36. Tôi đứng đợi Annie chọn món hầm dùng trong bữa tối, dưới tấm biển hiệu của quán Ngỗng Vàng ánh mắt chằm chằm từ ma cà rồng lướt tới, át cả bầu khí mùa hè. “Cha Hubbard,” tôi lên tiếng và quay về hướng luồng khí lạnh buốt đó. Đôi mắt của gã ma cà rồng thoáng liếc qua lồng ngực tôi. “Tôi lấy làm ngạc nhiên khi chồng bà để vợ mình lang thang quanh thành phố mà có người hộ tống, cho dù có chuyện xảy ra ở Greenwich, mà bà còn mang trong mình đứa con của ông ấy nữa chứ.” Nàng rồng lửa của tôi vẫn luôn trong trạng thái bảo vệ cao độ kể từ vụ việc xảy ra tại đấu trường. Nó cuốn chiếc đuôi quanh hông tôi. “Mọi người đều biết rằng, các wearh thể là cha của những đứa trẻ sinh ra từ những bà mẹ máu nóng,” tôi thờ ơ đáp. “Có vẻ trường hợp bất khả thi đó ảnh hưởng mấy tới phù thủy như bà.” Vẻ mặt dữ tợn của Hubbard càng nhăn nhó hơn. “Đa số các sinh vật khác người tin rằng thái độ khinh miệt của Matthew dành cho phù thủy chẳng bao giờ thay đổi, nhưng vài kẻ lại thích thú cho rằng, ông ta chính là người tạo điều kiện để Barbara Napier thoát khỏi giàn hỏa thiêu tại Scotland.” Các kiện ở Berwick tiếp tục chiếm hết thời gian của Matthew cũng như những lời đồn thổi mà các sinh vật khác người cùng con người vẫn truyền tai nhau tại London. “Matthew ở gần Scotland vào thời điểm đó.” “Ông ta cần gì phải làm thế. Hancock ở Edinburgh, hành xử như ‘người bạn’ của Napier. Cũng chính ta lộ ra chuyện mang thai của ta khiến triều đình chú ý.” Hubbard thở ra luồng khí lạnh lẽo có mùi của rừng cây. “Phù thủy đó vô tội trước những lời cáo buộc chống lại bà ta,” tôi cộc cằn đáp và kéo chiếc khăn choàng qua vai. “Bồi thẩm đoàn tuyên bố trắng án.” “Chỉ đối với lời cáo buộc thôi.” Hubbard đón lấy cái trừng mắt của tôi. “ ta còn gây ra nhiều điều sai trái hơn thế. Và bởi mới quay lại dạo gần đây, nên có thể chưa nghe về việc: Vua James tìm ra cách để lật lại lời phán quyết của bồi thẩm đoàn trong vụ Napier.” “Lật lại ư? Bằng cách nào thế?” “Vua xứ Scotland gần đây còn say mê nhiệt thành với Đại Hội Đồng như trước, và cái này là nhờ ơn chồng bà đấy. Thái độ ràng của Matthew đối với bản hiệp ước, cũng như các hành động can thiệp của ông ta vào đời sống chính trị tại Scotland gợi ý cho bệ hạ tìm ra những lỗ hổng pháp lý của chính ông ta. Vua James đưa các thành viên ban bồi thẩm tuyên bố ả phù thủy đó trắng án ra tòa. Họ bị buộc tội làm mất tính công bằng của nhà vua. Việc răn đe các bồi thẩm đoàn lần này bảo đảm kết quả cho các phiên tòa trong tương lai.” “Đó phải là kế hoạch của Matthew,” tôi , đầu óc quay cuồng. “Cái kiểu ranh ma đó đúng với Matthew de Clermont. Napier và đứa con sơ sinh của ta có thể sống sót nhưng hàng tá các sinh vật vô tội khác chết bởi điều đó.” Nét mặt của Hubbard trở nên vô cùng nhăn nhó. “Đây chẳng phải điều nhà de Clermont mong muốn sao?” “Sao ông dám!” “Cháu lấy được…” Annie bước ra phố và suýt đánh rơi cái nồi tay. Tôi liền đưa tay ra giữ bé lại. “Cảm ơn Annie.” “Bà có biết chồng mình ở đâu vào buổi sáng tháng Năm đẹp trời hôm nay , bà Roydon?” “ ấy có công việc bên ngoài.” Matthew ở lại để chắc chắn tôi có dùng bữa sáng, rồi hôn tạm biệt tôi và rời khỏi nhà cùng Pierre. Jack có vẻ cam chịu khi Matthew bảo cậu bé phải ở lại cùng Harriot. Tôi cảm thấy chột dạ bởi việc từ chối đưa Jack cùng vào thị trấn giống Matthew chút nào. “,” Hubbard nhàng , “ông ta ở Bedlam cùng chị mình và Christopher Marlowe.” Badlam là hầm giam hoàn toàn bí mật, ngoại trừ cái tên của nó – nơi để quên lãng, nơi mà điên khùng bị khóa chặt cùng với những con người bị chính gia đình mình chôn cất, chỉ bằng vài lời vu khống nhằm rũ bỏ họ. Ở đó chẳng có gì ngoài rơm để ngủ, thường xuyên có thực phẩm cung cấp, có mảnh lòng tốt nào từ đám cai ngục và cũng có đối đãi ân cần nào. Phần lớn các tù nhân chẳng bao giờ trốn thoát, mà dù có trốn được, họ cũng hiếm khi hồi phục lại sau những trải nghiệm tại đây. “Matthew hài lòng với việc thay đổi phán quyết ở Scotland, nên giờ ông ta tìm cách ban phát công lý của mình tại London,” Hubbard tiếp tục. “ ấy thẩm vấn họ sáng hôm nay. Tôi hiểu việc ấy vẫn ở đó.” Lúc này trời quá trưa. “Tôi trông thấy Matthew de Clermont giết người nhanh chóng thế nào mỗi khi ông ta nổi giận. Trông thấy thôi đủ tồi tệ rồi. Chỉ cần xem ông ta hành động cách chậm rãi và cẩn thận cũng đủ khiến kẻ kiên quyết vô thần nhất cũng phải tin vào ma quỷ.” Kit. Louisa là ma cà rồng và cùng chia sẻ dòng máu của Ysabeau với Matthew. ta có thể tự lo cho mình, nhưng tinh ... “Đến chỗ Goody Alsop Annie. Bảo với bà ấy rằng ta tới Bedlam để tìm ông Marlowe và chị ông Roydon.” Tôi xoay nhóc sang hướng cần rồi thả ra, chắn bản thân giữa bé và gã ma cà rồng. “Cháu phải ở cùng bà chủ cơ,” Annie , hai mắt mở lớn. “Ông Roydon bắt cháu hứa rồi!” “Có người cần phải biết ta đâu mà Annie. Hãy với Goody Alsop điều cháu nghe được ở đây. Ta có thể tự tìm đường tới Bedlam.” Thực ra, tôi chỉ có ý niệm mơ hồ về vị trí của nhà thương khét tiếng này, tuy vậy, tôi có nhiều cách khác để tìm ra Matthew ở đâu. Tôi nắm lại các ngón tay tưởng tượng quanh sợi xích bên trong mình và sẵn sàng kéo nó. “Đợi .” Bàn tay của Hubbard khép lại quanh cổ tay khiến tôi nhảy dựng lên. Ông ta gọi tên người nào đó trong bóng tối - chính là chàng trai trẻ gầy gò mà Matthew từng nhắc tới bằng cái tên phù hợp cách kỳ lạ Amen Corner. “Con trai tôi đưa bà .” “Matthew biết tôi ở cùng ông lúc này.” Tôi nhìn xuống bàn tay của Hubbard. Nó vẫn nắm lấy cổ tay tôi và chuyền cái mùi riêng biệt của ông ta sang làn da ấm áp của tôi. “ ấy nhận ra cậu nhóc.” Cái nắm tay của Hubbard càng siết chặt hơn và tôi kêu lên tiếng tỏ vẻ hiểu. “Nếu ông muốn đồng hành cùng tôi tới Bedlam, Cha Hubbard, ông chỉ cần mở miệng hỏi thôi.” Hubbard biết mọi đường ngang ngõ dọc giữa phố James Garlickhythe và Bishopsgate. Chúng tôi vượt qua bên kia ranh giới thành phố và tiến vào khu ổ chuột ngoại thành London. Khu vực xung quanh Bedlam cũng giống như Cripplegate, nghèo khó và đông đúc. Tuy vậy, những nỗi kinh hoàng thực vẫn chưa tới. Viên quản ngục gặp chúng tôi tại cổng và dẫn tất cả vào trong nơi từng thời được biết đến là bệnh viện Thánh Mary tại Bethlehem. Ông Sleford là chỗ thân quen với Cha Hubbard nên cần phải luồn cúi và lúng túng, dẫn tất cả tới trong những cánh cửa kiên cố bên kia mảnh sân trong lổn nhổn. Tiếng la hét của các bệnh nhân thậm chí vẫn the thé vọng ra qua các lớp tường gỗ và đá dày của tu viện cổ xây từ thời Trung Cổ. Phần lớn các khung cửa sổ có kính và mở tơ hơ ra, bất chấp thời tiết. Mùi hôi thối từ rác rưởi, đồ mục nát và tuổi già lấn át toàn bộ bầu khí. “Đừng,” tôi kêu lên, từ chối bàn tay đưa ra của Hubbard, khi tất cả bước vào khu vực dày đặc ẩm ướt. Tôi có cảm giác ghê tởm khi nhận lấy giúp đỡ của ông ta trong khi bản thân hoàn toàn tự do, còn các bệnh nhân kia chẳng nhận được bất cứ trợ giúp nào. Khi ở bên trong, những bóng ma của các bệnh nhân quá cố tấn công tôi tới tấp và các sợi tơ lởm chởm xoắn xung quanh những dòng người đau khổ cư trú bên trong bệnh viện. Tôi áp chế cảm giác rùng rợn đó bằng cách tập trung vào các bài tập mang tính toán học kinh khủng, chia những người đàn ông và đàn bà tôi thấy vào từng nhóm để sắp xếp họ lại với nhau theo cách mới. Tôi đếm được hai mươi bệnh nhân trong suốt đoạn đường xuôi hành lang. Mười bốn kẻ là tinh. Nửa tá trong số hai mươi người đó hoàn toàn trần truồng và hơn mười kẻ chỉ mặc những thứ giẻ rách. người phụ nữ mang mình bộ đồ đàn ông bẩn thỉu cho dù nó khá đắt tiền và nhìn chúng tôi bằng vẻ thù địch lộ . ta là trong số ba con người tại đây, còn có hai phù thủy và ma cà rồng nữa. Mười lăm kẻ trong số những linh hồn tội nghiệp đó bị khóa vào tường, xích xuống sàn hoặc cả hai. Bốn trong năm kẻ còn lại thể đứng mà chỉ lom khom dưới chân tường để chuyện và cào lên đá. trong số họ tự do. ta khiêu vũ, trần truồng và xuôi dần theo hành lang tới chỗ chúng tôi. căn phòng có cửa. Thứ gì đó với tôi rằng, Louisa và Kit ở bên trong. Viên quản ngục mở khóa và gõ cửa cách dứt khoát. Khi nhận được tiếng hồi đáp ngay lập tức, ông ta nện mạnh. “Tôi nghe thấy ngay từ lần đầu tiên rồi, ông Sleford.” Trang phục của Gallowglass vô cùng tồi tệ, với nhiều vết cào mới má và máu dây xuống áo chẽn. Khi trông thấy tôi đứng sau Sleford, chàng trông còn tệ hơn gấp đôi. “.” “Để tôi vào.” “Đó phải là ý kiến hay…” Gallowglass nhìn nét mặt tôi lần nữa rồi bước sang bên. “Louisa mất ít máu nên ấy đói. Hãy tránh xa ấy ra trừ phi phiền khi bị cắn hay cào cấu. Cháu cắt móng tay của ấy nhưng thể làm gì hơn với hàm răng đâu.” Mặc dù chẳng còn gì chắn đường, nhưng tôi vẫn đứng chôn chân nơi ngưỡng cửa. Louisa xinh đẹp và độc ác bị xích vào vòng tròn lớn bằng sắt dưới sàn nhà. Chiếc váy ta mặc rách lả tả và máu chảy ra từ những vết thương sâu cổ. Ai đó khẳng định vị thế thống trị lên người Louisa – người đó mạnh hơn và giận dữ hơn ấy. Tôi tìm kiếm những cái bóng khác cho tới khi thấy dáng vẻ u ám lom khom phía đống rúm ró nằm sàn. Đầu Matthew đung đưa, gương mặt tái nhợt vẻ ma quái và hai mắt đen huyền màu như màn đêm. Người có đốm máu nào. Cũng giống như hành động đề nghị giúp đỡ của Hubbard khi nãy, sạch của Matthew có phần ghê tởm. “Em nên ở nhà, Diana.” Matthew đứng dậy. “Cảm ơn , nhưng em nên ở chính xác nơi em cần đến.” Tôi về phía chồng mình. “Cơn khát máu và thuốc phiện thể dung hòa, Matthew. lấy bao nhiêu máu của họ rồi?” Đống thịt sàn bắt đầu cử động. “Tôi ở đây, Christopher,” Hubbard gọi. “ còn đau đớn nữa.” Marlowe thở hắt ra nhõm, cơ thể của gã run lên nức nở. “Bedlam thuộc London, Hubbard,” Matthew lạnh lùng . “Ông còn ở địa hạt của mình và Kit nằm ngoài khả năng bảo vệ của ông.” “Chúa ơi, chúng ta lại tiếp tục nào.” Gallowglass đóng sầm cửa trước gương mặt sững sờ của Sleford. “Khóa lại!” Cậu ta quát qua lớp gỗ và ngắt ngang câu mệnh lệnh của mình bằng cú thụi mạnh. Louisa nhảy dựng khi tiếng khóa kim loại vang lên trong ổ, các sợi xích quanh cổ tay và mắt cá chân của ta kêu lạch cạch. trong số chúng bị đứt và tôi phải nhảy lên khi các mắt xích bị vỡ khua vang sàn nhà. Tiếng đập xích vang lên ngoài hành lang tỏ vẻ cảm thông. “Đừng-hút-máu-ta-đừng-hút-máu-ta-đừng-hút-máu-ta,” Louisa đều đều . ta áp sát hết sức có thể vào bức tường phía xa. Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, ả khóc thút thít và quay . “Cút ngay, đồ thần chết. Ta chết lần và chẳng còn gì phải sợ ngươi cả.” “Yên lặng nào.” Giọng Matthew tuy nhưng vang vọng xuyên qua căn phòng, với uy lực mạnh mẽ đủ để khiến tất cả chúng tôi phải nhảy dựng lên. “Khát,” Louisa rền rĩ. “Làm ơn , Matthew.” Từng giọt chất lỏng rơi xuống nền đá đều đều. Mỗi giọt rơi xuống, cơ thể Louisa lại giật mạnh. Ai đó treo đầu con hươu đực lơ lửng , ánh mắt trống rỗng. Máu rơi từng giọt, từng giọt xuống sàn từ phần cổ bị chặt nhưng bên ngoài tầm với của Louisa bị trói. “Đừng tra tấn ấy nữa!” Tôi định bước tới nhưng Gallowglass giữ tôi lại. “Cháu thể để gây rắc rối.” Cậu ta quả quyết. “Matthew đúng: nên biết chuyện này.” “Gallowglass.” Matthew lắc đầu cảnh cáo. Gallowglass thả cánh tay tôi và thận trọng quan sát chú mình. “Được rồi, để cháu trả lời câu hỏi của trước. Matthew uống lượng máu của Kit, đủ để giữ cho cơn khát máu của chú ấy tiếp tục cháy bùng bùng. Có thể cần biết điều đó trước khi muốn chuyện với chú ấy.” Gallowglass quăng cho tôi con dao nhưng tôi buồn chộp lấy và lưỡi dao rơi loảng xoảng sàn đá. “ uống nhiều hơn so với cơn bệnh này rồi, Matthew.” Tôi bước qua con dao và tiến tới bên cạnh . Chúng tôi đứng gần nhau đến mức chân váy của tôi quét lên đôi giầy của . “Hãy để Cha Hubbard gặp Kit.” “.” Nét mặt của Matthew vẫn kiên quyết. “Jack nghĩ thế nào khi trông thấy thế này?” Tôi mong là có thể dùng cảm giác tội lỗi để đưa Matthew tỉnh táo trở lại. “ là người hùng của thằng bé và các hùng tra tấn bạn bè hay người thân của họ.” “Chúng cố giết em!” Tiếng gầm của Matthew dội vang trong căn phòng . “Họ mất khả năng kiểm soát bởi thuốc phiện và rượu. Chẳng có ai trong số họ biết mình làm gì,” tôi vặn lại. “Có thể cả chính em nữa, và cả trong trạng thái tại.” “Đừng lừa dối bản thân. Cả hai đều biết chính xác điều bọn họ làm. Kit giải thoát mình bằng cách dẹp bỏ chướng ngại vật, để đạt được hạnh phúc của bản thân mà buồn quan tâm tới bất cứ ai khác. Louisa đầu hàng trước những ham muốn độc ác tương tự mà chị ta cho phép bản thân mình đắm chìm từ cái ngày chị ta được tạo ra.” Matthew cào tay vào mái tóc. “ nữa, cũng biết mình làm gì.” “Đúng vậy – trừng phạt chính mình. tin rằng sinh học chính là định mệnh, ít nhất chừng nào cơn khát máu của chính vẫn còn được quan tâm. Và kết quả là nghĩ bản thân cũng giống như Louisa và Kit. Chỉ là kẻ mất trí khác. Em cầu dừng việc tự phủ nhận bản năng của mình mà, Matthew, đừng trở thành nô lệ của nó.” Lần này, khi tôi tiến thêm bước về phía chị của Matthew, chị ta nhảy bổ về phía tôi, khạc nhổ và gầm gừ. “Nỗi sợ lớn nhất của đối với tương lai là: bản thân bị tha hóa thành con thú, bị trói buộc và chờ đợi trừng phạt tiếp theo, bởi vì đó chính là những gì mà xứng đáng nhận.” Tôi quay lại bên và nắm chặt lấy hai vai . “ phải người đàn ông như thế này, Matthew, chưa bao giờ cả.” “ với em lúc trước rằng, đừng lãng mạn hóa lên rồi mà,” nhàng lên tiếng và lảng tránh ánh mắt tôi nhưng tôi kịp trông thấy vẻ tuyệt vọng trong đó. “Vậy, chuyện này cũng vì lợi ích của em phải ? vẫn cố chứng minh rằng mình đáng để sao?” Hai bàn tay siết chặt bên hông. Tôi với tay và gắng sức mở chúng ra rồi đặt hai tay lên bụng mình. “Hãy giữ lấy con của chúng ta và nhìn vào mắt em, hãy rằng thể có cái kết khác cho toàn bộ câu chuyện này.” Giống như buổi tối tôi đợi hút máu từ tĩnh mạch của mình, thời gian kéo dài tưởng chừng như vô tận, trong khi Matthew trải qua cuộc đấu tranh nội tâm. Giờ tôi chẳng thể làm gì để thúc đẩy quá trình đó hay giúp chọn lựa cuộc sống hay cái chết. phải nắm lấy sợi tơ hy vọng mỏng manh mà có tôi giúp sức. “ biết,” cuối cùng thú nhận. “ từng biết rằng, tình giữa ma cà rồng và phù thủy là sai lầm. tin chắc rằng bốn giống loài hoàn toàn tách biệt. chấp nhận cái chết của các phù thủy nếu điều đó đồng nghĩa với việc ma cà rồng và tinh sống sót.” Xuyên qua đôi đồng tử vẫn mở lớn gần như che phủ đôi mắt , tia sáng xanh bỗng xuất . “ từng tự nhủ rằng, điên khùng của loài tinh và yếu đuối trong cộng đồng ma cà rồng có liên quan đến những diễn tiến gần đây, nhưng giờ khi nhìn vào Louisa và Kit...” “ biết.” Tôi hạ thấp giọng. “ ai trong chúng ta biết cả. Đó là viễn cảnh đáng sợ, tuy nhiên, chúng ta phải tin tưởng vào tương lai, Matthew. Em muốn các con của chúng ta được sinh ra dưới bóng tối thế này, căm ghét và sợ hãi chính bản thân mình.” Tôi đợi phản đối thêm nữa, nhưng chỉ yên lặng. “Hãy để Gallowglass chịu trách nhiệm với chị của , còn Hubbard chăm sóc Kit. Và cố gắng tha thứ cho họ.” “Ma cà rồng dễ dàng tha thứ như loài máu nóng đâu,” Gallowglass cộc cằn . “ thể cầu chú làm vậy.” “Matthew cầu cháu điều đó,” tôi thẳng. “Được thôi, và cháu với chú rằng, điều tốt nhất chú có thể hy vọng là lúc nào đó cháu có thể lãng quên. Đừng đòi hỏi nhiều hơn những gì chú Matthew có thể cho, ạ. Chính chú ấy là ông chủ khốn khổ nhất của chính mình rồi, và chú ấy cần giúp đỡ từ đâu.” Giọng Gallowglass mang theo cảnh cáo. “Ta cũng muốn quên, đồ phù thủy,” Louisa nghiêm túc , đơn giản như thể ta đưa ra lựa chọn cho loại vải may áo mới. ta vẫy tay trong khí. “Tất cả chuyện này. Hãy dùng thứ phép thuật của ngươi và làm giấc mơ kinh khủng này biến mất .” Việc đó nằm trong khả năng của tôi. Tôi có thể thấy được các sợi tơ trói buộc ta vào Bedlam, vào Matthew và vào tôi. Nhưng cho dù muốn tra tấn Louisa, tôi cũng dễ tha thứ tới mức trao cho ta thanh thản ấy. “, Louisa,” tôi . “Chị nhớ về Greenwich trong suốt phần đời còn lại cũng như tôi và thậm chí cả việc chị làm Matthew tổn thương thế nào. Hãy là tù nhân của chính mình, phải của nơi này.” Tôi quay sang Gallowglass. “Hãy đảm bảo ta còn là mối nguy hiểm cho bản thân hay bất kỳ ai khác, trước khi cậu thả ta ra.” “Ồ, ấy thích tự do đâu,” Gallowglass quả quyết. “ ấy từ đây tới bất cứ đâu Philippe sai tới. Và sau những việc ấy làm, ông của cháu chẳng bao giờ cho ấy lang thang nữa.” “ với họ , Matthew!” Louisa cãi. “Em hiểu việc có những... thứ này lúc nhúc trong hộp sọ của mình nghĩa là gì mà. Chị thể chịu nổi chúng!” ta giật giật đám tóc bằng bàn tay bị trói. “Còn Kit?” Gallowglass hỏi. “Chú có chắc muốn Hubbard trông nom gã , Matthew? Cháu biết Hancock rất vui mừng được kết liễu gã.” “ là tay sai của Hubbard chứ phải của ta.” Giọng Matthew độc đoán. “Ta quan tâm chuyện gì xảy ra với .” “Những gì tôi làm chỉ vì tình …” Kit mở miệng. “Ngươi làm vì lòng hận thù,” Matthew và quay lưng về phía người bạn thân thiết. “Cha Hubbard,” tôi gọi trong lúc ông ta lao tới thu nhặt gánh nặng của mình. “Các hành động của Kit tại Greenwich được lãng quên, với điều kiện mọi việc xảy ra tại đây phải nằm lại sau những bức tường này.” “Bà hứa điều đó, nhân danh toàn bộ gia đình de Clermont chứ?” Đôi lông mày nhạt màu của gã nhướng cao. “Chồng bà phải cho tôi cam kết chứ phải bà.” “Chỉ cần lời của tôi là đủ,” tôi , giữ vững lập trường. “Rất tốt, thưa bà de Clermont.” Đó là lần đầu tiên Hubbard sử dụng danh xưng này. “Mà quả thực bà còn là con của Philippe. Tôi chấp nhận điều kiện của gia đình bà.” *** Sau khi rời khỏi Bedlam, tôi thậm chí vẫn có thể cảm nhận được bóng tối u ám của nó đeo bám. Matthew cũng vậy. Nó theo khắp mọi nơi chúng tôi đến tại London, bầu bạn với chúng tôi trong bữa tối và đến thăm những người bạn của chúng tôi. Chỉ có cách dứt bỏ nó. Chúng tôi phải quay trở về tại của mình. có bất kỳ cuộc thảo luận hay các kế hoạch ràng nào, nhưng chúng tôi bắt đầu sắp xếp các công việc của mình và cắt đứt những sợi tơ ràng buộc cả hai với quá khứ. Françoise lên kế hoạch đến ở cùng mọi người tại London, nhưng chúng tôi bảo ấy ở lại Chòi Gác Cổ. Matthew có nhiều cuộc trao đổi khá lâu và phức tạp với Gallowglass, về những lời dối cậu ta cần để tiết lộ với Matthew của thế kỷ mười sáu rằng, ta tạm thời bị thay thế bởi chính mình từ tương lai. Matthew thế kỷ mười sáu được phép gặp Kit hay Louisa, bởi chẳng ai trong số họ có thể tin tưởng được. Walter và Henry sáng tác vài câu chuyện để lý giải cho những điểm bất thường trong cách hành xử. Matthew gửi Hancock đến Scotland để chuẩn bị cho cuộc đời mới tại đây. Tôi làm việc với Goody Alsop nhằm hoàn thiện các nút thắt được sử dụng để dệt lên câu thần chú đưa chúng tôi về tương lai. Matthew gặp tôi phố James Garlickhythe, sau buổi học của tôi và đề nghị cả hai cùng dạo qua sân nhà thờ Thánh Paul đường về nhà. Hai tuần trôi qua kể từ hạ chí, những ngày này, bầu trời ngập tràn ánh nắng tươi sáng, bất chấp màn sương u ám của Bedlam vẫn đeo bám dai dẳng. Mặc dù Matthew vẫn có vẻ u buồn sau những gì trải qua với Louisa và Kit nhưng bầu khí ngày hôm nay đem lại cảm giác giống như nhiều lần trước, khi chúng tôi dừng lại tại các hiệu sách, nhìn ngó những tựa sách cùng tin tức mới nhất. Tôi đọc loạt tranh cãi mới trong trận chiến ngôn từ, giữa hai cử nhân tốt nghiệp Cambridge Matthew bỗng đông cứng người. “Cúc La Mã, lá sồi và cà phê.” Đầu xoay ra ngó nghiêng quanh quất trước mùi hương lạ. “Cà phê ư?” Tôi hỏi và băn khoăn, làm thế nào mà thứ chưa tới nước có thể phảng phất trong khí quanh sân nhà thờ Thánh Paul. Tuy nhiên, Matthew còn ở bên cạnh để trả lời câu hỏi của tôi nữa mà thay vào đó, chen lấn qua đám đông với tay cầm gươm. Tôi thở dài, Matthew thể ngừng việc theo sau mọi tên trộm trong chợ. Đôi khi tôi ước rằng, tầm nhìn của đừng quá sắc sảo và kim chỉ nam của phẩm hạnh bớt độc đoán hơn chút. Lần này, đuổi theo người đàn ông thấp hơn khoảng mười phân và có mái tóc xoăn dày màu nâu muối tiêu. Người đàn ông mảnh dẻ, hai vai hơi khom xuống như thể dùng quá nhiều thời gian cắm cúi những cuốn sách. Điều gì đó trong kết hợp hình dáng này khơi dậy mạnh mẽ ký ức của tôi. Người đàn ông cảm nhận được mối nguy hiểm tới gần liền quay lại. Chao ôi, ông ấy đem theo con dao tới mức đáng thương vì nó chẳng lớn hơn con dao nhíp là mấy. Và thứ đó chẳng hữu dụng gì trước Matthew. Tôi vội lao theo chồng mình với hy vọng ngăn chặn vụ đổ máu. Matthew tóm chặt lấy bàn tay của người đàn ông tội nghiệp, khiến thứ vũ khí tương xứng đó rơi xuống mặt đất. Chỉ bằng đầu gối, chàng ma cà rồng ấn con mồi của mình vào sát quầy sách, kề gươm vào cổ. Tôi hoảng sợ gấp đôi. “Cha?” Tôi thầm. Chuyện này là thể. Tôi nghi hoặc chăm chú quan sát ông, trái tim đập thình thịch vì hưng phấn và kinh ngạc. “Xin chào quý Bishop,” cha tôi đáp lại, liếc nhìn lên từ lưỡi gươm sắc bén của Matthew. “ ngờ được gặp con ở đây.”
