Mật mã Phù thủy 2B - Deborah Harkness [Kỳ ảo]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      25.

      Cái cây kỳ lạ tiếp tục lớn lên và phát triển trong ngày hôm sau và hôm sau nữa: Quả của nó chín rồi rụng xuống dưới đám rễ trong hỗn hợp thủy ngân và prima materia. Những nụ mới hình thành, trổ bông và ra hoa. Mỗi ngày lần những chiếc lá chuyển từ màu vàng kim sang màu xanh lục và lại trở về màu vàng kim. Thỉnh thoảng cái cây mọc ra những cành mới hoặc cái rễ mới vươn ra để tìm kiếm dưỡng chất. “Tôi chưa tìm được giải thích hợp lý cho nó,” Mary , ra dấu về phía những chồng sách mà Joan lôi từ giá xuống. “Cứ như thể chúng ta tạo ra thứ hoàn toàn mới vậy.”

      Bất chấp những kiện liên quan đến giả kim thuật làm xao lãng tâm trí đó, tôi vẫn quên những lo ngại của các phù thủy. Tôi dệt ra rồi lại tháo dỡ chiếc áo choàng vô hình màu xám của mình, mỗi lần như thế tôi lại làm nhanh hơn và tốt hơn, hiệu quả hơn. Marjorie hứa là tôi nhanh chóng có khả năng đặt sản phẩm dệt của mình thành ngôn từ để các phù thủy khác có thể sử dụng câu thần chú đó.

      Vài ngày sau, bộ từ St. James Garlickhythe về nhà, tôi leo cầu thang lên khu phòng của chúng tôi ở Hươu Đực và Vương Miện, gạt bỏ câu thần chú ngụy trang của mình như tôi vẫn làm. Annie ở đầu bên kia sân trong tìm kiếm miếng vải lanh sạch từ chỗ các nữ thợ giặt. Jack ở cùng với Pierre và Matthew. Tôi tự hỏi Françoise chuẩn bị gì cho bữa tối. Tôi sắp chết đói rồi.

      “Năm phút nữa mà ai cho tôi ăn, tôi gào lên đấy.” Thông báo của tôi bị ngắt quãng trong lúc tôi băng qua ngưỡng cửa bởi tiếng những chiếc ghim rơi rải rác sàn gỗ khi tôi rút chúng khỏi tấm lót cứng có hình thêu ở thân váy trước... Tôi ném cái yếm lên bàn rồi đưa tay tóm lấy những dải dây buộc để giữ cho vạt váy khép lại với nhau.

      tiếng ho hắng lịch cất lên từ phía lò sưởi.

      Tôi xoay người lại, các ngón tay siết chặt lớp vải che phần ngực.

      “Tôi e là kêu gào vẫn còn tốt đấy.” Giọng xào xạo như tiếng cát xoáy lộn trong cái cốc thủy tinh phát ra từ trong lòng sâu chiếc ghế bành được kéo gần tới cạnh lò sưởi. “Tôi sai người hầu của bà lấy rượu, và tứ chi già nua của tôi thể di chuyển đủ nhanh để đáp ứng nhu cầu của bà.”

      Chậm rãi, tôi vòng đến trước chiếc ghế bành đồ sộ ấy. Người lạ mặt trong nhà tôi nhướng cặp lông mày muối tiêu lên, nhìn xoáy vào dáng vẻ thiếu đoan trang chỉnh tề của tôi. Tôi cau mày đáp lại cái nhìn táo tợn của ông ta.

      “Ông là ai?” Người đàn ông này phải tinh, phù thủy hay ma cà rồng mà chỉ là lão già nhăn nheo.

      “Tôi tin rằng chồng bà và bạn bè ông ấy gọi tôi là Cáo Già. Về phần mình, tôi còn là cố vấn tối cao.” Người đàn ông ghê gớm nhất nước , và tất nhiên là trong những kẻ tàn nhẫn nhất, để cho những lời vừa lắng xuống. Vẻ mặt tử tế kia cũng giảm bớt ánh sắc sảo trong cái nhìn chòng chọc của ông ta.

      William Cecil ngồi trong phòng khách của tôi. Quá sửng sốt để có thể nhún gối chào thấp cách đúng mực, thay vào đó tôi trố mắt nhìn ông ta.

      “Vậy là bằng cách nào đó bà biết tôi. ngạc nhiên khi biết tiếng tăm của mình bay tới tận đây.” Khi tôi mở miệng định đáp lời, Cecil giơ bàn tay lên chặn lại. “Thưa bà, nếu khôn ngoan đừng chia sẻ quá nhiều với tôi.”

      “Tôi có thể làm gì cho ngài, ngài William?” Tôi thấy mình như nữ sinh bị gọi đến văn phòng hiệu trưởng vậy.

      “Người ta biết về tiếng tăm của tôi chứ phải tước hiệu của tôi. Vanitatis vanitatum, omnis vanitas,” Cecil lạnh nhạt . “Giờ tôi là Đức ngài Burghley, thưa bà Roydon. Nữ hoàng là bà chủ hào phóng.”

      Tôi lặng lẽ chửi thề. Tôi chưa bao giờ thấy hứng thú với việc các thành viên của tầng lớp quý tộc được nâng hàng phẩm tước và đặc quyền cao hơn. Khi cần biết, tôi tra cứu trong Từ điển lý lịch quốc gia. Và giờ tôi bị ông chủ của Matthew sỉ nhục. Tôi dàn hòa bằng cách tâng bốc ông ta bằng tiếng La tinh.

      “Honor virtutis praemium,” tôi thào , gom lại tài ăn dí dỏm của mình. quý trọng là giải thưởng cho đức hạnh. người hàng xóm của tôi ở Oxford là sinh viên tốt nghiệp trường Arnold. ta chơi bóng bầu dục và kỷ niệm chiến thắng trong giải New College bằng cách la to hết mức câu cách ngôn này ở Turf, trước vui sướng của đồng đội.

      “A, khẩu hiệu của nhà Shirley. Bà là thành viên của gia đình đó à?” Đức ngài Burghley chống ngón tay trước mặt và nhìn tôi với vẻ hứng thú nhiều hơn. “Họ nổi tiếng vì thiên hướng lan man.”

      ,” tôi . “Tôi là người nhà Bishop… phải là giám mục đâu.” Đức ngài Burghley nghiêng đầu biểu đạt công nhận lời. Tôi cảm thấy ham muốn lố bịch muốn bóc trần linh hồn mình cho người đàn ông này xem – hoặc chạy càng nhanh càng xa về phía đối diện hết mức có thể.

      “Nữ hoàng bệ hạ chấp nhận cho tăng lữ kết hôn, nhưng nữ giám mục , tạ ơn Chúa, còn nằm ngoài tưởng tượng của người.”

      “Đúng. . Tôi có thể làm gì cho ngài, thưa đức ngài?” Tôi lặp lại, dấu hiệu chỉ trích thấp thoáng xuất trong giọng . Tôi nghiến chặt răng.

      “Tôi nghĩ thế đâu, bà Roydon. Nhưng có lẽ tôi có thể làm gì đó cho bà đấy. Tôi khuyên bà nên quay về Woodstock ngay. Đừng chậm trễ.”

      “Tại sao, thưa đức ngài?” Tôi thoáng thấy sợ hãi.

      “Bởi mùa đông và lúc này nữ hoàng đủ bận bịu.” Burghley nhìn vào bàn tay trái của tôi. “Và bà kết hôn với ông Roydon. Bệ hạ rộng lượng, nhưng người chấp nhận được khi trong những sủng thần của mình kết hôn mà cho phép của người.”

      “Matthew phải là sủng thần của nữ hoàng – ấy là đặc vụ của người.” Tôi ấp tay lên bịt miệng mình, nhưng quá muộn để thu lại những lời .

      “Sủng thần và đặc vụ khác gì nhau nào – ngoại trừ Walsingham. Nữ hoàng thấy nguyên tắc đạo đức cứng nhắc của điên rồ, còn biểu gắt gỏng của chịu đựng nổi. Nhưng nữ hoàng rất thích Matthew Roydon. số người điều đó cũng nguy hiểm. Mà chồng bà có rất nhiều bí mật.”

      Cecil kéo người đứng dậy, dùng cây quyền trượng làm đòn bẩy. Ông ta rên lên mệt nhọc. “Hãy quay về Woodstock , thưa bà. Như vậy tốt nhất cho tất cả.”

      “Tôi rời xa chồng mình.” Elizabeth có thể ăn thịt cả triều thần của mình vào bữa sáng, như Matthew cảnh cáo tôi, nhưng bà ta khiến tôi chạy trốn khỏi thành phố đâu. thể khi mà cuối cùng tôi cũng ổn định, tìm được bạn bè và học phép thuật. Tất nhiên càng bao giờ có chuyện đó khi mà mỗi ngày Matthew lết người về nhà trông như bị tóm cổ kéo lê hàng dặm đường vậy, để rồi lại dành cả đêm để trả lời thư tín do những người cung cấp tin của nữ hoàng, cha và Đại Hội Đồng gửi đến.

      “Hãy với Matthew rằng tôi ghé qua.” Đức ngài Burghley chầm chậm ra cửa. Ở đó ông ta gặp Françoise bê đến cái bình lớn đựng rượu và trông cáu kỉnh bực bội. Thấy tôi, mắt mở to hơn. ấy vui khi thấy tôi ở nhà, tiếp khách với cái thân váy chỉn chu đứng đắn. “Cảm ơn vì cuộc chuyện, bà Roydon. Mở mang nhiều điều lắm.”

      Cố vấn tối cao nước dò dẫm xuống cầu thang. Ông ta quá già để lại vào chiều muộn như thế này, mình, giữa tháng . Tôi theo ông ta đến bến đậu, nhìn ông ta cả quãng đường mà lo lắng.

      cùng ông ấy , Françoise,” tôi thúc ấy, “và hãy đảm bảo Đức ngài Burghley tìm được những người hầu cận của mình.” Họ có thể ở quán Mũ Của Hồng Y Giáo Chủ nhậu say sưa với Kit và Will, hoặc có thể đợi lượt đò sang ở đầu Hẻm Water. Tôi muốn là người cuối cùng gặp cố vấn chính của nữ hoàng Elizabeth lúc còn sống.

      cần, cần,” Burghley với qua vai. “Tôi chỉ là lão già chống gậy. Trộm cướp lờ tôi mà quan tâm tới những người có khuyên tai và áo chẽn đuôi tôm ấy. Lũ ăn mày tôi có thể đánh bật được nếu cần. Và người của tôi cũng xa đây lắm. Hãy nhớ lời khuyên của tôi, thưa bà.”

      đến đó ông ta biến mất vào bóng tối nhập nhoạng.

      “Dieu.” Françoise làm dấu thánh sau đó chĩa các ngón tay về phía mắt quỷ để cầu an lành. “Lão ta là linh hồn già nua. Tôi thích cách lão ta nhìn bà. may là milord ở nhà. Ngài ấy cũng thích chuyện này đâu.”

      “William Cecil đủ già để làm ông nội tôi ấy chứ, Françoise,” tôi vặn lại, quay trở về phòng khách ấm cúng và nới lỏng dây buộc áo. Tôi rên lên tiếng thỏa mãn khi thít chặt được giảm bớt.

      “Đức ngài Burghley có cái nhìn như muốn lên giường với bà.” Françoise liếc mắt nhìn vào vạt áo của tôi.

      ư? Vậy ông ta nhìn tôi như thế nào?” Tôi tự rót cho mình cốc rượu và thả người xuống chiếc ghế của mình. ngày đưa đến bước ngoặt quyết định cho điều còn tồi tệ hơn.

      “Giống như bà là con cừu non sẵn sàng bị giết thịt và lão ta ước lượng giá trị bà mang lại.”

      “Ai đe dọa ăn thịt Diana vào bữa tối thế?” Matthew về êm ru như con mèo và cởi găng tay ra.

      “Khách của . vừa lỡ dịp với ông ta rồi.” Tôi nhấp ngụm rượu, vừa chực nuốt xuống Matthew nhấc cốc rượu từ tay tôi. Tôi kêu lên bực bội. “ có thể vẫy tay hay làm gì đó để em biết sắp di chuyển hả? Giật cả mình khi xuất trước mặt em kiểu đó.”

      “Vì em tiết lộ trong những dấu hiệu nhận biết của là nhìn ra ngoài cửa sổ, nên lấy làm vinh dự được chia sẻ với em rằng thay đổi chủ đề chuyện cũng là trong những dấu hiệu của em đấy.” Matthew nhấp hớp rượu và đặt cốc lên bàn. mệt mỏi chà tay lên mặt. “Khách nào thế?”

      “William Cecil đợi bên lò sưởi khi em về nhà.” Matthew trở nên im lìm cách kỳ quái.

      “Ông ta là người đáng sợ nhất mà em từng gặp,” tôi tiếp tục, với tay lấy lại cốc rượu. “Burghley có vẻ trông giống Ông Già Noel với mái tóc và chòm râu muối tiêu, nhưng em quay lưng về phía ông ta đâu.”

      “Rất khôn ngoan,” Matthew lặng lẽ , rồi nhìn Françoise chăm chú. “Ông ta muốn gì?”

      Françoise nhún vai. “Tôi biết. Ông ta ở đây khi tôi mua bánh thịt lợn của madame về. Đức ngài Burghley cầu rượu vang. Gã tinh uống hết mọi thứ có trong nhà từ sớm hôm nay nên tôi phải ra ngoài kiếm thêm.”

      Matthew bất chợt biến mất. Sau đó quay lại ngay với nhịp bước chân bình tĩnh hơn, trông có vẻ nhõm. Tôi đứng bật dậy. Gác mái – và tất cả bí mật cất giấu ở đó. “Ông ta…”

      ,” Matthew ngắt lời tôi. “Mọi thứ đều ở đúng vị trí chính xác. William có tại sao ông ta đến đây ?”

      “Đức ngài Burghley gửi lời tới .” Tôi ngập ngừng. “Và ông ta bảo em rời khỏi thành phố.”

      Annie bước vào phòng cùng với cậu nhóc Jack liên mồm và Pierre cười tươi rói, nhưng sau khi nhìn thấy mặt Matthew, nụ cười của Pierre tắt dần. Tôi đón lấy mấy món đồ vải lanh từ Annie.

      “Tại sao đưa bọn trẻ tới quán Mũ Của Hồng Y Giáo Chủ hả, Françoise?” Tôi . “Pierre cũng cùng.”

      “Hu ra!” Jack la lên sung sướng trước viễn cảnh của buổi tối chơi ngoài. “Ông Shakespeare dạy cháu trò tung hứng.”

      “Miễn là ông ấy cố gắng cải thiện văn phong viết lách của cháu, ta có gì phản đối cả,” tôi , bắt được cái mũ của Jack khi thằng bé tung nó lên . Điều cuối cùng chúng tôi cần là cậu bé bổ sung thêm khả năng giả mạo chữ ký vào danh sách kỹ năng của nó. “ và ăn bữa tối nhé. Cố gắng nhớ khăn tay của cháu dùng để làm gì đấy.”

      “Cháu nhớ rồi,” Jack vừa vừa đưa ống tay áo lên quệt ngang mũi.

      “Tại sao Đức ngài Burghley cả quãng đường đến Blackfriar để gặp ?” Tôi hỏi khi chúng tôi còn lại mình.

      “Bởi vì nhận được tin tức mật từ Scotland hôm nay.”

      “Giờ là gì nữa?” Tôi hỏi, cổ họng thít lại. Đây phải lần đầu tiên chuyện về các phù thủy Berwick được bàn luận khi có mặt tôi, nhưng hiểu sao diện của Burghley có vẻ khiến mọi chuyện giống như thể ma quỷ bò qua bậc cửa nhà chúng tôi.

      “Vua James tiếp tục hỏi cung các phù thủy. William muốn bàn bạc chuyện – nếu có – nữ hoàng nên làm để đáp trả lại.” nhíu mày trước thay đổi trong mùi hương của tôi khi nỗi sợ xâm chiếm. “Em nên gây rắc rối cho mình bằng những chuyện diễn ra ở Scotland.”

      biết có nghĩa mọi chuyện xảy ra.”

      ,” Matthew , các ngón tay dịu dàng cổ tôi khi cố gắng xóa bỏ căng thẳng trong tôi. “ chắc đâu.”

      ***

      Ngày hôm sau tôi từ chỗ Goody Alsop về nhà mang theo cái hộp gỗ bùa chú – nơi những câu thần chú tôi viết ra được ấp ủ cho tới lúc chúng sẵn sàng cho phù thủy khác sử dụng. Việc tìm cách đặt phép thuật của tôi thành ngôn từ là bước kế tiếp trong quá trình phát triển của tôi với tư cách là thợ dệt. Ngay lúc này chiếc hộp mới chỉ giữ những sợi thừng của thợ dệt. Marjorie nghĩ câu thần chú đặc biệt của tôi sẵn sàng cho các phù thủy khác.

      pháp sư ở phố Thames làm ra chiếc hộp từ cành của cây thanh hương trà mà con rồng lửa tặng tôi vào buổi tối tôi làm thần chú đệm của mình. Ông ta khắc hình cái cây bề mặt, rễ và cành lá của nó quấn vào nhau cách khác thường đến mức thể rằng chúng vốn là những cá thể riêng rẽ. chiếc đinh nào được đóng vào chiếc hộp cả. Thay vào đó là những khớp nối gần như vô hình. Pháp sư rất lấy làm tự hào về tác phẩm của ông ấy, còn tôi thể đợi để khoe với Matthew.

      Hươu Đực và Vương Miện yên ắng cách kỳ lạ. Cả lò sưởi lẫn nến trong phòng khách đều được đốt lên. Matthew ở phòng làm việc của , mình. Ba bình rượu đặt bàn trước mặt . Hai trong số đó đoán chừng rỗng . Matthew thường xuyên uống nhiều rượu đến thế này.

      “Có chuyện gì ổn à?”

      nhặt tờ giấy lên. Dấu xi đỏ đậm bám vào các nếp gấp của nó. Con dấu niêm phong được phá vỡ ngang ở giữa. “Chúng ta bị gọi vào triều.”

      Tôi chìm người vào chiếc ghế bành phía đối diện. “Khi nào?”

      “Nữ hoàng bệ hạ tử tế cho phép chúng ta đợi tới ngày mai.” Matthew hừ lạnh. “Cha bà ấy được khoan dung bằng nửa thế. Khi Henry muốn ai đó diện kiến, ông ta cho gọi họ ngay cả khi họ giường và gió bão thổi vù vù.”

      Tôi vui sướng được gặp nữ hoàng nước – khi tôi trở lại Madision. Còn sau khi gặp người đàn ông ghê gớm nhất vương quốc, tôi còn bất kỳ khao khát nào muốn gặp người phụ nữ lọc lõi nhất ấy nữa. “Chúng ta phải à?” Tôi hỏi, nửa hy vọng Matthew từ chối mệnh lệnh hoàng gia này.

      “Trong thư, nữ hoàng bỏ công nhắc nhớ đến đạo luật của bà chống lại phù phép, yểm bùa và thuật phù thủy.” Matthew quăng tờ giấy lên bàn. “Có vẻ như Danforth viết lá thư cho giám mục của ông ta. Burghley chôn vùi lời phàn nàn này, nhưng nó lại nổi lên.” Matthew chửi thề.

      “Vậy tại sao chúng ta lại diện kiến?” Tôi siết chặt chiếc hộp bùa chú của mình. Các sợi thừng bên trong trượt vòng quanh, háo hức muốn giúp trả lời câu hỏi của tôi.

      “Bởi nếu chúng ta ở trong phòng tiếp kiến tại cung điện Richmond vào hai giờ chiều mai, Elizabeth bắt giam cả hai.” Hai mắt Matthew sắc lạnh như những mảnh vỡ của biển thủy tinh. “Khi đó mất nhiều thời gian để Đại Hội Đồng biết về chúng ta.”

      Cả ngôi nhà náo động trước tin tức của chúng tôi. Tâm trạng lo lắng đề phòng đó cũng được người hàng xóm của chúng tôi chia sẻ vào sáng ngày hôm sau khi nữ bá tước Pembroke đến với đủ váy vóc để cung cấp cho cả giáo xứ. ấy đến bằng đường sông, thuyền đến Blackfriars – mặc dù khoảng cách thực tế tới trăm bước chân. xuất của nữ bá tước ở bến đậu Hẻm Water được xem như cảnh tượng có tầm quan trọng to lớn với công chúng nơi đây, chỉ thoáng chốc im lặng bao trùm khắp con đường bình thường luôn râm ran ồn ào của chúng tôi.

      Mary trông bình thản và hề lo lắng khi bước vào phòng khách, rồi đến Joan và hàng người hầu chỉnh tề phía sau.

      “Henry với tôi rằng được triều kiến vào chiều nay. có gì thích hợp để mặc cả.” Bằng cái phẩy tay ra hiệu hống hách, Mary hướng đoàn người hầu im ắng của mình về phía phòng ngủ của chúng tôi.

      “Tôi định mặc chiếc váy dài mà tôi mặc hôm đám cưới mà,” tôi phản đối.

      “Nhưng nó là đồ của Pháp!” Mary thở gấp kinh ngạc. “ thể mặc nó!”

      Những chiếc váy sa tanh thêu thùa lộng lẫy, váy nhung khêu gợi, váy lụa lóng lánh được dệt lẫn sợi vàng và bạc , cùng hàng đống váy chất liệu trong mờ mà mục đích để làm gì diễu qua trước mặt tôi.

      “Chỗ này nhiều quá mức, Mary. nghĩ gì thế?” Tôi hỏi, né người qua để tránh đụng vào người hầu lặng lẽ qua.

      ai ra chiến trường mà lại bộ áo giáp đủ quy cách cả,” Mary với phong thái pha trộn giữa vẻ ung dung nhàng và cay cú. “Cầu Chúa phù hộ, nữ hoàng bệ hạ là đối thủ ghê gớm đấy. cần đến tất cả bảo vệ mà tủ quần áo của tôi có thể cung cấp được.”

      Chúng tôi cùng nhau duyệt qua đủ lựa chọn. Làm thế nào để có thể sửa váy áo của Mary vừa vặn người tôi là điều bí , nhưng tôi biết cần hỏi. Tôi là nàng Lọ Lem, và những chú chim trong cánh rừng cùng các nàng tiên cây được gọi đến nếu nữ bá tước Pembroke cảm thấy cần thiết.

      Cuối cùng chúng tôi cũng duyệt được chiếc váy dài màu đen thêu đặc kín những bông hoa bách hợp và hoa hồng bạc. Mary nó là mẫu thiết kế từ năm ngoái, và bị thiếu những chân váy lớn hình bánh xe bò mà giờ là mốt thịnh hành. Elizabeth vui vẻ trước tính căn cơ tiết kiệm để ý tới những ý thích nhất thời về thời trang của tôi.

      “Hơn thế, bạc và đen còn là màu sắc của nữ hoàng nữa. Đó là lý do tại sao Walter luôn mặc chúng,” Mary giải thích, vuốt ve hai ống tay áo xẹp lép.

      Nhưng chiếc váy tôi thích hơn cả là chiếc váy lót dài, may bằng sa tanh, màu trắng nhìn thấy được ở phần trước những chân váy xẻ. Nó cũng được thêu, chủ yếu là hoa cỏ và động vật, kèm với vài kiến trúc kinh điển, các dụng cụ khoa học, và các hình ảnh nhân cách hóa nữ tính của nghệ thuật và khoa học. Tôi nhận ra đôi tay làm ra tác phẩm này cũng là thiên tài tạo ra đôi giày của Mary. Để chắc chắn, tôi tránh chạm vào các hình thêu, vì muốn Quý Bà Giả Kim Thuật mang chiếc váy trước khi tôi có cơ hội mặc nó.

      Phải cần đến bốn người phụ nữ và hai giờ đồng hồ mới giúp tôi hoàn thành việc ăn vận. Đầu tiên tôi mặc váy áo được độn và làm phồng theo những tỉ lệ kỳ cục, với đường may chần dày và chiếc váy phồng rộng kềnh càng khó di chuyển y như tôi hình dung. Cổ áo xếp nếp lớn và phô trương theo đúng chuẩn mực, dù Mary cam đoan với tôi là lớn bằng áo của nữ hoàng. Mary gắn cái quạt lông đà điểu vào eo lưng tôi. Nó treo rủ xuống giống quả lắc đung đưa khi tôi bước . Với những chiếc lông màu mận chín và tay cầm khảm ruby-ngọc trai, món đồ phụ kiện này dễ có giá gấp mười lần cái bẫy chuột của tôi ấy chứ, và tôi mừng là nó được gắn ở hông tôi theo đúng nghĩa đen.

      Đồ trang sức là phần gây tranh cãi nhất. Mary có mang theo chiếc hòm và lôi từ đó ra các món đồ vô giá, hết thứ này tới thứ khác. Nhưng tôi khăng khăng mang đôi khuyên tai của Ysabeau hơn là những viên kim cương hình giọt nước lộng lẫy mà Mary đề nghị. Đáng kinh ngạc hơn là chuỗi ngọc trai Joan quàng lên vai tôi. Trước kinh hoàng của tôi, Mary tách chuỗi hoa đậu chổi mà Philippe tặng nhân dịp đám cưới tôi ra và gắn những dải kết hoa vào chính giữa vạt áo. ấy kết những viên ngọc trai với cái nơ đỏ. Sau khi bàn bạc kỹ càng, Mary và Françoise đặt cái vòng ngọc trai đơn giản để lấp đầy đường cổ áo mở rộng của tôi. Annie ghim thêm vào cổ áo xếp nếp mũi tên bằng vàng của tôi, còn Françoise tạo kiểu tóc hình trái tim ôm lấy khuôn mặt tôi. Cuối cùng, Mary đặt chiếc mũ nỉ đính ngọc trai lên sau đầu tôi, che những bím tóc Françoise cuộn lại ở đó.

      Matthew với tâm trạng cáu kỉnh hơn sau mỗi giờ, cố nặn ra nụ cười và tỏ vẻ bị ấn tượng cách thích đáng.

      “Em có cảm giác như mình mặc bộ đồ hóa trang lên sân khấu,” tôi rầu rĩ .

      “Trông em đáng lắm – cực kỳ đấy,” cam đoan với tôi. trông cũng rất lộng lẫy, trong bộ đồ bằng nhung đen điểm màu trắng ở tay và cổ áo. Và đeo bức tiểu họa chân dung tôi cổ. Sợi dây chuyền dài được gài lên cái khuy nên hình mặt trăng hướng ra phía ngoài còn hình của tôi gần sát với trái tim .

      Cái nhìn đầu tiên của tôi khi thấy cung điện Richmond là đỉnh tòa tháp bằng đá màu kem, cờ hoàng gia tung bay trong gió . Rồi nhiều tòa tháp hơn nữa nhanh chóng xuất , lóng lánh trong bầu khí mùa đông khô hanh giống như tòa lâu đài trong câu chuyện cổ tích thần tiên. Sau đó cả lâu đài rộng lớn lộn xộn xuất trong tầm nhìn: con đường có mái vòm hình chữ nhật lạ lùng nằm ở phía đông nam, tòa nhà chính ba tầng nằm ở hướng tây nam, bao quanh là con hào rộng, và vườn cây ăn trái có tường bao phía xa xa. Đằng sau tòa nhà chính vẫn còn nhiều tòa tháp và đỉnh mái nhọn, bao gồm tòa nhà đôi gợi cho tôi nhớ đến trường Eton. cái cần trục khổng lồ nâng lên trung phía vườn ăn trái xa xa, đám người dỡ những hộp và gói hàng để đưa vào bếp và kho của cung điện. Lâu đài Baynard vẫn luôn có vẻ hùng vĩ nguy nga đối với tôi, nhìn lại bén gót so với nơi cư ngụ của hoàng tộc xưa kia.

      Những người chèo thuyền hướng chiếc xuồng vào bến đậu. Matthew lờ những cái nhìn chằm chằm và những câu hỏi han, để mặc cho Pierre và Gallowglass đáp lời hộ . Nhìn thoáng qua, Matthew trông có vẻ hơi chán chường. Nhưng tôi đủ gần để thấy được rà soát dọc bờ sông, đầy khẩn trương và cảnh giác.

      Tôi nhìn sang bên kia con hào tới con đường mái vòm có hai tầng. Các khung cửa vòm ở tầng trệt để mở thông thống, còn tầng rực rỡ với những khung cửa sổ bằng chì. Nhiều gương mặt háo hức ngó ra ngoài, hy vọng trông thoáng qua những người mới đến và kiếm được mẩu chuyện tán gẫu. Matthew nhanh chóng đặt vóc người lừng lững của giữa chiếc xuồng và những triều thần tò mò, che khuất tôi khỏi bị dễ dàng trông thấy.

      Những người hầu mặc chế phục, mỗi người mang thanh gươm hoặc giáo mác, dẫn chúng tôi qua trạm canh gác đơn giản để vào khu vực chính của cung điện. Khu phòng tầng trệt sôi nổi và ồn ào như bất kỳ tòa nhà văn phòng nào thời đại, với đám người hầu và triều thần hối hả đáp ứng các cầu và chấp hành những mệnh lệnh. Matthew rẽ phải; lính gác lịch chặn lại.

      “Bà ta gặp riêng chú đâu, trước khi chú tỏ ra lo lắng sốt vó trước mặt mọi người,” Gallowglass thào . Matthew chửi thề.

