30. “Ong Habermel ghé qua. Bộ dụng cụ của em ở bàn đấy.” Matthew rời mắt khỏi các kế hoạch xây dựng lâu đài Praha, bằng cách nào đó kiếm được chúng từ các kiến trúc sư của hoàng đế. Mấy ngày qua, tặng cho tôi cả chiếc giường rộng thênh thang, còn mình dồn hết năng lượng vào khai thác những bí mật của việc phòng vệ cung điện hòng tìm cách chọc thủng hàng rào an ninh của Rudolf. Bất chấp lời khuyên của Abraham mà tôi truyền đạt lại chính xác, Matthew vẫn thích chiến lược chủ động hơn. muốn chúng tôi rời khỏi Praha. Ngay lúc này. Tôi đến bên và ngước lên nhìn với ánh mắt đầy khát khao da diết. “Đây chỉ là món quà thôi.” Tôi đặt đôi găng tay xuống và hôn sâu. “Trái tim em là của mà, nhớ chứ?” “Đây chỉ là món quà mà còn kèm theo lời mời săn vào ngày mai.” Matthew vòng tay ôm quanh hông tôi. “Gallowglass thông báo với là chúng ta nhận lời mời này. chàng đó tìm thấy lối vào khu vực riêng của hoàng đế, bằng cách quyến rũ hầu đáng thương chỉ cho xem bộ sưu tập tranh gợi dục của Rudolf. Binh lính cung điện cũng săn cùng chúng ta hoặc gà gật chợp mắt. Gallowglass tin rằng đây là cơ may để chúng ta tìm kiếm cuốn sách.” Tôi liếc nhìn mặt bàn làm việc của Matthew, còn có gói khác. “ cũng biết đó là thứ gì phải ?” gật đầu rồi với tay ra cầm nó lên. “Em luôn nhận được quà từ những người đàn ông khác. Nhưng cái này là của . Giơ tay ra nào.” Bị kích thích bởi tính tò mò, tôi liền làm theo. ấn vật gì đó hình tròn và trơn mượt vào lòng bàn tay tôi, với kích cỡ quả trứng . dòng kim loại mát lạnh nặng nề chảy quanh quả trứng bí này khi những con rồng lửa xíu dần lấp đầy bàn tay tôi. Chúng được làm từ bạc và vàng với nhiều viên kim cương đính lưng. Tôi nâng sinh vật kỳ diệu này lên, nó được gắn thành vòng tròn từ những cặp rồng lửa, miệng gắn với miệng, đuôi cuốn vào nhau. Thứ vẫn nép mình trong lòng bàn tay tôi lúc này là viên hồng ngọc. viên hồng ngọc rất lớn có màu đỏ rực. “Đẹp quá!” Tôi ngước nhìn Matthew. “ có thời gian để mua thứ này khi nào vậy?” Món quà này phải kiểu hàng mà các thợ kim hoàn trữ sẵn trong kho để dành cho các vị khách bất ngờ ghé qua. “ có nó thời gian rồi,” Matthew thú nhận. “Cha gửi chúng tới cùng bức tranh trang trí bàn thờ. băn khoăn liệu em có thích .” “Tất nhiên em thích chứ. biết mà, rồng lửa thuộc về thuật giả kim,” tôi và trao nụ hôn khác. “Hơn nữa, có người phụ nữ nào lại từ chối hơn nửa mét bạc và vàng, cùng những con rồng lửa đính kim cương kèm viên hồng ngọc to như quả trứng cơ chứ?” “Những con rồng lửa đặc biệt này là quà của đức vua khi trở lại Pháp cuối năm 1541. Vua Francis chọn hình ảnh rồng lửa giữa những ngọn lửa làm biểu tượng của mình và phương châm của ông ấy là Ta nuôi dưỡng và phá hủy.” Matthew bật cười. “Kit thích câu dí dỏm đó tới mức chắp vá thành câu của riêng ta: Điều gì nuôi dưỡng ta hủy hoại ta.” “Kit ràng là tinh bi quan rồi,” tôi , cười cùng . Tôi chọc vào con kỳ giông và nó bắt ánh sáng từ những ngọn nến. Tôi định nhưng lại thôi. “Chuyện gì vậy?” Matthew hỏi. “ từng tặng ai món quà này... trước kia chưa?” Sau đêm hôm trước, cảm giác bất an luôn làm tôi lúng túng. “Chưa,” Matthew đáp, cầm lấy tay tôi và nâng niu nó giữa hai lòng bàn tay . “Em xin lỗi. Em biết hỏi thế kỳ cục quá, đặc biệt khi Rudolf cư xử như vậy. Em chỉ muốn phải băn khoăn. Nếu tặng em bất cứ thứ gì mà từng tặng cho người tình cũ đừng ngại ra.” “ tặng em bất cứ món quà nào từng tặng cho người khác, mon coeur.” Matthew đợi tôi nhìn vào mắt . “Con rồng lửa của em nhắc nhớ tới món quà của Francis, nên cầu cha lấy nó ra từ chỗ cất giấu. mang nó lần. Kể từ đó, nó vẫn nằm trong hộp.” “Nó cũng phải món đồ mang hằng ngày,” tôi , cố gắng cười to. Nhưng cũng hiệu quả. “Em biết chuyện gì xảy ra với mình nữa.” Matthew kéo tôi xuống và trao nụ hôn. “Trái tim của thuộc về em cũng như em trao cho vậy. Đừng nghi ngờ điều đó.” “Em biết.” “Tốt. Bởi Rudolf làm mọi điều có thể để khiến chúng ta nản chí. Ta cần giữ bình tĩnh. Và sau đó chúng ta rời khỏi đất Praha chết tiệt này ngay.” *** Lời Matthew ám ảnh tôi suốt chiều hôm sau, khi cả hai tham dự hoạt động thể thao buổi chiều tại cung điện cùng đám cận thần gần gũi nhất của Rudolf. Kế hoạch ban đầu là tất cả cưỡi ngựa tới khu săn bắn của hoàng đế núi Trắng để bắn hươu, tuy nhiên bầu trời xám xịt nặng nề tới gần giữ chân chúng tôi ở lại cung điện. Giờ là tuần lễ thứ hai của tháng Tư nhưng mùa xuân đến Praha khá chậm và tuyết vẫn có thể rơi. Rudolf gọi Matthew đến bên cạnh và để tôi lại với đám phụ nữ trong cung điện. Họ thể vẻ tò mò cách lộ liễu và hoàn toàn chẳng biết làm gì với tôi. Hoàng đế cùng đám cận thận uống rượu phè phỡn. Vì cuộc rượt đuổi tốc độ cao sắp diễn ra, tôi thầm ước họ có luật lệ dành cho việc uống rượu và cưỡi ngựa. phải vì tôi lo lắng cho Matthew. Bởi thực , uống có tiết chế và cho dù con ngựa có đâm phải cái cây cũng chẳng hề hấn gì với . Hai người đàn ông tiến tới cùng cây sào dài vai – chỗ đậu cho những con chim ưng lộng lẫy dùng vào buổi săn chiều nay. Hai người đàn ông khác theo sau, mang đến duy nhất con chim, có mũ trùm đầu cùng cái mỏ cong nom cực kỳ nguy hiểm, hai chân nó có lông màu nâu, trông như ủng vậy. Và nó thực to lớn. “A!” Rudolf kêu lên, xoa hai bàn tay vào nhau với vẻ hào hứng. “Đây là chú chim ưng của ta, Augusta. Ta muốn La Diosa trông thấy nó, mặc dù thể để nàng bay ở đây được. Nàng ta có nhu cầu săn nhiều hơn khả năng Stag Moat có thể đáp ứng đấy.” Cái tên Augusta hợp với tạo vật kiêu hãnh này. Con chim ưng cao gần mét và mặc dù có mũ trùm nhưng đầu nó vẫn luôn giữ góc độ ngạo nghễ, kiêu sa. “Nó có thể cảm nhận rằng chúng ta ngắm nhìn,” tôi lẩm bẩm. Ai đó phiên dịch cho hoàng đế và ông ta mỉm cười nhìn tôi với vẻ hài lòng. “ kẻ săn hiểu kẻ săn khác. Bỏ mũ trùm ra để Augusta và La Diosa làm quen với nhau nào.” người đàn ông già nua với đôi chân vòng kiềng, thận trọng tiếp cận con chim. Ông ta kéo sợi dây da buộc chặt chiếc mũ trùm quanh đầu Augusta và nhàng kéo nó ra khỏi con chim. Những sợi lông vàng óng quanh cổ và đầu nàng tung bay trong gió làm nổi bật bề mặt mềm mượt của chúng. Augusta cảm thấy tự do và nguy hiểm ập tới cùng lúc, nàng liền sải rộng đôi cánh như thể sắp cất cánh bay hoặc cảnh cáo. Nhưng tôi phải người Augusta muốn gặp. Bằng thứ bản năng thể nhầm lẫn, nàng liền quay đầu về phía động vật ăn thịt duy nhất trong đám đông nguy hiểm hơn cả chính nó. Matthew đáp trả lại bằng ánh mắt nghiêm nghị và thoáng u buồn. Augusta kêu thét lên để xác nhận mối đồng cảm từ . “Ta mang Augusta ra để giải trí cho Herr Roydon đâu, mà để gặp La Diosa,” Rudolf gầm gừ. “Và thần lấy làm cảm kích vì giới thiệu này, thưa bệ hạ.” Tôi lên tiếng để thu hút chú ý từ vị quốc vương cáu giận này. “Nàng biết , Augusta hạ gục hai con sói rồi đấy,” miệng nhưng Rudolf vẫn nhìn Matthew chằm chằm. Những chiếc lông cài mũ của hoàng đế còn bay phấp phới hơn cả bộ lông của chú chim ưu tú. “Cả hai đều là những cuộc chiến đẫm máu.” “Nếu thần là con sói, thần chỉ nằm xuống để quý đây tiếp tục con đường của mình,” Matthew uể oải . trông hoàn toàn giống đám cận thận chiều nay nhờ bộ quần áo màu xanh lục và đen, mái tóc đen xòa khỏi chiếc mũ lưỡi trai ngông nghênh đảm bảo những yếu tố phục trang cần thiết nhưng cũng đủ để người đối diện có cơ hội trông thấy chiếc huy hiệu bạc chóp mũ – huy hiệu con rắn ngậm đuôi của gia đình de Clermont – vì sợ rằng Rudolf quên mất người ông ta đối đầu là ai. Những viên cận thần khác khúc khích cười tự mãn trước lời bình luận táo bạo của . Khi chắc chắn những tiếng cười hướng trực tiếp tới , Rudolf cũng tham gia vào. “Đó là điểm chung khác nữa giữa hai chúng ta, Herr Roydon,” ông ta , vỗ vai Matthew và ngắm nghía tôi. “Chúng ta đều sợ đàn bà mạnh mẽ.” Bầu khí căng thẳng bị phá vỡ, người nuôi chim liền chuyển Augusta tới chỗ đậu của nàng nhờ vài trợ giúp, sau đó quay sang hỏi hoàng đế về con chim ưng ông ta muốn sử dụng chiều nay để lùa bầy gà rừng hoàng gia. Rudolf năng nhặng xị về lựa chọn của mình. Hoàng đế chọn được con chim ưng phương bắc to lớn, hoàng tử nước Áo và nước Phổ đều tìm được lựa chọn riêng, tới khi chỉ còn lại con. Chú chim này bé và run lẩy bẩy trong tiết trời lạnh giá. Matthew đưa tay ra cho nó. “Nó dành cho phụ nữ,” Rudolf khịt mũi và yên vị lưng ngựa. “Ta dành nó cho La Diosa.” “Mặc dù mang cái tên đó nhưng Diana thích săn bắn đâu. sao cả. Thần để con chim cắt này bay lượn,” Matthew . luồn sợi dây buộc chân chim qua các ngón tay và xòe bàn tay ra, con chim bước cổ tay mang găng của . “Xin chào, người đẹp,” thầm trong lúc nàng chim bé điều chỉnh bàn chân để đứng vững. Cứ mỗi bước , chuông của nàng lại reo leng keng. “Tên của nó là Sárka,” người canh rừng thầm rồi mỉm cười. “ nàng cũng thông minh như người cùng tên chứ?” Matthew hỏi ông ta. “Còn hơn thế,” ông lão trả lời và cười xếch đến tận mang tai. Matthew nghiêng người về phía con chim và dùng răng cắn sợi dây buộc chiếc mũ trùm đầu nó. Miệng kề sát bên Sárka và cử chỉ vô cùng thân mật, có thể khiến người khác lầm tưởng là nụ hôn. Matthew kéo sợi dây. khi dây tuột, dễ dàng dùng tay còn lại để tháo chiếc mũ trùm và thả tấm da thuộc bịt mắt mang tính chất trang trí này vào túi áo. Sárka chớp mắt nhìn thế giới ập đến trong tầm mắt. nàng chớp thêm lần nữa và ngắm nghía tôi rồi đến người đàn ông giữ mình tay. “Em có thể chạm vào nó ?” Những lớp lông màu nâu và trắng trông hấp dẫn khó mà cưỡng lại. “ thể được. nàng đói. nghĩ nó nhận được phần chiến lợi phẩm công bằng,” Matthew . lại đượm buồn, thậm chí có vẻ bâng khuâng. Sárka phát ra chuỗi thanh trầm thấp đầy hân hoan vui sướng và vẫn nhìn Matthew chăm chú. “ nàng thích đấy.” Điều đó còn phải nghi ngờ nữa. Cả hai đều là những kẻ săn theo bản năng và cả hai đều bị giữ chân bởi gông cùm nên thể tự do theo đuổi niềm thôi thúc được theo dấu và giết chết con mồi. Chúng tôi cưỡi ngựa xuống đường mòn quanh co dẫn vào trong rãnh nước ven bờ sông từng thời được sử dụng làm hào nước bao quanh lâu đài. Dòng sông biến mất và giờ đây rãnh nước được rào chắn xung quanh để giữ thú chơi của hoàng đế khỏi xổng vào thành phố. Hươu đỏ, hoẵng và lợn lòi đực lảng vảng đầy trong khu đất. Dạo gần đây cả sư tử và nhiều loài mèo lớn khác cũng được đưa về từ bầy thú trong rạp xiếc khi Rudolf quyết định săn mồi cùng với chúng thay cho chim như thường lệ. Tôi mong chờ được chứng kiến cảnh hỗn loạn nhưng buổi săn được dàn dựng chính xác như vở ba lê vậy. Ngay khi Rudolf tung con chim ưng của mình lên trung, bầy chim nghỉ ngơi các ngọn cây nhanh chóng bay lên thành đám mây để tránh khỏi việc trở thành bữa ăn của kẻ săn mồi. Con chim ưng sà xuống thấp và luồn qua bụi cây, tiếng gió thổi rít qua những quả chuông buộc quanh chân nó. Đám gà rừng bị giật mình lao ra từ ven rặng cây, vừa bỏ chạy vừa vỗ cánh tán loạn trong trung. Con chim ưng lùa chúng, chọn lấy mục tiêu và dồn nó vào vị trí, sau đó lao nhanh tới để quật con mồi bằng mỏ và móng vuốt. Con gà gô rơi xuống từ trời, kẻ săn mồi vẫn đuổi theo ngừng mặt đất. Đám ngựa ầm ầm đuổi theo, tiếng người thét mừng chiến thắng bị át bởi tiếng sủa của bầy chó săn. Khi đám người, ngựa đuổi tới nơi chúng tôi phát con chim ưng đứng bên cạnh miếng mồi của nó, cong đôi cánh để che chắn khỏi những đối thủ trước mắt. Matthew từng làm tương tự hồi ở thư viện Bodleian và tôi cảm nhận được ánh mắt liếc nhìn mình để chắc chắn tôi vẫn ở gần. Giờ hoàng đế có chiến lợi phẩm đầu tiên, những người khác được tự do tham gia vào cuộc săn. Họ cùng nhau đuổi bắt hơn trăm con chim, đủ để cấp thức ăn cho cơ số cận thần. Suốt buổi săn chỉ có duy nhất trận cãi lộn. có gì ngạc nhiên cả, trận cãi cọ nổ ra giữa con chim ưng lông bạc cao quý của Rudolf và nàng chim cắt màu trắng nâu của Matthew. Matthew bị bỏ lại phía sau đám đàn ông. thả nàng chim của mình sau những người khác và thong thả nhận lấy các chiến lợi phẩm nó săn được. Dẫu người đàn ông nào xuống ngựa, nhưng Matthew làm vậy để dỗ dành Sárka rời khỏi con mồi của nó bằng những lời thầm và mẩu thịt rứt ra từ xác con mồi bị giết trước đó. Tuy vậy, lần đó, Sárka để mất dấu con gà mà nàng săn đuổi. Nó lảng tránh nàng và đâm thẳng vào đường bay chú chim ưng của Rudolf. Tuy nhiên Sárka chịu nhường. Mặc dù con chim ưng to lớn hơn nhưng Sárka mau lẹ hơn và thích gây hấn hơn. Để bắt kịp con gà của mình, nàng chim cắt bay vút qua sát sàn sạt đầu tôi, đến mức có thể cảm nhận được thay đổi của áp lực khí. nàng thực là bé, thậm chí hơn cả con gà rừng và hiển nhiên chú chim ưng kia so với nó vô cùng to lớn. Con gà rừng bay cao hơn nhưng thể trốn thoát được. Sárka nhanh chóng đảo chiều và cắm các móng vuốt của mình vào con mồi, trọng lượng của nàng đưa cả hai dần đáp xuống mặt đất. Con chim ưng phẫn nộ kêu thét trong nỗi thất vọng và Rudolf góp thêm tiếng la hét từ phía dưới. “Con chim của ngươi cản trở chim ưng của ta,” Rudolf hung hăng khi Matthew thúc ngựa tới thu chiến lợi phẩm của nàng chim cắt. “Bệ hạ, nàng phải con chim của thần,” Matthew lên tiếng. Sárka bắt đầu dựng lông và trải rộng cánh để trông to lớn và hăm dọa hết mức có thể, nó phát ra những tiếng rít đinh tai nhức óc khi tiến tới gần. Matthew lẩm bẩm điều gì đó nghe khá quen thuộc và trông còn hơn cả say mê, cuối cùng nàng chim cắt cũng chịu thu cánh lại. “Sárka thuộc về người. Hôm nay, nó chỉ chứng tỏ mình xứng đáng với cái tên chiến binh bô-hê-miêng vĩ đại.” Matthew nhặt nàng chim cắt và con gà gô lên, rồi đưa cả hai ra để hội đồng nhìn thấy. Sợi dây của Sárka đung đưa tự do cùng tiếng chuông vang lên leng keng trong lúc cầm nó vòng quanh. Mọi người biết phải phản ứng thế nào và tất cả cận thần chờ đợi Rudolf làm điều gì đó. Nhưng tôi xen vào. “Đó là nữ chiến binh sao, ông xã?” Matthew dừng lại và nhoẻn miệng cười. “Tại sao chứ, đúng vậy, bà xã ạ. Sárka là con vật bé và nóng tính, giống như con chim của hoàng đế, và nàng biết vũ khí lợi hại nhất của chiến binh nằm giữa hai tai.” gõ vào đầu để chắc chắn mọi người hiểu được ngụ ý đó. Rudolf chỉ hiểu được, ông ta còn tỏ ra bối rối. “Nghe khá giống các quý của Malá Strana,” tôi vô tư lự. “Và Sárka làm gì với trí thông minh của mình vậy?” Trước khi Matthew kịp trả lời, người phụ nữ trẻ xa lạ lên tiếng. “Sárka hạ gục nhóm binh lính,” ta giải thích bằng tiếng La tinh trôi chảy cùng cách nhấn mạnh trọng của tiếng Séc. người đàn ông râu trắng mà tôi nghĩ là cha của ta nhìn con với ánh mắt đồng tình, thẹn đỏ mặt. “ sao?” Tôi kêu lên thích thú. “Bằng cách nào vậy?” “Bằng cách giả bộ mình cần được giải cứu và mời mọc binh lính tới ăn mừng tự do của ta cùng với rất nhiều rượu.” phụ nữ khác có vẻ nhiều tuổi hơn, có cái mũi khoằm kém gì Augusta, khịt mũi bằng vẻ ghê tởm. “Đàn ông lúc nào cũng gục ngã trước điều đó.” Tôi phì cười, trước vẻ sửng sốt của cũng như quý bà mũi khoằm quý phái. “Thưa hoàng đế, thần sợ rằng các quý bà quý đây để nữ hùng của họ phải gánh vác lỗi lầm của kẻ khác đâu.” Matthew cho tay vào túi và lấy ra chiếc mũ trùm đầu, nhàng đặt nó lên đỉnh đầu kiêu hãnh của Sárka. cúi người để thắt chặt sợi dây bằng răng của mình. Người gác rừng nhận lấy nàng chim cắt giữa vài tiếng vỗ tay tán thưởng. Chúng tôi tạm nghỉ tại căn nhà mái trắng đỏ theo phong cách Ý tọa lạc nơi rìa khuôn viên cung điện, để uống rượu vang và dưỡng sức, mặc dù tôi thích nấn ná trong khu vườn nở rộ hoa thủy tiên và tuy-líp của hoàng đế hơn. Các thành viên khác trong hội tham gia cùng chúng tôi, bao gồm Strada cáu-kỉnh, ông Hoefnagel và thợ chế tác Erasmus Habermel, người tôi thấy biết ơn vì bộ dụng cụ. “Điều mà chúng ta cần để thoát khỏi cảnh buồn chán này là bữa tiệc mùa xuân, mùa chay sắp qua rồi,” chàng cận thần trẻ lớn tiếng . “Người nghĩ vậy sao, thưa bệ hạ?” “ vở ca kịch sao?” Rudolf nhấp ngụm rượu và nhìn tôi chằm chằm. “Nếu vậy, chủ đề là Diana và Actaeon.” “Chủ đề đó phổ biến quá rồi, thưa bệ hạ, và sặc mùi quốc,” Matthew buồn rầu lên tiếng. Còn mặt Rudolf đỏ ửng. “Thay vào đó, chúng ta có thể làm về Demeter và Persephone. Phù hợp với mùa này hơn.” “Hoặc câu chuyện về Odysseus,” Strada đề nghị và nhìn tôi bằng ánh mắt khó chịu. “Frau Roydon có thể diễn vai Circe và biến chúng ta thành bầy lợn con.” “ thú vị, Ottavio,” Rudolf kêu lên và đặt ngón trỏ tì lên môi dưới. “Ta có thể diễn vai Odysseus.” phải trong cuộc đời của ông, tôi thầm nghĩ. Cũng phải cảnh giường chiếu và cảnh Odysseus buộc Circe hứa cắt mất của quý của ông ta. “Thần có thể đưa ra kiến nghị ,” tôi hăm hở lên tiếng nhằm đẩy lùi thảm họa. “Tất nhiên, tất nhiên rồi,” Rudolf sốt sắng và cầm lấy bàn tay tôi, vỗ đầy quan tâm. “Câu chuyện mà thần tưởng tượng cần người nào đó đóng vai Zeus, vua của các vị thần,” tôi vừa nêu ý kiến với hoàng đế, vừa nhàng rút tay lại. “Ta diễn thần Zeus cách thuyết phục,” ông ta hăm hở và nụ cười bừng sáng khuôn mặt. “Và nàng diễn vai Callisto chứ?” Tất nhiên là . Tôi để Rudolf giả bộ bắt cóc và làm mình có thai đâu. “, thưa bệ hạ. Nếu người nhất quyết vậy, thần tham gia vào cuộc vui bằng việc nhận vai nữ thần mặt trăng.” Tôi bám lấy khuỷu tay Matthew. “Và để chuộc lỗi cho lời bình phẩm sớm nay, Matthew diễn vai Endymion.” “Endymion sao?” Nụ cười của Rudolf nhạt dần. “Tội nghiệp Rudolf. Ta lại thắng rồi,” Matthew lẩm bẩm chỉ để mình tôi nghe thấy. “Endymion, thưa bệ hạ,” , lần này hạ thấp giọng, “chàng trai trẻ đẹp bị đưa vào giấc ngủ bùa mê để gìn giữ bất tử của bản thân và trinh tiết của Diana.” “Ta biết các truyền thuyết, Herr Roydon!” Rudolf răn đe. “Thứ lỗi cho thần, thưa bệ hạ,” Matthew và khẽ cúi đầu duyên dáng. “Diana lộng lẫy chiếc xe ngựa và khao khát nhìn theo người đàn ông mình .” Tới lúc này, Rudolf tím tái người. Chúng tôi bị xua khỏi buổi diện kiến hoàng gia và rời cung điện, xuôi dốc về Ba Con Quạ để thực dự định đó. “ chỉ có cầu,” Matthew khi chúng tôi bước vào nhà. “ có thể là ma cà rồng, nhưng tháng Tư là tháng lạnh giá ở Praha. Với nhiệt độ này, trang phục em thiết kế cho Diana và Endymion nên có nhiều hơn hình trăng lưỡi liềm cài tóc em và cái khăn-lau-bát treo quanh hông .” “Em chỉ mới trao vai diễn cho mà đưa ra các cầu nghệ thuật rồi!” Tôi vung bàn tay lên giả bộ phẫn nộ. “Đồ diễn viên!” “Đó là điều em xứng đáng nhận được khi làm việc với người chuyên,” Matthew mỉm cười . “ biết cách bắt đầu vở nhạc kịch rồi: And lo! From opening clouds, I saw emerge The loveliest moon, that ever silver’d o’er A shell for Neptune’s goblet.” “ thể dùng thơ của Keats!” Tôi bật cười. “ ta là nhà thơ theo phong cách lãng mạn, giờ vẫn còn sớm ba trăm năm.” “She did soar. So passionately bright, my dazzled soul Commingling with her argent spheres did roll Through clear and cloudy, even when she went At last into a dark and vapoury tent,” đột ngột to và kéo tôi vào trong vòng tay. “Cháu nghĩ chú cần cháu kiếm cái lều đấy,” Gallowglass vừa , vừa ầm ầm xuống gác. “Và vài con cừu nữa. Hoặc có thể cái thước đo thiên thế nữa. Endymion có thể là chàng chăn cừu, hoặc là nhà thiên văn học,” Matthew , nhấn mạnh vào lựa chọn của mình. “Người gác rừng của Rudolf chẳng nỡ rời xa mấy con cừu lạ lùng của ông ta đâu,” Gallowglass nghiêm túc. “Matthew có thể sử dụng bộ dụng cụ của tôi.” Tôi nhìn quanh, chắc nó ở bệ lò sưởi, ngoài tầm với của Jack. “Nó biến đâu mất rồi?” “Annie và Jack khoe nó với Giẻ Lau rồi. Chúng nghĩ nó bị ếm bùa.” Tới lúc đó tôi mới để ý thấy nhiều sợi dây tơ chạy thẳng lên gác từ chỗ lò sưởi – bạc, vàng và xám. Khi cố gắng đuổi theo bọn trẻ để xem chúng làm gì với bộ dụng cụ, tôi giẫm phải đường viền chân váy. Ngay khi bắt được Annie và Jack, tôi cần thay đường viền mới kiểu vỏ sò. Hai đứa trẻ mở bộ dụng cụ màu bạc-và-đồng-thau ra như quyển sách, cả những cánh bên trong cũng vậy. Lòng khao khát của Rudolf giúp tôi có được thứ này để theo dõi chuyển động của vòm trời và Habermel thực công việc cách phi thường. Bộ đồ dùng này bao gồm chiếc đồng hồ mặt trời, chiếc la bàn và thiết bị để ước tính độ dài thời gian của từng mùa khác nhau trong năm, bàn xoay phức tạp theo chu kỳ mặt trăng, có thể chỉ ngày tháng, thời gian, biểu tượng cung hoàng đạo thời, tuần trăng và cả hải đồ rộng lớn bao gồm (theo cầu của tôi) các thành phố Roanoke, London, Lyon, Praha và Jerusalem. trong các cánh có cạnh sắc được tôi đặt vào sản phẩm công nghệ mới và hấp dẫn nhất thời: chiếc bảng xóa, nó được làm từ loại giấy đặc biệt có thể viết lên và sau đó cẩn thận xóa sạch thành trang giấy mới tinh. “Xem này, Jack, nó lại như thế rồi,” Annie và khom người bộ dụng cụ. Giẻ Lau (chẳng còn ai trong nhà gọi nó là Lobero nữa, ngoại trừ Jack) bắt đầu sủa, vẫy đuôi phấn khích khi chiếc bàn xoay bắt đầu chỉ vào phần vị trí đúng. “Em cá với chị đồng là khi cái vòng xoay này dừng lại, mặt trăng tròn treo ngoài cửa sổ,” Jack , nhổ nước bọt vào tay và giơ ra trước mặt Annie. “ cá cược,” tôi lên tiếng ngay lập tức và cúi người xuống bên cạnh Jack. “Chuyện này bắt đầu từ khi nào vậy, Jack?” Matthew và tránh né Giẻ Lau. Jack nhún vai. “Chuyện này bắt đầu từ khi Herr Habermel gửi nó đến,” Annie thú nhận. “Nó quay tròn liên tục cả ngày hay chỉ vào vài khoảng thời gian nhất định?” Tôi hỏi. “Chỉ hoặc hai lần ạ. Còn cái la bàn mới quay lần.” Annie có vẻ khốn khổ. “Cháu nên với bà. Cháu cảm nhận được đây là phép thuật.” “ sao cả.” Tôi mỉm cười với bé. “ hại gì đâu.” Liền đó, tôi đặt ngón tay lên phần trung tâm của chiếc bàn xoay và ra lệnh dừng lại. Nó ngừng quay. Ngay khi các vòng tròn dừng, các sợi bạc và vàng quanh bộ dụng cụ chầm chậm tan rã để lại đằng sau sợi tơ màu xám. Những sợi dây đầy màu sắc chăng đầy trong nhà chúng tôi nhanh chóng mất . “Điều đó có ý nghĩa gì?” Matthew hỏi sau khi cả căn nhà yên lặng và tôi có cơ hội đầu tiên đặt bộ dụng cụ nằm ngoài tầm với của lũ trẻ. Tôi quyết định để nó lên phía lớp màn trướng giường của chúng tôi. “Nhân tiện, mọi người đều giấu đồ vật phía đầu những kẻ kiểm tra. Đây là nơi đầu tiên Jack tìm kiếm.” “Có ai đó tìm kiếm chúng ta.” Tôi lôi bộ dụng cụ xuống và cố tìm kiếm chỗ mới để giấu nó. “Tại Praha này ư?” Matthew giơ tay ra hiệu và tôi đưa cái dụng cụ cho nhét vào trong chiếc áo chẽn. “. Trong luồng thời gian cơ.” Matthew ngồi phịch xuống giường và chửi thề. “Đây là lỗi của em.” Tôi nhìn bẽn lẽn. “Em cố gắng thêu dệt câu thần chú để bộ dụng cụ cảnh báo em khi ai đó định lấy cắp nó. Câu thần chú giữ Jack tránh khỏi rắc rối. Em nghĩ cần phải quay trở lại với cái bảng vẽ.” “Điều gì khiến em tin đó là người trong thời gian khác?” Matthew hỏi. “Bởi vì bàn xoay mặt trăng là dạng lịch ngừng nghỉ. Các bánh răng xoay tròn khi nó cố gắng đưa ra thông tin bên ngoài các thông số kỹ thuật. Việc này làm em nhớ tới những lời đồn đại quanh Ashmole 782.” “Có thể tiếng kêu vo vo của chiếc la bàn biểu thị những kẻ tìm kiếm chúng ta tại địa điểm khác. Giống như bàn xoay mặt trăng, cái la bàn thể tìm ra hướng bắc đúng bởi vì nó phải tính toán hai hướng: là chúng ta tại Praha và kẻ nào đó ở nơi khác.” “ có nghĩ đó là Ysabeau hay Sarah và họ cần chúng ta giúp đỡ?” Ysabeau là người gửi cho Matthew bản sao của cuốn Doctor Faustus để giúp chúng tôi tới năm 1590. Bà ấy biết chúng tôi ở đâu. “,” Matthew , giọng chắc chắn. “Họ để lộ chúng ta. Phải là người khác.” Đôi mắt xanh xám của nhìn cố định vào tôi. Ánh mắt hối tiếc da diết quay trở lại. “ nhìn em như thể em phản bội vậy.” Tôi ngồi xuống bên cạnh . “Nếu muốn em diễn vở ca kịch, em làm.” “ phải chuyện đó.” Matthew đứng dậy và bước ra xa. “Em giữ bí mật với .” “Chúng ta luôn giữ đôi điều cho bản thân, Matthew,” tôi . “Những điều nhặt vấn đề gì. Đôi khi cả những điều quan trọng, giống như, thành viên Đại Hội Đồng.” Lời buộc tội của khiến tôi cảm thấy day dứt cho tất cả những điều tôi chưa biết về . Matthew bất ngờ đặt hai tay lên vai tôi và kéo tôi dậy. “Em bao giờ tha thứ cho vì điều đó.” Ánh mắt trở nên buồn rầu và các ngón tay ấn sâu vào cánh tay tôi. “ hứa với em rằng khoan dung cho các bí mật của em,” tôi . “Giáo sĩ Loew đúng. Chỉ lòng khoan dung đủ.” Matthew thả tôi ra kèm theo lời nguyền rủa. Tôi nghe thấy tiếng Gallowglass bậc thang và tiếng ngái ngủ xì xầm của Jack bên dưới sảnh. “Cháu đưa Jack và Annie tới nhà Baldwin,” Gallowglass từ phía cửa. “Tereza và Karolína rồi. Pierre tới cùng cháu, cả con chó nữa.” Giọng chàng hạ thấp. “Hai người làm thằng bé sợ hãi khi tranh cãi đấy, còn thằng bé có đủ nỗi sợ hãi trong cuộc đời ngắn ngủi của nó rồi. Hãy tự điều chỉnh bản thân hoặc cháu đưa chúng trở lại London và để hai người tự mình xoay sở.” Đôi mắt của Gallowglass dữ tợn. Matthew im lặng ngồi xuống bên lò sưởi, cầm ly rượu trong tay và gương mặt u ám nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Ngay khi cả nhóm rời , đứng dậy và hướng tới phía cửa. Chẳng kịp suy nghĩ hay lên kế hoạch, tôi thả con rồng lửa của mình. Ngăn ấy lại, tôi ra lệnh. nàng lao qua, bao bọc trong làn khói xám và chặn đứng trước cửa, cắm các cạnh nhọn của đôi cánh vào sâu trong khung cửa. Khi Matthew tới quá gần, nó liền phóng lưỡi lửa ra đe dọa. “ đâu hết,” tôi . Tôi phải nỗ lực rất nhiều để giữ cho giọng của mình dâng cao. Matthew có thể chế ngự tôi, nhưng khả năng chiến thắng linh vật này hề chắc chắn. “Rồng lửa của em cũng gần giống Sárka: nhưng hiếu chiến. Em để nó rời khỏi cửa đâu.” Matthew quay người lại, ánh mắt lạnh băng. “Nếu tức giận em hãy ra. Nếu em làm điều gì thích hãy với em. Nếu muốn kết thúc cuộc hôn nhân này hãy dũng cảm kết thúc cách êm xuôi để em có thể… có thể… hồi phục sau đó. Bởi nếu vẫn nhìn em như thể ước rằng chúng ta chưa từng kết hôn phá hủy em đó.” “ hề có mong muốn kết thúc cuộc hôn nhân này,” chắc chắn. “Vậy hãy làm chồng em.” Tôi tiến tới gần . “ có biết em nghĩ gì khi quan sát những con chim xinh đẹp đó bay lượn ngày hôm nay ? Rằng ‘Matthew cũng đẹp tuyệt như vậy nếu ấy được tự do là chính mình.’ Và lúc em quan sát chùm chiếc mũ bịt mắt Sárka để nàng thể săn bắt theo bản năng mách bảo nữa, em trông thấy nỗi tiếc hận trong mắt nó, cũng như trông thấy trong mắt mỗi ngày, từ khi em đánh mất con.” “Đây phải chuyện về đứa bé.” Đôi mắt tỏ vẻ cảnh cáo. “, là về em. Và . Cả những chuyện vô cùng tồi tệ mà thể chấp nhận được: cho dù những thứ được-gọi-là-quyền-năng của vượt lên sống và cái chết vẫn thể điều khiển mọi chuyện và bảo vệ em hay bất cứ người nào quý khỏi bị tổn hại.” “Và em nghĩ rằng việc đánh mất con khiến gia đình trở nên như vậy sao?” “Còn chuyện gì khác nữa? Mặc cảm tội lỗi trước cái chết của Blanca và Lucas gần như hủy hoại .” “Em nhầm rồi.” Matthew luồn tay vào tóc tôi, kéo cái nút thắt bím ra, giải phóng mùi hương hoa cúc hòa cùng mùi bạc hà từ loại xà phòng tôi thường dùng. Đồng tử của mở lớn và đen thẫm như mực. tận hưởng làn hương tỏa ra từ tôi và màu xanh lá dần trở lại trong đôi mắt. “Vậy hãy cho em biết chuyện gì.” “Chuyện này.” với lấy mép vạt áo của tôi và xé nó làm hai. Sau đó, nới lỏng sợi dây giữ chiếc cổ áo lót rộng trượt khỏi vai tôi, để phơi trần hai đầu ngực. Những ngón tay của lần theo tĩnh mạch máu xanh nổi lên ở cổ và tiếp tục bên dưới lớp vải lanh. “Mỗi ngày trong cuộc đời của là trận chiến kiểm soát bản thân. chiến đấu với cơn giận dữ cùng cảm giác buồn nôn theo sau nó. đấu tranh với đói và khát, bởi vì tin việc mình đoạt lấy dòng máu từ các tạo vật khác là điều đúng đắn – cho dù là động vật, dẫu có thể chịu đựng điều đó tốt hơn là lấy máu từ ai đó có thể gặp lại đường.” Đôi mắt của nhìn sâu vào mắt tôi. “Và phải trải qua cuộc chiến đấu với chính bản thân mình để vượt qua niềm thôi thúc thể thành lời, mong muốn chiếm hữu lấy cơ thể cũng như linh hồn của em theo cái cách mà sinh vật máu nóng nào hiểu được.” “ muốn máu của em,” tôi thầm khi bất ngờ hiểu ra mọi chuyện. “ dối em.” “ lừa dối chính bản thân mình.” “Em với – rất nhiều lần – rằng có thể lấy nó,” tôi và chộp lấy mảnh áo để xé nó rộng hơn, nghiêng đầu sang bên và để lộ ra tĩnh mạch ở cổ. “Hãy nhận lấy. Em quan tâm. Em chỉ muốn quay lại là mình.” Tôi kiềm lại tiếng nức nở. “Em là người kết đôi của . bao giờ tự ý lấy máu từ cổ em.” Những ngón tay mát lạnh của Matthew nhàng lướt da thịt tôi khi kéo chiếc áo về chỗ cũ. “Khi làm điều đó tại Madison, chỉ bởi vì quá yếu ớt kiềm chế được bản thân.” “Có vấn đề gì với cổ em sao?” Tôi bối rối hỏi. “Ma cà rồng chỉ cắn người lạ và sinh vật cấp thấp hơn tại cổ. phải người tình. Và càng phải người kết đôi.” “Vị thế thống trị,” tôi và nghĩ về những cuộc trao đổi trước kia về ma cà rồng, máu và tình dục, “và việc tiếp nhận thức ăn. Vậy chủ yếu con người bị cắn ở đó. Đúng là có phần nào thực trong những truyền thuyết về ma cà rồng.” “Ma cà rồng cắn người kết đôi của mình ở đây,” Matthew , “gần trái tim.” Đôi môi của ấn lên làn da trần của tôi nơi viền áo khoác. Đó là nơi hôn tôi trong đêm tân hôn khi cảm xúc lấn át hoàn toàn. “Em nghĩ muốn hôn em ở đó chỉ vì lòng thèm khát thông thường,” tôi . “Chẳng có gì là thông thường đối với niềm thôi thúc của ma cà rồng muốn lấy máu từ tĩnh mạch này.” di chuyển miệng xuống thấp hơn dòng chảy tĩnh mạch phân và ấn đôi môi thêm lần nữa. “Nhưng nếu phải việc tiếp nhận thức ăn và vị thế thống trị là điều gì?” “ chân .” Lúc tôi bắt gặp đôi mắt , nó vẫn mang màu đen nhiều hơn màu xanh lục. “Ma cà rồng giữ trong mình quá nhiều bí mật để có thể hoàn toàn thành thực. Bọn có thể bao giờ ra thành lời được và phần lớn đều quá phức tạp để hiểu thấu, cho dù em có cố gắng thử. Và còn những ngăn cấm chia sẻ bí mật trong thế giới của nữa.” “Đó phải chuyện của nên thể kể,” tôi lên tiếng. “Em nghe mấy lần rồi.” “Việc uống máu từ người mình để chứng minh rằng còn điều gì phải che giấu.” Matthew nhìn chăm chú xuống bầu ngực của tôi và chạm lên sợi tĩnh mạch lần nữa. “Bọn gọi nó là tĩnh mạch tim. Dòng máu có hương vị ngọt ngào nhất ở đây, đem đến cảm giác chiếm hữu và lệ thuộc hoàn toàn – tuy nhiên việc này cầu phải điều khiển được toàn bộ bản thân để bị cuốn trôi theo những cảm xúc mãnh liệt.” Giọng thoáng buồn. “Và tin tưởng vào khả năng điều khiển bản thân trước cơn cuồng máu.” “Em trông thấy bị kìm chặt trong cơn thịnh nộ. Nó khởi nguồn từ tính bảo vệ. Và ai có thể đặt em vào nguy hiểm nhiều hơn chính chứ?” Tôi nhún vai để chiếc áo khoác trượt xuống, rồi rút cánh tay ra khỏi hai ống tay áo cho tới khi nửa cơ thể tôi hoàn toàn lộ ra trần trụi. Tôi lần tìm những nút buộc chân váy và giật chúng tung ra. “Đừng.” Đôi mắt của Matthew trở nên đen hơn. “Chẳng có ai ở đây để phòng trường hợp…” “ vắt kiệt em?” Tôi bước ra khỏi ống chân váy. “Nếu thể tin tưởng bản thân có thể làm được điều này khi Philippe còn ở ngay bên cạnh, cũng chẳng thể làm được cho dù Gallowglass và Pierre đứng ở đây giúp đỡ.” “Chuyện này đùa được đâu.” “.” Tôi cầm lấy hai bàn tay của . “Đây là chuyện giữa các cặp vợ chồng. Nó là vấn đề giữa chân và niềm tin. Em chẳng có gì để che giấu cả. Nếu việc lấy máu từ tĩnh mạch này đặt dấu chấm hết cho nhu cầu liên tục săn tìm các bí mật của em trong phải làm thôi.” “Đây phải việc ma cà rồng chỉ làm lần,” Matthew đe dọa và cố gắng kéo người ra xa. “Em cũng nghĩ vậy.” Tôi luồn tay vào phần tóc phía sau gáy của . “Hãy nhận lấy máu của em. Nhận lấy bí mật của em. Làm điều mà bản năng bắt làm. Chẳng có mũ trùm hay dây buộc ở đây. Trong vòng tay em, được tự do hơn bất kỳ nơi nào khác.” Tôi kéo miệng lại gần mình. Đầu tiên, ngập ngừng phản ứng lại, các ngón tay quấn lấy hai cổ tay tôi như thể muốn phá bỏ cám dỗ này ngay khi có thể. Nhưng bản năng còn mạnh mẽ hơn và niềm khao khát nơi có thể cảm nhận ràng. Những sợi dây trói buộc thế giới dần thay đổi và điều chỉnh xung quanh tôi như để nhường chỗ cho những cảm xúc mạnh mẽ như vậy. Tôi nhàng kéo người lại, hai bầu ngực phập phồng theo từng hơi thở. vô cùng sợ hãi, sợ rằng làm tổn thương trái tim tôi tuy nhiên cũng đầy khát khao. Sợ hãi và khát khao. Chẳng có gì ngạc nhiên khi đưa nó vào bài tiểu luận tại All Souls và giành được học bổng. Còn ai có thể hiểu được cuộc chiến giữa chúng hơn ma cà rồng? “Em ,” tôi thầm và buông thõng hai tay. phải tự mình làm việc này. Tôi thể diễn vai trò nào khác để đưa miệng đến tĩnh mạch của mình. chờ đợi vô cùng đau đớn, tuy nhiên ít nhất hạ thấp đầu. Trái tim tôi đập nhanh hơn và tôi nghe thấy tiến tới, lấy hơi sâu và dài. “Em . Lúc nào, em cũng tỏa mùi mật ong ngọt ngào,” thầm kinh ngạc ngay trước khi cắm hàm răng sắc nhọn vào da thịt. Lần lấy máu trước đây, Matthew cẩn thận gây tê vùng đó bằng giọt máu của nên tôi cảm thấy đau đớn chút nào. Nhưng lần này , tuy vậy, làn da nhanh chóng trở nên tê dại sau khi ấn miệng vào da thịt tôi. Hai bàn tay của nâng đỡ cơ thể, trong khi dần ngả người tôi lên giường. Tôi treo người giữa trung trong lúc chờ đợi thỏa mãn rằng chẳng còn bí mật nào giữa cả hai ngoại trừ tình . Khoảng ba mươi giây sau khi bắt đầu, Matthew dừng lại. ngước nhìn tôi đầy ngạc nhiên như thể khám phá ra điều gì đó ngờ tới. Đôi mắt lại chuyển đen và trong thoáng tôi nhận ra cơn khát máu dâng trào. “Em vẫn ổn, ,” tôi thầm. Matthew cúi thấp đầu và uống nhiều hơn cho tới lúc khám phá ra điều mình cần. phút trôi qua. hôn lên vị trí trái tim của tôi cùng biểu cảm tôn kính dịu dàng mà khoác lên người trong đêm tân hôn tại Sept-Tours và nhìn tôi bẽn lẽn. “Vậy tìm thấy điều gì?” Tôi hỏi. “Em. Chỉ em thôi,” Matthew thầm. Vẻ ngượng ngùng nhanh chóng chuyển thành thèm khát và hôn tôi lâu trước khi cả hai lại lồng xoắn vào nhau. Ngoại trừ cuộc chạm trán ngắn ngủi dựa tường lần trước, nhiều tuần qua chúng tôi làm tình, ban đầu nhịp điệu của cả hai vẫn còn vụng về trong khi hồi tưởng lại cách di chuyển cùng nhau. Cơ thể tôi cuộn chặt hơn và chặt hơn nữa. chuyển động lướt nhanh, nụ hôn sâu là đủ để khiến tôi thăng hoa. Nhưng Matthew chậm hơn. Tôi bắt gặp ánh mắt và bị khóa chặt vào nó. Tôi chưa từng trông thấy Matthew giống như khoảnh khắc này – mỏng manh, hy vọng, tuyệt đẹp và tự do. Chẳng còn bí mật nào giữa chúng tôi, cũng còn những cảm xúc phòng bị trước các tai họa xấu xa có thể ập đến, giờ đây cả hai đều bị cuốn phăng tới những vùng đen tối tới mức hy vọng cũng thể tồn tại được. “Em có thể cảm thấy ?” Matthew giờ thúc tới điểm sâu kín nhất trong tôi. Tôi gật đầu lần nữa. Và mỉm cười rồi bắt đầu di chuyển cách thận trọng. “ ở bên trong em, Diana, trao em sống.” Tôi những lời đó khi để uống máu mình và kéo từ ranh giới cái chết trở về thế giới này. Tôi nghĩ lúc đó còn nhận thức được. chuyển động bên trong tôi lần nữa, lặp lặp lại những lời này như câu thần chú. Đây là hình dạng đơn giản nhất và nguyên sơ nhất của phép thuật thế giới. Matthew được đan kết vào linh hồn tôi, được thêu dệt vào trong cơ thể tôi như tôi len lỏi vào bên trong . Trái tim này từng tan vỡ và lại vỡ nát lần nữa trong mấy tháng qua bởi mỗi đụng chạm đau buồn và ánh mắt hối tiếc, giờ bắt đầu gắn chặt lại với nhau từng chút . Khi mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời, tôi với tay chạm vào giữa hai mắt . “Em tự hỏi nếu mình cũng có thể đọc được suy nghĩ của sao.” “Em làm vậy rồi,” Matthew đáp, cầm lấy bàn tay tôi và hôn lên các đầu ngón tay. “Hồi ở Oxford, lúc em nhận được bức ảnh chụp cha mẹ em. Em ý thức được mình làm gì. Nhưng thực tế là em liên tục trả lời những câu hỏi thể ra thành lời.” “Em có thể thử làm lần nữa chứ?” Tôi hỏi và phần nào mong chờ . “Tất nhiên. Nếu em là ma cà rồng em có thể cầu máu của .” đặt lưng xuống gối. Tôi ngập ngừng giây lát, giữ nguyên những suy nghĩ trong đầu và tập trung vào câu hỏi đơn giản. Làm thế nào để tôi hiểu được trái tim của Matthew? sợi dây bạc lấp lánh nối giữa trái tim tôi với điểm trán , nơi con mắt thứ ba xuất nếu là phù thủy. Sợi dây ngày càng thu ngắn kéo tôi lại gần tới khi tôi đặt môi lên làn da . Những hình ảnh và thanh bùng nổ trong đầu tôi tựa như pháo hoa. Tôi thấy Jack và Annie, Philippe và Ysabeau. Tôi thấy Gallowglass và người đàn ông thể nhận ra luôn diện tại những nơi quan trọng trong ký ức của Matthew. Tôi thấy Eleanor và Lucas. Cảm giác chiến thắng khi chinh phục được bí khoa học, tiếng hét đầy thích thú khi cưỡi ngựa vào rừng săn bắt và giết chóc bởi được tạo ra để làm vậy. Tôi thấy chính mình, mỉm cười với . Sau đó, tôi trông thấy gương mặt của Herr Fuchs, gã ma cà rồng chạm trán tại thị trấn Jewish và lắng nghe những từ ngữ khá ràng Con trai ta, Benjamin. Tôi ngồi bật dậy và đưa tay lên chạm vào đôi môi run rẩy. “Chuyện gì vậy?” Matthew rồi ngồi dậy, cau mày lo lắng. “Herr Fuchs!” Tôi nhìn kinh hoàng, sợ rằng nghĩ đến điều tồi tệ nhất. “Em nhận ra đó là con trai và cậu ta chính là Benjamin.” Đến giờ, chưa có dấu vết nào về cơn khát máu của kẻ này. “Đó phải lỗi của em. Em phải ma cà rồng và Benjamin chỉ thể chọn lựa của nó.” Matthew dịp dàng. “Lẽ ra phải cảm nhận được diện của nó quanh em – dấu mùi, vài ý niệm mơ hồ rằng nó ở gần. Chính điều này khiến nghĩ rằng em giữ bí mật với . sai. xin lỗi vì hoài nghi em, mon coeur.” “Nhưng Benjamin hẳn phải biết em là ai. Mùi của vẫn phảng phất quanh em mà.” “Tất nhiên, nó biết,” Matthew thất vọng đáp. “ tìm kiếm thằng nhóc vào ngày mai, nhưng nếu Benjamin muốn bị phát ta chẳng thể làm gì khác ngoài cảnh báo Galloglass và Philippe. Họ thông báo cho những người khác trong gia đình biết Benjamin xuất trở lại.” “Cảnh báo họ sao?” Tôi sởn da gà trước cái gật đầu của . “Điều duy nhất khủng khiếp hơn Benjamin trong tình trạng khát máu là Benjamin tỉnh táo như lúc nó xuất khi em ở bên Rabbi Loew. Giống như Jack ,” Matthew đáp lại. “Những con quái vật đáng sợ nhất luôn tỏ ra giống người bình thường.”
31. Dêm đó, cuộc hôn nhân của chúng tôi thực bắt đầu. Dáng vẻ Matthew tự tin hơn tôi thường thấy. Những lời đối đáp sắc sảo, những hướng thay đổi bất ngờ hay các quyết định bốc đồng vẫn xuất trong suốt khoảng thời gian chúng tôi bên nhau tới giờ đều qua. Thay vào đó, Matthew hành xử thận trọng, có chừng mực mà vẫn nguy hiểm. ăn thường xuyên hơn bằng việc săn trong thành phố và các làng lân cận. Khi cơ bắp của trở nên rắn chắc và mạnh mẽ tôi hiểu được điều Philippe nhận xét: cần biết cơ bắp to lớn nhưng ràng con trai của ông gạt bỏ những nhu cầu dinh dưỡng cần thiết. mặt trăng bạc lấp lánh còn lưu lại ngực tôi nơi uống máu. Nó giống như bất kỳ vết sẹo khác cơ thể của tôi, nó thiếu lớp mô bảo vệ được tích tụ chắc chắn, định hình phần lớn vết thương. Matthew với tôi rằng tượng này do đặc tính trong nước bọt của có thể bọc kín vết cắn mà để chúng lành hoàn toàn. Bằng nghi thức hút máu bạn tình tại tĩnh mạch tim của Matthew và nghi thức mới của tôi là nụ hôn phù thủy cho phép vào trong suy nghĩ của mà giờ đây cả hai âu yếm nhau sâu nặng hơn. Chúng tôi làm tình thường xuyên mỗi lần vào ngủ cùng, nhưng khi chuyện đó diễn ra theo sau luôn là hai khoảnh khắc thiêu đốt của chân tuyệt đối chỉ loại bỏ các lo lắng lớn nhất của Matthew về tôi: rằng các bí mật bằng cách nào đó có thể hủy hoại cả hai. Và thậm chí khi làm tình, tôi chuyện cùng Matthew cách cởi mở, thoải mái như các đôi tình nhân thường mơ ước. Sáng hôm sau, Matthew kể với Galloglass và Pierre về Benjamin. Cơn giận dữ của Gallowglass trôi qua còn nhanh hơn nỗi sợ hãi của Pierre ngày càng gia tăng mỗi khi có ai đó gõ cửa hoặc tới gần tôi trong chợ. Các ma cà rồng tìm ngày tìm đêm trong khi Matthew lập kế hoạch cho những chuyến . Tuy nhiên Benjamin để bị tìm ra. ta biến mất cách dễ dàng. Lễ Phục sinh đến rồi và những kế hoạch của chúng tôi dành cho lễ hội mùa xuân của Rudolf vào thứ bảy tiếp theo tới buổi tổng duyệt. Ông Hoefnagel và tôi biến sảnh lớn của cung điện thành khu vườn ngập tràn hoa tuy-líp nở rộ. Tôi cảm thấy sợ cung điện này với những vòm cong duyên dáng hỗ trợ cho phần mái vòng cung như những nhánh liễu. “Chúng ta nên chuyển mấy cây cam của hoàng đế vào đây tốt hơn,” Hoefnagel , ánh mắt sáng rỡ với các khả năng có thể thực . “Cả mấy con công trống nữa.” Vào ngày trình diễn, người hầu mang tới tất cả đèn nến dự phòng trong cung điện và thắp sáng chúng bên trong các bức tường đá dài rộng phản quang nhằm tạo cảm giác bầu trời đầy sao và khiến sàn nhà trải rộng ra mênh mông. Chúng tôi cũng sử dụng phần cầu thang dẫn lên nhà nguyện hoàng gia cho vở diễn. Đó là ý tưởng của Hoefnagel để tôi có thể xuất đầu cầu thang giống như mặt trăng, trong khi Matthew vẽ lại thay đổi đường của tôi bằng chiếc thiên thể kế của Habermel. “Ngài có nghĩ chúng ta quá triết học ?” Câu hỏi vang vọng khắp căn phòng và tôi lo lắng đưa tay che miệng. “Đây là cung điện của Rudolf II,” Hoefnagel lạnh lùng đáp. “Việc như thế này chẳng có gì là quá triết học cả.” Khi các quần thần tới dự yến tiệc, họ đều há hốc mồm ngạc nhiên trước khung cảnh mà chúng tôi sắp đặt. “Họ thích đấy,” tôi thầm với Matthew từ phía sau cánh gà ngăn chúng tôi với đám đông. Lối vào lớn được lên lịch phục vụ món tráng miệng, còn hai chúng tôi trốn trong lồng cầu thang Hiệp sĩ đợi phần sau. Matthew tiếp tục khiến tôi chú tâm vào những câu chuyện ngày xưa, khi còn cưỡi ngựa lên các bậc thang đá rộng để đấu thương. Lúc tôi hỏi căn phòng này có thích hợp cho mục đích ấy , nhướn bên lông mày nhìn tôi. “Tại sao em nghĩ rằng chúng ta khiến căn phòng quá rộng và trần nhà quá cao? Mùa