáp ong nến, và mùi hoa oải hương để giữ cho vải lanh phai.” “Có thanh gì đặc biệt ?” “. Chỉ có tiếng chuông từ nhà thờ St. Mary và St. Michael thôi, tiếng lửa lách tách và tiếng những con chó ngáy ở cầu thang nữa.” “Khi ở đó cảm thấy thế nào?” Tôi hỏi, tập trung vào lời và cách chúng tạo cảm xúc cho tôi. “ luôn cảm thấy… bình thường ở Chòi Gác Cổ,” Matthew dịu dàng . “Đó là nơi có thể được là chính mình.” thoáng hương hoa oải hương thoảng qua trong khí, đúng dịp đúng chỗ khi ở trong nhà kho Madison vào tháng Mười như thế này. Tôi nhạc nhiên trước mùi hương đó và nghĩ đến lời nhắn của bố tôi. Mắt tôi mở lớn trước những khả năng của phép thuật. “Chúng ta làm gì vào ngày mai?” “Chúng mình dạo trong vườn,” , giọng thầm, và cánh tay như hai vòng thép cuốn quanh mạng sườn tôi. “Nếu đẹp trời, chúng mình cưỡi ngựa. Vào thời điểm này trong năm có nhiều thứ trong vườn nhưng chắc hẳn có cây đàn luýt ở đâu đó. dạy em chơi nếu em thích.” mùi hương khác – cay cay ngòn ngọt – hòa cùng hoa oải hương, và tôi trông thấy cái cây nặng trĩu trái vàng. bàn tay với lên, và viên kim cương lấp lánh trong ánh nắng, nhưng trái cây đó nằm ngoài tầm tay với. Tôi cảm thấy thất vọng, cùng với đó là niềm khao khát đến nhói đau, và tôi nhớ đến điều Emily – rằng phép thuật ở trong tim cũng như trong tâm trí mình. “Có cây mộc qua ở trong vườn phải ?” “Đúng,” Matthew , miệng chạm vào tóc tôi. “Mùa này trái của nó chín vàng.” Cái cây tan ra, dù mùi hương ngọt ngào như mật ong vẫn còn đó. Giờ tôi thấy cái đĩa bạc lòng nông đặt cái bàn gỗ dài. Những ngọn nến và ánh lủa nhảy nhót lung linh bề mặt bóng loáng của nó. Trong đĩa là những trái mộc qua chín vàng ươm chính là nơi xuất phát mùi thơm đó. Các ngón tay tôi gập lại bìa cuốn sách cầm, nhưng trong tâm thức của tôi chúng khép lại miếng trái cây ở quá khứ. “Em có thể ngửi thấy mùi trái mộc qua.” Cuộc sống mới ở Chòi Gác Cổ mời gọi tôi. “Nhớ nhé, đừng thả tay ra – cho dù có chuyện gì nữa.” Quá khứ ở khắp nơi xung quanh tôi, khả năng lạc mất là tất cả những gì đáng sợ nhất. “ bao giờ,” chắc nịch. “Và nâng bàn chân lên rồi đặt xuống khi nào em bảo.” cười khúc khích. “ em, ma lionne.” Đó là phản ứng hiếm hoi khác lạ, nhưng thế là đủ. Nhà, tôi nghĩ. Tim tôi đập rộn lên với niềm khao khát mãnh liệt. tiếng chuông xa lạ rung lên điểm giờ. ngọn lửa ấm áp chạm vào da tôi. Bầu khí đầy ắp mùi hoa oải hương, sáp ong và mộc qua chín mọng. “Đến lúc rồi.” Cùng nhau, chúng tôi nhấc chân lên và bước vào vô định.