      Chúng tôi ngoan ngoãn theo những người hộ tống tới cầu thang lộng lẫy. Nơi đây chật ních người, và va chạm của con người, mùi hoa, mùi hương thảo dược làm người ta choáng váng. Ai ai cũng xức nước hoa trong nỗ lực bảo vệ bản thân thoát khỏi những mùi hương khó chịu, nhưng tôi tự hỏi phải chăng kết quả có vẻ tệ hơn. Khi đám đông nhận ra Matthew, có những tiếng thầm trong khi biển người rẽ ra. cao lớn hơn hầu hết bọn họ và cũng có cái khí chất hung hiểm như hầu hết các nhà quý tộc nam giới mà tôi gặp. khác biệt ở chỗ Matthew gây chết người – và ở mức độ nào đó những sinh vật máu nóng này nhận ra điều đó.

      Sau khi xuyên qua liền ba phòng chờ, mỗi phòng đầy tiếng ồn ào xôn xao với những cận thần độn như bị bông, sực nức mùi và đầy trang sức của cả hai giới tính với đủ mọi độ tuổi, cuối cùng chúng tôi cũng đến cánh cửa đóng kín, và đợi ở đó. Những tiếng thầm xung quanh dâng lên thành tiếng xì xào. người đàn ông câu đùa cợt, đám bạn của ta cười khúc khích. Quai hàm Matthew nghiến chặt.

      “Tại sao chúng ta phải đợi?” Tôi hỏi, giọng nén xuống để chỉ Matthew và Gallowglass nghe được.

      “Để làm nữ hoàng vui thích – và để cho triều đình thấy rằng hơn gì bày tôi.”

      Khi cuối cùng chúng tôi được dẫn vào diện kiến, tôi ngạc nhiên nhận thấy căn phòng này cũng đầy ắp người. “Riêng tư” là cụm từ tương đối trong triều đình của Elizabeth. Tôi tìm kiếm nữ hoàng, nhưng thấy bà ta đâu. Sợ rằng chúng tôi lại phải đợi lần nữa, tim tôi muốn chùng xuống.

      “Tại sao mỗi năm ta già thêm, còn Matthew Roydon dường như trông trẻ ra hai tuổi nhỉ?” giọng vui vẻ đến ngạc nhiên cất lên từ phía lò sưởi. Hầu hết mọi sinh vật tô vẽ dày đậm, sực nức mùi thơm, ăn vận xa xỉ phung phí trong căn phòng đều quay ra ngắm nghía chúng tôi. Chuyển động của họ làm lộ ra Elizabeth, nữ hoàng ngồi ở trung tâm náo nhiệt. Tim tôi lỡ nhịp. Đây là huyền thoại sống.

      “Thần thấy có thay đổi lớn nào ở người, thưa bệ hạ,” Matthew , hơi nghiêng người chào. “Semper eadem, y như nhau.” Cũng những lời này được vẽ trong biểu ngữ bên dưới huy hiệu hoàng gia trang trí lò sưởi. Lúc nào cũng như thế.

      “Thậm chí đức ngài cố vấn còn xoay sở để cúi chào được thấp hơn thế, thưa ngài, mà ông ta còn bị chứng thấp khớp cơ đấy.” Cặp mắt đen láy ánh lên bên dưới cái mặt nạ bằng phấn sáp. Dưới cái mũi khoằm nhọn, nữ hoàng mím cặp môi mỏng thành đường khắc nghiệt. “Và gần đây ta thích câu khẩu hiệu khác: Video et taceo.”

      Ta quan sát và ta im lặng. Chúng tôi gặp rắc rối rồi.

      Matthew dường như nhận thấy và vẫn thẳng tắp đứng như thể hoàng tử của vương quốc này chứ phải đặc vụ của nữ hoàng. Hai vai bạnh ra sau, đầu dựng thẳng, dễ là người đàn ông cao nhất trong căn phòng. Chỉ có hai người gần cao bằng : Henry Percy, người đứng dựa vào bức tường trông khốn khổ, và người đàn ông què tầm tuổi như ngài bá tước với mái tóc quăn và vẻ mặt xấc xược đứng bên cạnh nữ hoàng.

      “Cẩn thận đấy,” Burghley lầm bầm khi ngang qua Matthew, ngụy trang lời nhắc nhở bằng quả đấm cây quyền trượng của ông ta. “Người cho gọi thần, thưa bệ hạ?”

      “Linh hồn và Cái Bóng ở cùng chỗ. Hãy cho ta biết, Raleigh, cái đó xâm phạm nguyên tắc triết học đen tối nào đấy chứ?” Người bên cạnh nữ hoàng lè nhè lên tiếng. Đám bạn của chỉ vào Đức ngài Burghley và Matthew rồi phá lên cười.

      “Nếu ngài học ở Oxford chứ phải Cambridge, Essex, ngài biết câu trả lời và thấy nhục nhã vì phải hỏi câu đó.” Raleigh như vô tình chuyển trọng tâm cơ thể và thuận tiện đặt bàn tay lên gần chuôi kiếm của ta.

      “Thôi nào Robin,” nữ hoàng lên tiếng, khẽ vỗ vẻ khoan dung lên khuỷu tay ta. “Ngươi biết rằng ta thích khi người khác dùng tên thú cưng của ta mà. Đức ngài Burghley và ông Roydon tha thứ cho ngươi vì hành vi lần này.”

      “Ta thấy tiểu thư này là vợ ông, Roydon.” Bá tước Essex chuyển cặp mắt nâu chiếu sang tôi. “Chúng ta biết ông cưới vợ đấy.”

      “Ai là ‘chúng ta’ vậy?” Nữ hoàng vặn lại, lần này cho vố. “Đây phải việc của ngươi, Đức ngài Essex.”

      “Ít nhất Matt lo sợ bị trông thấy ở trong thành phố khi bên bà ấy.” Walter vuốt cằm. “Ngài cũng mới kết hôn đấy. Vợ ngài ở đâu vào ngày mùa đông đẹp trời thế này nhỉ?” Đây rồi, tôi nghĩ khi Walter và Essex mưu mẹo để chiếm thế thượng phong.

      “Phu nhân Essex ở phố Hart, tại nhà mẹ đẻ, cùng với người thừa kế mới sinh của ngài bá tước,” Matthew trả lời thay cho Essex. “Xin chúc mừng, đức ngài. Khi tôi ghé thăm nữ bá tước, bà ấy bảo tôi cậu nhà được đặt theo tên của ngài.”

      “Đúng. Robert được rửa tội ngày hôm qua,” Essex khó nhọc . trông hơi căng thẳng, lo lắng trước ý nghĩ Matthew ở quanh quẩn gần vợ và con .

      “Công tử được làm lễ, thưa đức ngài.” Matthew tặng cho bá tước nụ cười làm người ta kinh hãi. “ lạ lùng. Tôi thấy ngài có mặt ở buổi lễ.”

      “Cãi vã đủ rồi!” Elizabeth quát lớn, tức giận vì cuộc trò chuyện còn nằm dưới kiểm soát của bà. Nữ hoàng gõ những ngón tay thon dài vào thành ghế được bọc kín. “Ta chưa cho phép ai trong các ngươi cưới cả. Cả hai đều là đồ vô ơn, những tên xấu xa tham lam. Mang đến gặp ta.”

      Lòng bồn chồn lo lắng, tôi vuốt chân váy và nắm lấy cánh tay Matthew. Khoảng cách hơn chục bước chân giữa nữ hoàng và tôi dường như trải dài bất tận. Cuối cùng khi tôi tới cạnh bà, Walter lạnh lùng nhìn xuống sàn nhà. Tôi nhún gối chào và giữ nguyên tư thế đó.

      “Ít nhất ta cũng biết phép tắc hành xử,” Elizabeth công nhận. “Để ta đứng lên .”

      Khi đón gặp đôi mắt bà, tôi nhận ra nữ hoàng bị cận thị. Mặc dù tôi cách bà chỉ hơn mét rưỡi, nhưng bà phải nhíu mắt như là thể nhìn thấy mặt mũi tôi.

      “Hừm,” Elizabeth tuyên bố khi cuộc kiểm tra kết thúc. “Gương mặt ta thô quá.”

      “Nếu người nghĩ vậy, may là người cưới ấy,” Matthew cụt lủn.

      Elizabeth xem xét tôi thêm lúc. “Có vết mực các ngón tay ta.”

      Tôi giấu các ngón tay đáng xấu hổ đó đằng sau cái quạt mượn. Những vết bẩn từ thứ mực làm từ cây vú lá sồi thể nào tẩy được.

      “Và ta trả lương cho ông bao nhiêu, hả Cái Bóng, để vợ ông có thể trang trải cho chiếc quạt như thế?” Giọng Elizabeth chuyển sang hờn dỗi.

      “Nếu chúng ta sắp sửa bàn về tài chính của hoàng thượng có lẽ những người khác nên lui ra,” Đức ngài Burghley gợi ý.

      “Ồ, rất tốt,” Elizabeth gắt gỏng. “Ông ở lại, William và cả Walter nữa.”

      “Còn thần,” Essex .

      phải ngươi, Robin. Ngươi phải lo liệu buổi tiệc. Ta muốn được giải trí tối nay. Ta mệt mỏi với trò lên lớp và những bài học lịch sử rồi, cứ như ta là con bé nữ sinh vậy. kể chuyện của Vua John hay những cuộc phiêu lưu của chăn cừu lụy tình bám lấy người chăm nom ta thêm nữa. Ta muốn Symon nhào lộn. Nếu phải có vở kịch, hãy để nó là vở kịch có thầy gọi hồn và cái đầu đồng thau tiên đoán được tương lai.” Elizabeth gõ các khớp tay lên mặt bàn. “Time is, time was, time is past. Ta thích câu đó.”

      Matthew và tôi trao đổi những cái nhìn.

      “Thần tin vở kịch đó có tên là Friar Bacon và Friar Bungay, thưa bệ hạ,” phụ nữ trẻ thầm vào tai nữ hoàng.

      “Đúng là nó, Bess. Xem nó , Robin, và ngươi ngồi cạnh ta.” Bản thân nữ hoàng là nữ diễn viên rồi. Bà ta có thể từ cơn giận dữ thịnh nộ tới hờn dỗi rồi vòi vĩnh mà chẳng lỡ nhịp.

      Có phần được xoa dịu, bá tước Essex rút lui, nhưng trước khi còn bắn cho Walter cái lừ mắt khinh miệt. Mọi người xôn xao nhộn nhịp theo sau . Essex giờ là người quan trọng nhất trong nhóm kề cận, và giống thiêu thân lao vào lửa, những cận thần khác cũng háo hức chia sẻ ánh sáng của . Cánh cửa khép lại sau lưng bọn họ.

      “Bà thích chuyến viếng thăm ông Dee chứ, bà Roydon?” Giọng nữ hoàng vang lên lạnh lùng. Lúc này hề có giọng điệu phỉnh phờ trong đó. Giờ hoàn toàn là công việc.

      “Chúng thần có, thưa bệ hạ,” Matthew trả lời.

      “Ta biết ràng vợ ông có thể tự được, ông Roydon. Hãy để bà ta .”

      Matthew quắc mắt nhìn nhưng vẫn im lặng.

      “Vô cùng thích thú ạ, thưa bệ hạ.” Tôi vừa chuyện với nữ hoàng Elizabeth I. Gạt qua bên cảm giác tin nổi của mình, tôi tiếp tục. “Tôi là người nghiên cứu về giả kim thuật và có hứng thú với những cuốn sách và việc học hỏi.”

      “Ta biết bà là gì.”

      Nguy hiểm lóe lên xung quanh tôi, cơn bão lửa những sợi tơ màu đen phần phật bay và rền rĩ khóc.

      “Thần là bề tôi của người, thưa bệ hạ, giống như phu quân của thần,” Mắt tôi vẫn cương quyết chú mục vào đôi giày mềm của nữ hoàng nước . May mắn là chúng đặc biệt thú vị và vẫn vô tri vô giác.

      “Ta có đủ những kẻ nịnh thần và những thằng ngốc rồi, bà Roydon. Bà kiếm được chỗ trong đó với câu nhấn mạnh ấy đâu.” Đôi mắt bà ta lóe lên ánh sáng báo hiệu điềm xấu. “ phải tất cả đặc vụ đều báo cáo với chồng của bà. cho ta biết, Cái Bóng, các ngươi có việc gì với ông Dee?”

      “Đó là vấn đề riêng tư,” Matthew , cố giữ bình tĩnh cách khó khăn.

      có thứ như thế trong vương quốc của ta.” Elizabeth dò xét gương mặt Matthew. “Ông bảo ta được tin tưởng giao phó những bí mật của mình cho những kẻ mà lòng trung thành chưa được ông kiểm tra giúp ta,” bà ta lặng lẽ tiếp tục. “Chắc hẳn lòng trung thành của chính ta bị nghi ngờ chứ.”

      “Đó là chuyện riêng giữa ông Dee và bản thân thần, madam,” Matthew .

      “Rất tốt, ông Roydon. Vì ông quyết giữ bí mật, nên ta cho ông biết việc của ta với ông Dee để xem xem liệu có thể nới lỏng mồm miệng ông được . Ta muốn Edward Kelly trở lại .”

      “Thần tin giờ ông ta là Ngài Edward, thưa bệ hạ,” Burghley sửa lời nữ hoàng.

      “Ngươi nghe chuyện đó từ đâu?” Elizabeth hỏi.

      “Từ thần,” Matthew ôn tồn đáp. “Rốt cuộc việc của thần cũng là phải biết về những chuyện này. Tại sao người cần Kelley?”

      “Ông ta biết cách tạo ra đá tạo vàng. Và ta để nó rơi vào tay nhà Hapsburg.”

      “Đó là điều người lo sợ ư?” Matthew hỏi nghe có vẻ nhõm.

      “Ta sợ chết và để lại vương quốc của ta như miếng thịt ngon lành cho mấy con chó tranh giành từ Tây Ban Nha, Pháp, đến Scotland,” Elizabeth , đứng lên và tiến về phía . Càng đến gần, khác biệt to lớn về kích thước và sức mạnh của họ càng . Bà là phụ nữ sống sót chống lại những đòn đánh vô hình suốt bao năm trời. “Ta lo sợ thần dân của ta trở nên thế nào khi ta ra . Mỗi ngày ta cầu nguyện giúp đỡ của Chúa để cứu nước khỏi tai họa chắc chắn đó.”

      “Amen,” Burghley ngâm nga đệm theo.

      “Edward Kelley phải là câu trả lời của Chúa, thần hứa với người điều đó.”

      “Bất cứ kẻ cai trị nào sở hữu đá tạo vàng cũng có được giàu có vô tận.” Ánh mắt Elizabeth sáng lên. “Có thêm nhiều vàng để tùy ý sử dụng, ta có thể đánh bại Tây Ban Nha.”

      “Và nếu muốn trở thành loài chim hét, bị đám người ăn xin chén sạch đây,” Matthew đáp lại.

      “Hãy để ý mồm miệng, Roydon,” Burghley cảnh cáo.

      “Bệ hạ đặt ra mục tiêu để lao vào vùng nước nguy hiểm, thưa đức ngài. Công việc của tôi cũng là cảnh báo người chuyện đó.” Matthew trang trọng cách cẩn thận. “Edward Kelley là tinh. Công việc liên quan đến giả kim thuật nguy hiểm gần bằng pháp thuật, như Walter có thể chứng thực. Đại Hội Đồng liều lĩnh giữ cho niềm đam mê của Rudolf II được trong vòng bí để tránh bước ngoặt nguy hiểm như xảy ra với Vua James.”

      “James có mọi quyền hành để bắt giữ các phù thủy đó!” Elizabeth nóng nảy . “Cũng như ta có mọi quyền hành để tuyên bố quyền đối với lợi ích này, tạo ra đá tạo vàng.”

      “Có phải người đưa ra thỏa thuận cứng rắn với Walter khi ta đến Tân Thế Giới ?” Matthew hỏi. “Nếu ta tìm thấy vàng ở Virginia, người đòi tất cả chuyển giao qua tay người đúng ?”

      “Ta tin đó chính xác là những điều kiện được dàn xếp giữa chúng ta,” Walter nhàn nhạt , rồi vội vàng bổ sung thêm, “mặc dù dĩ nhiên thần lấy làm vinh hạnh được làm điều đó vì bệ hạ.”

      “Ta biết ông đáng tin mà, Cái Bóng. Ông ở nước phục vụ ta, nhưng ông tranh cãi cho Đại Hội Đồng của ông như thể những ước muốn của bọn họ là quan trọng hơn cả.”

      “Thần cũng có cùng khao khát như người, thưa bệ hạ: để cứu nước khỏi thảm họa. Nếu người theo con đường của Vua James và bắt đầu ngược đãi các tinh, phù thủy và wearh, người phải gánh chịu đau khổ vì điều đó, và vương quốc này cũng vậy.”

      “Thay vào đó ông đề nghị ta nên làm gì?” Elizabeth hỏi.

      “Thần đề nghị chúng ta hãy tiến hành cuộc dàn xếp – cũng quá khác biệt so với giao kèo người lập ra với Raleigh. Thần lo liệu để Edward Kelley trở về nước , người có thể khóa vào trong Tháp và buộc giao ra đá tạo vàng – nếu có thể.”

      “Và đổi lại?” Elizabeth rốt cuộc cũng là con của cha bà ta, hiểu rằng đời có gì là miễn phí cả.

      “Đổi lại người cho các phù thủy Berwick náu, số lượng bao nhiêu tùy thuộc vào thần có thể đưa họ ra khỏi Edinburgh cho tới khi cơn điên cuồng của Vua James qua .”

      “Tuyệt đối !” Burghley . “Nghĩ mà xem, madam, chuyện gì có thể xảy ra cho mối quan hệ với các quốc gia láng giềng của chúng ta ở phương bắc nếu người định mời những phù thủy Scotland qua biên giới!”

      còn nhiều phù thủy ở Scotland đâu,” Matthew dứt khoát , “vì người từ chối những cầu xin trước đây của thần.”

      “Cái Bóng, ta nghĩ trong những công việc của ông khi ở là đảm bảo người của ông can thiệp vào chuyện chính trị của chúng ta. thế nào nếu những mưu riêng này bị khám phá ra hả? Ông giải thích thế nào về các hành động của mình?” Nữ hoàng chăm chú nhìn .

      “Thần rằng nỗi khốn khổ quen biết với mọi người đàn ông y như người cùng chung chăn gối với bọn họ, thưa bệ hạ.”

      Elizabeth thốt ra tiếng kêu khe khẽ thích thú. “Điều đó là đáng ngờ đối với phụ nữ đấy,” bà lạnh nhạt . “Tốt rồi. Chúng ta thống nhất thế. Ông tới Praha tìm Kelly. Bà Roydon có thể ở bên ta, trong triều, để đảm bảo tốc độ trở về của ông.”

      “Vợ tôi nằm trong thỏa thuận của chúng ta, và cần thiết cử thần tới Bohemia vào tháng thế này. Người quyết tâm mang Kelly trở về. Thần lo liệu để ta được giao tới nơi.”

      “Ông phải là vua ở đây!” Elizabeth chọc ngón tay vào ngực . “Ông đến nơi ta cử ông , ông Roydon. Nếu ông tuân lệnh, ta tống cả ông và vợ phù thủy của ông vào Tháp vì tội mưu phản. Và còn tệ hơn nữa kia,” bà ta , đôi mắt long lên.

      Có người gõ cửa.

      “Vào !” Elizabeth gầm lên.

      “Nữ bá tước Pembroke xin được diện kiến, thưa bệ hạ,” tên lính kính cẩn thưa.

      “Trời ạ,” nữ hoàng chửi thề. “Ta bao giờ có được phút bình yên à? Cho bà ta vào.”

      Mary Sidney tiến vào phòng, chiếc khăn trùm và cổ áo xếp nếp của cuộn lên theo nhịp di chuyển từ phòng chờ lạnh lẽo cho tới căn phòng nóng hầm hập mà nữ hoàng có mặt. nhún gối chào duyên dáng ở nửa đường , lướt tiếp vào trong phòng và lại nhún gối chào hoàn hảo lần nữa. “Nữ hoàng bệ hạ,” , đầu cúi thấp.

      “Chuyện gì đưa bà vào triều thế, phu nhân Pembroke?”

      “Người từng ban cho thần ân huệ, thưa bệ hạ – phòng khi cần thiết.”

      “Phải, phải,” Elizabeth gắt gỏng đáp. “Chồng bà giờ muốn gì à?”

      gì cả.” Mary đứng thẳng lên. “Thần đến để xin được phép gửi nhờ bà Roydon món đồ vụn vặt quan trọng.”

      “Ta hình dung nổi lý do tại sao,” Elizabeth bắt bẻ. “Bà ta có vẻ chẳng có ích cũng tháo vát gì.”

      “Thần cần những chiếc cốc thủy tinh đặc biệt dùng cho các thí nghiệm mà chỉ có thể kiếm được từ xưởng sản xuất của hoàng đế Rudolf. Vợ của trai thần – xin thứ lỗi cho thần, vì sau cái chết của Philip chị ấy giờ tái hôn và là nữ bá tước Essex – cho thần biết rằng ông Roydon sắp được cử tới Praha. Bà Roydon cùng ông ấy, với chúc phúc của người, và tìm kiếm thứ thần cần.”

      hão huyền, thằng nhóc ngu ngốc! Bá tước Essex kháng cự nổi chuyện chia sẻ mẩu thông tin biết với cả thế giới.” Elizabeth xoay ngoắt trong luồng gió của bạc và vàng. “Ta lấy đầu con vẹt tự cao tự đại đó vì chuyện này!”

      “Người hứa với thần, thưa bệ hạ, khi trai thần hy sinh bảo vệ vương quốc của người, rằng ngày nào đó người ban cho thần ân huệ.” Mary dịu dàng cười với Matthew và tôi.

      “Và bà muốn lãng phí món quà giá trị như thế cho hai người này ư?” Elizabeth tỏ vẻ hoài nghi.

      “Matthew từng cứu sống Philip. Ông ấy giống như trai của thần.” Mary chớp mắt nhìn nữ hoàng với dáng vẻ ngây thơ nghiêm túc.

      “Bà có thể vừa dịu dàng lại vừa mơ mộng, phu nhân Pembroke. Ta ước chúng ta được nhìn thấy bà nhiều hơn trong triều.” Elizabeth giơ hai tay lên. “Được rồi. Ta giữ lời. Nhưng ta muốn Edward Kelley diện trước mặt ta vào giữa mùa hè – và ta muốn chuyện này bị làm lộn xộn lên, hay cả châu Âu đều biết việc của ta. Ông hiểu ta chứ, ông Roydon?”

      “Vâng, thưa bệ hạ,” Matthew qua hàm răng nghiến chặt.

      “Vậy hãy vác xác đến Praha . Hãy mang vợ ông theo cùng, để làm vui lòng phu nhân Pembroke.”

      “Đội ơn người, bệ hạ.” Matthew trông khá đáng lo như thể ước gì có thể vặt cái đầu tóc giả của Elizabeth Tudor khỏi thân thể bà.

      “Biến khỏi mắt ta , tất cả các người, trước khi ta đổi ý.” Elizabeth trở về chiếc ghế của bà và ngồi sụp xuống dựa vào lưng ghế được trạm khắc hoa văn.

      Đức ngài Burghley hất đầu ra hiệu chúng tôi làm theo mệnh lệnh của nữ hoàng. Nhưng Matthew thể để mặc các vấn đề đứng yên đó chưa giải quyết.

      lời lưu ý, thưa bệ hạ. Xin đừng đặt lòng tin của người vào bá tước Essex.”

      “Ông thích , ông Roydon, cả William hay Walter cũng thế. Nhưng làm ta cảm thấy trẻ lại.” Elizabeth chiếu đôi mắt đen láy nhìn . “Ông từng bày tỏ rằng phục vụ vì ta và gợi ta nhớ tới những thời gian vui vẻ hơn. Giờ ông tìm được người khác và ta bị bỏ rơi.”

      quan tâm của ta giống như cái bóng dưới ánh mặt trời/ Đuổi theo khi ta bay, và bay khi ta theo đuổi/ Đứng và nằm bên cạnh ta, làm những gì ta làm,’” Matthew khẽ . “Thần là Cái Bóng của người, thưa bệ hạ, và có quyền lựa chọn nhưng đến nơi người dẫn dắt.”

      “Ta mệt mỏi rồi,” Elizabeth rồi quay đầu , “cũng chẳng có bụng dạ nào dành cho thơ với ca nữa. Hãy để mặc ta.”

      ***

      “Chúng ta Praha,” Matthew khi chúng tôi trở lại thuyền của Henry và hướng về London. “Chúng ta phải về nhà.”

      “Nữ hoàng để yên cho chỉ bởi vì chạy trốn đến Woodstock đâu, Matthew,” Mary hợp tình hợp lý, vùi mình vào trong tấm chăn lông.

      ấy ám chỉ Woodstock, Mary ạ,” tôi giải thích. “Matthew muốn đến nơi… xa hơn.”

      “À.” Lông mày Mary nhíu lại. “Ồ.” Gương mặt trở nên bần thần.

      “Nhưng chúng ta ở quá gần để đạt được những gì mong muốn,” tôi . “Chúng ta biết cuốn cổ thư ở đâu, và nó có thể giải đáp cho tất cả những nghi vấn của chúng ta.”

      “Và có thể nó vô nghĩa, giống như cuốn cổ thư ở nhà ông Dee,” Matthew mất kiên nhẫn đáp. “Chúng ta tìm cách khác.”

      Nhưng sau đó Walter thuyết phục Matthew rằng nữ hoàng rất nghiêm túc và tống cả hai chúng tôi vào Tháp nếu chúng tôi từ chối người. Khi tôi kể lại cho Goody Alsop, bà cũng phản đối đến Praha như Matthew.

      “Cháu nên về thời đại của mình, đừng du hành xa xôi đến Praha. Cho dù cháu ở lại đây, cũng mất nhiều tuần lễ mới chuẩn bị được câu thần chú có thể mang cháu về nhà. Phép thuật có những luật lệ dẫn dắt và nguyên tắc của nó mà cháu còn chưa nắm được, Diana ạ. Tất cả những gì cháu có lúc này là con rồng lửa ương ngạnh, glaem gần như bị trói buộc, và xu hướng đặt những câu hỏi có đáp án gây hại. Cháu có đủ kiến thức về thuật pháp để tiếp tục kế hoạch của mình.”

      “Cháu tiếp tục nghiên cứu học tập ở Praha, cháu hứa.” Tôi cầm lấy đôi tay bà. “Matthew đạt được giao kèo với nữ hoàng có thể bảo vệ hàng chục phù thủy. Chúng cháu thể chia cách. Quá nguy hiểm. Cháu để ấy tới triều đình của hoàng đế mà có cháu.”

      ,” bà mỉm cười buồn bã . “ bao giờ chừng nào thân thể cháu còn hơi thở. Tốt lắm. Hãy cùng wearth của cháu. Nhưng hãy biết điều này, Diana Roydon: Cháu sắp sửa bước vào hành trình mới, và ta thể tiên đoán được nó có thể dẫn tới đâu.”

      “Hồn ma của Bridget Bishop với cháu ‘ có con đường nào ở phía trước mà ta.’ Khi cháu cảm thấy cuộc sống của chúng cháu cuốn vào những dòng xoáy khôn lường, cháu lại lấy an ủi từ những lời đó,” tôi , cố gắng an ủi bà. “Chừng nào Matthew và cháu còn ở bên nhau, Goody Alsop, nơi nào chúng cháu cũng quan trọng.”

      Ba ngày sau trong lễ hội St. Brigid, chúng tôi ra khơi bắt đầu hành trình dài tới đế chế La Mã thần thánh, tìm kiếm tinh người phản bội, và sau rốt, để nhìn thấy cuốn cổ thư Ashmole 782.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      26.

      Verin de Clermont ngồi trong ngôi nhà của ta tại Berlin và nhìn chăm chú vào tờ báo, tin vào mắt mình.

      Tờ Độc Lập Ngày 1 tháng Hai năm 2010

      người phụ nữ phát cuốn sách cổ thuộc về Mary Sidney, nữ thi sĩ nổi tiếng thời đại Elizabeth và là em của Ngài Philip Sidney.

      “Nó nằm cái tủ chạn phô trương của mẹ tôi ở đầu cầu thang,” Henrietta Barber, 62 tuổi, kể với tờ Độc Lập. Bà Barber lau dọn những thứ thuộc về mẹ bà trước khi yên nghỉ. “Đối với tôi nó trông giống bó giấy cũ kỹ rách nát.”

      Các chuyên gia tin rằng cuốn sách cổ này biểu như cuốn sổ ghi chép các công việc liên quan đến thuật giả kim được Nữ bá tước Pembroke cất giữ trong suốt mùa đông năm 1590/91. Các giấy tờ liên quan đến khoa học của nữ bá tước được cho là bị hủy hoại trong vụ cháy tại nhà Wilton vào thế kỷ mười bảy. Người ta làm cách nào mà những thứ này lại thuộc sở hữu của gia đình Barber.

      “Chúng ta nhớ đến Mary Sidney trước hết với tư cách là nhà thơ,” đại diện của nhà đấu giá Sotheby bình luận, vị này sắp đặt món đồ vào buổi đấu giá tháng Năm, “nhưng vào thời ấy, bà còn nổi tiếng là nhà thực hành giả kim thuật vĩ đại.”

      Cuốn sách cổ được đặc biệt quan tâm vì nó còn chỉ ràng nữ bá tước được hỗ trợ trong phòng thí nghiệm của bà. Trong thí nghiệm đề “việc tạo ra cây Dianæ,” bà nhận dạng người phụ tá của mình bằng chữ cái viết hoa DR. “Chúng ta có thể bao giờ xác định được người đàn ông giúp đỡ nữ bá tước Pembroke,” sử gia Nigel Warminster của đại học Cambridge giải thích, “nhưng cuốn cổ thư này cho chúng ta biết lượng thông tin khổng lồ về phát triển thí nghiệm trong thời cách mạng khoa học.”