37. Trông cha tôi hết sức điềm tĩnh khi đối mặt với ma cà rồng có vũ trang và đứa con trưởng thành của ông. Chỉ duy có thoáng run rẩy trong giọng và bàn tay siết lại các khớp trắng bệch đặt quầy sách là tố cáo những cảm xúc của ông. “Tiến sĩ Proctor, con đoán vậy.” Matthew bước ra xa và thu lại vũ khí của mình. Cha tôi vuốt thẳng lại chiếc áo khoác nâu chắc bền của mình. Nó ổn chút nào. Ai đó – có lẽ là mẹ tôi – cố gắng sửa chiếc áo khoác Nehru thành thứ tương tự như chiếc áo thầy tu của mục sư, còn chiếc quần ống chẽn quá dài, giống thứ Ben Franklin mặc hơn là đồ Walter Raleigh mặc. Nhưng giọng thân quen của ông, mà tôi được nghe suốt hai mươi sáu năm, vẫn y như thế. “Con lớn lên chỉ trong vòng có ba ngày qua thôi,” ông run run . “Trông cha vẫn y như trong trí nhớ của con,” tôi lặng người , vẫn còn sững sờ vì ông đứng ngay trước mặt mình. Lo ngại hai phù thủy và wearh có thể là quá gây chú ý khi ở giữa đám đông trong sân nhà thờ Thánh Paul, và vì biết phải làm gì trong tình huống như tiểu thuyết thế này, nên tôi lại rơi trở về thói quen xã giao thông thường. “Cha có muốn về nhà chúng con để uống ly ?” Tôi đề nghị vụng về. “Chắc rồi, con , điều đó tuyệt,” ông kèm theo cái gật đầu ngập ngừng. Hai cha con tôi thể ngừng nhìn ngắm lẫn nhau – ngay cả đường về nhà hay khi chúng tôi về tới Hươu Đực và Vương Miện an toàn, kỳ diệu là nơi này trống trải thấy bóng dáng ai. Đến đây ông ôm lấy tôi cách ấm áp. “ là con rồi, con nghe giống mẹ con quá,” ông , giữ tôi ở khoảng cách cánh tay và ngắm nhìn kỹ các đường nét khuôn mặt tôi. “Trông con cũng giống bà ấy nữa.” “Mọi người con có đôi mắt của cha,” tôi và cũng ngắm nhìn ông kỹ càng. Khi bạn bảy tuổi, bạn để ý những thứ như thế, bạn chỉ nghĩ đến việc tìm kiếm những đặc điểm ấy sau này, khi quá muộn thôi. “Đúng vậy nhỉ.” Stephen cười vang. “Diana cũng có đôi tai của bố nữa và mùi hương của hai người cũng có điểm tương tự. Vì lẽ đó mà con nhận ra bố ở nhà thờ Thánh Paul.” Matthew đưa tay vuốt mái tóc cắt ngắn của vẻ hồi hộp, rồi đưa tay ra về phía cha tôi. “Con là Matthew.” Cha tôi nhìn bàn tay chìa ra. “ có họ à? là kiểu nhân vật nổi danh như Halston hay Cher chắc?” Tôi đột nhiên tưởng tượng ra hình ảnh sinh động về những gì tôi bỏ lỡ vì có cha ở bên cạnh, trong những năm tháng tuổi thiếu niên, bỏ lỡ những trò lố bịch của ông khi ông gặp các chàng trai tôi hẹn hò. Hai mắt tôi rưng rưng. “Matthew có rất nhiều họ. Chuyện là… hơi phức tạp,” tôi , cố kìm lại những giọt nước mắt. Trông cha tôi hốt hoảng trước dòng cảm xúc dâng trào đột ngột như thế. “ giờ là Matthew Roydon ạ,” Matthew , kéo chú ý của cha tôi. và cha tôi bắt tay nhau. “Vậy cậu chính là chàng ma cà rồng đó,” cha tôi . “Rebecca lo lắng đến phát ốm về các vấn đề thực tế trong mối quan hệ của cậu với con tôi, mà thậm chí, Diana còn chưa biết xe đạp nữa chứ.” “Ôi, cha.” Tôi đỏ bừng mặt mũi khi thốt lời này ra khỏi miệng, nghe như thể tôi mới mười hai tuổi vậy. Matthew tủm tỉm cười trong khi tới chiếc bàn. “Sao cha ngồi xuống và dùng chút rượu vang nhỉ?” Matthew đưa cốc rượu cho ông rồi kéo chiếc ghế ra cho tôi. “Chắc Diana choáng váng.” “Cậu đúng, tôi thích thứ này.” Cha tôi ngồi xuống, nhấp ngụm rượu và gật đầu tán thưởng trước khi lấy lại dáng vẻ nghiêm nghị. “Vậy,” ông mạnh mẽ , “chúng ta xin chào, con mời ta về nhà của con, và giờ ta uống rượu rồi - những nghi thức chào đón thiết yếu của phương Tây. Giờ chúng ta thẳng vào vấn đề nhé, con làm gì ở đây vậy Diana?” “Con ư? Cha làm gì ở đây có? Và mẹ con đâu rồi?” Tôi đẩy ly rượu Matthew rót cho tôi . “Mẹ con ở nhà chăm sóc con.” Cha tôi lắc đầu kinh ngạc. “Cha thể tin được, trông con chẳng trẻ hơn cha đến mười tuổi đâu.” “Con luôn quên là cha già hơn mẹ con rất nhiều.” “Con ở cùng ma cà rồng mà lại có xu hướng phản đối tình lãng mạn bất chấp tuổi tác ư?” Cách biểu lộ kỳ lạ của cha làm tôi bật cười. Đúng thế , tôi nhẩm phép toán nhanh. “Vậy cha đến từ năm 1980 à?” “Đúng, cuối cùng cha cũng nâng cao trình độ của mình và hướng tới thực vài khám phá.” Stephen ngắm nhìn chúng tôi. “Đây là thời điểm và địa điểm hai con gặp nhau à?” “ ạ, chúng con gặp nhau ở Oxford, vào tháng Chín năm 2009, tại thư viện Bodleian.” Tôi nhìn Matthew, mỉm cười khích lệ tôi. Tôi quay lại phía cha và hít vào hơi sâu lấy tinh thần. “Con có thể du hành vượt thời gian giống cha nên mang Matthew theo cùng.” “Cha biết con có thể du hành thời gian, nhóc con ạ. Con dọa mẹ con suýt chết vì sợ vào tháng Tám năm ngoái, khi con biến mất vào ngày sinh nhật ba tuổi. nhóc chập chững du hành vượt thời gian là cơn ác mộng tồi tệ nhất của bà mẹ.” Ông nhìn tôi cách sắc sảo. “Vậy là con có đôi mắt, đôi tai, mùi hương và khả năng du hành vượt thời gian của cha. Còn gì nữa ?” Tôi gật đầu. “Con có thể tạo ra các câu thần chú.” “Ồ. Chúng ta hy vọng con có thiên hướng với lửa giống mẹ con, nhưng có may mắn như vậy.” Cha tôi có vẻ thoải mái và hạ thấp giọng. “Có lẽ con nên đề cập về khả năng của mình với các phù thủy khác. Và khi họ cố gắng dạy con những câu thần chú của họ, chỉ cần để chúng vào tai này rồi ra tai kia thôi, thậm chí cũng đừng có cố học chúng nhé.” “Con ước gì cha với con điều đó từ trước, nó giúp con rất nhiều khi ở cùng dì Sarah,” tôi . “Sarah già tốt bụng.” Tiếng cười của cha tôi ấm áp và dễ lan truyền. Tiếng bước chân vang lên như sấm cầu thang, rồi cái giẻ lau bốn chân và cậu nhóc phóng sầm sập qua bậu cửa, đập cánh cửa đánh sầm vào tường bằng tất cả sức lực hăng hái cùng nhiệt tình khi lao vào nhà. “Ông Harriot cháu có thể lại ra ngoài cùng ông ấy và ngắm nhìn các ngôi sao. Ông ấy hứa lần này quên mất cháu và ông Shakespeare cho cháu cái này.” Jack ve vẩy mảnh giấy . “Ông ấy đây là lá thư của lòng tin còn Annie vẫn cứ nhìn chằm chằm chàng ở quán Mũ Hồng Y Giáo Chủ trong khi ăn bánh. Ai đấy ạ?” Câu cuối cùng được ra kèm theo ngón tay cáu bẩn chỉ về phía cha tôi. “Đó là ông Proctor,” Matthew , vòng tay ôm lấy thắt lưng Jack. “Cháu cho Giẻ Lau ăn theo cách của cháu rồi hả?” Chẳng có cách nào tách được thằng bé và con chó ở Praha, vậy nên Giẻ Lau đến London, nơi mà vẻ ngoài kỳ lạ của nó tạo hiếu kỳ đối với dân địa phương. “Tất nhiên là cháu cho Giẻ Lau ăn rồi ạ. Nếu cháu quên là nó lại ăn giày của cháu, và Pierre bảo chú ấy trả tiền cho đôi giày mới mà cho ông biết, nhưng có lần thứ hai đâu.” Jack vội bụm tay bưng kín miệng. “Cháu xin lỗi, bà Roydon, em ấy chạy xuống phố mà cháu chẳng thể nào đuổi kịp.” Annie cau có lao vào phòng, rồi dừng khựng lại, mặt bé trở nên trắng bệch và nhìn chằm chằm cha tôi. “Ổn cả mà, Annie,” tôi nhàng . bé sợ những sinh vật khác người xa lạ kể từ hồi ở Greenwich. “Đây là ông Proctor, là người bạn.” “Cháu có nhiều bi lắm, ông có biết chơi bắn bi ạ?” Jack vẫn nhìn cha tôi rời mắt với vẻ thăm dò công khai, như thể cậu nhóc cố gắng xác định xem, liệu người mới đến này có phải nhân vật hữu ích có thể giao du . “Ông Proctor đến đây để chuyện với bà Roydon, Jack.” Matthew xoay tít cậu nhóc. “Chúng ta cần nước, rượu và bánh mỳ. Cháu và Annie phân chia lo mấy việc vặt đó , và khi nào Pierre về chú ấy đưa cháu tới Moorifields.” Vừa lầu bầu vài tiếng, Jack vừa cùng Annie quay ra lên phố. Cuối cùng, tôi đón lấy ánh mắt của cha. Ông vẫn quan sát Matthew và tôi mà gì trong khi bầu khí đậm đặc những câu hỏi của ông. “Tại sao con ở đây, con ?” Cha tôi lặng lẽ lặp lại khi lũ trẻ khỏi. “Chúng con nghĩ, có thể tìm thấy ai đó giúp con giải đáp vài câu hỏi về phép thuật và giả kim thuật.” Vì vài lý do, tôi muốn cha tôi biết chi tiết. “Người dạy con tên là Goody Alsop. Bà và hội phù thủy của bà đón nhận con.” “Cố gắng giỏi lắm, Diana. Cha cũng là phù thủy, nên cha biết khi nào con vòng vèo lướt qua .” Cha tôi ngồi ngả người trong ghế. “Con phải kể cho cha đến cùng. Cha chỉ nghĩ đây là cách tiết kiệm thời gian thôi.” “Tại sao cha ở đây, Stephen?” Matthew hỏi. “Chỉ loanh quanh thôi vì ta là nhà nhân loại học mà. Đó là công việc của ta, còn cậu làm nghề gì?” “Con là khoa học gia – hóa sinh học và làm việc ở Oxford ạ.” “Cha chỉ ‘ loanh quanh’ ở London trong thời đại Elizabeth, cha ạ. Cha có trang sách từ Ashmole 782 rồi.” Tôi đột nhiên hiểu lý do tại sao ông có mặt ở đây. “Cha tìm kiếm phần còn lại của cuốn cổ thư đó.” Tôi hạ chùm giá nến bằng gỗ xuống. Bộ dụng cụ thiên văn học của ông Habermel được đặt nằm lọt thỏm giữa hai cây nến. Chúng tôi phải di chuyển nó hàng ngày, bởi vì Jack đều tìm ra chỗ giấu nó. “Trang sách nào cơ?” Cha tôi hỏi, giọng ngây ngô cách đáng ngờ. “Trang sách có bức hình đám cưới giả kim thuật ấy, nó đến từ cuốn cổ thư trong thư viện Bodleian.” Tôi mở bộ dụng cụ ra. Nó hoàn toàn đứng im, y như tôi kỳ vọng. “Nhìn này, Matthew.” “Tuyệt,” cha tôi kèm theo tiếng huýt sáo. “Cha nên xem cái bẫy chuột của ấy,” Matthew thào. “Nó dùng làm gì thế?” Cha tôi với tay kéo bộ dụng cụ lại để nhìn kỹ hơn. “Nó là công cụ toán học để báo giờ và theo dõi các kiện thiên văn học giống như chu kỳ của mặt trăng. Nó bắt đầu tự dịch chuyển khi chúng con ở Praha. Con nghĩ điều đó có nghĩa là ai đấy tìm kiếm con và Matthew, nhưng giờ con băn khoăn có phải nó ám chỉ cha, mà là tìm kiếm cuốn cổ thư kia.” Bộ dụng cụ vẫn hoạt động theo chu kỳ, các bánh quay của nó xoay tròn mà hề báo trước nên mọi người trong nhà đều gọi nó là “đồng hồ phù thủy.” “Có lẽ nên lấy cuốn sách,” Matthew rồi đứng dậy. “Được rồi, được rồi mà,” cha tôi đáp, ra hiệu cho ngồi xuống. “ có gì phải vội cả, Rebecca mong cha về trong vài ngày tới đâu.” “Vậy là cha ở lại đây – tại London ạ?” Khuôn mặt cha tôi dịu hẳn . Ông gật đầu. “Cha ở đâu?” Matthew hỏi. “Ở đây!” Tôi phẫn nộ . “Ông ở đây.” Sau bao nhiêu năm có cha, việc lại để ông rời khỏi tầm mắt là điều tôi thể tưởng tượng nổi. “Con cha có những quan điểm rất ràng về việc gia đình của ấy mà lại phải đăng ký ở khách sạn,” Matthew kể cho cha tôi kèm nụ cười nhăn nhở, nhớ lại tôi phản ứng như thế nào khi cố sắp xếp Marcus và Miriam vào nhà trọ ở Cazenovia. “Dĩ nhiên là cha được chào đón tới đây ở cùng chúng con rồi.” “Cha lấy phòng ở phía bên kia thành phố,” cha tôi lưỡng lự . “Ở lại ạ.” Tôi mím chặp môi và chớp chớp mắt để kìm nén những giọt nước mắt. “Xin cha đấy.” Tôi có quá nhiều điều muốn hỏi ông, quá nhiều câu hỏi mà chỉ ông mới có thể trả lời. Cha và chồng tôi cùng trao đổi cái nhìn lâu. “Được rồi,” cuối cùng cha tôi . “Loanh quanh bên con chốc lát cũng rất tuyệt.” Tôi cố gắng nhường ông phòng ngủ của chúng tôi, vì Matthew thể ngủ khi có người lạ ở trong nhà, mà tôi dễ dàng nằm vừa bậu ngồi cửa sổ, nhưng cha tôi từ chối. Thay vào đó, Pierre nhường giường của ta cho cha tôi. Tôi đứng chiếu nghỉ cầu thang, lắng nghe cách ghen tỵ khi Jack và cha tôi trò chuyện như những người bạn cũ. “ nghĩ cha Stephen có mọi thứ ông cần rồi,” Matthew , vòng hai cánh tay ôm tôi. “Ông có thất vọng vì em ?” Tôi thành lời nỗi băn khoăn của mình. “Cha em ư?” Matthew thốt lên nghe vẻ hoài nghi. “Dĩ nhiên là rồi!” “Ông có vẻ được thoải mái lắm.” “Khi Stephen hôn tạm biệt em mấy ngày trước, em vẫn còn là nhóc chập chững tập nên ông chỉ bị choáng váng thôi.” “Ông có biết chuyện xảy đến với ông và mẹ em ?” Tôi thầm. “ biết, mon coeur, nhưng cũng nghĩ vậy.” Matthew kéo tôi về phía phòng ngủ của chúng tôi. “Lên giường ngủ em, mọi chuyện khác vào sáng ngày mai.” Matthew đúng: Cha tôi có phần thư thái hơn vào ngày hôm sau, mặc dù trông ông có vẻ ngủ được nhiều. Cả Jack cũng thế. “Thằng bé luôn có những cơn ác mộng tồi tệ như thế à?” Cha tôi hỏi. “Con xin lỗi vì thằng bé làm cha ngủ được,” tôi lấy làm tiếc. “ thay đổi làm nó hồi hộp và lo lắng nên Matthew luôn chăm sóc nó.” “Cha biết. Cha thấy ta,” cha tôi , nhấp ngụm nước sắc thảo dược mà Annie chuẩn bị. Đó chính là vấn đề với cha tôi. Ông thấy mọi thứ. Khả năng theo dõi và quan sát của ông khiến ma cà rồng cũng phải hổ thẹn. Mặc dù tôi có hàng trăm câu hỏi – về mẹ và phép thuật của bà, về trang sách của Ashmole 782 – nhưng tất cả chúng dường như đều bốc hơi hết dưới cái nhìn lặng lẽ của ông. Thi thoảng ông hỏi tôi vài chuyện tầm thường đáng kể. Tôi có biết ném bóng chày ? Tôi có nghĩ Bod Dylan là thiên tài ? Tôi từng được dạy cách dựng cái lều chưa? Ông hỏi gì về Matthew và tôi cả, hay trường tôi học, hoặc thậm chí cả việc tôi làm gì để kiếm sống. Ông có bất kỳ biểu nào thể quan tâm, nên tôi cảm thấy lúng túng và ngượng ngùng khi tự động đưa ra các thông tin này. Đến cuối ngày đầu tiên chúng tôi ở cùng nhau, tôi thực trào nước mắt. “Tại sao ông chuyện với em?” Tôi hỏi khi Matthew tháo dây chiếc coóc-xê của tôi. “Bởi vì ông quá bận lắng nghe. Ông là nhà nhân loại học – người quan sát chuyên nghiệp mà, còn em lại là sử gia trong gia đình. Các câu hỏi là thế mạnh của em chứ phải của ông.” “Em cứ líu cả lưỡi khi ở quanh ông và biết bắt đầu từ đâu. Khi ông thực chuyện với em, nó lại luôn là những chủ đề kỳ lạ, kiểu như liệu việc cho phép các cầu thủ được chỉ định đánh bóng có hủy hoại môn bóng chày .” “Đó là điều mà người cha với con mình khi ông bắt đầu dẫn dắt bé đến với trò chơi bóng chày. Vậy là cha Stephen biết ông được nhìn thấy em lớn lên và biết mình còn bao nhiêu thời gian ở bên em thôi.” Tôi ngồi xuống mép giường. “Ông là fan cuồng nhiệt của Red Sox. Em nhớ là mẹ rằng, giữa việc bà có thai và Carlton Fisk đánh được cú home run vào trận thứ sáu của giải World Series, năm 1975 là mùa thu tuyệt nhất trong cuộc đời ông, thậm chí cuối cùng Cincinnati có đánh bại Boston nữa.” Matthew cười khẽ. “ chắc chắn mùa thu năm 1975 là đỉnh cao của nó.” “Đội Sox thắng vào năm đó à?” “, cha em thắng.” Matthew hôn tôi và thổi tắt nến. *** Ngày hôm sau, khi tôi trở về nhà sau khi chạy vài việc vặt, tôi thấy cha ngồi trong phòng khách căn hộ vắng tanh của chúng tôi với Ashmole 782 mở trước mặt. “Cha tìm thấy nó ở đâu thế?” Tôi hỏi và đặt mấy gói đồ lên bàn. “Con nghĩ Matthew đem giấu nó rồi chứ.” Tôi chẳng có đủ thời gian để ngăn bọn trẻ cách xa bộ dụng cụ đáng nguyền rủa đó. “Jack đưa nó cho cha, thằng bé gọi nó là ‘cuốn sách về quái vật’ của bà Roydon.’ Hoàn toàn có thể hiểu là cha háo hức được thấy nó ngay khi nghe đến.” Cha tôi lật giở sang trang. Các ngón tay ông ngắn hơn ngón tay Matthew, cục mịch và mạnh mẽ hơn. “Đây là cuốn sách có bức tranh về hôn lễ đó hả?” “Vâng. Còn có hai bức tranh khác nữa: hình cái cây, còn bức kia là hai con rồng chảy máu.” Tôi dừng lại. “Con chắc mình có nên kể cho cha hay , con biết về mối quan hệ của cha với cuốn sách này, điều mà cha biết – những điều thậm chí chưa xảy ra.” “Vậy hãy cho cha biết điều gì xảy ra với con sau khi con phát ra nó ở Oxford và cha muốn biết , Diana. Cha có thể nhìn thấy những sợi tơ nối giữa con và cuốn sách này bị hư hại, tất cả chúng bện xoắn lại và gầm gừ. Vậy có ai đó làm hại con về thể xác.” im lặng nặng nề lắng xuống trong phòng. thể trốn đâu khỏi quan sát kỹ lưỡng và tỉ mỉ của cha tôi. Khi tôi thể chịu đựng hơn được nữa, tôi đón lấy ánh mắt ông. “Là các phù thủy. Matthew ngủ, và con ra ngoài để hít thở khí trong lành. Nơi đó được cho là an toàn nhưng phù thủy bắt con.” Tôi cựa mình ghế. “Hết chuyện. Chúng ta hãy về điều gì khác . Cha muốn biết nơi con học sao? Con là sử gia. Con được bổ nhiệm làm giảng viên chính thức ở Yale.” Tôi về bất cứ điều gì với cha tôi – ngoại trừ chuỗi kiện bắt đầu với bức ảnh cũ được giao đến phòng tôi ở New College và kết thúc với cái chết của Juliette. “Để sau . Giờ cha cần biết tại sao phù thủy khác lại muốn cuốn sách này đến mức sẵn sàng giết con vì nó. Ồ, đúng rồi,” ông trước cái nhìn hoài nghi của tôi, “cha tự mình khám phá ra rồi. phù thủy dùng câu thần chú mở lưng con và để lại vết sẹo kinh khủng. Cha có thể cảm thấy vết thương đó vì ánh mắt Matthew nấn ná ở đó, và con rồng của con – cha cũng biết về nàng đó nữa – che đậy vết sẹo đó bằng đôi cánh của nó.” “Satu – phù thủy bắt con – phải sinh vật khác người duy nhất muốn cuốn sách này. Peter Knox - thành viên của Đại Hội Đồng cũng muốn.” “Peter Knox,” cha tôi khẽ thốt lên. “Ái chà chà.” “Hai người gặp nhau ư?” “ may, đúng thế. ta luôn có gì đó với mẹ con và may mắn là mẹ con thấy ghê tởm .” Cha tôi trông dữ dằn và lật qua trang khác. “Cha chắc chắn gã Peter chết tiệt biết về các phù thủy bị chết trong thứ này. Có loại phép thuật hắc ám nào đó quẩn quanh trong cuốn sách này, và Peter luôn hứng thú với khía cạnh đó của phép phù thủy. Cha có thể biết lý do vì sao muốn nó, nhưng tại sao con và Matthew lại cần nó đến thế chứ?” “Các sinh vật khác người biến mất, cha ạ. tinh ngày càng hoang dại, máu ma cà rồng đôi khi có khả năng biến đổi con người nữa, còn phù thủy sinh sôi thêm được. Chúng ta chết dần. Matthew tin rằng cuốn sách này có thể giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao,” tôi giải thích. “Có rất nhiều thông tin di truyền trong cuốn sách này – da, tóc, thậm chí cả máu và xương nữa.” “Con kết hôn với sinh vật khác người kém gì Charles Darwin đấy. Có phải chàng cũng quan tâm tới nguồn gốc các