đông ở Praha lâu khủng khiếp và khiến những chàng trai kia buồn chán với vũ khí hiểm nguy. Để họ chạy nhanh còn tốt hơn là bắt đầu chiến tranh với các vương quốc láng giềng.” huyên náo trong căn phòng nhanh chóng trở nên inh tai, nhức óc nhờ rượu tràn trề và thức ăn thừa thãi. Khi món tráng miệng được dọn , Matthew và tôi di chuyển về vị trí của mình. Ông Hoefnagel tô vẽ vài cảnh đồng quê đáng cho Matthew và miễn cưỡng cắt cử ngồi phía dưới cây cam, bên cái ghế đẩu được bọc-vải-dạ với ngụ ý là hòn đá. Tôi phải đợi đến lời ám hiệu tiến ra khỏi cánh gà và đứng sau cánh cửa gỗ được mở rộng hai bên, cũng được tô điểm giống chiếc xe ngựa. “ dám làm em cười đâu,” tôi đe dọa Matthew khi hôn lên má tôi lấy may. “Em đánh cược ,” thầm đáp lời. Khi các giai điệu vang lên lấp đầy căn phòng, đám quần thần dần dần im lặng. Tới lúc cả căn phòng hoàn toàn yên tĩnh, Matthew giơ cao chiếc thiên thể kế lên vòm trời và vở nhạc kịch bắt đầu. Tôi quyết định cách tiếp cận tuyệt vời nhất tới tác phẩm đòi hỏi giảm tối thiểu hội thoại và tăng tối đa khiêu vũ. Về điều này chẳng ai muốn ngồi yên sau bữa tối linh đình và lắng nghe những bài diễn văn dài dòng cả, phải ? Tôi dự nhiều kiện hàn lâm đủ để biết chuyện đó chẳng hay ho chút nào. Signor Pasetti rất vui mừng được dạy các quý bà “điệu nhảy của các ngôi sao lang thang,” và Matthew có thứ để quan sát trong lúc chờ đợi vầng trăng quý của xuất . Những người đẹp nổi tiếng với quần áo lộng lẫy dát vàng dát bạc cùng các món trang sức tham gia vào buổi giải trí khiến vở nhạc kịch nhanh chóng chuyển thành giai điệu vở diễn tại trường học và kết thúc trước vẻ mặt hài lòng của các ông bố bà mẹ. Matthew nhăn nhó như thể thể chịu đựng quang cảnh trước mặt thêm khắc nào nữa. Khi điệu nhảy kết thúc, các nhạc công mở đường cho tôi bằng vài nhịp trống ầm ĩ và tiếng kèn trum-pét om sòm. Ông Hoefnagel dựng tấm rèm trước cửa vào nhà nguyện, tôi chỉ cần xuyên qua nó cùng vẻ rực rỡ sáng chói như nữ thần (mà có hình trăng lưỡi liềm bằng vải đầu như trong buổi tập) và nhìn xuống Matthew đầy khao khát. , con người mà nữ thần ao ước, quan sát tôi chăm chú đầy say mê mà hề chớp mắt hay nhìn ngó vào bộ ngực khêu gợi của tôi. Tôi dành lúc để nhập vai, hít thở sâu rồi tự tin bước qua tấm rèm, cố gắng lướt bồng bềnh như mặt trăng. Tất cả triều thần há hốc mồm ngạc nhiên. Tôi cảm thấy hài lòng vì mình xuất cách thuyết phục nên nhìn xuống Matthew. Đôi mắt mở tròn xoe. Ôi, . Tôi có cảm giác các ngón chân chạm mặt sàn nhưng khá chắc chắn rằng người tôi lơ lửng bên đó vài phân và ngày càng cao hơn. Tôi vươn tay để neo giữ bản thân bên rìa xe kéo và phát quầng sáng màu ngọc trai có thể thấy phát ra từ làn da của tôi. Matthew đột ngột ngẩng đầu nhìn về hướng vương miện của tôi cùng hình trăng lưỡi liềm màu bạc. Nếu có gương tôi chẳng biết chuyện gì diễn ra nhưng tôi sợ đó là điều tệ nhất. “La Diosa!” Rudolf kêu lên và đứng bật dậy vỗ tay tán dương. “Tuyệt vời! Ấn tượng tuyệt vời!” Triều thần ngập ngừng vỗ tay tham gia. vài người trong số họ trở nên nhiệt liệt. Cả căn phòng tập trung chú ý tới mình nên tôi cũng khẽ vỗ tay trước ngực và liếc xuống Matthew, đáp trả bằng ánh mắt ngưỡng mộ cùng nụ cười ý. Tôi tập trung bản thân hạ thấp người xuống sàn để tiến tới ngai vàng của Rudolf. Ông ta đóng vai Zeus và sử dụng những mảnh nội thất được chạm khắc lộng lẫy mà chúng tôi tìm thấy gác mái của cung điện. Nó xấu xí thể tưởng tượng nổi nhưng lại rất hợp với kiện này. Sung sướng thay, người tôi còn phát sáng khi tiến tới bên hoàng đế và các khán giả dừng nhìn lên đầu tôi như thể nó là cây nến thời La Mã. Tôi nhún người cúi chào. “Chào mừng La Diose,” Rudolf bằng giọng trầm vang với ngụ ý giống vị thần, nhưng lại chỉ trở thành ví dụ điển hình cho việc cường điệu hóa vai diễn. “Tôi chàng Endymion tốt bụng,” tôi rồi đứng thẳng người, ra hiệu về phía cầu thang, nơi Matthew chìm trong chiếc giường bằng lông tơ êm ái và giả bộ ngủ. Tôi tự viết những dòng thoại này. (Matthew từng đề nghị tôi , “Nếu ngài đồng ý để tôi yên Endymion xé xác ngài ra.” Nhưng tôi phản bác rằng câu này chỉ thuộc về Keats.) “Chàng an lành trong giấc ngủ. Cho dù tôi là nữ thần bất tử Endymion sớm già nua và chết . Tôi van xin ngài hãy khiến chàng trở thành bất tử để chàng có thể ở bên tôi mãi mãi.” “Với điều kiện!” Rudolf hét to, hủy bỏ hình tượng vị thần và oang oang bằng điệu bình thường. “ ta phải ngủ suốt quãng thời gian còn lại và chẳng bao giờ được tỉnh giấc. Có như vậy mới trẻ mãi.” “Cảm tạ ngài, thần Zeus vĩ đại,” tôi cố gắng trả lời để giống hài kịch kiểu . “Giờ tôi có thể ngắm nhìn người mình mãi mãi.” Rudolf cau mày. tốt vì ông ta được biên tập kịch bản. Tôi rút về phía chiếc xe và chầm chậm lui ra sau cánh gà khi các quý biểu diễn điệu nhảy cuối của họ. Sau khi điệu nhảy kết thúc, Rudolf dẫn theo đoàn triều thần nhảy thành vòng tròn, giậm chân mạnh và vỗ tay giòn vang, tưởng chừng có thể khiến mái vòm sập xuống. Nhưng điều đó cũng chẳng thể đánh thức Endymion. “Dậy thôi!” Tôi hét lên khi ngang qua để tới lời cảm ơn hoàng đế vì cho chúng tôi cơ hội tiếp đãi dòng dõi hoàng gia của ông. Và đáp trả tôi bằng tiếng ngáy diễn kịch. Nên mình tôi tới nhún gối chào trước mặt Rudolf và phát biểu bài diễn văn tán dương cái thiên thể kế của ông Habermel, sắp đặt của ông Hoefnagel và đặc biệt ca ngợi những hiệu ứng và chất lượng tuyệt vời của nhạc. “Ta được đón tiếp cách tuyệt vời, La Diosa – nhiều hơn những gì ta mong đợi. Nàng có thể hỏi xin thần Zeus phần thưởng,” Rudolf , đôi mắt ông ta lướt từ vai tới bộ ngực nhô cao của tôi. “Bất cứ điều gì nàng mong muốn. Hãy ra và nó là của nàng.” Những kẻ tán gẫu trong căn phòng bỗng im bặt. Giữa thanh yên tĩnh đó, tôi nghe thấy những lời của Abraham: Cuốn sách đến với bà chỉ khi bà cầu nó. Mọi chuyện có thể đơn giản vậy sao? Endymion rời khỏi chiếc giường êm ái. Tôi muốn cản trở mình nên đưa tay ra sau lưng và vỗ để nhắc quay lại với những giấc mộng của bản thân. Triều thần cùng nín thở, chờ đợi tôi nêu tên tước vị có thanh thế, mảnh đất hay tài sản bằng vàng. “Thần muốn xem cuốn sách giả kim thuật của Roger Bacon, thưa bệ hạ.” *** “ quả là có những viên bi bằng sắt đấy,” Galloglass bằng giọng điệu khâm phục đầy ý khi họ đường về nhà. “Đừng để ý cách nhé.” “Tại sao chứ, cảm ơn,” tôi hài lòng đáp. “Mà nhận tiện, có điều gì xảy ra đầu tôi trong buổi ca kịch vậy? Mọi người cứ nhìn nó chằm chằm.” “Những ngôi sao li ti bay lên khỏi hình mặt trăng và dần biến mất. Cháu chẳng lo lắng đâu. Hình ảnh đó quá nên mọi người nghĩ chỉ là ảo ảnh. Gần như tất cả thành viên hoàng gia của Rudolf là con người mà.” Câu trả lời của Matthew thận trọng hơn. “Đừng vội thỏa mãn, mon coeur. Rudolf có thể còn lựa chọn nào khác ngoài đồng ý trong hoàn cảnh đó, nhưng ông ta đưa ra bản viết tay đâu. Em tham gia điệu nhảy vô cùng phức tạp. Và em có thể tin chắc rằng hoàng đế muốn thứ gì đấy từ em để đáp trả việc nhìn lướt qua cuốn sách của ông ta.” “Vậy chúng mình phải chạy xa trước khi ông ta khăng khăng đòi điều đó,” tôi . Tuy vậy, Matthew đúng, cần phải thận trọng. Tôi tưởng tượng ra cả hai được mời tới xem kho báu vào ngày hôm sau trong vòng bí mật. Nhưng lời mời mãi chưa tới. Nhiều ngày trôi qua chúng tôi mới được mời dùng bữa tối tại cung điện cùng vài nhà thần học công giáo tiến bộ. Sau đó, lá thư hứa hẹn, nhóm được lựa chọn trở lại phòng Rudolf để xem những món đồ của các tôn giáo và bí đặc biệt được bổ sung vào bộ sưu tập của hoàng đế. Trong số các vị khách có Johannes Pistorious, người lớn lên theo thuyết Lu-ti, cải đạo sang thuyết Can-vin và giờ trở thành giáo sĩ Công giáo. “Chúng ta bị sắp đặt,” Matthew , hết vuốt tóc ra sau rồi lại hất ra trước. “Pistorius là gã nguy hiểm, kẻ thù nhẫn tâm và phù thủy. quay lại đây trong mười năm tới để nghe lời xưng tội của Rudolf.” “Có được chuẩn bị để vào Đại Hội Đồng?” Gallowglass khẽ hỏi. “Chẳng sao cả,” tôi nhàng . “Tuy nhiên lão ta chưa phải là thành viên Đại Hội Đồng mà là . Nếu ta có mong muốn đó cũng chẳng có cơ hội nào để gây rắc rối khi quan sát chứ?” “Xuất sắc – hoặc Rudolf cầu dùng bữa với chúng ta. Hoàng đế lôi kéo các phe tham chiến và tập trung quân đội của mình.” “Chính xác ông ta muốn đánh nhau vì cái gì vậy?” “Bản viết tay – và em. Gã bỏ cuộc đâu.” “Em trước với rằng em phải hàng hóa rao bán, cũng phải chiến lợi phẩm.” “, nhưng em ở vị trí bị đòi hỏi mặc dù có liên quan tới Rudolf. Ông ta là hoàng tử nước Áo, vua của Hungary, Croatia và Bohemia, bá tước của Moravia và Hoàng Đế La Mã Thần Thánh. Hơn nữa, ông ta là cháu họ của vua Philip Tây Ban Nha. Dòng họ Hapsburg là gia đình hám lợi và thích đua tranh, họ dừng lại khi chưa đạt được thứ họ muốn.” “Matthew làm nũng đâu, thưa ,” Gallowglass ủ rũ khi tôi định phản đối. “Nếu mà là vợ cháu rời khỏi Praha từ cái ngày món quà đầu tiên được gửi tới rồi.” Vì tình hình nhạy cảm nên Pierre và Gallowglass hộ tống chúng tôi tới cung điện. Ba ma cà rồng và phù thủy gây ra nhiều làn sóng phấn khích khi chúng tôi hướng vào cái sảnh lớn mà thời Matthew từng giúp thiết kế. Rudolf sắp xếp chỗ tôi ngồi gần ông ta và Gallowglass nhận lấy vị trí sau ghế của tôi như người hầu lịch . Matthew được xếp ngồi đối diện phía cuối bàn tiệc với phục vụ của Pierre. Đối với người quan sát bình thường Matthew có quãng thời gian tuyệt vời giữa đám quý bà khàn giọng và các chàng trai trẻ hăm hở kiếm tìm mẫu hình hăng hái hơn hoàng đế. Tiếng cười của Gales đôi lúc trôi dạt về phía chúng tôi từ đám đông ganh đua của Matthew nhưng cũng chẳng làm tâm trạng khổ sở của bệ hạ khá hơn chút nào. “Vì dị giáo và những thứ chính thống phải bị đánh bật hoàn toàn, thưa bệ hạ. Mặt khác, chúng vẫn luôn tìm những mảnh đất mới để sinh sôi nảy nở.” Đôi mắt sụp mí của Pistorius nhìn về phía tôi, cái liếc mắt của gã như thăm dò. Con mắt thứ ba của tôi mở ra và cảm thấy căm phẫn trước những nỗ lực thô lỗ của gã nhằm chiếm lấy chú ý của tôi, chúng tạo ấn tượng giống như phương pháp mà Champier thực nhằm truy tìm các bí mật của tôi. Tôi bắt đầu thích những phù thủy được hưởng nền giáo dục đại học. Tôi đặt con dao xuống và quay ra chăm chú nhìn gã. Cuối cùng Pistorius phải là người chấm dứt trước. “Phụ hoàng của ta tin rằng lòng khoan dung là cách xử khôn ngoan hơn,” Rudolf đáp lời. “Và người nghiên cứu khôn ngoan của người Do Thái về phép thần thông. Mà những người đàn ông của Chúa gọi là dị giáo.” Tầm nghe của Matthew cho phép theo dõi sát sao cuộc hội thoại của tôi cách mãnh liệt như Sárka truy đuổi con gà của nàng. cau mày. “Chồng tôi ông là thầy thuốc, ông Pistorius.” Cuộc đàm thoại này hề êm ái nhưng lại có mục đích riêng. “Đúng vậy, thưa bà Roydon. Hoặc từng, trước khi tôi chuyển mối quan tâm từ bảo quản xác chết sang cứu rỗi các linh hồn.” “Danh tiếng của cha Johannes dựa các phương pháp chữa trị bệnh dịch hạch,” Rudolf . “Tôi chỉ đơn thuần là phương tiện thuận theo ý Chúa. Chỉ có Người mới thực là người chữa được bách bệnh,” Pistoriu khiêm tốn . “Trong tình với chúng ta, Người tạo ra rất nhiều phương thuốc tự nhiên có hiệu quả thần kỳ đối với những cơ thể kém hoàn hảo này.” “À đúng rồi. Ta vẫn nhớ lời ủng hộ của ngài dành cho các viên sỏi kết tụ trong dạ dày bò như thứ thuốc chữa bách bệnh. Gần đây ta gửi La Diosa viên sỏi của mình khi bà ấy ốm.” Rudolf mỉm cười hài lòng. Pistorius nghiên cứu tôi. “Phương pháp điều trị của người ràng là có hiệu quả, thưa bệ hạ.” “Đúng vậy. La Diosa hoàn toàn hồi phục. ấy trông rất khỏe mạnh,” Rudolf , môi dưới của ông ta trề ra chút khi ngắm nghía tôi. Hôm nay, tôi mặc chiếc váy dài đơn giản màu đen, được thêu chỉ trắng kèm chiếc áo choàng nhung đen. Chiếc cổ áo xếp nếp mỏng như nhung đổ ra bên ngoài, để lộ viên hồng ngọc rực rỡ chiếc dây chuyền hình rồng lửa của Matthew, nó làm bộ trang phục tối tăm của tôi có chút màu sắc. Rudolf tập trung quan sát mảnh đá quý tuyệt đẹp. Ông ta cau mày và ra hiệu cho đầy tớ. “ khó rằng viên sỏi kết tụ trong dạ dày bò hay thứ thuốc trộn mật của hoàng đế Maximilian có hiệu quả hơn,” tôi và nhìn về phía bác sĩ Hájek cầu khẩn trong lúc Rudolf vẫn thầm trao đổi. Ông ta đánh chén món tráng miệng thứ ba, liền giật mình ho ra miếng thịt bê vừa nuốt, Hájek có vẻ xoay xở được với tình hình này. “Tôi tin là nhờ thứ thuốc trộn mật, bác sĩ Pistorius ạ,” Hájek thừa nhận. “Tôi chuẩn bị nó trong chiếc cốc làm từ sừng của loài ngựa sừng. Hoàng đế Rudolf tin rằng điều đó giúp gia tăng hiệu quả.” “La Diosa cũng uống thuốc trộn mật từ chiếc thìa làm bằng sừng nữa,” Rudolf , đôi mắt liếc lâu môi tôi, “để thêm chắc chắn.” “Chiếc cốc và thìa đó là trong những vật đặc biệt ta được xem tối nay trong phòng báu vật của người phải , thưa bệ hạ?” Pistorius hỏi. Bầu khí giữa tôi và gã phù thủy kia đột ngột kêu lách tách rạn nứt. Các sợi tơ bao quanh gã thầy-thuốc-giáo-sĩ kia nổ bung ra thành màu đỏ hung tợn và màu cam bạo lực, cảnh báo tôi về mối nguy hiểm. Sau đó mỉm cười. Ta tin ngươi, đồ phù thủy, thầm trong đầu tôi. Cũng tin gã -là nhân tình của ngươi, hoàng đế Rudolf. Món lợn rừng ngon lành tôi nhai được thêm nếm chút lá hương thảo và hạt tiêu đen mà theo hoàng đế là được đun cùng máu, ngay lập tức như trở thành rác trong miệng tôi. Thay vì đem lại cảm giác ngon miệng, nó khiến máu tôi lạnh giá. “Có chuyện gì ổn sao?” Gallowglass thầm và cúi thấp xuống vai tôi. Cậu ta đưa tôi chiếc khăn quàng nào đó mà tôi hề biết. “Pistorius được mời lên tầng xem cuốn sách,” tôi quay đầu về phía cậu ta và bằng thứ tiếng tốc độ để giảm thiểu nguy cơ bị nghe hiểu được. Gallowglass có mùi muối biển và bạc hà, kết hợp giữa chắc khỏe và vững dạ. Nhờ đó, thần kinh của tôi trở nên vững tâm hơn. “Để đó cho cháu,” cậu ta đáp lại và siết lấy vai tôi. “Còn nữa, hơi tỏa sáng đó, thưa . Tốt hơn hết là ai được trông thấy các ngôi sao tối nay.” Sau khi bắn lời đe dọa sang tôi, Pistorius chuyển hướng cuộc đối thoại về chủ đề khác, hứa hẹn nổ ra cuộc tranh luận sôi nổi với bác sĩ Hájek về phương pháp điều trị của thuốc mỡ tiêu độc. Rudolf chia thời gian làm hai nửa, lúc trộm nhìn tôi với vẻ u ám, lúc thoáng liếc qua Matthew. Càng gần tới lúc chúng tôi được nhìn thấy Ashmole 782, tôi càng ít ngon miệng hơn, nên quyết định quay sang trò chuyện đôi chút với các quý phu nhân bên cạnh. Cuối cùng bữa yến tiệc kết thúc sau khoảng năm lượt thức ăn, bao gồm buổi diễu hành đám công mạ vàng và hoạt cảnh thịt lợn nướng kèm thịt lợn sữa. “Em có vẻ nhợt nhạt,” Matthew , thoăn thoắt đưa tôi rời khỏi bàn. “Pistorius điều tra em.” Gã này nhắc tôi nhớ tới Peter Knox và Champier bởi các lý do tương tự. ‘Du côn trí tuệ’ là lời miêu tả hoàn hảo nhất cho tất cả bọn họ. “Gallowglass lo việc đó.” “Thảo nào Pierre theo chân cậu ta.” “Pierre làm gì?” “Để đảm bảo Pistorius toàn mạng mà ra khỏi đây,” Matthew phấn khởi . “Nếu để mặc Gallowglass cậu ta siết cổ gã và ném vào Stag Moat để sư tử ăn vặt lúc nửa đêm. Cậu cháu trai của bảo vệ em chẳng kém gì đâu.” Rudolf mời các vị khách cùng mình vào phòng riêng bên trong: phòng trưng bày riêng mà Matthew và tôi ngắm bức tranh trang trí sau bàn thờ của Bosch. Ottavio Strada gặp chúng tôi tại đó để dẫn tham quan qua bộ sưu tập và trả lời các câu hỏi. Khi chúng tôi tiến vào căn phòng, bức tranh trang trí sau bệ thờ của Matthew vẫn đặt chính giữa chiếc bàn bọc-vải-màu-xanh-cây. Rudolf sắp đặt rải rác các vật khác xung quanh để chuyến tham quan của chúng tôi thêm thú vị. Trong lúc các vị khách còn ồ à quanh bức tranh của Bosch tôi đảo mắt lướt qua căn phòng. Vài cái chén làm bằng đá quý khá ấn tượng, sợi dây chuyền tráng men dùng trong dịp lễ, cái sừng dài được cắt ra từ ngựa sừng, mấy bức tượng và quả hạt chạm khắc theo lối Seychelles, hòa trộn tuyệt vời giữa đắt tiền, khả năng chữa bệnh và vẻ kỳ lạ. Tuy vậy chẳng có bản viết tay giả kim thuật nào. “Nó đâu rồi?” Tôi hỏi Matthew, trước khi kịp trả lời, tôi cảm thấy bàn tay ấm áp chạm lên cánh tay mình. Matthew bỗng cứng đờ. “Ta có quà cho nàng, puerida diosa.” Hơi thở của Rudolf đẫm mùi hành tây cùng rượu vang đỏ, ngay lập tức, dạ dày của tôi chao đảo phản đối mùi này. Tôi quay người, mong chờ được trông thấy Ashmole 782. Nhưng thay vào đó, hoàng đế giơ ra chuỗi vòng tráng men. Tôi chưa kịp từ chối ông ta quàng nó qua đầu tôi và đặt hai vai. Tôi nhìn xuống, trông thấy con rắn ngậm đuôi màu xanh treo chuỗi chữ thập đỏ, được đính dày đặc ngọc lục bảo, hồng ngọc, kim cương và ngọc trai. Màu sắc lấp lánh của nó nhắc tôi nhớ tới viên đá quý ông Maisen cho Benjamin. “Món quà đó tặng cho vợ thần có phần kỳ lạ thưa bệ hạ.” Matthew nhàng . đứng ngay sau hoàng đế và nhìn vào sợi dây chuyền bằng vẻ mặt khó chịu. Đây là sợi dây chuyền thứ ba của tôi theo cùng kiểu và tôi biết hẳn phải có ý nghĩa nào đó đằng sau biểu tượng này. Tôi nâng vòng tròn con rắn ngậm đuôi lên để nghiên cứu lớp tráng men. Nó hẳn là con rắn ngậm đuôi bởi nó có chân, giống như con thằn lằn hay rồng lửa hơn là rắn. chữ thập đỏ đẫm máu nổi lên phần da lưng của con thằn lằn. Quan trọng hơn nữa, chiếc đuôi được ngậm vào miệng mà vòng quanh họng con thằn lằn và thắt cổ nó. “Đây là dấu hiệu của tôn trọng, ông Roydon.” Rudolf nhấn mạnh cái tên cách tinh tế. “Sợi dây này từng thuộc về vua Vladislaus và được truyền cho bà của ta. Biểu tượng này thuộc về hội các hiệp sĩ người Hungary dũng cảm được biết đến như Dòng tu Diệt Rồng.” “Rồng ư?” Tôi yếu ớt thốt lên, vội nhìn sang Matthew. Với những cái chân ngắn bè bè, đây có lẽ đúng là con rồng. Nhưng mặt khác nó tương đối giống gia huy của nhà de Clermont – ngoại trừ con rắn chết dần chết mòn trong đau đớn. Tôi nhớ tới lời thề của Herr Fuchs – tàn sát những con rồng bất cứ đâu tìm thấy chúng. “Rồng tượng trưng cho kẻ thù của chúng ta, đặc biệt những kẻ mong muốn can thiệp vào các đặc quyền của hoàng gia.” Rudolf bằng giọng điệu bài ngoại, nhưng thực tế nó là lời tuyên chiến đối với toàn bộ gia tộc de Clermont. “Ta rất vui nếu lần tới bà đeo nó vào triều.” Ngón tay Rudolf chạm vào con rồng ngực tôi và nấn ná ở đó. “Vậy là bà có thể để mấy con kỳ giông Pháp bé này ở nhà rồi.” Ánh mắt Matthew vẫn gắn chặt vào con rồng và ngón tay của vị hoàng đế, tối sầm lại khi Rudolf nhấn mạnh lời nhạo báng về những con kỳ giông Pháp. Tôi cố gắng suy nghĩ giống Mary Sidney để tìm lời đáp vừa thích hợp với thời điểm này lại vừa có thể làm chàng ma cà rồng bình tĩnh lại. Tôi xử lý với cảm giác bị lăng nhục nữ quyền sau vậy. “Thần có đeo món quà của người hay đều tùy thuộc vào phu quân của thần, thưa bệ hạ,” tôi lành lạnh đáp, buộc mình tránh xa khỏi ngón tay của Rudolf. Tôi nghe thấy những tiếng thở hắt, vài tiếng xì xào thầm. Nhưng phản ứng duy nhất tôi quan tâm là của Matthew cơ. “ thấy có lý do nào em nên mang nó cho tới hết buổi tối hôm nay, mon coeur,” Matthew trả lời vẻ tán thành. còn quan tâm chuyện đại sứ của nữ hoàng nước lại nghe giống quý tộc Pháp. “Xét cho cùng, kỳ giông và rồng đều là họ hàng thân thích. Cả hai đều chịu tôi luyện trong lửa để bảo vệ những gì chúng . Và hoàng đế độ lượng cho em xem cuốn sách của ngài.” Matthew nhìn quanh. “Mặc dù có vẻ như Signor Strada vẫn tiếp tục thiếu năng lực, vì cuốn sách vẫn có ở đây.” cây cầu khác cháy lên phía sau chúng tôi. “Chưa được, chưa được,” Rudolf thăm dò . “Ta còn thứ nữa để tặng La Diosa. Hãy đến xem quả hạch đào được chạm khắc đến từ Maldives. Nó là món độc nhất vô nhị đấy.” Mọi người ngoại trừ Matthew đều lũ lượt tuân theo về hướng Strada chỉ. “Cả ông nữa, Herr Roydon.” “Dĩ nhiên rồi,” Matthew lẩm bẩm đáp, bắt chước giọng điệu của mẹ cách hoàn hảo. chậm rãi thủng thẳng theo sau đám đông. “Ta đặc biệt cầu vài thứ ở đây. Cha Johannes giúp đỡ tìm về vật báu này.” Rudolf nhìn quanh phòng nhưng chịu chết thấy Pistorius đâu. Ông ta cau có. “Signor Strada, ông ấy đâu rồi?” “Thần thấy ông ấy kể từ lúc chúng ta rời khỏi Đại Sảnh, thưa bệ hạ,” Strada trả lời. “Ngươi!” Rudolf chỉ vào tên hầu. “ tìm ông ấy ngay!” Người đàn ông chạy ngay lập tức. Hoàng đế thu lại vẻ điềm tĩnh và chuyển chú ý sang món đồ lạ lùng trước mặt chúng tôi. Nó trông giống tác phẩm chạm khắc thô tục về người đàn ông khỏa thân. “La Diosa, đây là cái nam căn trong truyền thuyết của xứ Eppendorf. thế kỷ trước, phụ nữ đánh cắp cây chủ được hiến cho các thánh trong nhà thờ và trồng nó dưới ánh sáng trăng tròn để làm tăng thêm màu mỡ cho khu vườn của bà ta. Sáng ngày hôm sau họ phát ra cây bắp cải khổng lồ.” “Mọc ra từ cây chủ ư?” Chắc chắn trong quá trình chuyển ngữ vài thứ bị lược mất, nếu tôi chắc mình cực kỳ hiểu