Chương 43 Ngôi nhà im ắng cách khác thường. Đối với Sarah, nó chỉ là thiếu vắng những tiếng trò chuyện huyên thuyên dứt, hay là chuyện bày trí tuệ linh hoạt rời khiến ngôi nhà dường như quá trống trải. Nó là điều thể hiểu được. Họ từ nơi tụ hội của hội phù thủy trở về nhà sớm hơn thường lệ, tuyên bố rằng họ cần phải đóng gói cho chuyến du hành mùa Thu của Faye và Janet. Em tìm thấy chiếc cặp da trống chiếc ghế dài, và Sarah phát ra đống quần áo được cuộn lại nóc máy giặt. “Họ rồi,” Em . Sarah thẳng vào vòng tay Em, hai vai dì run rẩy. “Họ ổn cả chứ?” dì thầm. “Họ ở cùng nhau,” Em đáp. Đó phải là câu trả lời mà Sarah mong muốn, nhưng nó chân , giống như Em vậy. Họ thẫn thờ ném quần áo của mình vào những chiếc túi vải cắm trại. Bây giờ Tabitha và Em ở trong chiếc RV, còn Faye và Janet kiên nhẫn đợi Sarah đóng cửa ngôi nhà. Sarah và Matthew trò chuyện hàng giờ đồng hồ trong phòng pha chế vào tối hôm trước, cùng chia sẻ chai vang đỏ. Chàng ma cà rồng kể với dì vài chuyện trong quá khứ của và chia sẻ những nỗi lo sợ của về tương lai. Sarah lắng nghe, cố gắng bộc lộ cơn sốc và ngạc nhiên của mình trước vài câu chuyện kể. Mặc dù là kẻ ngoại đạo, nhưng Sarah hiểu muốn buổi thú tội và đặt dì vào vai trò của mục sư. Sarah cho xá tội mà dì có thể làm, dù biết rằng trong tất cả những chuyện ấy có vài hành động bao giờ có thể được tha thứ hoặc lãng quên được. Nhưng còn có bí mật mà từ chối chia sẻ với dì, đó là Sarah vẫn biết được cháu mình tới đâu và tới thời điểm nào. Sàn ngôi nhà Bishop cọt kẹt rên rỉ khi Sarah bộ qua những căn phòng tối đen thân thuộc. Dì đóng cửa phòng khách và quay ra để lời chia tay với mái ấm duy nhất mà dì biết. Cửa phòng khách bật mở đánh rầm cái. mảnh ván sàn gần lò sưởi bật lên, để lộ ra cuốn sách màu đen và cái phong bì màu kem. Là thứ sáng nhất trong căn phòng, nó lấp lánh dưới ánh trăng mờ ảo. Sarah nén lại tiếng khóc và chìa tay ra. Chiếc phong bì dễ dàng bay vào tay dì, nó đáp xuống với mùi hương thoáng và lật giở ra. từ duy nhất được viết trong đó. “Sarah.” Dì chạm những con chữ và thấy những ngón tay thon dài trắng trẻo của Matthew. Dì xé lớp giấy, tim đập nhanh. “Sarah,” bức thư bên trong viết. “Đừng lo lắng. Chúng tôi làm được.” Nhịp tim dì dịu lại. Sarah đặt trang giấy duy nhất lên chiếc ghế bập bênh của mẹ mình và ra hiệu về phía cuốn sách. Khi ngôi nhà giao nó rồi, sàn phòng trở lại như cũ với tiếng rên rỉ của lớp gỗ và tiếng kin kít inh tai của hàng đinh cũ. Dì lật giở trang đầu tiên. Bóng Đêm, Bao gồm hai bài thánh thi do G.C để lại. 1594. Cuốn sách có mùi cũ kỹ nhưng khó chịu, giống như mùi trầm hương trong thánh đường bụi bặm. Giống y như Matthew, Sarah mỉm cười nghĩ. mảnh giấy đánh dấu ló ra phía . Nó dẫn dì tới trang đề tặng. “Tặng người bạn thân và đáng quý nhất của tôi, Matthew Roydon.” Sarah nhìn kỹ hơn và thấy hình vẽ bàn tay mờ cùng với cổ tay áo có diềm xếp nếp chỉ vào cái tên, với con số “29” được viết bên dưới