      “Cái gì thế, Schatz?” Ernst Neumann đặt ly rượu trước mặt vợ. trông quá mức nghiêm túc đối với buổi tối thứ Hai, mà hôm nay lại là gương mặt Verin ngày thứ Sáu.

      có gì,” lẩm bẩm đáp lại, mắt vẫn dán chặt vào các dòng chữ in trước mặt. “ mẩu tin về công việc gia tộc chưa hoàn thành ý mà.”

      “Có liên quan đến Baldwin à? ta lại đánh mất triệu euro ngày hôm nay sao?” Người vợ này là người có khiếu kiếm tiền, và Ernst hoàn toàn tin tưởng ta. Baldwin rèn giũa tôi luyện trong những vụ rắc rối thương mại quốc tế khi Ernst vẫn còn trẻ. Ernst giờ gần sáu mươi, và bạn bè ghen tỵ vì người vợ trẻ trung của . Những tấm ảnh cưới của họ là hình Verin trông y như mới chụp ngày hôm nay cùng phiên bản hai mươi lăm tuổi của chính , được cất giấu an toàn khuất khỏi tầm nhìn.

      “Baldwin bao giờ để mất triệu bất cứ loại tiền nào trong đời ta.” Ernst nhận thấy Verin thực trả lời câu hỏi của .

      kéo tờ báo về phía mình và đọc bài in đó. “Tại sao em lại quan tâm tới cuốn sách cũ?”

      “Để em gọi cuộc điện thoại trước ,” kín đáo . Hai tay vẫn vững vàng nắm điện thoại nhưng Ernst nhận ra biểu khác thường trong đôi mắt màu bạc của . ấy tức giận, sợ hãi và nghĩ về quá khứ. thấy cùng cái nhìn đó vào khoảnh khắc trước khi Verin cứu sống , giật ra khỏi bà mẹ kế của .

      “Em gọi cho Mélisande à?”

      “Ysabeau,” Verin máy móc , bấm loạt số.

      “Ysebeau, đúng rồi,” Ernst . Có thể hiểu được thấy khó lòng mà nghĩ tới mẹ kế của Verin bằng bất cứ cái tên nào khác hơn cái tên được dùng để chỉ nữ chúa của gia đình de Clermont khi bà ta giết cha của Ernst sau chiến tranh.

      Cuộc gọi của Verin mất thời gian kết nối lâu cách quá đáng. Ernst có thể nghe thấy những tiếng lách cách lạ lùng, như thể cuộc gọi được chuyển tiếp hết lần này tới lần khác. Cuối cùng nó cũng thông. Điện thoại đổ chuông.

      “Ai đó?” giọng trẻ trung hỏi. ta nghe có vẻ là người Mỹ - hoặc người , nhưng trọng gần như biến mất.

      Verin gác máy ngay lập tức. thả điện thoại xuống bàn và vùi mặt vào hai bàn tay. “Ôi, Chúa ơi. Nó xảy ra, y như cha em .”

      “Em làm sợ đấy, Schatz,” Ernst . nhìn thấy nhiều điều khủng khiếp trong đời, nhưng có thứ gì mạnh mẽ bằng thứ tra tấn Verin trong những dịp hiếm hoi khi ngủ. Những cơn ác mộng về Philippe đủ để làm suy sụp người vợ bình thường vốn rất điềm tĩnh của . “Ai nghe máy thế?”

      phải là người mong đợi,” Verin đáp, giọng nghèn nghẹn. Đôi mắt màu xám ngước lên nhìn . “Matthew đáng ra phải trả lời cuộc gọi, nhưng ấy thể. Bởi ấy ở đây, ấy ở nơi đó.” nhìn tờ báo.

      “Verin, em gì vô lý thế,” Ernst nghiêm nghị . chưa bao giờ gặp người kế rắc rối này, thành phần trí thức và là con chiên ghẻ trong gia đình. Nhưng lại quay số điện thoại lần nữa. Lần này cuộc gọi được thông thẳng.

      có đọc báo hôm nay , Verin? Cháu trông đợi cuộc gọi của hàng giờ rồi.”

      “Cháu ở đâu, Gallowglass?” Cậu cháu trai là kẻ phiêu bạt khắp nơi. Trong quá khứ cậu ta gửi đến những tấm bưu ảnh mà ghi gì ngoài số điện thoại, chúng được gửi từ mọi con đường cậu : xa lộ ở Đức, đường lộ 66 ở Mỹ, Trollstigen ở Na Uy, đường hầm xuyên núi Guoliang ở Trung Quốc. nhận được vài lời thông báo cụt lủn kiểu này từ khi bắt đầu kỷ nguyên điện thoại quay số quốc tế. Với GPS và mạng Internet, có thể xác định được Gallowglass ở bất kỳ đâu. Dù vậy, Verin vẫn nhớ những tấm bưu ảnh kia.

      “Đâu đó ở bên ngoài Warrnambool,” Gallowglass áng chừng.

      “Warrnambool là cái nơi quái nào hả?” Verin hỏi.

      “Australia,” Ernst và Gallowglass cùng lúc.

      “Có phải cháu nghe thấy trọng tiếng Đức nhỉ? tìm thấy bạn trai mới rồi à?” Gallowglass trêu chọc.

      “Coi chừng đấy, nhóc,” Verin nạt. “Tuy cậu là người nhà, nhưng ta vẫn có thể xé toạc cổ họng cậu ra đấy. Đó là chồng ta, Ernst.”

      Ernst nhoài người về phía trước từ ghế ngồi và lắc đầu vẻ cảnh cáo. thích mỗi khi vợ hóa thân thành nữ ma cà rồng – cho dù khỏe hơn. Verin phẩy tay gạt nỗi quan ngại của .

      Gallowglass cười khùng khục, còn Ernst quyết định rằng chàng ma cà rồng lạ này có vẻ ổn. “Đó mới là Verin đáng sợ của cháu. vui được nghe thấy giọng sau bao nhiêu năm. Và đừng có giả vờ như ngạc nhiên chút nào với câu chuyện đó so với việc cháu nhận được cuộc gọi của .”

      phần trong hy vọng là ông mê sảng,” Verin thú nhận, nhớ lại cái đêm khi và Gallowglass ngồi bên giường Philippe và lắng nghe ông lảm nhảm.

      tưởng bệnh đó lây truyền và cháu cũng nhảm đúng ?” Gallowglass bẻ lại. Verin để ý cậu ta có vẻ rất thích Philippe những ngày đó.

      hy vọng đó chỉ là trường hợp tình thế, như điều hiển nhiên.” Tin vào điều đó dễ dàng hơn là tin vào lựa chọn kia: câu chuyện thể có của cha về phù thủy se sợi thời gian là .

      “Dù sao vẫn giữ lời hứa chứ?” Gallowglass nhàng .

      Verin ngập ngừng. Chỉ thoáng thôi, nhưng Ernst thấy. Verin luôn giữ lời hứa. Khi còn là cậu bé co ro sợ hãi, Verin hứa với rằng trở thành người đàn ông. Ernst bấu víu vào lời cam đoan ấy khi mới sáu tuổi, y như bấu víu vào tất cả những lời Verin hứa từ khi đó.

      chưa gặp Matthew với ấy. Kể từ khi …”

      “Ta nghĩ trai kế của ta thậm chí còn hơn cả rắc rối ư? thể nào.”

      “Hãy cho ấy cơ hội, Verin. ấy cũng là con của Philippe. Mà ông thẩm mỹ tinh tế tuyệt vời về phụ nữ.”

      “Phù thủy đó phải là con của ông,” Verin luôn.

      con đường gần Warrnambool, Gallowglass mím môi và từ chối trả lời. Verin có thể biết về Diana và Matthew nhiều hơn bất cứ ai khác trong gia đình, nhưng biết nhiều bằng cậu. có vô số cơ hội để bàn luận về ma cà rồng và bọn trẻ khi cặp vợ chồng này trở về. Giờ cần thiết phải tranh cãi về nó.

      “Hơn nữa, Matthew ở đây,” Verin , nhìn vào tờ báo. “ gọi vào số đó. Có ai đó trả lời, phải là Baldwin.” Đó là lý do ngắt kết nối nhanh như thế. Nếu Matthew phải dẫn dắt dòng tu, vậy số điện thoại ấy đáng lẽ phải được chuyển sang cho người con trai còn sống duy nhất mang dòng máu của Philippe. “Con số đó” được sinh ra từ những năm đầu tiên mới có điện thoại. Philippe chọn nó: 917, vì ngày sinh nhật của Ysabeau vào tháng Chín. Với mỗi công nghệ mới và mỗi thay đổi thành công trong hệ thống điện thoại quốc gia và quốc tế, con số này vẫn suy chuyển, và lặp lại đại hơn.

      gọi tới Marcus.” Gallowglass cũng gọi số đó.

      “Marcus?” Verin thở hắt ra. “Tương lai của những người nhà de Clermont phụ thuộc vào Marcus ư?”

      cũng hãy cho cậu ta cơ hội, Verin. Cậu ta là chàng trai tốt.” Gallowglass ngừng lại. “Vì tương lai của gia tộc, điều đó phụ thuộc vào tất cả chúng ta. Philippe biết điều đó, nên ông mới bắt chúng ta hứa quay trở về Sept-Tours.”

      Philippe de Clermont rất đặc biệt đối với con và cháu trai của ông. Họ thấy được các dấu hiệu: câu chuyện về phù thủy trẻ người Mỹ với sức mạnh to lớn tên Bishop, giả kim thuật, và rồi xuất những phát lịch sử dị thường.

      Sau đó, và chỉ sau đó, Gallowglass và Verin trở về chỗ ngồi của gia đình de Clermont. Philippe sẵn lòng tiết lộ lý do vì sao việc gia đình tụ họp lại cùng nhau quan trọng đến thế, nhưng Gallowglass biết.

      Gallowglass chờ đợi suốt hàng thập kỷ. Rồi nghe được chuyện về phù thủy đến từ Massachusetts tên Rebecca, trong những hậu duệ cuối cùng của Bridget Bishop đến từ Salem. Lời đồn đại về sức mạnh của lan truyền rộng khắp, cũng như cả tin tức về cái chết bi kịch của . Gallowglass lần theo dấu vết con sống sót của ta tới phía bắc bang New York. định kỳ đến kiểm tra bé, quan sát khi Diana Bishop đu các thanh truyền monkey bar ở sân chơi, đến các bữa tiệc sinh nhật, và tốt nghiệp đại học. Gallowglass có cảm giác tự hào như bất kỳ bậc cha mẹ nào khi thấy qua được kỳ thi vấn đáp Oxford. Và thường đứng ngay bên dưới chùm chuông ở tháp Harkness, Yale, tiếng chuông vang dội chấn động xuyên qua khắp thân thể , trong khi giáo sư trẻ bộ băng qua khu sân bãi. Quần áo của khác, nhưng có gì nhầm lẫn được với dáng kiên quyết của Diana hay đường nét bờ vai , mỗi khi mặc váy phồng và cổ áo xếp nếp hay cái quần dài cùng chiếc áo jacket nam kiểu cách.

      Gallowglass cố gắng giữ khoảng cách, nhưng đôi khi phải can thiệp – giống như cái ngày năng lượng của lôi kéo tinh tới bên cạnh và sinh vật khác người này bắt đầu bám theo . Nhưng Gallowglass lấy làm tự hào về bản thân mình vì hàng trăm lần phải kiềm chế để lao bổ xuống cầu thang của tháp chuông Yale, choàng hai cánh tay ôm lấy giáo sư Bishop và cho nghe vui mừng đến mức nào được gặp lại sau biết bao năm trời.

      Khi Gallowglass biết rằng Baldwin được gọi về Sept-Tours theo lệnh của Ysabeau vì trường hợp khẩn cấp nào đó liên quan đến Matthew, chàng Gael biết giờ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi những điều dị thường liên quan đến lịch sử xuất . Gallowglass thấy bài báo về phát hai bức tranh tiểu họa vô danh thời Elizabeth. Lúc tìm tới Sotheby, chúng bị mua mất. Gallowglass hoang mang lo lắng, nghĩ chúng có thể rơi nhầm vào tay người khác. Nhưng đánh giá thấp Ysabeau. Khi chuyện với Marcus sáng nay, cậu con trai của Matthew khẳng định chúng an toàn nằm bàn Ysabeau tại Sept-Tours. Vậy là hơn bốn trăm năm kể từ khi Gallowglass bí mật mang các bức tranh giấu tại ngôi nhà ở Shropshire. tuyệt được nhìn thấy chúng – và hai sinh vật được vẽ trong đó – lần nữa.

      Trong khi chuẩn bị cho chuyến tụ họp bão tố như vẫn luôn làm: bằng việc di chuyển xa và nhanh nhất có thể. Có thời nó từng là biển cả và phải bằng đường tàu, nhưng giờ Galowglass đường bộ, lái mô tô chạy quanh biết bao nhiêu ngã rẽ zic zắc và những sườn núi. Làn gió lùa qua mái tóc bờm xờm của và chiếc áo jacket da ôm sát quanh cổ để che làn da bao giờ có vết rám nắng nào, Gallowglass sẵn sàng cho cuộc gọi nhận nhiệm vụ để hoàn thành lời hứa từ rất lâu trước đây của nhằm bảo vệ gia tộc de Clermont bằng bất cứ giá nào.

      “Gallowglass? Cháu vẫn còn đó chứ?” Giọng Verin rè rè qua điện thoại, kéo cậu cháu trai lại từ cơn mơ màng.

      “Vẫn ở đây, Verin.”

      “Khi nào cháu định ?” Verin thở dài và ngả đầu vào lòng bàn tay. cho phép mình nhìn Ernst. Ernst tội nghiệp, người chủ tâm kết hôn với ma cà rồng, và khi làm vậy, vô thức đem bản thân dính líu vào câu chuyện của máu và thèm khát đan cài và xoáy lộn xuyên suốt hàng thế kỷ. Nhưng hứa với cha mình, và mặc dù Philippe chết, Verin thể để ông thất vọng vào lúc này, và ngay từ ban đầu cũng .

      “Cháu bảo Marcus đợi cháu vào ngày kia.” Gallowglass thừa nhận mình thấy nhõm bởi quyết định của .

      “Chúng ta gặp cháu ở đó.” Verin cần thời gian để báo tin cho Ernst rằng sắp phải sống dưới mái nhà của mẹ kế . vui vẻ gì đâu.

      “Thượng lộ bình an nhé, Verin,” Gallowglass cố thốt ra trước khi cúp máy.

      Gallowglass cho điện thoại vào túi và nhìn đăm đăm ra biển. bị đắm tàu lần bờ biển Australia này. nơi được xô vào bờ, nàng tiên cá đến bên mạn tàu trong cơn giông bão để rồi thấy có thể sống đất bằng. với tìm mấy điếu thuốc lá. Giống như việc lái xe mô tô mà có mũ bảo hiểm, hút thuốc cũng là cách miệt thị vũ trụ vạn vật này ban tặng bất tử bằng tay này còn tay kia lại lấy từng người thương.

      “Cả ngươi cũng mang những thứ này khỏi ta phải ?” hỏi ngọn gió. Gió xì xào đáp lại. Matthew và Marcus có những ý kiến rất kiên quyết về việc hút thuốc gián tiếp. Bởi thuốc lá giết nổi bọn họ, có nghĩa họ nên hủy diệt những người xung quanh.

      “Nếu giết chết tất cả bọn họ, ta ăn gì đây?” Marcus chỉ ra logic thể nhầm lẫn được. Đó là quan điểm kỳ lạ đối với ma cà rồng, nhưng Marcus nổi tiếng vì điều đó, Matthew cũng khá hơn là mấy. Gallowglass cho đây là khuynh hướng chịu ảnh hưởng bởi nền giáo dục.

      hút xong điếu thuốc và lục tìm trong túi áo cái bao da chứa hai mươi tư mẩu gỗ tròn có đường kính gần ba phân và dày khoảng năm ly. Chúng được cắt từ cành cây bị đốt trụi mọc lên gần ngôi nhà tổ tiên của . Mỗi mẩu gỗ có vết xém bề mặt, những mẫu tự của thứ ngôn ngữ mà còn ai sử dụng nữa.

      luôn có tôn trọng dành cho phép thuật, thậm chí trước cả khi gặp Diana Bishop. Có những sức mạnh khắp trái đất và biển cả mà sinh vật nào hiểu được, và Gallowglass biết đủ để nhìn theo cách khác khi chúng đến. Nhưng thể kháng cự lại những chữ rune thần bí. Chúng giúp định vị được những vùng nước nguy hiểm trong số mệnh của mình.

      rắc những mẩu gỗ nhẵn mịn, để chúng rơi qua kẽ tay như nước. muốn biết hướng của thủy triều – cùng hướng với người nhà de Clermont hay chống lại họ?

      Khi dừng lại, rút ra chữ rune về các vấn đề bế tắc lúc này. Nyd, con chữ tượng trưng cho vắng mặt và nỗi khao khát. Gallowglass ấn bàn tay vào túi lần nữa để hiểu thêm những gì muốn nắm giữ trong tương lai. Odal, nét chạm biểu mái nhà, gia đình và kế thừa. rút ra chữ rune cuối cùng, con chữ cho biết cách lấp đầy ước muốn day dứt của .

      Rad. chữ rune rối loạn, tượng trưng cho cả trở về và ra , hành trình bắt đầu và kết thúc, lần gặp gỡ đầu tiên cũng là cuộc sum họp được chờ đợi từ lâu. Bàn tay Gallowglass khép lại quanh mẩu gỗ. Lần này ý nghĩ của nó ràng.

      cũng thượng lộ bình an nhé, Diana. Và hãy mang người chú ấy của cháu cùng,” Gallowglass với biển cả và bầu trời trước khi leo lên xe máy và hướng tới tương lai còn phải hình dung hay trì hoãn nữa.





      Phần IV. Đế chế Praha

      27.

      “Chiếc tất dài màu đỏ của đâu rồi?” Matthew chạy sầm sập xuống lầu, cau có trước đống hòm xiểng la liệt khắp sàn. Tâm trạng bước ngoặt quyết định trở nên tồi tệ hơn đường qua chuyến hành trình bốn tuần lễ khi chúng tôi phải tách Pierre, bọn trẻ và hành lý ở Hamburg. Chúng tôi mất thêm mười ngày nữa bởi di chuyển từ vào quốc gia theo Thiên Chúa giáo tính thời gian bằng niên lịch khác. Ở Praha, giờ là ngày mười tháng Ba, mà bọn trẻ và Pierre phải tới nơi rồi.

      bao giờ tìm được nó trong đống hỗn độn này!” Matthew cằn nhằn, trút cơn bực dọc vào chiếc váy lót của tôi.

      Sau khi sống nhờ vào các túi buộc yên ngựa và độc nhất cái rương dùng chung trong nhiều tuần lễ, tất cả đồ dùng tư trang được gửi đến ba ngày sau khi chúng tôi dọn vào ngôi nhà hẹp ngang, cao chênh vênh con dốc đại lộ Sporrengasse dẫn tới lâu đài Praha. Những hàng xóm người Đức của chúng tôi gán tên phố là Spur bởi họ cho rằng đó là cách duy nhất để thuyết phục con ngựa leo ngược lên phố.

      “Em biết có tất dài màu đỏ đấy,” tôi , đứng thẳng lên.

      “Có chứ.” Matthew bắt đầu bới quanh cái hòm đựng đồ vải lanh của tôi.

      “Chúng có trong đó đâu,” tôi , nhắc nhở điều hiển nhiên đó.

      Chàng ma cà rồng nghiến răng. “ tìm ở khắp mọi nơi rồi.”

      “Để em tìm chúng cho.” Tôi nhìn chiếc quần legging đen đứng đắn cách hoàn hảo của . “Tại sao phải là màu đỏ?”

      “Vì cố gắng thu hút chú ý của Đức Hoàng Đế La Mã Thần Thánh kia!” Matthew sà vào đống quần áo khác của tôi.

      Đôi tất dài màu đỏ tươi như máu bắt mắt hơn, miễn sao người đàn ông chủ định mặc chúng là ma cà rồng cao hơn mét chín, và có đôi chân dài. Tuy nhiên, dụng tâm của Matthew cho kế hoạch này hề nao núng. Tôi tập trung tinh thần, đòi hỏi chiếc quần tất tự thân, và lần theo những sợi chỉ màu đỏ. Lần theo dấu vết của người và đồ vật là khả năng hữu ích khi là thợ dệt, và tôi có vài cơ hội tận dụng nó đường .

      “Người đưa thư của cha đến chưa?” Matthew góp thêm chiếc váy lót khác vào ngọn núi váy áo nằm giữa hai chúng tôi và định đào bới tiếp.

      “Đến rồi, biết là thứ gì, để cạnh cửa ấy.” Tôi tìm xuyên qua lòng chiếc tủ búp phê quá khổ: chuỗi những bao tay sắt, tấm khiên có hình đại bàng hai đầu mặt, và đống đồ đạc bát đĩa được trau truốt tỉ mỉ. Tôi vui mừng khua khua những ống tất dài màu đỏ. “Tìm thấy rồi!”

      Matthew quên bẵng mất cơn khủng hoảng hàng dệt kim này. Gói bưu kiện chiếm toàn bộ chú ý của . Tôi nhìn sang thứ khiến quá đỗi kinh ngạc.

      “Đó… là tác phẩm của Bosch à?” Tôi nhận ra tác phẩm của Hieronymus Bosch bởi cách dùng các dụng cụ giả kim và trường phái tượng trưng kỳ quái của ông ta. Ông ta phủ kín các tấm ván gỗ bằng những con cá chuồn, côn trùng, đồ gia dụng cỡ khổng lồ, và trái cây gợi cảm. Rất lâu trước khi trạng thái phê thuốc là mốt, Bosch nhìn thế giới này trong những sắc màu rực rỡ và kết hợp đáng lo ngại.

      Tuy nhiên, giống như các tác phẩm Hobein của Matthew ở Chòi Gác Cổ, công trình này rất lạ. Nó là bộ ba bức tranh, được ghép từ ba tấm ván gỗ có khớp nối. Nó được thiết kế để đặt bệ thờ, các bộ tranh ba bức được giữ kín ngoại trừ những dịp lễ tôn giáo đặc biệt, và hiếm khi được trưng bày bên ngoài các viện bảo tàng đại. Tôi băn khoăn biết mình còn bỏ lỡ hình ảnh đáng kinh ngạc nào nữa .

      Người họa sĩ phủ ra bên ngoài các tấm ván chất nhuộm màu đen mượt như nhung. cái cây khô queo lung linh tỏa sáng dưới ánh trăng vắt ngang qua mặt trước cả hai tấm ván kia. con sói tí hon núp mình dưới đám rễ, và con cú đậu cành cây cao. Cả hai con vật đều nhìn chằm chằm vào người xem cách cố ý. Hàng tá những con mắt khác sáng quắc nổi lên từ nền tối đen quanh cái cây, quái gở và lộ liễu. Phía sau cây sồi chết, sừng sững những cái cây tưởng chừng như bình thường với thân màu xanh nhợt và cành màu xanh lục óng ánh tỏa sáng nhiều hơn cho khung cảnh. Chỉ khi nhìn kỹ hơn, tôi mới thấy những cái tai mọc cây, như thể chúng lắng nghe thanh của đêm.

      “Nó có ý nghĩa gì?” Tôi hỏi, nhìn chằm chằm vào tác phẩm của Bosch thắc mắc.

      Các ngón tay Matthew nghịch ngợm những cái móc chiếc áo chẽn của . “Nó diễn giải câu tục ngữ cổ của Flemish: ‘Tai vách, mạch rừng; bởi vậy tôi quan sát, im lặng, và lắng nghe.’” Câu này gói gọn hoàn hảo cuộc đời đầy bí mật của Matthew và gợi tôi nhớ tới khẩu hiệu thời của Elizabeth. Lớp bên ngoài của bộ tranh mô tả ba phong cảnh có mối tương quan với nhau: bức tả những thiên thần sa ngã, được vẽ cùng phông nền đen mượt như nhung. Ban đầu thoáng nhìn, trông họ như những con chuồn chuồn với đôi cánh kép tỏa sáng lung linh, nhưng lại có thân thể của con người, với đầu và chân vặn xoắn lại trong tra tấn, giống các thiên thần rơi xuống từ thiên đường. tấm ván đối diện, bông hồng chết dành cho Cuộc Phán Xét Cuối Cùng trong khung cảnh còn khủng khiếp hơn cả những bức bích họa ở Sept-Tours. Những chiếc quai hàm mở toang của cá và sói là lối vào địa ngục, nhét vào đó kẻ bị đọa đầy và ký thác chúng cho nỗi đau đớn giày vò bất tận.

      Tuy nhiên bức ở chính giữa lại là hình ảnh rất khác về cái chết: Lazarus hồi sinh điềm nhiên trèo ra khỏi quan tài của ông ta. Với đôi chân dài, mái tóc đen, nét mặt nghiêm nghị, nhìn khá giống Matthew. Xung quanh viền tấm ván ở giữa, những cây nho thiếu sinh khí kết hoa trái lạ lùng. số máu. Số còn lại sinh ra con người và loài vật. Và hề có Chúa Jesus trong toàn bộ tác phẩm.

      “Lazarus giống . Chả trách muốn Rudolf có nó.” Tôi đưa cho Matthew đôi tất của . “Bosch hẳn cũng phải biết là ma cà rồng.”

      “Jeroen – hay Hieronymus như em biết – thấy vài điều ông ta nên thấy,” Matthew u ám . “ biết Jeroen chứng kiến cảnh ăn cho tới khi thấy các bức phác họa ông ta vẽ với sinh vật máu nóng. Từ ngày đó, ông ta tin tất cả sinh vật đều có bản chất hai mặt, phần con, phần người.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Và đôi khi có cả phần thực vật nữa,” tôi , ngắm nghía người phụ nữ khỏa thân có trái dâu tây làm đầu và những trái sơ ri làm bàn tay chạy trốn con quỷ nắm đinh ba đội con cò như mũ. Matthew thốt lên thích thú. “Có phải Rudolf cũng biết là ma cà rồng, giống như Elizabeth và Bosch ?” Tôi ngày càng lo lắng hơn vì số lượng người biết bí mật này.

      “Đúng thế. Hoàng đế cũng biết là thành viên của Đại Hội Đồng.” vặn xoắn cái quần tất màu đỏ tươi thành cái nút. “Cảm ơn em tìm ra chúng.”

      “Giờ hãy cho em biết nếu có thói quen đánh mất chìa khóa ô tô, bởi vì em muốn bị dính vào cơn hoảng loạn kiểu này mỗi buổi sáng khi sắp sửa làm đâu.” Tôi luồn hai cánh tay vòng qua thắt lưng và áp má lên trái tim . Nhịp đập chậm rãi đều đặn đó luôn khiến tôi thấy an tĩnh.

      “Em làm gì nào, ly dị sao?” Matthew đáp trả lại cái ôm âu yếm, ngả đầu lên đầu tôi để chúng tôi vừa khít với nhau cách hoàn hảo.

      hứa với em ma cà rồng ly dị mà.” Tôi siết cái. “ giống nhân vật hoạt hình nếu mặc đôi tất đỏ ấy vào. Nếu là , em đôi màu đen. nổi trội miễn bàn.”

      “Đồ phù thủy,” Matthew , rồi buông tôi ra với nụ hôn.

      lên đồi tới lâu đài, mặc chiếc quần tất đen đứng đắn và mang theo cuộn thư dài ngoằng, (thực ra là đoạn thơ) đề nghị Rudolf cuốn sách tuyệt diệu cho bộ sưu tập của ông ta. trở xuống sau bốn giờ đồng hồ, với đôi tay , và lá thư giao cho tên hầu của hoàng đế. cuộc diện kiến nào. Thay vào đó Matthew đợi cùng với tất cả các vị đại sứ khác cầu kiến.

      “Kẹt trong lâu đài với cả đám thân thể nóng ấm đó nhốt lại cùng nhau thích . cố tìm chỗ nào đó thoáng để thở, nhưng dãy phòng quanh đó đầy nhóc phù thủy.”

      “Phù thủy ư?” Tôi trèo xuống khỏi cái bàn dùng để cất thanh gươm của Matthew an toàn lên nóc tủ để đồ bằng vải lanh chuẩn bị chờ khi Jack đến.

      “Khoảng mấy chục người,” Matthew . “Họ phàn nàn về những chuyện xảy ra ở Đức. Gallowglass đâu rồi?”

      “Cháu trai mua trứng và bảo đảm an ninh phục vụ cho ngôi nhà bằng quản gia và đầu bếp.” Françoise thẳng thừng từ chối tham gia cuộc hành trình cùng chúng tôi tới Trung Tâm Châu Âu, nơi ấy coi là vùng đất vô thần của Lutheran. Giờ ấy quay về Chòi Gác Cổ, làm tình làm tội Charles. Gallowglass phục vụ như thư đồng và tổng quản gia của tôi cho tới khi những người khác đến. chàng tiếng Đức và Tây Ban Nha tuyệt hảo, điều đó khiến chàng trở nên thể thiếu được khi liên quan tới việc cung cấp thực phẩm cho cả nhà. “Kể cho em nghe thêm về các phù thủy .”