loài giống như tuyệt chủng ?” “Vâng, ấy cố gắng trong thời gian dài để tìm ra cách mà tinh, phù thủy và ma cà rồng có liên hệ với nhau và với loài người. Cuốn cổ thư này – nếu chúng con có thể ghép nó lại với nhau và hiểu được nội dung của nó – có lẽ cung cấp được những manh mối quan trọng.” Đôi mắt màu nâu lục nhạt của cha nhìn vào mắt tôi. “Và đây là những mối bận tâm mang tính lý thuyết đơn giản đối với chàng ma cà rồng của con à?” “ gì hơn nữa. Con mang thai, cha ạ.” Tôi nhàng đặt tay lên phần bụng dưới - hành động vô thức mà gần đây tôi vẫn hay thực . “Cha biết.” Ông cười. “Cha cũng phát ra điều đó, nhưng tuyệt khi được nghe con ra.” “Cha mới chỉ ở đây có bốn mươi tám tiếng nên con muốn thổ lộ dồn dập nhiều thứ hơn,” tôi với cảm giác xấu hổ. Cha tôi đứng dậy và kéo tôi vào vòng tay ôm chặt. “Hơn nữa, cha đáng ra nên ngạc nhiên chứ, vì phù thủy và ma cà rồng vốn được nhau và người ta kiên quyết cho rằng họ thể có con cùng nhau.” “Mẹ con báo trước cho cha về chuyện đó rồi – bà ấy thấy tất cả mọi chuyện bằng năng lực tiên tri phi thường của mình.” Ông cười lớn. “ là lo lắng hão. Nếu phải con bà ấy nhặng xị cả lên rồi, nó là ma cà rồng đấy. Chúc mừng con . đứa trẻ là món quà tuyệt vời.” “Con chỉ hy vọng chúng con có thể kiểm soát được nó. Ai biết được đứa con của bọn con như thế nào?” “Con có thể giải quyết tốt hơn là con nghĩ đấy.” Cha hôn lên má tôi. “Thôi nào, chúng ta hãy dạo lát để con có thể chỉ cho cha thấy những nơi con thích trong thành phố này. Cha muốn gặp Shakespeare. trong những đồng nghiệp ngu ngốc của cha nghĩ, ra chính nữ hoàng Elizabeth viết Hamlet. Mà đến đồng nghiệp: Làm thế nào mà sau nhiều năm mua yếm dãi và găng tay hở ngón Harvard cho con, kết cục là ta lại có con dạy học ở Yale chứ?” *** “Ta tò mò vài chuyện,” cha tôi , nhìn chớp mắt vào ly rượu vang của ông. Hai chúng tôi tận hưởng chuyến dạo thú vị và đều ung dung, thong thả dùng xong bữa tối trong khi bọn trẻ được cho lên giường ngủ, còn Giẻ Lau ngáy khò khò cạnh lò sưởi. ngày hoàn hảo là như thế đấy. “Chuyện gì cơ, cha Stephen?” Matthew hỏi, mỉm cười ngước nhìn lên từ cốc rượu của . “Hai đứa nghĩ, có thể kiểm soát cuộc sống điên cuồng mà các con dấn thân vào này bao lâu?” Nụ cười của Matthew cứng lại. “Con chắc mình hiểu câu hỏi của cha,” lẳng lặng . “Hai đứa các con giữ mọi thứ chặt quá thể.” Cha tôi nhấp ngụm rượu và cố ý nhìn đăm đăm vào nắm tay siết chặt của Matthew miệng cốc. “Con có thể vô tình hủy hoại thứ con thích nhất bằng nắm tay đó đấy, Matthew.” “Con chú ý điều đó ạ.” ràng, Matthew kiểm soát tâm trạng của mình. Tôi mở miệng định xoa dịu mọi chuyện. “Hãy thôi cố gắng sắp xếp mọi chuyện , con ,” cha trước khi tôi kịp thốt ra lời. “Con mà,” tôi phản đối. “Có, con có,” Stephen . “Mẹ con lúc nào cũng làm thế, và cha nhận ra các dấu hiệu đó. Đây là cơ hội cha được chuyện với con với tư cách là người trưởng thành, Diana, và cha lựa lời vòng vo chỉ bởi vì chúng khiến con – hoặc cậu ta – thoải mái đâu.” Cha tôi thọc tay vào trong áo khoác và rút ra cuốn sách mỏng. “Cậu cũng cố gắng sắp đặt mọi chuyện, Matthew ạ.” “Tin tức từ Scotland,” dòng tiêu đề chữ lớn được đánh máy bản in viết: TUYÊN BỐ VỀ CUỘC ĐỜI ĐÁNG TỘI LỖI CỦA BÁC SĨ FIAN, PHÙ THỦY NỔI TIẾNG, KẺ BỊ THIÊU CHẾT Ở EDINBURGH VÀO THÁNG VỪA QUA. “Cả thành phố về những phù thủy ở Scotland,” cha tôi , đẩy các trang báo về phía Matthew. “Nhưng các sinh vật khác người lại kể câu chuyện khác so với loài máu nóng. Họ rằng, Matthew Roydon vĩ đại và kinh khủng, kẻ thù của phù thủy, bất chấp ý nguyện của Đại Hội Đồng và cứu kẻ bị kết tội kia.” Các ngón tay Matthew dừng khựng lại các trang báo. “Cha nên tin mọi điều nghe được, Stephen. Người London thích ngồi lê tán dóc.” “Vì hai kẻ giả mạo quyền lực, các con chắc chắn khuấy đảo thế giới rắc rối và rắc rối đó dừng lại ở đây. Nó cũng bám theo các con về nhà nữa.” “Thứ duy nhất theo chúng con về nhà từ năm 1591 là Ashmole 782,” tôi . “Con thể mang cuốn sách theo.” Cha tôi nhấn giọng. “Nó thuộc về nơi đây. Con làm thời gian bện xoắn lại đủ rồi, cứ ở đây chừng nào con cần.” “Chúng con rất cẩn thận, cha ạ.” Tôi đau nhói vì lời chỉ trích của cha. “Cẩn thận ư? Con ở đây bảy tháng rồi. Con mang thai đứa bé. Chuyến lâu nhất ta từng trải qua trong quá khứ là hai tuần lễ. Hai đứa phải là người du hành thời gian nữa. Các con chống đỡ nổi trong những vi phạm cơ bản nhất của lĩnh vực nhân loại học: Các con thành người bản địa.” “Con ở đây từ trước đó rồi, Stephen,” Matthew ôn tồn , mặc dù các ngón tay gõ liên tục lên bắp đùi. Đó chưa bao giờ là dấu hiệu tốt. “Ta ý thức được điều đó, Matthew,” cha tôi bắn trả. “Nhưng cậu quá xa cùng quá nhiều nhân tố khả biến khiến cho quá khứ còn y nguyên như lúc ban đầu nữa.” “Quá khứ thay đổi chúng con,” tôi , dám đối diện với cái nhìn chằm chằm giận dữ của cha. “Cũng có lý do khiến chúng con thay đổi nó.” “Và điều đó vấn đề gì ư? Việc du hành thời gian là công việc nghiêm túc đấy Diana. Dù chỉ là chuyến viếng thăm ngắn ngủi nữa, con cũng cần có kế hoạch – bao gồm việc để lại phía sau mọi thứ con tìm thấy.” Tôi nhấp nhổm cựa mình ghế. “Chúng con định ở đây lâu đến thế. Việc này dẫn tới việc kia, và giờ…” “Giờ các con sắp sửa để lại đống hỗn độn. Con cũng có thể phát thấy đống lộn xộn đó khi quay về nhà.” Cha nhìn chúng tôi bằng cái nhìn u ám. “Con hiểu rồi cha. Chúng con xử lý tình huống rất kém.” “Đúng thế đấy,” ông nhàng . “Có lẽ các con muốn suy nghĩ về việc đó trong khi ta đến quán Mũ Hồng Y Giáo Chủ. Cái người tự giới thiệu mình là Gallowglass lúc ở dưới sân rằng ta là họ hàng của Matthew và hứa giúp cha gặp Shakespeare, trong khi chính con lại từ chối giúp.” Cha bẹo má tôi. Có thất vọng trong đó, cũng đồng thời là tha thứ nữa. “Đừng thức đợi cha nhé.” Matthew và tôi ngồi lại trong im lặng khi tiếng bước chân cha dần rồi tắt hẳn. Tôi hít vào hơi run rẩy. “Có phải chúng ta xử lý tình huống rất kém Matthew?” Tôi nhìn lại những tháng ngày vừa qua: gặp Philippe, phá vỡ phòng thủ của Matthew, quen biết Goody Alsop và các phù thủy khác, phát ra tôi là thợ dệt, làm bạn với Mary và các quý bà ở Malá Strana, đón nhận Jack và Annie vào ngôi nhà và vào trái tim của chúng tôi, phục hồi Ashmole 782, và đúng rồi, hoài thai đứa bé. Bàn tay tôi thả bụng che chở. Nếu được lựa chọn, tôi thay đổi chuyện gì cả. “Rất khó để biết được, mon coeur,” Matthew ủ ê . “Thời gian trả lời tất cả.” *** “Con nghĩ chúng con có thể gặp Goody Alsop, bà ấy giúp con làm câu thần chú để trở về tương lai.” Tôi đứng trước cha mình cùng chiếc hộp thần chú siết chặt trong hai bàn tay. Tôi vẫn thấy căng thẳng khi ở gần ông sau bài thuyết giáo ông dành cho Matthew và tôi tối hôm qua. “Đó là vấn đề thời gian,” cha tôi , với lấy cái áo khoác. Ông vẫn mặc kiểu đàn ông đại, cởi nó ra khi ở trong nhà và xắn tay áo sơ mi lên. “Cha nghĩ có bất kỳ lời gợi ý nào giúp được con. Cha thể đợi thêm nữa để được gặp thợ dệt lão luyện. Và cuối cùng, con cho cha xem có gì trong hộp chứ?” “Nếu cha tò mò về nó thế, tại sao cha hỏi?” “Con che che đậy đậy nó cẩn thận bằng màn khói mỏng của con như thế nên cha nghĩ con muốn ai đề cập đến nó,” ông khi chúng tôi xuống cầu thang. Khi chúng tôi đến xứ đạo của St. James Garlickhythe, bóng hồn của Goody Alsop ra mở cửa. “Vào , vào ,” bà , ra hiệu cho chúng tôi tiến tới chỗ ngồi của bà bên cạnh bếp lò. Hai mắt bà sáng rỡ đầy phấn khích. “Chúng ta đợi các vị đây.” Toàn bộ hội phù thủy đều ở đây và ngồi mép ghế. “Goody Alsop, đây là cha cháu, Stephen Proctor.” “Thợ dệt.” Goody Alsop rạng rỡ với vẻ thỏa mãn. “Ông là thợ dệt mang tính nước, giống như con ông.” Cha tôi hơi khom người như ông vẫn thường làm thế, quan sát mọi người và ít nhất có thể trong khi tôi làm thủ tục giới thiệu. Tất cả đám phụ nữ đều cười và gật đầu đáp lại, mặc dù Catherine phải lặp lại mọi điều với Elizabeth Jackson vì trọng của cha tôi lạ lùng quá. “Ông phiền chia sẻ cho chúng tôi biết tên sinh vật của ông chứ?” Goody Alsop nhìn chằm chằm vào vai cha tôi, nơi có thể nhìn thấy đường nét mờ mờ của con diệc. Tôi chưa bao giờ nhận thấy nó trước đây. “Bà có thể nhìn thấy Bennu ư?” Cha tôi ngạc nhiên . “Dĩ nhiên rồi. chàng đậu ở đó, dang rộng cánh, ngang qua hai vai ông. Tinh linh thiết thân của tôi có cánh, mặc dù tôi có mối liên hệ mạnh mẽ với khí. Tôi ngờ là vì đó mà dễ thuần hóa ta hơn. Tên ta là Ella và rất khó huấn luyện.” Bóng hồn của Goody Alsop lướt quanh cha tôi, khe khẽ ngâm nga với con chim khi bắt đầu nhìn nó hơn. “Có lẽ Bennu của ông có thể dỗ được nàng rồng lửa của Diana bỏ tên đó đấy. Tôi nghĩ, như thế giúp con ông trở về thời đại của ấy dễ dàng hơn. Chúng tôi muốn có bất kỳ dấu vết nào từ vật thiết thân của ấy để lại nơi này vì nó kéo Diana trở lại London.” “Ái chà.” Cha tôi đấu tranh để tiếp nhận tất cả chuyện này – nhóm hội của các phù thủy, bóng hồn của Goody Alsop và thực tế là các bí mật của ông bị phô bày ra. “Ai cơ?” Elizabeth Jackson lịch hỏi, cho rằng mình hiểu nhầm. Cha tôi hơi ngả người ra sau quan sát Elizabeth cẩn thận. “Chúng ta gặp nhau chưa nhỉ?” “Chưa, đó là ông nhận ra nước trong huyết mạch của tôi đấy. Chúng tôi vui vì có ông ở đây, ông Proctor. Chưa khi nào lại có ba thợ dệt cùng lúc ở London thế này. Thành phố này ồn ào.” Goody Alsop ra hiệu về chiếc ghế bên cạnh bà. “Ngồi xuống nào.” Cha tôi nhận lấy vị trí vinh dự đó. “ có ai ở nhà biết về công việc thợ dệt này cả.” “Ngay cả mẹ con cũng ư?” Tôi thở hắt ra. “Cha, cha phải cho mẹ biết.” “Ồ, bà ấy biết nhưng cha kể mà cho mẹ con xem.” Các ngón tay cha tôi gập lại rồi thả ra theo bản năng thể mệnh lệnh. Thế giới được thắp sáng trong những cái bóng màu xanh lục, xám, tím oải hương và xanh lá khi ông kéo tất cả những sợi tơ mang tính nước giấu trong căn phòng: những cành liễu trong cái bình cạnh cửa sổ, giá nến bạc mà Goody Alsop dùng cho các câu thần chú của bà và con cá đợi để nướng lên cho bữa tối. Mọi người và mọi vật trong căn phòng đều bị phủ trong những sắc màu của nước. Bennu bay lên, đôi cánh nhọn màu bạc của nó khuấy động khí tạo thành những đợt sóng. Bóng hồn của Goody Alsop bị thổi bay hết bên này sang bên kia theo dòng nước, hình dáng của ta thay đổi thành bông hoa bách hợp cuống dài, rồi trở về hình dạng con người và mọc ra những cái cánh. Hai tinh linh thiết thân như thể chơi đùa cùng nhau. Trước cảnh giải lao ấy, nàng rồng lửa cũng vẫy đuôi và đập đập hai cánh vào xương sườn tôi. “ phải bây giờ,” tôi nghiêm khắc bảo nàng, tay nắm chặt lấy thân áo phía . Điều cuối cùng chúng tôi cần là con rồng lửa nhảy cẫng lên vì vui sướng. Khả năng kiểm soát của tôi trong quá khứ có thể sơ suất, nhưng tôi biết hơn hết việc thả con rồng vào London thời đại Elizabeth là thế nào. “Để bé ra , Diana,” cha tôi thúc giục. “Ben trông nom bé.” Nhưng tôi thể để mình làm thế. Cha tôi gọi Bennu, nó nhạt dần vai ông. Phép thuật nước xung quanh tôi cũng nhạt dần . “Tại sao con lại e sợ?” Cha tôi lặng lẽ hỏi. “Con sợ bởi vì cái này!” Tôi phất các sợi thừng của tôi trong khí. “Và cái này nữa!” Tôi đập vào xương sườn mình, hích vào rồng lửa. nàng phun lửa đáp lại. Tôi trượt bàn tay xuống nơi bé con của chúng tôi lớn lên. “Và đây nữa, có quá nhiều. Con cần dùng đến phép thuật mạnh mẽ phô trương như cách cha vừa làm. Con hạnh phúc vì là chính mình.” “Con có thể dệt các câu thần chú, ra lệnh cho rồng lửa, uốn cong các quy luật thống trị sống và cái chết. Con cũng ổn định, dễ thay đổi như bản thân sáng tạo, Diana ạ. Những thứ này là quyền năng mà bất cứ phù thủy có tự tôn nào cũng giết người vì nó.” Tôi kinh hãi nhìn ông. Ông mang đến thứ mà tôi thể đối mặt trong căn phòng này: Những phù thủy giết người vì thứ sức mạnh này. Họ cũng giết cha và mẹ tôi. “Việc đặt phép thuật của con nằm gọn gàng trong những chiếc hộp và giữ nó tách biệt hẳn với thuật phù thủy giúp cho mẹ con và ta thoát khỏi số mệnh được đâu,” cha tôi tiếp tục buồn bã . “Đó phải điều con cố gắng làm.” “ sao?” Lông mày ông nhướng lên. “Con muốn thử lần nữa , Diana?” “Dì Sarah , phép thuật mạnh và thuật phù thủy là thứ hoàn toàn tách biệt. Dì …” “Quên những gì Sarah !” Cha nắm lấy hai vai tôi. “Con phải là Sarah cũng như giống bất cứ phù thủy nào từng sống. Con phải lựa chọn giữa các câu thần chú và sức mạnh ở ngay đầu ngón tay mình. Chúng ta là thợ dệt, đúng ?” Tôi gật đầu. “Vậy hãy nghĩ phép thuật mạnh mẽ như chiếc khung dệt – những sợi tơ khỏe mạnh làm nên thế giới – và nghĩ đến các câu thần chú như những sợi ngang – đều là phần của tấm thảm dệt. Tất cả là hệ thống lớn, con ạ. Con có thể nắm bắt nó, nếu con gạt nỗi sợ hãi của mình.” Tôi có thể nhìn thấy các khả năng phát sáng quanh mình trong những tấm lưới màu sắc và bóng tối, nhưng nỗi sợ vẫn còn. “Đợi . Con có mối liên kết với lửa, giống mẹ. Chúng ta biết nước và lửa phản ứng như thế nào, con chưa học những bài đó.” Tôi nghĩ, bởi Praha, bởi chúng tôi còn bận săn lùng Ashmole 782 và quên mất chuyện tập trung vào tương lai và việc quay trở về đó. “Vậy con là cầu thủ đánh bóng bằng cả hai tay – vũ khí bí mật của phù thủy đây chăng.” Ông cười vang. “Chuyện này nghiêm túc mà cha.” “ cần phải thế.” Cha tôi để câu đó lắng xuống, rồi bắt lấy đầu sợi tơ màu xám và xanh lá. “Cha làm gì đấy?” Tôi hoài nghi hỏi. “Quan sát ,” ông đáp trong tiếng rì rầm như những con sóng xô vào bờ cát. Ông kéo ngón tay về phía mình và mím chặt môi như thể cố giữ phép thổi bóng vô hình. Khi ông thổi ra, quả bóng nước thành hình. Ông búng ngón tay về phía cái xô nước gần lò sưởi, quả bóng chuyển thành đá, bồng bềnh và rơi vào cái xô đánh bõm cái. “Mắt bò.” Elizabeth cười khúc khích, thả dòng bong bóng nước vào khí, mỗi trái bóng nhả ra trận mưa nước bé xíu. “Con thích những thứ biết , Diana, nhưng đôi khi con phải nắm lấy nó. Con sợ hãi khi lần đầu tiên cha đặt con lên chiếc xe đạp ba bánh và con ném những khối đồ chơi vào tường khi thể xếp tất cả chúng trở lại vào hộp. Chúng ta trải qua những cuộc khủng hoảng đó. Cha chắc chắn chúng ta có thể giải quyết chuyện này.” Cha tôi chìa tay ra. “Nhưng nó quá…” “Hỗn loạn? Đời là thế mà. Hãy thôi cố gắng hoàn hảo . Hãy thử thực thay đổi.” Cánh tay cha tôi quét qua khí, làm lộ ra tất cả các sợi tơ bình thường vẫn nhìn thấy. “Cả thế giới trong căn phòng này. Hãy tận dụng thời gian và tìm hiểu nó .” Tôi quan sát kỹ các kiểu mẫu và thấy những luồng màu sắc xung quanh các phù thủy biểu lộ sức mạnh cụ thể của họ. Các sợi tơ lửa và nước vây xung quanh tôi trong mớ hỗn độn những sắc màu tương phản. Cơn hoảng sợ của tôi quay trở lại. “Hãy gọi lửa ,” cha tôi , đơn giản như thể đó là chuyện đặt cái bánh pizza. Sau thoáng do dự, tôi ngoắc ngón tay và ước lửa đến với tôi. sợi tơ màu đỏ cam mắc đầu ngón tay. Khi tôi thở ra hơi qua bờ môi mím chặt, hàng tá bong bóng ánh sáng và hơi nóng li ti bay vào khí như những con đom đóm. “Dễ thương quá, Diana!” Catherine vỗ tay kêu lên. Giữa tiếng vỗ tay và ánh lửa, nàng rồng lửa của tôi muốn được thả ra. Bennu kêu lên từ vai bố tôi và rồng lửa đáp lại. “,” tôi , nghiến chặt răng. “Đừng có phá bĩnh như thế. nàng là con rồng – phải cá vàng. Tại sao con luôn cố giả vờ phép thuật là bình thường nhỉ? Hãy để nàng bay !” Tôi thả lỏng người, xương sườn mềm , xương sống của tôi mở ra như những trang giấy của cuốn sách. Rồng lửa của tôi thoát ra khỏi kìm hãm ngay khi có cơ hội đầu tiên, đập đập đôi cánh trong khi biến hóa từ màu xám mờ nhạt thành ngũ sắc lấp lánh tỏa sáng. Cái đuôi của nó xoắn cong thành cái nút thắt lỏng và lượn vòng quanh phòng. Rồng lửa bắt những trái bóng ánh sáng xíu bằng răng rồi nuốt chúng như ăn kẹo. Sau đó, nàng chuyển chú ý sang những quả bong bóng nước của cha tôi, như thể chúng là thứ sâm-panh ngon lành. Khi chơi đủ rồi, nàng vỗ cánh lơ lửng trong trung trước mặt tôi, cái đuôi đập đập xuống sàn nhà và nghiêng đầu chờ đợi. “ bé là gì thế này?” Tôi tự hỏi, làm thế nào nó có thể xoay sở để hấp thụ được tất cả những sức mạnh trái ngược của nước và lửa. “Là , nhưng phải .” Rồng lửa chớp chớp đôi mắt như thủy tinh trong suốt quan sát tôi. trái bóng năng lượng xoáy tròn thăng bằng ở cuối cái đuôi có hình răng cưa của nó. Rồng lửa vẩy đuôi hất quả bóng vào hai bàn tay tôi. Nó trông giống trái cầu tôi tặng Matthew ở Madision. “Tên bé là gì?” Tôi thầm hỏi. “ có thể gọi tôi là Corra,” nàng bằng thứ ngôn ngữ của khói và sương mù. Corra lúc lắc cái đầu chào tạm biệt, tan dần thành cái bóng xám và biến mất. Sức nặng của nàng uỵch cái lại vào trong người tôi, hai cánh khum vòng quanh lưng tôi, và chỉ còn tĩnh lặng. Tôi hít vào hơi sâu. “ tuyệt vời, con .” Cha tôi ôm siết lấy tôi chặt. “Con suy nghĩ như lửa. Cảm thông và chia sẻ là bí mật của vạn vật trong cuộc sống này – bao gồm cả phép thuật trong đó. Hãy nhìn xem, giờ những sợi tơ mới sáng làm sao!” Thế giới xung quanh chúng tôi sáng lấp lánh hơn bao giờ hết. Trong các góc phòng, màn dệt màu chàm và hổ phách cũng sáng dần lên đều đều, cảnh báo rằng thời gian ngày gấp gáp rồi.