sai bản chất bữa Tiệc Thánh của Cơ Đốc giáo. Cây Dianæ là chuyện. Cây brassicæ lại hoàn toàn khác. “Đúng thế. Đó là điều kỳ diệu. Và khi cây bắp cải được đào lên, bộ rễ của nó có hình dạng tương tự cơ thể của Chúa.” Rudolf giơ thứ đó ra cho tôi xem. Nó được đội cái mũ miện bằng vàng khảm ngọc trai. Có lẽ cái đó được thêm vào sau. “Tuyệt diệu,” tôi , cố gắng nhìn và cách thích thú. “Ta muốn bà thấy nó phần vì nó tương tự bức tranh trong cuốn sách bà đề nghị xem. Tìm Edward , Ottavio.” Edward Kelley bước vào, ôm chặt cuốn sách bọc da vào ngực. Ngay khi vừa trông thấy nó, tôi biết. Cả cơ thể tôi râm ran nhức nhối khi cuốn sách còn đường băng qua căn phòng. Sức mạnh của nó như có thể sờ thấy được – còn mạnh hơn nhiều so với lúc nó ở Bodleian vào cái đêm tháng Chín khiến cả cuộc đời tôi thay đổi. Đây chính là cuốn cổ thư thất lạc của Ashmole – trước khi nó thuộc về Elias Ashmole và trước khi nó mất tích. “Bà ngồi đây với ta, chúng ta cùng nhau xem cuốn sách này.” Rudolf ra hiệu về phía cái bàn và hai chiếc ghế được sắp đặt theo kiểu mặt đối mặt. “Đưa ta cuốn sách nào, Edward.” Rudolf chìa tay ra, và Kelley miễn cưỡng đặt cuốn sách vào tay hoàng đế. Tôi chiếu ánh mắt thăm dò nhìn Matthew. ra sao nếu cuốn cổ thư bắt đầu phát sáng như hồi ở Bodleian hay hành xử cách lạ lùng theo cách nào đó? Còn nếu tôi thể ngăn tâm trí mình khỏi băn khoăn thắc mắc về cuốn sách hay các bí mật của nó sao? phép thuật bột phát lúc này cũng là tai họa. Đây là lý do chúng ta ở nơi này, cái gật đầu tự tin của ngụ ý đáp lại. Tôi ngồi xuống cạnh hoàng đế, Strada dẫn các cận thần quanh phòng hướng tới chỗ bộ sừng kỳ lân. Matthew vẫn lảng vảng gần hơn. Tôi nhìn chằm chằm vào cuốn sách trước mặt mình, dám tin giây phút này đến khi tôi cuối cùng được thấy Ashmole 782 trọn vẹn và hoàn toàn. “Thế nào?” Rudolf hỏi. “Bà mở nó ra chứ?” “Tất nhiên rồi,” tôi đáp, kéo cuốn sách lại gần hơn. có ánh sáng lấp lánh phát ra từ các trang sách. Để so sánh, tôi đặt cả bàn tay lên bìa lúc, y như tôi làm khi tìm được Ashmole 782 từ kho sách thư viện. Khi đó nó thở dài lúc nhận ra tôi, như thể chờ đợi tôi xuất từ rất lâu rồi. Còn lần này cuốn sách vẫn nằm im lìm. Tôi lật mở tấm bảng gỗ được trong lớp bọc bao bên ngoài bìa trước, để lộ ra trang giấy da trắng trơn. Tâm trí tôi chạy đua hồi tưởng lại những gì mình thấy vài tháng trước. Đây là trang giấy mà đó Ashmole và cha tôi ngày nào đó viết tựa đề cho cuốn sách. Tôi lật qua trang đó và cảm nhận được cùng cái cảm giác nặng nề kỳ lạ trước đây. Khi trang sách mở hẳn ra, tôi thở hổn hển. Trang sách đầu tiên bị mất của Ashmole 782 là bức hình minh họa rực rỡ vẽ cái cây. Thân cây vặn thắt và khúc khuỷu, dày dạn nhưng uốn quanh co. Các cành cây tỏa ra đỉnh, vặn xoắn rẽ ngoặt tỏa ra khắp trang giấy, điểm kết thúc là những tán lá, trái chín đỏ tươi, và những bông hoa cùng kết hợp lại. Nó giống cây Dianæ mà Mary dùng máu của Matthew và tôi để tạo nên. Khi cúi người xuống gần hơn, hơi thở của tôi nghẹn lại nơi cuống họng. Thân cây này phải được làm từ gỗ, nhựa cây, và vỏ cây. Nó được tạo ra từ hàng trăm xác người – số quằn quại trong đau đớn, số lại bình thản ôm chặt người lại, những kẻ khác đơn độc và sợ hãi. Ở cuối trang sách, được viết tay vào cuối thế kỷ mười ba, là tựa đề do Roger Bacon đặt: Bí Mật của Các Bí Mật. Cánh mũi Matthew phập phồng như thể cố nhận diện mùi hương. Cuốn sách có mùi kỳ lạ – cùng cái mùi ẩm mốc mà tôi thấy lúc ở Oxford. Tôi giở sang trang. Đây là bức hình được gửi cho cha mẹ tôi, nó được ngôi nhà Bishop cất giữ suốt nhiều năm trời: phượng hoàng che chở hôn lễ hóa học dưới đôi cánh của nàng, trong khi các con thú thần thoại và thuộc về hóa học chứng kiến cho kết hợp liên minh giữa Mặt Trời và Mặt Trăng. Matthew có vẻ bị sốc, lúc này nhìn trừng trừng vào cuốn sách. Tôi cau mày. vẫn ở quá xa thể thấy nó ràng. Điều gì làm ấy kinh ngạc đến thế? Tôi mau chóng lật qua bức tranh hôn lễ hóa học. Trang sách thứ ba bị mất hóa ra là hình hai con rồng hóa học, đuôi của chúng bện xoắn lại và thân hình khóa chặt vào nhau trong dáng vẻ vừa như chiến đấu lại vừa như âu yếm – thể được là trạng thái nào. cơn mưa máu tuôn ra từ vết thương của chúng, đọng lại trong cái chậu mà từ đó nảy ra hàng tá thân hình xanh xao trần trụi. Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh hóa học giống như thế. Matthew đứng nhìn qua vai hoàng đế, còn tôi hy vọng cơn choáng váng của chuyển thành phấn khích khi trông thấy những hình ảnh mới này và tiến gần đến việc giải quyết các bí của cuốn sách. Nhưng trông như thể nhìn thấy ma vậy. bàn tay trắng đưa lên che kín miệng và mũi. Khi tôi nhíu mày thắc mắc, Matthew gật đầu với tôi, dấu hiệu báo rằng tôi nên tiếp tục. Tôi hít vào hơi sâu và giở sang trang sách là những hình ảnh hóa học lạ lùng đầu tiên mà tôi thấy khi ở Oxford. Đúng như mong đợi, đây là hình ảnh đứa bé cùng với hai bông hồng. Điều bất ngờ là từng centimet khoảng xung quanh đứa bé được phủ đầy chữ viết. Đó là trộn lẫn kỳ quái giữa các biểu tượng và vài chữ cái thưa thớt. Ở Bodleian văn bản này bị bởi bùa chú biến cuốn sách thành cuốn sách cổ bị yểm phép thuật. Lúc này, với cuốn sách còn nguyên vẹn, văn bản bí mật này hoàn toàn được thấy trọn vẹn. Mặc dù có thể nhìn thấy nó, nhưng tôi vẫn thể đọc được nó. Các ngón tay tôi lần theo những dòng chữ. đụng chạm của tôi khiến các từ ngữ biến chúng thành khuôn mặt, hình dáng hay cái tên nào. Dường như văn bản viết này cố gắng kể câu chuyện liên quan tới hàng ngàn sinh vật sống. “Ta tặng cho nàng bất cứ thứ gì nàng cầu,” Rudolf , hơi thở nóng hổi của ông ta phả vào má tôi. lần nữa tôi ngửi thấy mùi hành và rượu. Chẳng giống chút nào với mùi hương sạch hào nhoáng của Matthew. Mà ấm áp của Rudolf cũng khó chịu vì giờ đây tôi quen với nhiệt độ mát mẻ của ma cà rồng mất rồi. “Tại sao bà lại lựa chọn thứ này? thể nào hiểu được nó, mặc dù Edward tin rằng nó chứa đựng bí mật vĩ đại.” cánh tay dài với qua giữa hai chúng tôi và nhàng chạm vào trang sách. “Tại sao ư, điều này cũng vô nghĩa như cuốn sách mà người lén lút lấy từ tiến sĩ Dee tội nghiệp.” Vẻ mặt Matthew ngược hoàn toàn với những lời . Rudolf có thể nhìn thấy những thớ thịt nổi lên nơi quai hàm của Matthew hay biết những nếp nhăn quanh mắt hằn sâu đến thế nào khi tập trung chú ý. “ cần thiết,” tôi vội vàng . “Các văn bản hóa học đòi hỏi phải nghiên cứu và ngẫm nghĩ kỹ càng nếu người muốn hiểu chúng hoàn toàn. Có lẽ nếu thần có thêm thời gian với nó…” “Cho dù thế người đó phải được Chúa ban ân đặc biệt,” Rudolf , cau có nhìn Matthew. “Edward được Chúa chỉ lối theo những cách mà ông có vinh hạnh đâu, Herr Roydon.” “Ồ, ông ta được chỉ dẫn ổn cả,” Matthew , quét mắt qua Kelley. Nhà giả kim thuật người bây giờ hành động lạ lùng, cuốn sách thuộc sở hữu của . Có những sợi chỉ tơ nối với cuốn sách. Nhưng tại sao Kelly lại gắn kết với Ashmole 782? Khi câu hỏi này lướt qua tâm trí tôi, những sợi tơ đẹp đẽ màu vàng và trắng buộc nối Kelley với Ashmole 782 bỗng có diện mạo mới. Thay vì hai màu sắc xoắn chặt lại thông thường hoặc làn sóng những sợi chỉ tơ nằm theo chiều ngang và chiều thẳng đứng, những sợi này lại cuộn lỏng lẻo xung quanh trục vô hình, giống như những sợi ruy băng xoắn lọn món quà sinh nhật. Những sợi tơ ngắn nằm ngang tiếp tục cuốn lọn từ chỗ tiếp xúc. Trông giống như… hình xoắn ốc đôi. Bàn tay tôi vụt đưa lên che miệng, tôi nhìn trừng trừng xuống cuốn sách. Giờ khi tôi chạm vào cuốn sách rồi, mùi ẩm mốc của nó vẫn còn vương các ngón tay. Nó nồng, gắt, giống như… Máu và thịt. Tôi nhìn Matthew, biết rằng biểu hiệu mặt mình phản chiếu lại đúng cái nhìn choáng váng mà tôi thấy mặt . “Em trông được khỏe, mon coeur,” lo lắng , giúp tôi đứng dậy. “Để đưa em về nhà.” Edward Kelley chọn đúng thời điểm này mà mất kiểm soát. “Tôi nghe thấy những giọng của họ. Họ bằng thứ ngôn ngữ mà tôi thể hiểu được. Các người có nghe thấy tiếng họ ?” ta rên rỉ khốn khổ, hai tay bưng chặt lấy tai. “Các vị huyên thuyên chuyện gì thế?” Rudolf . “Bác sĩ Hájek, Edward ổn rồi.” “Ngươi cũng tìm thấy tên mình trong đó,” Edward với tôi, giọng càng lớn hơn, như thể cố gắng át các thanh khác. “Ta biết ngay khoảnh khắc trông thấy ngươi.” Tôi nhìn xuống. Những sợi chỉ xoắn lọn cũng trói lấy tôi vào quyển sách – chỉ có điều của tôi là màu trắng và tím oải hương. Matthew bị buộc nối với nó bằng những sợi xoắn màu đỏ và trắng. Gallowglass xuất , thông báo trước cũng chẳng được mời. tên lính gác lực lưỡng theo sau chàng, tay ôm siết lấy cánh tay mềm oặt của chính . “Ngựa sẵn sàng,” Gallowglass thông báo với chúng tôi, ra hiệu về phía lối ra. “Ngươi được phép vào đây!” Rudolf hét lên, cơn giận dữ bốc lên khi những kế hoạch sắp đặt cẩn thận của ông ta tan rã. “Còn bà, La Diosa, được phép rời khỏi đây.” Matthew tuyệt nhiên chẳng thèm để ý tới Rudolf. chỉ đơn giản cầm lấy cánh tay tôi và sải bước về phía cửa. Tôi có thể cảm thấy cuốn cổ thư níu kéo tôi, những sợi chỉ trải căng ra kéo tôi trở về bên cạnh nó. “Chúng ta thể để lại cuốn sách. Nó…” “ biết nó là cái gì,” Matthew gằn giọng. “Ngăn chúng lại!” Rudolf gào lên. Nhưng tên lính canh với cánh tay bị gãy ăn đủ với ma cà rồng giận dữ tối nay rồi. cố thách thức số mệnh bằng cách ngáng đường Matthew. Thay vào đó trợn trừng đảo mắt rồi thả mình xuống sàn ngất xỉu. Gallowglass choàng áo khoác lên vai tôi khi chúng tôi đâm bổ xuống cầu thang. Thêm hai tên lính nữa – cả hai đều bất tỉnh – nằm dưới chân cầu thang. “Quay trở lại lấy cuốn sách !” Tôi ra lệnh cho Gallowglass, gần như nghẹt thở vì chiếc coóc-xê bó chặt và tốc độ di chuyển băng qua sân lâu đài. “Giờ chúng ta thể để Rudolf có nó khi biết nó là cái gì.” Matthew dừng lại, các ngón tay ấn sâu vào cánh tay tôi. “Chúng ta rời khỏi Praha này mà có cuốn sách. quay lại lấy nó, hứa. Nhưng trước hết chúng ta phải về nhà . Em phải chuẩn bị cho bọn trẻ sẵn sàng để rời ngay khi trở lại.” “Chúng ta tự chặt đứt đường của mình rồi, ạ,” Gallowglass dữ dằn . “Pistorius bị nhốt trong Tháp Trắng. Cháu giết lính gác và làm bị thương ba tên khác. Rudolf khiếm nhã chạm vào như vậy, và cháu cũng có khao khát mãnh liệt muốn thấy chết.” “Cậu hiểu đâu, Gallowglass. Cuốn sách đó có thể là đáp án cho mọi điều,” tôi cố tìm cách chỉ ra trước khi Matthew lại bắt tôi di chuyển. “Ôi, cháu hiểu nhiều hơn tưởng đấy.” Giọng Gallowglass thoáng trong làn gió bên cạnh tôi. “Cháu nhận thấy mùi của nó từ dưới lầu khi hạ gục mấy tên lính. Có các wearth bị chết trong cuốn sách đó. Cả phù thủy và tinh nữa, cháu cam đoan đấy. Có ai tưởng tượng nổi Cuốn Sách Sống bị mất ấy lại bốc mùi chết chóc lên tận thiên đàng cơ chứ?”
32. “Ai làm chuyện như thế chứ?” Hai mươi phút sau, tôi run lẩy bẩy bên cạnh lò sưởi trong căn phòng chính ở tầng , tay siết chặt cốc vại trà thảo mộc. “ kinh khủng!” Giống hầu hết các cuốn cổ thư, Ashmole 782 được làm từ giấy da – loại da đặc biệt được chuẩn bị sẵn, ngâm trong nước vôi để tẩy hết lông, nạo hết các lớp thịt và mỡ dưới da , sau đó lại ngâm trước khi đem trải lên cái khung, rồi nạo thêm vài lần nữa. khác biệt là ở đây, những sinh vật được dùng làm giấy da phải là cừu, bò, hay dê mà là tinh, ma cà rồng và phù thủy. “Chắc nó được lưu giữ như kỷ lục.” Matthew vẫn cố lý giải cho những gì chúng tôi thấy. “Nhưng đó là hàng trăm trang sách,” tôi hoài nghi . Ý nghĩ có ai đó lột biết bao nhiêu da của tinh, ma cà rồng và phù thủy để làm giấy thể hiểu nổi. Tôi dám chắc từ nay mình còn có thể ngủ ngon cả đêm được nữa . “Điều đó có nghĩa là cuốn sách ấy chứa hàng trăm mẫu DNA khác biệt.” Matthew luồn các ngón tay cào tóc nhiều đến mức trông bắt đầu giống con nhím. “Các sợi chỉ xoắn nối chúng ta với Ashmole 782 trông giống như những sợi xoắn kép,” tôi . Chúng tôi phải giải thích các kiến thức di truyền học đại cho Gallowglass, dù có bốn thế kỷ rưỡi tri thức về sinh vật học và hóa học xen vào, chàng cũng cố hết sức mình để theo kịp. “Vậy D-N-A giống như cây phả hệ, các cành lá bao phủ rộng hơn gia đình phải ?” Gallowglass đọc to “DNA” cách chậm rãi, với khoảng nghỉ ngắn giữa mỗi chữ cái. “Đúng vậy,” Matthew . “Đại khái là thế.” “ có trông thấy cái cây ở trang đầu tiên ?” Tôi hỏi Matthew. “Thân cây được tạo nên từ các xác người, còn cái cây ra hoa, kết trái và trổ lá y hệt như cây Dianæ chúng ta tạo ra trong phòng thí nghiệm của Mary.” “, nhưng thấy sinh vật ngậm đuôi trong miệng nó,” Matthew . Tôi luống cuống cố gắng hồi tưởng lại những gì thấy, nhưng trí nhớ của tôi thất bại khi tôi cần nó nhất, có quá nhiều thông tin mới cần hấp thụ. “Bức hình vẽ hai sinh vật đánh nhau – hay âu yếm nhau ấy, em thể là cái nào vì em có cơ hội đếm số chân của chúng. Máu chúng rơi xuống, sản sinh ra hàng trăm sinh vật, mặc dù nếu trong hai con phải là rồng bốn chân mà là rắn…” “Và con là rồng lửa có hai chân, vậy những con rồng hóa học đó có thể tượng trưng cho em và .” Matthew chửi thề, tuy ngắn ngủi nhưng cũng đầy cảm xúc. Gallowglass kiên nhẫn lắng nghe cho tới khi chúng tôi xong, quay trở lại chủ đề ban đầu của chàng. “Còn D-N-A này, nó tồn tại trong da chúng ta à?” “ chỉ da thôi đâu, mà cả trong máu, xương, tóc, móng tay và móng chân của cháu – khắp cơ thể,” Matthew giải thích. “Hừm.” Gallowglass vuốt cằm. “Thế chính xác định hỏi gì khi cuốn sách này có thể có tất cả đáp án?” “Tại sao chúng ta lại khác loài người,” Matthew đáp gọn. “Và tại sao phù thủy như Diana có thể mang thai đứa con của wearh.” Gallowglass tặng cho chúng tôi nụ cười rạng rỡ. “Chú muốn đến con của chú, Matthew. Cháu biết là có thể mang thai lúc ở London. chẳng bao giờ có mùi giống bất kỳ ai khác ngoài mùi của chính ấy – và chú. Philippe có biết ?” “Rất ít người biết,” tôi đáp nhanh. “Hancock biết, vậy Françoise và Pierre cũng biết. Cháu đoán Philippe chắc cũng biết rồi.” Gallowglass đứng dậy. “Vậy cháu tìm cuốn sách của về. Nếu nó liên quan tới những đứa trẻ của nhà de Clermont chúng ta phải có nó.” “Rudolf khóa kỹ nó lại hoặc ôm nó lên giường ngủ cùng,” Matthew dự đoán. “ mang nó ra khỏi cung điện dễ dàng đâu, đặc biệt là nếu bọn họ tìm thấy Pistorius và gã chắc ra ngoài yểm bùa hay làm những trò ma quái rồi.” “ đến hoàng đế Rudolf, có thể bỏ cái vòng cổ xuống ? Cháu ghét cái huy hiệu đẫm máu ấy.” “Rất vui lòng,” tôi rồi đưa tay giật sợi dây chuyền xuống và ném món đồ lòe loẹt đó lên bàn. “Chính xác Dòng Tu Diệt Rồng có liên quan gì với người nhà de Clermont vậy? Em đoan chắc bọn họ chẳng phải bạn bè gì với các Hiệp sĩ Lazarus, căn cứ vào những con rắn khốn khổ bị lột da và tự thắt cổ.” “Chúng căm ghét bọn đến chết,” Matthew thẳng thắn . “Nhà Drăculeşti tán thành tầm nhìn thông suốt của cha về Đạo Hồi và người Ottoman, thề đánh đổ tất cả bọn . Bằng cách đó, chúng có thể thỏa mãn những tham vọng chính trị kiểm soát được của mình.” “Và chúng muốn tiền của nhà de Clermont,” Gallowglass nhận xét. “Nhà Drăculeşti ư?” Giọng tôi mệt mỏi. “Nhưng Dracula là nhân vật trong truyền thuyết – kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi về ma cà rồng.” Đó là truyền thuyết của loài người về ma cà rồng. “ Vlad Rồng – kẻ đứng đầu gia tộc đó ngạc nhiên đấy,” Gallowglass bình luận, “mặc dù vui sướng khi biết được mình gieo rắc kinh hãi cho mọi người.” “Dracula của loài người – con trai của Rồng nổi tiếng là Kẻ Xiên Người – là hậu duệ duy nhất của Vlad,” Matthew giải thích. “Kẻ Xiên Người là thằng con hoang ghê tởm. May mắn là giờ chết, và tất cả những gì chúng ta phải lo lắng là về cha , các em của cùng những tên đồng minh Báthory của chúng.” Gallowglass có phần hớn hở. “Theo những ghi chép của loài người, Dracula sống nhiều thế kỷ, vì thế có thể vẫn sống. Có chắc chắn là chết rồi ?” Tôi hỏi. “Cháu quan sát Baldwin xé toạc đầu ra và thiêu nó cách xa phần thân xác còn lại ba mươi dặm. Vậy thực chết, giờ chết rồi.” Gallowglass nhìn tôi quở trách. “ nên biết hơn là tin vào mấy câu chuyện của con người chứ. Chúng chẳng bao giờ có được nhiều hơn đốm bụi trong đó.” “Em nghĩ Benjamin cũng có cái huy hiệu rồng này. Herr Maisel đưa cho nó và em nhận ra tương đồng về màu sắc khi lần đầu tiên hoàng đế đưa nó ra.” “Cháu bảo với ta Benjamin rời Hungary rồi mà,” Matthew buộc tội cậu cháu trai. “Đúng ạ, cháu thề. Baldwin ra lệnh cho ấy rời khỏi hoặc phải chịu chung số phận như Kẻ Xiên Người. Đáng lẽ chú nên nhìn thấy mặt này của Baldwin. Ác quỷ cũng dám trái lời trai chú.” “Ta muốn tới lúc mặt trời mọc, tất cả chúng ta ở cách xa Praha nhất có thể,” Matthew cứng rắn . “Có gì đó rất sai lầm, ta có thể ngửi thấy mùi của nó.” “Đó có lẽ phải ý hay đâu, chú biết đêm nay thế nào sao?” Gallowglass hỏi. Matthew lắc đầu. “Lễ Walpurgisnacht. Bọn họ đốt lửa mừng khắp thành phố và thiêu hình nộm phù thủy – dĩ nhiên là trừ phi bọn họ có thể tìm thấy phù thủy .” “Chúa ơi.” Matthew lại điên cuồng cào xới mái tóc. “Ít nhất các đám lửa cũng đánh lạc hướng phần nào. Chúng ta phải tìm ra cách chọc thủng phòng tuyến canh gác của Rudolf, đột nhập vào khu phòng riêng của và tìm cuốn sách. Sau đó, dù có đốt lửa hay , chúng ta ra khỏi thành phố.” “Chúng ta là wearh, Matthew, nếu có kẻ nào có thể đánh cắp nó chính là chúng ta,” Gallowglass tự tin . “ dễ dàng như cháu nghĩ đâu. Chúng ta có thể vào, nhưng ra được ?” “Cháu có thể giúp, ông Roydon ơi.” Giọng Jack vang lên như tiếng sáo du dương, so với giọng ồm ồm nam trầm của Gallowglass và giọng nam trung của Matthew. Matthew quay sang cau có với thằng bé. “, Jack,” kiên quyết. “Cháu trộm cắp bất cứ thứ gì, nhớ chưa? Hơn nữa, cháu mới chỉ tới tàu ngựa của cung điện thôi, cháu biết đâu để tìm cả.” “A… hẳn thế.” Gallowglass có vẻ thoải mái. “Cháu mang thằng bé tới nhà thờ và Đại Sảnh để xem các bức biếm họa chú từng vẽ các bức tường của Cầu Thang Các Hiệp Sĩ. Thằng bé cũng đến khu bếp hoàng cung rồi. Ồ,” Gallowglass tiếp sau khi ngẫm nghĩ thêm, “Dĩ nhiên là Jack cũng tới khu nhốt bầy thú xiếc rồi. độc ác nếu để cho thằng bé xem bầy thú.” “Thằng bé cũng đến lâu đài cùng với tôi nữa,” Pierre vọng vào từ ngoài cửa. “Tôi muốn ngày nào đó, nó phiêu lưu và bị lạc đường.” “Và đưa nó đâu, Pierre?” Giọng Matthew lạnh buốt. “Phòng thiết triều, để nó có thể nhảy nhô nhảy nhào lên ngai vàng hả?” “, milord. Tôi đưa thằng bé tới tiệm lò rèn gặp ông Hoefnagel.” Pierre rướn thẳng người, sử dụng hết mức chiều cao tương đối khiêm tốn để trợn mắt nhìn ông chủ mình. “Tôi nghĩ, thằng bé nên cho ai đó có tài năng thực trong lĩnh vực này xem những bức tranh của nó. Ông Hoefnagel hết sức ấn tượng và vẽ bức chân dung thằng bé bằng bút mực để tặng nó làm phần thưởng.” “Pierre cũng cho cháu đến khu phòng của lính gác,” Jack lí nhí. “Đó là nơi cháu lấy được cái này.” Thằng bé giơ lên chùm chìa khóa. “Cháu chỉ muốn xem con kỳ lân thôi, vì cháu thể tưởng tượng con kỳ lân leo lên các vì sao trông như thế nào và nghĩ rằng chúng hẳn phải có cánh. Thế nên ông Gallowglass chỉ cho cháu xem Cầu Thang Các Hiệp Sĩ – cháu rất thích bức vẽ con hươu chạy của ông, ông Roydon ạ. Lính gác trò chuyện, cháu thể hiểu hết mọi thứ, nhưng họ nhắc tới từ einhorn, và cháu nghĩ có thể họ biết nó ở đâu, và…” Matthew nắm lấy hai bờ vai của Jack và khom người xuống để mắt cả hai gặp nhau. “Cháu có biết họ làm gì nếu bắt được cháu ?” Chồng tôi tỏ vẻ sợ sệt như đứa bé. Jack gật đầu. “Và việc nhìn thấy con kỳ lân đáng bị đánh đòn ?” “Trước đây cháu bị đánh rồi, nhưng cháu chưa bao giờ trông thấy con thú huyền thoại cả, ngoại trừ con sư tử trong khu nhốt thú làm xiếc của hoàng đế, và con rồng của bà Roydon.” Jack trông hoảng hốt và vội đưa tay lên bịt miệng mình lại. “Vậy là cháu cũng trông thấy thứ đó à? Praha đúng là nơi để mở mang tầm mắt đấy.” Matthew đứng dậy và chìa tay ra. “Đưa cho ta chìa khóa nào.” Jack miễn cưỡng làm như được bảo. Matthew cúi đầu chào thằng bé. “Ta nợ cháu lần này, Jack.” “Nhưng cháu là người xấu,” Jack thầm và xoa xoa mông như thể vừa cảm thấy trừng phạt mà Matthew tới. “Ta lúc nào cũng là người xấu,” Matthew thú nhận. “Nhưng đôi khi những điều tốt đẹp lại đến từ đó.” “Vâng, nhưng có ai đánh đòn ông cả,” Jack , vẫn cố gắng để hiểu cái thế giới xa lạ, nơi mà những người đàn ông trưởng thành lại nợ những thằng nhóc bé con và người hùng của nó lại hề hoàn hảo gì. “ chứng kiến cha Matthew từng đánh đòn chú ấy bằng thanh kiếm.” Đôi cánh của rồng lửa vỗ nhè trong lồng ngực tôi thể tán thành lặng lẽ. “Sau đó ông hạ gục và đứng lên chú ấy.” “Ông ấy chắc hẳn phải to lớn như con gấu Sixtus của hoàng đế,” Jack , kinh sợ trước ý nghĩ có người nào đó chế ngự được Matthew. “Đúng