      “Thành phố này là thiên đường an toàn cho mọi sinh vật khác người ở Trung Tâm Châu Âu, những kẻ lo lắng cho an toàn của mình – tinh, ma cà rồng, hoặc phù thủy. Nhưng các phù thủy được đặc biệt chào đón trong triều đình của Rudolf, bởi ông ta thèm muốn tri thức của họ. Cả sức mạnh của họ nữa.”

      thú vị!” Tôi . Ngay khi tôi bắt đầu băn khoăn về nhân dạng của họ loạt các gương mặt xuất trước con mắt thứ ba của tôi. “Người pháp sư có bộ râu đỏ là ai thế? Còn phù thủy có mắt xanh lam và mắt xanh lục nữa?”

      “Chúng mình ở đây lâu để cần quan tâm đến nhân dạng của họ,” Matthew cấm cảu đường ra cửa. Vì phải kiêm thêm ngày làm việc cho Elizabeth, nên định qua bên kia sông tới thành phố Praha cổ với danh nghĩa Đại Hội Đồng. “ gặp em trước khi trời tối. Hãy ở đây cho tới khi Gallowglass trở về nhé. muốn em chuồn mất đâu.” Cũng có thể hiểu ấy muốn tôi túm năm tụm ba với bất kỳ phù thủy nào.

      Gallowglass trở lại Sporrengasse với hai ma cà rồng và cây bánh quy xoắn. chàng đưa món sau cho tôi và giới thiệu những người hầu mới. Karolína (đầu bếp) và Tereza (quản gia) là thành viên của thị tộc có dây mơ rễ má với các ma cà rồng Bohemia chuyên phục vụ tầng lớp quý tộc và những vị khách ngoại quốc quan trọng. Giống như những người hầu cận của nhà de Clermont, họ có danh tiếng – và mức lương lớn khác thường – bởi tuổi thọ siêu nhiên và lòng trung thành như loài sói của họ. Vì mức giá thích đáng, nên chúng tôi cũng đồng thời mua được cam đoan đảm bảo giữ bí mật từ người đứng đầu thị tộc, vị này chuyển những người phụ nữ từ nhà của đại sứ giáo hoàng đến. Vị đại sứ hòa nhã đồng ý chiều theo những người nhà de Clermont. Xét đến cùng bọn họ đều là công cụ sắp đặt cuộc bầu cử đức giáo hoàng mới đây, và ông ta biết ai là người phết bơ lên miếng bánh mỳ của mình. Còn tôi chỉ quan tâm đến chuyện Karolína biết làm món trứng tráng cho bữa sáng thôi.

      Gia nhân trong nhà chúng tôi được thiết lập xong, Matthew tếch lên ngọn đồi mỗi sáng để tới lâu đài trong khi tôi dỡ hành lý, gặp gỡ hàng xóm láng giềng trong khu phụ cận bên dưới lâu đài gọi là Malá Strana, và trông ngóng các thành viên còn vắng mặt trong nhà. Tôi nhớ vui tươi và đôi mắt mở to tò mò của Annie, cũng như khả năng bất bại lôi kéo rắc rối của Jack. Con đường quanh co của chúng tôi đầy những đứa trẻ đủ mọi độ tuổi và quốc tịch, vì hầu hết các đại sứ đều sống ở đây. Hóa ra Matthew phải là người ngoại quốc duy nhất ở Praha mà hoàng đế tránh thân cận. Mọi người tôi gặp đều thiết đãi Gallowglass những câu chuyện về việc Rudolf làm mất mặt số nhân vật có địa vị quan trọng như thế nào chỉ để dành vài giờ với gã bán đồ cổ ham đọc sách đến từ Ý hoặc gã thợ mỏ hèn mọn đến từ Saxony.

      Vào buổi chiều muộn ngày đầu xuân, ngôi nhà tràn ngập mùi thơm nức của món thịt lợn và bánh hấp bình dị tên nhóc tầm tám tuổi hay gây lộn chặn ngang.

      “Bà Roydon!” Jack reo lên, mặt vùi vào trong vạt áo tôi còn hai cánh tay ôm chặt lấy tôi. “Bà có biết ra có bốn thành phố ở Praha ? London chỉ duy nhất thành phố. Còn cái lâu đài kia và dòng sông cũng thế. Pierre chỉ cho cháu xem cối xay nước vào ngày mai.”

      “Chào Jack,” tôi , xoa đầu thằng bé. Ngay cả trong cuộc hành trình rét cóng, ăn cháo suông đến Praha, thằng bé vẫn cao vổng lên được. Pierre chắc phải xúc cả xẻng đồ ăn cho thằng bé. Tôi ngước lên mỉm cười với Annie và Pierre.

      “Matthew rất vui vì tất cả mọi người đến. ấy nhớ mọi người lắm.”

      “Chúng cháu cũng nhớ ông ấy,” Jack , ngả cái đầu ra sau để ngước nhìn tôi. Thằng bé có mấy quầng thâm dưới mắt, bất chấp việc lớn phổng hẳn lên thằng bé trông vẫn xanh xao.

      “Cháu có bị ốm ?” Tôi hỏi, tay đưa lên sờ trán thằng bé. Những cơn cảm lạnh có thể trở nên nguy hiểm chết người trong khí hậu khắc nghiệt thế này, người ta bàn tán về bệnh dịch kinh khủng trong khu thành cổ mà Matthew nghĩ có chiều hướng trở thành dịch cúm.

      “Thằng bé có rắc rối với chuyện ngủ nghê,” Pierre khẽ . Tôi có thể hiểu ngữ điệu nghiêm trọng của ta rằng có chuyện hơn thế, nhưng có thể đợi sau.

      “Thế đêm nay cháu phải ngủ nhé. Có chiếc giường lông khổng lồ trong phòng cháu đấy. với Tereza , Jack. Bà ấy hướng dẫn mọi thứ và cho cháu tắm rửa trước bữa tối.” Trong quan tâm đúng đắn của ma cà rồng, các sinh vật máu nóng ngủ cùng Matthew và tôi tầng hai, vì ngôi nhà hẹp bề ngang chỉ cho phép có phòng để đồ và nhà bếp ở tầng trệt. Điều đó có nghĩa tầng được bố trí thành phòng trang trọng dành đón tiếp khách. Gia nhân còn lại trong nhà là ma cà rồng tuyên bố chủ quyền với tầng thứ ba cao ngất, là nơi có tầm nhìn và những ô cửa sổ thoáng đãng có thể mở toang để đón khí trời.

      “Ông Roydon!” Jack hét inh tai, nhào tới cửa và mở toang cánh cửa ra trước khi Tereza kịp ngăn nó lại. Làm thế nào thằng bé phát ra Matthew là chuyện bí , vì trời tối mịt còn từ đầu tới chân Matthew bao trong vải len màu xám tro.

      “Thong thả nào,” Matthew , tóm lấy Jack trước khi thằng bé tự làm đau mình bằng cách đâm thẳng vào đôi chân cứng như đá của ma cà rồng. Gallowglass nắm lấy cái mũ lưỡi chai của thằng bé khi nó chạy qua, làm rối tung mái tóc.

      “Chúng cháu gần như đông cứng cả người. sông ấy. Còn xe trượt tuyết bị lật nhào lần, nhưng con chó bị thương. Cháu ăn thịt lợn lòi nướng. Annie bị vướng váy vào thùng xe và suýt té nhào.” Jack thể kể chi tiết về hành trình của họ mà lại nhanh được. “Cháu trông thấy ngôi sao băng. Nó lớn lắm, nhưng Pierre bảo cháu phải chia sẻ nó với ông Harriot khi chúng ta quay về nhà. Cháu vẽ bức tranh về nó cho ông ấy.” Jack thò tay vào trong chiếc áo chẽn bụi bặm của nó và lôi ra mẩu giấy cũng cáu bẩn kém. Thằng bé trình tờ giấy cho Matthew với sùng kính như đối với thánh tích thiêng liêng.

      “Bức tranh đẹp đấy,” Matthew , ngắm nghía bức vẽ với quan tâm thích đáng. “Ta thích cách cháu thể đường cong của cái đuôi. Và cháu đặt các ngôi sao khác quanh nó. Điều đó rất khôn ngoan, Jack ạ. Ông Harriot vui mừng trước khả năng quan sát của cháu đấy.”

      Jack đỏ mặt. “Đó là mảnh giấy cuối cùng của cháu. Họ có bán giấy ở Praha ạ?” Hồi ở London, Matthew vẫn cung cấp cho Jack túi đầy những mảnh giấy thừa vào mỗi sáng. Làm thế nào Jack xài hết được chúng đó là vấn đề của mấy trò mua bán.

      “Thành phố này ngập những thứ đó,” Matthew . “Pierre đưa cháu tới cửa hàng ở Malá Strana vào ngày mai.”

      Sau lời hứa hẹn kích thích đó, khó khăn mới đưa bọn trẻ lên lầu được, nhưng Tereza chứng tỏ là người sở hữu kết hợp quý giá giữa dịu dàng êm ái và tính kiên quyết cứng rắn để hoàn thành nhiệm vụ. Điều đó tạo cho bốn người lớn cơ hội chuyện tự do.

      “Jack bị ốm à?” Matthew cau mày hỏi Pierre.

      , milord. Từ khi chúng tôi rời khỏi các vị, thằng bé bị khó ngủ.” Pierre ngập ngừng. “Tôi nghĩ ác quỷ trong quá khứ ám thằng bé.”

      Trán Matthew giãn ra, nhưng trông vẫn khá lo lắng. “ cách khác hành trình vẫn đúng như cậu mong đợi chứ?” Đây là cách khôn ngoan để hỏi xem liệu họ có bị trở ngại bởi bọn cướp đường hay bị quấy nhiễu bởi những sinh vật siêu nhiên hay siêu phi thường .

      “Đó là chuyến dài và lạnh giá,” Pierre bình thản , “và bọn trẻ thường xuyên đói.”

      Gallowglass rống lên cười. “À, cái đó nghe có vẻ đúng đấy.”

      “Còn ngài, milord?” Pierre bắn cái liếc mắt kín đáo cho Matthew. “Praha có như ngài mong đợi ?”

      “Rudolf gặp ta. Người ta đồn đại rằng Kelly ở tầng cao nhất của Tháp Phấn, thổi bay những vạc chưng cất và có Chúa biết còn gì khác nữa,” Matthew kể.

      “Còn Thành Cổ sao?” Pierre tinh tế hỏi.

      “Vẫn nhiều như vậy.” Giọng Matthew hồ hởi và nhàng – tặng kèm cảm giác chết chóc cho thấy ấy để tâm đến điều gì đó.

      “Miễn là chú phớt lờ những chuyện ngồi lê đôi mách đến từ khu phố Do Thái. phù thủy của họ tạo ra sinh vật từ đất sét, và thứ đó vẫn lảng vảng đường phố vào ban đêm.” Gallowglass quay sang nhìn ông chú mình bằng ánh mắt ngây thơ vô tội. “Trừ việc đó, hầu như có gì thay đổi kể từ lần cuối chúng ta đến đây giúp hoàng đế Ferdinand trấn thành năm 1547.”

      “Cảm ơn, Gallowglass,” Matthew . Giọng lạnh lẽo như gió cuộn sông.

      Việc tạo nên sinh vật từ bùn đất và thổi cảm xúc vào đó đòi hỏi nhiều hơn bùa chú thông thường. lời đồn đại như vậy mang ý nghĩa: Đâu đó tại Praha này có thợ dệt giống tôi, có thể di chuyển giữa hai thế giới của người sống và người chết. Nhưng tôi cần phải moi thêm bí mật từ Matthew nữa, cháu trai của tiết lộ trước rồi.

      “Chú định giữ kín tin tức về sinh vật đất sét với đấy chứ?” Gallowglass ngạc nhiên lắc đầu. “Vậy là chú dành thời gian loanh quanh ở chợ rồi. Đám phụ nữ Malá Strana biết đủ mọi chuyện, bao gồm cả chuyện hoàng đế ăn gì vào bữa sáng hay việc ông ta từ chối gặp chú nữa.”

      Matthew lướt các ngón tay lên bề mặt gỗ được sơn vẽ của bộ tranh và thở dài. “Cậu phải mang thứ này tới lâu đài, Pierre.”

      “Nhưng đó là bộ tranh trang trí sau bàn thờ ở Stept-Tours,” Pierre phản đối. “Hoàng đế nổi tiếng bởi cẩn trọng. Chắc chắn chỉ là vấn đề thời gian trước khi ông ấy chấp nhận ngài.”

      “Thời gian chính là thứ chúng ta thiếu, nhà de Clermont còn vô khối những bộ tranh thế này,” Matthew buồn bã . “Để ta viết bức thư ngắn gửi hoàng đế rồi cậu có thể lên đường.”

      Pierre mang bức tranh ngay sau đó, và cũng tay trắng trở về y như Matthew, có lời hứa hẹn nào về cuộc gặp mặt trong tương lai.

      Xung quanh tôi, những sợi chỉ nối các thế giới thít chặt lại và thay đổi trong lưới dệt quá lớn mà tôi thể lĩnh hội hay hiểu hết được. Nhưng có thứ gì đó được trù tính ở Praha. Tôi có thể cảm thấy nó.

      Đêm hôm đó, tôi tỉnh dậy vì những giọng khe khẽ trong căn phòng liền kề phòng ngủ. Matthew ở bên cạnh tôi, đọc sách khi tôi chìm vào giấc ngủ. Tôi bước tới cánh cửa xem ai ở cùng .

      cho ta xem chuyện gì xảy ra khi che bên mặt của con quái vật.” Matthew di chuyển tay tờ giấy khổ lớn trước mặt.

      “Trông nó có vẻ xa hơn!” Jack thầm, khiếp sợ bởi biến đổi này.

      “Cháu thử ,” Matthew vừa vừa đưa cho Jack cây bút. Jack nắm lấy nó với tập trung cao độ. Matthew đưa tay xoa lưng, làm thư giãn các cơ bắp căng cứng quanh khung xương mảnh khảnh của thằng bé. Jack ngồi hẳn đầu gối mà dựa vào thân hình to lớn dễ chịu của chàng ma cà rồng để tìm ủng hộ. “Nhiều quái vật quá,” Matthew thầm, đón gặp ánh mắt tôi.

      “Ông có muốn vẽ những quái vật của mình ?” Jack đẩy tờ giấy về phía Matthew. “Sau đó ông cũng có thể ngủ được đấy.”

      “Quái vật của cháu dọa chúng chạy biến rồi,” Matthew , chuyển chú ý về phía Jack, mặt thoáng nét u buồn. Tim tôi đau nhói bởi tất cả những gì cậu bé phải chịu trong quãng đời ngắn ngủi, khó nhọc của mình.

      Matthew lại nhìn vào mắt tôi và khẽ gật đầu ra hiệu rằng kiểm soát được mọi chuyện. Tôi gửi nụ hôn gió và trở về với cái ổ lông ấm áp giường chúng tôi.

      ***

      Ngày hôm sau chúng tôi nhận được lá thư từ hoàng đế. Nó được gắn niêm phong bằng lớp xi dày và những dải ruy băng.

      “Bức tranh có tác dụng, milord,” Pierre vẻ biết lỗi.

      “Nó có tiếng tăm mà. Ta bức tranh đó. Giờ ta mất khoảng thời gian chết tiệt để được đặt tay lên nó lần nữa,” Matthew , ngả lưng vào ghế. Tiếng gỗ kẽo kẹt phản đối. Matthew với lấy lá thư. Văn phong được trau chuốt kỹ càng, với quá nhiều chỗ xoắn và uốn lượn khiến cho các chữ cái khó nhận ra.

      “Tại sao bản viết tay này lại hoa mỹ thế?” Tôi thắc mắc.

      “Người nhà Hoefnagel trở về từ Vienna và chẳng biết bỏ thời gian vào việc gì. Chữ viết tay càng lạ càng tốt, miễn là bệ hạ quan tâm,” Pierre trả lời cách khó hiểu.

      đến gặp Rudolf chiều nay,” Matthew với nụ cười thỏa mãn, gấp lá thư lại. “Cha vui lắm. Ông cũng gửi số tiền và trang sức, nhưng có thể thấy rằng nhà de Clermont bị xem ở thời kỳ này.”

      Pierre đưa ra lá thư khác hơn, địa chỉ được viết bằng kiểu chữ giản dị hơn. “Hoàng đế bổ sung thêm phần tái bút. Do chính tay người viết.”

      Tôi ngó qua vai Matthew khi đọc nó.

      “Bringen das Buch. Und die Hexe.” Chữ ký uốn lượn của hoàng đế ở dưới với chữ R trau chuốt, chữ d và l móc vòng vào nhau cùng hai chữ f.

      Tiếng Đức của tôi chỉ lờ mờ, nhưng thông điệp này ràng: Mang theo cuốn sách. Và phù thủy.

      quá sớm,” Matthew lẩm bẩm.

      “Cháu bảo chú hãy câu ông ta bằng mấy bức tranh sơn dầu lớn của Titian vẽ nữ thần Venus mà ông nội lấy từ tay vua Philip khi vợ ông ta phản đối mà,” Gallowglass . “Giống như ông chú của mình, Rudolf luôn có sở thích quái đản với những mái tóc đỏ cùng những bức tranh tao nhã.”

      “Và các phù thủy,” chồng tôi thầm . ném bức thư lên bàn. “ phải bức tranh thu hút được ông ta, mà là Diana. Có lẽ ta nên từ chối lời mời này.”

      “Đó là mệnh lệnh, chú ạ.” Lông mày của Gallowglass nhíu lại.

      “Và Rudolf có Ashmole 782,” tôi . “Nó đơn giản xuất trước mặt Ba Con Quạ ở Sporrengasse. Chúng ta phải tìm nó.”

      gọi chúng ta là quạ ư?” Gallowglass với vẻ chế giễu.

      “Tôi về biển hiệu của ngôi nhà này, đồ ngốc.” Như mọi cư dân khác con đường này, chúng tôi có biểu tượng gắn cửa chứ phải số nhà. Sau khi khu vực lân cận bị hỏa hoạn vào giữa thế kỷ, tiên hoàng khăng khăng dùng cách khác để phân biệt các ngôi nhà ngoài các hình trang trí phổ biến chạm lớp thạch cao.

      Gallowglass cười nhăn nhở. “Tôi biết ý là gì. Nhưng tôi rất thích thấy phát sáng như vậy mỗi khi glaem nổi lên.”

      Tôi kéo bùa chú ngụy trang quanh mình bằng tiếng đằng hắng, nó giúp che mờ ánh sáng của tôi đến mức chấp nhận được giống con người.

      “Bên cạnh đó,” Gallowglass tiếp tục. “Trong giới của tôi, được so sánh giống quạ là lời khen ngợi lớn đấy. Tôi là Muninn, Matthew là Huginn. Còn là Göndul, ạ. tạo nên Valkyrie đẹp đấy.”

      chàng gì thế?” Tôi ngây ra hỏi Matthew.

      “Những con quạ của Odin. Và các con của ông ta.”

      “Ồ, cảm ơn cậu, Gallowglass,” tôi ngượng ngùng . Hẳn là tệ khi được so sánh giống với con vị thần.

      “Cho dù cuốn sách này của Rudolf là Ashmole 782 nữa, cũng chắc chắn nó chứa đựng câu trả lời cho các câu hỏi của chúng ta.” Trải nghiệm của chúng tôi với cuốn sách cổ Voynich vẫn làm Matthew lo lắng.

      “Các sử gia bao giờ biết liệu văn bản có mang đến những câu trả lời hay . Dù có câu trả lời kết quả là chúng ta vẫn thu được những câu hỏi thú vị hơn,” tôi đáp.

      “Thôi được.” Môi Matthew cong lên. “Vì thể đến gặp hoàng đế hay tới thư viện của ông ta mà có em, còn em rời khỏi Praha mà có cuốn sách, nên chẳng còn lựa chọn nào khác. Chúng ta cùng đến lâu đài.”

      “Gậy ông đập lưng ông rồi,” Gallowglass khoái trá . chàng nháy mắt trêu tôi.

      So với chuyến viếng thăm của chúng tôi tới Richmond chuyến ngược lên con phố để gặp hoàng đế thế này giống việc chạy sang mượn nhà hàng xóm cốc đường hơn – mặc dù việc này đòi hỏi phục sức trang trọng hơn. Phu nhân ngài đại sứ của giáo hoàng cũng tầm vóc như tôi, tủ váy áo của bà ấy cung cấp cho tôi trang phục xa hoa phù hợp cho vợ của nhân vật quyền cao chức trọng ở nước – hoặc người nhà de Clermont, bà ấy nhanh nhảu bổ sung thêm. Tôi thích phong cách ăn mặc của các mệnh phụ giàu có ở Praha: áo dài cao cổ đơn giản, chân váy hình chuông, áo khoác được thêu hoa văn trang trí với tay áo lửng viền lông thú. Những chiếc cổ áo xếp nếp có tác dụng với tôi như rào cản khí bên ngoài.

      Matthew vui vẻ từ bỏ kế hoạch với đôi tất dài màu đỏ để trở về với màu xám và đen bình thường, điểm thêm màu xanh cổ vịt, thứ sắc màu hấp dẫn nhất mà tôi từng thấy mặc. Ráng chiều chiếu những tia sáng đầy màu sắc lên các đường xẻ dọc của chiếc quần chẽn củ hành và quanh cổ chiếc áo khoác mở phanh.

      “Trông tuyệt lắm,” tôi sau khi ngắm nghía .

      “Còn em trông như quý tộc Bohemian chính hiệu ấy,” đáp lại, rồi hôn lên má tôi.

      “Giờ chúng ta được chưa ạ?” Jack thúc giục, nhảy tung tăng vẻ nôn nóng. Ai đó kiếm được cho cậu nhóc bộ chế phục màu đen-bạc cùng cây thánh giá và trăng lưỡi liềm gắn tay áo.

      “Vậy chúng ta với tư cách là người nhà de Clermont, chứ phải nhà Roydon,” tôi chậm rãi .

      . Chúng ta là Matthew và Diana Roydon,” Matthew đáp. “Chúng ta du lịch với những người hầu của gia đình de Clermont.”

      “Điều đó làm mọi người nhầm lẫn,” tôi bình luận trong khi rời khỏi nhà.

      “Chính xác,” Matthew tươi tắn mỉm cười đáp.

      Nếu phải như dân thường chúng tôi leo lên các bậc thang cung điện mới kế bờ tường thành. Thay vì thế chúng tôi ngược lên Sporrengasse bằng ngựa với tư cách là đại diện của nữ hoàng , điều này tạo cơ hội cho tôi ngắm nhìn những ngôi nhà với đài phun nước nằm nghiêng, những hình vẽ trang trí đầy màu sắc, và những biển hiệu được sơn vẽ. Chúng tôi ngang qua ngôi nhà Sư Tử Đỏ, Ngôi Sao Vàng, Thiên Nga, và Song Dương. Lên đỉnh đồi, chúng tôi rẽ sang khu lân cận đầy những dinh thự của quý tộc và những người được bổ nhiệm trong triều, gọi là Hradcany.

      Đây phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy tòa lâu đài, nó sừng sững trùm bóng lên khu vực xung quanh khi chúng tôi tiến vào Praha và từ cửa sổ nhà cũng có thể ngước nhìn thấy các bức tường bao. Nhưng đây là lần tôi nhìn ở khoảng cách gần, lâu đài thậm chí còn lớn và đồ sộ hơn, giống như thành phố hoàn toàn tách biệt với đầy đủ các ngành công nghiệp và thương mại. Phía trước là những tòa tháp nhọn theo phong cách Gothic của nhà thờ St.Vitus, với tháp canh tròn nổi bật các bức tường. Mặc dù được xây dựng để phòng thủ, nhưng các tòa tháp canh giờ là nhà xưởng cho hàng trăm thợ thủ công, những người xây dựng gia đình tại vương triều của Rudolf.

      Lính gác cung điện cho phép chúng tôi qua cổng phía tây và tiến vào sân khép kín. Sau khi Pierre và Jack mang ngựa , chúng tôi được hộ tống hướng tới dãy nhà bị kẹt giữa những bức tường lâu đài. Chúng được xây cách đây lâu, đá vẫn còn thô nhám và sáng trắng, trông như những tòa văn phòng, nhưng phía tôi có thể thấy mái nhà cao và các tác phẩm bằng đá thời kỳ phục hưng.

      “Chuyện gì thế?” Tôi thầm với Matthew. “Tại sao chúng ta tới cung điện?”

      “Bởi có ai ở đó quan trọng cả,” Gallowglass . chàng ôm cuốn sách cổ Voynich trong tay, nó được gói an toàn trong tấm da và buộc bằng dây để giữ các trang sách khỏi cong vênh trước tiết trời ẩm ướt.

      “Rodolf thấy Cung Điện Hoàng Gia cũ này ẩm thấp và tối tăm,” Matthew vừa giải thích vừa giúp tôi qua đám sỏi cuội trơn trượt. “Cung điện mới của ông ta quay mặt về phía nam và nhìn ra khu vườn riêng. Ở đây ông ta được cách xa khỏi nhà thờ - và các thầy tu.”

      Các hành lang của tòa nhà tấp nập người qua lại và hò hét đủ mọi thứ tiếng Đức, Séc, Tây Ban Nha, và La tinh tùy thuộc xuất xứ từ vùng nào trong đế quốc của Rudolf. Càng đến gần hoàng đế, hoạt động càng trở nên hỗn loạn hơn. Chúng tôi qua căn phòng đầy ắp người tranh luận trước các bản vẽ kiến trúc. phòng khác lại tranh luận sôi nổi về giá trị của chiếc bát bằng vàng-đá được thiết kế tinh tế giống vỏ sò biển. Cuối cùng lính gác để chúng tôi lại trong căn phòng khách dễ chịu với những chiếc ghế bành nặng nề, bếp lò được lát đá tỏa ra lượng nhiệt năng khổng lồ, và hai người đàn ông mải mê chuyện trò. Họ quay lại hướng về phía chúng tôi.

      “Chúc ngày tốt lành, bạn cũ,” người đàn ông hiền lành tầm sáu mươi tuổi bằng tiếng . Ông ta tươi cười với Matthew.

      “Tadeáš.” Matthew nồng nhiệt nắm lấy cánh tay ông ta. “Trông ông khỏe mạnh đấy.”

      “Còn bạn trông trẻ trung đấy.” Đôi mắt ông ta long lanh, cái nhìn thoáng qua gợi lên phản ứng nào da tôi. “Còn đây là người phụ nữ mà mọi người bàn tán. Tôi là Tadeáš Hájek.” Người đàn ông cúi đầu chào, và tôi nhún gối đáp lại.

      quý ông mảnh khảnh có nước da màu oliu và mái tóc gọn gàng đen nhánh như tóc Matthew dạo bước về phía chúng tôi. “Ông Strada,” Matthew kèm theo cái cúi đầu chào. vui khi thấy người đàn ông này như với người trước đó.

      ta là phù thủy à?” Strada ngắm nghía tôi vẻ thích thú. “Nếu vậy em Katharina của tôi thích gặp ta đấy. Con bé có mang, việc thai nghén gây rắc rối cho nó.”

      “Chắc chắn rồi Tadeáš – bác sĩ của hoàng gia – thích hợp hơn nếu gặp mặt sau khi sinh hoàng tử,” Matthew , “hay em ngài có gì thay đổi sao?”

      “Hoàng đế vẫn sủng ái em tôi,” Strada lạnh nhạt đáp. “Vì lý do kia mà những ý thích thất thường của nó được nuông chiều.”

      “Các vị gặp Joris chưa? Ông ta vẫn chẳng chuyện gì khác ngoài bộ tranh trang trí điện thờ của kể từ lúc bệ hạ mở nó ra,” Tadeáš hỏi, chuyển hướng chủ đề.

      , vẫn chưa.” Matthew đưa mắt nhìn tới cửa. “Hoàng đế ở trong đó à?”

      “Đúng thế. Người xem bức tranh mới của ông Spranger. Nó rất lớn và… à, chi tiết.”

      bức tranh khác của thần Venus,” Strada cười khẩy .

      “Nữ thần Venus này nhìn khá giống em ngài đấy.” Hájek cười.

      “Ist das Matthäus höre ich?” giọng mũi cất từ cuối căn phòng. Mọi người quay lại và cúi rạp chào. Tôi cũng máy móc nhún gối chào. Sắp có màn khó khăn tiếp sau cuộc trò chuyện rồi đây. Tôi hy vọng Rudolf tiếng La tinh, hoặc tiếng Đức. “Und Sie das Buch und die Hexe gebracht, ich verstehe. Und die norwegische Wolf.”

      Rudolf là người đàn ông bé với cái cằm dài tương xứng và cách phát khó chịu. Cặp môi dày đầy đặn của gia tộc Hapsburd nổi bật khuôn mặt ông, mặc dù bằng cách nào đó đặc điểm này được đôi mắt lồi màu xanh nhạt và cái mũi tẹt, dày của ông ta kéo lại cân bằng. Nhiều năm sống dư dả và nhậu nhẹt liên miên đem lại cho ông ta dáng người bệ vệ, nhưng cặp chân vẫn gầy như hai ống sậy. Ông ta lảo đảo về phía chúng tôi đôi giày cao gót màu đỏ được trang trí bằng những dấu hiệu đặc trưng bằng vàng.

      “Thần đưa vợ mình tới, thưa bệ hạ, như người ra lệnh,” Matthew , hơi nhấn mạnh vào chữ “vợ”. Gallowglass dịch tiếng của Matthew sang thứ tiếng Đức hoàn mỹ, như thể chồng tôi biết thứ ngôn ngữ này. Sau chuyến chu du với từ Hamburg tới Wittenberg rồi tới Praha bằng xe trượt tuyết, tôi thừa hiểu là biết .