bằng mực nâu cổ. Dì lặng lẽ lật giở tới trang hai mươi chín, thổn thức đọc qua làn nước mắt đoạn thơ được gạch chân: Nàng tạo ra những người thợ săn: và từ đó tạo ra những con chó săn khỏe khoắn. Mõm của chúng làm điếc cả thiên đàng, và vết cắn của chúng cày nát mặt đất, Kỳ diệu thay nàng phải tiên nữ Nimphe quá ư duyên dáng Để bầy chó săn hoang dại truy lùng Vì nàng có thể biến mình thành muôn hình vạn trạng. Trong cuộc chạy trốn thú vị của nàng, khỏi những con mãnh thú lanh lẹ nhất. Những lời ấy gợi lên hình ảnh Diana – trong trẻo, sáng chói và thể chạm tới – gương mặt nàng đóng khung trong đôi cánh mỏng như sa và cổ nàng được bao bọc trong dày đặc kim cương và bạc. viên ruby hình giọt lệ duy nhất rung rinh làn da nàng giống như giọt máu, nó náu mình trong cái hõm giữa hai xương đòn của nàng. Trong phòng pha chế, khi bình minh ló rạng, hứa tìm cách để cho dì biết rằng Diana được an toàn. “Cảm ơn, Matthew.” Sarah hôn lên cuốn sách và phong thư rồi ném chúng vào cái lò sưởi hình vòm. Dì lẩm nhẩm vài lời, gọi lên ngọn lửa trắng nóng bỏng. Tờ giấy nhanh chóng bén lửa, và các mép sách bắt đầu quăn lại. Sarah nhìn ngọn lửa cháy lúc rồi ra cửa trước, để nó mở khóa và nhìn lại. Khi cánh cửa đóng lại, cái quan tài bạc cổ xưa phóng xuống từ ống khói và rơi tờ giấy cháy. Hai giọt máu và thủy ngân thoát ra từ các hõm chứa bên trong do sức nóng của ngọn lửa, chúng chạy đuổi nhau bề mặt cuốn sách trước khi rơi xuống vỉ lò. Ở đó chúng thấm vào lớp vữa mềm cũ của lò sưởi và vào trái tim của ngôi nhà. Khi ngọn lửa tàn, ngôi nhà thở dài nhõm và tỏa ra mùi hương bị cấm đoán và bị lãng quên từ rất lâu… Sarah uống vào làn khí mát mẻ khi dì leo vào chiếc RV. Các giác quan của dì còn đủ nhạy bén để bắt được mùi quế và mận gai, mùi kim ngân và hương hoa chamomile nhảy nhót trong khí nữa. “Ổn chứ?” Em hỏi, giọng thanh thản. Sarah nghiêng người qua cái túi Tabitha và vỗ vào đầu gối Em. “Tốt cả.” Faye xoay chìa khóa khởi động, phóng qua đường xe chạy rồi lao lên con đường lớn liên hạt đưa họ tới nơi giao cắt giữa các tiểu bang, vừa vừa liên mồm về nơi họ có thể dùng lại ăn sáng. Bốn phù thủy quá xa để có thể nhận thấy được thay đổi trong bầu khí quanh ngôi nhà khi hàng trăm sinh vật ban đêm phát thấy mùi hương khác thường trộn lẫn giữa ma cà rồng và phù thủy, hay để có thể nhìn thấy những vệt xanh lá cây mờ nhạt của hai hồn ma trong cửa sổ phòng khách. Bridget Bishop và bà ngoại của Diana nhìn theo chiếc xe xa dần. Giờ chúng ta làm gì đây? Bà ngoại Diana hỏi. Làm cái việc mà chúng ta vẫn thường làm, Joanna ạ, Bridget đáp. Nhớ lại quá khứ - và chờ đợi tương lai. (Còn nữa) Mời các bạn ghé thăm Đào Tiểu Vũ's eBook để tải các tập tiếp theo của bộ sách này.