thế đấy,” Matthew , gầm lên giống như con gấu được tới. “Quay về giường ngay bây giờ.” “Nhưng cháu lanh lợi và nhanh nhẹn,” Jack vẫn cự nự. “Cháu có thể lấy được cuốn sách của bà Roydon mà để ai trông thấy mình.” “Ta cũng có thể làm vậy, Jack,” Matthew hứa. *** Matthew và Gallowglass từ cung điện trở về, người đầy máu, đất bẩn, bồ hóng – và mang theo Ashmole 782. “ lấy được nó rồi!” Tôi la lên. Annie và tôi vẫn đợi ở tầng . Chúng tôi đóng gói hành lý trong các túi xách với những món đồ thiết yếu cho chuyến . Matthew mở bìa sách ra. “Ba trang đầu tiên biến mất.” Cuốn sách mới mấy tiếng trước còn nguyên vẹn, giờ bị phá hỏng, các văn tự chạy loạn trang giấy. Tôi dự định, khi nó nằm trong tay chúng tôi, dùng các ngón tay lướt chữ cái và ký hiệu để xác định ý nghĩa của nó. Nhưng giờ thể bởi ngay khi đầu ngón tay tôi chạm vào trang sách, các từ ngữ túa ra khắp các hướng. “Bọn tìm thấy Kelley ở cùng cuốn sách, khom người nó và ngân nga hát như gã điên.” Matthew ngừng chút. “Cuốn sách lúc ấy chuyện đáp lại.” “Chú đấy thưa , cháu cũng nghe thấy, mặc dù chẳng hiểu gì.” “Vậy cuốn sách thực sống,” tôi lẩm bẩm. “Và cũng chết nữa,” Gallowglass , chạm vào bìa bọc. “Nó là thứ ma quỷ đồng thời cũng đầy quyền năng.” “Khi Kelley phát ra bọn , ra sức kêu gào và bắt đầu xé các trang sách ra. Lính gác ập vào trước khi kịp tới chỗ , nên phải lựa chọn giữa cuốn sách và Kelley.” Matthew ngập ngừng. “ làm đúng phải ?” “Em nghĩ vậy,” tôi . “Khi em tìm thấy cuốn sách ở , nó bị hỏng rồi. Nhưng có lẽ tìm các trang sách bỏ trốn kia trong tương lai dễ dàng hơn bây giờ.” Phương tiện tra cứu đại và các danh mục thư viện là trợ giúp to lớn vì tôi biết mình tìm kiếm cái gì. “Miễn là các trang sách chưa bị phá hủy,” Matthew . “Nếu trường hợp đó xảy ra…” “Vậy chúng ta bao giờ biết được toàn bộ bí mật của cuốn sách. Cho dù thế nữa, phòng thí nghiệm đại của có thể tiết lộ từ những gì còn lại, để ta biết được nhiều điều hơn chúng ta tưởng tượng lúc mới bắt đầu cuộc truy lùng này.” “Vậy là em sẵn sàng để trở về à?” Matthew hỏi, tia sáng lóe lên trong mắt nhưng làm nó dịu cách nhanh chóng. Là phấn khích ư? Hay khiếp sợ? Tôi gật đầu. “Đến lúc rồi.” *** Chúng tôi bỏ chạy khỏi Praha dưới ánh sáng của những đống lửa hội. Vào dịp lễ Walpurgisnacht, các sinh vật đồng đạo của chúng tôi còn lẩn trốn, họ muốn bị đám người ăn chơi chè chén bắt gặp, đề phòng trường hợp bỗng nhận ra mình bị ném lên giàn hỏa thiêu lúc nào biết. Nước Biển Bắc lạnh cóng nên chỉ thuyền bè lại được, băng tan mùa xuân phá vỡ lớp băng đá ở cảng. Tàu thuyền rời bến đến , thế nên chúng tôi có thể bắt con thuyền mà bị trì hoãn gì. Dù vậy, khi chúng tôi rời khỏi bờ biển châu Âu, thời tiết lại mưa bão. Dưới boong thuyền, tôi tìm thấy Matthew nghiên cứu cuốn sách. phát ra nó được khâu lại bằng những sợi tóc dài. “Dieu,” lẩm bẩm, “thứ này có thể chứa biết bao nhiêu thông tin di truyền nhỉ?” Trước khi tôi kịp ngăn lại, chạm đầu ngón tay út vào lưỡi, và rồi các giọt máu trút xuống từ mái tóc của đứa bé ở trang sách đầu tiên. “Matthew!” Tôi hoảng hốt thốt lên. “Đúng như nghĩ, trong mực có máu. Nếu thế có cơ sở đáng tin để đoán rằng, lá vàng và bạc những bức tranh minh họa này được làm từ xương của các sinh vật khác người.” Con thuyền tròng trành dưới gió khiến dạ dày tôi cũng chao đảo theo. Khi tôi trải qua cơn say sóng, Matthew ôm tôi trong vòng tay, cuốn sách nằm giữa hai chúng tôi, hơi hé mở và những dòng văn bản tìm kiếm chỗ của chúng theo đúng trật tự. “Chúng mình làm gì thế này?” Tôi thầm. “Chúng mình tìm thấy Cây Đời và Cuốn Sách Cuộc Sống, được gói trọn trong thứ.” Matthew áp má lên tóc tôi. “Khi Peter Knox với em, cuốn sách lưu giữ tất cả những câu thần chú khởi nguồn của phù thủy, em bảo ta điên. Em tưởng tượng nổi, có ai lại ngu ngốc đến mức đặt quá nhiều tri thức vào nơi như thế.” rồi tôi chạm vào cuốn sách. “Nhưng cuốn sách này còn chứa đựng nhiều hơn thế - và chúng ta vẫn biết từ ngữ trong đó gì. Nếu nó rơi nhầm vào tay kẻ xấu ở thời đại của chúng ta…” “Nó có thể được dùng để hủy diệt tất cả chúng ta.” Matthew nốt. Tôi ngước lên nhìn . “Vậy chúng ta làm gì với nó đây? Mang nó về tương lai cùng chúng ta hay để nó lại đây?” “ biết, mon coeur.” ôm tôi sát lại gần hơn, bóp nghẹt tiếng gió bão khi nó quất vào thân thuyền. “Nhưng có thể cuốn sách này nắm giữ chìa khóa cho tất cả thắc mắc của .” Tôi ngạc nhiên rằng, giờ đây, Matthew có thể tách nó ra để biết nó chứa đựng những gì bên trong. “ phải tất cả,” . “Có câu hỏi chỉ duy nhất em mới có thể trả lời.” “Là gì cơ?” Tôi cau mày hỏi. “Em say sóng hay có mang vậy?” Ánh mắt Matthew nặng nề và dậy bão như bầu trời ngoài kia, cùng với những tia chớp lóe lên sáng rực. “ biết hơn em mà.” Chúng tôi làm tình mới chỉ có mấy ngày trước nhưng ngay sau đó, tôi nhận ra kinh nguyệt của mình bị chậm. “ trông thấy đứa bé trong máu của em hay vẫn chưa nghe thấy nhịp tim của nó, chỉ nhận thấy mùi hương của em có thay đổi. nhớ nó từ lần cuối cùng ấy. Em thể nào có thai hơn vài tuần được.” “Em nghĩ, mình mang thai khiến vui vẻ hơn việc giữ rịt quyển sách ở bên cạnh cơ.” “Có lẽ các câu hỏi của cần lời giải đáp khẩn cấp như tưởng.” Để chứng minh quan điểm của mình, Matthew đặt cuốn sách xuống sàn, khuất khỏi tầm nhìn. “ nghĩ, nó cho biết mình là ai và tại sao lại ở đây. Có lẽ biết rồi.” Tôi đợi giải thích. “Sau tất cả những việc tìm kiếm và tra cứu, phát ra rằng, vẫn luôn là chính : Matthew de Clermont. người chồng. người cha. ma cà rồng. Và ở đây vì lý do duy nhất: Để làm nên khác biệt.” 33. Peter Knox di chuyển lắt léo để tránh những vũng nước đọng trong sân tòa Tu Viện Strahov ở Praha. ta trong chuyến chu du vào mùa xuân hàng năm, vòng quanh các thư viện ở vùng trung tâm và Đông Âu. Khi mức du khách và học giả ít nhất, Knox hết kho chứa cũ kỹ này tới kho chứa cũ kỹ khác để đảm bảo có rủi ro gì xuất trong mười hai tháng qua có thể là nguyên nhân gây nên rắc rối cho Đại Hội Đồng – hay cho chính . Trong mỗi thư viện, có người đưa tin đáng tin cậy, nhân viên có vị trí đủ cao để có quyền tự do đến gần các cuốn sách và cổ thư, nhưng quá cao để sau đó có thể đưa ra cầu chống đối với những thành viên đức cao vọng trọng của thư viện, mà chỉ đơn giản là… biến mất mãi mãi. Knox thường xuyên tiến hành những chuyến viếng thăm như thế này, kể từ khi hoàn thành học vị tiến sĩ và bắt đầu làm việc cho Đại Hội Đồng. Rất nhiều thứ thay đổi kể từ Thế Chiến II và cấu trúc điều hành của Đại Hội Đồng cũng điều chỉnh để theo kịp thời đại. Cùng với cuộc cách mạng giao thông vận tải vào thế kỷ mười chín, tàu hỏa và đường bộ đưa đến phong cách cai quản mới, mỗi loài tự kiểm soát đồng loại của mình chứ phải giám sát theo vị trí địa lý nữa. Điều đó nghĩa là có rất nhiều chuyến xa và thư từ viết tay, cả hai hình thức đều có thể được thực trong Kỷ Nguyên Hơi Nước. Philippe de Clermont ứng dụng đại hóa vào hoạt động điều hành của Đại Hội Đồng, mặc dù Knox vẫn nghi ngờ suốt thời gian dài rằng, Phillippe làm thế là để bảo vệ các bí mật của ma cà rồng hơn là thúc đẩy tiến bộ. Rồi sau đó, các cuộc chiến tranh thế giới làm gián đoạn thông tin liên lạc và mạng lưới giao thông, Đại Hội Đồng quay trở lại với cách thức hoạt động cũ. Tình thế đó phá vỡ thế giới thành nhiều lát cắt hợp lý hơn là để từng vùng theo dõi chéo cá nhân cụ thể nào đó bị tố cáo là có hành vi sai trái. ai dám đề nghị thay đổi triệt để như vậy khi Philippe còn sống. May mắn thay, người đứng đầu tiền nhiệm của nhà de Clermont còn quanh quẩn ở đó để chống đối nữa. Mạng internet và e-mail đe dọa khiến cho những chuyến như thế này trở nên cần thiết, nhưng Knox thích truyền thống. Tai mắt cài cắm của Knox ở Thư Viện Strahov là người đàn ông trung niên có tên Pavel Skovajsa. Toàn thân ông ta rặt màu nâu, trông như tờ giấy ố màu, đeo cặp kính từ thời Cộng Sản mà ông ta nhất quyết thay, mặc dù cố chấp miễn cưỡng ấy là vì lý do lịch sử hay tình cảm cá nhân. Như thường lệ, hai người đàn ông gặp nhau ở nhà máy bia của tu viện, nơi đặt những chiếc bể chứa bằng đồng phát ra ánh sáng yếu ớt và làm ra loại bia màu hổ phách tuyệt hảo, được đặt theo tên của Thánh Norbert, người an nghỉ ở nơi gần đó. Nhưng năm nay, Skovajsa thực tìm thấy thứ gì đó. “Đó là lá thư bằng tiếng Do Thái cổ,” Skovajsa hạ giọng thầm điện thoại. Ông ta nghi ngờ công nghệ mới, có điện thoại cầm tay và ghét cay ghét đắng e-mail. Đó là lý do ông ta được thuê để làm việc trong phòng lưu trữ, nơi mà phong cách tiếp cận với tri thức của ông ta làm chậm tiến trình hướng tới đại hóa của thư viện. “Tại sao ông lại thà thầm thế hả Pavel?” Knox bực bội hỏi. Rắc rối duy nhất với Skovajsa là lão ta thích nghĩ mình là gián điệp được đẽo gọt từ băng đá của thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Kết quả là lão hơi có chút hoang tưởng. “Bởi vì tôi tách rời quyển sách ra để lấy được nó, ai đó giấu nó bên dưới những trang cuối cùng ở bản in cuốn De Arte Cabalistica của Johannes Reuchlin,” Skovajsa giải thích, phấn khích của lão tăng lên. Knox nhìn đồng hồ đeo tay, còn quá sớm nên lão chắc chưa nốc cà phê. “Ông phải đến đây ngay. Nó đề cập đến giả kim thuật và người đàn ông xứ đó làm việc cho Rudolf II. Có lẽ nó quan trọng đấy.” Knox sắp lên chuyến bay kế tiếp rời khỏi Berlin. Và giờ Skovajsa lôi đến căn phòng u ám, cáu bẩn, dưới tầng trệt của thư viện, được chiếu sáng bằng độc bóng đèn trần leo lét. “Có nơi nào thoải mái hơn để chúng ta bàn công việc ?” Knox hỏi, mắt nhìn chiếc bàn kim loại (cũng từ thời Cộng Sản) với vẻ nghi ngại. “Đó là món ragu à?” chỉ vào vết bẩn dính mặt bàn. “Tai vách mạch rừng, sàn nhà cũng có mắt đấy.” Skovajsa chùi vết bẩn bằng viền chiếc áo len nâu của lão. “Ở đây chúng ta an toàn hơn. Ngồi , để tôi mang lá thư tới cho ông.” “Cả cuốn sách nữa,” Knox cộc lốc. Skovajsa quay lại, ngạc nhiên trước giọng điệu của . “Vâng, dĩ nhiên rồi, cả cuốn sách nữa.” “Đó phải là Nghệ Thuật của Kabbalah,” Knox khi Skovajsa quay trở lại. Mỗi lúc trôi qua, càng lúc càng bực bội hơn. Cuốn sách của Johannes Reuchlin mỏng và trang nhã, vật kỳ quái này phải có tới gần tám trăm trang. Khi đập nó xuống bàn, lực tác động rung suốt từ xuống dưới chân chiếc bàn kim loại. “ hẳn thế,” Skovajsa chống chế . “Nó là cuốn De Arcanis Catholicae Veritatis của Galatino, nhưng phần Reuchlin viết có trong đó.” Cách tiếp cận chi tiết và chính xác các thư mục là trong những căn bệnh thâm căn của Knox. “Trang tựa đề sách có những lời đề tặng bằng tiếng Do Thái Cổ, La tinh và tiếng Pháp.” Skovajsa lật toang trang bìa cuốn sách. Vì chẳng có gì chống đỡ cho gáy của cuốn sách lớn này, nên Knox ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng rắc xui xẻo. nhìn Skovajsa vẻ lo lắng. “Đừng lo,” nhân viên kỳ cựu làm công việc bảo quản sách trấn an , “nó nằm trong danh mục. Tôi chỉ phát ra nó vì nó được xếp cạnh bản in khác giá của chúng tôi thôi. Cuốn sách đó chuẩn bị được đưa ra để đóng lại. Có lẽ nó lưu lạc đến đây do nhầm lẫn khi các cuốn sách của chúng tôi được mang trở lại vào năm 1989.” Knox nghiêm túc kiểm tra trang đề tựa và những lời đề tặng của nó. ללש קלחי ברעלו דע לכאי רקבב ףרטי באז ןימינב Genesis 49:27 Beniamin lupus rapax mane comedet praedam et vespere dividet spolia. Benjamin est un loup qui déchire; au matin il dévore la proie, et sur le soir il partage le butin. “Đó là bàn tay già nua, đúng nhỉ? Và chủ nhân của nó ràng rất có giáo dục,” Skovajsa . “Benjamin cắn xé như con sói: buổi sáng nuốt chửng con mồi, còn ban đêm chia của cướp được,” Knox ngâm nga đọc và thấy những vần thơ này có gì liên quan với De Arcanis. Tác phẩm của Galatino là phát đạn khai hỏa cho cuộc chiến của Nhà Thờ Công Giáo chống lại đạo thần bí của người Do Thái – cũng cuộc chiến tranh đó dẫn tới việc thiêu hủy sách, các thủ tục thẩm tra và những cuộc săn lùng phù thủy vào thế kỷ mười sáu. Địa vị của Galatino có được nhờ vào lời tựa của ông ta: Xem xét các bí mật về của vũ trụ. Nhân việc cao hứng nhào nặn tư duy, Galatino tranh luận rằng, người Do Thái dự đoán được các giáo thuyết Ki Tô giáo và nghiên cứu về phép thần thông có thể giúp cho những nỗ lực của Thiên Chúa giáo nhằm chuyển đổi người Do Thái sang đức tin chân chính. “Có lẽ tên chủ nhân của cuốn sách này là Benjamin?” Skovajsa ngoái nhìn qua vai và chuyển cho Knox tệp tài liệu. Knox vui mừng thấy nó bị đóng dấu TUYỆT MẬT bằng chữ cái đỏ. “Và đây là lá thư. Tôi biết tiếng Do Thái cổ, nhưng cái tên Edwardus Kellaeus và giả kim thuật – alchymia – được viết bằng tiếng La tinh.” Knox lật trang sách ra. nằm mơ, hẳn phải thế rồi. Lá thư này đề ngày mùng hai tháng Elul 5369 – tức ngày 1 tháng Chín năm 1609 theo niên lịch Công Giáo. Và nó được ký tên Yehuda ben Bezalel, người đàn ông được biết đến nhiều nhất dưới cái tên Rabbi Judah Loew. “Ông biết tiếng Hebrew phải ?” Skovajsa . “Đúng thế.” Lần này đến lượt Knox thầm. “Đúng thế,” lặp lại mạnh mẽ hơn và nhìn chằm chằm vào lá thư. “Vậy à?” Skovajsa sau gần phút im lặng trôi qua. “Nó gì vậy?” “Có vẻ như người Do Thái ở Praha gặp Edward Kelley và viết thư cho người bạn để kể về chuyện đó.” Đó là – theo cách nào đấy. “Cầu chúc cuộc sống dài lâu và bình yên cho , Benjamin, con trai của Gabriel, bạn dấu,” Rabbi Loew viết. *** Tôi nhận được thư của gửi từ thành phố nơi tôi chôn nhau cắt rốn với niềm vui mừng khôn tả. Poznań hợp với hơn Hungary, nơi chẳng có gì chờ đợi ngoài thống khổ. Mặc dù tôi là ông lão, nhưng lá thư của gợi lại cho tôi cách ràng những kiện kỳ lạ xảy ra vào mùa xuân năm 5351, khi Edwardus Kellaeus, nhà nghiên cứu giả kim thuật và là sủng thần của hoàng đế, đến gặp tôi. ta mê sảng lải nhải về người đàn ông mà giết và chuyện lính gác của hoàng đế chẳng mấy chốc bắt vì tội giết người và mưu phản. tiên đoán trước về cái chết của mình và gào khóc, “tôi bị đày đọa như thiên thần rơi vào địa ngục.” cũng về cuốn sách mà tìm kiếm, thứ bị đánh cắp từ hoàng đế Rudolf, như biết. Đôi khi Kellaeus gọi nó là Cuốn Sách Sáng Thế và có lúc là Cuốn Sách Cuộc Sống. Kellaeus khóc sướt mướt, rằng tận thế ở trước mắt chúng ta. cứ nhắc nhắc lại những câu quái gở, chẳng hạn như “Tất cả bắt đầu từ thiếu vắng và nỗi thèm khát,” “Tất cả bắt đầu với máu và nỗi sợ hãi,” “Tất cả bắt đầu với khám phá về loài phù thủy,” và cứ mãi. Trong điên loạn, thậm chí, Kellaeus xé ba trang từ Cuốn Sách Cuộc Sống này, trước khi nó bị lấy ở chỗ hoàng đế. để lại trang cho tôi. Kellaeus cũng kể cho tôi biết, ai là người tặng những trang sách kia mà chỉ cách khó hiểu về thiên thần chết chóc cùng thiên thần sống. Than ôi, tôi biết cuốn sách giờ ở nơi nào, tôi cũng còn giữ trang sách xé ra từ đó nữa mà tặng cho Abraham be Elijah để bảo quản nó an toàn. Ông ấy chết trong trận dịch hạch và trang sách có thể mất vĩnh viễn. Người duy nhất có thể hé lộ ánh sáng bí mật này chính là người tạo ra . Có lẽ hứng thú chữa lại cuốn sách bị hư hỏng này của mở rộng thành việc chữa lành những thiếu sót trong di truyền nòi giống của , giúp có thể tìm thấy bình yên bên người Cha cho cuộc sống và hơi thở. Cầu Chúa canh giữ cho linh hồn , gửi tới lòng mến từ người bạn Yehuda của thành phố thần thánh Praha, con trai của Bezalel, ngày 2 tháng Elul 5369. “Đó là tất cả ư?” Skovajsa sau khoảng ngừng lâu. “Nó chỉ về cuộc gặp mặt thôi ư?” “Về bản chất là thế.” Knox làm loạt tính toán chớp nhoáng mặt sau của tập thư mục. Loew chết năm 1609, Kelley đến thăm ông ta vào mười tám năm trước, mùa xuân năm 1591. lục tìm túi áo lấy điện thoại và nhìn vào màn hình với vẻ ghê tởm. “Ở đây bắt được sóng à?” “Chúng ta ở dưới lòng đất,” Skovajsa , nhún vai chỉ về phía mấy bức tường dày chắc chắn. “Vậy là tôi đúng khi kể với ông về thứ này à?” Lão liếm môi vẻ chờ mong. “Ông làm tốt lắm, Pavel. Tôi lấy bức thư này và quyển sách.” Chúng là những món duy nhất Knox lấy từ thư viện Strahov. “Tốt thôi. Tôi nghĩ nó xứng đáng với thời gian của ông, những thứ đề cập đến giả kim thuật.” Pavel cười nhăn nhở. Chuyện xảy ra tiếp theo đáng tiếc. Skovajsa bất hạnh, sau nhiều năm cắm trụ, thành công trong việc tìm được thứ đáng giá cho Knox, chỉ bằng vài tiếng thầm và cử chỉ , Knox chắc chắn rằng, Pavel bao giờ có thể chia sẻ những gì lão thấy với sinh vật khác nữa. Knox giết lão vì những lý do đạo đức và tình cảm. Giết chóc là phản ứng của ma cà rồng, như biết từ việc tìm thấy Gillian Chamberlain bị dựng đứng tựa vào cửa phòng tại khách sạn Randolph mùa thu vừa rồi. Là phù thủy, đơn giản, chỉ việc thả cho cục máu đông sẵn trong bắp đùi Skovajsa tự do di chuyển lên não của lão. khi ở đó, nó gây ra cơn đột quỵ. mất vài giờ trước khi có người tìm thấy lão, và khi đó quá muộn để có kết quả tốt lành. Knox quay trở về chỗ chiếc ô tô thuê cùng với cuốn sách sánh ngang với kinh thánh và lá thư được kẹp chặt an toàn dưới cánh tay. Khi đến đủ xa khỏi những rắc rối ở Strahov, táp vào vệ đường và lấy lá thư ra bằng hai bàn tay run lẩy bẩy. Mọi điều Đại Hội Đồng biết về cuốn sách bí của khởi nguyên – Ashmole 782 – là dựa những mẩu manh mối như thế này, bất cứ phát mới nào đều làm tăng thêm rất nhiều hiểu biết cho bọn họ. Và lá thư này còn chứa đựng nhiều hơn đoạn miêu tả ngắn gọn về cuốn sách cùng vài manh mối úp úp mở mở về quan trọng của nó. Ở đây có tên tuổi, ngày tháng và tiết lộ đáng kinh ngạc rằng, cuốn sách Diana Bishop xem ở Oxford bị thất lạc mất ba trang. Knox xem lướt qua lá thư lần nữa. muốn biết nhiều hơn nữa – để chắt lọc mọi thông tin hữu ích tiềm từ nó. Lần này, những câu từ chắc chắn là nghĩa: thiếu sót trong di truyền nòi giống của ; người Cha cho cuộc sống và hơi thở; người tạo ra . Lần đầu tiên đọc, Knox cho rằng Loew về Chúa, nhưng đến lần thứ hai, đến kết luận hoàn toàn khác. Knox nhấc điện thoại và bấm con số duy nhất. “Oui.” “Ai là Benjamin be Gabriel?” Knox hỏi độp ngay. khoảng im lặng hoàn toàn. “Chào Peter,” giọng Gerbert xứ Aurillac cất lên. Bàn tay rảnh rỗi của Knox co lại thành nắm đấm trước lời đáp trả ôn tồn kia – phản ứng quá điển hình đối với những ma cà rồng trong Đại Hội Đồng. Chúng chuyện về chân thành và hợp tác, nhưng chúng sống quá lâu và biết quá nhiều. Giống như tất cả những con dã thú săn mồi, chúng hề vui vẻ khi chia sẻ những miếng mồi săn được. “Benjamin ngấu nghiến như con sói. Tôi biết Benjamin ben Gabriel là ma cà rồng. là ai?” “Chẳng quan trọng đâu.” “Ông biết chuyện gì xảy ra ở Praha vào năm 1591 ?” Knox gặng hỏi. “Rất nhiều chuyện, nhưng ông bạn thể hy vọng tôi thuật lại từng kiện, như thầy giáo dạy lịch sử được.” Knox nghe thấy rung động trong giọng của Gerbert, điều mà chỉ người hiểu gã ma cà rồng mới nắm bắt được. Gerbert, tên ma cà rồng đáng kính bao giờ lỡ lời, bồn chồn lo lắng. “Trợ lý của tiến sĩ Dee, Edward Kelley, có mặt ở thành phố này năm 1591.” “Chúng tôi biết chuyện này trước đây. Đó là . Đại Hội Đồng từng tin rằng, Ashmole 782 có thể nằm trong thư viện của Dee, nhưng tôi gặp Edward Kelley ở Praha, khi những nghi ngờ đó lần đầu được khơi lên vào mùa xuân năm 1586. Tiến sĩ Dee có cuốn sách đầy những hình ảnh nhưng nó phải của chúng ta. Sau đó, chúng tôi lần theo mọi thứ có xuất xứ từ thư viện của Dee để chắc chắn. Như vậy, Elias Ashmole sở hữu cuốn cổ thư thông qua Dee hay Kelley.” “Ông sai rồi, Kelley có cuốn sách vào tháng Năm năm 1590.” Knox ngừng chút. “Và xé nó. Cuốn sách Diana Bishop thấy ở Oxford bị thất lạc ba trang.” “Ông biết gì Peter?” Gerbert lạnh lùng hỏi. “Ông biết gì hả Gerbert?” Knox thích gã ma cà rồng này, nhưng bọn họ là đồng minh nhiều năm. Cả hai gã đàn ông đều hiểu rằng, biến cố thay đổi lớn sắp xảy ra cho thế giới. Hậu quả là có người thắng kẻ thua, kẻ nào muốn bị gạt ra ngoài. “Benjamin be Gabriel là con trai của Matthew Clairmont,” Gerbert miễn cưỡng . “Con trai ?” Knox điếng người lặp lại. Benjamin de Clermont nằm bảng phả hệ ma cà rồng trau truốt nào mà Đại Hội Đồng lưu giữ. “Đúng, nhưng Benjamin chối bỏ dòng máu của mình. Đó phải chuyện mà ma cà rồng làm được cách nhàng đâu, vì các thành viên còn lại của gia tộc có thể giết chết để bảo vệ những bí mật của họ. Matthew cấm bất cứ người de Clermont nào tước đoạt sống của con trai và ai còn thấy tung tích của Benjamin kể từ thế kỷ mười chín, khi biến mất ở Jerusalem.” Đoạn kết vượt ra khỏi thế giới của Knox. Matthew Clairmont được phép có Ashmole 782, thể - nếu nó nắm giữ toàn bộ tri thức cốt lõi nhất của loài phù thủy. “Vậy chúng ta sắp phải tìm rồi,” Knox dứt khoát, “bởi vì theo như lá thư này, Edward Kelley xé ra ba trang sách. trang tặng Rabbi Loew, người chuyển nó cho kẻ nào