      “Y su talento para los juegos también,” Rudolf , nỗ lực vô ích chuyển sang tiếng Tây Ban Nha như thể điều đó có thể thuyết phục Matthew trò chuyện trực tiếp với ông ta. Ông ta chầm chậm quan sát tôi, ánh mắt nấn ná, nghiền ngẫm những đường cong cơ thể tôi hồi lâu như ngắm vật trưng bày. “Es una lástima que se casó en absoluto, pero aún más lamentable que ella está casada con usted.”

      “Rất đáng tiếc, thưa bệ hạ,” Giọng Matthew sắc lẹm, vẫn kiên quyết dùng tiếng . “Nhưng thần cam đoan là chúng thần thực nghi lễ đám cưới. Cha thần khăng khăng tiến hành nó. Cả phu nhân cũng vậy.” Điều nhấn mạnh này chỉ càng làm cho Rudolf xem xét tôi với vẻ thích thú hơn.

      Gallowglass giải vây cho tôi bằng cách đặt phịch cuốn sách lên bàn. “Das Buch.”

      Hành động đó thu hút chú ý của họ. Strada mở lớp vỏ bọc trong khi Hájek và Rudolf suy xét món đồ mới bổ sung thêm vào thư viện đế quốc này có thể chứng minh nó tuyệt vời đến mức nào. Tuy nhiên, khi cuốn sách hoàn toàn lộ diện trước mắt, bầu khí trong phòng trùng xuống thất vọng.

      “Trò đùa gì thế này?” Rudolf thốt ra bằng tiếng Đức.

      “Thần chắc mình hiểu ý người, thưa bệ hạ,” Matthew đáp lại. đợi Gallowglass dịch.

      “Ý ta là ta thừa biết cuốn sách này,” Rudolf tức giận.

      “Điều đó làm thần ngạc nhiên, thưa bệ hạ, bởi người ban tặng nó cho John Dee – do nhầm lẫn, thần được nghe kể thế.” Matthew nghiêng đầu hành lễ.

      “Bệ hạ nhầm lẫn!” Strada , đẩy quyển sách vẻ ghê tởm.

      “Tất cả chúng ta đều nhầm lẫn, Signor Strada,” Hájek nhàng . “Mặc dù, tôi chắc chắn, có lời giải thích khác cho lý do vì sao cuốn sách này quay trở lại đây. Có lẽ tiến sĩ Dee giải mã được những bí mật của nó.”

      “Chẳng có gì ngoài những bức tranh trẻ con đó cả,” Strada cãi lại.

      “Đó là lý do vì sao cuốn sách tranh này tìm được đường lọt vào hành lý của tiến sĩ Dee chăng? Ông hy vọng ông ta có thể hiểu được những điều ông thể ư?” Lời lẽ của Matthew phản đòn hiệu quả, Strada mặt đỏ tía tai. “Có lẽ ông mượn của Dee cuốn sách với các bức vẽ về giả kim thuật lấy từ thư viện Roger Bacon, với hy vọng nó giúp ông giải mã được cuốn sách này. Viễn cảnh ấy dễ chịu hơn nhiều so với việc hình dung ông chơi xỏ tiến sĩ Dee tội nghiệp để lấy thứ thích của ông ấy. Dĩ nhiên bệ hạ có thể biết vụ việc quỷ quái như thế này.” Nụ cười của Matthew làm người ta ớn lạnh.

      “Thế cuốn sách này có phải thứ duy nhất trong kho báu của ta mà ngươi muốn mang trở về nước ?” Rudolf lạnh lùng hỏi. “Hay tính tham lam của ngươi muốn nhắm đến các phòng thí nghiệm của ta?”

      “Nếu người ám chỉ Edward Kelley nữ hoàng cần lời cam đoan rằng ta tự nguyện ở đây. gì hơn cả,” Matthew dối. Sau đó, lái cuộc chuyện theo hướng ít trực diện hơn. “Người có thích những bức tranh thờ mới , thưa bệ hạ?”

      Matthew cho hoàng đế đủ gian để lấy lại tinh thần – và giữ thể diện. “Tác phẩm của Bosch phi thường. Chú của ta là người đau buồn nhất nếu biết rằng ta giành được nó.” Rudolf nhìn xung quanh. “Than ôi, căn phòng này thích hợp để trưng bày nó. Ta muốn cho đại sứ Tây Ban Nha xem nó, nhưng ở nơi này các vị có thể thấy khoảng cách đủ xa để ngắm bức tranh cách chuẩn nhất được. Nó là tác phẩm mà người ta phải chầm chậm tiến đến gần, để các chi tiết ra cách tự nhiên. Đến đây nào. Hãy xem nơi ta đặt nó.”

      Matthew và Gallowglass tự sắp xếp để Rudolf thể đến quá gần tôi trong khi chúng tôi xuyên qua cửa vào căn phòng trông giống như nhà kho của viện bảo tàng quá tải đồ trưng bày và thiếu nhân viên. giá và các tủ tài liệu chất chứa vỏ sò, sách và những hóa thạch nhiều đến mức chúng có nguy cơ đổ ụp xuống. Những bức tranh sơn dầu cỡ đại – bao gồm cả bức vẽ mới về nữ thần Venus, nó đơn giản chỉ là quá chi tiết nữa mà phải là gợi dục công khai – được bày nổi bật trước những bức tượng đồng. Đây chắc hẳn là chiếc tủ lưu trữ nổi tiếng gợi tò mò của Rudolf, gian của những điều tuyệt diệu và kỳ thú.

      “Bệ hạ cần thêm gian – hay vài mẫu vật nữa,” Matthew bình luận, tay bắt kịp món đồ sứ khỏi rơi xuống sàn.

      “Ta luôn tìm kiếm chỗ để cất giữ các báu vật mới.” lần nữa, ánh mắt hoàng đế lại chằm chặp chiếu sang tôi. “Các vị có thể thấy ta cho xây dựng thêm bốn căn phòng mới để cất giữ chúng.” Ông ta chỉ ra ngoài cửa sổ về phía hai tòa tháp và dãy nhà dài được nối tới khu phòng ở của hoàng đế và tòa kiến trúc mới khác nữa ở phía đối diện. “Còn Ottavio và Tadeáš làm danh mục cho bộ sưu tập của ta và chỉ thị các kiến trúc sư làm những gì ta cầu. Ta muốn di chuyển mọi thứ vào khu Kunstkammer mới để rồi lại làm cho nó quá tải.”

      Rudolf dẫn chúng tôi xuyên qua tòa nhà gồm nhiều kho chứa bổ sung, cuối cùng tới phòng trưng bày dài với các khung cửa sổ dọc hai bên tường. Nó tràn ngập ánh sáng, và sau khi trời tối sầm lại, sau đám bụi bặm ở các căn phòng trước đó, bước vào nơi này có cảm giác như được hít đầy bầu khí trong lành.

      Nhìn vào chính giữa căn phòng khiến tôi khựng lại. Bộ tranh của Matthew được để mở chiếc bàn dài phủ khăn nỉ dày màu xanh lục. Hoàng đế đúng: thể nào đánh giá đầy đủ sắc màu của bức họa khi đứng gần tác phẩm này.

      “Nó đẹp, Dona Diana.” Rudolf tranh thủ lúc tôi ngạc nhiên để tóm lấy bàn tay tôi. “Có thấy cảm nhận của thay đổi theo từng bước chân như thế nào . Chỉ những vật tầm thường mới có thể nhìn thấy ngay lập tức, vì chúng có huyền cơ gì để hé lộ cả.”

      Strada nhìn tôi với thù địch thấy , Hájek với vẻ thương hại. Còn Matthew nhìn tôi mà nhìn hoàng đế.

      đến chuyện này, bệ hạ, thần có thể xem cuốn sách của Dee được ?” Biểu cảm của Matthew chân , nhưng ai trong phòng bị lừa phỉnh dù chỉ trong thoáng. Chàng sói lảng vảng kiếm mồi.

      “Ai biết nó ở đâu chứ?” Rudolf phải thả tay tôi ra để phẩy tay về phía những căn phòng chúng tôi vừa bỏ lại phía sau.

      “Nếu cuốn sách quý giá nhường ấy lại thể tìm thấy được khi hoàng đế cầu, chắc hẳn Signor Strada lơ là bổn phận của mình rồi.” Matthew nhàng .

      “Ottavio rất bận rộn, với những chuyện quan trọng!” Rudolf trừng mắt nhìn Matthew. “Còn ta tin tưởng tiến sĩ Dee. Nữ hoàng của ngươi nên đề phòng những lời hứa hẹn dối trá của lão.”

      “Nhưng người lại tin Kelley. Có lẽ ông ta biết nó ở đâu sao?”

      Đến đây hoàng đế ràng thoải mái. “Ta muốn Edward bị quấy rầy. Ông ta ở giai đoạn nhạy cảm trong công việc giả kim thuật.”

      “Praha có vô vàn bùa phép, và Diana được ủy thác đến mua vài món hàng thủy tinh liên quan tới việc thực hành thuật giả kim cho nữ bá tước Pembroke. Chúng thần tự làm mình bận rộn với nhiệm vụ đó tới khi nào ngài Edward có thể tiếp khách. Có lẽ đến lúc đó Signor Strada tìm ra cuốn sách thất lạc của người.”

      “Nữ bá tước Pembroke này là em người hùng của nữ hoàng, ngài Philip Sidney phải nhỉ?” Rudolf hỏi, hứng thú của ông ta được chạm trúng. Khi Matthew mở miệng định trả lời Rudolf giơ tay lên ngăn lại. “Đó là việc của Dona Diana. Chúng ta để ấy trả lời.”

      “Đúng vậy, thưa bệ hạ,” tôi đáp bằng tiếng Tây Ban Nha. Phát của tôi quá tệ, hy vọng chuyện đó đánh tan hứng thú của ông ta.

      quyến rũ,” Rudolf lẩm bẩm. Chết tiệt. “Thế tốt rồi, Dona Diana phải đến thăm xưởng làm việc của ta. Ta thích làm thỏa lòng mong ước của quý bà.”

      Nhưng ông ta muốn đến quý bà nào.

      “Về phần Kelley và cuốn sách, chúng ta xem. Chúng ta xem.” Rudolf quay trở về với bộ tranh. “Ta quan sát, im lặng, và lắng nghe. phải câu tục ngữ đó sao?

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      28.

      “Bà trông thấy ma sói chưa, Frau Roydon? là người gác rừng mới của bệ hạ và hàng xóm Frau Habermel của tôi nghe thấy tiếng hú vào ban đêm. Họ ăn hươu nai của hoàng đế chạy trong khu Stag Moat.” Frau Huber cầm cây bắp cải lên bằng bàn tay đeo găng và nghi ngờ hít ngửi. Herr Huber là thương nhân ở khu Steelyard của London, mặc dù bà ta thích gì thành phố này, nhưng bà tiếng rất trôi chảy.

      “Ôi trời. Làm gì có ma sói chứ,” Signorina Rossi , quay cái cổ dài ngoẵng của ta lại và tặc lưỡi trước giá của mấy cây hành. “Tuy thế, Stefano của tôi kể rằng có rất nhiều tinh trong cung điện. Các giám mục nhà thờ muốn yểm trừ xua đuổi chúng, nhưng hoàng đế từ chối.” Giống Frau Huber, Rossi từng ở London, khi đó là tình nhân của nghệ sĩ người Ý muốn mang văn phong riêng tới quốc. Còn giờ lại là tình nhân của nghệ sĩ người Ý khác muốn giới thiệu nghệ thuật cắt thủy tinh tới Praha.

      “Tôi chưa gặp ma sói hay tinh nào cả,” tôi thú nhận. Mặt mấy phụ nữ ỉu xìu. “Nhưng tôi được thấy trong những bức tranh mới của hoàng đế.” Tôi hạ thấp giọng. “Nó vẽ nữ thần Venus. Vươn mình khỏi bồn nước tắm.” Tôi tặng cả hai những cái nhìn trịnh trọng. Thiếu vắng những câu chuyện tán gẫu về thế giới bên kia, trụy lạc của hoàng gia đáp ứng nhu cầu đó. Frau Huber kéo thẳng người lên.

      “Hoàng đế Rudolf cần người vợ. phụ nữ người Áo tuyệt vời, có thể nấu ăn cho người.” Bà ta kẻ cả mua cây bắp cải từ người bán rau dễ tính, sau khi hết lời chê bai rau quả của ông gần ba mươi phút. “Hãy kể lại cho chúng tôi nghe về bộ sừng của con kỳ lân . Người ta cho rằng nó có những sức mạnh chữa bệnh thần kỳ.”

      Đây là lần thứ tư trong vòng hai ngày tôi được cầu thuật lại những món đồ hiếm lạ kỳ diệu của hoàng đế. Tin tức về cuộc tiếp kiến của chúng tôi trong khu phòng riêng của Rudolf trước khi chúng tôi về đến Ba Con Quạ, và các phu nhân của Malá Strana nằm đợi sáng ngày hôm sau, háo hức trước những ấn tượng của tôi.

      xuất của những người đưa tin hoàng gia tại ngôi nhà, cũng như hàng tá người hầu mặc chế phục của quý tộc Bohemian và các chức sắc nước ngoài khơi dậy tính hiếu kỳ của họ hơn. Giờ Matthew được đón nhận trong triều đình, ngôi sao của đảm bảo vừa đủ cho bầu trời đế quốc, những người bạn cũ sẵn sàng thừa nhận trở về của – và cầu được trợ giúp.

      Pierre kéo cần câu, chẳng bao lâu chi nhánh ngân hàng de Clermont tại Praha mở và vào hoạt động, mặc dù tôi thấy giá trị tiền nhận được rất ít nhưng có dòng vốn ổn định chảy ra để giải quyết các tài khoản quá hạn với những thương gia của thành cổ Praha.

      “Em nhận được gói hàng từ hoàng đế đấy,” Matthew khi tôi từ chợ về, tay cầm cây bút lông chỉ vào cái bao lổn nhổn. “Nếu em mở nó ra, Rudolf mong em đích thân biểu lộ lòng cảm kích của mình đấy.”

      “Nó có thể là thứ gì nhỉ?” Tôi cảm nhận hình dáng món đồ bên trong. Nó phải là cuốn sách.

      “Thứ gì đó mà chúng ta hối tiếc khi nhận chúng, đảm bảo đấy.” Matthew nhấn cây bút lông trong lọ mực, gây ra trận phun trào quy mô thứ chất lỏng đen xì tràn ra mặt bàn. “Rudolf là nhà sưu tầm, Diana. Và ông ta đơn giản hứng thú với những bộ sừng kỳ lân biển và những viên đá kỳ dị. Ông ta thèm muốn người cũng như đồ vật và thể xa rời chúng khi thuộc sở hữu của ông ta.”

      “Như Kelley,” tôi , tháo sợi dây buộc gói hàng. “Nhưng em phải món hàng để mua bán.”

      “Tất cả chúng ta đều là những món hàng.” Mắt Matthew mở lớn. “Ôi Chúa nhân từ.”

      bức tượng nữ thần Diana bằng vàng-và-bạc, cao hơn sáu mươi phân đặt giữa chúng tôi, bức tượng khỏa thân, ngồi nghiêng lưng con hươu đực cùng với hai mắt cá chân kín đáo bắt chéo nhau. cặp chó săn ngồi bên chân nàng. Gallowglass huýt sáo. “Chà, hoàng đế công khai nỗi niềm khao khát của ông ấy rồi đây.”

      Nhưng tôi còn quá bận tập trung ngắm nghía. chiếc chìa khóa được gắn vào đế bức tượng. Tôi xoay nó và con hươu bay ngang qua bên kia sàn. “Nhìn này Matthew. có thấy ?”

      “Chú ấy có chú ý cũng gặp nguy hiểm đâu,” Gallowglass đảm bảo với tôi.

      Đúng thế : Matthew tức giận nhìn trừng trừng vào bức tượng.

      “Woa, chàng trai trẻ Jack.” Gallowglass tóm được cổ áo Jack khi thằng bé lao vào phòng. Nhưng Jack là tên trộm chuyên nghiệp, vài thủ thuật trì hoãn như thế chỉ hữu dụng chút xíu thôi khi nó đánh hơi thấy đồ vật gì đó có giá trị. Nó tuồn người xuống sàn như xương, bỏ lại cho Gallowglass chiếc áo khoác rỗng , rồi nhảy vọt tới phía sau con hươu.

      “Nó là đồ chơi ạ? Cho cháu à? Tại sao bà ta mặc quần áo ạ? Bà ta lạnh sao?” Những câu hỏi tuôn ra ào ào như dòng nước lũ. Thích thú với cảnh tượng này như bất cứ phụ nữ nào trong khu Malá Strana, Tereza tới xem chuyện nhốn nháo gì xảy ra. Bà ta thở hắt ra trước người phụ nữ khỏa thân trong phòng làm việc của ông chủ và đưa tay lên che mắt Jack.

      Gallowglass liếc nhìn bộ ngực của bức tượng. “Đúng rồi, Jack. Ta thấy là ta bị lạnh đấy.” Câu này khiến chàng lãnh ngay cú đánh vào đầu của Tereza, tay kia bà ta vẫn túm chặt lấy thằng bé.

      “Nó là thứ đồ chơi tự động, Jack ạ,” Matthew vừa vừa nhặt món đồ lên. Lúc cầm tay, đầu con hươu bật mở ra để lộ cái hõm sâu bên trong. “Món đồ này được cho chạy xuôi theo bàn ăn tối của hoàng đế. Khi nó dừng lại, người gần nhất phải uống rượu từ cổ con hươu. Tại sao cháu chỉ cho Annie xem nó nhỉ?” đóng cái đầu trở lại vị trí và đưa món đồ vô giá đó cho Gallowglass, rồi nghiêm nghị nhìn tôi. “Chúng ta cần chuyện.”

      Gallowglass đẩy Jack và Tereza ra khỏi phòng với những lời hứa hẹn về món bánh quy xoắn và chơi bài skat.

      “Em gặp nguy hiểm trầm trọng đấy, em .” Matthew luồn tay cào mái tóc , hành động này lúc nào cũng khiến đẹp trai hơn. “ với Đại Hội Đồng rằng tình trạng của em với tư cách là vợ là điều kiện thuận lợi để bảo vệ em khỏi vướng vào thuật phù thủy và hạn chế những cuộc săn lùng phù thủy tại Scotland.”

      “Nhưng bạn bè của chúng ta và đồng loại ma cà rồng của biết chuyện đó còn hơn thế mà,” tôi . Cảm giác về mùi của ma cà rồng lừa dối được, và mùi hương đặc hữu của Matthew bao phủ khắp người tôi. “Còn các phù thủy biết nhiều hơn về mối quan hệ của chúng mình bằng vào con mắt thứ ba của họ.”

      “Có lẽ thế, nhưng Rudolf phải ma cà rồng cũng chẳng phải phù thủy. Mối liên hệ với Đại Hội Đồng trấn an hoàng đế rằng có bất cứ quan hệ nào giữa chúng ta cả. Vì thế loại trừ việc ông ta theo đuổi em.” Các ngón tay Matthew chạm vào má tôi. “ chia sẻ đâu, Diana. Và nếu Rudolf quá xa…”

      kiểm soát tâm tính của mình nhé.” Tôi nắm chặt bàn tay . “ biết dù thế nào nữa, em cũng để Hoàng Đế La Mã Thần Thánh – hay bất cứ kẻ nào khác quyến rũ em mà. Chúng mình cần Ashmole 782. Ai thèm quan tâm chuyện Rudolf nhìn chằm chặp vào ngực em chứ?”

      “Nhìn chằm chằm thôi có thể xử lý được.” Matthew nhàng hôn tôi. “Còn điều nữa em nên biết trước khi tạ ơn hoàng đế. Đại Hội Đồng đôi lúc vẫn đáp ứng sở thích về phụ nữ và đồ quý hiếm của Rudolf để nịnh bợ ông ta. Nếu hoàng đế muốn có em phán quyết của Đại Hội Đồng nghiêng về phía chúng ta đâu. Họ chuyển em cho ông ta bởi vì họ thể để Praha rơi vào tay loài người giống như tổng giám mục của Trier và những người bạn thầy tu dòng Tên của ông ta. Và họ muốn Rudolf trở thành Vua James thứ hai khát máu các sinh vật khác người. Praha có thể là ốc đảo dành cho những sinh vật ở thế giới khác. Nhưng giống như tất cả các ốc đảo, nơi nương náu đó là ảo ảnh xa vời.”

      “Em hiểu rồi,” tôi . Tại sao mọi chuyện liên quan tới Matthew đều phải rối tinh rối mù lên thế? Cuộc sống này khiến tôi nhớ đến những sợi thừng thắt nút trong hộp thần chú của mình. Cho dù tôi có gỡ chúng ra bao nhiêu lần nữa, chúng lại nhanh chóng rối mù thôi.

      Matthew buông tôi ra. “Hãy để Gallowglass cùng em đến cung điện.”

      à?” Trước những lo lắng của , tôi thấy sốc khi Matthew định để tôi rời như vậy.

      . Thấy chúng ta cứ dính lấy nhau nhiều, những suy đoán và tính chiếm hữu của Rudolf càng tăng thêm. Còn Gallowglass có thể dụ dỗ ông ta hướng tới phòng thí nghiệm của Kelley. Cháu trai quyến rũ hơn rất nhiều đấy.” Matthew cười toe toét, nhưng biểu cảm ấy chẳng hề làm vơi bóng tối sâu trong đôi mắt .

      ***

      Gallowglass khăng khăng là ta kế hoạch để giúp tôi hạn chế phải chuyện riêng với Rudolf nhưng vẫn có thể bày tỏ lòng biết ơn chân thành. Nhưng mãi tới lúc tiếng chuông ngân nga điểm ba giờ, tôi mới thoáng nhận ra kế hoạch của chàng có thể diễn ra thế nào. Dòng người đổ xô cố chen vào nhà thờ St. Vitus qua mấy cánh cửa vòm nhọn ở hai bên lối vào khẳng định cho kế hoạch đó.

      “Đó là Sigismund,” Gallowglass nghiêng người ghé sát vào tai tôi . Tiếng chuông ồn ào đinh tai nhức óc, tôi chỉ vừa đủ nghe thấy tiếng ta. Thấy tôi lúng túng, Gallowglass chỉ vào tấm lưới vàng bên gác chuông. “Sigismund. Cái chuông lớn. Đó là cách giúp biết mình ở Praha.”

      Nhà thờ St.Vitus là cuốn giáo khoa về nghệ thuật kiến trúc Gothic với hàng loạt dãy cột trụ và những tháp nhọn giống như mũi kim chĩa lên trời. Vào buổi chiều mùa đông u ám, trông nó thậm chí càng giống hơn. Những ngọn nến bên trong cháy sáng rực, nhưng trong gian rộng thênh thang của nhà thờ chúng chẳng là gì ngoài mấy điểm vàng mờ nhạt trong bóng tối u ám. Bên ngoài, ánh sáng nhạt đến mức những tấm kính thủy tinh màu cáu bẩn và những bức bích họa sống động đầy màu sắc cũng chỉ trợ giúp được hết sức ít ỏi bầu khí nặng nề ngột ngạt đó. Gallowglass cẩn thận chọn vị trí của chúng tôi ngay bên dưới cặp giá đuốc.

      “Hãy cho bùa chú ngụy trang của cơ hội ,” chàng gợi ý. “Ở đây tối thế này Rudolf có thể trông thấy đâu.”

      “Cậu bảo tôi phát sáng à?” Tôi trưng ra bộ mặt hà khắc nhất của bà giáo già, nhưng ta chỉ nhăn nhở cười đáp lại.

      Chúng tôi đợi chờ nghi lễ Mass bắt đầu với cuộc phân loại thú vị giữa đám người hầu ồn ào trong cung điện, các chức sắc hoàng gia và những nhà quý tộc. vài nghệ sĩ vẫn còn mang những vết dây bẩn và cháy xém do đặc thù công việc, hầu hết bọn họ trông đều có vẻ kiệt sức mệt mỏi. Sau khi quan sát đám đông, tôi ngước lên nhìn để bao quát kích thước và phong cách của nhà thờ.

      “Toàn bộ đều được xây khung vòm hết,” tôi lẩm bẩm . Đường gân nổi còn phức tạp hơn nhiều so với hầu hết các nhà thờ theo phong cách Gothic ở .

      “Ý tưởng của Matthew đấy,” Gallowglass nhận xét.

      “Matthew ư?” Tôi há hốc miệng ngạc nhiên.

      “Cách đây rất lâu chú ấy ngang qua Praha, khi ấy Peter Parler, kiến trúc sư mới, tái xanh tái xám vì nhiệm vụ quá mức quan trọng thế này. Tuy nhiên đợt bùng nổ bệnh dịch đầu tiên giết chết hầu hết các thợ xây lành nghề, vậy nên Parler bị bỏ lại chịu trận. Matthew che chở ta và cả hai người có hơi nổi hứng điên chút. Tôi thể hiểu được chú ấy và chàng Peter trẻ kia cố gắng hoàn thiện cái gì, nhưng nó bắt mắt đấy chứ. Đợi cho tới lúc trông thấy những gì bọn họ làm với Đại Sảnh mà xem.”

      Tôi mở miệng định hỏi thêm im lặng bao trùm toàn bộ đám đông. Rudolf đến. Tôi nghển cổ cố gắng nhìn.

      “Ông ta kia kìa,” Gallowglass thầm, hất đầu hướng về phía bên phải. Rudolf vào St.Vitus tầng hai, từ lối khép kín mà tôi phát ra nó nối liền giữa lâu đài và nhà thờ này. Ông ta đứng ban công được trang trí bằng những chiếc khiên gia huy biểu thị rất nhiều tước hiệu và địa vị danh giá. Giống như trần nhà, chiếc ban công này cũng được đỡ bằng vòm cuốn trang trí lạ thường, mặc dù trông nó như những cành cây khẳng khiu. Căn cứ vào vẻ thanh khiết đến nghẹt thở của kiến trúc các cột trụ khác trong nhà thờ, tôi nghĩ đây là tác phẩm của Matthew.

      Rudolf ngồi vào chỗ và nhìn bao quát khắp gian trung tâm của giáo đường trong khi đám đông cúi đầu và nhún gối chào hướng về lô hoàng gia. Về phần mình, Rudolf trông có vẻ thoải mái khi bị phát . Trong khu phòng riêng, ông ta thả lỏng trước đám cận thần của mình, nhưng ở đây ông ta dường như ngượng ngùng và căng thẳng. Ông ta quay sang lắng nghe bầy tôi thầm và nhìn thấy tôi. Ông ta nghiêng đầu chào vẻ hòa nhã và mỉm cười. Đám đông dao động xung quanh để xem ai là người hoàng đế đặc biệt chú ý ban cho ân điển đó.

      “Nhún gối chào ngay,” Gallowglass rít lên. Tôi lại hạ thấp người lần nữa.

      Chúng tôi xoay sở trải qua được lễ Mass mà cố gì. Tôi nhõm nhận thấy ai, thậm chí cả hoàng đế, mong đợi nhận lễ ban phước, và toàn bộ buổi lễ nhanh chóng kết thúc. Rudolf lặng lẽ lẻn khỏi khu vực riêng của ông ta tự lúc nào, nghi ngờ gì là để tiếp tục mê mải với đống kho báu của mình.

      Hoàng đế và các tu sĩ rồi, gian giáo đường trở thành nơi tụ họp vui vẻ khi những người bạn trao đổi với nhau tin tức và tán gẫu. Tôi thấy Ottavio Strada ở phía xa, say sưa trò chuyện với quý ông da dẻ hồng hào trong bộ áo choàng len đắt tiền. Bác sĩ Hájek cũng ở đây, cười đùa chuyện với cặp vợ chồng trẻ, ràng độ mặn nồng. Tôi mỉm cười với ông ta, còn ông hơi gật đầu chào về phía tôi. Tôi có thể tảng lờ Strada, nhưng tôi thích vị bác sĩ này của hoàng đế.

      “Galloglass à? Đáng lẽ cậu nên ngủ đông như bọn gấu rồi chứ?” người đàn ông mảnh khảnh với cặp mắt sâu tiến đến gần, miệng vặn vẹo thành nụ cười mỉa mai khó chịu. Ông ta mặc bộ quần áo đắt tiền nhưng giản dị, chiếc nhẫn vàng ngón tay cho thấy giàu sang, quyền quý.

      “Với thời tiết thế này tất cả chúng ta đều nên ngủ đông. tốt được thấy ông khỏe mạnh, Joris.” Gallowglass vỗ bồm bộp lên lưng ông ta. Lực của cú vỗ khiến hai mắt ông ta trợn tròn.

      “Tôi cũng thế với bạn, nhưng vì luôn khỏe mạnh nên tôi để dành lời lịch sáo rỗng ấy cho cả hai chúng ta.” Người đàn ông quay sang tôi. “Còn đây là La Diosa.”

      “Diana,” tôi , khẽ nhún gối chào.

      “Đó phải là tên bà ở đây. Rudolf gọi bà là La Diosa de la Caza. Đó là tiếng Tây Ban Nha để gọi nữ thần săn bắt. Hoàng đế ra lệnh cho ông Spranger tội nghiệp bỏ dở những phác họa cuối cùng bức vẽ Venus tắm để tập trung vào chủ đề mới: Diana bị gián đoạn lúc trang điểm. Tất cả chúng tôi háo hức xem liệu Spranger có năng lực tạo ra thay đổi lớn lao trong thời gian ngắn như thế .” rồi ông ta nghiêng mình cúi đầu chào. “Joris Hoefnagel.”