38. “Hai tuần qua rồi, giờ cha phải thôi.” mấy bất ngờ nhưng những lời này cũng giáng vào tôi đòn choáng váng. Tôi cụp mắt nhìn xuống để che giấu vẻ bối rối. “Nếu cha trình diện sớm, mẹ con nghĩ cha lại với người bán cam.” “Người bán cam ngụ ý nhiều điều trong thế kỷ mười bảy này,” tôi lơ đãng , kéo thẳng mấy nút sợi thừng nằm lòng mình. Giờ tôi tiến bộ vững vàng mọi phương diện, từ những bùa chú đơn giản chữa bệnh đau đầu đến các nút dệt phức tạp hơn, có thể gây sóng gợn lăn tăn sông Thames. Tôi bện hai sợi thừng màu vàng kim và xanh dương quanh mấy ngón tay. Sức mạnh và hiểu biết. “Ồ, con bình phục nhanh đấy Diana.” Cha tôi quay sang Matthew. “Con bé hồi phục nhanh quá.” “Cha thêm về chuyện đó ,” chồng tôi đáp lời bằng giọng đều đều khô khan. Cả hai cố gắng dùng các câu chuyện hài hước để làm mềm những khía cạnh thô cứng trong mối quan hệ giữa hai người, mà đôi khi khiến họ trở nên thể chịu đựng nổi. “Ta rất vui được gặp cậu, Matthew - kể tới ánh mắt đáng sợ mỗi khi cậu nghĩ rằng ta sai khiến Diana,” cha cười . Tôi phớt lờ những lời giễu cợt của họ và bện xoắn sợi thừng màu vàng vào hai sợi vàng kim cùng xanh dương. Thuyết phục. “Cha có thể ở lại tới mai ? Nếu để lỡ dịp lễ kỷ niệm cha thấy ân hận đấy.” Ngày mai là lễ hội Hạ Chí và cả thành phố nghỉ lễ. Tôi sợ rằng, cái cớ đêm cuối cùng ở bên con cũng thể níu giữ cha ở lại, nên đành ngại ngùng dựa dẫm vào những hứng thú về học thuật của ông. “Lễ hội có rất nhiều phong tục dân gian để cha quan sát.” “Các phong tục dân gian sao?” Cha tôi bật cười. “Con khéo , nhưng tất nhiên cha ở lại tới ngày mai. Annie làm tặng cha vòng hoa, và cha cùng Will đến hút thuốc với Walter, sau đó ghé thăm Cha Hubbard.” Matthew cau mày. “Cha biết Hubbard sao?” “Ồ, tất nhiên. Khi mới tới, ta chủ động giới thiệu bản thân với ông ta. Ta nên làm vậy khi ông ấy là người quản lý tại đây. Cha Hubbard nhận ra ta là cha của Diana ngay. Loài của cậu có khả năng khứu giác đáng nể.” Cha tôi nhìn Matthew bằng ánh mắt nhân từ. “ người đàn ông thú vị, với những ý tưởng xây dựng gia đình lớn và hạnh phúc cho tất cả các sinh vật khác người.” “Thế giới đó hoàn toàn hỗn loạn.” Tôi thẳng. “Tất cả chúng ta góp phần tạo ra nó, như đêm qua, trong cùng mái nhà với ba ma cà rồng, hai phù thủy, tinh, hai con người và con chó. Đừng vội gạt bỏ các ý tưởng mới, Diana.” Cha nhìn tôi bằng ánh mắt phản đối. “Có thể cha qua chơi với Catherine và Marjorie. Rất nhiều phù thủy đổ ra đường lang thang vào tối nay nên cha tin hai người họ biết chỗ nào đông vui nhất.” Dường như ông giao tiếp bằng tên riêng với phân nửa thành phố này. “Và cha phải cẩn thận, đặc biệt lúc ở quanh Will, cha ạ. Đừng ‘Oa’ hay ‘Được đấy, Shakespeare.’” Cha của tôi rất thích tiếng lóng. Ông từng , đó là dấu hiệu của nhà nhân chủng học. “Giá mà cha có thể đưa Will về nhà cùng mình, cậu ta là – xin lỗi con - đồng nghiệp thú vị. Cậu ta có khiếu hài hước và trường của chúng ta nên làm việc với những người như vậy. Thay đổi từng chút , con hiểu ý cha chứ.” Ông xoa hai bàn tay vào nhau. “Kế hoạch của con thế nào?” “Bọn con có kế hoạch nào cả.” Tôi ngây người nhìn Matthew và nhún vai đáp trả. “Con nghĩ mình trả lời thư từ,” ngập ngừng . Chồng thư gửi tới chất cao tới mức báo động. “Ôi, .” Cha tôi ngồi xuống ghế với vẻ mặt khó chịu. “Chuyện gì vậy ạ?” Tôi quay đầu để xem ai hay cái gì mới bước vào phòng. “Đừng với cha rằng con là kiểu người học thuật nhé, những kẻ chẳng phân biệt nổi khác biệt giữa cuộc sống và công việc.” Ông hất mạnh hai tay như thể né tránh thứ khó chịu. “Cha muốn tin rằng con mình là kẻ giống họ.” “Cha hơi cường điệu rồi,” tôi đáp khô khan. “Bọn con có thể ở bên cha vào buổi tối, nhưng con chưa bao giờ hút thuốc. Đầu tiên nó là vấn đề liên quan tới lịch sử với Walter, vì ta giới thiệu thuốc lá vào nước .” Giờ đây, cha tôi còn tỏ vẻ kinh hãi hơn. “Hoàn toàn . Chúng ta liên kết lại như những người đồng chí. Lionel Tiger biện luận rằng…” “Con phải người hâm mộ cuồng nhiệt của Tiger,” Matthew cắt ngang. “Gã ăn thịt đồng loại đó chẳng bao giờ khiến con thấy hứng thú.” “Chúng ta có thể đặt chủ đề ăn thịt người sang bên và tập trung thảo luận lý do mà cha muốn ở bên Matthew và con vào đêm cuối cùng trước ?” Tôi cảm thấy bị tổn thương. “ phải vậy, con . Matthew, giúp ta thoát khỏi chuyện này , hãy đưa Diana ra ngoài hẹn hò, hẳn cậu phải nghĩ ra điều gì đó để làm chứ.” “Trượt pa-tanh ư?” Đôi lông mày của Matthew nhướn lên. “Chẳng có sân trượt pa-tanh nào tại London vào thế kỷ mười sáu cả và con muốn thêm rằng, ở thế kỷ hai mươi mốt cũng chỉ còn vài cái sân quý báu thôi.” “Chết tiệt.” Cha tôi và Matthew chơi trò “mốt đối đầu theo xu thế” vài ngày nay và trong khi cha tôi cảm thấy vui mừng vì thịnh hành của nhạc disco hay xu hướng Pet Rock bị phai tàn dần theo thời gian lại hoàn toàn choáng váng lúc hay tin, những thứ khác như bộ com-lê quần ống loe giờ trở thành mục tiêu chế giễu. “Ta rất thích trượt pa-tanh. Rebecca và ta thường tới sân tại Dorchester khi muốn tránh xa Diana vài tiếng, và…” “Chúng con dạo,” tôi vội vàng lên tiếng. Cha tôi cần phải thẳng thắn tới mức kể cho Matthew về những hoạt động cha và mẹ thường làm lúc rảnh rỗi. Có vẻ ông nghĩ rằng, những chuyện đó khiến Matthew bị choáng váng, nhưng khi thất bại, ông liền quay sang gọi Matthew là “Ngài Lancelot”, kiểu đánh giá khó chịu. “ dạo, con dạo.” Cha tôi tạm dừng lời. “Con muốn ám chỉ theo nghĩa đen phải ?” Ông rời khỏi vị trí bên cạnh chiếc bàn. “Chả trách các sinh vật khác người sắp tuyệt chủng rồi. Ra ngoài , cả hai đứa, ngay lập tức. Và ta cầu cả hai phải vui vẻ nhé.” Ông dẫn chúng tôi về hướng cửa. “Làm thế nào ạ?” Tôi hỏi, lúc này hoàn toàn bối rối. “ con nên dành câu hỏi này cho cha mình. Giờ là đêm trước lễ hội Hạ chí. Con hãy ra ngoài và hỏi người đầu tiên con gặp ấy, mà tốt hơn là làm theo những người khác. Hú dưới ánh trăng chẳng hạn. Thi triển phép thuật. Hôn nhau ít nhất lần. Hãy chắc chắn rằng cả quý ngài Lancelot đây cũng làm nhé.” Ông hất hàng lông mày. “Hãy vẽ bức chân dung nhé, quý Bishop?” “Con cũng nghĩ vậy.” Giọng của tôi đầy nghi ngờ về những gợi ý vui chơi của cha mình. “Tốt. Ta về trước bình minh đâu, nên đừng đợi. Tốt hơn là ở bên ngoài cả đêm ấy. Jack ở cùng Tommy Harriot, Annie ở với dì của con bé còn Pierre … ta cũng biết ở đâu nhưng cậu ta cần người trông nom. Ta gặp hai đứa vào bữa sáng mai.” “Cha bắt đầu gọi Thomas Harriot là Tommy từ khi nào vậy?” Tôi hỏi nhưng ông giả bộ chẳng nghe thấy. “Nào con, hãy ôm cha trước khi và đừng quên nếm trải nhiều niềm vui nhé, được chứ?” Ông dang tay ôm tôi vào lòng. “Hẹn gặp con ngày mai, con .” Cha đẩy chúng tôi ra khỏi cửa và đóng sầm lại trước mặt cả hai. Tôi định đưa tay với cái then cửa bàn tay mát lạnh của Matthew nắm lấy tay tôi. “Ông ấy rời khỏi đây sau vài tiếng nữa, Matthew ạ.” Tôi đưa tay còn lại về phía cánh cửa và Matthew lại nắm lấy nó. “ biết và ông ấy cũng biết chúng ta hiểu,” Matthew giải thích. “Vậy ông ấy nên hiểu rằng, em muốn được ở bên ông nhiều hơn.” Tôi nhìn chằm chằm vào cánh cửa, mong rằng cha mở nó ra. Tôi có thể trông thấy những sợi tơ xuất phát từ bản thân, xuyên qua các thớ gỗ cửa và dẫn tới vị pháp sư ở bên trong. trong các sợi tơ bị cắt đứt và rơi lên bàn tay tôi như dải cao su. Tôi thở hổn hển. “Cha ơi!” “ , Diana!” Ông hét lên. Matthew cùng tôi lang thang quanh thành phố, quan sát các tiệm đóng cửa sớm và nhận thấy những đám ăn chơi lấp đầy các quán rượu. Những người bán thịt sắp xếp các chồng xương cách kỳ lạ trước cửa nhà. Tất cả đều trắng ởn và sạch như thể chúng mới được luộc lên. “Người ta dùng xương vào việc gì vậy?” Tôi hỏi Matthew sau khi cả hai nhìn thấy người thứ ba làm điều tương tự. “Đống xương đó được đốt.” “Lửa ăn mừng ư?” “,” Matthew đáp, “những đống lửa cháy xương. Theo truyền thống, mọi người ăn mừng đêm trước lễ Hạ chí bên ngọn lửa lớn: lửa từ xương, lửa từ củi và cả hai. Mặc dù ông thị trưởng cảnh báo về việc ngừng và chấm dứt các lễ kỷ niệm kiểu mê tín dị đoan như vậy mỗi năm, nhưng mọi người vẫn đốt lửa bằng mọi cách.” Matthew chiêu đãi tôi bữa tối tại quán trọ danh tiếng Belle Savage nằm ngay phía ngoài Blackfriars đồi Ludgate. chỉ là quán ăn bình thường, tiệm Belle Savage còn là tổ hợp giải trí, nơi các vị khách có thể xem kịch nghệ và các trận đấu được rào chắn cẩn thận, chưa kể đến Marocco, con ngựa nổi tiếng vì có thể chọn ra những người còn trinh tiết giữa đám đông. Tuy nơi đây phải sân trượt pa-tanh ở Dorchester nhưng nó gần chỗ chúng tôi ở. Thanh thiếu niên của thành phố đều đổ ra đường thành từng đám, người này la hét lăng mạ và ám chỉ bóng gió với người kia mỗi khi họ từ quán rượu này sang quán rượu khác. Họ phải lao động nặng nhọc gần như cả ngày với vai trò người hầu hay thợ học việc, thậm chí nhiều buổi tối, họ cũng có được thời gian riêng của bản thân mà phải làm thêm những việc được nhà chủ giao cho như trông tiệm, trông nhà, chăm sóc đám trẻ con, kiếm nước và thức ăn, làm hàng trăm việc nhà nhặt khác nhau để duy trì lối sống trong gia đình. Nhưng đêm nay, London là của họ và chính họ là những người tạo nên nó. Chúng tôi về qua Ludgate và khi cả hai tiến tới gần lối vào khu Blackfriars hồi chuông điểm chín giờ tối vang lên. Thường ngày, vào giờ này, các thành viên của Đội Tuần Phòng bắt đầu tuần và mọi người nên trở về nhà, nhưng dường như đêm nay, ai muốn tuân theo các luật lệ, dù mặt trời lặn khoảng tiếng trước và ngày nữa trăng mới tròn, nhưng các con phố của London giờ ngập tràn ánh trăng. “Chúng ta cứ lang thang tiếp có được ?” Tôi hỏi. Tôi và Matthew luôn tới nơi cụ thể như tới lâu đài của Baynard để gặp Mary, tới St. James Garlickhythe để thăm nhóm hội phù thủy hay tới sân nhà thờ Thánh Paul để tìm sách. Cả hai chưa bao giờ dạo qua thành phố mà có đích đến cụ thể trong đầu như thế này. “Vì chúng ta phải ở bên ngoài vui chơi, chẳng thấy lý do nào để phản đối cả.” Matthew rồi nghiêng đầu hôn trộm cái. Chúng tôi dạo quanh cổng phía Tây của nhà thờ Thánh Paul, nơi vẫn tấp nập và hối hả bất chấp giờ giấc, rồi cả hai ra khỏi sân nhà thờ bằng cổng phía bắc. Từ đây, khu Cheapside mở ra, con phố rộng rãi cũng như thịnh vượng nhất thành phố, nơi các thợ kim hoàn làm việc. Chúng tôi vòng qua đài phun nước tại ngã tư Cheapside, được trưng dụng thành bể lội nước của nhóm mấy cậu chàng om sòm, rồi cả hai hướng về phía đông. Matthew chỉ cho tôi lộ trình của đám rước trong lễ đăng quang của Anne Boleyn và ngôi nhà mà Geoffrey Chaucer từng sống thời thơ ấu. Vài thương gia mời Matthew tham gia trò ném bi cùng họ nhưng sau ba lần trúng đích liên tiếp họ liền la ó đuổi ra. “Giờ có thấy vui khi chứng minh được vị trí đầu đàn của mình ?” Tôi trêu khi Matthew vòng tay qua để kéo tôi lại gần. “Vô cùng,” đáp, sau đó trỏ vào cây chỉ đường phố. “Nhìn này.” “Khu Thương mại Hoàng gia.” Tôi quay sang với vẻ phấn khích. “Vào buổi đêm! vẫn nhớ.” “ quý ông bao giờ quên điều gì,” thầm và cúi thấp đầu. “ biết còn tiệm nào mở cửa , nhưng đèn vẫn sáng. Em dạo bước cùng qua khu sân trong chứ?” Chúng tôi qua các khung cửa tò vò rộng lớn, nằm bên cạnh là tháp chuông có đặt tượng con châu chấu bằng vàng đỉnh. Vào đến bên trong, tôi chầm chậm xoay người để có cái nhìn đầy đủ nhất về tòa nhà bốn tầng này, cùng hàng trăm gian hàng bán mọi thứ đồ, từ áo giáp sắt tới đót giày. Loạt bức tượng của các vị vua nước nhìn xuống đám đông khách hàng và thương nhân, kèm theo đó là đợt bệnh dịch châu chấu được trang trí đỉnh các ô cửa sổ mái vòm bằng kính. “Châu chấu là biểu tượng của Gresham, ông ta cũng hề ngần ngại tự quảng bá bản thân,” Matthew cười , dõi theo ánh mắt của tôi. Quả thực, vài cửa tiệm vẫn mở và dãy đèn chạy dọc con đường mái vòm bao quanh khu sân trong vẫn thắp sáng, còn chúng tôi phải là những người duy nhất thích thú buổi tối nay. “Tiếng nhạc từ đâu vậy?” Tôi hỏi, nhìn ngó xung quanh tìm người hát rong. “ tháp,” Matthew đáp và chỉ về hướng cả hai tiến vào. “Các thương gia góp tiền tổ chức nhiều buổi hòa nhạc vào những ngày thời tiết ấm áp. Hoạt động này có ích cho việc kinh doanh” Matthew cũng là người có ích cho việc kinh doanh, dựa số lượng người bán hàng chào bằng tên riêng biết. cười đùa và hỏi thăm về vợ con của họ. “ quay lại ngay,” và tạt vào cửa tiệm gần đấy. Tôi bối rối đứng nghe nhạc và quan sát phụ nữ trẻ có uy quyền và quyết đoán tổ chức buổi dạ vũ ngẫu hứng. Mọi người đứng thành vòng tròn, nắm tay nhau và nhảy lên nhảy xuống như bỏng ngô nổ chảo nóng. Khi quay lại, Matthew tặng tôi quà kèm với tất cả các nghi thức kiểu cách. “ cái bẫy chuột,” tôi cười khúc khích nhìn chiếc hộp gỗ có cánh cửa trượt. “Nó là cái bẫy chuột đúng kiểu,” đáp và cầm lấy tay tôi, rồi bắt đầu lùi bước dẫn tôi vào trung tâm của đám đông. “Khiêu vũ cùng nào.” “Hiển nhiên là em biết điệu nhảy này rồi.” Nó hề giống những điệu mà chúng tôi từng khiêu vũ tại Sept-Tours hoặc ở lâu đài của Rudolf. “Đúng, cũng vậy,” Matthew đáp, buồn ngó lại các cặp đôi xoay vòng sau lưng. “Đây là điệu nhảy cổ – điệu Chú Ngựa Ô – các bước cũng dễ thôi.” kéo tôi vào vị trí cuối hàng, giật cái bẫy chuột khỏi tay tôi và trao cho cậu nhóc lang thang cầm hộ, hứa hẹn với nó đồng xu nếu nó trả lại vào cuối bản nhạc. Matthew nắm lấy tay tôi, bước vào hàng người khiêu vũ. Khi họ di chuyển, chúng tôi làm theo, tiến tới ba bước và bước bật , lùi sau ba bước kèm bước bật . Sau vài lần lặp lại, chúng tôi chuyển sang các bước nhảy phức tạp hơn khi mười hai người khiêu vũ trong hàng chia làm hai hàng sáu người và bắt đầu đổi chỗ, bắt chéo từ hàng này sang hàng khác, tạo thành làn sóng ra sau và trước. Lúc điệu nhảy kết thúc, chúng tôi nhanh chóng rời khỏi khu Thương mại Hoàng gia trước khi đám đông khiêu vũ trở nên quá khích, những tiếng cầu đòi nhiều giai điệu đặc trưng hơn vang lên. Matthew lấy lại cái bẫy chuột cho tôi nhưng thay vì đưa tôi về thẳng nhà, đưa cả hai về phía nam, hướng ra sông. Chúng tôi xuôi xuống nhiều ngõ hẻm, cắt ngang rất nhiều sân nhà thờ, tới khi tôi hoàn toàn mất khả năng định hướng, cả hai tiến vào All Hallows Vĩ đại, cũng tòa tháp vuông cao lớn và dãy mái hiên bị bỏ hoang, nơi các thầy tu từng thời qua. Giống hầu hết các nhà thờ khác tại London, All Hallows dần đổ nát, phần công trình bằng đá từ thời trung cổ của nó bị vỡ vụn. “Em có hứng thú trèo lên ?” Matthew hỏi, cúi đầu tiến vào dãy mái hiên và bước qua cánh cửa gỗ thấp. Tôi gật đầu và cả hai bắt đầu trèo lên. Chúng tôi ngang qua mấy cái chuông, chúng mà kêu lên lúc này chẳng vui vẻ gì và Matthew kéo mạnh cánh cửa sập mái. nhảy vụt qua khung cửa rồi với xuống nhấc tôi lên cùng. Chúng tôi thấy mình bỗng nhiên đứng sau hàng lỗ châu mai của tòa tháp, với tất cả khung cảnh London trải rộng bao la dưới chân. Những đống lửa hội nhiều quả đồi bên ngoài thành phố được đốt sáng, cả những chiếc đèn bão lúc lắc lên xuống mũi mỗi thuyền và xà lan ngang qua sông Thames. Từ khoảng cách này, trong bóng đêm bao phủ, con sông giống như tấm màn sân khấu, còn những chiếc đèn chập chờn tựa đàn đom đóm ngang qua. Tôi nghe thấy tiếng cười đùa cùng tiếng nhạc, tất cả những thanh bình dị của cuộc sống mà tôi quá quen thuộc trong suốt nhiều tháng ở đây. “Vậy em diện kiến nữ hoàng, trông thấy khu Thương mại Hoàng gia vào buổi tối, thực tham gia vào vở diễn thay vì chỉ đứng quan sát từ bên ngoài,” Matthew , điểm lại đầu các ngón tay. “Chúng ta cũng tìm ra Ashmole 782. Em khám phá ra mình là thợ dệt và phép thuật chẳng có quy luật như em mong chờ.” Tôi nhìn bao quát toàn thành phố, nhớ lại lần đầu tiên chúng tôi tới London, Matthew chỉ ra giới hạn cho những nỗi sợ giờ còn trong tôi nữa. Lúc này, tôi có thể tự mình gọi tên chúng. “Đó là Bridewell.” Tôi chỉ. “Và nhà thờ Thánh Paul. Cả khu đấu trường trò chó trêu gấu nữa.” Tôi quay sang chàng ma cà rồng đứng yên lặng bên mình. “Cảm ơn vì buổi tối nay, Matthew. Chúng ta chưa bao giờ có buổi hẹn hò công khai như thế này. Quả là phép màu.” “ chưa làm tốt công việc tán tỉnh em phải? Chúng ta nên có nhiều buổi tối như thế này, khiêu vũ và nhìn ngắm trời sao.” ngẩng mặt lên và ánh trăng dìu dịu phản chiếu từ làn da tái nhợt của . “ thực tỏa sáng đó.” Tôi nhàng , với tay chạm lên cằm . “Em cũng vậy.” Bàn tay của Matthew trượt xuống eo tôi và hành động đó mang cả đứa con vào trong vòng tay ôm siết của cả hai. “Chuyện này nhắc nhớ, cha em cho chúng ta cả danh sách công việc phải làm.” “Chúng ta vui vẻ. tạo ra phép thuật bằng cách đưa em tới khu thương mại và khiến em bất ngờ trước khung cảnh này.” “Vậy chỉ còn hai việc nữa, quý bà hãy chọn : có thể hú dưới ánh trăng hoặc chúng ta hôn nhau say đắm.” Tôi mỉm cười và nhìn ra xa, cảm thấy xấu hổ cách kỳ lạ. Matthew ngẩng đầu nhìn mặt trăng lần nữa, chuẩn bị sẵn sàng. “ gào hú nhé vì khiến Đội Tuần Phòng tới đây mất,” tôi bật cười phản đối. “Vậy hôn nhé,” dịu dàng , đặt môi mình lên môi tôi. *** Ngày hôm sau, cả gia đình đều ngáp dài suốt bữa sáng, sau đêm ở bên ngoài tới tận sớm mai. Tom và Jack vừa mới thức giấc và ngấu nghiến bát cháo đặc Gallowglass bước vào thầm điều gì đó với Matthew. Miệng tôi khô khốc khi nhìn thấy ánh mắt đượm buồn của Matthew. “Cha tôi đâu?” Tôi đứng phắt dậy. “Ông ấy rồi,” Gallowglass cộc cằn đáp. “Tại sao cậu ngăn ông ấy lại?” Tôi hỏi Gallowglass, nước mắt chực trào dâng. “Ông ấy thể được. Tôi chỉ cần thêm chút thời gian bên cha thôi.” “Tất cả thời gian thế giới gộp vào cũng đủ đâu, ạ,” Gallowglass buồn bã . “Nhưng ông ấy chưa chào tạm biệt,” tôi lặng người thầm. “Cha mẹ chẳng bao giờ lời từ biệt cuối cùng với con của họ đâu,” Matthew lên tiếng. “Ông Stephen bảo cháu đưa cái này,” Gallowglass . Đó là mảnh giấy , được gấp thành hình con thuyền buồm. “Cha muốn gập hình thiên nga,” tôi , lau khô mắt, “nhưng ông gập thuyền giỏi hơn.” Tôi thận trọng gỡ tờ giấy nhắn ra. Diana: Con trưởng thành đúng như cha hằng mong đợi. Cuộc sống là sợi tơ dọc mạnh mẽ khung cửi thời gian. Cái chết chỉ là sợi tơ ngang bình thản. Nhờ những đứa trẻ của con và cả những đứa con của chúng nữa mà cha vẫn tồn tại mãi mãi. Cha Tái bút: Mỗi khi con đọc câu “có thứ gì đó thối nát ở Đan Mạch” trong Hamlet, hãy nhớ đến cha. “Em với rằng, phép thuật chỉ là lòng khao khát tạo thành . Có thể các câu thần chú là gì ngoài những lời mà ta tin tưởng bằng cả trái tim,” Matthew lên tiếng và bước tới đặt tay vai tôi. “Ông ấy thương em. Mãi mãi. Và cũng vậy.” Những lời đan vào các sợi tơ gắn kết chúng tôi, phù thủy và ma cà rồng. Chúng chứa đựng mọi cảm xúc trong : dịu dàng, tôn trọng, kiên trì và hy vọng. “Em cũng ,” tôi thầm, củng cố thêm cho câu thần chú của . 39. Cha tôi rời London lời từ biệt, nhưng tôi nhất quyết ra theo cách khác. Vậy nên những ngày cuối cùng tại thành phố trở thành công việc đan dệt phức tạp, giữa những từ ngữ và nỗi khát khao, giữa các câu thần chú và phép thuật. Bóng hồn của Goody Alsop buồn bã đứng đợi phía cuối con đường , khi tôi tới thăm người thầy của mình lần cuối. Linh hồn đó bơ phờ theo sau trong lúc tôi trèo lên các bậc thang để tới phòng của bà phù thủy. “Vậy là con rời bỏ chúng ta,” Goody Alsop vọng ra từ chiếc ghế bành cạnh lò sưởi của mình. Bà mặc bộ đồ bằng len cùng cái khăn choàng và ngọn lửa cũng cháy rực. “Chúng cháu buộc phải .” Tôi cúi người và hôn lên bên má mỏng manh của bà. “Hôm nay bà cảm thấy thế nào?” “Có vẻ tốt hơn, nhờ các phương thuốc của Susanna đấy.” Goody Alsop ho khùng khục khiến cơ thể mảnh mai của bà cúi gập lại. Khi hồi phục, bà ngắm nhìn tôi bắng ánh mắt sáng ngời rồi gật đầu. “Đứa bé lần này ổn định rồi.” “Đúng vậy,” tôi mỉm cười đáp. “Cháu có cảm giác ốm mệt. Bà có muốn cháu với những người khác ?” Tôi muốn Goody Alsop gánh vác quá nhiều gánh nặng về mặt cảm xúc hay vật chất. Susanna tỏ ra lo lắng trước tình trạng suy nhược của bà và Elizabeth Jackson được tham gia vào vài nhiệm vụ cùng nhóm phù thủy tiền bối. “ cần đâu, Catherine kể với ta rồi. Bà ấy , Corra bay lượn từ vài ngày trước, vẫn vừa cười vừa luôn mồm như thường lệ, mỗi khi bà ấy biết bí mật.” Rồng lửa và tôi đến thỏa thuận rằng, nàng giới hạn số lần bay lượn ngoài trung xuống còn lần tuần và chỉ vào buổi tối. Tôi miễn cưỡng chấp nhận cho phép nàng bay vào đêm thứ hai trong những ngày trăng, khi nguy cơ bị con người trông thấy và hiểu nhầm về điềm báo tận thế liên quan tới lửa là thấp nhất. “Vậy ra đó là chỗ nàng tới,” tôi cười . Corra tìm đến bà phù thủy dịu dàng để bầu bạn và Catherine cũng thích thú được thách thức Corra bằng những buổi thi thở ra lửa. “Tất cả chúng ta đều thấy mừng vì Corra tìm thấy thứ gì khác để làm ngoài việc bám dính vào các ống khói và gầm thét vào đám hồn ma.” Goody Alsop chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Sao con ngồi cùng ta nhỉ? Nữ thần cho chúng ta cơ hội khác đâu.” “Bà có nghe được tin gì từ Scotland ?” Tôi hỏi khi ngồi xuống ghế. “Ta chẳng nghe được gì từ khi con kể về việc Euphemia MacLean dẫn cái bụng bầu của mình ra van xin mà vẫn thoát khỏi giàn hỏa thiêu.” suy nhược của Goody Alsop bắt đầu từ cái đêm tôi kể với bà về nữ phù thủy trẻ tuổi đến từ Berwick bị hỏa thiêu, bất chấp những nỗ lực của Matthew.