đấy tên Abraham be Elijah của Chelm.” “Abraham be Elijah thời từng là phù thủy rất quyền năng. Loài các ông biết gì về lịch sử của chính mình sao?” “Chúng tôi biết rằng được tin tưởng ma cà rồng. Tôi luôn gạt bỏ định kiến đó coi nó như thói đạo đức giả, nhưng phải là lịch sử, giờ tôi dám chắc nữa.” Knox ngừng lát. “Loew bảo Benjamin hỏi xin giúp đỡ của cha . Tôi biết nhà de Clermont giấu giếm điều gì đó. Chúng ta phải tìm ra Benjamin de Clermont và khiến cho chúng ta biết những gì – và cha – biết về Ashmole 782.” “Benjamin de Clermont là gã trai trẻ thất thường, bị hành hạ khổ sở vì cùng căn bệnh mà chị Louisa của Matthew mắc phải.” Ma cà rồng gọi nó là bệnh cuồng máu, và Đại Hội Đồng băn khoăn liệu căn bệnh này có phần nào liên quan tới cơn bệnh mới hành hạ loài ma cà rồng hay – nó dẫn tới cái chết của rất nhiều sinh vật máu nóng sau khi các ma cà rồng thất bại trong nỗ lực tạo ra ma cà rồng mới. “Nếu có ba trang sách bị mất từ Ashmole 782, chúng ta tìm thấy chúng mà cần giúp đỡ của , cách đó tốt hơn.” “, đến lúc loài ma cà rồng phải mang các bí mật của chúng ra rồi.” Knox biết thành công hay thất bại của kế hoạch có lẽ phụ thuộc cả vào cái nhánh vững chắc của cây phả hệ nhà de Clermont này. nhìn lá thư lần nữa. Loew rằng ông ta chỉ muốn Benjamin chữa lành cuốn sách mà còn cả mối quan hệ với gia đình . Matthew Clairmont có thể biết về vụ này nhiều hơn là chúng từng nghi ngờ. “Tôi cho là ông muốn ngược thời gian tới Praha thời Rudolphine ngay bây giờ để tìm kiếm Edward Kelley,” Gerbert gầm gừ, cố kìm tiếng thở dài nôn nóng. Loài phù thủy có thể rất bốc đồng. “Ngược lại là khác, tôi tới Sept-Tours.” Gerbert cười khẩy. Gây sóng gió ở lâu đài của gia tộc de Clermont là ý tưởng còn nực cười hơn quay trở về quá khứ. “Chuyện đó dù có hấp dẫn đến mấy cũng chẳng khôn ngoan chút nào. Baldwin mắt nhắm mắt mở cho qua chỉ vì mối bất hòa giữa và Matthew.” Theo như Gerbert còn nhớ, chiến lược thất bại duy nhất của Philippe đấy là việc trao dòng tu Hiệp Sĩ Thánh Lazarus cho Matthew chứ phải người con trai lớn vẫn luôn nghĩ được quyền thừa kế vị trí ấy. “Hơn nữa, Benjamin còn coi bản thân là người nhà de Clermont – và nhà de Clermont tin là trong số chúng. Sept-Tours mới là nơi cuối cùng chúng ta nên tìm .” “Theo như tất cả những gì chúng ta biết, Matthew de Clermont có được trong các trang sách bị mất từ nhiều thế kỷ nay. Cuốn sách có tác dụng gì với chúng ta nếu nó hoàn chỉnh. Hơn nữa, đến lúc ma cà rồng đó phải trả giá cho những tội lỗi của – và cho cả cha mẹ nữa.” Bọn chúng phải cùng nhau chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng ngàn phù thủy. Hãy để loài ma cà rồng lo việc xoa dịu Baldwin. Công lý đứng về phía Knox. “Đừng quên tội lỗi của người tình ,” Gerbert , giọng lão hằn học. “Tôi mất Julliette. Diana Bishop nợ tôi sống mà ả tước .” “Vậy là ông giúp tôi?” Bằng cách nào Knox chẳng quan tâm, dẫn nhóm phù thủy bất ngờ đột kích tấn công nhà de Clermont hùng hậu trước cuối tuần này, cho dù có giúp đỡ của Gerbert hay . “Phải,” Gerbert miễn cưỡng đồng ý. “Ông biết đấy, bọn chúng đều tụ họp về đó cả, phù thủy, ma cà rồng, thậm chí còn có vài tinh nữa. Chúng tự gọi là Đại Hội Đồng Ngầm. Marcus gửi thông điệp tới các ma cà rồng ở Đại Hội Đồng cầu bãi bỏ hiệp ước.” “Những điều đó có nghĩa là…” “Tận thế của chúng ta,” Gerbert nốt hộ .
Phần V. London: Blackfriars 34. “Ngươi làm ta thất vọng!” chiếc giày Damask lụa màu đỏ phóng qua trung. Matthew nghiêng đầu tránh kịp, chiếc giày sượt qua tai va vào chiếc bàn đặt mô hình các thiên thể làm bằng đá quý, rồi nằm yên sàn nhà. Hai vòng tròn liên động của khối cầu xoay tít vòng quanh các thiên thể cố định của chúng. “Ta muốn Kelley, đồ ngu. Thay vào đó, ta lại nhận được sứ giả của hoàng đế, kẻ kể với ta về những sai lầm thiếu khôn ngoan của ngươi. Khi cầu gặp ta vẫn còn chưa đến tám giờ và mặt trời vừa mới ló rạng.” Elizabeth Tudor khổ sở vì đau răng nên càng chẳng cải thiện được tính khí của bà ta. Bà ta phồng bên má để làm dịu cơn đau răng hàm và mặt mày nhăn nhó. “Còn ngươi ở đâu? Bò trở lại trước mặt ta mà thèm quan tâm tới đau đớn ta phải chịu đựng.” người đẹp mắt xanh bước lên dâng cho nữ hoàng bệ hạ miếng vải tẩm dầu ô liu. Mùi cay nồng trong căn phòng bị chàng Matthew sôi sục ngay bên cạnh tôi áp đảo. Elizabeth cẩn thận đặt miếng vải giữa má và nướu răng. Người phụ nữ kia ra, chiếc váy dài màu xanh quấn quanh mắt cá chân của nàng ta - sắc màu lạc quan cho ngày tháng Năm nhiều mây như thế này, như thể nàng hy vọng mùa hè mau đến. Căn phòng trong tòa tháp bốn tầng ở cung điện Greenwich có tầm nhìn rộng bao quát khắp dòng sông xám xịt, vùng đất đầy bùn bẩn và bầu trời vần vũ của nước . Mặc dù có nhiều cửa sổ nhưng ánh sáng bàng bạc vào buổi sớm nay vẫn chẳng xua tan được bầu khí nặng nề của căn phòng này, nơi các đồ dùng nội thất mang đầy nét nam tính và phong cách nhà Tudor. Những chữ cái đầu tên được khắc trần nhà – chữ H và chữ A bện xoắn vào nhau, chữ viết tắt của Henry VIII và Anne Boleyn – cho thấy căn phòng này được trang hoàng vào khoảng thời gian Elizabeth sinh ra, nhưng hiếm khi được sử dụng từ ngày đó. “Có lẽ chúng ta nên nghe ông Roydon trước khi người ném cái lọ mực đó,” William Cecil ôn tồn gợi ý. Cánh tay Elizabeth khựng lại, nhưng bà ta để món đồ kim loại nặng trịch ấy xuống. “Chúng thần có tin tức của Kelley,” tôi bắt đầu lên tiếng, hy vọng giúp ích được phần nào. “Chúng ta cần ý kiến của bà, bà Roydon ạ,” nữ hoàng nước cộc cằn . “Giống như đám đàn bà trong vương triều của ta, bà chẳng có chút lễ phép, đoan trang nào cả. Nếu bà muốn lưu lại Greenwich với chồng hơn là bị gửi về Woodstock đó của mình, hãy khôn ngoan bắt chước theo hình mẫu của bà Throckmorton đây. Bà ta lời nào trừ phi được lệnh.” Bà Throckmorton liếc nhìn Walter, người đứng cạnh Matthew. Chúng tôi gặp ta cầu thang dẫn tới phòng riêng của nữ hoàng, và mặc dù Matthew từ chối, nhưng Walter vẫn khăng khăng đồng hành cùng chúng tôi vào hang sư tử. Đôi môi của Bess mím chặt như để cố gắng kìm nén thích thú, nhưng ánh mắt vẫn long lanh nhảy nhót. Thực tế là người đẹp trẻ trung, hấp dẫn, bị giam cầm của nữ hoàng và tay cướp biển ủ ê ưa chưng diện của bà liếc mắt đưa tình với nhau rành rành trước mắt mọi người, ngoại trừ Elizabeth. Thần Cupid thành công trong việc đánh bẫy được ngài Walter Raleigh, y như Matthew tiên đoán rằng người đàn ông này hoàn toàn u mê. Khóe miệng Walter dịu dàng cong lên trước cái nhìn say đắm, thách thức của người tình. Ánh mắt mãnh liệt ta đáp lại hứa hẹn rằng chủ đề đúng mực và đoan trang của nàng được giải quyết trong địa điểm riêng tư hơn. “Vì người cầu diện của Diana nên có lẽ người cho phép vợ thần được về nhà nghỉ ngơi,” Matthew điềm đạm , dù ánh mắt đen thẫm lại và giận dữ chẳng kém gì nữ hoàng. “ ấy di chuyển suốt mấy tuần lễ rồi.” Thuyền hoàng gia chặn chúng tôi lại trước cả khi chúng tôi kịp đặt chân lên Blackfriars. “Nghỉ ngơi cơ đấy! Ta còn chẳng ngủ ngon được đêm nào kể từ khi các ngươi phiêu lưu ở Praha. ta được nghỉ ngơi khi ta xong việc với ngươi!” Elizabeth hét lên trong khi lọ mực cũng tiếp bước theo đường của chiếc hài hoàng gia. Khi nó đổi hướng về phía tôi giống như đường bóng vòng cung bứt phá cuối cùng, Matthew đưa tay ra bắt. lời, chuyền nó sang cho Raleigh, chàng này ném nó lại cho tên hầu vốn giữ chiếc giày của nữ hoàng. “ khó thay thế ông Roydon hơn rất nhiều so với món đồ chơi thiên văn đó, thưa bệ hạ.” Cecil đưa ra cái đệm có thêu hoa văn. “Có lẽ người cân nhắc lại chuyện này nếu người cần thêm lý lẽ.” “Đừng có nghĩ đến chuyện chỉ đạo ta, Đức ngài Burghley!” Nữ hoàng tức bốc khói và quay ra trút cơn giận dữ vào Matthew. “Ngay cả Sebastian St. Clair cũng đối xử với cha ta như thế, ông ta dám trêu chọc con sư tử Tudor.” Bess Throckmorton chớp chớp mắt trước cái tên xa lạ này. Mái đầu vàng óng ả của nàng ta quay từ Walter sang nữ hoàng, giống như đóa thủy tiên vàng đầu xuân kiếm tìm nắng sớm. Cecil ho trước biểu bối rối ràng của người phụ nữ trẻ. “Chúng ta hãy tưởng nhớ người cha đáng kính của người vào thời điểm khác thích hợp với hồi ức về người hơn. Bệ hạ có gì để hỏi ông Roydon sao?” Viên thư ký của nữ hoàng nhìn Matthew với vẻ tiếc nuối. Vẻ mặt ông ta dường như thách thức. Ngươi thích con quỷ nào hơn? “Ngươi đúng, William, đùa giỡn với chuột và đám sinh vật tầm thường phải là bản tính của sư tử.” Thái độ khinh thị của nữ hoàng như muốn át vía Matthew. Thấy vậy tỏ vẻ ăn năn – dù các thớ thịt giần giật nơi quai hàm , khiến tôi băn khoăn biết ăn năn hối hận ấy của chân thành được bao nhiêu – nữ hoàng phải mất lúc để trấn tĩnh lại trong khi hai bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay ghế đến trắng bệch. “Ta ước gì biết được làm thế nào mà Cái Bóng của ta xử lý vấn đề tệ đến thế.” Giọng bà ta chuyển sang ai oán. “Hoàng đế có vô số nhà giả kim nên ông ta chẳng cần nhà giả kim của ta đâu.” Hai vai Walter hơi thả lỏng, còn Cecil buông tiếng thở dài nhõm. Nếu nữ hoàng gọi Matthew bằng tên thân mật của có nghĩa là cơn giận dữ của bà dịu dần. “Edward Kelley dễ bị nhổ ra khỏi vương triều của hoàng đế như cọng cỏ dại lơ thơ đâu, dù có bao nhiêu hoa hồng mọc ở đó chăng nữa,” Matthew . “Rudolf đánh giá quá cao.” “Vậy là cuối cùng Kelley cũng thành công, đá tạo vàng nằm trong tay ,” Elizabeth kèm theo tiếng hít mạnh. Bà ta ôm chặt lấy bên mặt khi khí rít qua kẽ răng đau ê buốt. “, chưa đâu – đó mới là điểm chính yếu. Chừng nào Kelley còn thừa thãi lời hứa hẹn, Rudolf bao giờ rời khỏi . Hoàng đế cư xử như thanh niên mới lớn hơn là quốc vương dày dạn và bị những thứ thể có được mê hoặc. Hoàng đế bệ hạ thích việc đeo đuổi mục tiêu. Ông ta mơ mộng cả ngày.” Matthew bình thản . Những cánh đồng ướt đẫm và những con sông mênh mông của châu Âu đưa chúng tôi cách xa Rudolf II, nhưng có những lúc, tôi như vẫn cảm thấy đụng chạm khiếm nhã cùng ánh mắt tham lam của ông ta. Mặc dù khí trời tháng Năm ấm áp và lửa cháy đượm trong lò sưởi, tôi vẫn cứ rùng mình. “Viên đại sứ ở Pháp báo rằng, Kelley chuyển được đồng thành vàng rồi.” “Philippe de Mornay cũng chẳng đáng tin hơn sứ thần tiền nhiệm của người – theo thần nhớ, từng nỗ lực ám sát người.” Giọng Matthew cân bằng hoàn hảo giữa khúm núm và cáu kỉnh. Elizabeth lại được cả đôi. “Ông chế giễu ta đấy hả Roydon?” “Thần bao giờ trêu chọc con sư tử - dù là chú sư tử con,” Matthew dài giọng. Walter nhắm tịt mắt lại như thể chịu nổi, khi phải chứng kiến phá hủy tất yếu do những lời Matthew ra. “Thần khổ sở lĩnh giáo điều đó sau lần đối đầu như thế và hề muốn gây chiến với người đẹp của mình thêm nữa, vì sợ rằng người có thể còn muốn trông thấy thần.” khoảng lặng choáng váng kéo theo, rồi cuối cùng bị phá vỡ bởi tiếng cười rống, chẳng chút phong thái thanh tao, quý phái nào. Walter choàng mở mắt. “Ông nhận được những gì xứng đáng khi lén lút với hầu trẻ trong lúc ả may vá,” Elizabeth , giọng điệu nghe có vẻ nuông chiều. Tôi khẽ lắc đầu, có phải chính tai tôi nghe thấy những điều này ? “Thần giữ chuyện đó trong thâm tâm thôi, thưa bệ hạ. Thần có nên tình cờ làm thế với nàng sư tử khác cùng chiếc kéo làm vườn sắc lẻm của ta ?” Walter và tôi giờ cũng lúng túng như Bess, chỉ có Matthew, Elizabeth và Cecil dường như hiểu đến chuyện gì. “Cho dù khi đó, ông là Cái Bóng của ta.” Cái nhìn Elizabeth dành cho Matthew ngây thơ như , còn là quý bà to béo gần sáu mươi tuổi nữa. Rồi trong chớp mắt, bà ta lại thành nữ vương mệt mỏi và có tuổi. “Để chúng ta lại với nhau.” “Thưa… bệ hạ?” Bess lắp bắp. “Ta muốn chuyện riêng với ông Roydon nhưng ta cho là ông ấy cho phép bà vợ năng bừa bãi ra khỏi tầm mắt của mình đâu, nên bà ta có thể ở lại. Hãy đợi ta trong phòng kín, Walter và đưa Bess cùng ông. Chúng ta đến gặp các vị ngay thôi.” “Nhưng…” Bess phản đối. ta có vẻ bồn chồn lo lắng vì cận kề nữ hoàng là công việc của nên khi có lễ nghi dẫn dắt, thấy mình như lọt vào biển cả, biết đâu là bờ. “Thay vào đó, bà phải giúp tôi, bà Throckmorton.” Cecil khổ sở từ chỗ nữ hoàng bước , dưới trợ giúp của cây gậy nặng nề. Khi qua Matthew, Cecil đưa mắt nhìn nghiêm nghị. “Chúng thần để ông Roydon từ biệt bệ hạ.” Sau khi nữ hoàng vẫy tay để đám người hầu ra khỏi phòng, chỉ còn lại ba chúng tôi. “Jesu,” Elizabeth rền rĩ . “Đầu ta có cảm giác như trái táo mục, sắp nứt ra vậy. Ông thể chọn thời điểm nào khác thích hợp hơn để gây à?” “Xin hãy để thần khám cho người,” Matthew đề nghị. “Ông nghĩ mình có thể chăm sóc tốt hơn bác sĩ của ta sao, ông Roydon?” Nữ hoàng với vẻ hy vọng dè chừng. “Thần tin mình có thể làm giảm đau đớn cho người, nếu Chúa Trời nguyện ý.” “Thậm chí cho tới lúc chết, cha ta vẫn nhắc đến ông với niềm khao khát.” Hai bàn tay Elizabeth giần giật những nếp gấp của chiếc váy. “Người say mê ông như chất bổ mà người đánh giá lầm ích lợi của nó.” “Vậy sao?” Matthew chẳng buồn che giấu tò mò của mình. Đây là điều lần đầu tiên được nghe đến. “Người , chỉ vì cảm hứng quái quỷ ông có thể vứt bỏ người còn nhanh hơn bất cứ người đàn ông nào khác – mặc dù nghe điều này có vẻ hơi khó nuốt.” Elizabeth cười mỉm trước tiếng cười vang của Matthew, và rồi nụ cười của bà dao động. “Người là người đàn ông vĩ đại và kinh khủng – và là gã ngốc.” “Tất cả đàn ông đều là những gã ngốc, thưa bệ hạ,” Matthew nhanh. “, chúng ta hãy chuyện thẳng thắn với nhau lần nữa, như thể ta phải nữ hoàng quốc và ông phải wearh.” “Chỉ khi người cho phép thần xem chiếc răng của người,” Matthew , khoanh hai tay trước ngực. *** “ có thời lời mời mọc hôn hít vuốt ve với ta cũng đủ xui xẻo rồi, ông đáp ứng được các điều kiện cho cầu của ta đâu,” Elizabeth thở dài. “Ta đánh mất nhiều thứ hơn là mấy chiếc răng đấy. Được rồi, ông Roydon.” Bà há miệng cách ngoan ngoãn, và thậm chí cách xa tới vài mét, tôi vẫn ngửi thấy được mùi răng sâu. Matthew đỡ đầu nữ hoàng trong hai bàn tay để có thể thấy hơn. “ kỳ diệu khi người vẫn còn có răng đấy,” nghiêm nghị . Mặt Elizabeth ửng hồng cáu kỉnh và chật vật muốn đáp trả. “Người có thể quát mắng sau khi thần xong việc. Đến lúc đó, người có lý do thích đáng để làm chuyện ấy, vì thần tịch thu số kẹo mùi violet và rượu vang ngọt của người. Người chẳng còn thứ gì nguy hại để uống ngoài nước bạc hà và chẳng còn gì để ngậm ngoài vị đinh hương dành cho nướu răng của người, chúng bị áp-xe nghiêm trọng.” Matthew lướt ngón tay dọc theo hàm răng của bà. Vài chiếc lung lay cách đáng báo động, còn hai mắt Elizabeth như muốn lồi ra. khẽ thốt lên buồn bã. “Lizzie, người có thể là nữ hoàng quốc, nhưng điều đó giúp người hiểu biết về thuốc men và giải phẫu đâu. Lưu ý lời khuyên của thầy thuốc khôn ngoan hơn đấy. Giờ giữ yên nào.” Trong khi tôi cố lấy lại bình tĩnh sau khi nghe chồng tôi gọi nữ hoàng nước là “Lizzie,” Matthew rút ngón tay trỏ lại, chà nó vào chiếc răng nanh sắc nhọn của để nó rỉ ra giọt máu, rồi đưa trở lại miệng Elizabeth. Mặc dù rất cẩn thận, nhưng nữ hoàng vẫn nhăn nhó, sau đó, hai vai bà hạ xuống dáng vẻ nhõm. “Ai dà,” bà lầm bầm với mấy ngón tay Matthew trong miệng. “Đừng cảm ơn thần vội, có món kẹo hạnh nhân hay đồ ngọt trong vòng năm dặm khi thần ở đây và cơn đau e là còn quay trở lại đấy.” Ngay khi Matthew rút các ngón tay ra, nữ hoàng dùng lưỡi đảo quanh khoang miệng. “Chà chà, nhưng giờ hết đau rồi,” bà mừng rỡ . Elizabeth ra hiệu về mấy chiếc ghế bành bên cạnh. “Ta sợ là chẳng còn gì ngoài việc giải quyết các báo cáo, ngồi xuống và kể cho ta về Praha.” *** Sau nhiều tuần trong vương triều của hoàng đế, tôi biết rằng được bất kỳ người cai trị nào mời ngồi trước mặt đều là đặc ân phi thường to lớn, nhưng giờ tôi thấy biết ơn gấp đôi khi có cơ hội làm thế. Chuyến hải trình làm mệt nhọc vốn bình thường trong các tuần đầu mang thai càng thêm trầm trọng. Matthew kéo chiếc ghế ra cho tôi, và tôi hạ người tựa vào lòng ghế. Tôi ép chỗ thắt lưng vào phần chạm khắc hoa văn, dùng các mấu lồi của nó để mát-xa làm dịu cơn đau. Bàn tay Matthew tự động với tới khu vực đó, ấn và xoa bóp làm dịu cơn nhức mỏi. Nét mặt nữ hoàng thoáng lên vẻ ghen tỵ. “Bà cũng đau ư, bà Roydon?” Nữ hoàng hỏi han vẻ quan tâm lo lắng. Bà ta quá tử tế, còn khi Rudolf đối xử với cận thần như thế thường có nghĩa là tai họa nào đấy đến. “Vâng, thưa bệ hạ. Nhưng than ôi, chẳng thứ nước bạc hà nào có thể giải quyết được cả,” tôi rầu rĩ . “Nó cũng chẳng xoa dịu được bộ lông xù lên vì giận dữ của hoàng đế. Sứ giả của ông ta với ta rằng, các vị đánh cắp cuốn sách của Rudolf.” “Sách nào cơ?” Matthew hỏi. “Rudolf có biết bao nhiêu là sách.” Vì mọi người quen thấy dáng vẻ vô tội biết gì của hầu hết các ma cà rồng nên màn trình diễn của giả tạo. “Chúng ta đùa đâu, Sebastian,” nữ hoàng khẽ , khẳng định nghi ngờ của tôi rằng Matthew từng mang cái tên Sebastian St. Clair khi ở trong triều đình của vua Henry. “Người luôn đùa giỡn mà,” Matthew bắn trả. “Trong chuyện này, người chẳng khác gì hoàng đế, hay Henry của nước Pháp.” “Bà Throckmorton kể với ta rằng, ông và Walter vẫn trao đổi những vần thơ về thiếu kiên định của quyền lực. Nhưng ta giống những tên bạo chúa chuyên quyền vô dụng đó, chẳng có gì ngoại trừ khinh bỉ và chế nhạo. Ta được nuôi lớn bởi những người thầy cứng rắn,” nữ hoàng đáp trả. “Xung quanh ta – mẹ ta, các bà dì, mẹ kế, chú bác, chị em họ – đều chết, chỉ mình ta sống sót, nên đừng có dối ta và nghĩ rằng có thể thực được điều đó. Ta hỏi ông lần nữa, cuốn sách đó là gì?” “Chúng thần có nó,” tôi chen ngang. Matthew nhìn tôi có vẻ bị sốc. “Chúng thần giữ cuốn sách. Vào lúc này.” nghi ngờ gì, nó an toàn ở Hươu Đực và Vương Miện, được nhét trong cái kho cất giữ đồ gác mái của Matthew. Tôi chuyển cuốn sách cho Gallowglass khi chiếc thuyền hoàng gia áp tải chúng tôi ngược dòng sông Thames, nó được bọc bảo vệ trong vải dầu và lông thú. “Ái chà.” Miệng Elizabeth từ từ ngoác rộng ra, để lộ những chiếc răng đen sì. “Bà làm ta ngạc nhiên đấy và dường như cả chồng bà cũng thế.” “Thần luôn mang lại những điều ngạc nhiên, thưa bệ hạ. Hoặc đó cũng là điều người ta với thần.” Cho dù Matthew có nhắc đến bà ta là Lizzie hay bà ta có gọi là Sebastian bao nhiêu lần nữa, tôi vẫn thận trọng đối đáp với bà ta cách kính cẩn. “Vậy hoàng đế dường như ảo tưởng rồi. Các người xử lý nó thế nào?” “Chẳng có gì đáng quan tâm cả,” Matthew khịt mũi . “Thần sợ rằng, điên rồ hành hạ gia đình ông ta giờ chạm tay tới Rudolf đấy. Thậm chí lúc này, người em trai Matthias của ông ta mưu lật đổ và củng cố địa vị cho chính mình hòng nắm bắt quyền lực khi hoàng đế thể cai trị được nữa.” “Chả trách hoàng đế lại hào hứng giữ Kelley đến thế. Đá tạo vàng chữa bệnh cho ông ta và giải quyết vấn đề tranh cãi về người kế thừa của mình.” Nữ hoàng biểu lộ chua chát. “Ông ta sống mãi mãi mà phải sợ hãi.” “Thôi nào Lizzie, người biết chuyện đó mà. Kelley thể làm ra viên đá cũng như thể cứu người hay bất cứ ai khác. Ngay cả các ông hoàng bà chúa đều có ngày phải chết.” “Chúng ta là bạn bè, Sebastian, nhưng đừng quên bản thân mình.” Mắt Elizabeth lóe lên tia sáng. “Khi lên bảy, người hỏi thần, liệu cha người có định giết người vợ mới của ông , thần với người . Khi đó, thần thành với người và bây giờ thần cũng thành với người, tuy nhiên nó khiến người tức giận nhiều hơn đấy. Chẳng điều gì có thể mang tuổi thanh xuân của người quay trở lại cả, Lizzie, hoặc cải tử hồi sinh cho những người mà người đánh mất,” Matthew kiên quyết . “ ư?” Elizabeth chậm rãi quan sát . “Ta thấy những nếp nhăn hay tóc bạc người ông. Ông trông hệt như năm mươi năm trước khi ở triều đình Hampton, khi ta đưa cây kéo làm vườn cho ông.” “Nếu người đòi hỏi thần dùng máu để biến người thành wearth, thưa bệ hạ, câu trả lời chắc chắn là . Hiệp ước ngăn cấm can thiệp vào chuyện chính trị của loài người – điều đó dĩ nhiên bao gồm cả việc thay đổi quyền kế vị nước bằng sinh vật khác người ngồi ngai vàng.” Nét mặt Matthew đanh lại. “Và đó cũng là câu trả lời của ông nếu Rudolf đưa ra cầu này ư?” Elizabeth hỏi, đôi mắt đen long lanh. “Đúng vậy, nó dẫn đến hỗn loạn và còn tồi tệ hơn nữa.” Viễn cảnh đó làm người ta ớn lạnh. “Vương quốc của người an toàn,” Matthew đảm bảo. “Hoàng đế cư xử như đứa trẻ hư hỏng quen được cưng chiều, tất cả chỉ có thế thôi.” “Thậm chí ngay cả lúc này, bác của ông ta, Philip của Tây Ban Nha, cho đóng chiến thuyền lên kế hoạch cho cuộc xâm lược khác ư!” “Hành động đó chẳng dẫn tới đâu cả,” Matthew hứa hẹn. “Ông nghe có vẻ rất chắc chắn.” “Thần chắc chắn.” Sư tử và sói đánh giá nhau ngang qua chiếc bàn. Cuối cùng, khi Elizabeth thỏa mãn, bà