      “Người viết chữ đẹp,” tôi , nghĩ lại lời nhận xét của Pierre về phong cách viết chữ hoa mỹ trong bức thư chính thức triệu gọi Matthew vào triều của Rudolf. Nhưng cái tên đó khá là quen…

      nghệ sĩ đấy,” Gallowglass nhàng

      sửa lại.

      “La Diosa.” người đàn ông gầy hốc hác hạ chiếc mũ chào bằng hai bàn tay đầy sẹo. “Tôi là Erasmus Habermel. Xin bà vui lòng hạ cố tới thăm xưởng của tôi ngay khi có thể được ? Bệ hạ muốn bà có bản tóm tắt chiêm tinh để chú thích tốt hơn về những thay đổi mặt trăng, nhưng nó phải chính xác như ý thích của bà.”

      Habermel cũng là cái tên quen thuộc…

      “Bà ấy đến chỗ tôi vào ngày mai.” người đàn ông bệ vệ béo tốt khoảng chừng ba mươi tuổi chen qua đám đông ngày càng nhiều kia. Trọng của ông ta là tiếng Ý thấy . “La Diosa ngồi làm mẫu vẽ chân dung. Bệ hạ muốn có bức họa của bà ấy để khắc vào đá như biểu tượng vĩnh cửu của bà ấy trong tình cảm mến của người.” Mồ hôi túa ra vùng nhân trung của ông ta.

      “Signor Miseroni!” người Ý khác , vỗ bồm bộp hai bàn tay lên bộ ngực nặng nề của ông ta. “Tôi nghĩ chúng ta hiểu nhau cơ đấy. La Diosa phải luyện tập khiêu vũ nếu bà ấy định tham dự buổi chiêu đãi vào tuần tới như hoàng đế mong muốn.” Ông ta cúi chào về phía tôi. “Tôi là Alfonso Pasetti, thưa La Diosa, thầy dạy khiêu vũ của hoàng đế.”

      “Nhưng vợ tôi thích khiêu vũ,” giọng lạnh lùng cất lên phía sau tôi. cánh tay dài rắn chắc vòng qua cầm lấy tay tôi, đùa nghịch với đường viền thân áo. “Đúng , mon coeur?” Lời âu yếm sau cùng kèm với nụ hôn lên các khớp ngón tay và cú cắn nhè cảnh cáo.

      “Xử lý đúng đắn đấy Matthew, như vẫn luôn thế,” Joris mỉm cười chân thành. “ thế nào rồi?”

      “Thất vọng vì tìm thấy Diana ở nhà,” Matthew với giọng điệu hơi buồn phiền. “Nhưng ngay cả đức ông chồng tận tụy cũng phải quy phục trước Chúa trong tình thương của vợ ta.”

      Hoefnagel quan sát Matthew cách tỉ mỉ, đo lường từng thay đổi về biểu cảm. Tôi đột nhiên nhận ra người này là ai: người nghệ sĩ vĩ đại là nhà quan sát thiên nhiên sắc sảo, những bức họa của ông ta về hoa cỏ và động vật trông như chúng có thể sống dậy, giống các sinh vật đôi giày của Mary.

      “Chà, Chúa xong việc với bà ấy ngày hôm nay rồi. Tôi nghĩ ông hoàn toàn tự do mang vợ mình về nhà đấy,” Hoefnagel ôn tồn . “Bà hứa hẹn làm tươi sáng cho mùa xuân ảm đạm này đấy, La Diosa. Vì điều đó mà tất cả chúng tôi đều vui sướng lấy làm biết ơn.”

      Cánh đàn ông giải tán sau khi có được lời cam đoan từ Gallowglass rằng ta sắp xếp các cuộc hẹn dày đặc chồng chéo nhau của tôi. Hoefnagel là người cuối cùng rời .

      “Tôi để mắt đến vợ ông đấy, Schaduw. Có lẽ ông cũng nên làm thế.”

      “Tôi luôn chú ý đến vợ mình. Còn biết làm gì khác ở đây kia chứ?”

      “Dĩ nhiên rồi. Thứ lỗi cho can thiệp của tôi. Tai vách mạch rừng.” Hoefnagel cúi chào. “Tôi gặp bà trong triều, La Diosa.”

      “Tên ấy là Diana,” Matthew gằn giọng . “Bà de Clermont cũng được.”

      “Vậy mà tôi cứ tưởng là Roydon. Nhầm lẫn rồi.” Hoefnagel lùi lại sau vài bước. “Chào buổi tối, Matthew.” Tiếng bước chân ông ta vang vọng nền đá, dần rồi chìm vào im lặng.

      “Schaduw ư?” Tôi hỏi.

      “Tiếng Hà Lan có nghĩa là ‘Cái Bóng’. Elizabeth phải người duy nhất gọi bằng cái tên đó.” Matthew nhìn Gallowglass. “Signor Pasetti nhắc tới buổi chiêu đãi nào thế?”

      “Ồ, có gì đặc biệt đâu. Chắc lại mấy chủ đề thần thoại, với nhạc khủng khiếp và khiêu vũ thậm chí còn tồi tệ hơn. Được uống thả phanh, cả đám cận thần lại sẩy chân ngã nhầm giường vào cuối đêm cho mà xem. Chín tháng sau có cả bầy trẻ quý tộc nguồn gốc. Chuyện thường thôi mà.”

      “Sic transit gloria mundi,” Matthew lẩm bẩm, rồi nghiêng mình cúi chào tôi. “Chúng ta về nhà chứ, La Diosa?” Tôi thấy thoải mái khi người lạ dùng cái tên thân mật này, nhưng từ miệng Matthew gần như chịu nổi. “Jack món hầm tối nay đặc biệt hấp dẫn đấy.”

      Matthew xa cách suốt cả buổi tối, quan sát tôi bằng cặp mắt nặng nề trong khi tôi nghe chuyện trong ngày của bọn trẻ và Pierre đúng hẹn báo cáo hàng loạt chuyện xảy ra ở Praha. Những cái tên xa lạ và chuyện kể dài dòng rối rắm khiến tôi phải từ bỏ việc cố theo dõi nó mà lên giường ngủ.

      Tiếng khóc của Jack chợt đánh thức tôi, tôi lao đến với thằng bé để rồi phát ra Matthew tới tự bao giờ. Thằng bé điên cuồng quẫy đạp, gào khóc tìm giúp đỡ.

      “Xương của cháu rời ra!” Thằng bé lặp lặp lại. “Đau! Đau quá!”

      Matthew bao bọc thằng bé chặt dựa vào lồng ngực để nó thể nhúc nhích nữa. “Suỵt. Giờ ta ôm được cháu rồi.” tiếp tục giữ Jack cho tới khi cơn run rẩy lan ra khắp tứ chi mảnh khảnh của đứa bé dịu dần xuống.

      “Tất cả lũ quái vật đều trông giống những người đàn ông bình thường tối nay, ông Roydon ạ,” Jack kể với , rúc sâu hơn nữa vào vòng tay chồng tôi. Tiếng thằng bé nghe có vẻ hết sức mệt mỏi, những quầng xanh dưới mắt khiến nó trông như già hơn tuổi thực.

      “Chúng thường thế mà, Jack,” Matthew . “Chúng thường thế cả.”

      ***

      Những tuần kế tiếp là cơn lốc xoáy điên cuồng các cuộc hẹn – hết thợ kim hoàn của hoàng đế, thợ làm nhạc cụ của hoàng đế, rồi lại thầy dạy khiêu vũ của hoàng đế. Mỗi cuộc đối mặt lại mang tôi tiến sâu hơn nữa vào trung tâm của cung điện đế quốc này, tới những xưởng làm việc và nơi cư ngụ dành cho những người nghệ sĩ và trí thức tài giỏi của Rudolf.

      Giữa những lời mời hẹn gặp gỡ, Gallowglass đưa tôi tới từng khu vực của cung điện nơi tôi chưa được thấy. Đến chỗ bầy thú, nơi Rudolf nuôi giữ báo và sư tử cũng nhiều ngang với các thợ vẽ và nhạc công ở các con phố hẹp phía đông nhà thờ. Tới Stag Moat, nơi được tu sửa để Rudolf có thể hưởng thụ chơi thể thao vui vẻ hơn. Tới phòng tập phủ kín các hình trang trí khắc xước, nơi các cận thần có thể vận động thể dục. Tới những ngôi nhà kính mới được dựng lên để bảo vệ các cây non quý giá của hoàng đế tránh khỏi mùa đông khắc nghiệt của Bohemian.

      Nhưng có nơi thậm chí cả Gallowglass cũng được phép vào: tòa tháp Phấn, nơi Edward Kelley tiến hành chưng cất và tinh luyện để cố làm ra đá tạo vàng. Chúng tôi đứng bên ngoài tòa tháp, cố gắng chuyện để tìm cách qua mặt trạm lính canh gác ở lối vào. Gallowglass thậm chí còn phải nồng nhiệt gào lên chào hỏi. Việc này khiến hàng xóm phải chạy ra vì tưởng cháy nhà, nhưng cũng chẳng làm người phụ tá ngày xưa của tiến sĩ Dee buồn nhúc nhích.

      ta như tù nhân ấy,” tôi kể với Matthew sau khi bát đĩa bữa tối được dọn sạch, Jack và Annie yên ổn nằm giường của chúng. Mấy đứa vui vẻ chơi vòng mệt lử bài skat và xe trượt tuyết, rồi ăn bánh quy xoắn. Chúng tôi còn coi chúng như người hầu của mình nữa. Tôi hy vọng được cư xử như đứa trẻ bình thường chấm dứt những cơn ác mộng hàng đêm của Jack. Nhưng cung điện phải là nơi dành cho chúng. Tôi vẫn lo sợ chúng có thể lang thang và lạc trong đó mãi mãi, vì chúng biết ngôn ngữ ở đây.

      “Kelley là tù nhân,” Matthew , nghịch ngợm ly rượu của . Nó được làm bằng bạc nặng và bắt ánh lửa sáng lấp lánh.

      “Họ thỉnh thoảng mới về nhà, thường là vào giữa đêm khi có ai trông thấy. Ít nhất cũng có được chút thảnh thơi sau những cầu ngừng nghỉ của hoàng đế.”

      “Em chưa gặp bà Kelley,” Matthew lãnh đạm .

      Tôi chưa gặp, điều này khiến tôi thấy kỳ quái và càng để tâm đến nó hơn. Có lẽ tôi sai đường để gặp được nhà giả kim này. Tôi cho phép mình bị cuốn vào cuộc sống vương triều với hy vọng gõ cửa được phòng thí nghiệm của Kelley và thẳng tới Ashmole 782. Nhưng cứ theo thói quen mới này của tôi cách tiếp cận trực tiếp dường như thể thành

      công được.

      Sáng hôm sau tôi quyết định mua sắm cùng Tereza chút. Ngoài trời gió thét gào dữ dội, buốt lạnh căm căm nhưng chúng tôi vẫn gắng lê bước tới chợ.

      “Bà có biết bà Kelly đồng hương của tôi ?” Tôi hỏi Frau Huber khi chúng tôi đợi người bán bánh gói hàng. Mấy bà nội trợ của Malá Strana thèm khát sưu tầm những chuyện kỳ quái khác thường chả kém gì Rudolf cả. “Chồng bà ấy là trong những người hầu cận của hoàng đế.”

      “Ý bà là trong các nhà giả kim thuật bị giam cầm của hoàng đế phải ?” Frau Huber kèm theo tiếng khịt mũi khinh thường. “Luôn có những chuyện kỳ quái xảy ra trong ngôi nhà đó. Và nó còn tệ hơn khi người nhà Dee ở đây. Herr Kelly lúc nào cũng mê đắm nhìn Frau Dee.”

      “Thế còn bà Kelley?” Tôi ngắt lời.

      “Bà ta chẳng mấy khi ra ngoài. Đầu bếp của bà ta lo chuyện mua bán.” Frau Huber đồng tình với việc ủy thác trách nhiệm nội trợ kiểu này. Nó mở đường cho mọi náo loạn, bao gồm (bà ta cho là thế) Lễ rửa tội lại và chợ đen thịnh vượng với nguyên liệu nhà bếp bị xoáy trộm. Bà ta bày tỏ cảm xúc về điểm này rất ràng ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, và đó cũng là trong những lý do chính tôi ra ngoài để mua cải bắp trong bất cứ thời tiết nào.

      “Có phải chúng ta bàn luận về bà vợ của nhà giả kim ấy ?” Signorina Rossi hỏi, băng qua mặt đường đá đông cứng và tránh cái xe cút kít chở đầy than trong gang tấc. “Bà ta là người và vì thế nên rất kỳ lạ. Các hóa đơn tiền rượu của bà ta lớn hơn chúng ta rất nhiều.”

      “Làm sao hai bà biết nhiều chuyện thế?” Tôi hỏi khi thôi cười.

      “Chúng tôi dùng chung nhà chị thợ giặt mà,” Frau Huber ngạc nhiên .

      “Chúng ta chẳng thể giữ được bí mật trước mấy bà thợ giặt,” Signorina Rossi đồng tình. “Bà ấy cũng giặt giũ cho nhà Dee đấy. Cho tới khi bị Signorina Dee đuổi việc vì tính tiền giặt khăn ăn quá cao.”

      con mụ khó tính, Jane Dee ấy, nhưng bà thể đổ lỗi cho tính tằn tiện của bà ta được,” Frau Huber thở dài công nhận.

      “Tại sao bà cần gặp bà Kelley vậy?” Signorina Rossi hỏi, lèn ổ bánh mỳ vặn thừng vào giỏ chợ của ta.

      “Tôi muốn gặp chồng bà ấy. Tôi quan tâm đến giả kim thuật và có mấy vấn đề cần hỏi.”

      “Bà trả tiền chứ?” Frau Huber hỏi, cọ cọ các ngón tay vào nhau trong cử chỉ quen thuộc thường xuyên thấy.

      “Cho cái gì cơ?” Tôi bối rối hỏi.

      “Dĩ nhiên là những câu trả lời của ông ta rồi.”

      “Có chứ,” tôi đồng ý, tự hỏi bà ta bày ra kế hoạch ma mãnh nào đây.

      “Cứ để đó tôi lo,” Frau Huber . “Tôi thèm món cốt-lết bê rán với bơ, phía phủ bánh mỳ vụn. Tay người Áo sở hữu quán rượu gần nhà bà biết món thịt rán ấy nên làm thế nào đấy, Frau Roydon.”

      con mới lớn của vị pháp sư-thịt rán-người Áo hóa ra lại cùng học gia sư với đứa con riêng mười tuổi của Kelley – Elizabeth. Và đầu bếp của ông ta cưới bà dì của thợ giặt, người này lại có chị dâu làm việc vặt bên ngoài cho nhà Kelley.

      lấy làm biết ơn những người phụ nữ rèn nên chuỗi mắt xích huyền bí này, cần đến những mối liên hệ trong triều của Gallowglass, mà nhờ đó Matthew và tôi nửa đêm hôm đó được có mặt trong phòng khách tầng hai của nhà Kelley, chờ đợi người đàn ông vĩ đại kia trở về.

      “Ông ấy đáng lẽ phải có mặt ở đây rồi,” Joanna Kelley trấn an chúng tôi. Đôi mắt bà ta đỏ lừ và lờ đờ, dù kết quả này là do uống quá nhiều rượu hay do cảm lạnh có vẻ đều làm cho toàn bộ gia nhân khốn khổ.

      “Xin đừng phiền lòng vì chúng tôi, bà Kelley. Chúng tôi có thể đợi muộn được mà,” Matthew dịu dàng , tặng bà ta nụ cười chói lóa. “Bà thích ngôi nhà mới của mình chứ?”

      Sau rất nhiều hoạt động tình báo và điều tra trong cộng đồng dân Áo và Ý, chúng tôi phát ra nhà Kelley gần đây mới mua căn nhà ở góc đường gần Ba Con Quạ nổi tiếng phức tạp được biết đến với cái biển phố đầy tính sáng tạo. Ai đó dùng những hình thù bằng gỗ bỏ từ các bức lễ đản sinh, cưa nửa, rồi sắp xếp tấm bảng. Vì thế hình ảnh Đức Chúa hài đồng trong nôi bị bỏ và thay vào đó là cái đầu con lừa của Mary.

      “Con Lừa và Cái Nôi đáp ứng các nhu cầu của chúng tôi nay, ông Roydon ạ.” Bà Kelley hắt hơi sảng khoái rồi tợp ngụm rượu. “Chúng tôi nghĩ hoàng đế sắp xếp ngôi nhà cho chúng tôi trong hoàng cung, căn cứ vào công việc của Edward, nhưng giờ lại như thế này đây.” Tiếng giậm đều đều lên các bậc cầu thang. “Edward đây rồi.”

      cây ba toong xuất trước, rồi đến bàn tay lem nhem, tiếp đó là cái cổ tay áo cũng lem nhem kém. Phần còn lại của Edward Kelley trông bất hảo. Bộ râu quai nón dài rối bù che khuất đôi tai hai bên thái dương. Kelley khập khiễng bước vào phòng, rít lên rồi đông cứng khi trông thấy Matthew.

      “Edward.” Matthew tưởng thưởng cho người đàn ông nụ cười chói lóa khác, nhưng Kelley chẳng khác gì bà vợ, cũng chỉ thờ ơ đón nhận. “Tưởng tượng mà xem chúng ta gặp lại nhau ở xa nhà thế này.”

      “Làm sao ông…?” Edward lắp bắp giọng khàn khàn. ta nhìn quanh phòng, ánh mắt rơi người tôi với cái nhìn thoáng qua thúc vào da thịt, cảm giác quỷ quyệt như những lúc tôi thấy tinh. Nhưng còn hơn thế: cảm giác xáo trộn trong các sợi tơ bao quanh , những dấu hiệu trái quy luật trong mạng dệt này gợi ý rằng chỉ là tinh – tự chủ được. Đôi môi cong lên. “Phù thủy.”

      “Hoàng đế nâng địa vị của ấy lên rồi, cũng giống như ông vậy. Giờ ấy là La Diosa – nữ thần,” Matthew . “Hãy ngồi xuống và cho cái chân ông được nghỉ ngơi . Theo như tôi còn nhớ nó thường gặp rắc rối khi trời lạnh.”

      “Ông có chuyện gì liên quan tới tôi sao, Roydon?” Edward Kelley xiết cái ba toong chặt thêm.

      “Ông ấy ở đây nhân danh nữ hoàng, Edward.” Joanna ai oán . “Vì cơn sốt rét kinh khủng này mà tôi chưa gặp được những người hàng xóm của mình. Ông cho tôi biết có người sống ngay gần đây. Tại sao chứ? Tôi có thể nhìn thấy nhà bà Roydon từ cửa sổ tòa tháp này. Ông luôn ở lâu đài. Còn tôi đơn mình, mong mỏi được chuyện bằng ngôn ngữ bản xứ của mình, nhưng…”

      “Về giường , em ,” Kelley , gạt Joanna . “Mang theo rượu của em nữa.”

      Bà Kelley mỉm cười vẻ phục tùng, nét mặt khốn khổ. Là phụ nữ ở Praha bạn bè, gia đình khó khăn, nhưng có đức ông chồng được chào đón ở nhiều nơi – những nơi mà bà được phép lui tới, điều đó chắc phải khó khăn hơn gấp đôi. Khi bà ta rồi, Kelley đổ người dựa vào bàn và ngồi xuống ghế của vợ mình. nhăn nhó nâng cái chân lên đặt vào đúng chỗ, sau đó chòng chọc ghim ánh mắt tối tăm thù địch lên Matthew.

      cho tôi biết tôi phải làm gì mới rũ bỏ được các người,” huỵch toẹt. Kelley có thể có xảo quyệt của Kit, nhưng lại có được quyến rũ giống ta.

      “Nữ hoàng muốn ngươi,” Matthew , cũng thẳng thừng kém. “Chúng ta muốn cuốn sách của Dee.”

      “Cuốn sách nào?” Câu đáp trả của Edward nhanh – quá nhanh.

      “Với tên lang băm ngươi là kẻ dối trá đáng ghê tởm, Kelley ạ. Làm thế nào ngươi có thể bao trọn được tất cả những đức tính ấy nhỉ?” Matthew vung đôi chân dài bốt đặt lên mặt bàn. Kelley la lên khi gót giày đập xuống bàn.

      “Nếu tiến sĩ Dee buộc tội tôi ăn trộm,” Kelley đỏ ửng lên, “vậy tôi kiên quyết phải bàn về vấn đề này trước có mặt của hoàng đế. Người muốn tin tưởng tôi nữa, mà danh dự của tôi bị nghi ngờ trong chính ngôi nhà của mình.”

      “Nó ở đâu, Kelley? Trong phòng thí nghiệm của ngươi ư? Hay trong phòng ngủ của Rudolf? Ta tìm thấy nó dù có hay giúp đỡ của ngươi. Nhưng nếu ngươi định cho ta biết bí mật của mình, ta có thể xem xét bỏ qua vấn đề kia.” Matthew phủi vết bẩn lấm chấm chiếc quần chẽn của . “Đại Hội Đồng hài lòng với hành vi của ngươi gần đây.” Cây gậy chống của Kelley rơi xuống sàn nhà cành cạch. Matthew giúp đỡ nhặt nó lên, rồi chạm đầu gậy mòn vẹt của nó vào cổ Kelley. “Ngươi đe dọa mạng sống tên phục vụ ở quán trọ như thế này phải ? Bất cẩn quá đấy, Edward. Tất cả hào hoa phù phiếm và đặc ân này làm ngươi mụ mị rồi.” Cây gậy chống hạ xuống bụng Kelley và dừng lại ở đó.

      “Tôi thể giúp các người được.” Kelley nhăn nhó khi Matthew tăng thêm sức ép lên cây gậy. “Đó là ! Hoàng đế lấy cuốn sách khi…” Tiếng Kelley dần rồi im bặt, đưa tay vuốt mặt như thể muốn xóa hình ảnh ma cà rồng đối diện chính mình.

      “Khi nào?” Tôi vừa hỏi, vừa nhoài người về phía trước. Khi chạm vào Ashmole 782 trong thư viện Bodleian, ngay lập tức tôi biết nó rất khác lạ.

      “Ngươi biết về cuốn sách này còn nhiều hơn ta,” Kelley nhìn tôi khinh bỉ, ánh mắt lóe lên. “Lũ phù thủy các ngươi hề ngạc nhiên khi nghe đến tồn tại của nó, mặc dù tinh phát ra nó!”

      “Ta mất kiên nhẫn rồi đấy, Edward.” Cây gậy gỗ kêu lên răng rắc trong tay Matthew. “Vợ ta hỏi ngươi. Hãy trả lời .”

      Kelley chậm rãi nhìn Matthew với vẻ đắc thắng rồi đẩy đầu gậy ra khỏi bụng . “Ông căm ghét phù thủy – hay chỉ mọi người nghĩ vậy thôi. Nhưng tôi thấy giờ ông cũng chia sẻ yếu đuối của Gerbert trước những sinh vật này. Ông nàng phù thủy kia, đúng như tôi với Rudolf.”

      “Gerbert.” Giọng Matthew bình thản.

      Kelley gật đầu. “Ông ta đến đây khi Dee vẫn còn ở Praha, hỏi han về cuốn sách kia và nhúng mũi vào công việc của tôi. Rudolf để ông ta hưởng dụng trong các phù thủy ở Thành Cổ – mười bảy tuổi rất xinh đẹp, với mái tóc đỏ cùng đôi mắt màu xanh lam y như vợ ông. ai nhìn thấy ta kể từ đó. Nhưng có đám lửa rất đẹp vào Đêm Lễ Walpurgis. Gerbert được ban vinh dự thắp lửa.” Kelley chuyển mắt nhìn sang tôi. “Tôi băn khoăn biết năm nay chúng ta có được màn đốt lửa như thế nữa ?”

      Nhắc đến truyền thống cổ thiêu sống phù thủy ăn mừng mùa xuân là giọt nước cuối cùng làm tràn ly đối với Matthew. Đến lúc tôi nhận thấy chuyện gì xảy ra tống nửa người Kelley ra ngoài cửa sổ.

      “Nhìn xuống , Edward. phải cú rơi thẳng tuột đâu. Ngươi sống sót, nhưng ta e rằng có thể gãy hai cái xương đấy. Rồi ta nhặt ngươi lên và mang vào phòng ngủ. Tất nhiên ở đó cũng có cái cửa sổ rồi. Thậm chí ta tìm được nơi đủ cao để thả cái xác súc sinh khốn kiếp của ngươi lần thứ hai. Đến lúc đó mọi cái xương trong cơ thể ngươi vỡ vụn và ngươi với ta điều ta muốn biết.” Matthew chuyển đôi mắt đen láy nhìn sang khi tôi nhổm dậy. “Ngồi. Xuống.” hít vào hơi sâu. “Làm ơn.” Và tôi làm theo.

      “Cuốn sách của Dee phát sáng với sức mạnh. Tôi có thể ngửi thấy sức mạnh đó ngay khoảnh khắc ông ấy lôi nó ra khỏi giá sách ở Mortlake. Ông ấy ràng hiểu tầm quan trọng của nó, nhưng tôi biết.” Kelley giờ thể đủ nhanh. Khi ngừng lại để lấy hơi, Matthew lắc . “Phù thủy Roger Bacon sở hữu nó và quý trọng nó như kho báu vĩ đại. Tên ông ta ở trang tựa đề, kèm theo câu đề từ ‘Verum Secretum Secretorum.’”

      “Nhưng nó chẳng giống cuốn Secretorum nào cả,” tôi , nghĩ đến tác phẩm thời Trung cổ được thích đó. “Đó là cuốn giáo khoa thường thức. Còn đây là những hình vẽ minh họa về thuật giả kim.”

      “Những bức hình minh họa đó chẳng là gì ngoài tấm màn che chống lại ,” Kelley vừa vừa thở khò khè. “Đó là lý do vì sao Bacon gọi nó là Bí mật của các bí mật.”

      “Nó về cái gì?” Tôi hỏi, nhổm dậy vì kích động. Lần này Matthew cảnh cáo tôi. cũng kéo Kelley vào bên trong. “Ông có thể đọc được từ ngữ trong đó ?”

      “Có lẽ,” Kelley , vuốt phẳng lại bộ quần áo.

      cũng đọc được cuốn sách đâu.” Matthew thả Kelley ra với vẻ ghê tởm. “ có thể ngửi thấy mùi dối trá qua nỗi sợ hãi của .”

      “Nó được viết bằng thứ tiếng nước ngoài. Ngay cả Rabbi Loew cũng thể giải mã được.”

      chàng Maharal ấy thấy cuốn sách sao?” Matthew có cái nhìn lặng lẽ cảnh giác đó ngay trước khi bất ngờ bổ xuống tấn công.

      “Thực ra khi ở Thành Do Thái tìm kiếm phù thủy tạo ra sinh vật đất sét mà họ gọi là hình nhân đất đó, ông hỏi Rabbi Loew về nó. Ông cũng tìm được thủ phạm và người tạo ra nó.” Kelley tỏ vẻ khinh thường. “Sức mạnh của nổi tiếng và tầm ảnh hưởng của ông nhiều đến thế mà. Ông thậm chí còn thể dọa nổi dân Do Thái.”

      “Tôi nghĩ đấy là tiếng Do Thái,” tôi , nhớ lại các ký tự chuyển động rất nhanh đó. Tôi nhìn thoáng qua bản viết giấy da cừu đó.

      “Chúng phải. Hoàng đế cho gọi Rabbi Loew chỉ để chắc chắn điều đó.” Kelley tiết lộ nhiều hơn dự định. Ánh mắt đảo sang phía cây gậy chống, các sợi tơ quanh biến dạng rồi bện xoắn lại. Hình ảnh Kelley nâng cây gậy chống lên đánh ai đó chợt xuất trong đầu tôi. định làm gì?

      Và rồi tôi nhận ra: định đánh tôi. thanh khó hiểu phát ra từ miệng tôi, và khi tôi chìa tay ra, cây gậy của Kelley bay thẳng tới. Cánh tay tôi biến thành cành cây trong thoáng chốc trước khi trở lại với dáng vẻ bình thường của nó. Tôi cầu nguyện tất cả những chuyện vừa rồi xảy ra quá nhanh để Kelley kịp nhận thấy thay đổi đó. Nhưng cái nhìn gương mặt cho tôi biết những hy vọng của mình vô ích.

      “Đừng để hoàng đế nhìn thấy điều bà vừa làm,” Kelley cười tự mãn, “nếu ngài nhốt bà lại, như món đồ quý hiếm khác phục vụ cho sở thích của mình. Tôi cho các người những gì các người muốn biết rồi, Roydon. Hãy gọi lũ chó của Đại Hội Đồng .”

      “Ta nghĩ ta có thể làm thế đâu,” Matthew , cầm lấy cây gậy từ tay tôi. “Ngươi vô hại, cho dù Gerbert có nghĩ gì nữa. Nhưng giờ ta để mặc ngươi. Đừng làm bất cứ điều gì khiến ta chú ý thêm nữa, may ra ngươi có thể thấy được mùa hè này đấy.” rồi ném cây gậy vào góc phòng.

      “Chúc ngủ ngon, ông Kelley.” Tôi lấy áo khoác, chỉ muốn cách xa khỏi gã tinh này nhanh nhất có thể.

      “Cứ hưởng thụ thời khắc dưới ánh mặt trời , phù thủy. Ở Praha chúng qua nhanh lắm đấy.” Kelley vẫn ở yên tại chỗ khi Matthew và tôi bắt đầu xuống cầu thang.

      Tôi vẫn còn cảm thấy những cái nhìn của thúc vào da mình khi phố. Khi tôi nhìn lại về phía quán Con Lừa và Cái Nôi, những sợi chỉ tơ vặn vẹo đứt gẫy nối Kelley với thế giới này sáng lên với vẻ ác ý hiểm độc.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      29.