“Cuối cùng, Matthew thuyết phục Đại Hội Đồng phải dừng lại việc buộc tội và hành hình. Hai trong số các phù thủy bị kết án lật ngược lời khai và rằng, lời thú tội của họ là kết quả của việc tra tấn.” “Hẳn là Đại Hội Đồng tạm dừng lại khi có wearh lên tiếng thay mặt phù thủy.” Goody Alsop nhìn tôi sắc bén. “Ông ta nên tránh xa chuyện này chừng nào con còn ở đây. Matthew Roydon sống trong thế giới của những nửa vời, nhưng ai có thể tránh bị phát mãi mãi. Vì đứa bé, con buộc phải cẩn thận hơn nữa.” “Chúng cháu làm vậy,” tôi cam đoan với bà. “Trong khi đó cháu vẫn chưa chắc chắn nút thắt thứ tám có đủ mạnh để du hành thời gian . Ngay cả có Matthew hay đứa bé.” “Để ta xem nào,” Goody Alsop và giơ tay ra. Tôi cúi người, đặt các sợi thừng vào lòng bàn tay bà. Tôi dùng tất cả chín sợi thừng trong lúc chúng tôi du hành qua thời gian và tạo ra chín nút thắt khác nhau mà dùng thêm bất kỳ bùa chú nào. Bằng đôi bàn tay thành thục, Goody Alsop tạo ra tám điểm vắt chéo sợi thừng màu đỏ, sau đó buộc hai đầu dây lại tạo thành nút thắt thể phá vỡ. “Ta làm theo cách này.” Nút thắt đơn giản mà tuyệt đẹp, với các vòng mở và vòng xoắn như những mẫu trang trí đá trong cửa sổ thánh đường. “Cháu làm giống vậy.” Tiếng cười của tôi đượm buồn. “Nó bị lỏng lẻo và cong queo.” “Mọi sợi dệt đều độc nhất vô nhị như chính người thợ dệt tạo ra nó. Nữ thần muốn chúng ta bắt chước các ý niệm của hoàn hảo mà là chính con người chúng ta.” “Vậy, hẳn là cháu đủ trầm ổn rồi.” Tôi đưa tay ra nhận lấy nắm dây thừng để nghiên cứu hình thiết kế. “Ta chỉ cho con nút thắt khác,” Goody Alsop . “Còn nữa sao?” Tôi cau mày. “Nút thắt thứ mười. Ta có khả năng tạo ra nó mặc dù nó là cái dễ nhất.” Goody Alsop mỉm cười nhưng cằm bà run run. “Người thầy của ta cũng thể tạo ra nút thắt này, nhưng chúng ta vẫn truyền lại nó với hy vọng thợ dệt như con có thể thực được.” Goody Alsop tháo lỏng chiếc nút vừa thắt chỉ bằng cái búng ngón tay trỏ xương xẩu. Tôi trao lại cho bà dải lụa đỏ và bà tạo ra vòng thắt đơn giản. Trong chốc lát, sợi dây thừng được nung chảy thành vòng tròn thể phá vỡ, nhưng ngay khi bà thả tay, vòng thắt bị bung ra. “Nhưng bà mới nối hai đầu sợi dây với nhau phút trước, và quy trình đó thậm chí còn phức tạp hơn rất nhiều,” tôi bối rối . “Chừng nào còn điểm vắt chéo sợi dây, ta đều có thể thắt hai đầu và hoàn thành bùa chú. Tuy nhiên, chỉ có duy nhất thợ dệt, người đứng giữa các thế giới mới có thể tạo ra nút thắt thứ mười,” bà đáp. “Thử và hãy dùng dải lụa màu bạc.” Tuy vẫn hoang mang nhưng tôi thử xỏ hai đầu của sợi dây vào cùng vòng xuyến. Các thớ dây bện xoắn vào nhau thành hình vòng thắt và có đầu, có cuối. Tôi nhấc ngón tay khỏi dải lụa nhưng vòng tròn vẫn giữ nguyên. “Làm tốt lắm,” Goody Alsop với vẻ thỏa mãn. “Nút thắt thứ mười nắm giữ sức mạnh của vĩnh cửu, quá trình dệt nên sống và cái chết. Nó khá giống hình con rắn của chồng con hoặc cách mà đôi lúc Corra ngậm đuôi trong miệng.” Bà cầm nút thắt thứ mười lên. Nó là biểu tượng tuần hoàn khác, cảm giác về huyền bí dâng lên trong căn phòng khiến tôi dựng hết lông tơ cánh tay. “Sáng tạo và phá hủy là những phép thuật đơn giản và quyền năng nhất, cũng như nút thắt đơn giản nhất cũng khó thực nhất.” “Cháu muốn sử dụng phép thuật để phá hủy điều gì,” tôi . Gia đình Bishop của tôi có truyền thống kiên quyết là gây tổn hại điều gì. Dì Sarah của tôi tin rằng, bất kỳ phù thủy nào sống xa nguyên lý căn bản thấy quỷ dữ theo sau mình ở đoạn cuối con đường. “ ai muốn sử dụng những món quà mà nữ thần ban tặng như loại vũ khí, nhưng đôi khi điều đó là cần thiết. Wearh của con biết vậy và sau những chuyện xảy ra tại đây cũng như tại Scotland, con cũng biết mà.” “Có thể, nhưng thế giới của cháu khác,” tôi . “Ít khi ta phải kêu gọi tới thứ vũ khí phép thuật.” “Các thế giới đều thay đổi mà, Diana.” Goody Alsop tập trung hồi tưởng những ký ức xa xôi. “Người thầy của ta, Mẹ Ursula, là thợ dệt vĩ đại. Ta nhớ ra lời tiên tri của người vào đêm trước dịp All Hallows, khi chuỗi kiện kinh hoàng bắt đầu tại Scotland và lúc con tới để thay đổi thế giới của chúng ta.” Giọng của bà ngân nga giai điệu tựa như câu thần chú. “Khi những cơn bão nổi giận và đại dương gầm gào Gabriel đứng trước biển và bờ cát. Người thổi chiếc tù và kỳ lạ, Thế giới cũ chết và cái mới ra đời.” Khi Goody Alsop kết thúc, cơn gió thoảng hay tiếng lách tách nào làm náo động căn phòng. Bà hít lấy hơi sâu. “Con thấy đấy, tất cả trong , cái chết và ra đời. Nút thắt thứ mười có bắt đầu cũng như có kết thúc, cả con rắn của ma cà rồng nữa. Tuần này, trăng tròn sớm hơn thường lệ và cái bóng của Corra trải rộng sông Thames là điềm gở cho chuyến ra của hai người. Thế giới cũ và mới.” Goody Alsop mỉm cười yếu ớt. “Ta rất vui khi con đến với ta, Diana Roydon. Và lúc con vì con buộc phải làm vậy, trái tim ta cảm thấy nặng trĩu.” “Matthew thường báo mỗi khi ông ta rời khỏi thành phố của ta.” Hai bàn tay trắng nhợt của Andrew Hubbard thả lỏng phần tay tựa của chiếc ghế bành trong hầm mộ nhà thờ. đầu chúng tôi, ai đó chuẩn bị cho buổi lễ nhà thờ sắp diễn ra. “Điều gì đưa bà tới đây vậy, bà Roydon?” “Tôi đến để chuyện về Annie và Jack.” Ánh mắt xa lạ của Hubbard ngắm nghía tôi kỹ càng, trong lúc tôi rút bọc tiền bằng da từ trong túi áo mình. Số tiền này bao gồm tiền công năm năm chăm sóc cho mỗi đứa trẻ. “Tôi rời London và tôi muốn ông nhận lấy chỗ tiền này để chăm sóc chúng.” Tôi đẩy cái bọc về phía Hubbard nhưng ông ta tỏ ra buồn nhận nó. “Thứ này cần thiết, thưa bà.” “Làm ơn . Đáng lẽ tôi đưa chúng theo nếu có thể nhưng vì chúng thể khỏi đây nên tôi cần đảm bảo có người trông coi chúng.” “Và bà cho ta thứ gì để đổi lại?” “Tại sao chứ... tiền, tất nhiên là vậy.” Tôi giơ chiếc túi ra lần nữa. “Ta muốn hay cần tiền, thưa bà Roydon.” Hubbard ngả lưng ra sau, đôi mắt khẽ nheo lại. “Vậy ông…” Tôi dừng lại. “.” “Chúa chẳng làm điều gì vô nghĩa cả, hề có cố nào trong kế hoạch của Người. Người muốn bà tới đây hôm nay bởi Người muốn đảm bảo rằng, có kẻ nào nhận máu từ bà sợ hãi ta hay người của ta.” “Tôi có đủ người bảo vệ rồi,” tôi phản đối. “Và bà cũng vậy với chồng mình sao?” Hubbard liếc nhìn ngực tôi. “Giờ đây, trong huyết quản của ông ấy, máu của bà trở nên mạnh mẽ hơn lúc mới đến. Và bà còn có đứa trẻ để cân nhắc.” Trái tim tôi đập loạn nhịp. Khi tôi đưa Matthew trở lại thế giới đại, Andrew Hubbard là trong số ít người biết về tương lai của ấy và rằng tương lai đó tồn tại nữ phù thủy. “Ông thể sử dụng những hiểu biết từ tôi để chống lại Matthew, thể được sau những gì ấy làm – cả thay đổi của ấy nữa.” “Ta thể sao?” Nụ cười nhăn nhở của Hubbard cho tôi biết, lão ta làm bất cứ điều gì để bảo vệ đám con chiên của mình. “Thế giới của chúng ta có rất nhiều dòng máu xấu xa.” “Tôi tìm cách khác để đảm bảo an toàn cho chúng,” tôi và quyết định khỏi đây. “Annie là con của ta rồi. nhóc là phù thủy và là thành viên trong gia đình ta nên ta chăm lo cho hạnh phúc của nó. Jack Blackfriars lại là vấn đề khác. Nó phải sinh vật khác người và phải tự lo cho bản thân.” “Nhưng nó chỉ là đứa trẻ - cậu bé!” “Nhưng phải con ta, cũng như bà. Ta nợ bà bất cứ thứ gì. Chúc ngày tốt lành, bà Roydon.” Hubbard quay mặt . “Vậy nếu tôi là phần trong gia đình của ông sao? Ông thực cầu của tôi với Jack chứ? Ông thừa nhận Matthew như người nhận máu từ tôi và từ đó, đặt ấy dưới bảo hộ của mình?” Người tôi nghĩ tới là Matthew thế kỷ mười sáu. Khi chúng tôi quay lại tại Matthew kia vẫn ở đây, trong quá khứ. “Nếu bà trả cho ta bằng máu mình chỉ Matthew, chỉ Jack, mà cả đứa con chưa sinh của bà cũng chẳng cần sợ hãi ta hay người của ta.” Hubbard truyền đạt lại thông tin cách thản nhiên, tuy vậy ánh mắt thoáng qua của lão chứa tham lam giống như tôi từng thấy trong mắt Rudolf. “Vậy ông cần bao nhiêu máu?” Hãy suy nghĩ. Hãy sống sót. “Rất ít, chỉ giọt thôi.” chú ý từ Hubbard còn dao động. “Tôi thể để ông trực tiếp lấy máu từ cơ thể mình. Matthew biết - dù sao chúng tôi là đôi bạn đời,” tôi . Ánh mắt của Hubbard đảo qua đảo lại vị trí ngực của tôi. “Tôi luôn luôn nhận máu hiến tế trực tiếp từ cổ con chiên của mình.” “Tôi cũng biết vậy, Cha Hubbard. Nhưng ông có thể hiểu được lý do tại sao hành động đó bất khả thi hay thậm chí cả những điều đáng thèm khát trong trường hợp này.” Tôi im lặng, hy vọng lòng ham muốn mãnh liệt của Hubbard – dành cho quyền lực, thấu hiểu Matthew và tôi, cũng như những thông tin có thể đe dọa tới gia đình de Clermont mà biết đâu ông ta cần chúng – chiến thắng. “Tôi có thể dùng cốc.” “,” Hubbard lắc đầu đáp. “Máu của bà bị ô uế. Nó phải thuần khiết.” “Vậy cái cốc bạc,” tôi và liên tưởng tới các bài thuyết trình của Đầu Bếp ở Sept-Tours. “Bà hãy cắt mạch máu tại cổ tay phía miệng tôi rồi để giọt máu rơi xuống. Chúng ta chạm vào nhau.” Hubbard quắc mắt nhìn tôi. “Nếu , tôi nghi ngờ tính chân trong lời đề nghị của bà.” “Rất tuyệt, Cha Hubbard. Tôi chấp nhận điều kiện của ông.” Tôi nới lỏng sợi dây buộc cổ tay áo bên phải rồi kéo lên trong lúc thầm cầu câm lặng tới Corra. “Ông muốn làm ở đâu? Theo như tôi thấy trước đây các con chiên quỳ xuống trước mặt, nhưng trong trường hợp tôi máu mình vào miệng ông cách đó có hiệu quả.” “Đó là lễ ban phước. Ai quỳ trước Chúa cũng vậy thôi.” Trước vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, Hubbard quỳ xuống sàn trước mặt tôi và đưa ra con dao. “Tôi cần.” Tôi búng ngón tay vào các mạch máu màu xanh cổ tay mình, rồi lẩm bẩm câu thần chú mở đơn giản. vệt đỏ thẫm ra, sau đó máu bắt đầu chảy. Hubbard mở miệng, ánh mắt dán chặt vào khuôn mặt tôi. Ông ta đợi những biểu từ bỏ hoặc lừa dối từ tôi. Nhưng tôi tuân theo từng từ của thỏa thuận nàycủa nó. Cảm ơn, Goody Alsop, tôi thầm cầu chúc cho bà, cảm ơn vì hướng dẫn tôi cách điều khiển đàn ông. Tôi đưa cổ tay lên phía miệng ông ta và nắm chặt bàn tay. giọt máu lăn quanh cổ tay và bắt đầu rơi xuống. Đôi mắt của Hubbard chợt khép lại như thể ông ta muốn tập trung vào những điều dòng máu trong tôi truyền đạt. “Máu là gì nếu phải là lửa và nước?” Tôi lẩm bẩm và gọi gió tới để làm giảm tốc độ giọt máu. Khi sức mạnh khí tăng lên, nó làm kết tinh và tăng phần sắc lạnh cho hạt chất lỏng chạm vào lưỡi của Hubbard. Gã ma cà rồng mở bừng mắt với vẻ ngạc nhiên. “Chỉ giọt thôi.” Cơn gió làm se phần máu còn lại da, tạo thành đám vết đỏ ngoằn ngoèo sợi tĩnh mạch màu xanh. “Ông là người của Chúa, là người giữ lời, phải Cha Hubbard?” Cái đuôi của Corra nới lỏng khỏi phần thắt lưng tôi. nàng dùng nó để ngăn cách đứa trẻ khỏi nhận biết về vụ giao dịch bẩn thỉu này, nhưng lúc này, có vẻ nàng muốn dùng đuôi mình để đánh Hubbard bất tỉnh nhân . Tôi chầm chậm rút tay lại. Hubbard thoáng nghĩ tới việc chộp lấy tay tôi và đưa vào miệng gã. Tôi trông thấy ý tưởng đó lướt qua tâm trí gã ràng như trông thấy Edward Kelley thưởng thức hình ảnh tôi bị đánh đập bằng cây gậy chống của . Tuy nhiên, Hubbard tỉnh táo hơn. Tôi liền thầm câu thần chú đơn giản khác để khép miệng vết thương rồi quay người bỏ lời nào. “Lần sau khi bà tới London,” Hubbard nhàng , “Chúa thầm thông báo tới ta và nếu vậy, chúng ta gặp nhau lần nữa. Tuy nhiên hãy nhớ rằng, cần biết từ lúc này, bà xa tới đâu, thậm chí là qua đời, nhưng phần bé trong bà sống mãi cùng ta.” Tôi dừng bước và nhìn lại phía gã. Lời của Hubbard mang tính đe dọa nhưng biểu nét mặt có vẻ trầm ngâm, thậm chí là buồn bã. Tôi rảo bước nhanh rời khỏi khu hầm mộ của nhà thờ, chỉ muốn tránh gã càng xa càng tốt. “Tạm biệt Diana Bishop.” gọi với sau lưng. Tôi băng qua gần nửa thị trấn rồi mới chợt nhận ra, tuy chỉ giọt máu bé nhưng có thể tiết lộ rất nhiều điều. Cha Hubbard giờ biết tên của tôi. *** Walter và Matthew quát tháo nhau lúc tôi trở về Hươu Đực và Vương Miện. Người giữ ngựa của Raleigh cũng có thể nghe thấy tiếng họ. Ông ta đứng trong sân, cầm dây cương của con ngựa đen hung tợn và lắng nghe hai người mắng nhiếc nhau qua các cánh cửa sổ mở toang. “Chuyện này đồng nghĩa với việc tôi chết – và ấy cũng vậy! ai được phép biết về ấy cùng tồn tại của đứa trẻ!” kỳ quặc, lời này là của Walter. “Cậu thể bỏ rơi người phụ nữ cậu cùng đứa con của chính mình chỉ để cố gắng trung thực trước nữ hoàng, Walter. Elizabeth phát việc cậu phản bội bà ta và Bess bị hủy hoại mãi mãi.” “Vậy cậu muốn tôi làm gì? Cưới ấy à? Nếu tôi làm vậy mà có cho phép của nữ hoàng, tôi bị bắt giam ngay.” “Cậu vẫn sống sót cho dù chuyện gì xảy ra,” Matthew thẳng thừng. “Nhưng nếu cậu bỏ mặc Bess được bảo vệ, ấy chẳng sống nổi đâu.” “Sao cậu có thể tỏ vẻ quan tâm tới tính trung thực trong hôn nhân sau tất cả những lời dối về Diana? Nhiều lúc cậu khăng khăng rằng mình kết hôn, nhưng lại bắt chúng tôi phải thề thốt phủ nhận điều đó, khi có bất kỳ phù thủy hoặc wearh lạ mặt nào tới đánh hơi hỏi dò.” Giọng của Walter giảm nhưng tính hung tợn vẫn giữ nguyên. “Chẳng lẽ cậu muốn tôi tin rằng, cậu quay trở về cái nơi quái quỷ mà từ đó cậu tới và thừa nhận ấy là vợ cậu?” Tôi lẻn vào phòng để ai nhận ra. Matthew ngập ngừng. “Tôi nghĩ là ,” Walter rồi đeo găng tay vào. “Đây là cách hai người muốn lời tạm biệt nhau sao?” Tôi hỏi. “Diana,” Walter cảnh giác . “Xin chào Walter. Người hầu của ở bên dưới cùng con ngựa.” ta bắt đầu hướng về phía cửa, nhưng bỗng dừng lại. “Matthew, hãy biết điều. Tôi thể đánh mất toàn bộ tín nhiệm trong triều đình. Bess hiểu mối nguy hiểm từ cơn giận dữ của nữ hoàng hơn bất kỳ ai. Trong triều đình của Elizabeth, may mắn hay xui xẻo cũng chỉ là thoáng qua, nhưng thất sủng kéo dài mãi mãi.” Matthew quan sát bạn mình ầm ầm bước xuống cầu thang. “Chúa tha thứ cho con. Đây là lần đầu tiên nghe thấy kế hoạch này và bảo cậu ta hãy lựa chọn sáng suốt. Tội nghiệp Bess.” “Chuyện gì xẽ xảy ra sau khi chúng ta ?” Tôi hỏi. “Tới mùa thu, bụng bầu của Bess bắt đầu lộ . Họ kết hôn trong bí mật. Khi nữ hoàng hỏi về mối quan hệ của hai người, Walter phủ nhận, hết lần này tới lần khác. Danh tiếng của Bess bị hủy hoại và chồng của ấy bị phát giác là kẻ dối, cả hai liền bị bắt giam.” “Còn đứa bé?” Tôi thào. “Nó sinh vào tháng ba nhưng chết vào mùa thu sau.” Matthew ngồi xuống chiếc bàn, hai tay ôm đầu. “ viết thư cho cha và đảm bảo rằng Bess được ông bảo vệ. Susanna Norman có thể trông nom ấy suốt thời kỳ mang thai.” “Cả cha lẫn Susanna đều thể che chắn ấy khỏi cú đòn phủ nhận của Raleigh.” Tôi đặt hai tay lên ống tay áo của . “Và cũng phủ nhận chuyện chúng ta kết hôn sau khi trở về phải ?” “Mọi thứ đơn giản vậy,” Matthew đáp, nhìn tôi bằng ánh mắt ám ảnh. “Walter điều đó và phủ nhận.” Tôi nhớ lại lời tiên tri của Goody Alsop. “Thế giới cũ chết và cái mới ra đời. Thời điểm phải chọn lựa giữa an toàn của quá khứ hay lời hứa cho tương lai tới rồi, Matthew.” “ thể sửa chữa quá khứ cho dù ta có cố gắng thế nào,” . “ luôn điều này với nữ hoàng mỗi khi bà ta khổ sở vì quyết định sai lầm. Tự mình làm đau bản thân, như Gallowglass thường .” “Chú trước cháu rồi.” Gallowglass thầm tiến vào phòng và dỡ các gói bưu kiện ra. “Cháu lấy giấy cho chú, cả bút nữa và thuốc bổ cho cổ họng của Jack.” “Đấy là những gì thằng bé nhận được sau nhiều lần lên tháp cùng Tom và chuyện về các vì sao.” Matthew xoa mặt. “Chúng ta cần chắc chắn rằng, Tom được chu cấp đầy đủ, Gallowglass. Walter có khả năng giữ cậu ta phục vụ lâu hơn nữa. Henry Percy cần phải tham gia hỗ trợ – lần nữa – tuy nhiên, ta cũng nên đóng góp phần nào cho trợ cấp của cậu ta.” “Bài phát biểu của Tom ư, chú nhìn thấy các phác thảo của cậu ta về cái kính nhìn bằng mắt để quan sát thiên đường chưa? Cậu ta cùng Jack gọi nó là kính sao.” Da đầu tôi bỗng ngứa râm ran và các sợi tơ trong căn phòng rung lên lách tách. Thời gian lên tiếng phản đối thầm nơi góc phòng. “ cái kính sao.” Tôi giữ cho giọng vẫn điềm tĩnh. “Trông nó thế nào?” “ hãy tự hỏi cậu ta ,” Gallowglass , quay đầu về phía cầu thang. Jack và Giẻ Lau bất ngờ lao vào phòng. Tom lơ đãng theo sau, tay cầm hai bên mắt của chiếc kính gãy. “Nếu em can thiệp vào chuyện này, chắc chắn để lại dấu vết cho tương lai đấy, Diana,” Matthew cảnh báo. “Nhìn, nhìn này.” Jack khua ra mảnh gỗ dày. Giẻ Lau dõi theo chuyển động của nó và đớp cái que khi nó tới gần. “Ông Harriot bảo rằng, nếu chúng ta khoét rỗng nó và đặt các miếng kính vào phần đuôi, ta có thể khiến các vật ở xa dường như gần hơn. Ông có biết cách nào để khoét nó ? Nếu , ông có nghĩ thợ mộc ở St. Dunstan dạy cháu ? Mà bánh bao nhân nho còn ạ? Bụng của ông Harriot réo cả chiều nay rồi.” “Để ta xem nào,” tôi , đưa tay ra cầm cái ống gỗ. “Bánh bao ở trong tủ chạn chỗ đầu cầu thang đó Jack, chúng luôn ở đấy mà. Đưa cho ông Harriot cái và lấy cái cho cháu nhưng,” tôi cắt ngang lời cậu nhóc định , “đừng chia phần của cháu cho Giẻ Lau đấy.” “Chúc ngày tốt lành, bà Roydon,” Tom mơ màng . “Nếu cặp kính mắt đơn giản có thể giúp con người nhìn thấy lời Chúa trong Kinh thánh, chắc chắn cũng có thể giúp ta thực công việc phức tạp hơn để quan sát công việc của Chúa trong Cuốn sách Thiên nhiên. Cảm ơn Jack.” Tom thẫn thờ cắn miếng bánh. “Vậy làm nó phức tạp hơn bằng cách nào?” Tôi lớn tiếng ra băn khoăn, gần như dám thở. “Tôi kết hợp các thấu kính lồi và lõm, giống như quý ông người xứ Naples, ngài della Porta đưa ra trong cuốn sách tôi đọc năm ngoái. Cánh tay của tôi thể giữ chúng ở khoảng cách thích hợp nên chúng tôi cố gắng mở rộng tầm với bằng mảnh gỗ này.” Bằng những lời này, Thomas Harriot thay dổi lịch sử khoa học. Và tôi được can thiệp vào quá khứ - tôi chỉ có thể quan sát phần quá khứ bị lãng quên. “Tuy nhiên, đây chỉ là các tưởng tượng vô nghĩa. Tôi viết ra giấy và suy ngẫm về chúng sau.” Tom thở dài. Đây chính là vấn đề của các nhà khoa học tiền đại: Họ chưa hiểu được cần thiết của việc công bố. Trong trường hợp của Thomas Harriot hiển nhiên, các ý tưởng của ta bị nuốt trọn ngay trước nhu cầu của nhà xuất bản. “Tôi nghĩ đúng đấy Tom. Nhưng ống gỗ này chưa đủ dài.” Tôi mỉm cười rạng rỡ nhìn ta. “Về các thợ mộc ở St. Dunstan ông Monsieur Vallin có thể giúp kiếm cái ống rỗng và dài đúng cỡ cần. Chúng ta tới gặp ông ta chứ nhỉ?” “Vâng!” Jack hét lớn và nhảy cẫng lên. “Ông Monsieur Vallin có đủ kiểu bánh răng và lò xo, ông Harriot ạ. Ông ấy từng cho cháu cái nằm trong hộp kho báu của cháu đấy. Hộp của cháu lớn bằng hộp của bà Roydon, nhưng cũng vừa đủ. Chúng ta có thể ngay chứ?” “Có chuyện gì với vậy?” Gallowglass hỏi Matthew, vừa bối rối vừa đề phòng. “Ta nghĩ ấy trả miếng Walter vì quan tâm đầy đủ tới tương lai,” Matthew ôn tồn . “Ôi, mọi chuyện ổn thôi. Cháu nghĩ mình đánh hơi thấy mùi rắc rối ở đây.” “Luôn luôn có rắc rối mà,” Matthew đáp. “Em có chắc mình làm gì , ma lionne?” có quá nhiều chuyện xảy ra mà tôi thể sửa chữa. Tôi thể mang đứa con đầu tiên quay trở lại hay thể bảo vệ các phù thủy tại Scotland. Chúng tôi bằng mọi cách đưa Ashmole 782 ra khỏi Praha, chỉ để khám phá ra rằng, thể mang nó tới tương lai an toàn. Chúng tôi lời từ biệt với cha mình và sắp sửa rời xa bạn bè. Phần lớn các trải nghiệm này biến mất còn dấu vết. Nhưng tôi biết chính xác cách đảm bảo chiếc kính viễn vọng của Tom tồn tại. Tôi gật đầu. “Quá khứ thay đổi chúng ta, Matthew. Tại sao chúng ta thay đổi nó?” Matthew nắm lấy bàn tay tôi và đặt nụ hôn lên đó. “Hãy tới gặp Monsieur Vallin và bảo ông ấy gửi hóa đơn cho .” “Cảm ơn .” Tôi cúi xuống thầm bên tai . “Đừng lo, em đưa Annie theo cùng để mặc cả giá. Ai mà biết được giá cho cái kính thiên văn năm 1591 là bao nhiêu chứ?” Vậy nên phù thủy, tinh, hai đứa trẻ cùng con chó tới ghé thăm Monsieur Vallin vào buổi chiều. Tối hôm đó, tôi gửi thư mời những người bạn của mình tới chơi với gia đình vào tối hôm sau. Đó là lần cuối chúng tôi gặp mặt họ. Trong khi tôi xoay sở với chiếc kính viễn vọng và các kế hoạch cho bữa tối Matthew chuyển Verum Secretum Secretorum của Roger Bacon tới chỗ Mortlake. Tôi muốn thấy cuốn Ashmole 782 bị chuyển tới cho tiến sĩ Dee. Tôi biết là cuốn sách phải quay trở về thư viện khổng lồ của nhà giả kim thuật, để Elias Ashmole có thể sưu tập được vào thế kỷ mười bảy. Tuy nhiên, việc trao cuốn sách cho người khác lưu giữ khó khăn, còn hơn lúc tôi phải từ bỏ bức tượng tạc hình nữ thần Diana vào tay Kit, lúc cả hai mới tới nơi. Các chi tiết thực tế quanh chuyến khởi hành của cả hai được giao cho Gallowglass cùng Pierre. Họ đóng gói rương hòm, rút hết tiền trong két, phân phối lại nguồn tài chính và gửi đồ dùng cá nhân về Chòi Gác Cổ với tác phong đầy kinh nghiệm, cho thấy cả hai phải làm việc này rất nhiều lần trước đó. Chuyến khởi hành của chúng tôi diễn ra sau vài tiếng nữa. Tôi đường trở về từ tiệm của Monsieur Vallin cùng gói đồ lỉnh kỉnh bọc da mềm, thoáng trông thấy hình ảnh bé mười tuổi đứng phố, bên ngoài tiệm bánh nướng, quan sát chăm chú như bị thôi miên vào dãy hàng hóa trong cửa sổ. nhóc nhắc tôi nhớ về chính mình vào độ tuổi đó, từ mái tóc màu vàng rơm bất trị cho tới hai cánh tay quá dài so với khung người. nhóc trở nên cứng đờ như thể biết rằng mình bị quan sát. Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, tôi biết lý do tại sao: bé là phù thủy. “Rebecca!” phụ nữ gọi lớn sau khi bước ra khỏi cửa tiệm. Trái tim tôi đập nhanh hơn lúc trông thấy hình ảnh trước mắt, người phụ nữ đó giống như kết hợp của mẹ tôi và dì Sarah. Rebecca chẳng gì ngoài việc tiếp tục nhìn tôi chằm chằm như thể nhóc trông thấy hồn ma. Mẹ hình như bắt được mục tiêu chú ý của con liền thở hổn hển. Ánh mắt râm ran lướt da tôi trong lúc bà thu vào hình ảnh gương mặt cũng như vóc dáng của tôi. Bà ấy cũng là phù thủy. Tôi buộc bản thân tiến vài bước tới tiệm bánh nướng. Mỗi bước đưa tôi lại gần hai phù thủy hơn. Người mẹ kéo con nấp sau váy mình và Rebecca oằn người phản kháng. “ ấy trông giống hệt bà ngoại,” Rebecca thầm, cố vươn người tới gần để nhìn tôi. “Suỵt,” mẹ bé . Bà ta nhìn tôi vẻ có lỗi. “Con biết bà ngoại mất rồi mà, Rebecca.” “Tôi là Diana Roydon.” Tôi gật đầu ra hiệu qua vai họ. “Tôi sống tại Hươu Đực và Vương Miện ở đây.” “Vậy bà là…” Đôi mắt người phụ nữ mở lớn và kéo Rebecca lại gần hơn. “Cháu là Rebecca White,” nhóc , hề quan tâm tới phản ứng của mẹ mình. nhóc loạng choạng hơi nhún gối chào. Hình ảnh này cũng thân thuộc. “Rất vui được gặp cháu. Cháu mới tới Blackfriars sao?” Tôi muốn chuyện vẩn vơ lâu tới chừng nào có thể, chỉ để nhìn chằm chằm vào hai gương mặt xa-lạ-có-cảm-giác-thân-quen. “ ạ, mẹ con cháu sống nhờ nhà tế bần gần chợ Smithfield,” Rebecca giải thích. “Tôi tiếp nhận các bệnh nhân khi khu vực của họ quá tải.” Người phụ nữ ngập ngừng. Tôi là Bridget White và Rebecca là con tôi.” Ngoài hai cái tên quen thuộc Rebecca và Bridget, từ trong thâm tâm mình, tôi nhận ra hai sinh vật khác người này. Bridget Bishop sinh năm 1632 và cái tên đầu tiên trong cuốn sách bí kíp nhà Bishop là bà ngoại của Bridget, Rebecca Davies. Phải chăng, chính là bé mười tuổi này ngày nào đó kết hôn và mang họ kia? Ánh mắt của Rebecca tập trung vào thứ gì đó cổ tôi. Tôi đưa tay lên. Đôi khuyên tai của Ysabeau. Tôi sử dụng ba vật để đưa hai vợ chồng trở về quá khứ: bản chép tay cuốn Doctor Faustus, quân cờ bằng bạc và chiếc khuyên giấu trong hình nhân của Bridget Bishop. Chiếc khuyên tai này. Tôi với tay tháo sợi dây vàng mỏng ra khỏi tai. Qua những trải nghiệm với Jack, tôi hiểu rằng, tạo kết nối bằng mắt với bọn trẻ là cách khôn ngoan để khiến chúng có ấn tượng lâu dài về mình. Tôi cúi thấp xuống cho tới lúc hai bên gần ngang bằng nhau. “ cần ai đó giữ giùm vật này.” Tôi đưa chiếc khuyên tai ra. “ ngày nào đó cần nó, cháu giữ kỹ cho chứ.” Rebecca nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm túc rồi gật đầu. Tôi cầm lấy tay bé, cảm nhận được luồng ý thức nhận biết chuyền qua giữa chúng tôi và đặt hai chiếc khuyên tai vào lòng bàn tay bé. nhóc nắm chặt tay giữ chúng. “Có được mẹ?” Sau đó, Rebecca mới thầm hỏi Bridget. “Mẹ nghĩ mọi chuyện ổn thôi,” mẹ thận trọng . “Lại đây nào Rebecca, chúng ta phải rồi.” “Cảm ơn cháu,” tôi rồi đứng thẳng dậy và vỗ lên vai Rebecca, trong khi nhìn thẳng vào mắt Bridget. “Cảm ơn bà.” Tôi nhận thấy ánh mắt thúc vào mình, nhưng vẫn đợi tới khi Rebecca cùng Bridget ra khỏi tầm mắt rồi mới quay lại đối diện Christopher Marlowe. “Bà Roydon.” Giọng của Kit khàn khàn và trông ta như chết. “Walter bảo tôi rằng bà tối nay.” “Tôi cầu ấy thông báo với .” Tôi buộc Kit nhìn vào mắt mình bằng hành động của ý chí tuyệt đối. Đây là điều khác mà tôi có thể sửa chữa: tôi có thể đảm bảo rằng, Matthew lời tạm biệt với người từng là bạn thân nhất của . Kit nhìn xuống bàn chân để che giấu khuôn mặt mình. “Đáng lẽ tôi nên tới đây.” “Tôi tha thứ cho , Kit.” Marlowe bất ngờ ngẩng đầu lên bởi những lời tôi . “Tại sao?” ta lặng người hỏi. “Bởi ấy. Và bởi chừng nào Matthew còn đổ lỗi cho những chuyện xảy ra với tôi phần của ấy vẫn ở bên . Mãi mãi.” Tôi thẳng. “Hãy lên gác và lời tạm biệt .” Matthew đợi chúng tôi ở đầu cầu thang, đoán trước rằng tôi đưa người về nhà. Tôi hôn lên môi khi ngang qua về phòng ngủ. “Cha tha thứ cho ,” tôi lẩm bẩm. “Hãy trao Kit món quà tương ứng để đền đáp lại.” Rồi tôi để hai người họ với nhau, sửa chữa những gì có thể trong khoảng thời gian ít ỏi còn lại. *** Vài tiếng sau, tôi trao Thomas Harriot cái ống thép. “Đây là kính sao của cậu, Tom.” “Tôi tạo dáng theo kiểu nòng súng cho nó – tất nhiên là có thay đổi vài chỗ,” Monsieur Vallin, người thợ nổi tiếng về các kiểu bẫy chuột và đồng hồ giải thích. “Và nó được chạm khắc theo cầu của bà Roydon.” Bên cạnh thân ống đặt dải biểu ngữ xinh xắn màu bạc là huyền thoại N.VALLIN ME FECIT, T.HARRIOT ME INVENIT, 1591. “N. Vallin tạo ra tôi, T. Harriot phát minh tôi, 1591.” Tôi mỉm cười nhìn Mosieur Vallin cách ấm áp. “ hoàn hảo.” “Chúng ta có thể nhìn mặt trăng bây giờ ?” Jack hét lên, nhảy cẫng sàn. “Trông nó lớn hơn cái đồng hồ ở nhà thờ St. Mildred!” Vậy là, nhà toán học và ngôn ngữ học Thomas Harriot tạo nên lịch sử khoa học trong sân của Hươu Đực và Vương Miện, trong khi ngồi chiếc ghế mây mòn vẹt, được kéo xuống từ gác xép của chúng tôi. ta chĩa cái ống sắt dài được ghép khớp với hai chiếc mắt kính về phía trăng tròn, rồi thở dài hân hoan. “Xem này Jack. Nó giống như lời ngài della Porta .” Tom bảo cậu bé ngồi lên lòng mình và đặt đầu ống vào mắt của người phụ tá nhiệt tình. “Hai cái mắt kính, lồi, lõm quả là giải pháp đúng đắn nếu được đặt vào vị trí thích hợp.” Sau Jack, tất cả chúng tôi lần lượt nhòm qua ống. “Ôi, đây phải là những gì tôi mong đợi,” George Chapman thất vọng . “Cậu có nghĩ, đáng lẽ mặt trăng phải gây xúc động hơn ? Tôi nghĩ mình thích mặt trăng huyền diệu trong thơ ca hơn cái này, Tom ạ.” “Tại sao trông nó chẳng hoàn hảo gì cả,” Henry Percy phàn nàn, xoa xoa hai mắt rồi lại nhìn qua ống lần nữa. “Tất nhiên nó hoàn hảo, chẳng có gì là hoàn hảo cả,” Kit . “ thể tin mọi điều mà các nhà triết học bảo , Hal. Điều đó chắc chắn phá hủy mọi thứ. thấy chút ít triết học làm gì với Tom rồi đấy.” Tôi liếc nhìn Matthew và nhoẻn miệng cười. lâu rồi chúng tôi mới tham dự vào những buổi tranh cãi trực tiếp của Bè Lũ Bóng Đêm. “Ít nhất Tom có thể tự nuôi sống mình hơn nhiều nhà viết kịch mà tôi quen biết.” Walter nhòm qua cái ống rồi huýt sáo. “Tôi ước gì cậu phát minh ra ý tưởng này trước khi chúng tôi tới Virginia, Tom ạ. Nó rất có ích trong việc khảo sát đường bờ biển khi chúng ta ở boong tàu an toàn. Gallowglass này, nhìn và hãy rằng tôi sai.” “ chẳng bao giờ sai, Walter.” Gallowglass rồi nháy mắt với Jack. “Tôi vẫn còn tỉnh táo, chàng trai trẻ Jack ạ. Người trả công cho mình gì cũng đúng.” Tôi mời Goody Alsop và Susanna tới tham dự cùng và thậm chí, họ cũng nhìn qua cái ống kính sao của Tom. Chẳng ai trong số họ có vẻ bị ấn tượng quá mức với phát minh này, dẫu họ vẫn xuýt xoa thành tiếng sau khi được nhắc nhở. “Tại sao đám đàn ông lại bận tâm mấy chuyện lặt vặt này?” Susanna thầm với tôi. “Tôi có thể với họ rằng, bề mặt của mặt trăng hoàn toàn mềm mịn mà chẳng cần cái công cụ mới này. Họ có mắt sao?” Sau niềm hân hoan được nhìn ngắm thiên đường, chỉ còn lại những lời từ biệt khó khăn. Chúng tôi gửi Annie tới chỗ Goody Alsop và lấy cớ rằng, Susanna cần người giúp đỡ cụ bà bên kia thị trấn. Lời tạm biệt của tôi diễn ra chóng vánh và Annie nhìn tôi ngập ngừng. “Bà ổn chứ? Cháu có thể ở lại đây được ?” “, Annie. Hãy với dì cháu và bà Goody Alsop.” Tôi chớp mắt để che giấu những giọt nước mắt. Làm sao Matthew có thể chịu đựng được việc lặp lặp lại những lời từ biệt thế này? Kit, George cùng Walter rời sau đó cùng lời chào cộc lốc, những bàn tay siết lấy cánh tay Matthew và chúc mọi điều tốt đẹp. “Lại đây nào Jack. Cháu và Tom về nhà với ta,” Henry Percy . “Buổi tối vẫn còn dài.” “Cháu muốn đâu,” Jack . Cậu nhóc lảng về phía Matthew, hai mắt mở lớn, dường như cảm nhận được thay đổi sắp xảy ra. Matthew khom người trước mặt Jack. “Chẳng có gì phải sợ đâu, Jack. Cháu biết ông Harriot và Đức ngài Northumberland mà, họ hại cháu đâu.” “Thế nếu cháu gặp ác mộng?” Jack thầm. “Những cơn ác mộng cũng giống như cái kính sao của ông Harriot thôi. Chúng chỉ là trò đùa của ánh sáng, khiến những thứ ở xa trở nên gần và to lớn hơn.” “Ồ.” Jack ngẫm nghĩ về câu trả lời của Matthew. “Vậy thậm chí nếu cháu nhìn thấy con quái vật trong giấc mơ, nó cũng thể với tới cháu phải ?” Matthew gật đầu. “Nhưng ta cho cháu nghe bí mật. giấc mơ là cơn ác mộng theo kiểu ngược lại. Nếu cháu mơ về người nào đó cháu quý họ dường như gần gũi hơn, cho dù cách xa.” đứng thẳng người và đặt tay lên đầu Jack lúc, thầm cầu chúc cho cậu nhóc. Khi Jack cùng những người bảo vệ cậu khỏi, chỉ còn Gallowglass ở đây. Tôi cầm lấy những sợi dây từ hộp bùa chú của mình, để lại trong đó vài thứ: viên đá, sợi lông trắng, mẩu của cây thanh hương trà, trang sức của tôi và mảnh giấy nhắn cha tôi để lại. “Cháu cất giữ chúng,” cậu ta hứa và nhận lấy cái hộp từ tôi. Nó trông bé đến kỳ lạ trong bàn tay to lớn của Gallowglass. Cậu ta ôm bổng tôi lên. “Hãy giữ an toàn cho Matthew kia để ngày nào đó, ta tìm thấy tôi,” tôi thầm vào tai cậu, mắt tôi nhắm nghiền. Tôi rời khỏi vòng tay của Gallowglass và bước sang bên. Hai người nhà de Clermont chào tạm biệt nhau như tất cả những người nhà de Clermont khác – ngắn ngủi nhưng đầy cảm xúc. Pierre cùng hai con ngựa đợi chúng tôi ở bên ngoài quán Mũ Của Hồng Y Giáo Chủ. Matthew nhấc tôi lên yên và trèo lên con ngựa của mình. “Thượng lộ bình an, madame,” Pierre và thả dây cương ra. “Cảm ơn bạn,” tôi , đôi mắt lại ngập nước. Pierre trao cho Matthew lá thư. Tôi nhận ra dấu xi của Philippe. “Các chỉ thị từ cha ngài, milord.” “Nếu sau hai ngày ta quay lại từ Edinburgh, hãy tìm ta.” “Tôi làm vậy,” Pierre hứa khi Matthew thúc ngựa, chúng tôi quay về hướng Oxford. Cả hai đổi ngựa ba lần và tới Chòi Gác Cổ trước bình minh. Françoise và Charles được điều khỏi đây, vậy nên chúng tôi hoàn toàn đơn độc. Matthew thả bức thư của Philippe xuống bàn, nơi mà Matthew thế kỷ mười sáu dễ dàng trông thấy. Theo đó, ta được gửi tới Scotland bởi công việc khẩn cấp. Tại đây, Matthew Roydon ở trong triều đình của vua James thời gian, trước khi biến mất và bắt đầu cuộc đời mới tại Amsterdam. “Vua xứ Scotland rất vui mừng khi thấy trở lại là con người trước kia,” Matthew bình luận và chạm đầu ngón tay vào lá thư. “Chắc chắn là cố gắng bảo vệ phù thủy nữa.” “ tạo ra khác biệt tại đây, Matthew,” tôi và vòng tay ôm quanh thắt lưng . “Giờ chúng ta cần sắp xếp những chuyện trong tại của mình.” Chúng tôi bước vào căn phòng ngủ mà vài tháng trước, cả hai về quá khứ. “ biết em thể đảm bảo việc cả hai trượt qua hàng thế kỷ và hạ cánh chính xác đúng nơi đúng lúc mà,” tôi cảnh báo. “Em giải thích cho rồi, mon coeur, đặt lòng tin ở em.” Matthew khoác tay tôi để giữ tôi bên . “Hãy tới gặp tương lai của chúng ta. lần nữa.” “Tạm biệt ngôi nhà.” Tôi nhìn quanh căn nhà đầu tiên của cả hai lần cuối. Và cho dù tôi có nhìn bao lần nó vẫn hệt như hình ảnh vào buổi sáng tháng Sáu hôm đó. Những sợi tơ màu xanh lục và hổ phách nơi góc nhà rung lên bần bật, phát ra tiếng rền rĩ nóng lòng, lấp đầy căn phòng bằng thanh và ánh sáng. Tôi hít hơi sâu rồi thắt nút sợi thừng màu nâu, để đầu treo lủng lẳng. Ngoài Matthew cùng quần áo người, những sợi dây thừng của thợ dệt là thứ duy nhất chúng tôi có thể mang theo về. “Bằng nút thắt, câu thần chú bắt đầu,” tôi thầm. Từng phần thời gian tăng lên mỗi khi tôi tạo ra nút thắt cho tới lúc tiếng la hét và rền rĩ làm cả hai gần như bị điếc. Khi hai đầu của nút thắt thứ chín tan vào nhau, chúng tôi bay lên và mọi thứ xung quanh dần dần tan rã.
40. Tất cả các báo tiếng đều cùng có thay đổi dòng đề tựa, nhưng Ysabeau nghĩ tờ Theo kịp Thời Đại là tờ báo thông minh nhất. Người chiến thắng cuộc chạy đua tiến vào gian Ngày 30 tháng Sáu 2010 CHUYÊN GIA HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI về các dụng cụ khoa học sớm nhất tại Bảo tàng Lịch sử và Khoa học của Đại học Oxford, Anthony Carther, ngày hôm nay khẳng định rằng chiếc kính thiên văn khúc xạ mang tên nhà toán học và thiên văn học thời Elizabeth là Thomas Harriot và Nicholas Vallin, thợ sửa đồng hồ Huguenot, người bỏ trốn khỏi Pháp vì lý do tôn giáo, được xác minh. Ngoài những cái tên , kính thiên văn này còn được khắc ngày tháng năm 1591. Phát này làm giới khoa học và lịch sử chấn động. Suốt nhiều thế kỷ, người ta tin rằng nhà toán học người Ý Galileo Galiei với chiếc kính thiên văn thô sơ mượn của người Hà Lan quan sát mặt trăng vào năm 1609. “Các cuốn sách lịch sử phải được viết lại,” Carter . “Thomas Harriot đọc cuốn Phép màu thiên nhiên của Giambattista della Porta và bị hấp dẫn với cách sử dụng các thấu kính lồi và lõm, để có thể ‘nhìn thấy cả những thứ ở xa và những thứ ở gần, cả hai đều lớn hơn và nét hơn.’” Những đóng góp của Thomas Harriot cho lĩnh vực thiên văn học được chú ý tới, phần vì ông xuất bản chúng. Ông thích chia sẻ những phát của mình với nhóm bạn thân được gọi là “Bè Lũ Bóng Đêm.” Dưới bảo trợ của Walter Raleigh và Henry Percy, “Vị Bá Tước Pháp Sư” của Northumberland, Harriot được tự do về mặt tài chính để khám phá những mối quan tâm của ông. Ông I.P.Riddell phát chiếc kính thiên văn này, cùng với hộp đựng các giấy tờ tổng hợp liên quan tới toán học trong tay Thomas Harriot và chiếc bẫy chuột bằng bạc cầu kỳ cũng được ký tên bởi Vallin. Ông ta sửa những chiếc chuông của nhà thờ St. Michael, gần chỗ ở của gia đình Percy tại Alnwick, cơn gió đặc biệt lớn cuốn xuống tấm thảm thêu phai màu với hình Thánh Margaret tiêu diệt con rồng hung bạo, để lộ ra chiếc hộp được cất giấu bí mật ở đó. “Rất hiếm có chuyện các dụng cụ vào thời kỳ này lại có nhiều dấu hiệu nhận dạng như thế,” tiến sĩ Carter giải thích với phóng viên và tiết lộ dấu vết ngày được khắc kính viễn vọng khẳng định món đồ này được làm vào 1591-92. “Chúng ta nợ Nicholas Vallin, người biết điều này là bước phát triển quan trọng trong lịch sử công cụ khoa học và thực những phương pháp khác thường để ghi lại dấu ấn đó trong khoa phả hệ và nguồn gốc của nó.” *** “Bọn họ từ chối bán nó,” Marcus , dựa lưng vào khung cửa. Trông chàng rất giống Matthew với hai cánh tay khoanh trước ngực và đôi chân đứng bắt chéo. “Cháu chuyện với mọi người, từ văn phòng nhà thờ Alnwick cho tới Công tước vùng Northumberland, nhà Bishop ở Newcastle. Họ từ bỏ cái kính viễn vọng đó dù bà có đề nghị cả gia tài nữa. Mặc dù vậy, cháu nghĩ cháu thuyết phục được họ để cháu mua cái bẫy chuột.” “Cả thế giới biết về nó,” Ysabeau . “Ngay cả Le Monde cũng có bài báo về câu chuyện này.” “Chúng ta nên thử mạnh tay hơn trấn áp câu chuyện này xuống. Chuyện này có thể cho đám phù thủy và đồng minh của bọn chúng những thông tin quan trọng,” Marcus . Số lượng người sống bên trong những bức tường của Sept-Tours ngày càng tăng thêm trong những tuần lễ qua và mọi người lo lắng về những gì Đại Hội Đồng có thể làm, nếu chỗ ở chính xác của Diana và Matthew bị phát . “Phoebe nghĩ sao?” Ysabeau hỏi. Bà ngay lập tức thích con người trẻ trung có óc quan sát này, cùng cái cằm kiên nghị và tác phong nhàng của . Gương mặt Marcus mềm mại hẳn ra, khiến trông giống y như trước khi Matthew rời , khi còn sống vô tư lự và vui vẻ. “ ấy nghĩ, còn quá sớm để kết luận có thiệt hại nào xảy ra do việc phát cái kính thiên văn này.” “ thông minh,” Ysabeau mỉm cười . “Cháu biết mình làm gì nữa…” Marcus mở đầu. Nét mặt chàng chuyển sang dữ dội. “Cháu ấy, Grand-mère.” “Dĩ nhiên là cháu rồi và ấy cũng cháu.” Sau các kiện hồi tháng Năm, Marcus muốn ấy ở cùng các thành viên còn lại trong gia đình và mang tới Sept-Tours. Hai người bọn họ thể chia lìa. Phoebe cũng cho thấy cách xử thế khéo léo rất ấn tượng khi gặp hội đồng gồm các tinh, phù thủy và ma cà rồng thường xuyên cùng chung sống. Nếu có ngạc nhiên khi biết rằng còn có các sinh vật khác người cùng chia sẻ thế giới này với loài người ấy cũng hề để lộ điều đó ra. Thành viên trong Đại Hội Đồng Ngầm của Marcus tăng lên đáng kể trong những tháng qua. Trợ lý của Matthew, Miriam, giờ là người cư trú thường xuyên tại lâu đài, cũng như con của Phillipe, Verin và chồng ấy Ernst. Gallowglass, người cháu trai biết đến nghỉ ngơi của Ysabeau, làm tất cả bọn họ choáng váng bằng việc ở lại đó suốt sáu tuần lễ. Thậm chí lúc này, ta cũng có dấu hiệu gì rời . Sophie Norman và Nathaniel Wilson chào đón đứa con mới sinh của bọn họ, Margaret, đến thế giới này dưới mái nhà của Ysabeau, và