nhìn nơi khác và thở dài. “Tốt thôi. Ông có cuốn sách của hoàng đế, và ta có được Kelley hay hòn đá. Chúng ta đều phải học cách sống với thất vọng nhưng ta phải cho sứ giả của hoàng đế thứ gì đó để làm dịu tâm trạng của ông ta.” “Cái này sao?” Tôi lôi chiếc xắc của mình ra. Ngoại trừ Ashmole 782 và chiếc nhẫn ngón tay nó chứa những món đồ đáng giá nhất mà tôi sở hữu – những sợi thừng bằng lụa mà Goody Alsop tặng tôi để dệt các câu thần chú, hòn bi mượt mà bằng thủy tinh Jack tìm thấy trong bãi cát Elbe và được dùng như món đồ trang sức, mảnh vỡ từ viên sỏi dị vật quý giá trong dạ dày dành cho Susanna dùng trong các bài thuốc của bà, những con rồng của Matthew cùng cái cổ áo diêm dúa, gớm ghiếc, với con rồng chết treo lủng lẳng đó mà vị Hoàng Đế La Mã Thần Thánh tặng tôi. Tôi đặt thứ cuối cùng lên bàn giữa nữ hoàng và tôi. “Đó là món đồ trang sức lòe loẹt và rẻ tiền cho nữ hoàng chứ phải cho vợ của quý ông.” Elizabeth với tay chạm vào con rồng lấp lánh. “Bà cho Rudolf cái gì mà ông ta ban tặng bà thứ này hả?” “Cũng như Matthew , thưa bệ hạ. Hoàng đế thèm muốn thứ mà ông ta bao giờ có thể có nên ông ta nghĩ thứ này có thể dành được mến của thần, nhưng nó vô dụng,” tôi lắc đầu . “Có lẽ Rudolf thể chịu nổi việc người khác biết rằng ông ta để tuột mất thứ quá quý giá thế này,” Matthew gợi ý. “Ý ông ám chỉ vợ ông hay món trang sức này hả?” “Vợ thần,” Matthew đáp gọn lỏn. “Dù sao có lẽ món nữ trang này hữu dụng đấy. Biết đâu ông ta có ý tặng chiếc vòng cổ này cho ta,” Elizabeth ngân nga, “nhưng chính ông mang nó về đây cách an toàn.” “Tiếng Đức của Diana được tốt lắm,” Matthew tán thành cùng với nụ cười tinh quái. “Có lẽ khi Rudolf đặt nó lên vai ấy chỉ để hình dung tốt hơn xem nó trông như thế nào khi ở người bệ hạ thôi.” “Ồ, ta nghi ngờ điều đó lắm,” Elizabeth lạnh nhạt . “Nếu hoàng đế định dành chiếc vòng cổ này cho nữ hoàng nước , ông ta mong muốn được tặng nó cho người với nghi thức trọng thể. Nếu chúng ta gợi ý cho ngài đại sứ đón đầu ý định của hoàng đế…” Tôi gợi ý. “Đó là cách giải quyết hay đấy, dĩ nhiên là nó chẳng thỏa mãn ai cả, nhưng chuyện này cho đám cận thần của ta thứ gì đó để mài răng bọn họ cho nghiền tới khi có đề tài mới mẻ gây hiếu kỳ hơn xuất .” Elizabeth gõ gõ lên bàn vẻ trầm ngâm. “Nhưng vẫn có vấn đề với cuốn sách này.” “Người có tin tưởng thần , nếu thần với người nó quan trọng?” Matthew hỏi. Elizabeth lắc đầu. “.” “Thần cũng nghĩ là . Nhưng nếu ngược lại sao – rằng tương lai có lẽ phụ thuộc vào nó?” Matthew hỏi. “Cái đó thậm chí còn cường điệu hơn. Nhưng vì ta muốn để cho Rudolf hay bất cứ mẩu da nào của lão ta nắm giữ tương lai trong tay, nên ta để mặc chuyện mang trả lại nó hay cho các vị – dĩ nhiên, nếu lúc nào đó nó lại nằm trong tay các vị lần nữa.” “Đội ơn bệ hạ,” tôi , nhõm vì vấn đề được giải quyết cùng vài lời dối tương đối. “Ta làm việc đó vì bà,” Elizabeth lạnh lùng nhắc nhở tôi. “Thôi nào, Sebastian. Hãy đeo chuỗi trang sức đó lên cổ ta , sau đó ông có thể biến mình trở lại làm ông Roydon và chúng ta xuống phòng thiết triều, diễn màn cảm ơn đáng kinh ngạc cho tất cả bọn họ xem.” Matthew làm như được bảo, các ngón tay nấn ná vai nữ hoàng lâu hơn mức cần thiết. Bà liền đập vào tay . “Tóc giả của ta có ngay ngắn ?” Elizabeth hỏi tôi khi bà ta đứng dậy. “Ổn cả, thưa bệ hạ.” là nó có hơi bị lệch sau giúp đỡ của Matthew. Elizabeth đưa tay lên giật mạnh mái tóc giả của mình cái. “Hãy dạy vợ ông dối cách thuyết phục hơn ông Roydon. Bà ấy cần được dạy dỗ nhiều trong nghệ thuật lừa dối, nếu chẳng sống sót lâu nơi triều đình đâu.” “Thế giới này cần chân thành hơn là cận thần khác,” Matthew nhận xét, đỡ lấy khuỷu tay bà. “Diana vẫn cứ là chính mình thôi.” “ người chồng quý trọng chân thành của chính vợ mình.” Elizabeth lắc đầu. “Đây là bằng chứng tốt nhất cho ta thấy thế giới này đến hồi kết như tiến sĩ Dee tiên đoán.” Khi Matthew và nữ hoàng xuất khung cửa dẫn vào phòng riêng, khoảng nín lặng bao trùm lên cả đám đông. Căn phòng chật kín người và những cái liếc mắt thận trọng lướt từ nữ hoàng tới người trẻ tuổi có vẻ còn chưa tốt nghiệp mà tôi đoán chính là sứ thần của hoàng đế, rồi nhìn sang William Cecil và quay ngược lại. Matthew thả bàn tay nữ hoàng vẫn khoác cánh tay ra. Hai cái cánh nàng rồng lửa đập dồn dập bên trong lồng ngực tôi. Tôi đặt tay lên ngang bụng để làm dịu cảm giác khó chịu ngực. Đây là những con rồng , tôi lặng lẽ cảnh cáo. “Ta xin cảm tạ hoàng đế về món quà, thưa ngài,” Elizabeth , thẳng tới chỗ cậu thiếu niên và đưa tay ra để cậu ta hôn. Chàng trai trẻ nhìn chằm chằm vào bà vẻ mặt ngây ngốc. “Gratias tibi ago.” “Bọn chúng càng lúc càng trẻ hơn,” Matthew lầm bầm khi kéo tôi lại bên cạnh . “Đó là điều em về sinh viên của mình đấy,” tôi thầm đáp lại. “ là ai thế?” “Vilém Slavata. Em chắc thấy cha ở Praha.” Tôi quan sát Vilém và cố hình dung ra trông như thế nào trong hai mươi năm tới. “Có phải cha là kẻ tròn xoe với cái cằm lõm vào ?” “ trong số chúng, em mô tả hầu hết đám viên chức của Rudolf đấy,” Matthew nhắc nhở khi tôi bắn cho cái trừng mắt tức giận. “Thôi thầm to , ông Roydon!” Elizabeth ném cho chồng tôi cái liếc mắt khiến phải cúi đầu vẻ biết lỗi. Nữ hoàng bệ hạ tiếp tục huyên thuyên bằng tiếng La tinh. “Decet eum qui dat, non meminisse benei cii: eum vero, qui accipit, intueri non tam munus quam dantis animum.” Nữ hoàng nước ra kiểm tra ngôn ngữ để xem sứ thần có xứng đáng đây. Mặt Slavata tái nhợt. Chàng trai tội nghiệp sắp thua đến nơi rồi. Ông ấy cho mà nhớ thiện ý này: nhưng bà ta lại đón nhận mà nhìn lại món quà cũng như tâm hồn của người trao tặng. Tôi ho hắng để che giấu tiếng cười khi nghiệm ra ý nghĩa đoạn dịch lủng củng này. “Nữ hoàng bệ hạ?” Vilém lắp bắp bằng trọng nặng nề. “Món quà. Từ hoàng đế.” Elizabeth chỉ vào chiếc cổ áo nạm đá quý vắt qua bờ vai mảnh khảnh của bà. Con rồng treo lủng lẳng xuống dưới thấp hơn so với lúc nó đeo cổ tôi. Bà ta thở dài với vẻ giận dữ cường điệu. “ lại cho ông ta biết những gì ta bằng thứ ngôn ngữ của ông ấy , ông Roydon, ta có kiên nhẫn đối với mấy bài học tiếng La tinh đâu. Hình như hoàng đế giáo dục cho bề tôi của ông ta phải?” “Đức ngài đây biết tiếng La tinh, thưa bệ hạ. Nếu trí nhớ của thần còn tốt ngài sứ thần Slavata học đại học ở Wittenberg và tiếp tục theo học ngành luật tại Basel. Đó phải ngôn ngữ có thể làm khó ngài ấy nhưng thông điệp của người khác.” “Vậy chúng ta hãy làm ý tứ để ông ta – và chủ nhân của ông ta – hiểu được. Và đừng có nhân danh ta,” Elizabeth u ám . “Làm .” Cùng với cái nhún vai, Matthew lặp lại thông điệp của nữ hoàng bằng tiếng quê cha đất tổ của Slavata. “Tôi hiểu những điều nữ hoàng ,” Slavata đáp trả, có vẻ choáng váng. “Nhưng ý người là gì?” “Ngài đây bối rối,” Matthew tiếp tục bằng tiếng Séc vẻ cảm thông. “ chung nó có liên quan đến các đại sứ mới. Đừng lo lắng về chuyện này. Hãy với nữ hoàng rằng Rudolf rất vui sướng được tặng người món trang sức này, sau đó chúng ta có thể dùng bữa tối rồi.” “Ngài với người hộ tôi chứ?” Slavata hoàn toàn bất đắc dĩ. “Ta hy vọng ông gây ra hiểu lầm nào giữa hoàng đế Rudolf và ta nữa, ông Roydon,” Elizabeth , cực kỳ bực bội vì việc thành thạo bảy ngôn ngữ của bà lại bao gồm cả tiếng Séc. “Ngài đây bảo rằng, hoàng đế cầu chúc cho bệ hạ sức khỏe và hạnh phúc. Và ngài vui mừng vì chiếc vòng cổ này thuộc về đúng nơi dành cho nó mà bị thất lạc, như hoàng đế lo sợ.” Matthew nhìn bà chủ của vẻ hiền từ. Nữ hoàng định gì đó, nhưng lại ngậm miệng và trừng mắt nhìn . Slavata hớn hở ngại học hỏi muốn biết làm thế nào Matthew thành công trong việc khiến nữ hoàng nước phải im lặng. Khi vị sứ thần này ra dấu cổ vũ Matthew thông dịch, Cecil cầm lấy tay chàng trai trẻ này. “ là tin tức đáng vui mừng, thưa ngài. Tôi nghĩ ngài có đủ những điều học hỏi được trong ngày rồi. Đến đây nào, dùng bữa tối cùng với tôi,” Cecil , hướng chàng tới chiếc bàn gần đó. Nữ hoàng, giờ bị cả nhân viên mật vụ và người cố vấn chính của mình chuyển về hậu trường, bèn đằng hắng bực bội trong khi trèo lên ngai vàng và được Bess Throckmorton cùng Raleigh trợ giúp bước lên ba bậc thang thấp. “Giờ chuyện gì xảy ra đây?” Tôi thầm. Màn diễn kết thúc, và những người có mặt trong căn phòng có vẻ bồn chồn yên. “Ta còn muốn chuyện thêm nữa, ông Roydon,” Elizabeth gọi trong lúc mấy chiếc đệm dựa của bà được sắp xếp cho thoải mái. “Đừng xa quá đấy.” “Pierre có mặt gần cửa phòng thiết triều và chỉ cho em phòng của , nơi đó có chiếc giường cùng yên bình và tĩnh lặng. Em có thể nghỉ ngơi cho tới khi nữ hoàng để tự do, lâu lắm đâu. Bà ấy chỉ muốn có báo cáo đầy đủ về Kelley thôi.” Matthew đưa tay tôi lên môi và tặng nụ hôn trang trọng. Biết được thích của Elizabeth dành cho các nam thần tử của mình rồi, tôi đoán cuộc chuyện này chắc mất tới vài giờ chứ ít. Cho dù chuẩn bị ứng phó với tiếng ồn ào, ầm ĩ của phòng thiết triều, nhưng nó vẫn làm tôi choáng váng phải lui lại bước. Những cận thần đủ quan trọng để được dùng bữa trong phòng riêng xô đẩy chen lấn khi tôi ngang qua, họ hồ hởi kiếm bữa tối của mình trước khi thức ăn hết. Dạ dày tôi lộn lên trước mùi thịt hươu nai nướng. Tôi bao giờ quen được với cái mùi này, và bé con của tôi cũng thích nó. Pierre và Annie đứng bên tường cùng với những người hầu khác, họ trông đều nhõm khi thấy tôi xuất . “Milord đâu rồi?” Pierre hỏi, lôi tôi ra khỏi đám đông những con người chen chúc xô đẩy. “ đợi nữ hoàng,” tôi đáp. “Tôi quá mệt mỏi thể đứng hay ăn uống được nữa. Có thể đưa tôi tới phòng của Matthew ?” Pierre ném cái nhìn lo âu về phía lối vào khu phòng riêng. “Dĩ nhiên rồi.” “Cháu biết đường, thưa bà Roydon,” Annie . Mới quay về từ Praha và tham gia vào lần viếng thăm triều đình Elizabeth lần thứ hai nhưng Annie cố tỏ vẻ bình thản. “Tôi chỉ cho con bé phòng của milord khi ông bà được dẫn gặp nữ hoàng,” Pierre quả quyết với tôi. “Nó ở ngay tầng dưới dãy phòng từng được hoàng hậu sử dụng.” “Và tôi cho là giờ được các sủng thần của nữ hoàng sử dụng nó,” tôi lẩm bẩm. nghi ngờ gì, đó chính là chỗ Walter ngủ - hoặc có lẽ giờ ngủ. “Hãy ở đây đợi Matthew, Pierre, Annie và tôi có thể tự tìm đường.” “Cảm ơn madame.” Pierre nhìn tôi vẻ biết ơn. “Tôi thích để ngài ấy ở cùng nữ hoàng quá lâu.” Các thành viên trong đội ngũ hầu cận của nữ hoàng cắm đầu vào bữa tối của họ trong môi trường kém xa hoa, lộng lẫy hơn tại phòng dành cho lính canh. Họ nhìn Annie và tôi chăm chú với bộ dạng hiếu kỳ khi chúng tôi qua. “Hẳn phải có lộ trình ngắn hơn chứ,” tôi , cắn môi nhìn xuống cái cầu thang dài. Đại Sảnh thậm chí còn đông đúc hơn. “Cháu rất tiếc, thưa bà, nhưng có,” Annie vẻ lấy làm tiếc. “Vậy chúng ta đối mặt với đám đông hỗn tạp này thôi,” tôi thở dài . Đại Sảnh chật ních người đến thỉnh cầu nữ hoàng. Tiếng xì xào kích động chào đón xuất của tôi từ hướng khu phòng hoàng gia, tiếp theo sau là những tiếng lẩm bẩm thất vọng khi ràng tôi chẳng phải là nhân vật quan trọng. Sau khi ở vương triều của Rudolf, tôi quen với việc là món đồ thu hút chú ý, nhưng vẫn thoải mái khi cảm thấy những cái nhìn mê đắm của loài người, vài cú thúc đến từ các tinh, cái liếc nhìn râm ran nhức nhối của phù thủy đơn độc. Dù vậy, khi cái nhìn chằm chằm lạnh lẽo của ma cà rồng đặt lên lưng mình, tôi vẫn sợ hãi nhìn xung quanh. “Thưa bà?” Annie hỏi. Hai mắt tôi quét qua đám đông, nhưng thể định vị được nguồn gốc xuất phát của cái nhìn đó. “ có gì cả, Annie,” tôi lẩm bẩm đáp, bồn chồn yên. “Chỉ là trí tưởng tượng đánh lừa ta thôi mà.” “Bà cần phải nghỉ ngơi ngay,” bé trách móc nghe rất giống Susanna. Nhưng có chuyện nghỉ ngơi chờ đợi tôi trong căn phòng tầng trệt rộng rãi của Matthew, nơi nhìn ra khu vườn riêng của nữ hoàng. Thay vào đấy, tôi tìm thấy nhà viết kịch hàng đầu nước ở đó. Tôi sai Annie tìm và lôi Jack ra khỏi bất cứ đống lộn xộn nào thằng bé tự tạo ra cho mình và buộc bản thân cứng rắn để đối mặt với Christopher Marlowe. “Xin chào Kit,” tôi . chàng tinh ngẩng lên từ bàn làm việc của Matthew, những trang thơ rải rác xung quanh. “Lúc nào cũng mình à?” “Walter và Henry dùng bữa với nữ hoàng. Tại sao ở cùng họ?” Kit trông xanh xao, gầy gò và ngẩn ngơ. ta đứng dậy và bắt đầu thu dọn giấy tờ, lo lắng liếc nhìn ra cửa như thể mong ngóng ai đó vào và ngắt ngang cuộc chuyện của chúng tôi. “Quá mệt.” Tôi ngáp. “Nhưng cần đâu, cứ ở lại và đợi Matthew . ấy vui mừng được gặp . viết gì thế?” “ bài thơ.” Sau câu trả lời gọn lỏn, Kit lại ngồi xuống. Có điều gì đó ổn, chàng tinh có vẻ cực kỳ bối rối. Tấm thảm thêu treo tường sau lưng ta là hình thiếu nữ có mái tóc vàng óng ả, đứng trong tòa tháp nhìn ra biển. Nàng giơ cao chiếc đèn lồng và dõi mắt nhìn ra xa. Điều đó giải thích hết thảy. “ viết về Hero và Leander.” Đó phải là câu hỏi. Kit có lẽ vẫn vương vấn với Matthew và sáng tác thiên tình sử bất hủ, từ lúc chúng tôi lên thuyền trở về ở Gravesend vào tháng . ta đáp lời. Sau lúc, tôi ngâm nga vài câu thơ. “Có kẻ thề chàng là thiếu nữ trong bộ quần áo của đàn ông, Vì lẽ mọi ánh nhìn của tất cả đàn ông đều khao khát, bờ má mỉm cười hạnh phúc, ánh mắt biết thành lời, cái liếc đầu mày cuối mắt cho Tình đêm dạ tiệc huy hoàng, Và những kẻ biết chàng là người đàn ông , Leander, nghệ thuật tạo nên vở kịch si tình: Vì sao mi - nghệ thuật mà tình lại bao trùm tất cả?” Kit nhảy dựng khỏi chiếc ghế ngồi. “Trò phù thủy quỷ quái gì thế này? biết những gì tôi làm y như chính tôi vậy.” “Chẳng phải trò quỷ quái gì cả, ai có thể hiểu được những gì cảm thấy hơn tôi chứ?” Tôi cẩn thận . Kit dường như lấy lại được khả năng kiểm soát, mặc dù hai bàn tay vẫn run rẩy khi đứng đó. “Tôi phải đây, tôi sắp gặp vài người ở trường đấu thương, chuyện về đám rước lộng lẫy và phô trương đặc biệt vào tháng sau, trước khi nữ hoàng lên đường du lịch hè. Tôi được đề nghị tới hỗ trợ.” Hằng năm, Elizabeth tiến hành vòng quanh đất nước với đoàn xe thùng kéo dài, gồm các thần tử và cận thần, ăn bám của đám quý tộc để lại đằng sau những món nợ khổng lồ cùng những cái chạn rỗng tuếch. “Tôi chắc chắn với Matthew rằng ở đây. ấy lấy làm tiếc vì lỡ mất dịp gặp .” Ánh rạng rỡ lóe lên trong đôi mắt Marlowe. “Có lẽ bà muốn cùng tôi, bà Roydon ạ. Ngày hôm nay đẹp, và bà vẫn chưa được thấy Greenwich.” “Cảm ơn Kit.” Tôi bối rối trước tốc độ thay tính đổi nết đến chóng mặt của ta, nhưng dù gì ta cũng là tinh. Và ta mơ màng cũng vì Matthew. Mặc dù tôi hy vọng được nghỉ ngơi, và lời đề nghị của Kit cũng được tự nhiên cho lắm, nhưng tôi nên nỗ lực để hòa hợp mới tốt. “Có xa lắm ? Tôi có phần hơi mệt sau cuộc hành trình.” “ xa đâu.” Kit cúi đầu chào. “Xin mời trước!” *** Trường đấu thương ở Greenwich tương tự như sân vận động điền kinh lớn với khu vực quây dây thừng dành cho các đấu sĩ, bục ngồi dành cho khán giả và rải rác đây đó các trang thiết bị. “Đó là nơi diễn ra trận đấu thương ngựa à?” Tôi có thể hình dung ra tiếng móng ngựa nện đất, khi các hiệp sĩ tăng tốc lao vào nhau, những cây thương của họ nghiêng góc ngang qua cổ ngựa để có thể đâm vào khiên của đối thủ và hất ngã ta. “Đúng thế, có muốn nhìn gần hơn ?” Kit hỏi. Nơi này hoang vắng. Những cây thương cắm khắp nơi mặt đất. Tôi nhìn thấy thứ gì đó trông đáng sợ như cái giá treo cổ, với đầu cọc thẳng đứng và cánh tay đòn dài. Tuy nhiên, phải thây người mà là túi cát đung đưa dưới đầu dây. Nó bị chọc thủng và dòng cát chảy ra. “ cái giá luyện tập cưỡi ngựa đấu thương,” Marlowe giải thích, ra hiệu về phía dụng cụ. “Người cưỡi nhắm mũi thương vào bao cát.” ta với tay đẩy tay đòn để chỉ cho tôi xem. Nó đung đưa vòng quanh, tạo thành mục tiêu chuyển động để mài giũa kỹ năng của hiệp sĩ. Mắt Marlowe rà quét khắp trường đấu. “Người đàn ông đó gặp ở đây à?” Tôi cũng nhìn quanh. Nhưng người duy nhất tôi trông thấy là phụ nữ cao lớn, tóc đen và mặc chiếc váy màu đỏ chói. ta còn ở tít đằng xa, nghi ngờ gì là ta có cuộc hẹn hò lãng mạn sau bữa tối. “ bao giờ trông thấy chiếc giá luyện tập kia chưa?” Kit chỉ về hướng ngược lại, nơi hình nhân làm từ rơm và vải bao thô được buộc vào cây cọc. Thứ này nữa, trông càng giống kiểu máy hành hình hơn là dụng cụ thể thao. Tôi cảm thấy ánh nhìn chăm chú và lạnh lẽo. Trước khi kịp xoay người lại, ma cà rồng bắt được tôi bằng hai cánh tay như gọng thép, nhưng phải Matthew. “Tại sao, nàng thậm chí còn ngon lành hơn ta hy vọng đấy,” phụ nữ , hơi thở lạnh lẽo của ta phả vào cổ tôi. Hoa hồng. Xạ hương. Tôi biết những mùi này, và cố gắng nhớ lại nơi mình ngửi thấy kết hợp này trước đây. Sept-Tours. Phòng của Louisa de Clermont. “Có thứ gì đó trong máu của ta hấp dẫn wearh cưỡng nổi,” Kit cộc cằn . “Tôi hiểu nó là gì, nhưng thậm chí cả Cha Hubbard dường như cũng bị ta áp chế.” Những chiếc răng sắc lẻm cà vào cổ tôi, mặc dù phá rách làn da. “Chơi đùa cùng nàng thú vị lắm đây.” “Kế hoạch của chúng ta là giết chết ả,” Kit phàn nàn. Lúc này, thậm chí còn run rẩy và bất an hơn khi Louisa ở đây. Tôi vẫn im lặng, cố gắng đến tuyệt vọng để đoán ra trò bọn họ chơi đùa. “Khi đó mọi chuyện trở về như cũ.” “Kiên nhẫn nào.” Louisa uống vào mùi hương của tôi. “Ngươi có ngửi thấy mùi sợ hãi của nàng ? Nó luôn làm khẩu vị của ta ngon hơn.” Kit nhích lại gần hơn, vẻ say mê. “Nhưng người xanh xao quá, Christopher ạ. Có cần nhiều thuốc hơn ?” Louisa điều chỉnh lại tư thế nắm giữ tôi để có thể thò tay vào túi. ta đưa cho Kit viên thuốc nhớp nháp, hình thoi màu nâu. đón lấy cách vui sướng và tống nó vào miệng. “Chúng thần kỳ phải ? Những kẻ máu nóng ở Đức gọi chúng là ‘Viên đá bất tử’, vì thành phần của nó làm cho những con người đáng thương có cảm giác như thần thánh. Chúng làm ngươi cảm thấy mình lại khỏe mạnh trở lại.” “Chính ả phù thủy này làm tôi yếu , cũng như ả khiến em trai suy yếu.” Đôi mắt Kit trở nên trong suốt như thủy tinh, có vị ngòn ngọt ghê tởm trong hơi thở của . Thuốc phiện. Chẳng trách cư xử lạ lùng như thế. “Có , phù thủy? Kit ngươi trói buộc em trai ta trái với ý nguyện của nó.” Louisa lẳng tôi vòng. Khuôn mặt của ta được miêu tả xinh đẹp y như trong mọi cơn ác mộng của loài máu nóng về ma cà rồng: làn da tái nhợt như men sứ, mái tóc sẫm màu và đôi mắt đen như phủ sương bởi thuốc phiện. hiểm ác cuồn cuộn thoát ra từ ta cùng đôi môi đỏ mọng cong cong hoàn hảo, chỉ gợi cảm mà còn tàn bạo. Đây là sinh vật săn và giết chóc mà hề có mảy may thương xót trắc . “Tôi trói buộc em trai chị, tôi chọn ấy và ấy cũng chọn tôi, Louisa.” “Ngươi biết ta là ai à?” Đôi lông mày đen của Louisa nhướng lên. “Matthew giữ bí mật nào với tôi cả vì chúng tôi là bạn đời kết đôi, cũng đồng thời là vợ chồng. Cha chị chủ trì hôn lễ của chúng tôi.” Cảm ơn cha, Philippe. “Dối trá!” Louisa gào lên. Đôi đồng tử của ta thu lại sâu vào trong tròng mắt khi kiểm soát vỡ nát. chỉ là thuốc phiện, tôi phải đối mặt với cả cơn cuồng máu của ta nữa. “Đừng tin lời ả ta ,” Kit nhảy vào cảnh cáo rồi lôi từ túi áo ra con dao găm và tóm giật lấy tóc tôi. Tôi kêu lên đau đớn khi vặn đầu tôi ngửa ra sau còn con dao găm vòng qua mắt phải của tôi. “Tôi móc mắt ả ra để ả thể dùng chúng quyến rũ hay nhìn thấy số mệnh của tôi được nữa. Tôi chắc chắn là ả biết về cái chết của tôi. có thị lực của phù thủy, ả nắm giữ được chúng ta – và cả Matthew nữa.” “Ả phù thủy này xứng đáng với cái chết nhanh chóng như thế,” Louisa chua chát . Kit ấn con dao vào phần da thịt bên dưới xương lông mày của tôi, giọt máu lăn xuống. “Đó phải thỏa thuận của chúng ta, Louisa. Để phá vỡ bùa chú của ả, tôi phải có đôi mắt ả, sau đó tôi muốn ả ta chết và biến mất mãi mãi. Chừng nào ả phù thủy này còn sống, Matthew bao giờ quên ả.” “Suỵt, Christopher, tôi ư? Chúng ta phải đồng minh ư?” Louisa với tới Kit và hôn sâu. ta di miệng dọc theo quai hàm, xuống nơi dòng máu đập trong huyết mạch của . Đôi môi ta chà xát lên đó, và tôi thấy vệt máu ra theo cử động của ta. Kit rít vào hơi run rẩy rồi nhắm mắt lại. Louisa uống máu từ cổ gã tinh đó cách đói khát. Trong lúc đó, tôi vẫn đứng nguyên chỗ và bị khóa cứng trong hai cánh tay mạnh mẽ của ma cà rồng này. Tôi cố trườn người thoát ra, nhưng nắm tay ta càng siết tôi chặt thêm trong khi răng môi vẫn hút máu Kit. “Christopher ngọt ngào,” ta lẩm bẩm khi uống no và liếm láp vết thương đó. Dấu vết cổ Kit có màu bạc và mềm mại y như vết sẹo ngực tôi. Louisa chắc hẳn uống máu trước đây rồi. “Ta có thể nếm được bất tử trong máu của và thấy được những ngôn từ đẹp đẽ nhảy múa qua những suy nghĩ của . Matthew là đồ ngốc mới muốn chia sẻ chúng với .” “ ấy chỉ muốn ả phù thủy này.” Kit chạm vào cổ tưởng tượng rằng đó là Matthew chứ phải chị uống máu từ huyết quản của . “Tôi muốn ả chết.” “Cũng như ta thôi.” Louisa chuyển cặp mắt đen thăm thẳm nhìn sang tôi. “Và vì vậy, chúng ta cạnh tranh vì ả. Bất kể ai thắng, cũng bắt ả phải chuộc tội cho những sai lầm làm với em trai ta. bạn hiểu chứ, người tình bé của ta?” Hai kẻ bọn họ giờ say thuốc vì Louisa chia sẻ dòng máu đầy thuốc phiện của Kit. Tôi bắt đầu hoảng loạn, rồi nhớ lại những chỉ dẫn của Philippe ở Sept-Tours. Hãy suy nghĩ. Hãy sống sót. Rồi tôi nhớ tới đứa con bé bỏng và cơn hoảng loạn quay trở lại, tôi thể gây nguy hiểm cho con của chúng tôi. Kit gật đầu. “Tôi làm bất kỳ điều gì để có lại được quan tâm của Matthew.” “Ta cũng nghĩ vậy.” Louisa cười và lại hôn lần nữa. “Chúng ta chọn màu sắc của mình chứ?”
35. “Chị gây ra sai lầm kinh khủng đó, Louisa,” tôi cảnh cáo và cố vùng vẫy khỏi trói buộc. ta cùng Kit vứt con bù nhìn rơm kỳ dị và trói tôi thế vào đó. Kit còn bịt mắt tôi bằng dải lụa màu xanh sẫm lấy xuống từ mũi thương, để tôi thể bỏ bùa họ bằng ánh mắt của mình. Cả hai đứng gần bên tôi, tranh cãi xem nên dùng cây thương màu đen bạc hay chiếc màu vàng và xanh lục. “Chị có thể tìm thấy Matthew ở chỗ nữ hoàng và ấy giải thích tất cả.” Tôi cố gắng giữ giọng bình tĩnh nhưng được. Matthew từng kể cho tôi nghe về người chị này hồi còn ở Oxford thời đại, khi cả hai uống trà bên lò sưởi trong Chòi Gác Cổ của . ta cũng xấu xa như chính vẻ đẹp của mình. “Ngươi còn dám thốt ra tên ấy sao?” Kit tức tối. “Đừng lời nào nữa, con phù thủy kia, nếu ta để Christopher cắt lưỡi ngươi đấy.” Giọng Louisa độc địa và cần nhìn vào mắt ta, tôi cũng có thể nhận ra hòa trộn giữa hoa túc cùng cơn khát máu chẳng có gì tốt đẹp. Đỉnh nhọn viên kim cương của Ysabeau cào lên má tôi khiến máu rỉ ra. Louisa bẻ ngón tay tôi để giật lấy chiếc nhẫn rồi đeo cho mình. “Tôi là vợ của Matthew, người bạn đời của ấy. Chị hãy tưởng tượng xem phản ứng của ấy thế nào, khi phát những việc chị làm?” “Ngươi là con quái vật. Nếu ta chiến thắng thử thách này, ta lột trần cái vẻ ngoài giả tạo của con người ngươi và khám phá điều giấu bên dưới.” Từng lời chảy vào tai tôi như loại độc dược. “Và ta rồi, khi Matthew nhìn thấy con người của ngươi, nó rất vui mừng được chia sẻ niềm khoái lạc nhìn ngươi chết cùng ta.” Tiếng chuyện của bọn họ hơn khi xa dần nên tôi thể biết được họ ở đâu hay họ quay lại từ hướng nào. Giờ đây, tôi hoàn toàn đơn độc. Hãy suy nghĩ. Hãy sống sót. Có điều gì đó rung lên trong lồng ngực tôi nhưng phải là cảm giác hoảng sợ. Đó là rồng lửa. Tôi đơn độc và tôi là phù thủy. Tôi cần đôi mắt này để có thể quan sát thế giới xung quanh. Ngươi thấy điều gì? Tôi hỏi đất và khí. Chính rồng lửa trả lời tôi. nàng kêu ríu rít, vỗ cánh cách hào hứng giữa bụng và hai lá phổi của tôi trong lúc đánh giá tình huống xung quanh. Họ ở đâu? Tôi tự hỏi. Con mắt thứ ba mở rộng, tôi trông thấy nhiều màu sắc lung linh vào thời điểm cuối xuân, với những tia sáng rực rỡ màu xanh dương và xanh lục. Sợi tơ màu xanh lục thẫm bện xoắn cùng sợi tơ trắng và vò rối lại quanh thứ gì đó màu đen. Tôi lần theo tới chỗ Louisa, ta leo lên lưng con ngựa bị kích động. Nó vẫn hề ngần ngại di chuyển, chẳng chịu đứng yên dưới chân ma cà rồng nên Louisa cắn vào cổ con ngựa để buộc nó nhúc nhích, nhưng thể giảm nỗi khiếp sợ của nó. Tôi theo dấu những sợi tơ khác có màu đỏ thẫm và trắng, đinh ninh rằng chúng dẫn tới chỗ Matthew. Nhưng thay vào đó, tôi trông thấy tập hợp hình dáng và màu sắc xoắn tít, gây hoang mang, kinh ngạc. Tôi ngã ra xa, xa, tới khi rơi phịch xuống tấm đệm lạnh lẽo. Tuyết. Tôi hít lấy bầu khí giá băng của mùa đông vào phổi. Tôi còn bị trói vào chiếc cọc trong cung điện Greenwich vào buổi chiều cuối tháng Năm nữa. Giờ tôi mới khoảng bốn hoặc năm tuổi, nằm ngửa mảnh sân phía sau ngôi nhà của gia đình tại Cambridge. Và tôi nhớ lại. Cha và tôi chơi đùa sau trận tuyết lớn. Đôi găng tay hở ngón màu đỏ sẫm Harvard tương phản với màu trắng tinh khiết. Chúng tôi làm thiên thần nền tuyết, hai cánh tay và đôi chân quét lên xuống. Vào lúc đó, tôi bị cuốn hút bởi câu hỏi, làm thế nào mà mỗi khi di chuyển cánh tay đủ nhanh những đôi cánh thiên thần trắng lại thoáng màu đỏ nhạt. “Tựa như con rồng có đôi cánh lửa vậy,” tôi thầm với cha. Hai tay ông vẫn giữ nguyên. “Con trông thấy rồng khi nào hả Diana?” Giọng ông có vẻ nghiêm trọng. Tôi biết khác biệt giữa điệu nghiêm túc lúc này và giọng trêu đùa thường lệ. Ngụ ý là ông muốn nhận được câu trả lời, câu trả lời thành thực. “Nhiều lần lắm, phần lớn là vào buổi tối ạ.” Hai cánh tay tôi kéo nhanh và nhanh hơn. Lớp tuyết bên dưới bị xoáy tròn và đổi màu, tỏa ra những ánh sáng nhè màu xanh lục và vàng, đỏ và đen, bạc và lục lam. “Vậy chúng thường ở đâu?” Ông thầm, nhìn chăm chú vào đống tuyết. Chúng được dồn đầy dần quanh người tôi, nặng nề và ầm ầm như thể sức sống tồn tại. chồng tuyết ngày càng chất cao và kéo dài ra quanh chiếc đầu mảnh khảnh của con rồng. Phần tuyết bị gạt rộng ra thành hình đôi cánh. Con rồng rũ bỏ đám tuyết khỏi lớp vảy trắng của nó. Khi nó quay sang nhìn cha tôi, ông lẩm bẩm điều gì đó và vỗ lên mũi con rồng, như thể cả hai từng gặp mặt trước đây. Nó nhả ra những hơi thở ấm áp làm bốc hơi bầu khí giá lạnh. “Gần như là bên trong con - ở đây ạ.” Tôi ngồi lên để bày tỏ cho cha hiểu ý mình. Đôi bàn tay đeo găng hở ngón của tôi đặt lên vòm ngực. Chúng nhận được hơi ấm qua làn da, qua lớp áo khoác và qua những sợi len đan sát của chiếc găng. “Tuy vậy, khi nàng cần bay nhảy, con hãy cho nàng ra ngoài vì ta đủ gian cho nó sải rộng cánh.” cặp cánh sáng lấp lánh đặt nền tuyết sau lưng tôi. “Con để rơi đôi cánh của chính mình ở phía sau kìa,” cha tôi nghiêm khắc . Nàng rồng bò ra khỏi đống tuyết. Đôi mắt màu đen bạc của nó chớp chớp khi được sải cánh tự do bay lên trung và biến mất bên kia cây táo. Hình ảnh của nó ngày càng trở nên mơ hồ hơn mỗi lần đập cánh. Còn đôi cánh mờ dần lớp tuyết sau lưng tôi. “Rồng mang con theo cùng và nàng chẳng bao giờ ở lâu,” tôi thở dài . “Tại sao vậy cha?” “Có lẽ nó còn nhiều nơi khác cần tới.” Tôi ngẫm nghĩ khả năng này. “Giống như con và mẹ tới trường phải ạ?” Bố mẹ tới trường thường khiến lũ trẻ con bối rối. Tất cả đám trẻ trong khu nhà đều nghĩ vậy cho dù bố mẹ chúng cũng gần như ở trường cả ngày. “Kiểu như vậy.” Cha tôi vẫn ngồi tuyết, hai cánh tay ông vòng quanh đầu gối và ông mỉm cười. “Cha phù thủy trong con, Diana à.” “ nàng sợ mẹ.” “.” Cha lắc đầu. “Mẹ chỉ sợ thay đổi thôi.” “Con cố gắng giữ bí mật về con rồng nhưng con nghĩ mẹ biết cả,” tôi rầu rĩ . “Các bà mẹ thường nhận ra dễ dàng,” cha tôi và nhìn xuống nền tuyết. Đôi cánh của tôi giờ biến mất hoàn toàn. “Nhưng mẹ cũng biết lúc nào con muốn uống chocolate nóng. Nếu giờ chúng ta vào nhà, cha đoán mẹ làm sẵn rồi đấy.” Cha tôi đứng dậy và giơ tay ra. Tôi đan bàn tay đeo chiếc găng hở ngón màu đỏ sậm vào trong cái nắm siết của cha. “Cha luôn ở đây để nắm tay con mỗi khi trời trở tối chứ?” Tôi hỏi. Màn đêm buông xuống và tôi đột nhiên có cảm giác e sợ những cái bóng. Lũ quái vật nấp trong chốn u ám, những sinh vật xa lạ thường quan sát tôi lúc chơi đùa. “,” cha tôi đáp kèm theo cái lắc đầu. Môi tôi run run bởi đó phải là câu trả lời mà tôi mong muốn. “Nhưng đừng lo.” Giọng ông thành lời thầm. “Con luôn có nàng rồng ở bên mà.” giọt máu từ vết da bị rạch gần mắt rơi và thẳng xuống nền đất bên cạnh. Mặc dù bị bịt mắt, tôi có thể cảm thấy chuyển động chậm rãi của nó và cách nó tiếp đất, trở thành vết máu ướt. mầm cây nhô lên từ đó. Những chiếc móng vuốt ầm ầm lao về phía tôi. Ai đó vừa hét lên tiếng tang thương và cao vút, gợi nhớ tới hình ảnh những trận chiến cổ xưa. thanh đó khiến rồng lửa càng bồn chồn hơn. Tôi cần giải thoát mình nhanh. Thay vì cố gắng tiếp tục quan sát các sợi tơ dẫn tới chỗ Kit và Louisa, tôi tập trung vào những sợi dây được đan kết rồi buộc chặt quanh cổ tay và mắt cá chân mình. Khi định nới lỏng chúng ra vật sắc nhọn và nặng nề bỗng đập vào xương sườn của tôi. Cú va chạm khiến tôi thở hắt ra. “Đừng đánh!” Kit hét lên. “Ả phù thủy này là của tôi mà!” “Sượt qua thôi,” Louisa đính chính. “ phải đâm được cây thương vào cơ thể ả mới tuyên bố ả là chiến lợi phẩm của mình được.” Buồn thay, tôi chẳng biết chút luật chơi nào, cả trò đấu thương lẫn phép thuật. Goody Alsop thẳng trước khi chúng tôi rời Praha. Tất cả những gì có lúc này là con rồng lửa ương ngạnh, quầng sáng gần như làm mù mắt và xu hướng đặt ra những câu hỏi cầu những câu trả lời tinh quái, bà ấy vậy. Tôi bỏ mặc công việc dệt thần chú của mình để ủng hộ các mưu đồ triều chính cũng như ngừng việc theo đuổi phép thuật của bản thân để săn tìm Ashmole 782. Có thể nếu tôi ở lại London giờ biết cách kéo bản thân ra khỏi mớ hỗn độn này, thay vì bị trói vào cây cột lớn như phù thủy giàn hỏa thiêu. Suy nghĩ. Sống sót. “Chúng ta phải thử lần nữa,” Louisa . Giọng ta dần trong lúc quay đầu ngựa và tiến ra xa. “Đừng làm vậy Kit,” tôi . “Hãy nghĩ đến Matthew. Nếu muốn tôi , tôi . Tôi hứa.” “Lời hứa của ngươi chẳng là cái thá gì cả, đồ phù thủy ạ. Ngươi bắt chéo ngón tay và tìm cách lách khỏi lời cam kết của chính mình. Thậm chí lúc này, ta có thể thấy quầng sáng quanh ngươi, khi ngươi cố gắng dùng phép thuật chống lại ta.” quầng sáng gần như làm mù mắt. Những câu hỏi khơi gợi những câu trả lời tinh ranh. Và con rồng lửa bất trị. Mọi thứ tĩnh lặng. Chúng ta nên làm gì đây? Tôi hỏi rồng lửa. Câu trả lời là tiếng vỗ cánh rồi sải rộng ra hết cỡ. Đôi cánh trượt giữa các xương sườn, xuyên qua lớp thịt và ra ở hai bên xương sống. Nàng rồng lửa nằm yên tại đó cùng chiếc đuôi quấn quanh để bảo vệ dạ con của tôi. Nó lén nhìn trộm từ sau xương ức, đôi mắt màu đen bạc và lại vỗ cánh lần nữa. Hãy sống sót, nàng thầm đáp lại, từng từ ngữ tỏa ra màn sương mù xám che phủ quanh tôi. Sức mạnh từ đôi cánh vỗ vào cọc gỗ dày sau lưng, phần răng cưa kiểu như mép vỏ sò của chiếc cánh cắt xuyên qua sợi dây buộc cổ tay. Và thứ gì đó giống hình móng vuốt sắc nhọn cắt qua phần dây buộc quanh mắt cá chân tôi. Khi Kit cùng Louisa tiến vào màn mây xám do rồng lửa tung ra đánh lạc hướng, tôi liền phóng người lên cao khoảng hơn mười mét. Họ chuyển động quá nhanh nên thể dừng lại hay đổi hướng. Hai chiếc thương đan chéo nhau rồi rối tung lên và lực va chạm khiến cả hai bắn ra khỏi lưng ngựa. Ngay khi tôi vừa xé toạc chiếc khăn bịt mắt bằng bàn tay lành lặn Annie xuất bên mép trường đấu. “Bà chủ!” Con bé thét lên. Nhưng tôi muốn nhóc ở đây, gần Louisa de Clermont. “ !” Tôi rít lên. Từng lời tỏa ra lửa cùng khói trong lúc tôi bay quanh Kit và Louisa. Máu ra quanh cổ tay và chân tôi. Cứ nơi nào có giọt máu đỏ xuống mầm cây màu đen lại chồi lên. Rất nhanh chóng, hàng rào màu đen được tạo ra từ các thân cây mảnh khảnh, vây quanh tên tinh và ả ma cà rồng trước kinh ngạc của họ. Louisa cố gắng nhổ chúng khỏi mặt đất nhưng phép thuật của tôi giữ hàng rào đứng yên. “Tôi được tiên đoán tương lai của hai người chứ?” Tôi hỏi cách cay nghiệt khi cả hai bọn họ nhìn lên tôi từ luồng cây phía dưới với ánh mắt lo sợ nhưng đầy thèm khát. “ chẳng bao giờ thỏa mãn nỗi thèm muốn trong trái tim được, Kit ạ, bởi đôi khi ta thể có thứ mình mong muốn nhất. Và cũng chẳng thể lấp đầy những khoảng trống trong lòng, Louisa – dù bằng máu hay cơn tức giận. Cả hai cũng chết, bởi cái chết tới bên hai người sớm muộn. Tuy vậy, tôi cam đoan những cái chết đó hề nhàng đâu.” cơn lốc tiến tới gần. Tôi vẫn đứng yên và nhận ra Hancock. “Davy!” Những ngón tay màu ngọc trai của Louisa siết lấy các thanh cọc bao quanh mình. “Giúp bọn ta. Ả phù thủy này dùng phép thuật để hạ nhục ta và Kit. Hãy đoạt lấy đôi mắt của ả, cậu tước sức mạnh phù thủy.” “Matthew tới đây, Louisa,” Hancock đáp lời. “Nếu ở trong hàng rào bảo vệ của Diana an toàn hơn là bỏ chạy trước cơn giận dữ của Matthew đấy.” “Chẳng có ai trong chúng ta an toàn cả. Ả thực lời tiên tri cổ xưa mà Gerbert từng với Maman nhiều năm trước. Ả ta phá hủy nhà de Clermont!” “Chẳng có chút nào trong lời tiên tri đó cả!” Hancock thương hại . “Có đấy!” Louisa khăng khăng. “Hãy cẩn thận ả phù thủy mang trong mình dòng máu của sư tử và chó sói này, bởi chính ả là người tiêu diệt những đứa con của bóng đêm. Lời tiên tri về ả phù thủy này, cậu thấy sao?” “Tôi có thể thấy là được khỏe, Louisa ạ.” Louisa đứng thẳng người và hét lên giận dữ. “Ta là manjasang và ta hoàn toàn khỏe mạnh, Hancock.” Henry chạy tới cùng Jack ngay sau đó, hai bên lồng ngực phập phồng vì gắng sức. Henry đưa mắt nhìn quanh trường đấu. “ ấy đâu rồi?” ta hét lên với Hancock, mắt nhìn xung quanh. “ kia,” Hancock đáp, ra dấu ngón cái lên trời. “Như Annie .” “Diana.” Henry thở phào nhõm. cơn gió xoáy u ám màu xám đen cuốn tới đấu trường và dừng lại ngay bên cây cọc gãy mà tôi bị trói vào. Matthew chẳng cần ai thông báo vị trí của tôi lúc này vì đôi mắt tìm thấy tôi ngay lập tức. Walter và Pierre là những người đến cuối cùng. Pierre cõng Annie quay lại, hai cánh tay gầy guộc của con bé bám chặt quanh cổ ta. Khi Pierre dừng lại, nhóc trượt xuống đất. “Walter!” Kit thét lên cùng với Louisa từ sau hàng rào. “Ả ta phải dừng lại. Thả chúng tôi ra, biết phải làm gì mà. Tôi chuyện với phù thủy ở Newgate, và…” cánh tay thọc xuyên qua các thanh rào đen và những ngón trắng dài tóm lấy cổ họng Kit. Marlowe lục bục vài tiếng rồi im lặng. “. Được. . . Từ. Nào. Cả.” Đôi mắt của Matthew quét qua Louisa. “Matthieu.” Máu và thuốc phiện vẫn ảnh hưởng tới cách phát kiểu Pháp của Louisa. “Tạ ơn Chúa là em ở đây, chị rất vui được gặp em.” “Chị nên thấy vui mừng.” Matthew ném Kit ra xa. Tôi hạ xuống phía sau lưng , đôi cánh mới mọc rút trở lại vào bên trong xương sườn. Nàng rồng lửa vẫn tiếp tục cảnh giác, chiếc đuôi vẫn cuốn chặt quanh dạ con tôi. Matthew cảm nhận được diện của tôi, liền vòng tay ôm tôi vào lòng trong khi ánh mắt hề rời khỏi những kẻ bị giam giữ kia. Các ngón tay của lướt tới chỗ cây thương đập vào người tôi, lần qua vạt áo dài, áo trong và làn da, rồi dừng lại phía lồng ngực. Vết thương giờ ướt đẫm máu. Matthew xoay người tôi ngả lên đầu gối , rồi xé lớp vải áo bên vết thương. chửi thầm, đặt tay lên bụng và đôi mắt rà soát kỹ toàn bộ cơ thể của tôi. “Em khỏe. Bọn em vẫn khỏe,” tôi quả quyết với . đứng dậy, đôi mắt đen sẫm lại và mạch máu nơi thái dương giần giật. “Ngài Roydon?” Jack rụt rè tới gần Matthew. Chiếc cằm của cậu nhóc run rẩy. Bàn tay của Matthew bắn ra và túm lấy cổ áo cậu bé trước khi nó có thể tới quá gần bên tôi. Jack hề nao núng. “Ngài gặp ác mộng ạ?” Bàn tay của Matthew thả cậu nhóc ra. “Phải, Jack, cơn ác mộng kinh hoàng.” Jack đan tay mình vào trong tay Matthew. “Cháu đợi bên cạnh ngài cho tới khi nó kết thúc.” Hai mắt tôi rơm rớm nước. Matthew vẫn thường câu này với Jack vào những đêm mà nỗi khiếp sợ có thể nhấn chìm cậu nhóc. Bàn tay của Matthew siết chặt lấy tay Jack trong thấu hiểu im lặng. Cả hai đứng yên – người cao lớn tráng kiện, người mỏng manh và ngượng nghịu, hai cái bóng mờ nhạt đổ xuống. Cơn thịnh nộ của Matthew bắt đầu nguôi dần. “Khi Annie với rằng nữ wearh bắt em, chẳng thể nghĩ rằng…” thể tiếp. “Là Christopher!” Louisa hét lên, tránh xa khỏi gã tinh cuồng dại ở bên cạnh. “Gã em bị bỏ bùa, nhưng chị có thể ngửi thấy mùi máu của ta người em. Em bị trúng bùa của ta mà được ta nuôi dưỡng.” “ ấy là người bạn đời của em,” Matthew giải thích bằng giọng điệu chết chóc. “Và ấy có mang.” Marlowe rít lên thành tiếng trong khi đôi mắt thúc thẳng vào bụng tôi. Tôi liền đưa cánh tay gẫy lên bảo vệ con khỏi ánh mắt chăm chú của gã tinh này. “Chuyện này thể nào, Matthew thể...” Vẻ rối loạn mặt Kit chuyển thành giận dữ. “Thậm chí lúc này đây, ả ta còn bỏ bùa ấy. Sao ngươi có thể phản bội ấy theo cách này? Ai mới là cha đứa con của ngươi, bà Roydon?” Mary Sidney cho rằng tôi từng bị cưỡng đoạt. Gallowglass quy đứa bé là con của tình nhân hoặc người chồng mất của tôi, chính điều này đánh thức bản năng bảo vệ của Matthew và cũng lý giải được cho mối tình mau chóng của chúng tôi. Đối với Kit, khả năng duy nhất là tôi cắm sừng người đàn ông mà gã . “Bắt lấy ả ta, Hancock!” Louisa van xin. “Chúng ta thể để mụ phù thủy đưa thứ tạp chủng của nó vào nhà de Clermont.” Hancock lắc đầu rồi khoanh tay. “Chị cố gắng hạ nhục người bạn đời của em, chị còn khiến ấy đổ máu,” Matthew . “Và đứa bé phải tạp chủng, nó là con của em.” “ thể nào,” Louisa nhưng giọng điệu giờ chẳng còn chắc chắn. “Đứa bé là của em,” em trai ta lặp lại cách quả quyết. “Xác thịt của em. Dòng máu của em.” “ ta mang trong mình dòng máu của loài sói,” Louisa thầm. “Ả phù thủy này chính là người mà lời tiên tri nhắc tới. Nếu đứa bé còn sống, nó tiêu diệt tất cả chúng ta!” “Đưa họ biến khỏi tầm mắt của ta.” Giọng của Matthew nhuốm màu chết chóc và đầy thịnh nộ. “Trước khi ta xé xác họ thành nhiều mảnh và quẳng cho chó ăn.” đạp vỡ cái hàng rào và tóm lấy người bạn cùng chị của mình. “Ta …” Louisa vừa mở miệng nhìn xuống thấy Hancock nắm lấy cánh tay mình. “Ồ, tới nơi nào tôi dẫn đến,” ta dịu dàng . Hancock lấy chiếc nhẫn của Ysabeau khỏi ngón tay Louisa và ném sang Matthew. “Tôi tin rằng vật này là của vợ .” “Còn Kit?” Walter hỏi, đưa mắt nhìn Matthew thận trọng. “Có vẻ họ rất thích nhau, nhốt ta cùng Louisa.” Matthew đẩy gã tinh về phía Raleigh. “Nhưng ấy …” Walter định . “Uống máu gã ư?” Matthew tỏ vẻ cay nghiệt. “Chị ta làm rồi. Cách duy nhất để ma cà rồng cảm thấy tác dụng của rượu hay liều thuốc là tĩnh mạch của loài máu nóng.” Walter phán đoán tâm trạng của Matthew rồi gật đầu. “Tốt thôi, Matthew. Chúng tôi làm theo những gì muốn. Hãy đưa Diana cùng bọn trẻ tới Blackfriars và để mọi chuyện khác cho Hancock và tôi.” *** “Tôi bảo ấy cần lo lắng gì mà. Đứa bé vẫn khỏe.” Tôi kéo chiếc áo lót của mình xuống. Đáng lẽ tất cả về thẳng nhà nhưng Matthew lại phái Pierre tìm Susanna và Goody Alsop. Giờ đây, căn nhà ngập tràn những ma cà rồng và phù thủy đầy giận dữ. “Có lẽ bà có thể thuyết phục ấy.” Susanna rửa tay trong chậu nước xà phòng nóng. “Nếu chồng của tin vào chính mắt mình tôi chẳng thể làm hay gì để thuyết phục ông ấy cả.” Bà cất tiếng gọi Matthew. Gallowglass vào cùng , cả hai đứng kín cả ô cửa. “Có là sao chứ?” Khuôn mặt của Gallowglass tái mét. “Tôi bị gãy ngón tay và rạn cái xương sườn. Chỉ cần ngã cầu thang cũng có thể bị vậy rồi nhưng nhờ Susanna mà ngón tay bị gãy của tôi lành.” Tôi duỗi thẳng bàn tay vẫn bị sưng phồng và phải đeo chiếc nhẫn của Ysabeau sang tay kia, tuy vậy, các ngón tay có thể cử động mà đau đớn. Vết cắt bên người mất nhiều thời gian hơn. Matthew từ chối việc dùng máu ma cà rồng để chữa lành nó nên Susanna phải tìm giải pháp thay thế là loại thuốc đắp và vài mũi khâu phép thuật. “Giờ chúng ta có quá nhiều lý do chính đáng để căm ghét Louisa,” Matthew dứt khoát, “nhưng cũng phải cám ơn rằng: Chị ta định giết em vì Louisa mà nhắm mục tiêu thể trượt được. Giả như chị ta muốn đâm thương xuyên qua tim em chết mất.” “Louisa quá bận tâm đến lời tiên tri mà Gerbert với Ysabeau.” Gallowglass và Matthew liếc nhau. “Chẳng có gì đâu,” Matthew cho qua chuyện, “chỉ là vài điều ngu ngốc mà gã ta tưởng tượng ra để kích động Maman.” “Đó là lời tiên tri của Meridiana phải ?” Trong thâm tâm, tôi nhận ra nó khi Louisa nhắc tới. Từng từ ngữ mang theo nhiều ký ức về cái đụng chạm của Gerbert ở La Pierre. Và lời đó khiến khí bao quanh Louisa kêu lách tách bởi điện tích như thể ta chính là Pandora mở ra cái rương đầy phép thuật bị bỏ quên từ lâu. “Meridiana muốn dọa Gerbert hoảng sợ trước tương lai và bà ta thành công.” Matthew lắc đầu. “Chẳng có điều gì trong đó đúng với em cả.” “Cha là sư tử, còn là sói.” Lòng tôi chợt thấy buốt giá - điều đó báo hiệu tôi gặp rắc rối, tại nơi mà ánh sáng bao giờ có thể chiếu tới. Tôi nhìn chồng mình, trong những đứa trẻ của bóng đêm được nhắc tới trong lời tiên tri. Đứa con đầu lòng của cả hai mất. Tôi vội dập tắt suy nghĩ của bản thân, muốn giữ chúng trong tim và tâm trí mình đủ lâu để trở thành ám thị. Tuy nhiên, chẳng hiệu quả. Chúng tôi thẳng thắn với nhau tới mức thể che giấu Matthew hay chính bản thân tôi bất cứ điều gì. “Em chẳng có gì phải sợ cả,” Matthew , hôn lướt lên môi tôi. “Cuộc đời em đầy ắp những dấu hiệu của hủy diệt rồi.” Tôi để cam đoan với mình lần nữa, nhưng giác quan thứ sáu ở bên trong vẫn phớt lờ lời . Bằng cách nào đó, ở nơi nào đó, sức mạnh nguy hiểm và đầy chết chóc được giải phóng. Thậm chí, ngay lúc này, tôi có thể cảm thấy những sợi tơ của nó siết chặt và kéo tôi vào vùng bóng tối mịt mùng.