      Sau vài ngày thận trọng đàm phán, Matthew có thể sắp xếp chuyến viếng thăm Rabbi Judah Loew. Để dọn đường cho kiện này, Gallowglass lấy cớ bị ốm để hủy các cuộc hẹn sắp tới của tôi trong triều.

      may, thông báo này lại khiến hoàng đế lưu tâm, và nhà chúng tôi ngập lụt thuốc là thuốc: terra sigillata – thứ đất sét với những đặc tính chữa lành kỳ diệu; những viên đá dị vật thu hoạch từ túi mật của dê ngừa độc; chiếc cốc làm từ sừng kỳ lân cùng đơn thuốc của gia tộc để gây tê. Sau cùng là việc trộn quả trứng nướng với nghệ tây vào bột cùng hạt mù tạt, cây bạch chỉ, quả chín cây bách xù, long não, và vài chất bí khác, sau đó chuyển nó thành hỗn hợp bột nhão cùng mật đường và nước chanh đường. Rudolf cử bác sĩ Hájek theo cùng để thực thi nó. Nhưng tôi định nuốt cái thứ hỗn tạp chẳng mấy ngon lành này, vì thế tôi thông báo với vị bác sĩ của hoàng đế biết.

      “Tôi đảm bảo với ngài rằng bà bình phục,” ông ta lạnh nhạt . “May mắn sao, bệ hạ quá bận tậm tới sức khỏe của bản thân người nên mạo hiểm xuống khu Sporrengasse này để xác nhận những chẩn đoán bệnh của tôi.”

      Chúng tôi hết sức biết ơn vì quyết định khôn ngoan của hoàng đế và gửi vị bác sĩ đem về con gà nướng được mang tới từ nhà bếp hoàng gia.

      đường ngang qua sông Moldau tới Thành Cổ Praha, lần đầu tiên tôi có cơ hội trải nghiệm hối hả nhộn nhịp của trung tâm thành phố. Ở đó, những thương nhân giàu có tiến hành công việc kinh doanh dưới mái vòm của những ngôi nhà ba, bốn tầng dọc theo các con phố ngoằn ngoèo. Khi chúng tôi rẽ về hướng bắc, diện mạo thành phố dần thay đổi: nhà cửa hẹp hơn, dân cư ăn vận nhếch nhác hơn, kinh doanh buôn bán trì trệ hơn. Sau đó chúng tôi qua con đường rộng rãi và xuyên qua cánh cổng tiến vào trong Thành Do Thái. Hơn năm ngàn người Do Thái sống trong khu đất bị kẹt giữa bờ sông công nghiệp, quảng trường chính của Thành Cổ, và nhà tu kín. Thậm chí so với mật độ ở London, cũng thể hình dung nổi, khu phố Do Thái lại đông đúc đến vậy – chen chúc trong những ngôi nhà thiếu kiên cố, được xây tự phát.

      Trải qua lộ trình quanh co lắt léo, chúng tôi tìm thấy Rabbi Loew. Nếu có túi mẩu vụn bánh mỳ ở đây để rải đường, may ra chúng tôi mới tìm nổi đường về nhà. Cư dân ở đây liếc những ánh mắt dè chừng về phía chúng tôi, nhưng số ít cũng dám chào hỏi. Họ gọi Matthew là “Gabriel.” Đó là trong rất nhiều tên của , chúng báo hiệu rằng tôi trượt xuống hang thỏ của Matthew và sắp sửa gặp cái tôi quá khứ khác của .

      Khi tôi đứng trước quý ông tốt bụng được biết đến là nhà học giả Maharal, tôi hiểu tại sao Matthew về ông ta bằng giọng lặng lẽ như vậy. Rabbi Loew tỏa ra sức mạnh hệt như tôi thấy ở Philippe. Phẩm cách của ông ta khiến cho các cử chỉ phô trương của Rudolf và tính hờn dỗi của Elizabeth dường như nực cười khi đem ra so sánh. Và càng đáng ngạc nhiên hơn trong thời kỳ này, khi vũ lực là phương thức thông thường áp đảo người khác, tiếng tăm của vị Maharal này lại được xây dựng học thức và uyên bác, chứ phải sức mạnh cơ bắp.

      “Vị Maharal này là trong những người đàn ông cao quý nhất từng sống đời này,” Matthew ngắn gọn khi tôi cầu kể thêm về Judah Loew. Cứ xem việc Matthew rong chơi bao lâu trái đất này, hiểu đây quả là lời ngợi ca to lớn.

      “Gabriel, ta tưởng chúng ta kết thúc công việc của mình rồi mà,” Rabbi Loew nghiêm nghị bằng tiếng La tinh, giọng điệu hệt như vị hiệu trưởng. “Trước đây, tôi tiết lộ tên của phù thủy tạo ra người đất sét bây giờ cũng đâu.” Rabbi Loew quay sang tôi. “Tôi xin lỗi, Frau Roydon. thiếu kiên nhẫn của tôi với chồng bà khiến tôi quên cả lề thói cư xử đúng mực. Rất hân hạnh được gặp bà.”

      “Tôi đến vì chuyện người đất sét,” Matthew đáp. “Hôm nay tôi đến vì việc riêng. Nó liên quan tới cuốn sách.”

      “Cuốn sách nào thế?” Mặc dù Maharal chớp mắt, nhưng luồng khí xáo động vây quanh tôi cho thấy có phản ứng dễ phát từ phía ông. Từ khi gặp Kelley, tôi nhận ra phép thuật của mình vẫn nhạy cảm như thể bị hút vào dòng năng lượng vô hình. Con rồng lửa của tôi ngọ nguậy. Và các sợi tơ xung quanh tôi tiếp tục bung ra thành nhiều màu sắc, làm nổi bật đồ vật, con người, con đường xuyên qua các phố như thể nó cố cho tôi điều gì đó.

      “Nó là cuốn sách vợ tôi tìm thấy ở trường đại học cách đây rất xa,” Matthew . Tôi ngạc nhiên rằng thành trong chuyện này. Cả Rabbi Loew cũng thế.

      “Ah. Tôi thấy chúng ta thành với nhau đấy. Vào buổi như chiều nay, chúng ta nên làm thế ở nơi đủ yên tĩnh để tôi có thể hưởng thụ trải nghiệm này. Hãy vào phòng làm việc của tôi .”

      Ông ta dẫn chúng tôi vào khu phòng nằm ở tầng trệt. Nó có cảm giác thân thuộc với chiếc bàn làm việc đầy vết xước xát và hàng chồng sách. Tôi nhận ra mùi mực và thứ gì đó gợi tôi nhớ đến cái hộp nhựa -lô-phan ở phòng học múa của tôi hồi bé. chiếc bình sắt để cạnh cửa đựng thứ trông giống như những trái táo màu nâu, chồi lên ngụp xuống trong dung dịch cũng màu nâu như thế. Nó có vẻ đầy ma thuật, gợi lên cảm giác lo ngại về những gì có thể còn giấu dưới đáy sâu ghê rợn của cái vạc.

      “Có phải mẻ mực này vừa ý hơn ?” Matthew , chọc chọc vào quả bóng nổi lềnh bềnh.

      “Đúng thế. Ông giúp tôi rất nhiều khi gợi ý thêm mấy cái móng đó vào mực, cần quá nhiều bồ hóng để làm đen, và bền màu hơn.” Rabbi Loew ra hiệu về phía chiếc ghế. “Xin mời ngồi.” Ông đợi cho tới khi tôi an tọa rồi mới ngồi xuống chỗ duy nhất còn lại kia: cái ghế đẩu ba chân. “Gabriel đứng nhé. chàng còn trẻ trung gì, nhưng chân vẫn khỏe lắm.”

      “Tôi đủ trẻ để được ngồi trong lòng ông giống như các học trò của ông đấy, Maharal.” Matthew cười toe toét và duyên dáng thu mình ngồi xếp bằng đất.

      “Các học trò của tôi khôn ngoan hơn vì ngồi sàn nhà vào thời tiết này.” Rabbi Loew quan sát tôi. “Giờ vào việc nào. Tại sao vợ của Gabriel ben Ariel lại xa đến thế để tìm kiếm cuốn sách hả?” Tôi có cảm giác bối rối rằng ông ấy phải về hành trình của tôi qua sông, hay thậm chí băng qua cả Châu Âu. Làm sao ông ấy có thể biết tôi đến từ thời đại này?

      Ngay khi tâm trí tôi bắt đầu nghi vấn, gương mặt người đàn ông lập lờ ra trong trung bờ vai Rabbi Loew. Gương mặt đó, dù trẻ trung, nhưng đầy những nếp nhăn lo lắng bao quanh cặp mắt xám sâu hoắm, và bộ râu màu nâu xám ở chính giữa cằm.

      phù thủy khác kể với ông về tôi,” tôi khẽ .

      Rabbi Loew gật đầu. “Praha là thành phố tuyệt vời đối với tin tức. Hỡi ơi, nửa những gì được ra lại phải .” Ông ta đợi trong chốc lát rồi nhắc khéo. “Cuốn sách kia sao nào?”

      “Chúng tôi nghĩ nó có thể cho chúng tôi biết những sinh vật giống như Matthew và tôi có nguồn gốc như thế nào,” tôi giải thích.

      “Có gì bí đâu. Chúa tạo ra các vị, cũng như người tạo ra tôi và hoàng đế Rudolf vậy,” Maharal đáp, ngồi sâu hơn nữa vào cái ghế của ông. Đó là bộ dạng điển hình của ông thầy, tư thái được phát triển hết sức tự nhiên sau nhiều năm dành tặng cho lũ học trò khoảng để vật lộn với những ý tưởng mới. Tôi nhận thấy cảm giác quen thuộc vừa dự liệu trước được lại vừa kinh hãi khi tôi chuẩn bị trả lời. Tôi muốn làm Rabbi Loew thất vọng.

      “Có lẽ thế, nhưng Chúa ban tặng vài người trong chúng ta thêm số tài năng. Ngài thể khiến người chết sống lại được, Rabbi Loew,” tôi , trả lời như thể ông ta là giáo viên hướng dẫn ở Oxford. “Cũng có những gương mặt xa lạ xuất trước mặt ngài khi ngài đặt ra câu hỏi đơn giản.”

      “Đúng . Nhưng bà cai trị Bohemia, và tiếng Đức của chồng bà tốt hơn cả tôi cho dù tôi chuyện bằng thứ ngôn ngữ này từ khi còn bé. Mỗi chúng ta đều được ban tặng món quà độc nhất vô nhị, Frau Roydon ạ. Trong hỗn loạn của thế giới nay, vẫn có bằng chứng về ý Chúa.”

      “Ngài tự tin về ý Chúa như vậy vì ngài biết nguồn gốc của mình từ Ngũ Kinh,” tôi . “Bereishit – ‘Sách sáng thế’ – theo cách các ngài gọi, hay Genesis – theo người Cơ Đốc giáo. Điều đó đúng sao, Rabbi Loew?”

      “Có vẻ như tôi bàn luận về thần học với nhầm người trong gia đình Ariel rồi,” Rabbi Loew lãnh đạm , dù đôi mắt ánh lên vẻ châm biếm.

      “Ai là Ariel vậy?” Tôi hỏi.

      “Người của Rabbi Loew biết đến cha với cái tên Ariel,” Matthew giải thích.

      “Thiên thần phẫn nộ ư?” Tôi cau mày. Nghe có vẻ giống với Philippe mà tôi biết.

      “Vị chúa tể với quyền uy bao trùm cả trái đất. số người gọi ông ta là Sư Tử Jerusalem. Gần đây người của tôi có lý do để biết ơn Sư Tử, mặc dù người Do Thái – và bao giờ – quên rất nhiều sai lầm của ông ta trong quá khứ. Nhưng Ariel nỗ lực để chuộc lỗi. Và phán quyết thuộc về Chúa.” Rabbi Loew cân nhắc lựa chọn của mình và đưa ra quyết định. “Hoàng đế đúng là có cho tôi xem cuốn sách như thế. Nhưng hỡi ơi, bệ hạ cho tôi nhiều thời gian để nghiên cứu nó.”

      “Bất cứ điều gì ông có thể kể cho chúng tôi đều hữu ích cả,” Matthew , kích động của có thể nhìn thấy được. nhoài người tới trước ôm lấy đầu gối kéo sát vào lồng ngực, y như Jack mỗi khi chăm chú lắng nghe những câu chuyện của Pierre. Trong thoáng, tôi có thể trông thấy chồng tôi như khi còn là đứa trẻ học nghề thợ mộc.

      “Hoàng đế Rudolf gọi tôi tới cung điện với hy vọng tôi có thể đọc văn bản đó. Nhà giả kim thuật, người mà họ gọi là Meshuggener Edward ấy, lấy nó từ thư viện của chủ ông ta, người tên John Dee.” Rabbi Loew thở dài và lắc đầu. “ khó hiểu tại sao Chúa lại tạo ra Dee am hiểu nhưng ngốc nghếch còn Edward dốt nát nhưng quỷ quyệt.”

      “Meshuggener Edward với hoàng đế rằng cuốn sách cổ này chứa những bí mật về bất tử,” Loew tiếp tục. “Trường sinh bất tử là giấc mộng của mọi đàn ông uy quyền. Nhưng văn bản này được viết bằng thứ ngôn ngữ ai hiểu được, ngoại trừ nhà giả kim thuật ấy.”

      “Rudolf cho triệu ngài vì nghĩ rằng nó là dạng ngôn ngữ Do Thái cổ xưa,” tôi gật đầu .

      “Nó có thể rất cổ xưa, nhưng phải là tiếng Do Thái cổ. Có cả những bức tranh nữa. Tôi hiểu ý nghĩa, nhưng Edward chúng là các yếu tố giả kim thuật trong tự nhiên. Có lẽ phần lời giải thích cho các hình ảnh đó.”

      “Rabbi Loew, khi ông thấy nó, các từ ngữ có chuyển động ?” Tôi hỏi, nghĩ lại những dòng chữ tôi từng thấy bị giấu dưới các bức hình minh họa về thuật giả kim.”

      “Làm thế nào chúng có thể di chuyển được chứ?” Loew nhíu mày. “Chúng chỉ là các ký hiệu được viết bằng mực trang giấy thôi mà.”

      “Vậy là nó chưa bị phá vỡ – vẫn chưa đúng hơn,” tôi nhõm . “Có người nào đó bỏ vài trang trong sách trước khi tôi thấy nó ở Oxford. thể nào nhìn ra nghĩa văn bản vì các từ ngữ cứ chạy đua xung quanh để tìm kiếm chị em mất của chúng.”

      “Bà nghe như thể cuốn sách sống vậy,” Rabbi Loew .

      “Tôi nghĩ thế đấy,” tôi thú nhận. Matthew tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi biết nghe có vẻ khó tin. Nhưng khi tôi nhớ lại đêm đó và những gì xảy ra khi tôi chạm vào cuốn sách, đó là cách duy nhất có thể miêu tả về nó. Cuốn sách nhận ra tôi. Theo cách nào đó nó… đau đớn, như thể nó đánh mất thứ gì đấy rất trọng yếu.”

      “Dân tộc tôi có những câu chuyện về các cuốn sách được viết trong lửa sống, mà từ ngữ trong đó di chuyển và bện xoắn lại chỉ để những ai được Chúa lựa chọn mới có thể đọc được chúng.” Rabbi Loew lại kiểm tra tôi. Tôi nhận ra những dấu hiệu ông thầy đánh đố học trò của mình.

      “Tôi nghe những câu chuyện ấy rồi,” tôi chậm rãi đáp. “Cả những truyện về các cuốn sách bị mất khác nữa – những bản Moses phá hủy, cuốn sách của Adam trong đó ông ấy ghi lại tên của mỗi phần sáng thế.”

      “Nếu cuốn sách của bà cũng quan trọng như chúng, có lẽ chính là ý Chúa nên nó vẫn còn bị .” Rabbi Loew lần nữa ngồi ngả ra sau và chờ đợi.

      “Nhưng phải nó bị ,” tôi . “Rudolf biết nó ở đâu, cho dù ông ta thể đọc được nó. Ai là người mà ông chọn để giám hộ món đồ quyền năng như thế: Matthew hay hoàng đế?”

      “Ta biết nhiều người đàn ông khôn ngoan rằng chọn lựa giữa Gabriel ben Ariel và bệ hạ chỉ là chuyện xác định xem kẻ nào ít xấu xa hơn trong hai ác quỷ mà thôi.” chú ý của Rabbi Loew chuyển sang Matthew. “May mắn là tôi bị gộp chung với bọn họ. Nhưng tôi vẫn thể giúp bà thêm nữa. Tôi thấy cuốn sách này – nhưng tôi biết vị trí giờ của nó.”

      “Cuốn sách thuộc sở hữu của Rudolf – hoặc tối thiểu là thế. Cho tới khi ông xác nhận điều đó, chúng tôi mới chỉ có những nghi ngờ của tiến sĩ Dee và những lời cam đoan của gã điên Edward,” Matthew quả quyết .

      “Những kẻ điên có thể nguy hiểm lắm đấy,” Rabbi Loew đưa ra nhận xét. “Ông nên cẩn thận hơn với kẻ ông treo ra ngoài cửa sổ, Gabriel.”

      “Ông nghe về chuyện đó rồi sao?” Matthew ngượng ngùng .

      “Thị trấn này đồn ầm lên rằng Meshuggener Edward bay quanh Malá Strana với quỷ dữ. Cơ bản tôi cho rằng ông có dính líu với chuyện này.” Lần này giọng Rabbi Loew pha chút quở trách nhàng. “Gabriel à, Gabriel. Cha ông gì đây?”

      “Rằng đáng lẽ tôi nên thả xuống, tất nhiên rồi. Cha tôi ít kiên nhẫn với các sinh vật kiểu như Edward Kelley.”

      “Ý ông là những gã điên.”

      “Ý tôi là những gì tôi , Maharal,” Matthew thản nhiên .

      “Người đàn ông mà ông dễ dàng giết chết đó, hỡi ôi, lại là kẻ duy nhất có thể giúp ông tìm thấy cuốn sách của vợ ông.” Rabbi Loew dừng lại, lựa lời. “Nhưng ông có muốn biết những bí mật của nó ? sống và cái chết là những trách nhiệm rất lớn lao.”

      “Căn cứ vào việc tôi là ai, ông ngạc nhiên khi tôi quen thuộc với những gánh nặng đặc biệt đó chứ.” Nụ cười của Matthew mang chút hài hước nào.

      “Có lẽ. Nhưng vợ ông cũng có thể gánh vác chúng ư? phải lúc nào ông cũng có thể ở bên bà ấy, Gabriel. Có những người chia sẻ hiểu biết của họ với phù thủy nhưng làm điều đó với ông.”

      “Vậy là có người tạo ra các câu thần chú ở Thành Do Thái,” tôi . “Tôi băn khoăn khi nghe về người đất sét kia.”

      “Ông ta vẫn đợi bà tìm đến. Than ôi, ông ta chỉ gặp đồng đạo phù thủy thôi. Bạn của tôi sợ Đại Hội Đồng của Gabriel, và có lý do chính đáng,” Rabbi Loew giải thích.

      “Tôi rất muốn gặp ông ấy, Rabbi Loew.” Có rất ít thợ dệt hiếm hoi thế giới này. Tôi thể để lỡ cơ hội được biết người.

      Matthew dường như chấn động, lời phản đối chực tuôn trào.

      “Chuyện này rất quan trọng, Matthew.” Tôi đặt tay mình lên cánh tay . “Em hứa với Goody Alsop thờ ơ với phần này trong con người em khi chúng ta ở đây.”

      người nên tìm thấy trọn vẹn trong hôn nhân, Gabriel ạ, nhưng nên trở thành nhà tù giam giữ nửa kia của mình,” Rabbi Loew .

      “Đây phải chuyện hôn nhân của chúng ta hay chuyện em là phù thủy.” Matthew lên đứng lên, khung người cao lớn của lấp đầy cả gian phòng. “ phụ nữ theo Cơ Đốc giáo có thể gặp nguy hiểm khi bị bắt gặp ở cùng người đàn ông Do Thái.” Khi tôi mở miệng định phản đối, Matthew liền lắc đầu. “ phải vì em. Vì ông ta ấy. Em phải làm theo những gì Rabbi Loew bảo. muốn ông ta hay bất cứ ai khác ở Thành Do Thái bị hại – phải vì lợi ích của chúng ta.”

      “Em làm bất cứ chuyện gì khiến mình hay Rabbi Loew bị chú ý,” tôi hứa.

      “Thế gặp thợ dệt này . ở Ungelt đợi.” Matthew hôn lên má tôi và biến mất trước khi có thể đổi ý khác. Rabbi Loew nháy mắt.

      “Gabriel quá nhanh nhẹn đối với người cao lớn như thế,” Rabbi rồi đứng dậy. “Ông ấy gợi cho tôi nghĩ đến con hổ của hoàng đế.”

      “Lũ mèo vẫn nhận Matthew là đồng loại của chúng mà,” tôi , nghĩ đến con mèo Tabitha của dì Sarah.

      “Nhận ra mình cưới con thú hoang làm lo lắng nhỉ. Gabriel may mắn trong việc chọn vợ đấy.” Rabbi Loew cầm chiếc áo choàng đen lên và gọi người hầu báo chúng tôi chuẩn bị rời .

      Tôi nghĩ chúng tôi rời khỏi đó theo hướng khác, nhưng cũng chắc chắn vì toàn bộ chú ý của tôi đều tập trung vào những con phố lát gạch tinh tươm, đó là lần đầu tiên tôi trông thấy chúng kể từ khi trở về quá khứ này. Tôi hỏi Rabbi Loew ai là người cung cấp những tiện nghi khác thường này.

      “Herr Maisel trả tiền cho chúng, cùng với khu nhà tắm công cộng dành cho phụ nữ. Ông ấy giúp hoàng đế những vấn đề tài chính nho – như cuộc chiến thần thánh của ngài chống lại người Thổ.” Rabbi Loew trả lời khi vòng qua vũng nước. Vào lúc ấy tôi trông thấy cái khuyên bằng vàng được đính lên lớp vải ngực áo ông.

      “Đó là cái gì thế?” Tôi hỏi, hất đầu về phía cái huy hiệu.

      “Nó cảnh báo những người Cơ Đốc thuần thành rằng tôi là người Do Thái.” Nét mặt Rabbi Loew cau lại. “Từ lâu tôi tin rằng ngay cả kẻ ngu đần nhất cũng hiển nhiên nhận ra, cho dù có hay có cái huy hiệu này. Nhưng các nhà cầm quyền khăng khăng rằng có thể có nghi ngờ.” Giọng Rabbi Loew trùng xuống. “Dù sao vẫn còn thích hơn cái mũ mà những người Do Thái từng buộc phải đội. Màu vàng tươi như miếng phó mát ấy. Mỗi khi đến chợ, cứ phải cố phớt lờ nó .”

      “Đó cũng là điều con người làm với tôi và Matthew nếu biết chúng tôi sống giữa bọn họ.” Tôi rùng mình. “Đôi khi nên giấu mình tốt hơn.”

      phải đó là điều Đại Hội Đồng của Gabriel làm sao? Giấu kín các vị?”

      “Nếu thế họ làm công việc này rất kém đấy,” tôi vừa vừa cười. “Frau Huber nghĩ có ma sói rình mò quanh Stag Moat. Hàng xóm của ngài ở Praha tin rằng Edward Kelley có thể bay. Loài người săn lùng phù thủy ở Đức và Scotland. Còn Elizabeth của nước và Rudolf của nước Áo biết tất cả về chúng tôi. Tôi nghĩ chúng tôi nên mừng vì vẫn còn có vài vị vua và nữ hoàng phản đối chúng tôi.”

      “Khoan dung thôi đủ. Trong khoảng thời gian, người Do Thái bị phản đối ở Praha, nhưng tình huống này có thể thay đổi trong chớp nhoáng. Rồi chúng tôi nhận ra mình ở ngoài vùng thôn quê, chết đói giữa trời tuyết lạnh.” Rabbi Loew rẽ vào con hẻm và bước vào ngôi nhà giống như bao ngôi nhà khác mà chúng tôi qua. Bên trong, hai người đàn ông ngồi trước chiếc bàn để đầy những dụng cụ toán học, sách, nến và giấy tờ.

      “Thiên văn học cung cấp nền tảng chung cho Thiên Chúa giáo!” người đàn ông lớn bằng tiếng Đức, đẩy mảnh giấy về phía người đồng . Ông ta khoảng năm mươi, bộ râu dày màu muối tiêu và hai cánh xương lông mày nặng nề che đôi mắt. Đôi bờ vai khòng xuống thành tật như hầu hết các học giả.

      “Đủ rồi, David!” Người kia bùng nổ. “Có lẽ nền tảng chung phải là mảnh đất hứa hẹn chúng ta hy vọng đâu.”

      “Abraham, phu nhân đây muốn được chuyện với ông,” Rabbi Loew lên tiếng, cắt ngang cuộc đấu khẩu của họ.

      “Tất cả phụ nữ ở Praha đều háo hức muốn gặp Abraham.” Vị học giả Davida đứng dậy. “Lần này là con nhà ai muốn bùa hả?”

      “Cha ấy quan tâm tới ông đâu mà là chồng ấy cơ. Đây là Frau Roydon, vợ của người .”

      “Là người hoàng đế gọi là La Diosa ư?” David cười rồi vỗ lên vai Abraham. “Vận may của ông có bước ngoặt rồi, bạn của tôi ơi. Ông bị kẹt giữa vị vua, nữ thần, và nachzehrer.” Tiếng Đức hạn hẹp của tôi ngờ ngợ cái từ lạ này có nghĩa “ăn ngấu nghiến cái chết.”

      Abraham gì đó thực thô lỗ bằng tiếng Do Thái cổ, nhưng vẻ mặt tán thành của Rabbi Loew biểu lộ dấu hiệu nào, rồi cuối cùng ông ta quay sang đối diện tôi. Ông và tôi nhìn nhau, phù thủy đối mặt với phù thủy, nhưng ai trong chúng tôi có thể chịu đựng được lâu. Tôi quay hơi thở gấp, còn ông ta nhăn mày và ấn ngón tay lên mí mắt. Da tôi râm ran nhoi nhói khắp nơi, chỉ ở nơi ánh mắt ông ta nhìn đến. Và bầu khí giữa chúng tôi là cả khối màu sắc khác nhau sáng rực.

      “Bà ấy có phải là người ông đợi , Abraham ben Elijah?” Rabbi Loew hỏi.

      “Đúng bà ấy,” Abraham vừa vừa xoay người khỏi tôi, rồi đặt hai nắm tay lên bàn. “Tuy nhiên, các giấc mơ cho tôi biết bà ấy là vợ của aluka.”

      “Alukah?” Tôi nhìn Rabbi Loew tìm kiếm lời giải thích. Nếu từ này là tiếng Đức tôi thể lĩnh hội được nó.

      kẻ hút máu. Đó là cách người Do Thái chúng tôi gọi những sinh vật giống như chồng bà,” ông ấy đáp. “Vì những gì đáng giá, Abraham, Grabiel đồng ý cuộc gặp mặt này.”

      “Ông nghĩ tôi tin tưởng lời của con quái vật kết án người của tôi từ chiếc ghế của Qahal trong khi mắt nhắm mắt mở cho qua với những kẻ giết hại họ ư?” Abraham gào lên.

      Tôi muốn phản đối rằng đây phải là Gabriel đó – phải cùng là Matthew đó – nhưng kịp dừng lại được. Điều tôi có thể khiến mỗi người trong căn phòng này bị giết chết trong vòng sáu tháng khi Matthew thế kỷ mười sáu quay trở lại đúng vị trí của ta.

      “Tôi có mặt ở đây vì chồng tôi hay vì Đại Hội Đồng,” tôi , bước về phía trước. “Tôi ở đây là vì chính bản thân mình.”

      “Tại sao?” Abraham hỏi.

      “Bởi vì, tôi cũng là người tạo ra thần chú. Và chúng ta còn lại mấy người đâu.”

      “Còn có nhiều hơn cơ, trước khi Qahal – Đại Hội Đồng – thiết lập cai trị của chúng.” Abraham , giọng khiêu khích. “Là ý Chúa, chúng ta sống để thấy bọn trẻ được sinh ra với những tài năng này.”

      tới bọn trẻ, người đất sét của ông đâu rồi?” Tôi hỏi.

      David cười ha hả. “Mẹ Abraham. Gia đình của ông ở Chelm gì đây?”

      “Họ tôi kết bạn với con lừa có gì trong đầu ngoại trừ mấy ngôi sao và những đam mê lười biếng, Davia Gans!” Abraham , mặt đỏ bừng.

      Rồng lửa của tôi, vốn ương bướng khó bảo nhiều ngày nay, gầm lên sống dậy với tất cả dáng vẻ hớn hở. Trước khi tôi kịp ngăn nàng, nó thoát ra tự do rồi. Rabbi Loew và bạn của ông ta thở hắt ra trước cảnh tượng này.

      “Thỉnh thoảng nó lại thế này đấy. có gì phải lo lắng đâu.” Giọng tôi chuyển từ vẻ áy náy sang hứng khởi khi khiển trách con vật tùy thân ngỗ ngược của mình. “Xuống khỏi đó ngay!”

      Nhóc rồng lửa bám chặt lên tường và rít lên với tôi. Lớp vữa trát tường vốn có nhiệm vụ chống chịu sinh vật có cánh xòe rộng bằng mười bàn chân thế này. mảng lớn vữa rơi xuống, và nàng kêu ré lên hốt hoảng. Cái đuôi vung ra níu vào bức tường liền kề. Nhóc rồng lửa rúc lên đắc thắng.