giờ uy quyền của đứa bé trong lâu đài này chỉ đứng thứ hai sau nữ chúa của nhà de Clermont mà thôi. Với việc cháu trai sống ở Sept-Tours, mẹ của Nathaniel, Agatha xuất hết lần này tới lần khác mà hề báo trước, cũng như người bạn tốt nhất của Matthew, Hamish. Thậm chí Baldwin thi thoảng cũng đảo qua đây. Chưa bao giờ trong cả cuộc sống dài đằng đẵng của mình, Ysabeau muốn làm bà chủ gia đình như thế này. “Sarah đâu rồi?” Marcus hỏi, tiếng hòa vào thanh ồn ào của các hoạt động diễn ra xung quanh. “Cháu nghe thấy tiếng bà ấy.” “Ở trong Tháp Tròn.” Ysabeau lướt cái móng tay sắc lẻm của bà quanh mép câu chuyện tờ báo và gọn gàng nâng mấy cột báo bị cắt rời ra khỏi bản in. “Sophie và Margaret ngồi cùng bà ấy lát. Sophie Sarah vẫn tiếp tục quan sát.” “Vì cái gì ạ? Giờ chuyện gì xảy ra vậy?” Marcus hỏi, chộp lấy tờ báo. chàng đọc tất cả báo vào buổi sáng, lần theo những thay đổi tinh vi trong dòng tiền và ảnh hưởng mà Nathaniel tìm ra cách phân tích và tách bạch để có thể chuẩn bị tốt hơn trước bước kế tiếp của Đại Hội Đồng. thế giới có Phoebe thể tưởng tượng nổi, nhưng Nathaniel cũng gần như thể thiếu đối với . “Cái kính thiên văn chết tiệt đó là rắc rối đây, cháu biết mà. Tất cả những gì Đại Hội Đồng cần là phù thủy du hành thời gian và với câu chuyện này, bọn chúng có mọi thứ chúng cần để quay lại quá khứ và tìm ra cha cháu.” “Cha cháu ở đó quá lâu đâu, nếu như giờ nó vẫn còn ở đó.” “ thế ạ, Grand-mère,” Marcus với đôi chút bực tức, chú ý của chàng vẫn còn gắn chặt vào văn bản xung quanh cái lỗ hổng mà Ysabeau để lại tờ Thời Đại. “Làm thế nào mà bà biết được?” “Đầu tiên là những bức tiểu họa, sau đó là những ghi chép về phòng thí nghiệm, và giờ là cái kính thiên văn này. Ta biết con dâu của ta. Cái kính thiên văn này chính xác là tín hiệu Diana làm nếu con bé còn gì để mất nữa.” Ysabeau lướt qua cậu cháu trai. “Diana và Matthew trở về nhà.” Vẻ mặt của Marcus khó dò. “Ta kỳ vọng cháu vui mừng hơn trước trở về của cha mình chứ,” Ysabeau khẽ , dừng lại bên cánh cửa. “Mấy tháng qua là khó khăn,” Marcus ủ ê . “Đại Hội Đồng thể ràng rằng bọn họ muốn cuốn sách và con của Nathaniel. khi Diana ở đây…” “Bọn chúng ngăn được điều gì cả.” Ysabeau chậm rãi hít vào hơi. “Ít nhất, chúng ta còn phải lo lắng về điều xảy đến với Diana và Matthew trong quá khứ. Chúng ta ở cùng nhau tại Sept-Tours này và sát cánh chiến đấu bên nhau.” Rồi chết bên nhau. “Quá nhiều thứ thay đổi kể từ tháng Mười vừa qua.” Marcus nhìn đăm đăm vào mặt chiếc bàn tỏa sáng, như là phù thủy và chiếc bàn có thể cho chàng nhìn thấy được tương lai. “Ta cho là họ cũng thấy vậy. Nhưng tình của cha cháu dành cho cháu là mãi mãi. Sarah cần Diana vào lúc này. Và cháu cũng cần Matthew.” Ysabeau cầm lấy bài báo cắt, về phía Tháp Tròn, bỏ lại Marcus với những suy nghĩ ngổn ngang. có thời, nơi đó là nhà giam thích của Philippe và giờ nó được dùng làm kho chứa giấy tờ cũ của gia đình. Mặc dù cánh cửa dẫn vào căn phòng ở tầng thứ ba hé mở, nhưng Ysabeau vẫn gõ lên cửa. “Bà phải gõ cửa đâu, đây là nhà của bà mà.” Tiếng khàn khàn trong giọng Sarah cho thấy, bà ấy hút thuốc lá và uống rất nhiều rượu uýt-ki. “Nếu đó là cách bà cư xử tôi chẳng vui vẻ gì khi là khách của bà đâu,” Ysabeau sắc sảo đáp lại. “Khách của tôi ư?” Sarah cười khẽ. “Tôi bao giờ để bà vào nhà tôi đâu.” “Ma cà rồng thường cần được mời.” Ysabeau và Sarah hoàn thiện nghệ thuật giễu cợt chanh chua của riêng họ. Marcus và Em cố gắng vô ích để thuyết phục họ tuân theo những quy tắc giao tiếp lịch thiệp, nhưng các nữ chúa của hai gia tộc biết rằng miệng lưỡi sắc bén kiểu này giúp duy trì cân bằng quyền lực mong manh của bọn họ. “Bà lẽ ra nên lên đây, Sarah.” “Tại sao ? Sợ tôi cảm lạnh đến chết à?” Giọng Sarah cao vút lên với đau đớn đột ngột, và bà ấy tiếp tục gào to gấp đôi như thể vừa bị đánh. “Xin Chúa giúp tôi, tôi nhớ ấy quá. Hãy với tôi đây chỉ là mơ , Ysabeau. với tôi rằng Emily vẫn còn sống .” “ phải mơ đâu,” Ysabeau nhàng hết mức có thể. “Tất cả chúng ta đều nhớ ấy. Tôi biết bà cảm thấy trống rỗng và đau đớn, Sarah.” “Và nó qua thôi mà,” Sarah buồn chán . “, đâu.” Sarah ngước lên nhìn, ngạc nhiên trước giọng dữ dội của Ysabeau. “Mỗi ngày trong cuộc đời mình, tôi đều khao khát có Philippe. Khi mặt trời mọc, trái tim tôi khóc thương gọi tên ông ấy. Tôi lắng nghe giọng của ông ấy, nhưng chỉ có im lặng đáp lại. Tôi thèm khát cái vuốt ve của ông ấy. Khi mặt trời lặn, tôi quay trở về cùng với nhận thức rằng người bạn đời của tôi biến mất khỏi thế giới này và tôi bao giờ còn được thấy gương mặt của ông ấy nữa.” “Nếu bà cố làm cho tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nó hiệu quả đâu,” Sarah , nước mắt rơi như mưa. “Emily chết để cho con của Sophie và Nathaniel có thể sống. Những kẻ góp phần trong cái chết của bà ấy phải trả giá, tôi hứa đấy. Nhà de Clermonts rất giỏi trả thù, Sarah ạ.” “Và trả thù khiến tôi thấy dễ chịu hơn ư?” Sarah quắc mắt lườm qua hai hàng nước mắt. “, nhưng nhìn thấy Margaret lớn lên trở thành người phụ nữ giúp bà thấy dễ chịu hơn. Chuyện này cũng thế.” Ysabeau thả mẩu báo được cắt ra vào lòng nữ phù thủy. “Diana và Matthew sắp về nhà rồi.” Phần VI. Tân Thế Giới. Cựu Thế Giới 41. Những cố gắng của tôi để từ quá khứ tới được Chòi Gác Cổ tương lai vẫn thành công. Tôi tập trung vào dáng vẻ cùng mùi hương của nơi này và nhìn thấy những sợi tơ trói buộc Matthew và tôi với ngôi nhà – màu nâu, xanh lá và vàng kim. Nhưng chúng lại trượt khỏi tay tôi hết lần này tới lần khác. Thay vào đó, tôi lại cố hướng tới Sept-Tours. Các sợi tơ kết nối chúng tôi với nơi đó bị ảnh hưởng bởi khí chất của Matthew, pha trộn giữa màu đỏ và đen có xen kẽ ánh bạc. Tôi hình dung ngôi nhà với đầy đủ các gương mặt thân quen – dì Sarah và Em, Ysabeau và Marthe, Marcus và Miriam, Sophie và Nathaniel. Nhưng tôi thể tới được cái bến an toàn đó. Kiên quyết lờ cơn hoang mang lo lắng dâng lên, tôi tìm kiếm trong hàng trăm lựa chọn để tìm đích đến thay thế. Oxford chăng? Khu tàu điện ngầm Blackfriars ở London đại chăng? Nhà thờ Thánh Paul chăng? Các ngón tay tôi vẫn quay trở về với cùng sợi tơ khung cửi thời gian, nó mềm mại và mịn màng như lụa mà cứng rắn và rất thô ráp. Tôi lần từng bước dọc theo chiều dài ngoằn ngoèo của nó và phát ra nó phải là sợi chỉ mà là cái rễ nối với cái cây vô hình nào đó. Vừa phát ra điều đó, tôi liền bị vấp chân, giống như vừa bước qua bậu cửa vô hình, và rơi vào phòng sinh hoạt chung của nhà Bishop. Nhà. Tôi đáp xuống bằng cả hai tay và đầu gối, các sợi thừng thắt nút duỗi ra nằm giữa lòng bàn tay tôi và sàn nhà. Hàng thế kỷ được đánh bóng và truyền qua hàng trăm bàn chân của tổ tiên đủ lâu để làm láng mịn sàn gỗ thông rộng lớn này. Chúng mang lại cảm giác thân thuộc dưới hai bàn tay tôi, bằng chứng về trường tồn vĩnh cửu trong thế giới luôn đổi thay. Tôi ngước nhìn lên, có phần hy vọng được trông thấy các dì đợi tôi trong tiền sảnh. quá dễ dàng tìm được đường trở về Madison nên tôi cho rằng chính họ dẫn dắt chúng tôi tới đây. Nhưng bầu khí trong ngôi nhà Bishop tĩnh lặng và hề có sống, như thể có linh hồn nào quấy rầy nó suốt từ dịp lễ Halloween. Thậm chí, dường như ngay cả các bóng ma cũng còn cư ngụ ở đây nữa. Matthew quỳ gối bên cạnh tôi, cánh tay vẫn còn khoác lấy tay tôi và các cơ bắp run run do áp lực từ việc di chuyển xuyên thời gian. “Chỉ có chúng ta ở đây thôi sao?” Tôi hỏi. hít vào mùi hương trong ngôi nhà. “Đúng thế.” Cùng với lời đáp khe khẽ của , ngôi nhà thức giấc và bầu khí từ chỗ phẳng lặng thiếu sức sống chuyển sang căng thẳng chỉ trong chớp mắt. Matthew nhìn tôi cười. “Xem tóc em kìa, nó lại thay đổi rồi.” Tôi liếc nhìn xuống thấy phải là những lọn tóc màu vàng dâu tây mà tôi quen thuộc nữa, giờ nó là những sợi tóc thẳng, mềm mại như lụa màu vàng kim ánh đỏ – giống hệt mái tóc của mẹ tôi. “Chắc nó cũng vượt thời gian đấy.” Ngôi nhà kẽo kẹt rền rĩ. Tôi cảm thấy nó thu thập năng lượng chuẩn bị bùng nổ. “Chỉ là ta và Matthew thôi mà.” Tôi lên tiếng để xoa dịu căn nhà nhưng giọng lại khàn khàn kỳ lạ. Tuy thế, ngôi nhà vẫn nhận ra giọng tôi và tiếng thở dài nhõm tràn ra. cơn gió luồn từ ống khói xuống, mang theo mùi hương xa lạ của cúc la mã trộn lẫn với mùi hương quế. Tôi ngoái nhìn qua vai về phía cái lò sưởi và những tấm ván gỗ ốp bị vỡ ra xung quanh ngổn ngang tới tận chỗ tôi đứng. “Đó là cái quỉ gì thế?” cái cây chồi lên từ dưới vỉ lò sưởi. Thân cây màu đen lấp đầy ống khói, cành nhánh đâm xuyên qua đá và lớp ván gỗ ốp xung quanh. “Nó giống cái cây mọc từ nồi chưng cất của Mary.” Matthew khom người xuống bên lò sưởi, trong chiếc quần chẽn nhung đen và chiếc áo sơ mi vải lanh thêu hoa văn trang trí. Ngón tay chạm vào cục bạc dính lõm vào lớp vỏ cây. Giống tôi, giọng nghe như vẳng lại từ cõi xa xôi bên ngoài thời này. “Cái đó trông giống huy hiệu hành hương của .” Hình dáng chiếc quan tài của Lazarus vẫn có thể nhận ra. Tôi đến bên cạnh , cái chân váy màu đen xòe rộng phồng ra quét sàn nhà. “ nghĩ là nó. Chiếc bình hai quai này có hai cái hõm mạ vàng, bên trong đựng nước thánh. Trước khi rời Oxford, đổ đầy hõm bằng máu của còn hõm kia là máu của em.” Matthew đón lấy ánh mắt tôi. “Dòng máu của chúng ta ở gần nhau khiến cảm thấy như thể chúng ta bao giờ chia lìa.” “Trông cái bình như bị nổ do sức nóng và tan chảy ra. Nếu bên trong cái bình được mạ bạc, thủy ngân thoát ra cùng với máu.” “Vậy nên cái cây này được làm từ cùng những nguyên liệu như cây Dianæ của Mary.” Matthew ngước lên nhìn những cành cây trần trụi. Mùi hương cúc la mã và quế càng thêm nồng. Cái cây bắt đầu trổ ra – nhưng phải hoa trái bình thường, thay vào đó là chiếc chìa khóa và trang giấy da mịn. “Nó là trang sách của cuốn cổ thư,” Matthew và đưa tay kéo nó xuống. “Điều đó có nghĩa là cuốn sách vẫn bị hỏng và chưa hoàn thiện vào thế kỷ hai mươi mốt. có điều gì chúng ta làm trong quá khứ làm thay đổi thực tế này.” Tôi thở ra hơi bình tĩnh. “Vậy khả năng là Ashmole 782 được cất giấu an toàn ở thư viện Bodleian,” Matthew lặng lẽ . “Đây là chìa khóa chiếc ô tô.” nhổ nó ra khỏi cành cây. Nhiều tháng qua, tôi nghĩ đến bất cứ hình thức di chuyển nào khác ngoài xe ngựa hay tàu thuyền. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ trước nhà, nhưng chẳng có phương tiện nào đợi chúng tôi ở đó cả. Ánh mắt Matthew cũng nhìn theo tôi. “Marcus và Hamish đảm bảo cho chúng ta có phương thức đến Sept-Tours như kế hoạch định mà cần gọi họ để xin giúp đỡ. Có lẽ họ để xe ô tô đợi sẵn khắp cả châu Âu và châu Mỹ, đề phòng trường hợp chúng ta cần. Nhưng họ bỏ nó lồ lộ ở đó đâu,” Matthew . “Nhưng có gara để xe.” “Còn có kho hoa bia mà.” Bàn tay Matthew tự động thả cái chìa khóa vào túi quần bên hông, nhưng bộ đồ của lại có những tiện ích đại như thế. “Liệu họ có nghĩ đến việc để lại quần áo cho chúng ta nhỉ?” Tôi ra dấu xuống chiếc áo khoác thêu thùa cầu kỳ và cái chân váy lòe xòe của mình. Chúng tôi vẫn còn đầy bụi bặm từ con đường đất của Oxford thế kỷ mười sáu. “Chúng ta thử tìm xem.” Matthew cầm chiếc chìa khóa cùng trang sách của Ashmole 782 vào phòng khách và phòng bếp. “Vẫn màu nâu,” tôi bình luận, nhìn giấy dán tường và chiếc tủ lạnh cổ. “Vẫn là nhà mà,” Matthew , kéo tôi vào vòng tay . “ có Em và dì Sarah phải là nhà nữa rồi.” Ngược lại với hộ gia đình đầy nhóc người vẫn vây quanh chúng tôi nhiều tháng qua, gia đình ở đại của chúng tôi dường như mong manh và bé. Ở đây có Mary Sidney để bàn bạc về các rắc rối của tôi trong suốt buổi tối mưa bão. Cũng có Susanna hay Goody Alsop ghé qua nhà thăm vào các buổi xế chiều để uống cốc rượu và giúp cho tôi hoàn thiện câu thần chú mới nhất. Tôi còn được Annie vui vẻ giúp đỡ mặc coóc-xê và những chiếc váy lòe xòe. Giẻ Lau hay Jack còn quẩn quanh chân tôi nữa. Và nếu chúng tôi cần giúp đỡ, có chàng Henry Percy chạy ào tới hỗ trợ mà hề hỏi han hay do dự. Tôi vòng cánh tay ôm quanh thắt lưng Matthew để lưu giữ cảm giác rắn chắc và vững vàng gì có thể phá hủy của . “ luôn nhớ bọn họ,” khẽ , thấu hiểu tâm tình của tôi, “nhưng nỗi đau phai dần theo thời gian thôi mà em.” “Em bắt đầu cảm thấy mình giống ma cà rồng hơn là phù thủy rồi đấy,” tôi rầu rĩ . “Quá nhiều những cuộc chia ly, quá nhiều những người thương nhung nhớ.” Tôi phát thấy tờ lịch tường, rồi chỉ cho Matthew xem – giờ là tháng Mười . “Lẽ nào có ai ở đây suốt từ năm ngoái sao?” lo lắng thắc mắc. “Chắc có gì đó ổn,” tôi , với lấy máy điện thoại. “,” Matthew thốt lên. “Đại Hội Đồng có thể lần theo các cuộc gọi hoặc theo dõi ngôi nhà. Chúng ta phải tới Sept-Tours. biết thời gian chúng ta có thể được đo bằng giờ hay năm, đó là nơi chúng ta cần tới.” Chúng tôi tìm thấy quần áo đại của mình ở máy sấy, được lồng vào trong cái vỏ gối để giữ cho chúng khỏi bị bụi bẩn bám. Chiếc cặp táp của Matthew đặt gọn gàng bên cạnh. Ít nhất Em về đây khi chúng tôi rời vì ai khác có thể nghĩ đến những việc vặt vãnh như thế. Tôi gói quần áo thời Elizabeth lại trong vải lanh, miễn cưỡng gỡ bỏ những vết tích hữu về cuộc sống vừa mới đây của chúng tôi, và kẹp chúng dưới cánh tay giống hai trái bóng đá phồng lên. Matthew thả trang sách của Ashmole 782 vào trong cặp da của và giữ lấy nó cách an toàn. Matthew quét mắt nhìn vườn cây ăn trái và những cánh đồng xung quanh trước khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà, ánh mắt chăm chú của cảnh báo nguy hiểm có thể xảy ra. Tôi cũng tự mình rà soát nơi này bằng con mắt thứ ba của phù thủy, nhưng dường như có ai ở bên ngoài cả. Tôi có thể nhìn thấy cả nước bên dưới vườn cây trái, nghe thấy tiếng cú trong rừng cây, nếm được vị ngọt của mùa hè trong khí trời lúc chạng vạng, nhưng chỉ thế thôi. “ nào,” Matthew , giật lấy cái bọc và cầm lấy tay tôi. Chúng tôi chạy qua khoảng sân trống để tới kho hoa bia. Matthew dồn tất cả sức nặng của mình đẩy lên cánh cửa trượt, nhưng nó suy chuyển. “Dì Sarah yểm bùa lên đó rồi.” Tôi có thể nhìn thấy bùa chú vặn xoắn quanh tay cầm và xuyên qua thớ gỗ. “Cũng là câu thần chú mạnh đấy.” “Quá mạnh đến mức thể bị phá vỡ ư?” Miệng Matthew mím chặt lại lo lắng. Chẳng có gì ngạc nhiên khi lo nghĩ đến thế. Lần cuối cùng chúng tôi ở đây, tôi còn thể thắp sáng những trái bí ngô trong lễ Halloween còn gì. Tôi xác định hai đầu sợi dây và nhoẻn miệng cười toe toét. “ có nút thắt. Dì Sarah tuy giỏi, nhưng dì phải là thợ dệt.” Tôi kẹp các dải lụa thời Elizabeth vào cạp chiếc quần legging của mình. Khi tôi lôi chúng ra, những sợi thừng màu xanh lá và nâu trong tay tôi liền vươn tới và chốt lên câu thần chú của Sarah, nới lỏng các giới hạn mà dì tôi đặt lên cánh cửa, còn nhanh hơn cả khi ngài trộm đạo Jack của chúng tôi ra tay. Chiếc xe nhãn Honda của dì Sarah đỗ ở trong kho. “Chúng ta làm thế nào để nhồi vừa vào trong đó được bây giờ?” tôi băn khoăn. “ tìm cách,” Matthew , quăng mớ quần áo của chúng tôi ra ghế phía sau. đưa cho tôi cái cặp da, co người ngồi vào ghế trước và sau vài lần khởi động được, cuối cùng, chiếc xe cũng xì xì nổ máy. “Kế tiếp đến đâu đây?” Tôi hỏi, tay thắt dây an toàn. “Syracuse rồi Montreal, sau đó là Amsterdam, có ngôi nhà ở đó.” Matthew lái xe ra và lặng lẽ hướng về phía những cánh đồng. “Nếu có kẻ theo dõi chúng ta, bọn chúng canh chừng ở New York, London, và Paris.” “Chúng ta có hộ chiếu,” tôi nhắc. “Nhìn dưới thảm xem, Marcus bảo dì Sarah để chúng ở đó,” . Tôi lật mấy tấm thảm bẩn lên và tìm thấy cái hộ chiếu Pháp của Matthew và hộ chiếu Mỹ của tôi. “Tại sao hộ chiếu của phải màu đỏ boóc-đô?” Tôi hỏi, lấy chúng từ trong chiếc túi nhựa dán kín ra (lại thứ khác do Em động tay, tôi thầm nghĩ). “Bởi vì nó là hộ chiếu ngoại giao.” lái xe lên đường cái và bật đèn pha. “Chắc là cũng có cái như thế cho em.” Hộ chiếu ngoại giao Pháp của tôi đề tên Diana de Clermont và ghi chú tình trạng hôn nhân của tôi với Matthew, nó được gấp kẹp bên trong cuốn hộ chiếu U.S thông thường kia. Làm thế nào Marcus xoay sở được tấm ảnh y hệt mà làm tổn hại tấm ảnh gốc của tôi chẳng ai đoán ra nổi. “Bây giờ cũng là điệp viên à?” Tôi lí nhí hỏi. “, nó giống như máy bay lên thẳng ấy,” cười đáp, “chỉ là chỗ đáp cánh khác có quan hệ với người nhà de Clermont thôi mà.” Tôi rời Syracuse với tư cách là Diana Bishop và bước vào châu Âu ngày hôm sau với tư cách là Diana de Clermont. Ngôi nhà của Matthew ở Amsterdam hóa ra là dinh thự từ thế kỷ mười bảy phía bờ đẹp nhất của con kênh Herengracht. Matthew giải thích, mua nó ngay sau khi rời Scotland năm 1605. Chúng tôi nấn ná ở đó chỉ đủ lâu để tắm táp và thay quần áo. Tôi vẫn mặc tiếp cái quần legging từ lúc ở Madison, còn đổi áo sơ mi của tôi thành áo sơ mi của Matthew. mặc bộ đồ màu xám đen vải cashmere và len như thói quen, mặc dù theo như báo chí giờ mới là cuối tháng Sáu thôi. kỳ quặc khi nhìn thấy đôi chân của bởi tôi quen với việc chúng vẫn được khoe ra rồi. “Có vẻ là cuộc buôn bán công bằng đấy,” Matthew bình phẩm. “ được nhìn thấy chân em nhiều tháng nay rồi, ngoại trừ chỗ riêng tư trong phòng ngủ của chúng mình.” Matthew gần như đau tim khi phát ra chiếc Range Rover quí của đợi ở dưới gara ngầm. Thay vào đó, chúng tôi tìm thấy chiếc ô tô thể thao mui mềm màu hải quân. “ giết tên nhóc này,” Matthew càu nhàu khi nhìn chiếc phương tiện thấp tè kia. dùng chìa khóa nhà để mở hộp kim loại được đóng vào tường. Bên trong có cái chìa khóa khác và mẩu giấy nhắn: “Chào mừng về nhà. ai ngờ cha lái cái xe này. Nó an toàn và nhanh nữa. Chào Diana. M.” “Cái gì đây?” Tôi , nhìn vào những đĩa số kiểu như bàn điều khiển máy bay, được đặt vào cái bảng đồng hồ mạ vàng hào nhoáng. “ chiếc Spyker Spyder. Marcus sưu tập ô tô đặt theo tên các loài chân đốt.” Matthew mở cửa khởi động xe, hai cánh cửa nâng lên giống cánh máy bay chiến đấu. chửi thề. “Nó là cái ô tô dễ đập vào mắt nhất, tưởng tượng nổi.” Chúng tôi chỉ dùng nó tới Bỉ trước khi Matthew tạt vào đại lý bán xe hơi, trao tay chìa khóa xe của Marcus và chọn ra chiếc xe lớn hơn, ít lố bịch hơn. An toàn trong chiếc xế hộp nặng nề, chúng tôi tiến vào Pháp và vài giờ sau bắt đầu chậm chạp leo ngược xuyên qua những ngọn núi của vùng Auvergne tới Sept-Tours. Những hình ảnh loáng thoáng của tòa pháo đài giữa các rặng cây – đá xám phớt hồng, ô cửa sổ tháp tối đen. Tôi dừng được việc so sánh tòa lâu đài này và thị trấn lân cận nó ở thời điểm tại với dáng vẻ của nó khi tôi thấy lần cuối cùng vào năm 1590. Thời đại này có khói mờ lững lờ treo Saint-Lucien như tấm vải liệm xám xịt. tiếng chuông từ xa vẳng lại khiến tôi quay đầu nhìn, nghĩ tới con cháu của những con chiên mà tôi biết giờ về nhà dùng bữa tối. Pierre ào ra với mấy bó đuốc tay để đón chúng tôi. Đầu Bếp cũng ở trong phòng bếp chặt đầu gà lôi bằng con dao pha, giống trò chơi chém giết, để chuẩn bị làm thức ăn nuôi cả loài máu nóng lẫn ma cà rồng. Và có Philippe nên cũng có những tiếng cười, những quan sát tinh tường về yếu đuối của loài người được nâng tầm từ tư tưởng Euripides, hoặc những hiểu biết sâu sắc về các vấn đề mà chúng tôi đối mặt lúc này khi trở về tại. Tôi phải mất bao lâu mới có thể ngăn lại giằng xé đau lòng khi nghĩ tới người cha chồng này. Cái thế giới đại khắc nghiệt và sáng sủa, với nhịp độ nhanh đến chóng mặt này có chỗ dành cho những người hùng như ông nữa. “Em nghĩ đến cha ,” Matthew thầm . Các nghi thức lặng lẽ: ma cà rồng lấy máu và nụ hôn của phù thủy làm mạnh thêm năng lực thấu hiểu các ý nghĩ của chúng tôi. “ cũng vậy mà.” Tôi nhận xét. vẫn nghĩ đến cha mình kể từ lúc chúng tôi băng qua biên giới tiến vào Pháp. “Với , tòa lâu đài có cảm giác trống trải kể từ ngày ông chết. Nó là nơi nương náu để quay về, nhưng rất thiếu thoải mái.” Matthew nâng mắt nhìn lâu đài, rồi ổn định trở lại nhìn con đường phía trước. khí nặng nề trầm xuống với trách nhiệm và nhu cầu của đứa con trai muốn làm sống dậy những hồi tưởng về cha mình. “Có lẽ lần này khác. Dì Sarah và Em ở đó. Marcus cũng vậy. Chưa kể tới Sophie và Nathaniel. Và Philippe vẫn ở nơi đây, chỉ cần chúng ta học được cách chú ý tới diện thay vì vắng mặt của ông.” Ông ở đó, trong bóng tối của mỗi căn phòng, mỗi tảng đá xây tường lâu đài. Tôi ngắm nghía gương mặt đẹp đẽ và khắc khổ của chồng mình, càng hiểu hơn việc gương mặt ấy phải trải qua đau đớn tới mức nào để tạo nên hình dáng ngày nay. bàn tay tôi khum lại che chở bụng mình, tay kia tìm kiếm để truyền chút an ủi mà rất cần lúc này. Ngón tay siết lấy tay tôi chặt. Rồi Matthew thả tôi ra, và chúng tôi chuyện trong lúc. Tuy nhiên, các ngón tay tôi lại nôn nóng gõ liên hồi lên bắp đùi trong im lặng. Vài lần, tôi cảm thấy bị thúc giục muốn mở tung nóc xe và bay tới cửa trước của lâu đài. “Em dám đâu.” Nụ cười rộng ngoác tới mang tai của Matthew dịu dàng và trong giọng có chút cảnh cáo. Tôi cười đáp lại khi nhả số vòng xuống khúc cua gấp. “Thế nhanh lên,” tôi và cố kiểm soát bản thân. Bất chấp những lời khẩn nài của tôi, đồng hồ công tơ mét vẫn đứng nguyên chỗ. Tôi rên rỉ kêu ca nôn nóng. “Đáng lẽ chúng ta nên kẹt cứng với cái xe của Marcus hơn.” “Kiên nhẫn nào, chúng ta gần tới nơi rồi mà.” Và chẳng có cơ hội cho nhanh hơn, Matthew nghĩ trong khi nhả số lần nữa. “Sophie gì về chuyện Nathaniel lái xe khi ấy mang thai nhỉ? ‘ ấy lái xe như lão phu nhân.’” “Tưởng tượng xem, Nathaniel có thể lái xe như thế nào nếu chàng thực là lão phu nhân – lão phu nhân già hàng trăm tuổi, giống như đây này. Đó là cách lái xe trong những năm tháng còn lại của mình, chừng nào em có mặt ở xe.” lại với sang nắm lấy tay tôi, đưa lên môi hôn. “Để cả hai tay lên vô lăng , lão phu nhân,” tôi trêu chọc khi chúng tôi vòng qua khúc quanh cuối cùng vào con đường thẳng tắp trải ra trước mặt, rừng cây óc chó nằm chắn giữa chúng tôi với sân trong của lâu đài. Nhanh lên, tôi nài nỉ trong im lặng. Mắt tôi dán chặt vào mái tòa tháp của Matthew khi nó xuất trong tầm nhìn. Khi chiếc xe chậm lại, tôi nhìn bối rối. “Họ mong ngóng chúng ta kìa,” giải thích, nghiêng đầu về phía kính chắn gió. Sophie, Ysabeau và Sarah đợi ở giữa con đường, lặng im nhúc nhích. tinh, ma cà rồng, phù thủy – và còn người nữa. Ysabeau bế đứa bé tay. Tôi có thể trông thấy mái tóc dày rậm màu nâu đậm và cặp chân dài mũm mĩm của bé. bàn tay bé nắm chặt sợi dây đeo khóa của nữ ma cà rồng, trong khi bàn tay kia xòe ra hướng về phía chúng tôi. cảm giác râm ran ngứa ngáy xíu thể nhầm lẫn được khi đôi mắt đứa bé chú mục nhìn tôi. Con của Sophie và Nathaniel là phù thủy, đúng như ấy tiên đoán. Tôi tháo dây an toàn, mở tung cánh cửa xe và chạy xuống đường trước khi Matthew kịp cho xe dừng hẳn lại. Nước mắt chảy dài má tôi. Dì Sarah chạy tới ôm lấy tôi trong vòng tay quen thuộc của lông cừu và vải fanel, bao quanh tôi bằng mùi hương cây kỳ nham và vani ngọt ngào. Nhà, tôi thầm nghĩ. “Dì rất mừng là các con trở về an toàn,” dì xúc động . Qua vai dì Sarah, tôi thấy Sophie dịu dàng đón đứa bé từ tay Ysabeau. Gương mặt mẹ Matthew vừa thể dò thấu lại vừa thân thương hơn bao giờ hết, nhưng khóe miệng mím chặt của bà lại để lộ những xúc cảm mãnh liệt khi bà buông đứa bé ra. Vẻ cứng rắn đó cũng là trong những dấu hiệu nhận biết của Matthew. ra, chúng còn giống nhau hơn cả máu thịt mà Matthew được tạo ra. Kéo mình ra khỏi vòng ôm của Sarah, tôi quay sang Ysabeau. “Ta dám chắc các con trở về. Các con lâu quá. Rồi Margaret bắt đầu đòi chúng ta đưa con bé ra đường, và có lẽ khi đó ta bắt đầu tin rằng các con có thể trở về với chúng ta cách an toàn.” Ysabeau ngắm nghía gương mặt tôi để tìm kiếm thông tin nào đó mà tôi chưa trao cho bà. “Giờ chúng con về rồi và ở lại đây.” có đủ những mất mát trong cuộc đời dài đằng đẵng của bà rồi. Tôi hôn lên má bà, rồi đến má bên kia. “Bien,” bà thầm với vẻ nhõm. “Tất cả chúng ta đều vui mừng vì có các con ở đây – chỉ Margaret.” Đứa bé nghe thấy tên nó bắt đầu kêu ê ê a a. “D-d-d-d” trong khi tay chân khua khoắng loạn lên, cố tới gần tôi. “ nàng thông minh,” Ysabeau thương , tặng cho Margaret và rồi cả Sophie cái vỗ lên đầu. “ có muốn bế con đỡ đầu ?” Sophie hỏi. Nụ cười tươi hết cỡ mặc dù nước mắt rưng rưng trông rất giống Susanna. “Muốn lắm chứ,” tôi , đón lấy đứa bé vào vòng tay mình trong khi trao nụ hôn lên má Sophie. “Xin chào Margaret,” tôi thầm, hít vào mùi thơm của bé. “D-d-d-d.” Margaret tóm lấy tóc tôi và bắt đầu vung vẩy nắm tay bé. “Con là nhóc chuyên gây rối,” tôi cười . Con bé dụi bàn chân vào sườn tôi và cằn nhằn phản đối. “Con bé bướng bỉnh y như cha nó, mặc dù bé là Song Ngư,” Sophie bình thản . “Sarah thay trong lễ rửa tội. Agatha ở đây nhưng giờ bà rồi, nhưng tôi nghĩ là bà quay lại đây sớm thôi. Agatha và Marthe làm chiếc bánh đặc biệt phủ đầy đường. ngạc nhiên. Và chiếc váy của Margaret đẹp. Giọng nghe lạ - như thể dành thời gian dài sống ở nước ngoài ấy. Và tôi thích tóc của lắm, nó cũng khác lạ. có đói ?” Những lời lẽ của Sophie cứ tuôn ra khỏi miệng, lộn xộn, vô tổ chức y như Tom và Jack. Tôi cảm nhận việc mất những người bạn ấy ngay cả ở đây giữa gia đình mình. Sau khi hôn lên trán Margaret, tôi giao bé lại cho mẹ. Matthew vẫn đứng sau cánh cửa mở của chiếc Range Rover, chân ở trong xe còn chân kia đặt mặt đất xứ Auvergne, như thể chắc, liệu chúng tôi có nên ở đó . “ Em đâu rồi?” Tôi hỏi. Dì Sarah và Ysabeau trao đổi ánh mắt. “Mọi người đợi các con trong lâu đài. Tại sao chúng ta bộ về nhỉ?” Ysabeau gợi ý. “Cứ việc bỏ xe đấy, có người mang nó về. Các con chắc hẳn muốn rảo chân cho thư giãn chút.” Tôi choàng cánh tay quanh dì Sarah và bước vài bước. Matthew đâu rồi? Tôi quay lại chìa bàn tay kia ra. Đến với gia đình , tôi thầm khi ánh mắt chúng tôi kết nối với nhau. Hãy đến cùng những người thương . cười, và trái tim tôi thót lên đáp lại. Ysabeau rít lên kinh ngạc, tiếng huýt gió trong khí mùa hè lớn hơn tiếng thầm. “Nhịp tim đập. Của con. Và… có thêm hai cái nữa?” Đôi mắt màu xanh lá xinh đẹp của bà liếc tới bụng tôi và giọt chất lỏng màu đỏ xíu rưng rưng nơi khóe mắt. Ysabeau nhìn sang Matthew vẻ thắc mắc. gật đầu, và giọt huyết lệ của mẹ trào ra chảy tràn xuống bờ má. “ cặp sinh đôi đến với gia đình con,” tôi như cách giải thích. Matthew phát ra tiếng tim đập thứ hai ở Amsterdam, ngay trước khi chúng tôi trèo vào chiếc xe gián điệp của Marcus. “Cả gia đình của ta nữa,” Ysabeau thầm. “Vậy nó là , Sophie thấy điều gì trong những giấc mơ của ấy nhỉ? Con cùng với đứa bé – đứa bé của Matthew ư?” “Những đứa trẻ,” tôi , ngắm nhìn giọt huyết lệ chầm chậm lăn dài. “Vậy đây chính là khởi đầu mới,” dì Sarah , quệt nước mắt của mình. Ysabeau trao cho dì tôi nụ cười chua xót. “Philippe vẫn thích về những khởi đầu. Thứ gì đó cổ xưa. Nó là gì nhỉ, Matthew?” Ysabeau hỏi con trai. Cuối cùng, Matthew cũng bước hẳn ra khỏi xe, như có câu thần chú nào đấy giữ lại và các điều kiện để phá bỏ nó rốt cuộc cũng hội đủ. sải vài bước tới bên tôi, rồi hôn lên má mẹ trước khi đưa tay ra nắm lấy tay tôi. “‘Omni i ne initium novum,’” Matthew , mắt say sưa nhìn mảnh đất của cha như thể cuối cùng trở về nhà. “Mọi khởi đầu đều bắt nguồn từ kết thúc.” 42. Ngày 30 tháng Năm năm 1593 Annie mang bức tượng của Diana cho Cha Hubbard, đúng như ông Marlowe bắt bé hứa phải làm thế. Tim bé siết lại khi nhìn nó nằm trong lòng bàn tay wearh. Bức tượng xíu nhắc bé nhớ tới Diana Roydon. Thậm chí cho tới bây giờ, sau gần hai năm bà chủ của đột ngột ra , Annie vẫn nhớ bà lắm. “Ông ấy gì khác ư?” Hubbard hỏi, xoay xoay bức tượng trong tay. Mũi tên của người nữ thợ săn bắt ánh sáng phản chiếu lấp lánh trông như sắp sửa bay tới. “ có gì, thưa Cha. Sáng nay, trước khi khởi hành Deptford, ông ấy lệnh cho con mang thứ này tới cho ngài. Ông Marlowe ngài biết phải làm gì.” Hubbard phát mảnh giấy nhét trong ống đựng tên mỏng mảnh, được cuộn lại và kẹp dọc theo các mũi tên để sẵn trong ống tên của nữ thần. “Cho ta mượn cái ghim cài của con Annie.” Annie tháo chiếc kẹp ghim ở thân áo và đưa cho ông ta kèm theo cái nhìn kỳ quái. Hubbard chọc đầu nhọn để khều tờ giấy. cẩn thận, ông ta lấy mảnh giấy ra. Hubbard đọc dòng tin, cau mày và lắc đầu. “Christopher tội nghiệp. Ông ta chưa bao giờ là đứa con lạc lối của Chúa.” “Ông Marlowe quay lại ư?” Annie thở phào nhõm. bé chưa bao giờ thích kịch tác gia này, và thể khôi phục lại lòng quý trọng của bé dành cho ông ta từ sau kiện kinh khủng ở trường đấu thương Cung Điện Greenwich. Kể từ khi ông bà chủ rời mà chẳng để lại manh mối về nơi họ đến, Marlowe từ sầu muộn tới tuyệt vọng rồi lạc vào tăm tối. Annie dám chắc rằng tăm tối ấy có ngày nuốt chửng ông ta hoàn toàn. bé cũng muốn chắc chắn nó tóm được . “, Annie ạ. Chúa với ta, ông Marlowe rời khỏi thế giới này và tới thế giới bên kia. Ta cầu nguyện để ông ấy tìm được bình yên, vì ông ấy bị từ chối ban cho điều đó trong cuộc sống này.” Hubbard ngắm nghía lúc. bé trở thành người phụ nữ trẻ cuốn hút rồi và có lẽ cứu được Will Shakespeare thoát khỏi mối tình với người phụ nữ có chồng kia. “Nhưng con phải lo lắng đâu. Bà Roydon bảo ta đối xử với con như con của ta. Ta chăm sóc cho các con của mình và con có ông chủ mới.” “Là ai, thưa Cha?” phải chấp nhận bất cứ địa vị nào Hubbard ban cho mình. Bà Roydon từng số tiền cần phải có để làm thợ may độc lập ở Islington. mất thời gian và cần kiệm rất nhiều để gom đủ số tiền đó. “Ông Shakespeare. Giờ con biết đọc, biết viết và là người phụ nữ đáng giá, Annie. Con có thể giúp đỡ công việc của ông ấy.” Hubbard cân nhắc tờ giấy trong tay. Ông ta định giữ nó cùng với gói hàng đến từ Praha, được gửi qua mạng lưới của người đưa thư và thương nhân do các ma cà rồng Hà Lan lập nên. Hubbard vẫn chắc tại sao Edward Kelley lại gửi cho mình bức tranh lạ lùng về những con rồng. Edward là sinh vật khác người đen tối và láu cá. Hubbard bằng lòng với tư cách đạo đức của khi chẳng thấy việc công khai ngoại tình và trộm cắp có gì sai trái. Nghi lễ lấy máu gia nhập vào gia đình ngày ấy của phải là việc vui vẻ như bình thường. Trong lúc trao đổi, Hubbard thấy linh hồn Kelley để biết rằng ông ta muốn ở London. Vì thế, ông ta gửi Kelley tới Mortlake - chấm dứt quấy nhiễu triền miên của Dee muốn có được các bài học về phép thuật. Nhưng Marlowe ám chỉ bức tượng này đến Annie nên Hubbard thay đổi ý nguyện của người đàn ông chết mòn này. Ông ta đưa bức tượng và mảnh giấy cho Annie. “Con phải đưa thứ này cho dì của con, bà Norman. Bà ấy giữ nó an toàn cho con. Tờ giấy này có thể là vật kỷ niệm khác của ông Marlowe đấy.” “Vâng, thưa Cha Hubbard,” Annie , mặc dù bé rất muốn bán món đồ bằng bạc này và cất món tiền ấy vào quỹ dành dụm của mình. Annie rời khỏi nhà thờ, nơi Andrew Hubbard thống trị, lê bước qua các con đường tới nhà Will Shakespeare. Ông ta lanh lợi bằng Marlowe, nhưng bà Roydon thường về ông ta với vẻ kính trọng, dù cho bạn bè của ông chủ nhanh chóng chế nhạo Will. bé nhanh chóng ổn định cuộc sống trong nhà của người diễn viên kịch này và tinh thần được nâng lên từng ngày. Khi tin tức về cái chết kinh hoàng của Marlowe đến với họ, nó càng khẳng định thêm may mắn nhường nào khi thoát khỏi ông ta. Ông Shakespeare cũng bị choáng váng và uống rượu suốt đêm, việc đó khiến ông ta trở thành tâm điểm của cuộc chè chén. Mặc dù Shakespeare tự giải thích thỏa đáng chuyện đó và giờ tất cả trở lại bình thường. Annie lau bụi kính cửa sổ để có thêm ánh sáng cho ông chủ của đọc sách. dìm miếng vải vào nước sạch và mảnh giấy quăn queo rơi ra khỏi túi , nó bị cơn gió thổi vào từ cánh cửa sổ để mở cuốn . “Cái gì thế, Annie?” Shakespeare nghi ngờ hỏi, dùng quản bút lông chỉ chỉ vào nó. này làm việc cho Kit Marlowe và có thể truyền tin cho các đối thủ khác. Ông ta thể để bất cứ ai biết về điều kiện trao đổi mới nhất của mình dành cho với nhà bảo trợ. Cùng với việc tất cả các rạp hát đóng cửa vì ảnh hưởng của dịch bệnh, thời buổi này, giữ được thân xác và linh hồn ở cùng chỗ đúng là thử thách. Venus và Adonis có thể làm được điều đó – miễn là có kẻ nào ăn cắp ý tưởng của ông ta. “ có gì, ô-ô-ông Shakespeare,” Annie lắp bắp, lúi húi tìm lại tờ giấy. “Mang nó lại đây, nếu nó có gì cả,” ông ta ra lệnh. Ngay khi có nó tay, Shakespeare nhận ra văn phong rất riêng của nó. Tóc gáy ông ta muốn dựng ngược lên. Đây là thông điệp từ người chết. “Marlowe đưa thứ này cho khi nào?” Giọng Shakespeare lạnh lùng. “Ông ấy đưa tôi, ông Shakespeare.” Như mọi lần, Annie thể dối được. bé có những đặc điểm của phù thủy, nhưng Annie sở hữu tính thà thể nghi ngờ. “Nó bị giấu . Cha Hubbard tìm thấy và đưa nó cho tôi. Như vật kỷ niệm, ông ấy thế.” “ tìm thấy thứ này sau khi Marlowe chết à?” hứng thú ập tới dập tắt cái cảm giác rờn rợn như kiến bò sau gáy của Shakespeare. “Vâng,” Annie thầm đáp. “Vậy, ta giữ nó hộ . Để cho an toàn.” “Tất nhiên ạ.” Đôi mắt Annie chớp chớp lo lắng khi nhìn những dòng chữ cuối cùng của Christopher Marlowe biến mất dưới bàn tay nắm chặt của ông chủ mới. “Làm việc của , Annie.” Shakespeare đợi cho tới lúc hầu khỏi để lấy thêm giẻ lau và nước. Khi đó ông ta mới đọc kỹ các dòng chữ kia: Đen tượng trưng cho tình chân thành mất. Sắc màu của tinh, Và màu của Bóng Đêm. Shakespeare thở dài. Lựa chọn so sánh của Kit chưa bao giờ có ý nghĩa đối với ông ta, còn khiếu hài hước rầu rĩ và những đam mê bệnh hoạn quá đen tối đối với thời đại này. Chúng khiến khán giả khó chịu mà cũng có đủ chuyện chết chóc ở London này rồi. Ông ta xoay xoay cây bút lông ngỗng. Tình chân thành mất. Quả thế . Shakespeare khịt mũi. Ông ta có khá đủ tình chân thành kiểu đó rồi, mặc dù những khách hàng trả tiền dường như chưa bao giờ chán nó. Ông ta gạch bỏ những câu chữ này và thay thế nó bằng tiết duy nhất miêu tả chính xác những gì ông ta cảm thấy. tinh. thành công của tác phẩm Faustus của Kit vẫn giày vò ông ta. Shakespeare có tài viết về những sinh vật kỳ lạ và phi thường của tự nhiên. Ông ta viết về những chuyện đời thường giỏi hơn và viết về những kẻ đạo đức giả bị vướng vào cái bẫy của số phận. Đôi khi ông ta nghĩ có thể bóng ma câu chuyện nhập vào ông như hồn ma người cha sai trái ám lấy đứa con trai của mình. Shakespeare rùng mình. Cha của chính ông ta là hồn ma kinh khủng, hẳn là Chúa Trời mệt mỏi với bầu bạn của ông ta sau khi các báo cáo kế toán cuối cùng của John Shakespeare được giải quyết. Người cha đó lao ra khỏi cái thế giới đầy xúc phạm này và lựa chọn thế giới khác. Bóng Đêm. Nó là cái kết khập khiễng có thể dự đoán được cho khổ thơ này – kiểu mà George Chapman bổ nhào vào tìm hiểu xem nó còn thiếu gì hơn là quan tâm tới nguồn gốc của nó. Nhưng điều gì đáp ứng mục đích đó tốt hơn cả? Ông ta xóa từ khác và viết từ “cáu kỉnh” phía nó. cáu kỉnh của đêm. Cái đó cũng đúng lắm. Ông ta lại gạch nó và viết từ “ống tay áo.” Cái đó cũng tệ kém. Shakespeare vẩn vơ băn khoăn về số phận của Marlowe và bạn bè của ông ta, tất cả bọn họ giờ đều mờ mịt như những cái bóng. Henry Percy hưởng thụ hoàng ân hiếm có và điều này vĩnh viễn là như thế trong vương triều. Raleigh kết hôn bí mật và bị thất sủng trước mặt nữ hoàng, bị đuổi về Dorset, nơi nữ hoàng hy vọng ông ta bị lãng quên. Harriot dật ở nơi nào đó, nghi ngờ gì là chúi đầu vào câu đố toán học hoặc đắm đuối ngắm bầu trời giống tên hâm Robin Goodfellow. Có tin đồn rằng Chapman thực thi nhiệm vụ nào đó cho Cecil ở vùng Hạ Quốc và chắp bút viết nên những bài thơ dài về phù thủy. Còn Marlowe mới bị giết gần đây ở Deptford, mặc dù có người đó là vụ ám sát. Có lẽ Welshman lạ lùng biết về chuyện này vì ông ta ở trong quán rượu với Marlowe. Roydon – người đàn ông duy nhất có quyền uy mà Shakespeare từng gặp – cùng người vợ bí của ông ta, hoàn toàn biến mất vào mùa hè năm 1591 và ai nhìn thấy họ kể từ đó. Kẻ duy nhất trong nhóm của Marlowe mà Shakespeare vẫn còn nghe đến thường xuyên là gã Scot to con tên Gallowglass. có dáng vẻ ông hoàng mà tên hầu nên có và thích nghe kể những câu chuyện tuyệt vời về thần tiên và các tinh linh. phải cảm ơn việc Gallowglass thuê mướn đều đặn giúp Shakespeare có được mái nhà đầu. Gallowglass dường như thường có việc cần đến những câu chuyện của Shakespeare. trả hậu hĩnh – đặc biệt khi muốn Shakespeare bắt chước chữ viết tay của Roydon bên rìa cuốn sách nào đó, hay lá thư tay ký tên ông ta. Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, Shakespeare nghĩ thầm. Kẻ phản bội, lũ vô thần, bọn tội phạm, cả đám bọn chúng. Ngòi bút của ông ta do dự trang giấy. Sau khi viết từ khác, lần này, chữ viết có vẻ quả quyết và đậm nét, Shakespeare ngồi ngả ra sau, ngắm nhìn đoạn thơ mới của mình. Đen là dấu hiệu của địa ngục Sắc màu của ngục tù và bè lũ bóng đêm. còn nhận ra được tác phẩm của Marlowe nữa. Thông qua tài năng tráo mận đổi đào, Shakespeare biến những ý tưởng của người chết thành thứ phù hợp với người London bình thường hơn là những người nguy hiểm như Roydon. Mà ông ta chỉ mất có chốc lát thôi. Shakespeare mảy may cảm thấy tia day dứt, hối hận khi thay đổi quá khứ, thông qua đó cũng thay đổi cả tương lai. Bước tiến của Marlowe sân khấu thế giới kết thúc, nhưng của Shakespeare giờ mới bắt đầu. Hoài niệm ngắn ngủi và lịch sử nghiệt ngã. Đó chính là vận động trong thế giới này. Lòng vui sướng, Shakespeare đặt mẩu giấy vào chồng những mảnh giấy tương tự, được chặn bằng hộp sọ của con chó để ở góc bàn làm việc. Rồi có ngày, ông ta tìm được cách sử dụng đoạn thơ này. Sau đó ông ta lại có ý tưởng khác. Có lẽ ông ta quá vội vàng loại bỏ dòng “tình chân thành mất.” dễ nhận ra tiềm ở đó nhưng nó vẫn đợi người khai mở. Shakespeare với đến mảnh giấy ông ta cắt từ trang báo trong nỗ lực nhằm tiết kiệm tiền bạc nửa vời, sau khi Annie cho ông ta thấy hóa đơn mới nhất của chủ cửa hàng thịt. “Phí công đeo đuổi tình ,” ông ta viết hàng chữ lớn. Đúng thế, Shakespeare ngâm nga đọc, ông ta nhất định dùng đến nó ngày nào đấy. Mời các bạn ghé thăm Đào Tiểu Vũ's eBook để tải thêm nhiều eBook hơn nữa.