      “Nếu ngươi thôi ngay, ta bảo Gallowglass đặt cho ngươi cái tên quỷ quái đấy,” tôi cằn nhằn. “Có ai trông thấy dây buộc của nó ? Trông giống sợi xích mảnh như sa ấy.” Tôi tìm kiếm dọc theo đường viền chân tường và tìm thấy nó đằng sau cái giỏ đựng mồi lửa, vẫn còn nối liền với tôi. “Ai trong các vị có thể cầm giúp cái thòng lọng này phút trong khi tôi bắt nó lại ?” Tôi quay ra, hai bàn tay đầy những đường kết nối trong mờ. Đám đàn ông mất dạng.

      “Điển hình ,” tôi lầu bầu. “Ba người đàn ông trưởng thành và phụ nữ, đoán xem ai bị kẹt lại với con rồng nào?”

      Hai chân nặng nề qua sàn nhà bằng gỗ. Tôi nghiêng người để nhìn qua cánh cửa. sinh vật thó vừa xám vừa đỏ mặc trang phục tối màu và chiếc mũ cáp màu đen đội chiếc đầu hói nhìn trừng trừng vào con rồng lửa của tôi.

      , Yosef.” Abraham đứng giữa tôi và sinh vật kia, hai bàn tay giơ lên như thể ông cố đưa ra lý do với nó. Nhưng tên người đất sét – vì đây hẳn chính là sinh vật huyền thoại được tạo hình dáng từ bùn đất của Moldau và đưa sinh khí vào bằng câu thần chú – vẫn tiếp tục di chuyển đôi chân về phía con rồng lửa.

      “Yosef bị con rồng của phù thủy này mê hoặc rồi,” David .

      “Tôi tin thằng người đất sét này cũng thích mấy nàng xinh đẹp giống người tạo ra nó,” Rabbi Loew . “Những gì tôi đọc được cho thấy vật tùy thân của phù thủy thường có vài tính cách nào đó giống chủ nhân.”

      “Người đất sét này là vật tùy thân của Abraham sao?” Tôi choáng váng.

      “Đúng thế. Nó xuất khi tôi làm ra câu thần chú đầu tiên. Tôi bắt đầu nghĩ mình có vật tùy thân nào cả.” Abraham phất tay về phía Yosef, nhưng người đất sét kia vẫn nhìn chằm chằm chớp mắt vào nàng rồng lửa tường. Như thể biết mình có kẻ ngưỡng mộ, nàng rồng lửa vươn đôi cánh để lớp da mỏng đó bắt lấy ánh sáng.

      Tôi giơ lên sợi xích. “ có thứ gì như thế này à?”

      “Cái xích đó có vẻ chẳng giúp bà được nhiều,” Abraham nhận xét.

      “Tôi có rất nhiều điều phải học!” Tôi phẫn nộ đáp. “Con rồng lửa xuất khi tôi dệt câu thần chú đầu tiên của mình. Ông tạo ra Yosef thế nào?”

      Abraham lôi ra nắm sợi thừng thô từ trong túi áo. “Bằng mấy sợi thừng như thế này.”

      “Tôi cũng có những sợi thừng .” Tôi thò tay vào chiếc sắc tay nằm trong túi váy để tìm những sợi lụa của mình.

      “Các màu sắc giúp bà tách rời những sợi tơ của thế giới này ra và sử dụng chúng hiệu quả hơn à?” Abraham bước về phía tôi, tỏ vẻ hứng thú với biến đổi trong công việc dệt thần chú này.

      “Đúng thế. Mỗi màu sắc có ý nghĩa, và để tạo ra câu thần chú mới, tôi dùng những sợi thừng này để tập trung vào câu hỏi cụ thể.” Tôi lúng túng nhìn thằng người đất sét. Nó vẫn nhìn chòng chọc nàng rồng lửa. “Nhưng làm cách nào ông biến từ những sợi thừng thành sinh vật được?”

      người phụ nữ đến hỏi xin tôi câu thần chú mới giúp bà ta thụ thai. Tôi bắt đầu làm các nút thắt sợi thừng trong khi cân nhắc lời đề nghị của bà ta và kết thúc với thứ trông giống như bộ xương đàn ông.” Abraham tới bàn làm việc, cầm lên mảnh giấy của David, và bất chấp những lời phản đối của bạn mình, ông ta phác họa ra hình ảnh ông ta muốn .

      “Trông giống thằng người tí hon,” tôi , nhìn vào bản vẽ của ông ta. Chín nút thắt được nối bằng những đường dây thừng thẳng tắp: nút làm đầu, nút làm tim, hai nút làm bàn tay, nút thắt khác làm xương chậu, hai nút nữa làm đầu gối, và hai nút cuối cùng làm bàn chân.

      “Tôi trộn đất sét với ít máu của mình và trát nó lên dây thừng giống như da thịt. Sáng hôm sau Yosef ngồi bên cạnh lò sưởi rồi.”

      “Ông biến đất sét thành sống,” tôi , nhìn sang thằng người đất sét bị làm cho mê mẩn. Abraham gật đầu. “ bùa chú với cái tên bí mật của Chúa ở trong miệng Yosef. Chừng nào nó còn ở đó, Yosef còn lại và vâng theo mệnh lệnh của tôi. Hầu như là thế.”

      “Yosef có khả năng tự chủ,” Rabbi Loew giải thích. “Thổi sống vào đất sét và máu rốt cuộc cũng đem đến linh hồn cho sinh vật. Vì vậy Abraham thể để người đất sét rời khỏi tầm mắt vì sợ Yosef gây hại.”

      “Tôi quên lấy bùa thần chú ra khỏi miệng nó vào hôm thứ Sáu khi đến giờ cầu nguyện,” Abraham ngượng ngùng thú nhận. “ có ai bảo nó phải làm gì nên Yosef lang thang khắp Thành Do Thái và làm đám hàng xóm Thiên Chúa giáo sợ chết khiếp. Giờ người Do Thái nghĩ mục đích của Yosef là bảo vệ chúng tôi.”

      “Công việc của người mẹ bao giờ hết cả,” tôi mỉm cười lẩm bẩm . “ tới thứ…” Rồng lửa của tôi chìm vào giấc ngủ và khe khẽ ngáy, má nàng gối lên vữa tường. khẽ khàng để làm nó khó chịu, tôi kéo sợi xích cho tới khi nó thả mấy cái móng bám chặt vào tường ra. nàng ngái ngủ đập đập đôi cánh, rồi dần trở nên trong suốt như làn khói, từ từ tan vào hư khi nhập trở lại cơ thể tôi.

      “Tôi ước gì Yosef cũng có thể làm thế,” Abraham cách ghen tỵ.

      “Còn tôi ước gì có thể giữ cho nàng im lặng bằng cách lấy mẩu giấy từ dưới lưỡi nó!” Tôi đáp trả.

      Mấy giây sau tôi cảm thấy cảm giác lạnh lẽo lưng mình.

      “Ai đây?” giọng khàn khàn cất lên.

      Kẻ mới tới trông có vẻ cao lớn hay đáng sợ – nhưng ma cà rồng, với đôi mắt xanh lam đặt khuôn mặt dài tái nhợt bên dưới mái tóc sẫm màu. Có thứ gì đó đầy vẻ uy quyền trong cách nhìn tôi, và theo bản năng tôi bước tránh xa .

      có gì làm ông bận tâm đâu, Herr Fuchs,” Abraham xẵng giọng.

      cần phải cư xử tệ thế đâu, Abraham.” chú ý của Rabbi Loew chuyển sang tên ma cà rồng. “Đây là Frau Roydon, Herr Fuchs. Bà ấy từ Malá Strana đến thăm Thành Do Thái.”

      Ma cà rồng nhìn dán vào tôi, hai cánh mũi phập phồng y như Matthew khi nhận thấy mùi hương mới. Mí mắt lim dim khép lại. Tôi lại bước ra xa thêm bước.

      “Tại sao ông lại ở đây, Herr Fuchs? Tôi gặp ông bên ngoài hội đạo Do Thái kia mà,” Abraham liền hơi ràng.

      “Ông đến muộn.” Đôi mắt xanh của Herr Fuchs mở choàng ra, và cười với tôi. “Nhưng giờ tôi biết tại sao ông bị cầm chân rồi, tôi để tâm nữa đâu.”

      “Herr Fuchs từ Phần Lan đến thăm, ông ấy và Abraham quen nhau ở đó,” Rabbi Loew , hoàn thành việc giới thiệu.

      Có ai đó ở dưới đường chào vọng lại. “Herr Maisel đây rồi,” Abraham . Giọng ông ta nghe có vẻ nhõm, giống như tôi lúc này.

      Herr Maisel, người cung cấp những con đường lát đá và làm đầy thêm ngân sách phòng thủ đế quốc, khoe khoang phát đạt của ông ta từ bộ đồ cắt may bằng len chê vào đâu được, chiếc áo choàng tay viền lông, và chiếc khuyên tròn màu vàng sáng bóng tuyên bố ông ta là người Do Thái. Thứ cuối cùng đính với chiếc áo choàng bằng sợi dây bằng vàng, khiến nó trông giống cái huy hiệu quý tộc hơn là dấu hiệu để phân biệt.

      “Ông đây rồi, Herr Fuchs.” Herr Maisel đưa cho gã ma cà rồng chiếc túi . “Tôi có món trang sức của ông rồi.” Maisel cúi đầu chào Rabbi Loew và tôi. “Frau Roydon.”

      Gã ma cà rồng đón cái túi và lấy ra sợi dây chuyền nặng cùng mặt dây chuyền. Tôi thể trông thấy ràng thiết kế của nó, mặc dù lớp men phủ bên ngoài màu đỏ và xanh lá cây thô ráp. Gã ma cà rồng nhếch môi khoe hàm răng.

      “Cảm ơn, Herr Maisel.” Fuchs giơ lên món trang sức, các sắc màu bắt ánh sáng. “Sợi dây chuyền này biểu thị cho lời thề của tôi tàn sát những con rồng, bất cứ nơi đâu chúng được tìm thấy. Tôi quên mang nó. Dạo này, thành phố đầy rẫy những sinh vật nguy hiểm.”

      Herr Maisel khịt mũi. “ còn bình thường nữa rồi. Hãy để cho các chính trị gia của thành phố được yên, Herr Fuchs. tốt hơn cho tất cả chúng ta nếu ngài làm thế. Bà sẵn sàng gặp chồng mình chưa, Frau Roydon? Ông ấy phải là người đàn ông kiên nhẫn nhất đâu.”

      “Herr Maisel trông chừng bà an toàn tới Ungelt,” Rabbi Loew hứa. Ông chĩa thẳng cái nhìn sâu hoắm vào Herr Fuchs. “Hãy tiễn Diana tới phố, Abraham. Ông ở lại đây cùng với tôi, Herr Fuchs, và hãy kể cho tôi nghe về Phần Lan nào.”

      “Cảm ơn, Rabbi Loew.” Tôi nhún gối chào tạm biệt.

      vinh hạnh, Frau Roydon.” Rabbi Loew ngừng chút. “Và nếu có thời gian, bà có thể ngẫm lại những điều tôi lúc trước. ai trong chúng ta có thể trốn tránh mãi mãi cả.”

      đâu.” Căn cứ vào nỗi kinh hoàng mà người Do Thái ở Praha chứng kiến suốt nhiều thế kỷ tiếp theo, tôi ước gì ông ấy sai. Gật đầu chào Herr Fuchs lần cuối, tôi rời khỏi ngôi nhà với Herr Maisel và Abraham.

      “Chờ chút, Herr Maisel,” Abraham khi chúng tôi ra khỏi ngôi nhà.

      “Nhanh lên đấy, Abraham,” Herr Maisel , rút lui cách xa vài mét.

      “Tôi hiểu là bà tìm kiếm thứ ở Praha, Frau Roydon. cuốn sách.”

      “Làm sao ông biết được?” Tôi cảm thấy tiếng thầm cảnh giác.

      “Hầu hết phù thủy trong thành phố này đều biết nó, nhưng tôi có thể thấy bà có mối liên hệ với nó như thế nào. Cuốn sách được canh giữ cẩn mật, và vũ lực thể giải thoát nó.” Gương mặt Abraham nghiêm nghị. “Cuốn sách phải đến với bà, hoặc , bà mất nó mãi mãi.”

      “Nó là quyển sách, Abraham. Trừ phi nó mọc chân, còn chúng tôi phải vào cung điện của Rudolf và tìm kiếm nó.”

      “Tôi biết mình thấy điều gì,” Abraham bướng bỉnh . “Cuốn sách đến với bà, nếu bà cầu nó. Đừng quên.”

      “Tôi quên,” tôi hứa. Herr Maisel nhìn chằm chặp về phía chúng tôi. “Tôi phải rồi. Cảm ơn ông vì gặp tôi và giới thiệu tôi với Yosef.”

      “Cầu Chúa che chở cho bà, Diana Roydon,” Abraham long trọng , gương mặt trang nghiêm. ***

      Herr Maisel hộ tống tôi đoạn ngắn từ Thành Do Thái tới Thành Cổ. Quảng trường rộng rãi giờ tụ họp đầy những người là người. Hai tòa tháp đôi Quý Bà Tyn nhô lên bên phía tay trái, trong khi những đường nét lờ mờ của Town Hall nép mình phía bên phải.

      “Nếu phải gặp Herr Roydon, chúng ta dừng lại ngắm đồng hồ điểm giờ,” Herr Maisel vẻ hối tiếc. “Bà phải đòi ông ấy đưa qua đó đường tới cầu nhé. Mọi du khách đến thăm Praha đều nên

      xem nó.”

      Tại Ungelt, các thương nhân ngoại quốc mua bán dưới những cặp mắt canh chừng của nhân viên hải quan, họ nhìn Maisel với thái độ thù địch lộ liễu.

      “Vợ ông đây, Herr Roydon. Tôi đảm bảo bà ấy nhận biết được tất cả các cửa hiệu tốt nhất đường đến gặp ông rồi. Bà ấy gặp bất cứ rắc rối nào ở Praha này khi chăm lo đời sống sinh hoạt trong nhà ông đâu.” Maisel cười tươi rói với Matthew.

      “Cảm ơn, Herr Maisel. Tôi rất biết ơn trợ giúp của ông và chắc chắn bệ hạ cũng biết được lòng tốt này.”

      “Đó là công việc của tôi mà, Herr Roydon, chăm lo phồn thịnh cho thần dân của đức bệ hạ. Và dĩ nhiên đó cũng là vinh hạnh,” ông ta . “Tôi tự cho mình đặc quyền thuê ngựa phục vụ chuyến trở về của các vị. Chúng đợi các vị gần tháp đồng hồ thành phố.” Maisel khẽ chạm vào cánh mũi và nháy mắt cách bí hiểm.

      “Ông chu toàn, Herr Maisel,” Matthew lẩm bẩm.

      “Phải có người làm thế chứ, Herr Roydon,” Maisel đáp lại.

      Quay trở về Ba Con Quạ, tôi cởi áo choàng cậu nhóc tám tuổi và cái giẻ bay thình lình đụng trúng chân tôi. Cái giẻ kèm với cái lưỡi sống động màu hồng và cái mũi đen xì lạnh cóng.

      “Gì thế này?” Matthew rống lên, giữ tôi đứng vững để tôi có thể xác định cán cầm của chiếc giẻ lau.

      “Tên nó là Lobero. Gallowglass sau này nó thành con thú to lớn với yên cương vừa vặn và dây xích. Annie cũng thích mê. Chị ấy ngủ cùng chị ấy, nhưng cháu nghĩ chúng cháu nên chia sẻ. Ông bà nghĩ sao?” Jack nhảy nhót hào hứng .

      “Cái giẻ lau nhà bé này đến với chúng ta kèm theo tờ giấy nhắn,” Gallowglass vừa vừa đẩy người ra khỏi khung cửa dựa, sải bước về phía Matthew để đưa lời nhắn.

      “Ta có cần hỏi xem ai gửi sinh vật này đến ?” Matthew , chộp lấy tờ giấy.

      “Ồ, cháu nghĩ vậy đâu,” Gallowglass . Mắt ta nheo lại thành đường kẻ chỉ. “Chuyện gì xảy ra khi hai người ở ngoài thế? Trông như sắp chết đến nơi vậy.”

      “Chỉ mệt thôi mà,” tôi kèm cái vẫy tay nhè . Cái giẻ lau nhà có cả răng lẫn lưỡi, và nó cắn ngón tay tôi khi chúng ngang qua cái miệng-chưa-được-khám-phá của nó. “Ối! Đau quá!”

      “Chuyện này phải dừng lại ngay.” Matthew vò tờ giấy nhắn trong tay và quăng nó xuống sàn. Cái giẻ lau ngoạm ngay lấy nó kèm theo tiếng sủa sung sướng.

      “Lời nhắn đó gì thế?” Tôi biết khá chắc chắn ai gửi chú chó con này đến.

      “Ich bin Lobero. Ich will euch aus den Schatten der Nacht zu schützen,” Matthew thẳng thừng .

      Tôi thốt lên tiếng nôn nóng. “Tại sao ông ta vẫn cứ viết cho em bằng tiếng Đức nhỉ? Rudolf biết em hiểu mấy mà.”

      “Bệ hạ thích dịch lời tỏ tình của ông ta ấy mà.”

      “Ồ.” Tôi ngừng chút. “Lời nhắn gì vậy ?”

      “Tôi là Lobero. Tôi muốn bảo vệ bà khỏi bóng đêm.”

      “Còn ‘Lobero’ có nghĩa là gì?” Rất nhiều tuần trăng trước đây, có lần Ysabeau dạy tôi rằng những cái tên rất quan trọng.

      “Trong tiếng Tây Ban Nha, nó có nghĩa là ‘Thợ Săn Sói’, ạ.” Gallowglass nhấc cái giẻ lau lên. “Cái nùi bông này là con chó bảo vệ Hungary. Lobero lớn lên rất to, có thể hạ cả con gấu đấy. Chúng bảo vệ rất dữ dội – nhất là về đêm.”

      con gấu cơ á! Khi chúng ta mang nó trở về London, cháu thắt cái ruy băng quanh cổ nó và mang đến chỗ thả chó trêu gấu để nó có thể học được cách chiến đấu,” Jack với vẻ phấn kích của đứa bé. “Lobero là cái tên dũng cảm, ngài có nghĩ thế ? Ông Shakespeare muốn dùng tên này trong vở kịch kế tiếp của ông ấy cho xem.” Jack ngọ nguậy mấy ngón tay nhử chú chó con, còn Gallowglass giúp đặt khối lông trắng tinh oằn oại vào vòng tay cậu nhóc.

      “Annie! Lần tới em cho Lobero ăn!” Jack chạy hết tốc lực lên cầu thang, giữ chú chó kẹp chết dí trong vòng tay.

      “Cháu mang chúng vài giờ nhé?” Gallowglass hỏi sau khi trông thấy gương mặt nổi giông bão của Matthew.

      “Nhà của Baldwin trống hả?”

      còn người thuê nào trong đó cả, nếu đó là điều chú muốn .”

      “Mang mọi người .” Matthew nhấc áo choàng khỏi vai tôi.

      “Cả Lobero ạ?”

      “Đặc biệt là Lobero.”

      Jack liến thoắng như con chim ác lắm miệng suốt cả bữa tối, gây chiến với Annie và xoay sở để tuồn miếng đồ ăn cho Lobero bằng đủ mọi cách. Quay cuồng giữa lũ trẻ và con chó khiến tôi quên bẵng thực tế là Matthew vẫn xem xét lại các kế hoạch của cả buổi tối. mặt, là động vật bầy đàn nên có điều gì đấy trong rất hưởng thụ việc có nhiều sinh vật sống để chăm lo. Mặt khác, lại là dã thú săn mồi và tôi có cảm giác thoải mái khi tôi chính là con mồi tối nay. Dã thú săn mồi thắng. Ngay cả Tereza và Karolína cũng được phép ở lại.

      “Sao lại đuổi tất cả thế?” Chúng tôi vẫn ngồi cạnh bếp lò trong nhà chính, phòng tầng , nơi mùi thơm dễ chịu của bữa tối còn đầy ắp khí.

      “Chuyện gì xảy ra chiều nay vậy?” hỏi.

      “Trả lời câu hỏi của em trước .”

      “Đừng có ép . phải tối nay,” Matthew cảnh cáo.

      nghĩ ngày hôm nay của em dễ chịu lắm à?” khí giữa chúng tôi lách tách phóng ra những sợi màu xanh và đen, trông như báo điềm gở và có cảm giác tệ hơn.

      .” Matthew trượt chiếc ghế bành của ra sau. “Nhưng em giấu chuyện gì đó, Diana. Chuyện gì xảy ra với phù thủy kia thế?”

      Tôi nhìn chằm chằm.

      đợi đấy.”

      có thể đợi cho tới khi địa ngục đóng băng, Matthew ạ, bởi vì em phải người hầu của . Em hỏi câu hỏi.” Các sợi tơ chuyển thành đỏ tía và bắt đầu xoắn lại vặn vẹo.

      đuổi bọn họ muốn họ chứng kiến buổi chuyện này. Giờ chuyện gì xảy ra?” Mùi đinh hương tỏa ra nghẹt thở.

      “Em gặp người đất sét. Và người tạo ra nó, thợ dệt Do Thái tên Abraham. Ông ấy cũng có quyền năng tạo ra sinh khí.”

      bảo với em rồi, thích khi em chơi đùa với sống và cái chết.” Matthew tự rót thêm rượu cho mình.

      lúc nào cũng chơi đùa với chúng có, và em chấp nhận điều đó như phần của con người . cũng phải chấp nhận nó là phần của em.”

      “Còn tay Abraham này. là ai?” Matthew hỏi.

      “Chúa ơi, Matthew. thể ghen tuông bởi vì em gặp thợ dệt khác.”

      “Ghen tuông ư? qua lâu rồi cái cảm xúc máu nóng kiểu đó.” nốc ngum rượu đầy.

      “Tại sao buổi chiều nay lại khác với mọi ngày chúng ta tách riêng ra trong khi ra ngoài làm việc cho Đại Hội Đồng và cha hả?”

      “Nó khác bởi vì có thể ngửi thấy mùi từng người em tiếp xúc hôm nay. Chỉ việc em luôn mang mùi của Annie và Jack cũng đủ tệ rồi. Gallowglass và Pierre cố gắng chạm vào em, nhưng cũng chẳng giúp được mấy – bọn họ ở quanh em quá nhiều. Sau đó chúng ta còn có thêm mùi của Maharal, Herr Maisel, và cuối cùng là hai người đàn ông khác. Mùi hương duy nhất có thể chịu được khi nó trộn lẫn với mùi của em là mùi của chính , nhưng thể nhốt em vào lồng cho nên đành cam chịu đến hết mức có thể.” Matthew đặt cốc xuống và đứng bật dậy cố gắng muốn tăng thêm chút khoảng cách giữa hai chúng tôi.

      “Cái đó nghe như ghen tuông vậy.”

      phải. có thể xử lý cảm giác ghen tuông,” giận dữ . “Cái cảm thấy lúc này – thứ cảm giác mất mát và cuồng nộ giày vò kinh khủng này là bởi vì thể nắm được ấn tượng ràng về em trong cuộc sống hỗn loạn của chúng ta – nó vượt quá tầm kiểm soát của .” Đôi đồng tử trong mắt càng ngày càng lớn hơn.

      “Vì ma cà rồng. có tính chiếm hữu. Đó chính là ,” tôi thẳng thừng, tiến đến gần bất chấp cơn giận dữ của . “Còn em là phù thủy. hứa chấp nhận em như chính con người em – ánh sáng và bóng tối, phụ nữ và phù thủy, con người của em đồng thời cũng là vợ .” ra sao nếu ấy đổi ý? ra sao nếu ấy sẵn lòng đón nhận khôn lường kiểu này trong cuộc sống của ?

      chấp nhận em rồi.” Matthew duỗi tay để ngón tay dịu dàng chạm vào má tôi.

      , Matthew. khoan dung với em vì nghĩ rằng có ngày em kiểm soát được phép thuật của mình. Rabbi Loew cảnh cáo em rằng khoan dung có thể bị thu lại, và rồi nguội lạnh dần. Phép thuật của em phải là thứ gì đó có thể điều khiển quản lý được. Nó chính là em. Còn em giấu giếm bản thân mình trước . Đó phải là tình .”

      “Được rồi. còn gì giấu giếm nữa.”

      “Tốt.” Tôi thở dài nhõm, nhưng kéo dài được lâu.

      Matthew lôi tôi ra khỏi ghế và ép tôi vào tường trong chuyển động dứt khoát mạnh mẽ, bắp đùi len vào giữa hai đùi tôi. kéo lọn tóc quăn ra để nó xõa bên má và rủ xuống ngực tôi. Vẫn buông tôi ra, cúi đầu áp môi lên viền áo lót của tôi. Tôi rùng mình. lâu rồi mới hôn tôi ở đó, và đời sống tình dục của chúng tôi thực tế tồn tại kể từ lần xảy thai. Đôi môi Matthew mơn trớn quai hàm tôi, lướt qua mạch máu ở cổ.

      Tôi tóm lấy tóc và kéo đầu ra. “Đừng. Trừ phi dự định hoàn thành những gì bắt đầu. Em có đủ những nụ hôn tiếc nuối cho cả phần đời còn lại rồi.”

      Bằng vài chuyển động nhanh chóng mặt, Matthew tháo được dây buộc chiếc quần chẽn của , vén chân váy lên thành đống quanh eo tôi, và đâm sâu vào trong tôi. phải lần đầu tiên tôi bị áp vào tường bởi kẻ cố gắng lãng quên những rắc rối của mình vì mấy khoảnh khắc quý giá. Có vài lần tôi thậm chí chính là kẻ chủ động xâm lược nữa cơ mà.

      “Lần này là vì em và gì khác nữa. có bọn trẻ. cả cuốn sách chết tiệt kia. hoàng đế và những món quà của ông ta. Đêm nay mùi hương trong căn nhà này chỉ thuộc về chúng ta.”

      Hai tay Matthew siết lấy mông tôi, các ngón tay giữ cho tôi khỏi bị bầm tím khi đâm sâu đẩy mạnh người tôi về phía bức tường. Tôi tóm lấy cổ áo sơ mi của và kéo mặt về phía mình, ngấu nghiến tận hưởng hương vị của . Nhưng Matthew cũng nguyện ý để tôi kiểm soát nụ hôn này cũng như chuyện làm tình của chúng tôi. Bờ môi mạnh mẽ và đòi hỏi, khi tôi gan lỳ cố đòi chiếm ưu thế, bèn tặng tôi cú cắn cảnh cáo vào môi dưới.

      “Ôi, Chúa ơi,” tôi hổn hển thốt lên khi nhịp điệu đều đặn của đẩy thần trí tôi mê mẩn buông thả. “Ôi…”

      “Đêm nay thậm chí chia sẻ em với Ông Ta đâu.” Matthew dùng môi mình bịt tiếng rên rỉ của tôi. bàn tay vẫn ôm siết mông tôi, bàn tay kia nhấn sâu vào giữa hai chân tôi.

      “Ai có được trái tim em, Diana?” Matthew hỏi, những mơn trớn vuốt ve đến từ ngón tay cái của đe dọa cướp cả tỉnh táo của tôi. chuyển động, lại chuyển động. Đợi chờ câu trả lời của tôi. “ ,” gầm lên.

      biết câu trả lời mà,” tôi . “ có trái tim em.”

      “Chỉ mình ,” , chuyển động thêm lần nữa khiến cho xúc cảm mãnh liệt cuộn xoắn trong cả hai tìm thấy giải phóng cuối cùng.

      “Duy nhất… mãi mãi… là ,” tôi thở gấp, hai chân run rẩy vòng quanh hông . Tôi trượt chân đáp xuống sàn nhà.

      Matthew thở nặng nhọc, áp trán lên trán tôi. Đôi mắt lên thoáng hối hận khi thả chân váy tôi xuống. hôn tôi dịu dàng thuần khiết.

      Cuộc làm tình của chúng tôi cho dù mãnh liệt thế nào cũng thỏa mãn điều khiến Matthew ngừng đeo đuổi tôi, bất chấp thực tế rằng tôi hiển nhiên là của . Tôi bắt đầu lo lắng gì có thể thỏa mãn được.

      Nỗi thất vọng của tôi ập tới, hình thành làn sóng khí rung chuyển cuốn rời khỏi người tôi ập sang bức tường đối diện. Đôi mắt Matthew đen thẫm lại trước thay đổi vị thế này.

      “Thứ đó dành cho thế nào, tình của em?” Tôi khẽ khàng hỏi. Gương mặt lộ kinh ngạc. Tôi búng ngón tay, thả luồng khí giữ . Các cơ bắp căng ra khi lấy lại khả năng di chuyển của mình. mở miệng định .

      dám xin lỗi,” tôi dữ tợn quát. “Nếu chạm vào em mà em thích em rồi.”

      Miệng Matthew mím chặt.

      “Em thể nghĩ tới người bạn của Giordano Bruno: Khao khát thúc giục, trong khi nỗi sợ kiềm hãm ta. Em sợ uy quyền, hay sức mạnh của , hay bất cứ thứ gì khác ở . Còn , sợ điều gì, Matthew?”

      Đôi môi hối hận chà xát lên môi tôi. Cùng với nó, làn gió vút qua tà váy tôi, báo cho tôi biết rằng thà chạy trốn còn hơn phải trả lời nó.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :