Mật mã Phù thủy 2A - Deborah Harkness [Kỳ Bí]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      17.

      “Tôi ra ngoài.”

      Françoise bận rộn với việc may vá, ngước lên nhìn tôi. Ba mươi giây sau Pierre leo lên các bậc thang. Nếu Matthew có ở nhà, nghi ngờ gì cũng xuất , nhưng kiểm tra công việc kinh doanh bí nào đó trong thành phố. Tôi thức dậy thấy bộ đồ ướt đẫm của vẫn hong cạnh lò sưởi. bị gọi trong đêm và trở về, để rồi lại rời lần nữa.

      sao?” Hai mắt Françoise nheo lại. ta nghi ngờ tôi có gì đó lạ lẫm kể từ lúc tôi mặc váy áo. Thay vì cằn nhằn về số áo váy lót ấy chòng qua đầu mình, hôm nay tôi lại còn mặc thêm chiếc váy fannel xám ra bên ngoài. Sau khi tranh cãi về việc tôi nên mặc chiếc váy dài nào. Tôi thích những bộ quần áo thoải mái dễ chịu mang về từ Pháp hơn những bộ váy áo lộng lẫy của Louisa de Clermont. Chị Matthew, với mái tóc đen và làn da như men sứ, có thể diện chiếc váy nhung màu ngọc lam rực rỡ (“màu xanh đồng”, Françoise chỉnh lại cho tôi) hoặc chất vải bóng như lụa màu xanh xám ốm yếu (được gọi cách thích hợp là “Người Tây Ban Nha chết”), nhưng với làn da cháy nắng có tàn nhang cùng những lọn tóc màu vàng hoe đỏ của tôi trông chúng phát khiếp, mà những bộ váy ấy cũng quá phô trương để mặc quanh thành phố.

      “Có lẽ madame nên đợi ông chủ Roydon trở về,” Pierre gợi ý. ta thấp thỏm yên đổi hết chân này sang chân kia.

      , tôi nghĩ vậy. Tôi lên danh sách những thứ cần dùng, và tôi muốn tự mua sắm.” Tôi khum tay nâng cái túi da đựng tiền mà Philippe cho. “Mang cái túi là được, hay tôi nên nhét tiền vào thân áo và moi ra khi cần thiết nhỉ?” Khía cạnh này trong các tác phẩm hư cấu lịch sử luôn cuốn hút tôi – phụ nữ nhét đồ của họ vào trong váy áo – và tôi mong ngóng khám phá xem liệu các món đồ đó có dễ dàng cởi ra ở nơi công cộng như các tiểu thuyết gia gợi ý . Ở thế kỷ mười sáu này, chuyện tình dục chắc chẳng dễ gì diễn ra được như trong mấy chuyện lãng mạn. Cởi hết được đống quần áo này người cũng còn lâu mới đến đích.

      “Madame mang theo tiền bạc gì cả!” Françoise chỉ sang Pierre, ta tháo sợi dây buộc chiếc túi ngang thắt lưng ra. Nó có vẻ như đáy và là nơi cất giữ đáng kể lượng dụng cụ có đầu nhọn, bao gồm đinh ghim, kim, thứ gì đó trông giống như dụng cụ mở khóa, và con dao găm. Khi chiếc túi da của tôi được thu vào trong đó, nó kêu xủng xoảng theo từng chuyển động nhất của ta.

      Ngoài Hẻm Water, tôi sải bước với đôi giày trong bùn (những cái nêm bằng gỗ được lồng vào giày giúp tránh giẫm trực tiếp xuống rác bẩn) cùng quyết tâm lớn hướng về phía nhà thờ Thánh Paul. Đường viền lông thú áo khoác cuốn quanh chân tôi, lớp vải dày của nó cản bớt sương mù dai dẳng. Chúng tôi tận hưởng khoảng thời gian ân xá tạm thời sau trận mưa như trút nước mới đây, nhưng thời tiết vẫn có cách nào khô ráo cả.

      Điểm dừng chân đầu tiên là ở tiệm bánh của ông chủ Prior để mua bánh sữa phủ quả lý chua và mứt quả. Tôi thường thấy đói vào chiều muộn và muốn ăn thứ gì đó ngọt ngọt. Điểm viếng thăm kế tiếp là gần con ngõ nối Blackfriars với phần còn lại của London, tại cửa hàng in ấn bận rộn nổi bật với biển hiệu hình mỏ neo.

      “Chào buổi sáng, bà Roydon,” ông chủ cất tiếng ngay khi tôi bước qua bậu cửa. Thực ra hàng xóm đều biết về tôi mà cần giới thiệu. “Bà đến đây để lấy sách cho chồng mình phải ?”

      Tôi tự tin gật đầu dù chẳng biết ông ta về quyển sách nào, ông chủ lôi ra quyển sách mỏng nằm giá cao. Giở lướt qua các trang thấy nó về quân và đạn đạo học.

      “Tôi tiếc là kiếm được bản in cuốn y học cho bà,” ông ta trong khi bọc món đồ Matthew mua. “Khi nào bà có thể từ bỏ ý định tìm nó, tôi tự tay đóng cuốn phù hợp với cầu của bà.”

      Vậy đây là nơi xuất xứ của những bản tóm lược về bệnh tật và phương pháp chữa bệnh mà tôi đọc. “Cảm ơn, ông…” Giọng tôi ngập ngừng trượt dài.

      “Field,” ông ta nhắc.

      “Ông chủ Field,” tôi lặp lại. phụ nữ trẻ ánh mắt sáng ngời cùng với đứa con cắp bên hông ra khỏi phòng làm việc phía sau cửa hiệu, đứa bé mới chập chững tập bám dính lấy váy ta. Các ngón tay ta thô ráp và nhuộm đầy mực.

      “Bà Roydon, đây là vợ tôi, Jacqueline.”

      “A. Bà Roydon.” Trọng của người phụ nữ này hơi lơ lớ tiếng Pháp và khiến tôi nhớ đến Ysabeau. “Chồng bà kể với chúng tôi rằng bà là độc giả tuyệt vời, và Margaret Hawley bà nghiên cứu giả kim thuật.”

      Jacqueline và chồng ta biết khá nhiều về công việc của tôi đây. Chắc họ cũng biết cả cỡ giày và kiểu bánh thịt tôi thích ăn nữa. Thế cho nên, chuyện này thậm chí khiến tôi càng thấy kỳ quái hơn, vì rằng ai ở Blackfriars có vẻ nhận ra tôi là phù thủy.

      “Vâng, đúng thế,” tôi đáp, vuốt thẳng đường may đôi găng tay. “Các vị có bán giấy bản , ông chủ Field?”

      “Dĩ nhiên là có,” Field đáp kèm theo cái nhíu mày bối rối. “Bà viết hết cuốn sổ với mấy chuyện vặt vãnh rồi sao?” A! Ông ta cũng là nguồn cung cho cuốn sổ ghi chép của tôi nữa đây.

      “Tôi cầu giấy để viết thư cơ,” tôi giải thích. “Xi gắn thư. Và con dấu riêng. Tôi có thể mua chúng ở đây ?” Cửa hiệu sách ở Yale có tất cả các đồ văn phòng phẩm, bút mực, giấy dán màu sắc tươi sáng, cả những cục xi gắn kèm theo những con dấu bằng đồng rẻ tiền để in hình lên các bức thư. Field và vợ trao đổi ánh mắt với nhau.

      “Tôi gửi thêm giấy đến vào chiều nay,” ông ta . “Nhưng bà muốn thợ kim hoàn làm con dấu riêng để gắn nó liền với chiếc nhẫn. Tất cả những gì tôi có ở đây là những con chữ hỏng từ xưởng in đợi để làm tan chảy và đem đúc lại.”

      “Hoặc bà có thể gặp Nicholas Vallin,” Jacqueline gợi ý. “Ông ấy chuyên về kim loại, thưa bà Roydon, và cũng làm khóa tốt lắm.”

      “Xuôi theo con hẻm này ư?” Tôi hỏi, chỉ qua vai mình.

      “Ông ấy phải thợ kim hoàn,” Field phản đối. “Chúng ta muốn gây phiền phức cho ông Vallin.”

      Jacqueline vẫn bình thản. “Có nhiều lợi ích khi sống ở Blackfriars này, Richard. Làm việc cần theo quy định của phường hội là trong số đó. Hơn nữa, Công ty Thợ kim hoàn chẳng rầy rà ai ở đây chỉ vì thứ chẳng quan trọng như là nhẫn đàn bà. Nếu bà muốn có xi gắn, bà Roydon, bà cần phải tới chỗ nhà bào chế thuốc.”

      Xà bông cũng có trong danh sách mua bán của tôi. Và các hiệu bào chế thuốc sử dụng các máy chưng cất. Mặc dù chú ý quan tâm của tôi chuyển từ giả kim thuật sang phép thuật, nhưng vẫn cần bỏ qua cơ hội học hỏi thêm điều hữu ích.

      “Hiệu bào chế thuốc gần nhất ở đâu?”

      Pierre hắng giọng. “Có lẽ bà nên tham khảo bàn bạc với ông chủ Roydon .”

      Matthew có tất cả các loại ý kiến, hầu hết trong đó là cử Françoise hay Pierre kiếm về thứ tôi cầu. Người nhà Field chờ đợi câu trả lời với vẻ quan tâm hứng thú.

      “Có lẽ,” tôi đáp, nhìn chằm chằm vào Pierre phẫn nộ. “Nhưng tôi cũng thích lời gợi ý của bà chủ Field.”

      “John Hester rất được kính trọng,” Jacqueline thoáng vẻ ranh mãnh, kéo đứa chập chững ra khỏi cái váy của mình. “Ông ấy cho ít cồn thuốc phiện vào tai con trai tôi để chữa chứng đau tai cho nó.” John Hester, nếu đúng như trí nhớ của tôi, cũng quan tâm tới thuật giả kim. Có lẽ ông ta biết phù thủy nào đó. Thậm chí may mắn hơn, ông ta có thể là phù thủy, thích hợp với các dự định thực tế của tôi. Hôm nay tôi chỉ đơn giản mua sắm thôi đâu. Tôi ra ngoài để được nhìn thấy. Phù thủy là đám hiếu kỳ. Nếu tôi đưa bản thân ra làm mồi nhử, có kẻ cắn câu.

      “Người ta rằng ngay cả Nữ bá tước Pembroke cũng tìm kiếm lời khuyên từ ông ấy để chữa chứng đau nửa đầu của đức ngài trẻ tuổi,” chồng ta thêm. Vậy là tất tần tật hàng xóm láng giềng cũng đều biết tôi đến lâu đài Baynard. Mary đúng: Chúng tôi bị theo dõi. “Cửa hàng của ông chủ Hester gần bến thuyền Paul, biển hiệu là cái vạc.”

      “Cảm ơn, bà chủ Field.” Bến thuyền Paul chắc hẳn phải gần sân nhà thờ Thánh Paul, và tôi có thể đến đó buổi chiều. Tôi nhẩm lại trong đầu bản đồ dạo chơi ngày hôm nay.

      Sau khi chào từ biệt, Françoise và Pierre rẽ xuôi theo con hẻm hướng về nhà.

      “Tôi đến nhà thờ,” tôi , hướng về phía ngược lại.

      thể nào, Pierre đứng trước mặt tôi rồi. “Milord vui đâu.”

      “Milord có ở đây. Matthew để lại những chỉ thị nghiêm khắc rằng tôi được tới đó mà cùng. ấy bảo tôi là tù nhân trong chính ngôi nhà của mình.” Tôi giúi cuốn sách và mấy cái bánh sữa cho Françoise. “Nếu Matthew trở về trước tôi, hãy ấy biết chúng tôi ở đâu và rằng tôi trở về nhanh thôi.”

      Françoise đón lấy gói đồ, nhìn Pierre hồi lâu rồi bắt đầu xuôi Hẻm Water.

      “Prenez garde, madame,64” Pierre lầm bầm khi tôi qua ta.

      “Tôi luôn luôn thận trọng mà,” tôi điềm tĩnh đáp lời, bước thẳng vào vũng nước đọng.

      Hai chiếc xe ngựa đâm nhau làm tắc nghẽn cả con đường dẫn tới nhà thờ Thánh Paul. Các phương tiện di chuyển kềnh càng lại gắn thêm thùng xe và chẳng có gì giống với những chiếc xe ngựa va chạm trong mấy bộ phim về Jane Austen cả. Tôi vòng qua chúng cùng Pierre theo sát gót, di chuyển lách qua những con ngựa bực bội và những người chủ xe cũng bực bội kém, mấy người này đứng giữa đường mà quát tháo cãi cọ ai là người có lỗi. Chỉ có người đánh xe là dường như chẳng quan tâm, họ còn khe khẽ tán chuyện với nhau từ chỗ ngồi cao phía cuộc cãi cọ.

      “Chuyện này có thường xảy ra ?” Tôi hỏi Pierre, kéo mũ choàng ra sau để có thể trông thấy ta.

      “Mấy loại xe cộ mới này là phiền toái,” ta cáu kỉnh . “ bộ hoặc cưỡi ngựa vẫn tốt hơn nhiều. Nhưng đấy phải vấn đề. Họ bao giờ hiểu được đâu.”

      Đó là điều bọn họ với Henry Ford, tôi thầm nghĩ.

      “Bến thuyền Paul còn bao xa?”

      “Milord thích John Hester.”

      “Đó phải điều tôi hỏi, Pierre.”

      “Madame muốn mua gì ở sân nhà thờ?” Kỹ thuật đánh trống lảng của của Pierre quá quen thuộc với tôi từ những năm đầu còn học. Nhưng tôi định cho bất kỳ ai biết lý do khiến chúng tôi băng qua cả thành phố London thế này.

      “Sách,” tôi đáp gọn lỏn.

      Chúng tôi bước vào khu vực cấm xe cộ của nhà thờ Thánh Paul, nơi mỗi centimet bị giấy che phủ bị những người bán đồ ăn và phục vụ chiếm dụng. người đàn ông trung niên tử tế ngồi ghế đẩu, bên trong chỗ để đóng dấu, nơi này được xây lên dựa vào bức tường nhà thờ. Môi trường văn phòng làm việc kiểu này hoàn toàn bình thường với nơi đây. Đám người lộn xộn túm tụm xung quanh quầy làm việc của ông ta. Nếu tôi may mắn, ở trong số đó phù thủy.

      Tôi tìm đường xuyên qua đám đông ấy. Tất cả bọn họ dường như đều là con người. thất vọng làm sao!

      Người đàn ông ngẩng mặt lên từ văn bản mà ông ta cẩn thận sao chép lại cho vị khách đứng đợi và giật mình. công chứng viên. Làm ơn, đừng để người này là William Shakespeare, tôi thầm cầu nguyện.

      “Tôi có thể giúp gì được cho bà, bà Roydon?” Ông ta bằng trọng Pháp. phải Shakespeare. Nhưng làm sao ông ta biết tôi là ai?

      “Ông có xi gắn thư ? Và mực đỏ nữa?”

      “Tôi phải người bào chế, bà Roydon, mà là thầy giáo nghèo.” Các vị khách bắt đầu xì xào về những vụ kiếm lời tai tiếng của người bán tạp hóa, mấy tên bào chế dược và những kẻ tham nhũng ăn chặn người khác.

      “Bà Field với tôi rằng John Hester làm ra những loại xi gắn tuyệt vời.” Những cái đầu đồng loạt quay về phía tôi.

      “Dù vậy khá đắt đấy. Mực của ông ấy cũng thế, làm từ hoa diên vĩ đấy.” Lời đánh giá của người đàn ông được khẳng định bằng hàng loạt tiếng rì rầm tán thành từ đám đông.

      “Các vị có thể chỉ hướng cửa hàng của ông ấy cho tôi được ?”

      Pierre tóm lấy khuỷu tay tôi. “,” ta rít lên bên tai tôi. Khi hành động này chỉ càng thu hút chú ý về phía chúng tôi nhiều hơn, ta vội vàng buông ra.

      Bàn tay người công chứng viên nâng lên, chỉ về phía đông. “Bà tìm thấy ông ấy ở bến thuyền Paul. tới Đầu Bishop rồi rẽ về phía nam. Nhưng ông Cornu biết đường đấy.”

      Tôi liếc mắt nhìn lại Pierre, người dán mắt chằm chằm nhìn vào điểm nào đó phía đầu tôi. “Ông ta ư? Cảm ơn ông.”

      “Đó là vợ của Matthew Roydon à?” Ai đó cùng với tiếng cười nén lại khi chúng tôi bước ra khỏi đám người. “Mon dieu. Thảo nào ta trông kiệt quệ.”

      Tôi vội về hướng hiệu bào chế dược. Thay vào đó, với đôi mắt gắn chặt vào ngôi nhà thờ, tôi bắt đầu chậm rãi quan sát kích thước khổng lồ của nó. Nó duyên dáng cách đáng kinh ngạc, căn cứ theo kích thước những tia sét may mắn đó phá hủy diện mạo của nó vĩnh viễn.

      “Đây phải con đường nhanh nhất để tới Đầu Bishop.” Pierre cách sau lưng tôi có bước chân thay vì ba bước như bình thường và thế là đâm sầm ngay lúc tôi dừng bước để ngẩng đầu lên nhìn.

      “Tháp nhọn kia cao bao nhiêu vậy?”

      “Cao gần bằng tòa nhà này. Milord luôn bị hấp dẫn bởi cách bọn họ xây dựng nó cao được đến mức ấy.” Ngọn tháp nhọn chắc hẳn làm cho cả tòa nhà cao vút, cùng với đỉnh tháp lộng lẫy làm nổi bật những đường nét trang trí của trụ tường và các khung cửa sổ cao lớn theo phong cách Gothic.

      Tôi cảm thấy luồng năng lượng trào lên gợi nhớ tới ngôi đền thờ nữ thần gần Sept–Tours. Nằm sâu bên dưới nhà thờ, có thứ gì đó cảm nhận được có mặt của tôi. Tôi đáp lại nó bằng tiếng thầm, xao động gợn lên dưới chân tôi, tiếng thở dài xác nhận – và rồi nó biến mất. Nơi này có sức mạnh – loại hấp dẫn thể cưỡng lại được đối với phù thủy.

      Đẩy mũ trùm đầu ra sau, tôi chầm chậm bao quát những người mua mua bán bán trong sân nhà thờ Thánh Paul. tinh, phù thủy và ma cà rồng thoáng gây chú ý đường tôi , nhưng có quá nhiều hoạt động xung quanh khiến tôi thể nổi bật. Tôi cần vị trí kín đáo hơn.

      Tôi tiếp tục qua mạn bắc nhà thờ và vòng sang phía đông. Tiếng ồn ào tăng lên. Ở đây, tất cả chú ý dồn cả vào người đàn ông ở bục giảng kinh ngoài trời, được nâng cao hẳn lên bên dưới cái mái che. Vì thiếu hệ thống thanh bằng điện nên người đàn ông này giữ cho các thính giả của mình tập trung chú ý bằng việc hét lớn, làm những cử chỉ cường điệu, và gợi lên hình ảnh về lửa và lưu huỳnh.

      phù thủy thể đương đầu với nhiều điều quỷ quái và đáng nguyền rủa như thế. Trừ phi tôi làm ra thứ gì đó đáng ngờ cách nguy hiểm, bất cứ phù thủy nào phát ra tôi cũng nghĩ tôi chẳng là gì ngoài sinh vật khác người ra ngoài mua sắm. Tôi nén tiếng thở dài thất vọng. Kế hoạch dường như thể thất bại trong chính đơn giản mộc mạc của nó. Ở khu Blackfriars có phù thủy. Nhưng ở đây, tại nhà thờ Thánh Paul, có rất nhiều. Và diện của Pierre ngăn trở bất cứ sinh vật khác người tò mò nào có thể tiếp cận tôi.

      “Ở yên đây và đừng di chuyển,” tôi ra lệnh, ném cho ta cái nhìn nghiêm khắc. Cơ hội thu hút được ánh mắt của phù thủy thân thiện có thể tăng lên nếu ta đứng bên cái vẻ bất hợp tác tỏa ra từ ma cà rồng. Pierre dựa vào cây cột chống thẳng tắp của quầy sách và dán chặt mắt vào tôi bình luận gì. Tôi hăng hái tiến vào đám đông dưới chân cây thánh giá của Paul, nhìn từ trái sang phải như thể tìm kiếm người bạn lạc mất. Tôi đợi cái nhoi nhói râm ran của phù thủy. Họ ở đây. Tôi có thể cảm thấy họ.

      “Bà Roydon phải ?” giọng quen thuộc cất tiếng gọi. “Điều gì đưa đến đây vậy?”

      Gương mặt hồng hào của George Chapman ló ra giữa bả vai của hai quý ông dáng vẻ khắc khổ lắng nghe người thuyết giáo đổ lỗi tất cả bệnh tật thế giới cho mưu đồ xấu xa của người Thiên Chúa giáo và những thương nhân phiêu lưu mạo hiểm.

      tìm được phù thủy nào cả, nhưng thành viên của Bè lũ Bóng đêm như thường lệ, có ở khắp mọi nơi.

      “Tôi tìm mực. Và xi gắn thư.” Tôi càng nhắc lại câu này nhiều lần, nó nghe càng có vẻ ngớ ngẩn.

      “Vậy cần nhà pha chế. nào, tôi đưa đến gặp người của tôi.” George chìa khuỷu tay ra. “ ta khá là biết điều, đồng thời cũng giỏi nữa.”

      “Để lát nữa , ông Chapman,” Pierre lên tiếng, ra như từ hư .

      “Bà Roydon nên hưởng chút khí trời khi có cơ hội. Đám người chở thuyền lại mưa nhanh thôi, mà bọn họ hiếm khi sai lắm. Hơn nữa, cửa hiệu của John Chandler chỉ ở ngay bên ngoài tường bao thôi, phố Chữ Thập Đỏ. Cũng chưa tới nửa dặm đường.”

      Gặp George lúc này dường như chỉ là ngẫu nhiên. Chắc chắn chúng tôi ngang qua phù thủy đường tản bộ.

      “Matthew phản đối chuyến dạo của tôi với ông Chapman đâu – chắc chắn khi cũng đồng hành cùng tôi nữa,” tôi bảo Pierre, khoác vào cánh tay George. “Người bào chế của có ở đâu đó gần bến thuyền Paul ?”

      “Gần đối diện,” George đáp. “Nhưng muốn mua sắm ở bến thuyền Paul đâu. John Hester là nhà bào chế duy nhất ở đó, và giá cả của ông ta cao đến mức phi lý. Ông Chandler phục vụ tốt hơn với mức giá bằng nửa.”

      Tôi cho tên John Hester vào danh sách việc cần làm để dành ngày khác rồi khoác cánh tay George. Chúng tôi tản bộ ra khỏi sân nhà thờ Thánh Paul đến phía bắc, băng qua những ngôi nhà và khu vườn rộng lớn.

      “Đó là chỗ mẹ Henry ở,” George , ra dấu về phía khu nhà đặc biệt đường bệ uy nghi ở phía bên trái. “ ấy ghét nơi này và sống ở khu gần nhà Matt cho tới khi Mary thuyết phục ấy rằng nơi ăn chốn ở của ấy xứng với phẩm cách của bá tước. Bây giờ ấy chuyển vào sống trong ngôi nhà đường Strand. Mary rất hài lòng, nhưng Henry thấy nó u ám, và ẩm ướt thích hợp với xương khớp của ấy.”

      Bức tường thành phố còn cách xa ngôi nhà gia đình Percy. Được xây dựng bởi những người La Mã để phòng vệ Londinium khỏi kẻ xâm lược, chúng vẫn đánh dấu đường ranh giới chính thức. Khi chúng tôi xuyên qua Aldersgate và cây cầu thấp, gian mở ra những cánh đồng bát ngát và nhiều ngôi nhà tụm lại quanh các nhà thờ. Tôi đưa bàn tay đeo găng lên che mũi trước mùi của vùng thôn quê này.

      “Con hào quanh thành phố đấy,” George với vẻ tiếc nuối, ra hiệu về phía con sông bùn đặc quánh ngay bên dưới chân chúng tôi. “Chao ôi, nó là lối duy nhất đấy. Chúng ta có bầu khí tốt hơn nhanh thôi.” Tôi quét đôi mắt mọng nước và chân thành hy vọng như vậy.

      George hướng tôi dọc theo con đường rộng rãi đủ chỗ cho xe ngựa, xe thùng chở đầy thức ăn, và thậm chí cả đội gia súc có sừng qua. Trong khi tản bộ, ta trò chuyện về chuyến viếng thăm với nhà xuất bản của mình, William Ponsonby. Chapman bị sốc vì tôi nhận ra cái tên này. Tôi biết rất ít về việc buôn bán sách thời đại Elizabeth nên vội kéo ta ra khỏi chủ đề này. George vui vẻ tán chuyện về nhiều nhà viết kịch mà Ponsonby làm cho mất mặt, bao gồm cả Kit. Ponsonby thích làm việc với thể loại văn học nghiêm túc, và bộ cứng các tác giả của ông ta quả có tiếng tăm lẫy lừng: Edmund Spenser, nữ bá tước Pembroke, Philip Sidney.

      “Ponsonby cũng xuất bản tập thơ của Matt, nhưng ấy lại từ chối.” George lắc đầu khó hiểu.

      “Thơ của ấy ư?” Tôi thở gấp bất ngờ trước tin này. Tôi biết Matthew ngưỡng mộ thơ ca, nhưng biết ấy còn sáng tác nữa.

      “Đúng thế. Matt khăng khăng những vần thơ của ấy chỉ vừa mắt bạn bè mà thôi. Chúng tôi đều thích khúc bi ca của ấy viết cho trai Mary, Philip Sidney. ‘Nhưng đôi mắt, vành tai và từng ý nghĩ/ Có chăng giờ chỉ ngập tràn những điều tuyệt mỹ.’” George mỉm cười. “Đó là tác phẩm tuyệt diệu. Nhưng Matthew muốn xuất bản và than phiền rằng nó chỉ dẫn đến ý kiến bất đồng và thiếu cân nhắc mà thôi.”

      Bất chấp căn phòng thí nghiệm đại của , Matthew vốn là ông lão cổ hủ với sở thích về đồng hồ cổ và xe ô tô cổ điển. Tôi mím môi để bật cười trước bằng chứng mới nhất về chủ nghĩa cổ điển của . “Những vần thơ của ấy viết về cái gì?”

      “Phần lớn về tình và tình bạn, mặc dù gần đây ấy và Walter vẫn trao đổi những vần thơ về... mấy chủ đề u ám hơn. Họ dạo này dường như suy nghĩ vượt quá cả tư duy đơn thuần.”

      “Đen tối hơn ư?” Tôi cau mày.

      ấy và Walter thường chấp nhận những điều xảy ra xung quanh họ,” George hạ giọng , thoáng đưa mắt lướt qua gương mặt khách qua đường.

      “Có vẻ hơi thiếu kiên nhẫn – đặc biệt là Walter – và thường buộc tội dối trá cho những người có địa vị quyền lực. Đây là xu hướng nguy hiểm.”

      “Buộc tội dối,” tôi lẩm bẩm . Có bài thơ nổi tiếng nhan đề “Lời dối trá.” Đó là bài thơ giấu tên, nhưng được cho là của Walter Raleigh. “Hãy với quan tòa rằng nó rực sáng./ Và nó sáng như gỗ mục ư?”

      “Vậy là Matt chia sẻ những vần thơ của ấy với rồi.” George thở dài lần nữa.

      ấy tìm cách truyền đạt xúc tích chỉ trong vài câu chữ trọn vẹn cảm xúc và ý tứ. Đó là tài năng mà tôi ghen tỵ.”

      Mặc dù bài thơ này chẳng xa lạ gì, nhưng mối quan hệ giữa Matthew với nó thế. Nhưng còn rất nhiều thời gian vào các buổi tối phía trước để tôi truy tìm năng lực văn chương của đức phu quân nhà mình. Tôi buông lơi chủ đề này và lắng nghe trong khi George biểu đạt ý kiến của bản thân về việc liệu các nhà văn bây giờ có cần xuất bản quá nhiều để sinh kế, và cần thiết phải có những người biên tập bản in tử tế để hạn chế lỗi trong các quyển sách in.

      “Đó là cửa hiệu của Chandler,” George , chỉ về chỗ mấy con đường giao nhau nơi cây thánh giá xộc xệch nằm cái bệ được nâng cao lên so với mặt đường. đám choai choai bận bịu đập vỡ viên sỏi cuội xù xì ra khỏi cái bệ. Chẳng cần là phù thủy cũng có thể tiên đoán được viên đá bắn xuyên qua cửa sổ của cửa hiệu.

      Càng đến gần nơi kinh doanh buôn bán của nhà bào chế dược này, tôi càng cảm thấy khí lạnh lẽo hơn. Khi ở nhà thờ Thánh Paul, có luồng sức mạnh khác, nhưng bầu khí nghèo khổ ngột ngạt lơ lửng quanh những khu vực lân cận. tòa tháp cổ đổ nát ở mạn phía bắc con đường, và những ngôi nhà xung quanh nó trông như thể chỉ cần cơn gió mạnh là có thể cuốn chúng luôn. Hai thanh niên lê bước tới gần hơn, đưa mắt nhìn chúng tôi với vẻ thích thú, cho tới khi tiếng rít trầm trầm từ Pierre ngăn chúng bám theo.

      Cửa hiệu của John Chandler hòa hợp cách hoàn hảo với bầu khí theo phong cách Gothic của khu vực lân cận. Nó tối tăm, có mùi hăng hăng và rối tinh rối mù. con cú tiêu bản treo lủng lẳng từ trần nhà xuống, hàm răng của sinh vật bất hạnh nào đó bị đóng đinh sơ đồ cơ thể tứ chi bị cứa đứt, gãy nát, và bị đâm xuyên qua bằng vũ khí. Cái dùi thợ mộc cắm vào con mắt bên trái của sinh vật đáng thương này.

      người đàn ông cúi lom khom ra từ phía sau bức rèm, chùi hai bàn tay lên ống tay áo của chiếc áo khoác bạc màu. Nó gần giống chiếc áo dài mặc học của các sinh viên ở Oxford hay Cambridge và cũng nhàu nát. Đôi mắt nâu sáng kiên định bắt gặp mắt tôi, làn da tôi râm ran cùng với nhận dạng ràng. Chandler là phù thủy. Sau khi băng ngang qua gần như cả thành London, tôi cuối cùng cũng tìm thấy người của mình.

      “Đường phố xung quanh chỗ ông ngày càng trở nên nguy hiểm sau mỗi tuần đấy, ông chủ Chandler.” George chỉ ra ngoài cửa về phía băng nhóm choai choai lởn vởn gần đó.

      “Đám nhóc đó đúng là hoang dã,” Chandler . “Tôi có thể làm gì cho ông hôm nay, ông Chapman? Ông cần thêm thuốc bổ nữa à? Bệnh đau đầu của ông lại tái phát ư?”

      George liệt kê chi tiết các triệu chứng cũng như cơn đau của ta. Chandler thỉnh thoảng thầm đầy cảm thông và kéo quyển sổ cái lại gần. Mấy người đàn ông mải mê với cuốn sổ cho tôi cơ hội quan sát xung quanh.

      Hiệu bào chế thuốc thời Elizabeth ràng là cửa hàng tổng hợp thời kỳ này, gian nhét đầy tới tận xà nhà các hàng hóa. Những chồng bảng minh họa sống động, như bức hình người đàn ông bị thương được đóng đinh tường, vài lọ mứt trái cây. Các cuốn sách cũ đặt bàn, cùng mấy tựa đề có vẻ mới hơn. loạt bình lọ bằng sành cung cấp cho căn phòng mờ tối chút ánh sáng loang loáng, tất cả đều được dán nhãn với tên các loại gia vị và thảo dược. Những mẫu vật từ thế giới động vật được trưng bày chỉ là tiêu bản con cú và cái xương quai hàm kia mà còn có loài vật gặm nhấm già nua bị treo ngược lên đằng đuôi. Tôi phát thấy cả mực, bút lông, và các cuộn dây buộc nữa.

      Cửa hiệu được sắp xếp theo từng nhóm chuyên đề lỏng lẻo. Mực ở gần bút lông cùng sách cũ, bên dưới con cú già thông thái. Những con chuột treo phía đám lọ sành dán nhãn “bả chuột”, bên cạnh là quyển sách hứa hẹn chỉ giúp bạn bắt cá mà còn “các dụng cụ và bẫy lặt vặt khác để bắt chồn hôi, chim ó, loài gặm nhấm, chuột, và tất cả các loài chim, thú gây hại khác.” Tôi vẫn băn khoăn tìm cách loại bỏ những vị khách mời gác mái. Các kế hoạch chi tiết trong cuốn sách mỏng này vượt quá khả năng làm việc vặt của tôi, nhưng tôi tìm thấy người có thể thực chúng. Nếu vài con chuột trong cửa hàng của Chandler là chỉ dẫn gợi ý, những chiếc bẫy này chắc chắn hiệu quả rồi.

      “Xin thứ lỗi, thưa bà,” Chandler lầm bầm, với qua người tôi. Tò mò, tôi quan sát ông ta lấy con chuột tới bàn bào chế rồi cắt lát những cái tai của nó bằng chính xác tinh tế.

      “Chúng để làm gì vậy?” Tôi hỏi George.

      “Bột tai chuột là món hiệu quả chống lại mụn cơm,” ta giải thích bằng vẻ nghiêm túc trong khi Chandler thành thạo sử dụng cái chày giã.

      nhõm vì phải chịu đựng chứng bệnh đặc biệt này, tôi lơ đãng đưa mắt nhìn lên phía con cú canh gác cho khu văn phòng phẩm. Tôi tìm thấy lọ mực đỏ, đậm đặc.

      Người bạn wearth của bà đánh giá cao việc mang cái lọ đó về nhà đâu, thưa bà. Nó được làm từ máu diều hâu và được dùng để viết bùa tình đấy.

      Vậy là Chandler có khả năng truyền bằng tâm thức. Tôi trả lọ mực lại chỗ cũ rồi cầm lên cuốn sách mỏng như tai chó. Hình ảnh trang đầu tiên miêu tả con sói tấn công con chim và người đàn ông bị tra tấn khủng khiếp rồi bị hành hình. Nó gợi cho tôi nhớ đến những tờ báo khổ ở quầy tính tiền trong các cửa hành bách hóa đại. Khi lật qua trang đó, tôi giật mình đọc được về người có tên Stubbe Peter, kẻ này xuất trong hình dáng chó sói và uống máu đàn ông, đàn bà, trẻ con cho tới chết. chỉ có phù thủy Scotland nằm trong tầm mắt công chúng. Vậy là cả ma cà rồng cũng thế.

      Mắt tôi lướt nhanh qua trang sách. Tôi nhõm phát Stubbe sống ở vùng sâu vùng xa của nước Đức. Nỗi lo lắng trở lại khi tôi thấy người chú của trong các nạn nhân điều hành xưởng ủ bia nằm giữa nhà chúng tôi và lâu đài Baynard. Tôi thở hắt ra trước các chi tiết khủng khiếp của các vụ giết chóc, cũng như độ dài danh sách những người đối phó với các sinh vật này. Ở đây Stubbe Peter được mô tả như phù thủy, và hành vi lạ lùng của bị quy cho là có hiệp ước với quỷ dữ mới khiến có thể biến hình và thỏa mãn khẩu vị khát máu bình thường như thế. Nhưng khả năng nhiều hơn cả là gã đàn ông này vốn là ma cà rồng. Tôi luồn cuốn sách mỏng ấy xuống bên dưới cuốn sách khác của mình và tiến tới quầy tính tiền.

      “Bà Roydon có nhu cầu mua vài món đồ,” George giải thích với nhà bào chế dược khi tôi lại gần.

      Tâm trí Chandler thận trọng chuyển sang khoảng trắng khi tên tôi được nhắc tới.

      “Vâng,” tôi từ tốn . “Mực đỏ, nếu ông có nó. Và xà bông thơm để tắm.”

      “Được ạ.” Ông pháp sư tìm kiếm trong mấy cái bình vại bằng thiếc. Khi tìm được đúng thứ cần, ông ta đặt nó lên quầy. “Và bà cần xi gắn thư phù hợp với mực nữa phải ?”

      “Bất cứ thứ gì ông có cũng được cả, ông Chandler.”

      “Tôi thấy là ông có cuốn sách của ông Hester,” George , cầm lên cuốn sách ở gần đó. “Tôi với bà Roydon rằng mực của ông tốt ngang với nhà Hester và giá cả chỉ bằng nửa.”

      Nhà bào chế dược mỉm cười yếu ớt trước lời khen ngợi của George và đặt vài thỏi sáp màu hồng nhạt cùng hai bánh xà bông mùi thơm ngọt ngào lên bàn, bên cạnh lọ mực của tôi. Tôi thả cuốn hướng dẫn khống chế loài vật gây hại và cuốn sách mỏng về ma cà rồng Đức lên mặt bàn. Mắt Chandler ngước lên nhìn vào mắt tôi. Trong đó có cảnh giác.

      “Đúng thế,” Chandler , “nhà in đường có để lại vài bản cho tôi, nó về vấn đề y học.”

      “Cái đó cũng khiến bà Roydon quan tâm đây,” George , ném phịch nó lên chồng sách của tôi. Tôi thắc mắc, phải là lần đầu tiên, làm thế nào con người có thể quên những gì diễn ra quanh họ được.

      “Nhưng tôi chắc chuyên luận này thích hợp cho phu nhân…” Chandler bỏ lửng câu , và nhìn vào chiếc nhẫn cưới của tôi đầy ngụ ý.

      Câu trả lời nhanh nhảu từ George dìm chết lời đáp trả bằng im lặng của tôi. “Ồ, chồng bà đây bận tâm đâu. Bà ấy là người nghiên cứu giả kim thuật.”

      “Tôi lấy nó,” tôi quả quyết trả lời.

      Trong khi Chandler gói những món hàng, George hỏi ông ta liệu có thể giới thiệu người làm kính đeo

      mắt .

      “Nhà xuất bản của tôi, ông Ponsonby, lo ngại đôi mắt tôi chịu nổi trước khi bản dịch Homer của tôi hoàn chỉnh,” giải thích vẻ tự đắc. “Tôi có đơn thuốc từ người hầu của mẹ tôi, nhưng nó hẳn là phương pháp điều trị.”

      Nhà bào chế nhún vai. “Phương thuốc chữa của các bà vợ già đôi khi cũng giúp ích, nhưng của tôi đáng tin hơn. Tôi gửi qua thuốc đắp làm từ trứng trắng và nước hoa hồng. Ngâm ướt mấy miếng vải lanh trong đó và đắp lên mắt.”

      Trong khi George và Chandler mặc cả giá cho thứ thuốc ấy rồi dàn xếp việc giao hàng đến nơi, Pierre thu thập các túi hàng và đứng bên cửa ra vào.

      “Tạm biệt, bà Roydon,” Chandler cúi đầu chào.

      “Cảm ơn ông vì trợ giúp, ông Chandler,” tôi đáp. Tôi mới đến thành phố và tìm phù thủy giúp đỡ tôi.

      “Rất hân hạnh được phục vụ bà,” ông ta êm ái , “mặc dù vẫn còn có các nhà bào chế dược tuyệt vời khác ở Blackfriars.” London là chốn nguy hiểm. Hãy cẩn thận với người bà cầu trợ giúp.

      Trước khi tôi kịp hỏi nhà bào chế dược làm thế nào ông ta biết nơi tôi sống, George dẫn tôi ra ngoài đường cùng với lời chào tạm biệt vui vẻ. Pierre ở quá gần phía sau đến mức tôi thỉnh thoảng có thể cảm thấy hơi thở lành lạnh từ ta.

      tiếp xúc bằng ánh mắt là thể nào nhầm được trong hành trình chúng tôi trở lại thành phố. lệnh báo động được phát ra khi tôi còn ở trong cửa hiệu của Chandler, và tin tức về phù thủy kỳ lạ ở gần lan tràn khắp khu vực lân cận. Cuối cùng tôi đạt được mục đích của mình cho buổi chiều hôm nay. Hai phù thủy bước ra thềm nhà họ, hai cánh tay khoác vào nhau, chăm chú dò xét tôi với thái độ thù địch nhức nhối. Bọn họ trông giống nhau từ gương mặt đến thân hình tới mức tôi tự hỏi liệu đó có phải là cặp song sinh.

      “Wearth,” người lầm bầm , nhổ nước miếng về phía Pierre và xỉa các ngón thành dấu hiệu chống lại ác quỷ.

      nào, thưa bà. Trời muộn rồi,” Pierre , các ngón tay siết lấy cẳng tay tôi.

      Mong muốn của Pierre là mang tôi ra khỏi St.Giles nhanh nhất có thể, còn mong muốn của George là cốc rượu, nên khiến cho chuyến trở về Blackfriars của chúng tôi nhanh hơn lúc ra. Khi chúng tôi an toàn trở về Hươu Đực và Vương Miện, vẫn chẳng có dấu hiệu nào của Matthew cả, Pierre lại biến mất để tìm . Ngay sau đó Françoise nhấn mạnh về giờ giấc muộn thế nào và tôi cần phải nghỉ ngơi. Chapman bắt được tín hiệu để lời từ biệt.

      Françoise ngồi bên lò sưởi, mấy món đồ khâu vá đặt bên cạnh, và quan sát cửa ra vào. Tôi mang ra dùng thử lọ mực mới của mình bằng việc đánh dấu các mục trong danh sách mua sắm và thêm vào “bẫy chuột”. Tôi quay sang bên cạnh cuốn sách của John Hester. Trang giấy trắng gấp lại cách kín đáo che giấu nội dung dâm ô tục tĩu. Nó liệt kê các phương pháp chữa bệnh hoa liễu, hầu hết đều liên quan tới nồng độ độc hại của thủy ngân. Chả trách Chandler phản đối bán bản in cuốn sách này cho phụ nữ có chồng. Tôi vừa mới bắt đầu đọc chương hấp dẫn thứ hai nghe thấy tiếng rì rầm chuyện vọng ra từ phòng làm việc của Matthew. Françoise miệng mím chặt, lắc đầu.

      “Tối nay ngài ấy cần thêm nhiều rượu hơn số chúng ta có trong nhà,” ta nhận xét và hướng về phía cầu thang cùng chiếc bình để cạnh cửa ra vào.

      Tôi theo thanh giọng của chồng mình. Matthew vẫn ở trong phòng làm việc, cởi quần áo và ném chúng vào lửa.

      gã đàn ông ma quỷ, milord,” Pierre dứt khoát, nới lỏng thanh gươm của Matthew.

      “‘Ma quỷ’ thực thi cái công lý ma quỷ đó. Thanh gươm làm điều đó còn chưa được đúc ra đâu. Sau ngày hôm nay ta thề trước quan tòa bản thân chính là ác quỷ.” Những ngón tay thon dài của Matthew nới lỏng dây buộc chiếc quần chẽn. Chúng được thả rơi xuống sàn nhà, rồi cúi người nhặt lên. Chiếc quần bay qua trung rơi vào lò sưởi, nhưng đủ nhanh để che giấu những vết máu lấm chấm. mùi ẩm mốc của đá ướt, tuổi tác và rác bẩn gợi lên trong tôi những hồi ức bất chợt về lần bị giam giữ ở La Pierre. Thức ăn dâng lên trong cổ họng tôi. Matthew xoay người lại bổ nhào đến.

      “Diana.” hít vào thấy nỗi đau khổ của tôi bằng hơi thở sâu và xé toạc chiếc áo sơ mi qua đầu trước khi bước qua đôi bốt bị vứt bỏ rồi đến bên cạnh tôi chẳng mặc gì ngoài chiếc quần đùi vải lanh. Ánh lửa bập bùng hắt vai , và trong nhiều vết sẹo – nó dài và sâu, ngay phía chỗ hai bả vai giao nhau – chập chờn .

      có bị thương ?” Tôi vật lộn thốt ra lời từ cuống họng thít lại của mình, mắt tôi dán chặt vào bộ quần áo cháy trong lò sưởi. Matthew nhìn theo ánh mắt tôi, khẽ chửi thề.

      “Đó phải máu của đâu.” Chuyện Matthew có máu của kẻ khác người quả là rất thoải mái. “Nữ hoàng ra lệnh cho diện khi tù nhân bị… thẩm vấn.” Chỗ hơi ngập ngừng đó với tôi rằng “tra tấn” chính là từ tránh đến. “Để tắm rửa , rồi đến dùng bữa tối cùng em.” Lời lẽ của Matthew ấm áp, nhưng trông có vẻ mệt mỏi và tức giận. Và còn thận trọng chạm vào tôi nữa.

      ở dưới hầm ngầm.” Cái mùi ấy nhầm được.

      ở chỗ Tháp.”

      “Còn tù nhân của chết rồi à?”

      “Đúng.” Bàn tay vuốt qua mặt. “ hy vọng mình đến đủ sớm để ngăn chặn chuyện đó – lần này – nhưng tính toán nhầm thủy triều. Tất cả những gì có thể làm, lần nữa, là kiên quyết để cho đau đớn của ông ta chấm dứt.”

      Matthew trải qua cái chết của người đàn ông kia lần trước đây. Hôm nay có thể ở yên trong nhà và làm mình bận tâm với linh hồn mất mát trong tòa Tháp kia. sinh vật thấp kém hơn làm thế. Tôi vươn tay ra chạm vào , nhưng tránh .

      “Nữ hoàng biết chuyện che giấu khi bà ta phát ra người đàn ông kia chết trước khi tiết lộ bí mật của mình, nhưng quan tâm nữa. Như hầu hết loài người, Elizabeth thấy việc ngoảnh mặt làm ngơ khi thích hợp dễ dàng hơn,” .

      “Ông ta là ai?”

      phù thủy,” Matthew thẳng thắn . “Hàng xóm tố cáo ông ta vì có người nộm tóc đỏ. Bọn họ sợ rằng đó là hình ảnh của nữ hoàng. Còn nữ hoàng lo sợ hành vi của các phù thủy Scotland. Agnes Sampson và John Fian, khuyến khích phù thủy hành động chống lại bà. , Diana.” Matthew ra dấu cho tôi ở yên tại chỗ khi tôi bước tới định an ủi . “Đó là mức gần nhất em được tiếp cận với tòa Tháp và những gì xảy ra ở nơi đó. Hãy đến phòng khách . đến với em nhanh thôi.”

      khó mà bỏ mặc , nhưng tôn trọng cầu là tất cả những gì tôi có thể làm cho vào lúc này. Rượu, bánh mỳ, và pho mát đợi sẵn bàn cũng làm ngon miệng, nhưng tôi lấy mẩu bánh sữa mua buổi sáng và chậm rãi ăn cho tới khi chỉ còn vài mẩu vụn.

      “Em thấy ngon miệng,” Matthew lẻn vào phòng, lặng lẽ như con mèo, tự rót rượu cho mình và uống hơi dài rồi lại rót đầy cốc.

      cũng vậy mà,” tôi . “ ăn uống đều đặn.” Gallowglass và Hancock vẫn đến rủ tham gia cùng họ trong những chuyến săn đêm, nhưng Matthew luôn từ chối.

      muốn về chuyện đó. Thay vì thế kể cho nghe ngày của em .” Hãy giúp quên . Những lời Matthew ra thầm vang khắp căn phòng.

      “Bọn em mua sắm. Em nhận cuốn sách đặt hàng từ chỗ Richard Field và gặp vợ ông ấy, Jacqueline.”

      “À.” Nụ cười của Matthew rộng hơn, và ít căng thẳng rời khỏi khóe miệng . “Bà Field mới. ta sống lâu hơn người chồng đầu và giờ có được người chồng thứ hai sau điệu nhảy may mắn. Em có gặp Shakespeare ? ta ở cùng nhà Field đấy.”

      .” Tôi bổ sung thêm các mẩu vụn cho cái đống vụn bánh ngày càng nhiều lên ở bàn. “Em đến nhà thờ.” Matthew hơi nhoài người tới trước. “Pierre cùng em,” tôi vội , thả miếng bánh sữa lên bàn. “Và em tình cờ gặp George.”

      nghi ngờ gì chàng lảng vảng quanh khu Đầu Bishop đợi William Ponsonby để điều tốt đẹp cho mình.” Hai vai Matthew hạ xuống khi thầm cười khe khẽ.

      “Em chưa bao giờ đến Đầu Bishop,” tôi thú nhận. “George ở chỗ cây thánh giá của Paul, nghe bài thuyết giáo.”

      “Đám đông tụ tập để nghe mấy kẻ thuyết giảng đó thể lường trước được,” khẽ khàng. “Pierre biết hơn cả là được để em nấn ná chỗ đó mà.” Như bằng phép thuật, người hầu của xuất ngay lập tức.

      “Bọn em ở lâu. George đưa em tới chỗ nhà bào chế dược của ấy. Em mua vài cuốn sách nữa và ít đồ dùng. Xà bông. Xi gắn thư. Mực đỏ.” Tôi mím chặt môi vào nhau.

      “Người bào chế dược của George sống ở Cripplegate.” Giọng Matthew trở nên lạnh lùng. ngước mắt nhìn Pierre. “Khi dân chúng London than phiền về tình trạng tội phạm, quận trưởng cảnh sát tới đó và bắt từng người trông có vẻ lười biếng hay khác thường. Ông ta khoảng thời gian dễ chịu với nó.”

      “Nếu ngài quận trưởng nhắm vào Cripplegate, tại sao lại có nhiều sinh vật khác người đến thế ở Barbican Cross còn rất ít thấy ở Blackfriars?” Câu hỏi khiến Matthew kinh ngạc.

      “Khu Blackfriars từng thời là mảnh đất thiêng của người theo Cơ đốc giáo. tinh, phù thủy và ma cà rồng có thói quen sống ở nơi nào thời gian dài trước đó di chuyển trở lại. Tuy nhiên khu Barbican Cross được đặt vùng đất nơi là nghĩa trang của người Do Thái hàng trăm năm trước. Sau khi người Do Thái bị đuổi ra khỏi nước , chính quyền thành phố dùng khu nghĩa địa được thừa nhận này cho tội phạm, những kẻ phản bội và người bị rút phép thông công. Con người coi nó bị ma ám và tránh chỗ đó.”

      “Vậy nó là nỗi bất hạnh của người chết, em cảm thấy thế, chứ phải là người sống.” Lời lẽ buột ra trước khi tôi kịp dừng lại. Hai mắt Matthew nheo lại.

      Cuộc chuyện của chúng tôi chẳng cải thiện được tâm trạng gay gắt của , và cảm giác thoải mái phía tôi tăng lên từng phút . “Jacqueline gợi ý về John Hester khi em hỏi thăm về người bào chế dược, nhưng George người của ấy cũng giỏi ngang thế mà đắt bằng. Em hỏi về khu vực xung quanh chỗ đó.”

      “Thực tế John Chandler ấn thuốc phiện cho khách hàng của mình giống như Hester, đối với quan trọng hơn là giá cả hợp lý của ông ta. Nhưng muốn em ở Cripplegate. Lần sau em cần đồ dùng viết lách hãy bảo Pierre hoặc Françoise kiếm về cho nhé. Nhưng tốt hơn cả là đến thăm hiệu hàng bào chế dược có ba cửa ngay Hẻm Water ở đối diện đây này.”

      “Bà Field với madame là có nhà bào chế dược ngay ở Blackfriars này. Mới vài tháng trước, ông de Laune và Jacqueline đồng ý với nhau về phương pháp chữa trị tốt nhất cho bệnh bạch hầu của đứa con trai lớn nhà bà ấy,” Pierre rì rầm như lời giải thích.

      “Ta quan tâm liệu Jacqueline và de Laune có chĩa gươm vào nhau ngay giữa giáo đường Thánh Paul hay . Diana dạo chơi khắp cả thành phố như thế.”

      chỉ có Cripplegate là nguy hiểm,” tôi , đẩy quyển sách mỏng về ma cà rồng Đức ngang qua bàn. “Em mua cuốn chuyên luận của Hester về bệnh hoa liễu từ chỗ Chandler, và cuốn sách về việc đặt bẫy thú. Cái này cũng được bán nữa.”

      “Em mua cái gì cơ?” Matthew sặc rượu, chú ý của dán vào cuốn sách sai trái.

      “Quên chuyện về Hester . Cuốn sách mỏng này kể câu chuyện về gã đàn ông thông đồng với quỷ biến đổi thành sói và uống máu. trong những người đàn ông có liên quan là hàng xóm của chúng ta, ông chủ xưởng ủ bia cạnh lâu đài Baynard ấy.” Tôi gõ gõ ngón tay lên quyển sách mỏng để nhấn mạnh.

      Matthew kéo những trang giấy lỏng lẻo về phía mình. Hơi thở của ngừng lại khi đến phần quan trọng. giao nó cho Pierre, chàng cũng nhanh chóng chú mục nghiên cứu nó.

      “Stubbe là ma cà rồng, đúng ?”

      “Phải. biết tin tức về cái chết của lại truyền xa thế này. Kit thường hay kể cho nghe những chuyện ngồi lê đôi mách ở vỉa hè và báo chí nên bọn có thể cập nhật bao quát nếu cần thiết. hiểu thế nào ta lại bỏ sót chuyện này.” Matthew bắn cái nhìn dữ tợn vào Pierre. “Hãy đảm bảo chắc chắn có người được phân công giải quyết chuyện này, và đừng để Kit biết.” Pierre nghiêng đầu tỏ vẻ hiểu.

      “Vậy các truyền thuyết về người sói này chỉ là những nỗ lực đáng thương hơn của loài người nhằm chối bỏ nhận thức về ma cà rồng.” Tôi lắc đầu.

      “Đừng bận tâm quá về chuyện đó, Diana. Bọn họ giờ tập trung vào phù thủy. Rồi đến lượt tinh trong trăm năm tới chẳng hạn, hãy biết ơn cuộc cải cách ở các nhà thương điên. Sau đó, loài người xoay vòng đến ma cà rồng, và phù thủy chẳng còn là gì hơn ngoài câu chuyện cổ tích xấu xa để dọa trẻ con.” Matthew trông có vẻ lo lắng, bất chấp lời ra.

      “Hàng xóm bên cạnh chúng ta bận tâm về người sói, chứ phải phù thủy. Và nếu có thể nhầm lẫn chuyện, em muốn thôi lo lắng về em và hãy bắt đầu chăm sóc cho chính mình ấy. Hơn nữa, giờ cũng còn lâu nữa đâu trước khi phù thủy gõ cửa nhà chúng ta.” Tôi bám lấy hiển nhiên có chuyện nguy hiểm với Matthew nếu còn tiến xa hơn nữa để tìm kiếm phù thủy. Đôi mắt chồng tôi thoáng nhìn cảnh cáo, nhưng miệng vẫn mím chặt cho tới khi cơn giận dữ được kiểm soát.

      biết em rất mong muốn được độc lập, nhưng lần tới em quyết định tự tay xử lý vấn đề hãy hứa là em thảo luận nó với trước .” Câu trả lời của dịu dàng hơn tôi mong đợi.

      “Chỉ khi hứa lắng nghe. bị theo dõi đấy, Matthew. Em chắc chắn điều đó, và cả Mary Sidney cũng thế. cứ chăm lo công vụ của nữ hoàng và rắc rối ở Scotland, hãy để em lo chuyện này.”

      Khi mở miệng để định đàm phán thêm nữa, tôi lắc đầu.

      “Nghe em . phù thủy đến đây. Em hứa đấy.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      18.

      Matthew ngồi đợi tôi trong căn phòng sưởi nắng của Mary ở lâu đài Baynard vào chiều ngày hôm sau, mắt chăm chú ngắm nhìn sông Thames cùng với nét mặt vui thích. xoay lại khi tôi tiến đến, nhoẻn miệng cười trước phiên bản chiếc áo khoác phòng thí nghiệm thời Elizabeth phủ bên ngoài thân và chân váy màu vàng nâu của tôi. Hai tay áo trắng nằm bên dưới thò ra từ hai vai tôi phồng lên cách kỳ cục, nhưng chiếc cổ xếp nếp lại và khiêm tốn, khiến nó trở thành trong những bộ váy dễ chịu hơn cả của tôi.

      “Mary thể rời khỏi thí nghiệm của ấy. ấy chúng mình nên đến đúng giờ ăn tối thứ Hai.” Tôi choàng hai cánh tay quanh cổ và hôn kêu. nghiêng ra sau.

      “Tại sao em lại có mùi giấm nhỉ?”

      “Mary rửa bằng giấm. Nó làm sạch tay tốt hơn xà phòng đấy.”

      “Em để ngôi nhà của bao phủ bằng mùi hương ngọt ngào của bánh mỳ và mật ong, còn nữ bá tước Pembroke lại đem em biến thành mùi như dưa chua thế này.” Mũi Matthew tới phần da nhạy cảm phía sau tai tôi. thở dài tiếng thỏa mãn. “ biết mình có thể tìm được nơi nào đó cái mùi giấm chua này vươn tới được mà.”

      “Matthew,” tôi thầm gọi. hầu của nữ bá tước, Joan, đứng ngay sau chúng tôi.

      “Em cư xử như thần dân đức hạnh thời Victoria hơn là nhân vật lẳng lơ thời Elizabeth đấy,” Matthew và cười phá lên. đứng thẳng người sau cái vuốt ve mơn trớn cuối cùng nơi cổ tôi. “Buổi chiều của em thế nào?”

      thấy phòng thí nghiệm của Mary chưa?” Tôi thay chiếc áo khoác màu xám ra hình dạng gì bằng chiếc áo choàng ngắn tay của mình trước khi cho Joan lui làm các nhiệm vụ khác của . “ ấy chiếm hẳn tòa tháp của lâu đài và vẽ lên tường các bức hình của đá tạo vàng. Giống như làm việc trong giấy da Ripley ý! Em nhìn thấy bản sao của Beinecke ở Yale, nhưng nó chỉ dài có nửa mét thôi. Những bức tranh tường của Mary còn lớn gấp đôi. khó mà tập trung vào công việc được.”

      “Thí nghiệm của em là gì thế?”

      “Bọn em săn sư tử xanh lục,” tôi tự hào đáp, nhắc đến đoạn trong quá trình luyện giả kim trong đó kết hợp hai dung dịch axit và tạo ra biến đổi màu đáng kinh ngạc. “Bọn em gần như bắt được nó. Nhưng sau có gì đó sai sót và bình thí nghiệm nổ. tuyệt diệu!”

      mừng là em làm việc trong phòng thí nghiệm của . chung, các vụ nổ đều phải tránh khi làm việc với axit nitric. Hai người bọn em có thể làm gì đó ít bay hơi hơn vào lần tới, như chưng cất nước hoa hồng chẳng hạn.” Mắt Matthew nheo lại. “Em làm việc với thủy ngân đấy chứ?”

      “Đừng lo. Em làm bất kỳ điều gì có hại cho bé con đâu,” tôi phòng vệ .

      “Mỗi lần điều gì về tình trạng sức khỏe của em, là em lại làm ra vẻ quan tâm của là lo hão ở đẩu ở đâu ấy.” Hai cánh lông mày của nhíu vào nhau thành điệu bộ cau có. Cảm ơn bộ râu và ria đen nhánh của – cái này tôi bắt đầu quen dần rồi – Matthew trông thậm chí càng có vẻ gia trưởng hơn. Nhưng tôi muốn tranh cãi với .

      “Xin lỗi,” tôi nhanh trước khi chuyển chủ đề. “Tuần sau bọn em trộn lẫn mẻ prima materia tươi. Cái đó bên trong có thủy ngân, nhưng em hứa là chạm vào nó. Mary muốn xem xem liệu đến cuối tháng nó có thối rữa thành con cóc trong thuật giả kim .”

      “Cái đó nghe giống mở đầu lễ hội cho năm mới,” Matthew , khép chặt chiếc áo khoác vai tôi.

      nhìn gì thế?” Tôi ngó ra cửa sổ.

      “Ai đó dựng đống lửa trại bên kia sông cho đêm giao thừa. Mỗi lần họ gửi đến xe thùng củi tươi, người dân địa phương lại chôm chỉa những gì có ở đó. Cả đống củi dần từng giờ kia kìa. Giống như quan sát nàng Penelope dệt vải vậy.”

      “Mary có ai làm việc vào ngày mai. Ồ, và chắc chắn phải bảo Françoise mua thêm manchet – đó là bánh mỳ, đúng ? – Và tẩm đẫm nó trong rượu và mật ong để nó mềm lại vào bữa sáng thứ Bảy.” Nó hoàn toàn là bánh mỳ nướng của Pháp thời Elizabeth ngoại trừ cái tên. “Em nghĩ Mary lo em có thể bị đói trong ngôi nhà được điều hành bởi những ma cà rồng.”

      “Bà Pembroke im lặng cách lịch khi nó liên quan đến các sinh vật khác người và thói quen của họ,” Matthew nhận xét.

      ấy tất nhiên bao giờ nhắc lại chuyện đôi giày của ấy,” tôi trầm ngâm .

      “Mary Sidney sống sót như mẹ ấy làm: bằng cách nhắm mắt làm ngơ trước mọi phiền phức. Những người phụ nữ trong gia đình Dudley đều phải làm vậy.”

      “Dudley ư?” Tôi nhíu mày. Đó là gia đình có tiếng xấu hay gây rắc rối – chẳng có gì giống với Mary có phong thái hòa nhã cả.

      “Mẹ của quý bà Pembroke là Mary Dudley, người bạn của Bệ hạ và là chị của người nữ hoàng mến, Robert.” Khóe miệng Matthew nhăn lại. “Bà rất xuất chúng, giống như con bà. Mary Dudley đưa vào đầu bà đầy những ý tưởng để còn chỗ nghĩ đến tội mưu phản của cha bà, hay lầm lạc của những người em trai. Khi bà ấy mắc căn bệnh đậu mùa từ đấng toàn năng tối cao của chúng ta, Mary Dudley bao giờ thừa nhận rằng cả nữ hoàng và chồng bà thích bầu bạn của những người khác hơn là đối diện với hình dạng xấu xí của bà.”

      Tôi dừng lại, choáng váng. “Chuyện gì xảy đến với bà?”

      “Bà chết trong độc và cay đắng, như hầu hết những người phụ nữ nhà Dudley trước bà. Thành công vĩ đại nhất của bà là gả chồng cho con cùng tên mười lăm tuổi của mình với Bá tước Pembroke bốn mươi tuổi.”

      “Mary Sidney kết hôn khi mới mười lăm tuổi ư?” Người phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy sức sống điều hành cả cơ ngơi khổng lồ, nuôi nấng đàn con khỏe khoắn, hiến dâng hết mình cho các thí nghiệm giả kim thuật của , tất cả để phải là nỗ lực bề ngoài thôi. Giờ tôi hiểu như thế nào. Bà Pembroke trẻ hơn tôi vài tuổi, nhưng ở tuổi ba mươi ấy gánh vác những trách nhiệm này nửa cuộc đời rồi.

      “Đúng thế. Nhưng mẹ Mary cung cấp cho ấy tất cả phương tiện cần thiết để sống sót: kỷ luật thép, ý thức sâu sắc về bổn phận, giáo dục tốt nhất mà tiền bạc có thể mua được, tình với thơ ca, và niềm đam mê với giả kim thuật.”

      Tôi chạm vào người mình, nghĩ đến sinh mệnh lớn dần bên trong tôi. Điều gì cần cho con để sống sót trong thế giới này?

      Chúng tôi trò chuyện về hóa học đường về nhà. Matthew giải thích rằng pha lê mà Mary ủ như gà ấp trứng bị oxy hóa quặng sắt và rằng ấy chưng cất chúng chậm hơn trong bình thí nghiệm để làm axit sunfuric. Tôi luôn thấy hứng thú với chủ nghĩa tượng trưng trong thuật giả kim hơn là các khía cạnh thực hành của nó, nhưng buổi chiều của tôi bên nữ bá tước Pembroke cho tôi thấy liên kết giữa hai mặt này có thể hấp dẫn, cuốn hút đến nhường nào.

      Chẳng mấy chốc chúng tôi an toàn bên trong ngôi nhà Hươu Đực và Vương Miện, tôi nhấm nháp thứ thuốc sắc ấm chế từ bạc hà và tinh dầu chanh. Hóa ra người dân thời Elizabeth uống trà, nhưng họ uống tất cả các loại thảo mộc. Tôi trò chuyện sôi nổi về Mary nhận thấy nụ cười tủm tỉm của Matthew.

      “Có gì buồn cười lắm à?”

      chưa từng thấy em như thế này trước đây,” bình luận.

      “Như thế nào cơ?”

      “Vô cùng sinh động – đầy những câu hỏi và thông cáo về những gì em làm, cùng tất cả các kế hoạch em và Mary làm tuần tới.”

      “Em luôn thích được là sinh viên,” tôi thú nhận. “Ban đầu khó, phải câu hỏi nào cũng có đáp án. Qua nhiều năm em quên mất cảm giác vui đến nhường nào khi chẳng có gì ngoài những thắc mắc.”

      “Và em cảm thấy tự do khi ở đây, theo cách mà em có được khi ở Oxford. Những bí mật là công việc độc.” Ánh mắt Matthew đầy cảm thông trong khi những ngón tay di chuyển dọc theo quai hàm tôi.

      “Em chưa bao giờ độc.”

      “Đúng em độc. nghĩ em vẫn là thế,” dịu dàng .

      Trước khi tôi kịp đáp lại, Matthew kéo tôi ra khỏi chỗ ngồi và quay lưng chúng tôi về phía bức tường bên cạnh lò sưởi. Pierre, người chỉ thoáng trước còn chẳng nhìn thấy đâu, xuất ở ngưỡng cửa.

      Rồi tiếng gõ cửa vang lên. Cơ bắp vai Matthew gồng lên, con dao găm lóe lên đùi . Khi gật đầu, Pierre bước ra đầu cầu thang và mở tung cánh cửa.

      “Chúng tôi có lời nhắn từ Cha Hubbard.” Hai tên ma cà rồng đứng ở đó, cả hai đều mặc quần áo đắt giá quá mức đối với những người đưa tin. ai trong hai ma cà rồng này quá mười lăm cả. Tôi chưa bao giờ trông thấy ma cà rồng thiếu niên và luôn tưởng tượng chắc hẳn phải có những luật cấm chống lại điều đó.

      “Ông Roydon.” Tên ma cà rồng cao hơn vuốt đầu mũi và dò xét Matthew bằng đôi mắt màu chàm. Cặp mắt di chuyển từ Matthew sang tôi, và da tôi sởn lên vì lạnh. “Bà.” Bàn tay Matthew siết chặt con dao găm, còn Pierre di chuyển đứng chắn vuông góc giữa chúng tôi và cánh cửa.

      “Cha Hubbard muốn gặp các vị,” tên ma cà rồng hơn , tỏ vẻ coi thường món vũ khí trong tay Matthew. “Hãy đến khi đồng hồ điểm bảy giờ.”

      “Hãy với Hubbard ta ở đó khi nào thích hợp,” Matthew giọng điệu thoáng vẻ căm ghét.

      chỉ ông,” thằng bé cao hơn .

      “Ta thấy Kit,” Matthew có chút mất kiên nhẫn. “Nếu ông ta gặp rắc rối, ông chủ của ngươi biết phải tìm người ở đâu, Corner.” Đó có khả năng là tên của thằng bé. Dáng vẻ thiếu niên của nó tất cả đều góc cạnh và sắc nhọn.

      “Marlowe ở cùng với Cha Hubbard cả ngày.” Giọng điệu Corner đầy chán nản.

      “Thế sao?” Matthew , ánh mắt sắc bén.

      “Đúng thế. Cha Hubbard muốn phù thủy này,” bạn đồng hành của Corner .

      “Ta biết rồi.” Giọng Matthew đều đều. cái bóng lờ mờ của màu đen và bạc, con dao găm bóng loáng của rung lên, điểm đầu tiên, thanh dọc của khung cửa gần mắt Corner. Matthew sải bước về phía họ. Cả hai ma cà rồng đều tình nguyện bước lùi lại. “Cảm ơn về lời nhắn, Leonard.” thúc cánh cửa đóng lại bằng bàn chân.

      Pierre và Matthew trao đổi cái nhìn dài, câm lặng trong khi bước chân của hai ma cà rồng thiếu niên huyên náo xuống cầu thang.

      “Hancock và Gallowglass,” Matthew ra lệnh. “Ngay lập tức.”

      Pierre xoay người ra khỏi phòng, vừa vặn tránh Françoise trong đường tơ kẽ tóc. ấy rút con dao găm từ khung cửa xuống.

      “Chúng ta có khách viếng thăm,” Matthew giải thích trước khi kịp phàn nàn về tình trạng của đồ gỗ trong nhà.

      “Chuyện này là thế nào, Matthew?” Tôi hỏi.

      “Em và phải đến gặp người bạn cũ.” Giọng vẫn đều đều như báo điềm gở.

      Tôi đưa mắt nhìn con dao găm, giờ nằm bàn. “Người bạn cũ này là ma cà rồng?”

      “Rượu, Françoise.” Matthew tóm lấy mấy tờ giấy, làm đảo lộn trật tự đống đồ được sắp xếp cẩn thận của tôi. Tôi bóp nghẹt lời phản đối khi nhấc lên cây bút lông của tôi và viết với tốc độ điên cuồng. nhìn tôi từ khi có tiếng gõ cửa.

      “Có máu tươi từ chỗ hàng thịt. Có lẽ ngài nên…”

      Matthew ngẩng lên, miệng mím chặt thành đường mỏng. Françoise rót cho ly lớn rượu vang mà có lời phản đối nào khác. Khi ta làm xong, đưa cho hai lá thư.

      “Mang cái này tới chỗ Bá tước Northumberland ở Nhà Russell. Lá kia cho Raleigh. ta ở chỗ Sảnh Trắng.” Françoise ngay lập tức, còn Matthew sải bước đến cửa sổ, nhìn chằm chằm ngược lên con đường. Tóc rối tung trong cái cổ áo cao bằng vải lanh, và tôi bỗng có thôi thúc muốn vuốt nó lại ngay ngắn cho . Nhưng dáng vẻ hai bờ vai cảnh báo tôi rằng chào đón cử chỉ chiếm hữu như thế.

      “Cha Hubbard ư?” Tôi nhắc . Nhưng tâm trí Matthew ở tận đâu đâu.

      “Em làm mình bị giết chết đấy,” cộc cằn , lưng vẫn quay về phía tôi. “Ysabeau cảnh cáo rằng em có bản năng tự bảo toàn. Phải bao nhiêu lần chuyện như thế này xảy ra nữa em mới phát triển được bản năng này hả?”

      “Giờ em làm gì đâu?”

      “Em muốn bị nhìn thấy, Diana,” cách cay nghiệt. “Than ôi, em làm được.”

      “Hãy thôi nhìn ra ngoài cửa sổ . Em mệt mỏi vì phải chuyện với cái ót của rồi.” Tôi khẽ , mặc dù rất muốn bóp cổ ấy. “Cha Hubbard là ai?”

      “Andrew Hubbard là ma cà rồng. thống trị London.”

      “Ý là gì khi thống trị London? Có phải tất cả ma cà rồng ở thành phố này đều vâng lệnh ?” Trong thế kỷ hai mươi mốt, ma cà rồng ở London nổi tiếng bởi tuân thủ bổn phận mạnh mẽ với bày đàn, những thói quen về đêm của họ, và lòng trung thành – hoặc đó là điều tôi được nghe từ các phù thủy khác. khoa trương, cường điệu như ma cà rồng ở Paris, Venice, hay Istanbul, hay khát máu như những kẻ ở Moscow, New York, và Bắc Kinh, ma cà rồng London là nhóm được tổ chức tốt.

      chỉ ma cà rồng thôi đâu. Phù thủy và tinh nữa.” Matthew quay sang tôi, ánh mắt lạnh giá. “Andrew Hubbard vốn là mục sư, kẻ có ít giáo dục nhưng lại có đủ đám lý thuyết để gây rắc rối. trở thành ma cà rồng khi dịch bệnh đầu tiên đến London. Nó giết chết gần nửa thành phố này vào năm 1349. Hubbard sống sót trong làn sóng bệnh dịch đầu tiên, chăm sóc cho người bệnh và chôn cất người chết, nhưng cùng lúc đó cũng quỵ ngã.”

      “Và ai đó cứu ông ta bằng cách biến ông ta thành ma cà rồng?”

      “Đúng thế, mặc dù chưa bao giờ tìm ra được đó là ai. Có rất nhiều giai thoại, nhưng hầu hết đều về hồi sinh thần thánh của ta. Khi chắc chắn mình chết, người ta đào mộ huyệt cho chính mình trong sân nhà thờ và leo vào đó đợi Chúa. Nhiều giờ sau Hubbard lên và bước ra giữa những người sống.” Matthew ngừng lại. “ tin hoàn toàn có đầu óc lành mạnh từ khi đó.”

      “Hubbard tập hợp lại những linh hồn lạc lối,” Matthew tiếp. “Ngày đó có nhiều đếm xuể. đón nhận họ – trẻ mồ côi, góa phụ, những người đàn ông mất toàn bộ gia đình chỉ trong vòng tuần lễ. Những ai bị ốm biến họ thành ma cà rồng, đặt tên lại và đảm bảo bọn họ có nhà, thức ăn và công việc. Hubbard coi họ như con của .”

      “Thậm chí cả phù thủy và tinh ư?”

      “Phải,” Matthew đáp cộc lốc. “ đưa họ qua nghi thức nhận nuôi, nhưng có gì giống với Philippe trình diễn cả. Hubbard nếm máu của bọn họ. tuyên bố nó tiết lộ nội hàm linh hồn bọn họ và cung cấp bằng chứng rằng Chúa Trời phó thác họ cho chăm lo.”

      “Nó cũng tiết lộ những bí mật của họ cho ,” tôi chậm rãi .

      Matthew gật đầu. Chẳng trách muốn tôi tránh xa Cha Hubbard này. Nếu ma cà rồng nếm máu của tôi, biết về đứa bé – và ai là cha của nó.

      “Philippe và Hubbard đạt được thỏa thuận rằng người nhà de Clermont được miễn khỏi nghi thức và bổn phận gia đình của . có lẽ nên cho biết em là vợ trước khi chúng ta bước vào thành phố.”

      “Nhưng lựa chọn ,” tôi cẩn thận , hai tay siết chặt. Giờ tôi biết tại sao Gallowglass cầu chúng tôi cập bến ở đâu đó chứ phải dưới chân Hẻm Water. Philippe đúng. Có nhiều khi Matthew cư xử như tên ngốc – hoặc như gã đàn ông ngạo mạn còn sống.

      “Hubbard tránh xa khỏi đường của , và cũng cản đường . Ngay khi biết em là người nhà de Clermont, cũng để em yên.” Matthew phát thấy gì đó ở dưới đường. “Tạ ơn Chúa.” Những bước chân nặng nề vang lên cầu thang, và phút sau Gallowglass cùng Hancock đứng trong phòng khách của chúng tôi. “Hai người cũng mất thời gian quá đấy.”

      “Xin chào chú, Matthew,” Gallowglass . “Vậy cuối cùng Hubbard cũng cầu cuộc hội kiến. Và trước khi chú đưa ra đề xuất, đừng có nghĩ đến việc dắt mũi bằng cách để ở lại đây. Cho dù kế hoạch là gì, ấy cũng .”

      giống tính cách vốn có, Matthew cào bàn tay vào mái tóc ngược từ sau đầu ra phía trước.

      “Chết tiệt,” Hancock buột miệng, quan sát cả quá trình của những ngón tay Matthew. Làm cho tóc dựng ngược hết lên như mào gà là dấu hiệu nhận biết ràng khác của Matthew – nó có nghĩa là lảng tránh đầy sáng tạo và nửa chấp nhận. “Kế sách duy nhất của là lảng tránh Hubbard. có kế hoạch nào khác. Chúng tôi bao giờ biết chắc liệu gã dũng cảm hay là thằng ngốc nữa, de Clermont, nhưng tôi nghĩ chuyện lần này có thể quyết định cho câu hỏi đó rồi – và phải nhờ phước của đâu.”

      “Tôi định đưa Diana đến chỗ Hubbard vào thứ Hai.”

      “Sau khi ấy ở trong thành phố này mười ngày,” Gallowglass nhận xét.

      cần phải vội. Diana là người nhà de Clermont. Hơn nữa, chúng ta ở trong thành phố,” Matthew nhanh. Trước ánh mắt bối rối của tôi, tiếp. “Blackfriars phải là phần của London.”

      “Cháu vào hang ổ của Hubbard mà tranh cãi về địa lý của thành phố này với lần nữa đâu,” Gallowglass , quật đôi găng tay của ta vào bắp đùi. “ đồng ý khi chú đưa chuyện này ra tranh cãi để có thể đóng quân của dòng tu trong Tháp sau khi chúng ta đến giúp đỡ người Lancastrian vào năm 1485, và cũng chấp nhận nó vào thời điểm này đâu.”

      “Chúng ta thể để chờ đợi được,” Hancock .

      “Chúng ta còn rất nhiều thời gian.” Giọng điệu Matthew tùy tiện.

      “Chú chẳng bao giờ hiểu các dòng thủy triều cả, Matthew. Cháu cam đoan chúng ta bằng đường sông, vì chú cũng nghĩ sông Thames phần của thành phố này. Nếu vậy , chúng ta có lẽ quá muộn rồi. Chúng ta di chuyển .” Gallowglass dứ dứ chỉ ngón tay cái về phía cửa trước.

      Pierre đợi chúng tôi ở đó, kéo mạnh tấm da màu đen hai tay. ta đổi chiếc áo khoác ngắn tay màu nâu bình thường bằng chiếc màu đen quá lỗi thời. hình bằng bạc phủ cánh tay phải: con rắn cuộn tròn quanh cây thánh giá với hình trăng lưỡi liềm nằm ở góc phần tư phía . Đây là dấu hiệu riêng của Philippe, điểm khác duy nhất với cái của Matthew là có ngôi sao và hoa bách hợp.

      Khi Gallowglass và Pierre cũng phục trang tương tự, Françoise choàng lên vai Matthew chiếc áo khoác đồng bộ. Những nếp gấp nặng nề của nó quét sàn nhà, làm cho trông cao lớn hơn, thậm chí càng nổi bật sắc nét hơn. Khi cả bốn người bọn họ đứng cùng nhau, đó cảnh tượng dọa người, nguồn cảm hứng vô tận cho loài người khi mô tả về ma cà rồng khoác áo choàng đen sẫm.

      Dưới đáy cùng của Hẻm Water, Gallowglass bao quát những con thuyền đậu sẵn. “Thuyền đó có thể chở tất cả chúng ta,” chàng , chỉ về phía chiếc thuyền chèo dài và huýt tiếng sáo chói tai. Khi người đàn ông đứng cạnh con thuyền đó hỏi chúng tôi định đâu, chàng ma cà rồng đưa ra bản chỉ dẫn phức tạp về lộ trình của chúng tôi, bến thuyền nào chúng tôi lên và ai là người chèo thuyền. Sau khi Gallowglass rống lên với ông ta, người đàn ông đáng thương co cụm lại gần cây đèn ở mái chèo và thỉnh thoảng lại lo lắng nhìn qua vai.

      “Việc dọa mỗi người chèo thuyền chúng ta gặp sợ chết khiếp cải thiện được quan hệ với những người hàng xóm của chúng ta đâu,” tôi bình phẩm khi Matthew lên thuyền, nhìn về phía xưởng ủ bia bên cạnh. Hancock nhấc tôi lên mà chẳng cần lễ nghi gì rồi giao tôi vào tay chồng. Cánh tay Matthew siết chặt quanh người tôi khi con thuyền lao vút vào dòng sông. Thậm chí người lái thuyền cũng phải thở hắt ra trước tốc độ này.

      cần phải kéo chú ý về chúng ta đâu, Gallowglass,” Matthew lạnh lùng .

      “Chú có muốn chèo thuyền trong khi cháu giữ ấm cho vợ chú ?” Khi Matthew trả lời, Gallowglass lắc đầu. “Biết ngay mà.”

      Ánh sáng vàng êm ái của những ngọn đèn từ Cầu London xuyên qua bóng đêm ảm đạm phía trước chúng tôi, thanh va chạm của con nước khi di chuyển nhanh bắt đầu lớn hơn theo mỗi nhịp chèo của Gallowglass. Matthew đưa mắt nhìn ven bờ sông. “Cập vào cầu thang Thiên Nga Già . Ta muốn trở về chiếc thuyền này và hướng ngược dòng trước khi thủy triều lên.”

      “Khẽ thôi.” Hancock thầm lạnh giọng cắt ngang. “Chúng ta định chơi trò ú òa với Hubbard. Nhưng ta có thể phải xuôi Cheapside với trống dong cờ mở vì mấy tiếng ồn ào cậu tạo ra đấy.”

      Gallowglass quay lại hướng mặt về đuôi thuyền và đẩy mái chèo mạnh hai lần bằng tay trái. Thêm vài lần chèo nữa chúng tôi cập bờ – gì hơn ngoài chỗ đặt chân ọp ẹp, gắn liền với những cây cột xếp thành hàng – nơi vài người đàn ông đợi sẵn. Người chèo thuyền vẫy họ xuống với vài lời cụt lủn hy vọng có thể ra khỏi con thuyền càng nhanh càng tốt.

      Chúng tôi leo lên đường và xuyên qua những con hẻm ngoằn ngoèo trong im lặng, phóng giữa những ngôi nhà và băng qua những khu vườn . Ma cà rồng di chuyển với dáng vẻ êm như ru của những chú mèo. Tôi di chuyển kém vững vàng hơn, vấp phải đá cuội và giẫm cả vào những vũng nước đọng. Cuối cùng tôi rẽ vào con đường rộng. Tiếng cười vọng lại từ phía cuối đường, ánh sáng tràn ra con đường từ những ô cửa sổ. Tôi chà xát hai bàn tay vào nhau, cố níu kéo ấm áp. Có lẽ đó là đích đến của chúng tôi. Có lẽ chuyện này đơn giản thôi, chúng tôi có thể gặp Andrew Hubbard, cho ông ta thấy nhẫn cưới của tôi, rồi trở về nhà.

      Matthew dẫn chúng tôi băng qua con phố vào sân nhà thờ hoang vắng nơi có những tấm bia mộ nằm nối nhau như thể người chết tìm kiếm thoải mái từ những người đồng cảnh. Pierre lấy ra cái vòng kim loại cứng đầy chìa khóa, còn Gallowglass tra chìa vào ổ khóa cánh cửa bên cạnh tháp chuông. Chúng tôi bộ xuyên qua gian giáo đường đổ nát và qua cánh cửa gỗ bên trái bệ thờ. Cầu thang đá hẹp lao thẳng xuống bóng tối bên dưới. Với thị lực giới hạn của sinh vật máu nóng, tôi có cách nào giữ vững chịu đựng của mình khi chúng tôi lượn tròn rẽ qua những lối hẹp và qua những nơi rộng hơn sực nức mùi rượu, nước nho ép, và mùi người thối rữa. Trải nghiệm này dẫn thẳng đến những câu chuyện mà loài người kể để làm nhụt chí người ta dám lấn ná trong những tầng hầm và khu nghĩa địa của nhà thờ.

      Chúng tôi di chuyển sâu hơn vào khu vực chằng chịt đường hầm và những căn phòng ngầm bí mật rồi bước vào hầm mộ được thắp sáng lờ mờ. Những con mắt sâu hoắm nhìn chằm chằm ra từ những đống xương sọ trong cái hang đựng hài cốt. rung động trong sàn đá và những tiếng chuông nghèn nghẹt báo hiệu ở nơi nào đó phía chúng tôi đồng hồ điểm bảy tiếng. Matthew hối thúc chúng tôi dọc theo đường hầm khác và chỉ vào ánh sáng dịu ở phía đằng xa.

      Cuối cùng chúng tôi cũng bước vào căn hầm được dùng để cất trữ rượu dỡ xuống từ các con tàu sông Thames. Vài thùng dựng ở cạnh tường, mùi mùn cưa tươi hơn át mùi rượu cũ. Tôi xem xét kỹ lưỡng nguồn gốc mùi hương trước đó: những chiếc quan tài được xếp chồng gọn ghẽ, sắp đặt theo kích thước từ những cái dài có thể chứa được cả Gallowglass cho tới những chiếc xíu dành cho đứa trẻ còn ẵm ngửa. Bóng tối di chuyển và chập chờn trong những góc sâu, ở chính giữa căn phòng diễn ra nghi thức của đám đông các sinh vật khác người.

      “Máu của con thuộc về cha, Cha Hubbard.” Người đàn ông sợ hãi . “Con nguyện trao tặng nó, để cha có thể thấy được trái tim con và thu nhận con vào gia đình của cha.” Im lặng, rồi tiếng kêu đau đớn. Sau đó khí tràn ngập cảm giác căng thẳng chờ đợi.

      “Ta chấp nhận món quà của con, James, và hứa bảo vệ con như con của ta,” giọng thô lỗ đáp lời. “Đổi lại con tôn trọng ta như cha của con. Hãy chào các chị em của con .”

      Đám đông xôn xao chào đón, da tôi rợn lên cảm giác lạnh lẽo băng giá.

      “Các người đến muộn.” thanh lạo xạo cắt ngang tiếng trò chuyện và làm tôi dựng tóc gáy. “Và với đầy đủ đoàn tùy tùng, ta thấy rồi.”

      “Điều đó là thể, vì chúng tôi có hẹn trước.” Matthew nắm chặt khuỷu tay tôi trong khi hàng tá ánh nhìn thúc tới, râm ran nhói đau, và làm lạnh buốt da tôi.

      Những bước chân nhè đến gần, vòng tròn quay quanh. người đàn ông gầy gò, cao lớn trực diện xuất trước mặt tôi. Tôi đón lấy cái nhìn chằm chằm của nao núng, biết tốt hơn nên lộ ra vẻ sợ hãi đối với ma cà rồng. Đôi mắt Hubbard sâu hoắm bên dưới xương lông mày nặng nề cùng với vân máu xanh lam, xanh lục, và nâu tỏa ra từ hai tròng mắt đen như đá phiến.

      Đôi mắt ma cà rồng này là thứ duy nhất có màu sắc người . Nếu nhợt nhạt quá mức phi tự nhiên, với mái tóc bạch kim cắt ngắn sát vào xương sọ, gần như nhìn thấy lông mày và lông mi, đường rạch rộng nằm ngang của đôi môi đặt khuôn mặt nhẵn nhụi. Chiếc áo choàng dài màu đen của trông giống như pha trộn giữa chiếc áo chùng dài của học giả và chiếc áo thầy tu của mục sư, càng làm nổi thân hình tái nhợt như xác chết của . thể nhầm lẫn sức mạnh trong hai bờ vai rộng, hơi khòng của , nhưng phần còn lại thực là bộ xương.

      chuyển động lờ mờ, những ngón tay mạnh mẽ cầm lấy cằm tôi và nghiêng mặt tôi về bên. Cùng lúc đó, bàn tay Matthew bao lấy cổ tay ma cà rồng này.

      Cái nhìn lạnh băng của Hubbard chạm vào cổ tôi, thu vào tầm mắt vết sẹo ở đó. Lần này tôi ước gì Françoise trang bị cho tôi bằng chiếc cổ áo xếp nếp lớn nhất mà ấy có thể tìm được. phả ra hơi thở giận dữ lạnh lẽo mùi thần sa và gỗ thông trước khi cái miệng rộng ngoác sít chặt lại, viền môi chuyển từ màu đào nhợt nhạt sang thành trắng bệch.

      “Chúng ta có rắc rối rồi, ông Roydon,” Hubbard .

      “Chúng ta có vài rắc rối đấy, Cha Hubbard. Đầu tiền là cha đặt tay lên thứ thuộc về ta. Điều xảy ra tiếp sau đây khiến mọi sinh vật trong thành phố – tinh, loài người, wearth và phù thủy – nghĩ đến ngày tàn là tùy thuộc vào chúng ta đấy.” Giọng của Matthew rung lên phẫn nộ.

      Các sinh vật khác người ra từ bóng tối xung quanh. Tôi trông thấy John Chandler, nhà bào chế dược ở Cripplegate, người đón ánh mắt tôi… Kit cũng ở đó, đứng cạnh tinh khác. Khi cánh tay bạn ta vòng qua khuỷu tay, Kit khẽ duỗi tránh .

      “Xin chào, Kit,” Matthew , giọng đầy chết chóc. “Tôi nghĩ lúc này chạy biến và trốn tiệt rồi chứ.”

      Hubbard giữ lấy cằm tôi thêm lát nữa, kéo đầu tôi quay lại cho tới khi mặt tôi đối diện với lần nữa. Cơn giận của tôi hướng vào Kit và phù thủy phản bội chúng tôi chắc hẳn bộc lộ , bèn lắc đầu cảnh cáo.

      “Ngươi căm ghét người này tận tâm can,” lẩm bẩm rồi thả tôi ra. Ánh mắt Hubbard quét khắp phòng. “Hãy để mặc chúng ta.”

      Hai bàn tay Matthew ôm lấy khuôn mặt tôi, những ngón tay mơn man vuốt ve làn da dưới cằm tôi để tẩy mùi của Hubbard. “ với Gallowglass . gặp em nhanh thôi.”

      ta ở lại đây,” Hubbard .

      Các cơ bắp của Matthew gồng lên. quen với việc bị ra lệnh. Sau hồi ngưng khá lâu, cầu bạn bè và gia đình đợi bên ngoài. Hancock là người duy nhất tuân theo ngay lập tức.

      “Cha cậu người đàn ông khôn ngoan từ dưới đáy giếng cũng có thể thấy được nhiều hơn thằng ngốc đứng đỉnh núi. Chúng ta hãy hy vọng rằng ông đúng,” Hancock khẽ , “bởi vì đây là địa ngục trong cái hố mà cậu đặt chúng ta vào đêm nay.” Đưa mắt nhìn lần cuối, chàng theo Gallowglass và Pierre xuyên qua lỗ hổng bức tường phía xa. Cánh cửa nặng nề đóng lại, và im lặng.

      Ba chúng tôi đứng gần đến nỗi tôi có thể nghe thấy lần tống xuất khí khẽ khàng tiếp theo từ buồng phổi của Matthew. Còn về Hubbard, tôi tự hỏi liệu bệnh dịch kia có khiến phát điên rồi . Làn da giống sáp hơn là màu men sứ như thể vẫn còn phải chịu đựng hậu quả của cơn bệnh rơi rớt lại.

      “Ta có thể nhắc ông nhớ, ông de Clermont, ông có mặt ở đây là cho phép bất đắc dĩ của ta.” Hubbard ngồi vào cái ghế uy nghi cao quý duy nhất trong căn phòng. “Mặc dù ông đại diện cho Đại Hội Đồng, nhưng ta chấp nhận diện của ông ở London bởi vì cha ông cầu điều đó. Nhưng ông lăng nhục khách của chúng ta và cho phép vợ ông vào thành phố mà giới thiệu ấy cho ta và con chiên của ta. Rồi còn vấn đề với những hiệp sĩ của ông nữa chứ.”

      “Hầu hết các hiệp sĩ đồng hành cùng ta sống trong thành phố này còn lâu hơn cả ông, Andrew ạ. Khi ông khăng khăng bắt họ gia nhập vào đám ‘con chiên’ của ông hoặc phải rời khỏi địa phận thành phố, bọn họ rút ra bên ngoài những bức tường bao. Ông và cha ta thống nhất rằng người nhà de Clermonts mang thêm các hiệp sĩ đến thành phố này. Ta làm như thế.”

      “Và ông nghĩ rằng các con ta quan tâm đến những chi tiết đó sao? Ta trông thấy những chiếc nhẫn họ đeo và các biểu tượng áo khoác của họ.” Hubbard nhoài người tới trước, ánh mắt hăm dọa. “Ta bị dắt mũi tin rằng ông đường tới Scotland. Tại sao ông vẫn còn ở đây?”

      “Có lẽ ông trả đủ cho việc lấy tin tức rồi,” Matthew gợi ý. “Dạo này Kit viêm màng túi nặng đấy.”

      “Ta mua tình và lòng trung thành, cũng phải dùng đến trò hăm dọa và tra tấn để có được thứ mình muốn. Christopher tự nguyện làm những gì ta cầu, giống như tất cả những đứa con ngoan đạo quý cha mình.”

      “Kit có quá nhiều ông chủ để có thể chung thủy với bất cứ ai trong số đó.”

      phải cũng có thể điều đó với ông ư?” Sau khi thách thức Matthew, Hubbard quay sang tôi và tinh tế uống vào mùi hương của tôi. khẽ thốt ra thanh buồn rầu. “Nhưng chúng ta hãy về cuộc hôn nhân của ông. Vài đứa con ta tin rằng mối quan hệ giữa phù thủy và wearth là đáng ghê tởm. Nhưng Đại Hội Đồng và cái hiệp ước của nó được chào đón trong thành phố của ta, cũng hơn gì những hiệp sĩ đầy lòng căm thù của cha ông. Cả hai đều cản trở ý nguyện của Chúa mong ước chúng ta sống như gia đình. Vợ của ông cũng là người xe sợi thời gian,” Hubbard . “Ta chấp nhận những người xe sợi thời gian, vì họ xúi giục đàn ông và đàn bà bằng những ý tưởng thuộc về nơi này.”

      “Những ý tưởng như lựa chọn và tự do trong suy nghĩ ư?” Tôi chen ngang. “Điều ông lo sợ…”

      “Kế tiếp,” Hubbard ngắt lời, vẫn tập trung vào Matthew như thể tôi hoàn toàn vô hình, “là vấn đề ông uống máu ta.” Ánh mắt chuyển đến vết sẹo Matthew để lại cổ tôi. “Khi các phù thủy phát ra chuyện này, họ cầu giải thích. Nếu vợ ông bị phát và kết tội là tình nguyện dâng hiến máu cho ma cà rồng, ta bị xa lánh và ném ra khỏi London. Nếu ông bị kết tội là uống máu mà ưng thuận của ta, ông bị đẩy vào chỗ chết.”

      quá mức cho đa cảm gia đình,” tôi lẩm bẩm.

      “Diana,” Matthew cảnh cáo.

      Hubbard chống mấy ngón tay quan sát Matthew lần nữa. “Và cuối cùng, ta mang thai. Cha đứa trẻ đến tìm ta chứ?”

      Câu đó khiến cho những lời đáp trả của tôi thốt ra lời. Hubbard chưa khám phá ra bí mật lớn nhất của chúng tôi: rằng Matthew là cha của con tôi. Tôi đấu tranh đè nén cơn hoảng loạn. Suy nghĩ – và sống sót. Có lẽ lời khuyên của Philippe đưa chúng tôi thoát khỏi tình thế khó khăn này.

      ,” Matthew đáp cụt lủn.

      “Vậy người cha chết – do những nguyên nhân tự nhiên hay do bàn tay của ông,” Hubbard , ném cho Matthew cái nhìn dài dò xét. “Trong trường hợp đó đứa con của phù thủy này được mang tới cho các con chiên của ta khi nó được sinh ra. Mẹ của nó cũng trở thành trong những đứa con của ta ngay bây giờ.”

      ,” Matthew lặp lại, “ ấy như vậy.”

      “Ông hình dung hai người sống sót bên ngoài London trong bao lâu khi những thành viên còn lại của Đại Hội Đồng nghe đến những hành vi chướng tai gai mắt này?” Hubbard lắc đầu. “Vợ của ông an toàn khi ở đây miễn ta là thành viên trong gia đình ta và còn chia sẻ máu với ông nữa.”

      “Ông để Diana trải qua nghi thức trụy lạc đó. Hãy với ‘các con’ ông rằng ấy thuộc về ông nếu cần phải thế, nhưng ông được nếm máu của ấy hay của con ấy đâu.”

      “Ta dối những linh hồn nằm trong chăm sóc của ta. Tại sao thế, con trai ta, những bí mật và chiến tranh là lời đáp trả duy nhất con có khi Chúa đặt thử thách trước mặt con ư? Chúng chỉ dẫn đến hủy diệt mà thôi.” Hubbard thốt ra đầy cảm xúc. “Chúa cứu rỗi linh hồn những ai tin vào điều gì đó lớn lao vĩ đại hơn bản thân họ.”

      Trước khi Matthew kịp đáp trả, tôi đặt tay lên cánh tay giữ im lặng.

      “Xin thứ lỗi, Cha Hubbard,” tôi . “Nếu tôi hiểu đúng, những người nhà de Clermont được miễn trừ khỏi cai quản của ông?”

      “Đúng thế, bà Roydon. Nhưng bà phải là người nhà de Clermont. Bà chỉ cưới người nhà họ thôi.”

      “Sai rồi,” tôi vặn lại, vẫn giữ lấy tay áo chồng mình siết chặt. “Tôi là con được nhận bằng lời thề máu của Philippe de Clermont, đồng thời là vợ của Matthew. Tôi hai lần là người de Clermont, và chỉ tôi mà cả con của tôi bao giờ gọi ông là cha.”

      Andrew Hubbard trông sững sờ. Trong khi tôi thầm lặng cầu nguyện phước lành cho Philippe vì ông luôn trước chúng tôi ba bước mà sắp đặt, hai vai Matthew cuối cùng cũng thả lỏng. Dù ở xa tận nước Pháp, nhưng cha lần nữa đảm bảo cho an toàn của họ.

      “Hãy kiểm tra nếu ông muốn. Philippe đánh dấu lên trán tôi đây này,” tôi , chạm tay vào ấn đường giữa hai lông mày nơi con mắt thứ ba của phù thủy. Lúc này đây nó vẫn ngủ ngon lành, lo phiền gì đến những ma cà rồng.

      “Ta tin , bà Roydon,” cuối cùng Hubbard . “ ai cả gan dối điều như thế trong ngôi nhà của Chúa.”

      “Vậy có lẽ ông có thể giúp tôi. Tôi ở London để tìm kiếm giúp đỡ với người nào đó giỏi về phép thuật và thuật phù thủy. Ông giới thiệu ai trong số các con của ông cho nhiệm vụ này?” Lời cầu của tôi xóa sạch nụ cười tươi tắn của Matthew.

      “Diana,” gầm lên.

      “Cha tôi rất vui mừng nếu ông có thể hỗ trợ tôi,” tôi , điềm nhiên phớt lờ .

      “Và vui mừng ấy đến dưới dạng nào?” Anderw Hubbard cũng là ông hoàng thời kỳ Phục Hưng, và rất quan tâm đến việc kiếm về bất cứ thứ gì có thể từ lợi thế chiến lược của mình.

      “Đầu tiên, cha tôi lấy làm vui mừng được nghe về những giờ yên tĩnh của chúng tôi tại nhà mình trong đêm giao thừa,” tôi , đón lấy ánh mắt . “Mọi chuyện khác tôi kể với ông trong bức thư tiếp theo đây tùy thuộc vào vị phù thủy mà ông cử đến Hươu Đực và Vương Miện.”

      Hubbard cân nhắc cầu của tôi. “Tôi bàn bạc về nhu cầu của với các con tôi và quyết định ai có thể phục vụ tốt nhất.”

      “Bất cứ người nào ông ta gửi đến đều là gián điệp cả,” Matthew cảnh cáo.

      cũng là gián điệp mà,” tôi lưu ý. “Em mệt rồi. Em muốn về nhà.”

      “Vụ việc của chúng ta đến đây là xong, Hubbard. Ta tin rằng Diana, cũng như tất cả người nhà de Clermont, ở London là với chấp thuận của ông.” Matthew xoay người để rời đợi câu trả lời.

      “Ngay cả người nhà de Clermont cũng phải cẩn thận trong thành phố này,” Hubbard với theo sau chúng tôi. “Hãy xem và nhớ lấy điều đó, bà Roydon.”

      Matthew và Gallowglass thầm suốt quãng đường về nhà, nhưng tôi chỉ im lặng. Tôi từ chối giúp đỡ khi ra khỏi thuyền và bắt đầu leo lên Hẻm Water mà đợi bọn họ. Dù vậy, Pierre vẫn trước tôi khi đến con đường vào Hươu Đực và Vương Miện, còn Matthew ở sát bên cạnh tôi. Vào nhà, Walter và Henry đợi. Họ đứng bật dậy.

      “Tạ ơn Chúa,” Walter .

      “Chúng tôi đến ngay khi nghe các vị cần. George ốm bệt giường, và cả Kit lẫn Tom đều tìm thấy đâu,” Henry giải thích, ánh mắt nhìn phóng qua phóng lại giữa tôi và Matthew cách lo lắng.

      “Tôi xin lỗi gọi hai người. Báo động của tôi vội vàng quá,” Matthew , chiếc áo choàng quấn quanh chân khi cởi nó ra khỏi vai.

      “Nếu nó liên quan đên dòng tu…” Walter bắt đầu, mắt nhìn chiếc áo choàng.

      đâu,” Matthew đảm bảo với ta.

      “Nó liên quan đến tôi,” tôi . “Và trước khi các sáng tạo ra kế hoạch bất hạnh nào khác, hãy hiểu điều này: Các phù thủy là chuyện của tôi. Matthew bị theo dõi, và chỉ bởi Andrew Hubbard thôi đâu.”

      “Chú quen với chuyện đó rồi,” Gallowglass cộc cằn . “Chả để tâm đến những kẻ trố mắt nhìn ấy đâu, ạ.”

      “Em cần tìm thầy giáo của mình, Matthew,” tôi . Bàn tay tôi run run trượt xuống bụng mình. “ có phù thủy nào chia sẻ những bí mật của ta chừng nào bất cứ ai trong các còn dính líu vào. Mọi người bước vào ngôi nhà này là wearth, triết gia, cũng là gián điệp. Điều này có nghĩa, trong mắt người của tôi, có bất cứ ai trong các có thể gò ép chúng tôi vào dưới quyền uy cả. Berwick có vẻ xa xôi, nhưng cơn hoang mang lo lắng lan rộng.”

      Ánh nhìn chằm chặp của Matthew buốt giá, nhưng ít nhất lắng nghe.

      “Nếu ra lệnh cho phù thủy đến đây, có người đến. Matthew Roydon luôn có được theo cách riêng của mình. Nhưng thay vì giúp đỡ, em có được màn trình diễn khác giống của bà góa Beaton. Đó phải điều em muốn.”

      cần giúp đỡ của Hubbard ít hơn chắc,” Hancock chua chát .

      “Chúng ta có nhiều thời gian,” tôi nhắc Matthew nhớ. Hubbard biết rằng đứa bé là con của Matthew, Hancock và Gallowglass nhận thấy những thay đổi trong mùi của tôi – ít nhất là vẫn chưa. Nhưng những việc xảy ra tối này cho thấy tình trạng bấp bênh của chúng tôi.

      “Được rồi, Diana. Chúng ta để các phù thủy cho em. Nhưng dối nhé,” Matthew , “và cũng có bí mật gì cả. người có mặt trong căn phòng này lúc nào cũng phải biết được em ở đâu.”

      “Matthew, cậu thể…” Walter phản đối.

      “Tôi tin tưởng phán quyết của vợ mình,” Matthew chắc nịch.

      “Đó cũng là điều Philippe với bà nội”, Gallowglass lầu bầu trong miệng. “Ngay trước khi địa ngục vỡ òa.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      19.

      “Nếu địa ngục trông giống thế này,” Matthew lầm bầm, tuần sau cuộc đối đầu với Hubbard, “ Gallowglass thất vọng lắm đấy.”

      chỉ có ít lửa và lưu huỳnh cùng phù thủy mười bốn tuổi đứng trước mặt chúng tôi thôi.

      “Suỵt,” tôi , đứa trẻ nhạy cảm ở tuổi đó có thể rất tò mò. “Cha Hubbard có giải thích cho cháu tại sao cháu ở đây , Annie?”

      “Có thưa bà,” Annie khổ sở đáp. khó mà được là phòng khách của này là kết quả từ những sắc màu tự nhiên của ấy hay đó là kết hợp giữa nỗi sợ hãi và thiếu dinh dưỡng. “Cháu phục vụ và tháp tùng bà trong thành phố khi bà có việc.”

      , đó phải thỏa thuận của chúng tôi,” Matthew mất kiên nhẫn , đôi ủng của nặng nề giậm xuống sàn gỗ. Annie ngần ngại. “ có sức mạnh hay kiến thức nào để lý giải , hay Hubbard đùa giỡn hả?”

      “Cháu có rất ít kỹ năng,” Annie lắp bắp, đôi mắt xanh nhạt của bé tương phản với làn da trắng bệch. “Nhưng cháu cần chỗ, và Cha Hubbard …”

      “Ồ, ta có thể tưởng tượng được Cha Hubbard gì,” Matthew khịt mũi khinh khỉnh. Ánh nhìn tôi tặng cho chứa đủ ý cảnh cáo khiến chớp mắt rồi im lặng.

      “Hãy cho cơ hội giải thích,” tôi lạnh lùng bảo trước khi tặng cho nụ cười khích lệ. “Tiếp , Annie.”

      “Để phục vụ bà, Cha Hubbard bảo cháu đưa bà đến chỗ dì cháu khi dì ấy trở về London. Dì ấy bên người ở cữ và từ chối rời khỏi trong khi người phụ nữ đó vẫn cần dì.”

      “Dì của cháu là bà đỡ đồng thời là phù thủy à?” Tôi nhàng hỏi.

      “Vâng, thưa bà. bà đỡ tốt và phù thủy quyền năng,” Annie cách đầy tự hào, vươn thẳng sống lưng. Khi bé làm thế, chiếc váy quá ngắn để lộ mắt cá chân trần của bé trong thời tiết lạnh giá. Andrew Hubbard cho các con trai ông ta mặc diện và ấm áp, nhưng các con chẳng nhận được quan tâm như thế. Tôi làm dịu khó chịu của mình. Françoise phải tạm gác việc khâu vá của ấy lại rồi.

      “Và làm sao cháu lại gia nhập vào gia đình của Cha Hubbard thế?”

      “Mẹ cháu phải là phụ nữ đức hạnh,” Annie lí nhí , vặn vẹo hai bàn tay trong chiếc áo khoác mỏng dính. “Cha Hubbard tìm thấy cháu trong hầm mộ của nhà thờ Thánh Anne gần Aldersgate, mẹ cháu chết bên cạnh cháu. Dì cháu lúc đó vừa mới kết hôn và nhanh chóng có những đứa con của dì. Cháu sáu tuổi. Chồng của dì muốn cháu được nuôi dưỡng cùng các con trai của ông ấy vì sợ cháu làm họ hư hỏng bằng độc ác của cháu.”

      Vậy Annie, giờ là thiếu nữ, ở cùng Hubbard hơn nửa cuộc đời rồi. Ý nghĩ ấy ớn lạnh, và cái ý tưởng đứa trẻ sáu tuổi có thể làm hư hỏng người nào đấy lại càng hiểu nổi, nhưng câu chuyện này lý giải cả vẻ khốn khổ của bé lẫn cái tên kỳ dị của : Annie Hầm Mộ.

      “Trong khi Françoise lấy cho cháu thứ gì đó để ăn, có thể chỉ cho cháu chỗ ngủ nhé.” Tôi lên tầng ba sáng hôm đó để kiểm tra chiếc giường , chiếc ghế đẩu ba chân, và cái tủ búp phê cũ mòn được đặt bên để chứa đồ tùy thân cho phù thủy này. “ giúp cháu mang đồ đạc.”

      “Thưa bà?” Annie bối rối thốt lên.

      mang gì cả,” Françoise , ném ánh mắt đồng tình về phía thành viên mới nhất trong nhà.

      sao. có đủ đồ dùng sớm thôi.” Tôi mỉm cười với Annie, bé trông có vẻ bất an.

      Françoise và tôi dành mấy ngày cuối tuần để đảm bảo Annie sạch như cây sáo, được ăn mặc và giày đàng hoàng, và để bé có đủ kiến thức toán học cơ bản nhằm thực vài việc mua bán nho cho tôi. Để kiểm tra, tôi cử bé tới hiệu pha chế dược gần nhà để mua vài cây bút lông giá khoảng xu và nửa bảng mua xi gắn thư (Philippe đúng: Matthew dùng vật phẩm văn phòng với tốc độ kinh hoàng), và bé trở lại ngay lập tức với tiền thừa trả lại.

      “Ông ta muốn si–linh cơ!” Annie phàn nàn. “Cái thứ sáp ấy thậm chí làm nến cũng tốt, đúng ?”

      Pierre đột nhiên thấy thích này, và nhận lấy nghĩa vụ gợi ra nụ cười ngọt ngào hiếm hoi từ Annie mỗi khi có thể. ta dạy bé cách chơi dây và tình nguyện dạo cùng bé vào ngày Chủ Nhật khi Matthew ném ra những lời ám chỉ khá lộ liễu rằng muốn chúng tôi được ở riêng trong vài giờ.

      ta … lợi dụng bé chứ?” Tôi hỏi Matthew khi cởi khuy những món quần áo thích của tôi: chiếc áo chẽn tay của con trai làm từ len đen loại tốt tôi mặc nó với chân váy và chiếc áo khoác ngoài khi ở nhà.

      “Pierre ư? Chúa nhân từ, .” Matthew vẻ mặt buồn cười.

      “Đó là câu hỏi bình thường thôi mà.” Mary Sidney cũng chẳng lớn hơn là mấy khi ấy kết hôn với người đặt giá cao nhất.

      “Và cho em câu trả lời thành còn gì. Pierre lên giường với những trẻ.” Hai tay vẫn để yên sau khi giải phóng cái khuy áo cuối cùng. “Đây ngạc nhiên thú vị. Em mặc coóc–xê.”

      “Nó thoải mái, và em mang em bé mà.”

      nhấc chiếc áo chẽn ra khỏi người tôi với thanh tán thưởng.

      “Và ta giữ cho những gã đàn ông khác quấy rối bé chứ?”

      “Liệu cuộc trò chuyện này có thể đợi lát nữa được ?” Matthew , cơn bực bội của thể . “Vì trời lạnh, nên bọn họ lâu đâu.”

      rất nôn nóng khi ở trong phòng ngủ nhé,” tôi nhận xét, trượt hai bàn tay lùa vào bên trong cổ áo sơ mi của .

      à?” Matthew nhướng cong đôi lông mày quý tộc vẻ nhạo báng tin. “Và ở đây nghĩ vấn đề chính là kiềm chế đáng ngưỡng mộ của đấy chứ.”

      dành mấy tiếng đồng hồ sau đó để thể cho tôi thấy kiên nhẫn của có thể kéo dài bất tận đến thế nào trong ngôi nhà vắng vẻ vào ngày Chủ Nhật. Đến khi mọi người trở về, cả hai chúng tôi vui sướng mà kiệt sức và trong tâm trạng tốt hơn rất nhiều.

      Tuy nhiên, mọi thứ trở lại như bình thường vào ngày thứ Hai. Matthew bị làm phiền và bực dọc ngay khi những lá thư đầu tiên đến lúc bình minh, và gửi lời cáo lỗi tới nữ bá tước Pembroke khi ràng các bổn phận của rất nhiều công việc cho phép tháp tùng tôi tới bữa trưa.

      Mary lắng nghe mà lấy làm ngạc nhiên khi tôi giải thích lý do vắng mặt của Matthew, rồi chớp mắt nhìn Annie giống như con cú hòa nhã tò mò, sau đó gửi bé tới phòng bếp dưới chăm sóc của Joan. Chúng tôi chia sẻ bữa trưa ngon miệng, suốt bữa ăn Mary cung cấp những báo cáo chi tiết về đời sống riêng tư của mọi người sống quanh khu Blackfriars. Tiếp đó, chúng tôi rút lui vào phòng thí nghiệm của ấy cùng với Joan và Annie làm phụ tá.

      “Chồng của thế nào rồi, Diana?” Nữ bá tước hỏi, xắn tay áo lên, hai mắt rời cuốn sách trước mặt.

      “Sức khỏe tốt,” tôi đáp. Đấy, tôi học được rồi, là cách tương đương với từ ‘Tốt’ trong thời đại Elizabeth.

      “Đó là tin tức đáng mừng.” Mary quay lại và khuấy thứ gì đó trông có vẻ độc hại và mùi tệ. “Tôi sợ là điều đó phụ thuộc rất nhiều đấy. Nữ hoàng trông cậy vào ấy nhiều hơn bất cứ người đàn ông nào trong vương quốc này ngoại trừ Đức ngài Burghley.”

      “Tôi ước gì tính hài hước vui vẻ của ấy tin hơn chút. Matthew dạo này đồng bóng lắm. Lúc chiếm hữu, lúc lại phớt lờ tôi như thể tôi là thứ đồ đạc nào đó ấy.”

      “Đàn ông vẫn đối xử với tài sản của họ theo cách ấy.” ấy cầm lên cái bình nước.

      “Tôi phải tài sản của ấy,” tôi đáp thẳng thừng.

      “Điều và tôi biết, điều luật pháp , và cách bản thân Matthew cảm thấy là ba phạm trù hoàn toàn tách biệt.”

      “Họ đáng lẽ nên như thế,” tôi nhanh, sẵn sàng tranh luận về quan điểm này. Mary làm tôi nín lặng bằng nụ cười dịu dàng cam chịu.

      và tôi có được khoảng thời gian dễ dàng cùng với chồng của mình hơn những người phụ nữ khác, Diana ạ. Chúng ta có sách vở và thời gian rảnh rỗi nuông chiều cho những say mê của mình, tạ ơn Chúa. Hầu hết bọn họ được thế.” Mary cho mọi thứ trong cốc vại vào lần khuấy cuối cùng và gạt những thứ bên trong vào chiếc bình thủy tinh khác.

      Tôi nghĩ đến Annie: người mẹ chết độc trong hầm mộ của nhà thờ, người dì thể nhận bé bởi vì định kiến của chồng bà, cuộc sống hứa hẹn rất ít thoải mái hay hy vọng. “ có dạy cho những người hầu biết đọc ?”

      “Dĩ nhiên rồi,” Mary trả lời ngay lập tức. “Họ cũng học viết và cách tính toán nữa. Những kỹ năng như thế khiến họ có giá trị hơn đối với người chồng tốt – người thích kiếm tiền cũng như tiêu tiền.” Nữ bá tước gật đầu ra hiệu với Joan, người giúp ấy di chuyển trái bong bóng thủy tinh mỏng manh chứa đầy các chất hóa học tới chỗ bếp lửa.

      “Rồi Annie cũng học được thôi,” tôi , gật đầu với bé. bé ở chỗ khuất bóng, trông như hồn ma với gương mặt nhợt nhạt và mái tóc bạch kim. giáo dục làm tăng lên tự tin của bé. bé có dáng điệu dịu dàng thấy trong mỗi bước ngay cả khi mặc cả với ông de Laune giá của xi gắn thư.

      “Tương lai có lý do để cảm ơn vì điều đó,” Mary . Gương mặt nghiêm túc. “Phụ nữ chúng ta tuyệt đối chẳng có được thứ gì, ngoại trừ những lời dối trá trong tai mình. Phẩm hạnh của chúng ta trước tiên phụ thuộc vào cha mình, rồi đến chồng mình. Chúng ta chu toàn bổn phận với gia đình. Ngay cả khi chúng ta chia sẻ những ý nghĩ với người khác, đặt bút viết hay khâu mũi kim, tất cả những điều chúng ta làm đều thuộc về ai đó. Chừng nào bé biết ăn và suy nghĩ, Annie luôn sở hữu được điều gì đó là của riêng mình.”

      “Giá như là đàn ông, Mary,” tôi lắc đầu . Nữ Bá tước Pembroke có thể rung lên hồi chuông thức tỉnh với hầu hết các sinh vật, bất kể giới tính của họ.

      “Nếu là đàn ông, tôi như trạng của mình bây giờ, hoặc vào chầu Nữ Hoàng Bệ Hạ trong triều như Henry, hay theo dõi các vụ như Matthew. Thay vì tôi ở đây trong phòng thí nghiệm của mình với . Cân đo đong đếm và cân bằng tất cả, tôi tin cứ như chúng ta là tốt hơn hết thảy – dù đôi khi chúng ta được đặt lên bệ tôn sùng hay sa cơ ngồi trong góc bếp.” Đôi mắt tròn của Mary long lanh tinh quái.

      Tôi cười. “Có lẽ đúng đấy.”

      bao giờ vào triều chưa, nghi ngờ gì kết quả này. Đến đây nào,” Mary , quay trở lại với thí nghiệm của mình. “Giờ chúng ta đợi trong khi prima material bị lộ ra dưới sức nóng. Nếu chúng ta làm tốt, đây là thứ sinh ra đá tạo vàng. Chúng ta có thể tiếp tục hy vọng rằng thí nghiệm thành công.”

      Tôi thường đánh mất khái niệm thời gian khi xung quanh chất mấy cuốn cổ thư về thuật giả kim, nên mãi khi khi Matthew và Henry vào phòng thí nghiệm, tôi mới giật mình. Mary và tôi bị cuốn sâu vào cuộc chuyện về những hình ảnh trong bộ sưu tập những văn bản giả kim thuật được biết đến với cái tên the Pretiosa Margarita Novella – the New Pearl of Great Price. là chiều muộn rồi sao?

      “Chưa thể nào đến giờ được. Chưa đâu,” tôi phản đối. “Mary có cuốn cổ thư này…”

      “Matthew biết cuốn sách này, vì trai ấy tặng nó cho tôi. Giờ Matthew người vợ thông thái, chắc có lẽ ấy thấy tiếc là làm thế rồi,” Mary cười . “Có đồ ăn uống đợi sẵn trong phòng sưởi nắng đấy. Tôi hy vọng được gặp hai người hôm nay.” Đến đây, Henry tặng Mary cái nháy mắt bí .

      tử tế, Mary,” Matthew , hôn lên má tôi thay cho lời chào. “Thực ra hai người vẫn chưa đạt tới được giai đoạn lên men. Các vị vẫn có mùi axit sunfat và magie cacbonat.”

      Tôi miễn cưỡng đặt quyển sách xuống và rửa tay trong khi Mary hoàn thành nốt những ghi chép cho ngày làm việc hôm nay. Khi chúng tôi an vị trong phòng sưởi nắng, Henry thể kiềm chế phấn khích của mình.

      “Giờ đến lúc rồi nhỉ, Mary?” chàng hỏi nữ bá tước, nhấp nhổm yên chiếc ghế của mình.

      “Nhóc William cũng hào hứng với các món quà y như bây giờ đấy,” Mary cười đáp. “Henry và tôi có món quà nhân dịp năm mới và mừng cuộc hôn nhân của các bạn.”

      Nhưng chúng tôi chẳng có gì để đáp lễ cả. Tôi nhìn sang Matthew, thoải mái với trao đổi chiều thế này.

      cầu cho em gặp may mắn, Diana, nếu em hy vọng dẫn trước Mary và Henry khi liên quan đến vấn đề quà cáp,” ảo não .

      “Vớ vẩn,” Mary đáp. “Matthew cứu sống trai Philip của tôi và điền sản của Henry. có món quà nào có thể đền đáp được những món nợ như thế. Đừng có phá hủy niềm vui của chúng tôi bằng cái kiểu chuyện ấy. Tặng quà cho những cặp vợ chồng mới cưới là truyền thống, và đây lại là năm mới nữa chứ. tặng cho nữ hoàng cái gì, hả Matthew?”

      “Sau khi người gửi cho Đức Vua James tội nghiệp cái đồng hồ khác để nhắc nhở ông ta lặng lẽ chờ đợi cơ hội tốt, tôi cân nhắc đến việc tặng nữ hoàng chiếc đồng hồ pha lê. Tôi nghĩ nó có thể là thứ nhắc nhở hữu ích về sinh tử của người,” lạnh nhạt .

      Henry nhìn kinh hãi. “. phải chứ.”

      “Đó là ý nghĩ nông nổi trong thoáng vỡ mộng thôi,” Matthew tái cam đoan với ta. “Tôi tặng người cái cốc được phủ kín, dĩ nhiên, giống mọi người khác.”

      “Đừng quên món quà của chúng ta, Henry,” Mary , giờ khá mất kiên nhẫn rồi.

      Henry kéo ra cái túi bằng nhung và tặng nó cho tôi. Tôi lóng ngóng với mấy sợi dây và cuối cùng cũng lôi ra được chiếc mề đay nặng trịch bằng vàng có trọng lượng tương đương với sợi xích. Mặt của nó là đồ chạm lộng bằng vàng nạm những viên ruby và kim cương, mặt trăng và ngôi sao của Matthew ở vị trí trung tâm. Tôi lật cái mặt lên, thở gấp trước bức vẽ tuyệt tác lớp men với những đóa hoa và những cành cây leo cuộn lại. Tôi cẩn thận mở cái móc ở dưới đáy, và bức tiểu họa của Matthew nhìn lên tôi.

      “Ông Hilliard vẽ phác họa sơ sơ khi ấy ở đây. Vào dịp nghỉ lễ này ông ấy bận rộn đến nỗi trợ lý Isaac của ông ấy phải giúp hoàn thành bức vẽ,” Mary giải thích.

      Tôi nâng niu bức tiểu họa trong tay mình, nghiêng nó sang bên này rồi lại bên kia. Matthew được vẽ như khi ở nhà làm việc đêm khuya trong phòng làm việc xa phòng ngủ. Chiếc áo sơ mi mở cổ và được viền đăng ten, đón ánh nhìn say đắm của người xem bằng cái nhướng lông mày bên phải trong dáng vẻ quen thuộc kết hợp giữa nghiêm túc và bộ dạng hài hước châm chọc. Mái tóc đen được chải ngược từ trán ra sau trong kiểu lộn xộn đặc trưng, và những ngón tay thon dài của bàn tay trái nắm cái mặt mề đay. hình ảnh gợi tình và bộc trực đến kinh ngạc với thời đại này.

      thích chứ?” Henry hỏi.

      “Tôi nó,” tôi đáp, thể ngừng nhìn chăm chăm vào kho báu mới của mình.

      “Isaac khá hơn… dám đương đầu với sáng tạo hơn ông chủ của ta, nhưng khi tôi bảo với ta nó là món quà cưới, ta thuyết phục tôi rằng cái mặt mề đay như thế lưu giữ bí mật đặc biệt của người vợ và có thể tiết lộ cho người đàn ông bí mật hơn là công khai.” Mary nhìn qua vai tôi. “Nó bức chân dung tuyệt đẹp, nhưng tôi ước gì ông Hilliard biết cách bắt được dáng vẻ cái cằm tốt hơn.”

      “Nó hoàn hảo mà, tôi luôn luôn nâng niu nó như báu vật.”

      “Cái này là cho ,” Henry , đưa cho Matthew cái túi tương tự. “Hilliard cảm thấy có thể trưng nó ra cho người khác thấy và đeo nó khi vào triều, vậy nên nó có phần à… thận trọng hơn.”

      “Cái mặt mề đay Matthew cầm trong đó là bức tiểu họa của tôi à?” Tôi hỏi, chỉ vào viên đá màu sữa ngà đặc biệt đặt trong cái khung bằng vàng đơn giản.

      tin vậy,” Matthew nhàng đáp. “Nó là viên đá mặt trăng ư, Henry?”

      mẫu vật cổ xưa,” Henry tự hào . “Nó ở trong những đồ vật quý hiếm của tôi đấy, và tôi muốn có nó. Mọi người xem, hình ảnh chạm chìm của nữ thần Diana.”

      Bức tiểu họa bên trong còn đáng trân trọng hơn, nhưng kinh ngạc ở gần gũi của nó. Tôi mặc chiếc váy dài màu nâu đỏ viền nhung đen. cái cổ áo xếp nếp tinh tế đóng khung khuôn mặt tôi nhưng phủ những viên ngọc trai sáng dưới cổ. Mái tóc tôi buông xõa tự do qua hai vai và lưng tôi với những lọn quăn màu đỏ vàng kim hoang dại.

      “Nền xanh lam phía sau làm nổi bật đôi mắt của Diana. Và khuôn miệng ấy mới sống động.” Matthew cũng bị choáng ngợp trước món quà này.

      “Tôi nhờ làm cái khung,” Mary , ra hiệu cho Joan, “để bày khi chúng được đeo người.” Nó là chiếc hộp nông, với hai hình oval đặt thành hốc được bao quanh bằng nhung đen. Hai bức tiểu họa vừa khít hoàn hảo bên trong và làm tăng thêm nổi bật cho cặp tranh chân dung.

      “Mary và Henry tâm lý khi tặng chúng mình món quà như thế,” Matthew sau đó, khi chúng tôi về đến Hươu Đực và Vương Miện. vòng hai cánh tay ôm lấy tôi từ phía sau và đặt hai bàn tay bụng tôi. “ thậm chí còn có thời gian để bức hình của em. chưa bao giờ tưởng tượng được rằng chân dung đầu tiên của em mà sở hữu lại được Nicholas Hilliard vẽ.”

      “Những bức chân dung tuyệt đẹp,” tôi , để tay mình phủ lên hai tay .

      “Nhưng…?” Matthew kéo người ra và nghiêng đầu.

      “Những bức tiểu họa do Nicholas Hilliard được săn tìm, Matthew ạ. Chúng biến mất khi chúng ta biến mất. Và chúng quá tinh xảo, em nỡ phá hủy sau khi chúng mình rời .” Thời gian giống như chiếc cổ áo xếp nếp của tôi: nó bắt đầu như tấm vải dệt mềm mại, thẳng thớm. Rồi nó bị xoắn lại, bị cắt rồi tạo thành mặt sau gập đôi cả chính nó. “Chúng ta vẫn liên kết với quá khứ theo những con đường để lại dấu vết mờ nhạt đâu đó ở tại.”

      “Có lẽ đó là điều chúng ta được định để thực ,” Matthew gợi ý. “Có thể tương lai phụ thuộc vào nó.”

      “Em hiểu làm cách nào.”

      phải bây giờ. Nhưng có thể chúng mình nhìn lại vào ngày nào đó và phát ra nó là những bức tiểu họa được làm ra hoàn toàn khác.” tủm tỉm cười.

      “Vậy hãy tưởng tượng cuốn Ashmole 782 tìm kiếm thế nào.” Tôi ngước lên nhìn . Nhìn những cuốn sách về thuật giả kim được trang trí rực rỡ của Mary lại khiến tôi nghĩ đến cuốn sách bí tìm kiếm vô vọng của chúng tôi. “George may mắn khi tìm kiếm ở Oxford, nhưng nó phải ở đâu đó nước này. Ashmole kiếm được cuốn cổ thư từ người nào đó. Thay vì tìm kiếm cuốn sách, chúng ta nên tìm người bán nó cho ông ta.”

      “Thời đại cổ thư lưu thông đều đặn. Ashmole 782 có thể ở bất cứ đâu.”

      “Hoặc nó có thể ở ngay đây,” tôi khăng khăng.

      “Có lẽ em đúng,” Matthew đồng ý. Nhưng tôi rằng tâm trí đặt ở những mỗi bận tâm thời hơn là cuốn sách hay lảng tránh của chúng tôi. “ cử George ra ngoài để hỏi thăm những người bán sách.”

      Tuy nhiên, mọi ý nghĩ về Ashmole 782 bay biến mất vào sáng hôm sau khi lời nhắn của dì Annie đến nơi, bà đỡ thành công nổi tiếng. Bà quay lại London.

      “Phù thủy này đến ngôi nhà của wearth kiêm gián điệp khét tiếng,” Matthew thông báo sau khi đọc nội dung bức thư. “Chồng bà ấy phản đối kế hoạch này, vì sợ nó phá hủy danh tiếng của ông ta. Chúng ta đến nhà bà ấy ở gần nhà thờ Thánh James đồi Garlic.” Tôi phản ứng, Matthew cau có và tiếp tục. “Nó ở phía bên kia thành phố, trong khoảng cách nhổ nước miếng là tới từ chỗ hang ổ của Andrew Hubbard.”

      là ma cà rồng,” tôi nhắc nhở . “Bà ấy là phù thủy. Chúng ta được cho là thể hòa hợp. Chồng của phù thủy này đúng khi cẩn trọng.”

      Dù thế nào, Matthew khăng khăng tháp tùng Annie và tôi băng qua thành phố. Khu vực quanh nhà thờ Thánh James phồn thịnh hơn khu Blackfriars, với những con phố rộng rãi, được giữ gìn tốt, những ngôi nhà lớn, cửa hàng bận rộn, và sân nhà thờ ngăn nắp, gọn gàng. Annie dẫn chúng tôi vào con ngõ bên kia nhà thờ. Dù tối tăm, nhưng nó vẫn gọn gàng.

      “Ở kia kìa, ông Roydon,” . bé hướng chú ý của Matthew tới tấm biển có hình cái cối xay gió trước khi phóng lên trước Pierre để báo cho người nhà chúng tôi tới.

      phải ở lại đâu,” tôi bảo Matthew. Lần viếng thăm này đủ căng thẳng mà cần có quẩn quanh và gầm gào ở đó.

      đâu cả,” đáp gì lay chuyển.

      Chúng tôi gặp ở cửa phụ nữ có khuôn mặt tròn trịa với cái mũi hếch, cái cằm mềm mại, và đôi mắt cùng mái tóc nâu đậm. Gương mặt bà bình thản, mặc dù đôi mắt ánh lên tia bực bội. Bà ta chặn Pierre dừng lại. Chỉ có Annie được chấp nhận vào nhà và đứng bên lối cửa trông mất hết tinh thần trước tình thế bế tắc này.

      Tôi cũng dừng lại, miệng há ra vì ngạc nhiên. Dì của Annie là hình ảnh giống y hệt Sophie Norman, tinh trẻ tuổi mà chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt ở ngôi nhà Bishop tại Madison.

      “Dieu,” Matthew lẩm bẩm, nhìn xuống tôi trong dáng vẻ ngạc nhiên.

      “Dì của cháu, Susanna Norman ạ,” Annie thầm. Phản ứng của chúng tôi làm bé bất an. “Dì …”

      “Susanna Norman ư?” Tôi hỏi, thể rời mắt khỏi khuôn mặt bà. Tên bà và diện mạo tương tự với Sophie thể nào là ngẫu nhiên được.

      “Như cháu tôi . Bà có vẻ ở đúng trong môi trường của mình, bà Roydon,” bà Norman . “Và ông được chào đón ở đây, wearth ạ.”

      “Bà Norman,” Matthew cúi chào.

      “Các người nhận được thư của tôi sao? Chồng tôi muốn liên quan gì với các người cả.” Hai đứa bé trai phóng ra khỏi cửa. “Jeffrey! John!”

      “Đây là ta ư?” Đứa lớn hơn hỏi. Cậu nhóc quan sát Matthew với vẻ hứng thú, rồi chuyển chú ý sang tôi. Đứa bé này có sức mạnh. Mặc dù cậu nhóc mới chớm bước vào tuổi thiếu niên, nhưng các năng lực của nó có thể được cảm nhận trong tiếng rạn lách tách của sức mạnh phép thuật chưa bị rèn giũa vào khuôn phép.

      “Hãy dùng tài năng Chúa ban cho con, Jeffrey, và đừng có hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn.” Nữ phù thủy nhìn tôi đánh giá. “ chắc chắn khiến Cha Hubbard ngạc nhiên và bận tâm. Rất tốt, hãy vào trong .” Khi chúng tôi nhích người làm theo, Susanna giơ bàn tay lên. “ phải ông, wearth. Việc của tôi là với vợ ông. Quán Ngỗng Non Vàng có rượu tử tế đấy, nếu ông quyết ý muốn ở gần đây. Nhưng tốt hơn cho tất cả nếu ông để cho người của ông gặp lại bà Roydon ở nhà.”

      “Cảm ơn lời khuyên của bà. Tôi chắc mình tìm được thứ gì đó thỏa mãn tại quán trọ. Pierre đợi trong sân. ta ngại trời lạnh đâu.” Matthew tặng bà ta nụ cười hung ác như sói.

      Susanna trông có vẻ cáu kỉnh và quay nhanh. “ nào, Jeffrey,” bà gọi với qua vai. Jeffery ra lệnh cho đứa em trai, liếc mắt nhìn Matthew thích thú, rồi theo sau. “Khi nào bà sẵn sàng, bà Roydon.”

      “Em thể tin được,” tôi thầm ngay khi nhà Norman khuất khỏi tầm nhìn. “Bà ấy hẳn phải là bà cố của Sophie nhiều đời trước.”

      “Sophie chắc phải là hậu duệ đời sau của Jeffrey hoặc John.” Matthew đăm chiêu vuốt cằm. “ trong những thằng bé là mắt nối thất lạc trong chuỗi các tình huống của chúng ta dẫn đến Kit và quân cờ bằng bạc đưa đến nhà Norman và tới Nam Carolina.”

      “Tương lai tự chăm lo cho chính nó,” tôi .

      nghĩ nó là thế. Còn giờ, Pierre ở ngay đây và ở gần thôi.” Những đường nét đẹp đẽ bao quanh đôi mắt như sâu thêm. ấy chẳng muốn ở cách xa tôi đến mười lăm phân ấy chứ.

      “Em chắc chuyện này kéo dài bao lâu,” tôi , nắm chặt cánh tay .

      sao cả,” Matthew đảm bảo với tôi, cọ môi vào môi tôi. “Hãy ở lại đây lâu như em thấy cần.”

      Vào tới nhà, Annie vội vàng đón lấy áo choàng của tôi và trở về bên lò sưởi, nơi lom khom làm gì đó ngọn lửa.

      “Cẩn thận đó, Annie,” Susanna , tiếng nghe có vẻ bị làm phiền. Annie cẩn thận nâng cái chảo nông từ chiếc kiềng kim loại đặt bên than lửa hồng. “Con của bà góa Hackett cầu khô ráo để giúp cho giấc ngủ của nó, và nguyên liệu này rất đắt tiền đấy.”

      “Con thể nhìn ra bà ấy, mẹ ạ,” Jeffrey nhìn tôi . Đôi mắt tinh ranh của đứa bé còn quá như thế khiến người ta bối rối.

      “Mẹ cũng , Jeffery, mẹ thấy. Nhưng có lẽ đó là lý do vì sao bà ấy ở đây. Hãy đưa em con vào phòng kia . Và im lặng nhé. Cha con ngủ, ông ấy cần được yên tĩnh.”

      “Vâng, thưa mẹ.” Jeffrey vơ lấy hai lính bằng gỗ và con thuyền từ bàn. “Lần này để em làm Walter Raleigh thế nên em có thể thắng trận,” cậu nhóc hứa hẹn với em trai.

      Susanna và Annie nhìn tôi chằm chằm trong im lặng tiếp sau đó. Sức mạnh mờ nhạt của Annie quen thuộc. Nhưng tôi chưa chuẩn bị cho những dòng truy vấn đều đặn mà Susanna hướng tới tôi. Con mắt thứ ba của tôi mở ra. Cuối cùng cũng có người nào đó khuấy động hiếu kỳ của phù thủy trong tôi.

      thoải mái,” tôi , quay đầu để phá vỡ căng thẳng trong cái nhìn chăm chú của Susanna.

      “Đúng thế,” bà ta bình tĩnh . “Tại sao bà cầu giúp đỡ của tôi, thưa bà?”

      “Tôi bị yểm bùa thôi miên. phải như cháu nghĩ đâu,” tôi khi Annie ngay lập tức bước tránh xa tôi. “Cả bố và mẹ tôi đều là phù thủy nhưng ai trong hai người hiểu được bản chất sức mạnh của tôi. Họ muốn tôi gặp nguy hiểm, nên họ trói buộc tôi. Tuy nhiên những sợi dây trói buộc ấy bị lỏng, và nhiều chuyện lạ lùng xảy ra.”

      “Chẳng hạn như?” Susanna hỏi, chỉ Annie vào chiếc ghế.

      “Tôi gọi được nước phù thủy vài lần, mặc dù gần đây . Đôi khi tôi có thể nhìn thấy những màu sắc bao quanh mọi người, nhưng thường xuyên. Và tôi chạm vào quả mộc qua, nó héo quắt . Tôi cẩn thận đả động đến những cơn bộc phát phép thuật ngoạn mục của mình. Cũng nhắc tới những sợi màu xanh lục và hổ phách kỳ quái trong các góc phòng hoặc cách mà chữ viết tay bắt đầu thoát ra khỏi những cuốn sách của Matthew và mấy con bò sát phóng ra từ đôi giày của Mary Sidney.

      “Cha hay mẹ bà là phù thủy gọi nước ư?” Susanna hỏi, cố gắng hiểu câu chuyện của tôi.

      “Tôi biết,” tôi thành . “Họ chết khi tôi còn .”

      “Có lẽ bà thích hợp hơn cả với hội đồng phù thủy. Mặc dù nhiều phủ thủy ước ao sở hữu những pháp thuật thô lậu liên quan đến nước và lửa, nhưng chúng đến dễ dàng,” Susanna với thoáng tiếc nuối. Dì Sarah của tôi nghĩ các phù thủy dựa vào phép thuật có các thành tố tự nhiên là những tay tài tử. Mặt khác, Susanna có xu hướng xem bùa chú như một thứ phạm pháp. Tôi thở ra một hơi dài trước những ̣nh kiến kỳ dị này. phải tất cả chúng ta đều là phủ thủy sao?

      “Dù tôi được dạy nhiều bùa chú. Nhưng đôi khi tôi có thể thắp sáng một cây nến. Tôi đã có thể gọi đồ vật đến với mình.”

      “Nhưng bà là một phụ nữ trưởng thành mà!” Susanna nói, hai bàn tay chống nạnh. “Ngay cả Annie cũng còn có nhiều kỹ năng hơn thế, mà con bé mới chỉ mười bốn tuổi. Bà có thể pha chế bùa từ thực vật ?”

      .” Dì Sarah đã muốn tôi học cách làm thuốc độc, nhưng tôi đã từ chối.

      “Bà là một người chữa bệnh à?”

      .” Tôi bắt đầu hiểu vẻ mặt hăm dọa của Annie.

      Susanna thở dài. “Tôi biết tại sao Andrew Hubbard lại cầu sự hỗ trợ của tôi. Tôi có khá đủ các bệnh nhân rồi, thêm một ông chồng ốm yếu và hai đứa con trai lớn nữa chứ.” Bà lấy một cái tô mẻ từ giá và một quả trứng vỏ nâu từ vỉ bên cửa sổ. Bà đặt cả hai thứ lên bàn trước mặt tôi và kéo ghế ra. “Ngồi , và kẹp hai bàn tay bà dưới đùi.”

      Mù mịt hiểu, tôi vẫn làm theo như cầu.

      “Annie và tôi sẽ đến nhà bà góa Hackett. Trong khi chúng tôi , bà sẽ lấy lòng trứng vào trong cái tô mà dùng đến tay. Nó đòi hỏi phải có hai câu thần chú: một thần chú chuyển động và một phép mở đơn giản. Con trai John của tôi mới tám tuổi, và nó có thể làm chuyện đó mà cần nghĩ ngợi gì.”

      “Nhưng…”

      “Nếu quả trứng ở trong cái tô khi tôi quay trở lại thì ai có thể giúp bà được, bà Roydon ạ. Cha mẹ bà có lẽ đã đúng khi trói bà nếu sức mạnh của bà quá yếu đến mức thể làm nứt quả trứng.”

      Annie tặng tôi cái nhìn thương cảm khi vòng tay nâng cái chảo lên. Susanna đậy nắp chảo. “ nào, Annie.”

      Ngồi mình trong phòng sinh hoạt chung của nhà Norman, tôi quan sát quả trứng và cái tô.

      là ác mộng,” tôi thầm mình, hy vọng mấy cậu bé ở xa nghe thấy gì.

      Tôi hít sâu hơi và thu lại sức lực. Tôi biết nội dung của cả hai câu thần chú, và tôi muốn quả trứng di chuyển – muốn đến chết được. Phép thuật gì hơn chính là khao khát được thực hóa, tôi thầm nhủ với chính mình.

      Tôi dồn niềm khao khát của mình lên quả trứng. Nó nhảy lò cò bàn, lần, rồi im lìm. Tôi thầm lặp lại câu thần chú. lần. lần nữa.

      Mấy phút sau kết quả duy nhất cho tất cả nỗ lực của tôi là lớp mồ hôi lấm tấm trán. Tất cả những gì tôi cần làm là nâng quả trứng lên và làm nó nứt ra. Vậy mà tôi thảm bại.

      “Xin lỗi,” tôi thầm với cái bụng phẳng lì của mình. “Nếu may, con chăm sóc cha con nhé.” Bụng tôi thót lên cái. Khỉ , hồi hộp lo lắng và thay đổi hoóc-môn nhanh chóng làm ảnh hưởng tới tiêu hóa.

      Có phải món gà non sáng nay bị ôi ? Tôi nghiêng đầu nhìn quả trứng. con gà mái tội nghiệp nào đó bị cướp mất gà con còn chưa nở để làm đồ ăn cho nhà Norman. Cơn buồn nôn của tôi dâng lên. Có lẽ tôi nên cân nhắc đến việc ăn kiêng, ít nhất là trong thời kỳ mang thai.

      Nhưng có thể chẳng có chú gà con nào cả, tôi tự an ủi mình. phải mọi quả trứng đều được thụ tinh. Con mắt thứ ba của tôi săm soi dưới bề mặt vỏ, xuyên qua tầng tầng lớp lớp lòng trắng trứng dày lên để tới lòng đỏ trứng. Lần theo sống chạy vào những vệt đỏ ngang dọc bề mặt lòng đỏ trứng.

      thụ tinh,” tôi thốt lên với tiếng thở dài. Tôi cựa quậy hai bàn tay. Em và dì Sarah nuôi gà thời gian. con gà mái chỉ mất ba tuần để ấp trứng nở. Ba tuần lễ ấm áp và chăm sóc, và có chú gà con. Có vẻ công bằng khi tôi phải đợi tới hàng tháng trời bé con của chúng tôi mới nhìn thấy được ánh sáng ban ngày.

      Chăm sóc và ấm áp. Những điều giản dị như thế, nhưng chúng lại đảm bảo cho sống. Matthew gì nhỉ? Tất cả những gì bọn trẻ cần là tình thương, người trưởng thành có trách nhiệm với chúng và nơi êm ái để ngả lưng. Với những chú gà con cũng đúng là thế. Tôi hình dung cảm giác thế nào nếu được bao bọc trong bộ lông ấm áp của gà mẹ, được bao kín trong cái kén an toàn tránh khỏi va đụng bầm dập. Bé con của chúng tôi cũng cảm thấy như vậy chứ, lơ lửng tít sâu trong dạ con của tôi? Nếu , có câu thần chú nào dành cho nó đây? câu thần chú được dệt lên từ trách nhiệm, nó bao bọc bé còn trong chăm sóc, ấm áp và tình thương nhưng lại đủ dịu dàng để tặng cho bé cả an toàn lẫn tự do ư?

      “Đó chính là khát vọng của mình,” tôi thầm .

      Chiếp.

      Tôi nhìn quanh. Nhiều gia đình có nuôi vài chú gà con bới mổ quanh lò sưởi.

      Chiếp. Nó phát ra từ quả trứng bàn. tiếng gãy nứt, rồi cái mỏ ló ra. cặp mắt đen láy ngơ ngác nhìn tôi từ cái đầu lơ thơ lông trơn mượt ẩm ướt.

      Ai đó ở phía sau tôi thở hổn hển. Tôi quay lại. Bàn tay Annie đưa lên bưng lấy miệng, nhìn chằm chặp vào chú gà con bàn.

      “Dì Susanna,” Annie thốt lên, thả bàn tay xuống. “Có phải cái đó…?” bé tắt tiếng dần và nên lời chỉ về phía tôi.

      “Đúng thế. Đó là glaem xuất từ câu thần chú mới của bà Roydon. . Tìm Goody Alsop.” Susanna xoay cháu cố bé về phía con đường vừa qua.

      “Tôi cho được trứng vào cái tô, bà Norman,” tôi lên tiếng xin lỗi. “Các câu thần chú có hiệu quả.”

      Chú gà con vẫn còn ươn ướt bày tỏ phản đối, tràng những tiếng chiếp chiếp liên tục nối tiếp nhau.

      hiệu quả ư? Tôi bắt đầu nghĩ bà chẳng biết gì về việc làm phủ thủy cả,” Susanna ngờ vực đáp.

      Tôi bắt đầu nghĩ bà ấy đúng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      20.

      Phoebe nhận thấy tĩnh lặng ở khu văn phòng phố Bond của Sotheby vẫn bị quấy nhiễu vào tối thứ Ba như hôm nay. Mặc dù làm việc tại nhà đấu giá London hai tuần lễ, nhưng ta vẫn quen được với tòa nhà này. Mỗi thanh – tiếng ro ro của mấy ngọn đèn đầu, tiếng nhân viên an ninh kéo các cánh cửa để kiểm tra chắc chắn chúng được khóa chưa, tiếng cười xa xa vọng lại từ tivi – đều làm giật nảy.

      Là người thâm niên ít ỏi trong bộ phận, nên Phoebe phải chịu trận đợi Tiến sĩ Whimore đến sau cánh cửa khóa chặt. Sylvia, cấp giám sát của , cứng rắn cầu phải có ai đó gặp người đàn ông này sau vài tiếng. Phoebe nghi ngờ cầu này sai nguyên tắc nhưng là người còn chân ướt chân ráo trong công việc này chẳng thể làm gì hơn ngoài phản đối yếu ớt.

      “Dĩ nhiên ở lại. Ông ấy có mặt ở đây lúc bảy giờ,” Sylvia cách xoa dịu, ngón tay vân vê chuỗi ngọc trai trước khi nhặt lên mấy tấm vé xem ba lê bàn làm việc. “Hơn nữa, cũng chẳng đâu nữa đúng ?”

      Sylvia đúng. Phoebe chẳng đâu nữa cả.

      “Nhưng ông ta là ai?” Phoebe hỏi. Đó là câu hỏi hoàn toàn hợp lẽ, nhưng Sylvia trông như bị lăng nhục vậy.

      “Ông ta từ Oxford đến và là khách hàng quan trọng của công ty. Đó là tất cả điều cần biết,” Sylvia đáp. “Sotheby hãnh diện về cẩn mật của mình, hay bỏ lỡ phần đó trong kỳ huấn luyện hả?”

      Và vậy nên Phoebe vẫn ngồi ở bàn làm việc. ngóng đợi thời khắc bảy giờ hẹn ước kia. Để cho qua thời gian, xem các file tài liệu tìm hiểu thêm về người đàn ông này. thích gặp người mà biết tí ti gì về tiểu sử của họ. Sylvia có lẽ nghĩ tất cả những gì cần là tên và chút hiểu biết mơ hồ về phẩm chất của ông ta, nhưng Phoebe biết chuyện đó khác cơ. Mẹ dạy thứ lợi khí quý giá như thông tin cá nhân có thể tạo nên điều gì khi vận dụng với những vị khách trong các bữa tiệc cocktail và các bữa ăn tối trang trọng. Phoebe thể tìm được ngài Whimores nào trong hồ sơ dữ liệu của Sotheby, tuy nhiên, mã số khách hàng của ông ta dẫn tới tấm thẻ giản dị trong ngăn tủ tài liệu được khóa kín đề: “Gia đình de Clermont – hỏi ngài chủ tịch.”

      Vào lúc chín giờ kém năm, nghe thấy tiếng ai đó ngoài cửa. Giọng của người đàn ông cộc cằn như đầy nhạc tính cách kỳ lạ.

      “Đây là việc làm viển vông thứ ba bà cử cháu làm trong nhiều ngày nay rồi đấy, Ysabeau. Làm ơn cố nhớ rằng cháu cũng có việc để làm. Hãy cử Alain vào lần tới.” quãng ngừng ngắn. “Bà nghĩ cháu bận ư? Cháu gọi lại cho bà sau khi thấy chúng.” Người đàn ông thốt ra tiếng chửi thề bị kìm nén lại. “Vì Chúa, hãy bảo trực giác của bà nghỉ giải lao .”

      Tiếng người đàn ông đó nghe lạ: nửa Mỹ nửa , trọng gãy góc mạch lạc của ta gợi cho người ta thấy đây phải là thứ ngôn ngữ duy nhất ta biết. Cha của Phoebe làm trong bộ ngoại giao của nữ hoàng, và giọng ông mơ hồ như thế, như thể ông là người của tứ phương.

      Tiếng chuông reo, lại hồi thanh nhức óc khác khiến ngần ngại, bất chấp thực tế là Phoebe mong đợi cuộc gặp này. rời khỏi bàn làm việc sải bước qua phòng. đôi giày cao gót đen, nó đáng giá cả gia tài nhưng làm cho trông cao hơn, và Phoebe thầm nhủ với mình, uy quyền hơn nữa. Đó là mánh học được từ Sylvia trong lần phỏng vấn đầu tiên, khi đôi đế bệt. Sau đó thề bao giờ xuất trong dáng vẻ “ nhắn đáng lần nữa.

      nhìn qua mắt thần thấy cái trán mịn màng, mái tóc vàng nhếch nhác, và cặp mắt xanh lam sáng ngời. Chắc chắn đây phải Tiến sĩ Whitmore.

      tiếng gõ đột ngột cửa làm giật mình. Cho dù người đàn ông này là ai nữa, ta cũng hề lịch . Bực bội, Phoebe dập nút máy liên lạc nội đàm. “Vâng?” nóng nảy .

      “Marcus Whitmore đến đây để gặp Ms.Thorpe.”

      Phoebe nhìn qua mắt thần lần nữa. thể nào. Người trẻ thế này đảm bảo thu hút chú ý của Sylvia. “Tôi có thể xem nhận dạng nào đó ?” quả quyết.

      “Sylvia đâu rồi?” Đôi mắt xanh lam nheo lại.

      xem ba lê. Vở Coppélia, tôi tin là thế.” Vé của Sylvia là hạng nhất trong rạp, khoa trương tuyên bố đẳng cấp thương gia. Người đàn ông ở bên kia cánh cửa đập đánh bẹt cái thẻ ID vào mắt thần. Phoebe giật lùi lại. “Ông có thể vui lòng lùi sau bước ? Tôi thể nhìn thấy gì ở khoảng cách đó.” Tấm thẻ dịch chuyển ra xa cánh cửa vài centimet.

      “Được chưa, …?”

      “Taylor.”

      Taylor, tôi bận.” Tấm thẻ biến mất, thay vào đó là cặp đèn hiệu màu xanh lam. Phoebe lại rụt lùi trong ngạc nhiên, nhưng khi đó nhận tên tấm thẻ và tư cách pháp lý của ta đối với dự án nghiên cứu ở Oxford.

      Đó là Tiến sĩ Whitmore. nhà khoa học có chuyện làm ăn gì liên quan tới Sotheby chứ? Phoebe mở chốt cửa.

      Ngay khi tiếng cách vang lên, Whitmore luồn tiến vào. ta mặc như trong câu lạc bộ ở Soho, quần jean đen, áo phông U2 màu xám phong cách cổ điển, đôi giày thể thao cao cổ hiệu Converse lố bịch (cũng màu xám). sợi dây da vòng quanh cổ, nắm đồ trang trí có lai lịch ràng và mấy đáng giá treo lủng lẳng đó. Phoebe vuốt phẳng đường viền chiếc áo cánh màu trắng tinh sạch chê vào đâu được của mình và nhìn ta vẻ giận dữ.

      “Cảm ơn,” Whitmore , đừng gần hơn mức xã giao lịch bình thường. “Sylvia có để lại gói hàng cho tôi.”

      “Ngài ngồi xuống chứ, Tiến sĩ Whitmore.” ra hiệu về phía cái ghế trước bàn làm việc của mình.

      Đôi mắt xanh lam của Whitmore di chuyển từ cái ghế sang . “Tôi phải ngồi ư? Chuyện này mất nhiều thời gian đâu. Tôi chỉ đến đây để chắc chắn rằng bà nội tôi nhầm lẫn giữa ngựa vằn và ngựa thường thôi.”

      “Gì cơ?” Phoebe nhích dần từng bước về phía bàn làm việc. Có nút báo động dưới mặt bàn, bên cạnh ngăn kéo. Nếu người đàn ông này tiếp tục cư xử bậy bạ, dùng đến nó.

      “Gói hàng.” Whitmore vẫn nhìn chằm chặp vào . Có tia thích thú ánh lên trong đó. Phoebe nhận ra tia nhìn đó và khoanh hai tay phía trước nhằm làm nó đổi hướng. ta chỉ vài cái hộp được lót đệm bàn làm việc mà nhìn nó. “Tôi đoán là cái đó.”

      “Làm ơn ngồi xuống, Tiến sĩ Whitmore. qua giờ đóng cửa lâu rồi, tôi mệt rồi, mà vẫn còn có giấy tờ công việc cần điền đầy đủ tôi mới có thể để ông kiểm tra bất cứ thứ gì Sylvia đặt trong đó.” Phoebe với tay lên chà xát sau gáy. Đến trẹo cả cổ vì cứ ngước lên nhìn ta. Hai cánh mũi Whitmore phập phồng, đồng tử mắt giãn ra. Phoebe nhận thấy lông mi của ta đậm màu hơn mái tóc vàng, dài và dày hơn cả của . Bất cứ người phụ nữ nào cũng sẵn sàng giết người để có bộ lông mi như thế.

      “Tôi nghĩ tốt hơn hết nên đưa tôi chiếc hộp và để tôi làm theo cách của mình, Taylor.” Giọng cộc cằn thốt lên, gằn lại thành lời cảnh cáo, dù Phoebe hiểu lý do vì sao. ta sắp làm gì đây, đánh cắp chiếc hộp ư? lần nữa cân nhắc đến hệ thống báo động nhưng nghĩ kỹ hơn. Sylvia giận điên nếu xúc phạm khách hàng bằng cách gọi nhân viên an ninh.

      Thay vào đó Phoebe bước tới bàn, cầm lên tờ giấy và cây bút, quay lại giúi nó cho vị khách. “Tốt thôi. Tôi lấy làm vui mừng đình chỉ lại vụ này nếu ngài thích, Tiến sĩ Whitmore, mặc dù nó là thỏa thuận mấy

      dễ chịu.”

      “Đó là lời đề nghị tốt nhất tôi có được dạo gần đây đấy.” Khóe miệng Whitmore giật giật. “Nếu chúng ta thông qua quy trình này theo như cách của Hoyle, tôi nghĩ nên gọi tôi là Marcus.”

      “Hoyle ư?” Phoebe đỏ mặt vươn thẳng người lên hết mức. Whitmore phải nghiêm túc. “Tôi nghĩ ông ấy làm việc ở đây.”

      “Tất nhiên tôi hy vọng điều đó.” ta nguệch ngoạc ký. “Edmond Hoyle chết từ năm 1769 rồi.”

      “Tôi mới đến Sotheby. hẳn thứ lỗi nếu tôi hiểu ngụ ý của ông.” Phoebe khịt mũi. lần nữa lại ở quá xa nút báo động dưới mặt bàn để có thể dùng đến nó. Whitmore có lẽ phải trộm, nhưng bắt đầu nghĩ ta bị điên.

      “Bút của đây,” Marcus lịch , “và mẫu điền của đây. Được chưa?” ta dựa gần hơn. “Tôi làm chính xác những gì cầu. Tôi cư xử rất đứng đắn đấy nhé. Cha tôi đảm bảo điều ấy.”

      Phoebe đón lấy bút và tờ giấy từ ta. Khi làm thế, các ngón tay chà vào mu bàn tay Whitemore. lạnh lẽo của nó khiến rùng mình. con dấu riêng bằng vàng nặng nề ngón tay út của ta, để ý thấy. Nó trông như từ thời Trung cổ, nhưng chẳng có ai lại dạo quanh London với chiếc nhẫn quý hiếm giá trị như thế tay. Nó chắc chắn là đồ nhái – dù là món đồ nhái tốt.

      kiểm tra mẫu điền khi quay lại bàn làm việc. Dường như tất cả đều đúng trình tự, và nếu người đàn ông này có là tên tội phạm nào đó nữa – điều này làm ngạc nhiên chút nào – ít nhất cũng bị buộc tội phá vỡ các quy định. Phoebe nâng nắp chiếc hộp lên, chuẩn bị dâng nộp nó cho Tiến sĩ Whitmore quái dị kiểm tra. hy vọng sau đó có thể về nhà.

      “Ồ.” Giọng đầy vẻ kinh ngạc. tưởng thấy chiếc vòng cổ kim cương huyền thoại hay bộ ngọc lục bảo chạm lộng cầu kỳ kiểu cách theo phong cách Victoria – thứ gì đó mà bà của thích.

      Thay vào đấy chiếc hộp lại chứa hai bức tiểu họa hình oval, được đặt trong khuôn nhung được tạo dáng bao khít hoàn hảo lấy đường mép của chúng và bảo vệ chúng khỏi bị hư hại. của người phụ nữ có mái tóc dài vàng kim ánh đỏ. chiếc cổ áo xếp nếp đóng khung lấy khuôn mặt trái xoan của ấy. Đôi mắt màu xanh nhạt của ta nhìn thẳng vào người xem với vẻ trấn an điềm tĩnh, và khuôn miệng cong lên trong nụ cười dịu dàng. Nền phía sau là màu xanh lam chói lọi thường thấy với tác phẩm của thợ vẽ Nicholas Hilliard thời Elizabeth. Bức tiểu họa kia miêu tả người đàn ông với mái tóc đen rối bời chải ngược từ trán ra sau. bộ râu lộn xộn và bộ ria mép khiến ông ta trông trẻ hơn cái tuổi mà đôi mắt đen láy gợi nên, chiếc sơ mi vải lanh cũng mở cổ, làm lộ ra da thịt trắng mịn như sữa hơn cả chiếc áo. Những ngón tay thon dài cầm món trang sức có vẻ là từ sợi dây chuyền dày. Phía sau người đàn ông, những ngọn lửa vàng óng cháy đượm bện xoắn vào nhau, biểu tượng của đam mê.

      hơi thở phả vào làm tai ngứa ngáy. “Chúa linh thiêng.” Whitmore trông như nhìn thấy ma.

      “Chúng tuyệt đẹp, phải ? Đây hẳn là bộ tiểu họa vừa mới đến. cặp vợ chồng già ở Shropshire tìm thấy chúng được giấu sau chiếc tủ búp phê bằng bạc của họ khi họ tìm chỗ cất vài món đồ mới. Sylvia tính toán chúng kiếm được giá hời.”

      “Ồ, nghi ngờ gì điều đó cả.” Marcus ấn nút máy điện thoại cầm tay.

      “Oui?” giọng độc đoán bằng tiếng Pháp ở đầu dây bên kia. Phoebe nghĩ đây là vấn đề rắc rối với điện thoại cầm tay. Mọi người quát thét vào đó, và bạn có thể nghe thấy những cuộc trò chuyện riêng tư.

      “Bà đúng về những bức tiểu họa, Grand–mère.”

      thanh tự mãn thoát ra từ chiếc điện thoại. “Liệu giờ ta có được chú ý hoàn toàn của cháu chưa, Marcus?”

      . Và tạ ơn Chúa về điều đó. chú ý hoàn toàn của cháu tốt cho bất cứ ai cả.” Whitmore đưa mắt nhìn Phoebe và mỉm cười. Người đàn ông này quyến rũ, Phoebe miễn cưỡng thừa nhận. “Nhưng cho cháu vài ngày trước khi bà lại bắt cháu làm việc vặt khác. Chỉ là bà sẵn sàng trả bao nhiêu cho chúng, hay cháu nên hỏi?”

      “N’importe quell prix.”

      Giá cả thành vấn đề. Những lời này khiến các nhà đấu giá đều vui sướng. Phoebe nhìn chằm chằm xuống mấy bức tiểu họa. Chúng phi thường.

      Whitmore và bà ta kết thúc cuộc trò chuyện, và các ngón tay của chàng ngay lập tức bay lướt chiếc máy điện thoại, gửi tin nhắn khác.

      “Hilliard tin rằng các bức tiểu họa chân dung của ông ấy ngắm nhìn đẹp nhất trong riêng tư,” Phoebe tư lự ra. “Ông ấy cảm thấy nghệ thuật hội họa đặt quá nhiều những bí mật phô bày ra ngoài. có thể thấy lý do vì sao. Hai người này trông giống như họ nắm giữ tất cả mọi bí mật vậy.”

      đúng ở điểm đó đấy,” Marcus lẩm bẩm. Gương mặt ta ở rất gần, tạo cho Phoebe có cơ hội quan sát đôi mắt ta kỹ hơn. Chúng xanh hơn là lần đầu nhận thấy, thậm chí xanh hơn cả màu khoáng chất azurite – màu xanh biêng biếc – làm đậm thêm sắc màu mà Hilliard dùng.

      Chuông điện thoại reo. Khi Phoebe với lấy máy điện thoại để trả lời, nghĩ bàn tay ta vừa lướt xuống, chỉ trong thoáng chốc thôi, tới eo của .

      “Hãy đưa người đàn ông đó mấy bức tiểu họa của ta, Phoebe.” Là Sylvia.

      “Tôi hiểu,” điếng người đáp. “Tôi có thẩm quyền…”

      ta mua toàn bộ chúng. Nguyên tắc của chúng ta là lấy được giá cao nhất có thể cho các món hàng. Chúng ta làm thế. Nhà Taverner có khả năng trải qua nhiều mùa thu ở Monte Carlo nếu họ muốn. Và có thể với Marcus rằng nếu tôi lỡ mất vở diễn danse de fete, tôi tận hưởng lô ghế của gia đình ta vào các buổi diễn của mùa kế tiếp nhé.” Sylvia ngắt máy.

      Căn phòng im ắng. Ngón tay Marcus Whitmore dịu dàng đặt khung vàng bao quanh bức tiểu họa của người đàn ông. Nó trông như cử chỉ nhung nhớ, nỗ lực kết nối với ai đó qua đời từ lâu và danh.

      “Tôi hầu như tin rằng, nếu tôi chuyện, ông ấy có thể nghe thấy tôi,” Marcus vẻ khao khát.

      Có điều gì đó sụp đổ, Phoebe thể xác định đó là gì, nhưng thứ đặt cọc ở đây còn hơn cả việc thu về được hai bức tiểu họa của thế kỷ mười sáu này.

      “Bà của chắc phải có tài khoản ngân hàng dồi dào lắm, Tiến sĩ Whitmore, để ra tay hào phóng trả cho hai bức chân dung thể nhận diện từ thời đại Elizabeth này. Vì cũng là khách hàng của Sotheby, tôi cảm thấy mình nên cho biết rằng chắc chắn trả hớ cho món hàng này. bức chân dung của nữ hoàng Elizabeth đệ nhất từ thời kỳ này có thể lên tới sáu con số với những người mua hợp lý trong căn phòng, nhưng phải những bức này.” Xác định nhân dạng của người mẫu quyết định giá cả như thế. “Chúng ta bao giờ biết được họ là ai. thể biết được sau bao nhiêu thế kỷ mờ mịt. Tên tuổi là quan trọng.”

      “Đó chính là điều bà tôi đấy.”

      “Vậy bà ấy ý thức được rằng có kết luận xác đáng giá trị của những bức tiểu họa này có thể bao giờ tăng lên được.”

      ra,” Marcus , “bà tôi cần phải lấy lại phần đầu tư của mình. Và Ysabeau thích hơn nếu ai khác biết họ là ai.”

      Phoebe cau mày trước luận điệu kỳ quái này. Có phải bà ta nghĩ bà ấy biết rồi ?

      vui được thực vụ mua bán với , Phoebe, cho dù chúng ta có đình chỉ lại. Lần này.” Marcus ngừng lát, nở nụ cười quyến rũ của ta. “ phiền tôi gọi là Phoebe chứ?”

      Phoebe có thấy phiền. bực bội xoa cổ, gạt mái tóc đen dài chấm vai sang bên. Ánh mắt Marcus nấn ná đường cong bả vai . Khi đáp lời, chàng đóng hộp lại, kẹp hai bức tiểu họa dưới cánh tay, và quay .

      “Tôi muốn mời bữa tối,” ta ôn tồn , dường như chả ý thức được những dấu hiệu thích thú gì rành rành của Phoebe. “Chúng ta có thể ăn mừng vận may của nhà Taverner, cũng như phần hoa hồng đáng kể mà được chia với Sylvia.”

      Sylvia ư? Chia hoa hồng ư? Miệng Phoebe há hốc tin. Cơ hội sếp làm điều như thế còn ít hơn . Nét mặt Marcus sầm lại.

      “Đó là điều kiện của thỏa thuận. Bà tôi có nó theo bất cứ cách nào khác.” Giọng ta cộc cằn. “Ăn tối chứ?”

      “Tôi ra ngoài với đàn ông lạ sau khi trời tối.”

      “Vậy tôi đề nghị ra ngoài ăn tối vào ngày mai, sau khi chúng ta ăn trưa. khi dành hai giờ đồng hồ làm quen với tôi, tôi còn ‘xa lạ’ nữa.”

      “Ồ, vẫn xa lạ,” Phoebe lẩm bẩm, “và tôi ăn trưa. Tôi ăn tại bàn làm việc.” nhìn nơi khác trong bối rối. Có phải phần đầu hơi lớn tiếng ?

      “Tôi đón ăn bữa,” Marcus , nụ cười rộng mở hơn. Tim Phoebe chùng xuống. hơi lớn tiếng mất rồi. “Và đừng lo, chúng ta xa đâu.”

      “Tại sao ?” ta nghĩ sợ ta ư hay thể theo kịp sải chân của ta? Chúa ơi, ghét việc mình thấp bé.

      “Tôi chỉ muốn biết rằng có thể mang những đôi giày kia lần nữa mà sợ gãy cổ thôi,” Marcus ngây thơ đáp. Ánh mắt chàng chậm rãi di chuyển từ ngón chân lên tới đôi giày gót thấp da đen, nấn ná ở hai mắt cá chân của , rồi trườn lên đường cong nơi bắp chân . “Tôi thích chúng.”

      Người đàn ông này nghĩ mình là ai chứ? ta cư xử như tay chơi thế kỷ mười tám. Phoebe bước những bước quyết đoán về phía cửa, hai gót giày của tạo nên những tiếng cành cạch lạnh lùng thỏa mãn. ấn nút mở khóa và giữ cánh cửa mở ra. Marcus thốt lên thanh tán thưởng trong khi sải bước về phía .

      “Tôi nên tiến tới quá mức. Bà tôi tán thành điều đó cũng nhiều gần bằng tán thành việc cắt đứt thỏa thuận mua bán. Nhưng đây là chuyện, Phoebe.” Whitmore cúi thấp cho tới khi môi ta chỉ cách tai vài phân và hạ giọng xuống thành lời thầm. “ thích những người đàn ông đưa ra ngoài ăn tối và có lẽ quay trở về căn hộ của để làm gì đó tiếp theo, đúng mực và thái độ hành xử đức hạnh của làm tôi sợ đâu. Ngược lại là đằng khác. Và tôi thể ngăn mình tưởng tượng thế nào khi kiểm soát lạnh lùng đó tan chảy hết.”

      Phoebe thở hắt ra.

      Marcus cầm lấy tay . Môi ta áp lên da thịt trong khi nhìn chăm chú vào mắt . “Ngày mai nhé. Và hãy đảm bảo cánh cửa khóa lại phía sau tôi. gặp đủ rắc rối rồi.” Tiến sĩ Whitmore bước lùi ra khỏi căn phòng, tặng nụ cười chói lóa khác, quay người, huýt sáo rồi khuất khỏi tầm mắt.

      Bàn tay Phoebe run rẩy. Người đàn ông đó – người đàn ông lạ lùng tuân theo nghi thức xã giao đúng mực và đôi mắt xanh đến kinh ngạc – hôn . Ngay tại chỗ làm của . được chấp thuận của .

      tát ta, điều mà những có giáo dục tử tế của các nhà ngoại giao được dạy phải làm.

      quả thực gặp rắc rối rồi.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      21.

      “Liệu tôi có đúng khi gọi bà, Goody Alsop?” Susanna vặn vẹo hai bàn tay trong chiếc tạp dề của mình và nhìn tôi cách lo lắng. “Tôi gần đây được cử đến nhà bà ấy,” bà ta yếu ớt . “Nếu tôi …”

      “Nhưng , Susanna.” Goody Alsop quá già và gầy gò đến nỗi làn da bà ta như bám dính vào xương hai bàn tay và cổ tay. Giọng bà phù thủy chân thành đến kỳ lạ đối với những người quá yếu đuối dễ bị cám dỗ, tuy vậy, thông minh ánh lên trong mắt bà ta. Người đàn bà này có lẽ thọ tới tám mươi tuổi rồi, nhưng ai dám bảo bà ấy ốm yếu nhu nhược cả.

      Giờ Goody Alsop đến, căn phòng chính trong căn hộ của nhà Norman đầy ắp người. Sau chút miễn cưỡng Susanna đồng ý cho Matthew và Pierre đứng ngay bên trong cánh cửa, miễn là họ chạm vào bất cứ thứ gì. Jeffrey và John phân chia chú ý của mình vào mấy ma cà rồng và chú gà con, giờ nó an toàn nằm ổ trong cái mũ lưỡi chai của John cạnh lò sưởi. Bộ lông của nó bắt đầu trở nên tơ xốp trong khí ấm áp, và ơn phước, nó ngừng kêu chiếp chiếp. Tôi ngồi cái ghế đẩu bên lò sưởi cạnh Goody Alsop, người chiếm dụng chiếc ghế bành duy nhất trong căn phòng.

      “Để ta nhìn cái nào, Diana.” Khi Goody Alsop vươn tay hướng tới mặt tôi, y như bà góa Beaton và Champier làm, tôi bèn co rúm người lại. Bà phù thùy dừng lại cau mày. “Gì thế, con ?”

      phù thủy ở Pháp cố đọc da tôi. Nó có cảm giác như những con dao vậy,” tôi giọng giải thích.

      “Nó hoàn toàn dễ chịu – kiểm tra gì thế? – nhưng nó đáng lẽ đau đâu.” Các ngón tay bà khám phá từng đường nét của tôi. Hai bàn tay bà lão mát dịu và khô ráo, các mạch máu nổi làn da đồi mồi và ngoằn ngoèo những khớp xương. Tôi thấy cảm giác hơi tọc mạch thái quá, nhưng có gì giống như đau đớn mà tôi trải nghiệm với hai bàn tay của Champier.

      “A,” bà lão hít thở khi chạm vào làn da mịn màng trán tôi. Con mắt phù thủy của tôi, thứ sa vào trạng thái ì trệ đáng thất vọng vào khoảnh khắc Susanna và Annie tìm thấy tôi cùng với chú gà con, mở ra hoàn toàn. Goody Alsop là phù thủy hiểu biết đáng nể.

      Nhìn vào con mắt thứ ba của Goody Alsop, tôi bị ném lao vào thế giới sắc màu. Cố gắng hết mức tôi có thể, những mạng sợi dệt tươi sáng từ chối phân giải thành điều gì đó có thể nhận dạng được, mặc dù tôi lần nữa cảm thấy viễn cảnh giày vò mà chúng có thể bị dùng đến theo cách nào đó. tiếp xúc của Goody Alsop râm ran nhoi nhói như thể bà thăm dò cơ thể và tâm trí tôi bằng thị giác thứ hai của bà, năng lượng ép ra xung quanh bà trong sắc vàng cam nhuốm đỏ tía. Trong trải nghiệm hữu hạn của tôi, có ai từng biểu lộ kết hợp màu sắc đặc biệt thế. Bà lão chốc lại tặc lưỡi, thốt ra hai thanh tán thành.

      “Bà ta là kẻ lạ lùng, đúng ạ?” Jeffrey thầm, ngó qua vai Goody Alsop.

      “Jeffrey!” Susanna thở gấp, xấu hổ trước hành vi của cậu con trai. “Bà Roydon, nếu con vui lòng nhớ.”

      “Được rồi, bà Roydon là kẻ lạ lùng,” Jeffrey , hề tỏ ra hối lỗi. Cậu nhóc chống hai tay vào đầu gối và cúi gần lại.

      “Cháu thấy được gì, Jeffrey trẻ tuổi?” Goody Alsop hỏi.

      “Bà ấy – bà Roydon – là tất cả sắc màu của cầu vồng. Con mắt phù thủy của bà ấy màu xanh lam, mặc dù phần còn lại của bà ấy màu xanh lá cây, giống nữ thần. Và tại sao lại có cái vành màu đỏ đen ở đó ạ?” Jeffrey chỉ vào trán tôi.

      “Đó là dấu ấn của wreath,” Goody Alsop , đưa ngón tay xoa lên nó. “Nó cho chúng ta biết bà ấy thuộc về gia đình ông Roydon. Bất cứ khi nào cháu nhìn thấy cái này, Jeffrey ạ – và nó khá là hiếm đấy – cháu phải để ý nó như cảnh báo. Wearth tạo ra nó hài lòng nếu cháu đụng chạm vào sinh vật máu nóng mà tuyên bố quyền làm chủ.”

      “Nó có đau ạ?” Đứa thắc mắc.

      “Jeffrey!” Susanna lại gào lên. “Đừng hỏi linh tinh làm phiền Goody Alsop.”

      “Chúng ta đối mặt với tương lai đen tối nếu lũ trẻ thôi đặt câu hỏi nữa đấy, Susanna,” Goody Alsop nhấn mạnh.

      “Máu của wearth có thể chữa lành, nhưng nó gây hại,” tôi với cậu bé trước khi Goody Alsop có thể trả lời. cần phải có phù thủy trưởng thành khác dọa cho cậu bé sợ trước những gì nó hiểu. Ánh mắt tôi chuyển tới Matthew, người có quyền tuyên bố về tôi còn sâu sắc hơn cả lời thề bằng màu của cha . Matthew sẵn lòng để cuộc kiểm tra của Goody Alsop tiếp tục – vào lúc này – nhưng mắt chưa bao giờ rời khỏi người phụ nữ đó. Tôi gom nụ cười, và miệng mím chặt thêm đáp lại.

      “Ồ.” Jeffrey thốt lên êm ái vui thích trước mẩu tin tức này. “Bà có thể tạo ra glaem lần nữa , bà Roydon?” Trước chán nản, các cậu bé nhớ nhung màn thi triển năng lượng phép thuật.

      Goody Alsop đặt ngón tay xương xẩu lên vết lõm môi Jeffrey, khiến cậu bé im lặng cách hiệu quả. “Ta cần chuyện với Annie bây giờ. Sau khi xong, người của ông Roydon đưa cả ba đứa tới bờ sông. Khi cháu quay lại, cháu có thể hỏi ta bất cứ điều gì cháu thích.”

      Matthew nghiêng đầu về phía cửa, và Pierre đón lấy trách nhiệm với hai chàng trai trẻ, sau khi đưa mắt nhìn đề phòng về hướng bà lão, ta mang chúng xuống lầu đợi. Giống Jeffrey, Pierre cần vượt qua nỗi sợ hãi với các sinh vật khác người khác.

      bé đâu rồi?” Goody Alsop hỏi, ngoái đầu lại.

      Annie len lén tiến tới. “Đây ạ, thưa Goody.”

      “Hãy cho chúng ta , Annie,” Goody Alsop bằng giọng kiên quyết. “Cháu hứa gì với Andrew Hubbard?”

      “Kh… gì cả,” Annie lắp bắp, mắt chuyển hướng sang tôi.

      “Đừng dối, Annie. Đó là tội lỗi,” Goody Alsop mắng. “ ra .”

      “Cháu nhắn tin nếu ông Roydon có kế hoạch rời London. Và Cha Hubbard cử người đến khi bà và ông vẫn còn giường để hỏi cháu chuyện diễn ra trong nhà.” Lời lẽ của Annie ào ào tuôn ra. Sau khi xong, bé đưa hai tay bịt lấy miệng mình như thể tin nổi tiết lộ nhiều đến thế.

      “Chúng ta phải hành động theo từng chữ của thỏa thuận giữa Annie và Hubbard, nếu phải tuân theo tinh thần của thỏa thuận đó.” Goody Alsop ngẫm nghĩ lát. “Nếu bà Roydon rời thành phố này vì bất cứ lý do nào, Annie đưa tin cho tôi trước. Hãy đợi tiếng trước khi cháu cho Hubbard biết, Annie. Và nếu cháu từ về những gì diễn ra ở đây cho bất cứ ai, ta yểm bùa trói buộc lên lưỡi cháu, phù thủy mười ba tuổi thể hóa giải đâu.” Annie trông kinh hãi trước viễn cảnh ấy. “ nhập hội với mấy cậu nhóc , nhưng mở tất cả cửa ra vào và cửa sổ ra trước khi cháu rời khỏi nhé. Ta báo cho cháu khi đến giờ quay về.”

      Nét mặt của Annie trong khi bé mở cửa chớp và cửa ra vào đầy vẻ hối lỗi và khiếp sợ, tôi gửi cho cái gật đầu an ủi. Đứa bé tội nghiệp đủ khả năng chống lại Hubbard và làm những gì phải làm để sống sót. Thêm cái nhìn khiếp sợ hơn nữa về phía Matthew, người có thái độ lạnh lùng đối với cách rất bản năng, rời .

      Cuối cùng, ngôi nhà yên tĩnh, luồng khí lùa vào xoay quanh mắt cá chân và bờ vai tôi, Matthew cất tiếng. vẫn đứng dựa vào cánh cửa, bộ đồ màu đen hấp thụ ánh sáng ít ỏi trong căn phòng.

      “Bà có thể giúp chúng tôi , Goody Alsop?” Giọng lịch nhã nhặn của chẳng hề giống với thái độ hành xử bề đối với bà góa Beaton.

      “Tôi tin là vậy, ông Roydon,” Goody Alsop đáp.

      “Xin hãy thư giãn,” Susanna , ra hiệu Matthew hướng tới chiếc ghế đẩu gần đó. Hỡi ơi, chẳng thể nào có chuyện người đàn ông kích cỡ như Matthew có thể thoải mái được chiếc ghế đẩu ba chân bé, nhưng vẫn dạng chân ngồi đó mà phàn nàn gì. “Chồng tôi ngủ trong phòng kế bên. Ông ấy được phép nghe về wearth, hay cuộc chuyện của chúng ta.”

      Goody Alsop kéo tấm vải len xám và lanh có đính ngọc trai che cổ bà rồi rút các ngón tay ra, kéo theo thứ gì đó mong manh thấy . Bà phù thủy xòe bàn tay ra và đập lên cổ tay mình thả ra cái bóng vào phòng. Bản sao chính xác của bà vào phòng ngủ của Susanna.

      “Đó là cái gì thế?” Tôi hỏi, gần như dám thở.

      “Hồn ma của tôi. ấy canh chừng ông Norman và đảm bảo chúng ta bị quấy rầy.” Môi Goody Alsop mấp máy, và luồng khí thoáng đãng ngừng lại. “Giờ cửa ra vào và cửa sổ đều được niêm kín, chúng ta bị nghe lỏm nữa. có thể thư giãn tập trung vào mục đích rồi, Susanna.”

      Đây là hai câu thần chú có thể chứng minh tính hữu dụng đối với ngôi nhà của gián điệp. Tôi mở miệng định hỏi Goody Alsop xem bà làm cách nào, nhưng chưa kịp thốt ra tiếng, bà giơ tay lên và cười khúc khích.

      quá hiếu kỳ so với phụ nữ trưởng thành đấy. Tôi sợ thử thách tính kiên nhẫn của Susanna còn hơn cả Jeffrey nữa đấy.” Bà lão ngồi ngả ra và quan sát tôi với nét mặt vui vẻ. “Ta đợi lâu lắm rồi, Diana.”

      “Cháu ư?” Tôi nghi ngờ hỏi.

      phải hỏi. nhiều năm rồi kể từ những điềm báo đầu tiên tiên đoán xuất của , và với thời gian trôi qua, vài người trong chúng ta từ bỏ hy vọng. Nhưng khi các chị em ta về điềm xấu ở phương bắc, ta mong đợi đến.” Goody Alsop nhắc đến Berwick và những tượng lạ lùng ở Scotland. Tôi nhoài người tới trước, sẵn sàng hỏi bà nhiều hơn, nhưng Matthew khẽ lắc đầu. vẫn chắc chắn phù thủy này có thể tin tưởng. Goody Alsop nhìn cầu lặng lẽ của chồng tôi và lại khúc khích cười.

      “Vậy là tôi đúng,” Susanna , thở ra nhõm.

      “Đúng, con . Diana quả là thợ dệt đấy.” Lời Goody Alsop vang dội khắp căn phòng, có uy lực như bất kỳ câu thần chú nào.

      “Đó là cái gì cơ?” Tôi thầm hỏi.

      “Chúng tôi hiểu lắm về tình huống tại, Goody Alsop.” Matthew cầm lấy tay tôi. “Có lẽ bà nên đối xử với cả hai chúng tôi giống như Jeffrey ấy và giải thích nó như bà làm với đứa trẻ.”

      “Diana là người tạo ra những thần chú,” Goody Alsop . “Những người thợ dệt chúng tôi là sinh vật rất hiếm. Đó là lý do vì sao nữ thần gửi đến chỗ tôi.”

      , Goody Alsop. Bà nhầm rồi,” tôi lắc đầu phản đối. “Tôi dở khủng khiếp với các câu thần chú. Dì Sarah của tôi rất giỏi, nhưng ngay cả dì cũng thể dạy tôi các ngón nghề của phù thủy.”

      “Dĩ nhiên thể dùng thần chú của các phù thủy khác. phải sáng chế ra thần chú của riêng mình.” Lời tuyên bố của Goody Alsop ngược lại với mọi điều tôi được dạy. Tôi nhìn bà lão trong kinh ngạc.

      “Phù thủy học thần chú. Chúng ta phát minh ra chúng.” Thần chú được truyền từ đời này sang đời khác, trong các gia đình và trong các thành viên hội đồng phù thủy. Chúng tôi ganh tị canh giữ các tri thức đó, ghi chép lại các từ ngữ và quy trình trong những cuốn bí kíp gia đình kèm theo tên của những phù thủy nắm vững phép thuật tủ của họ. Hơn nữa những phù thủy có kinh nghiệm huấn luyện các thành viên trẻ trong hội đồng phù thủy để tiếp bước họ, lưu tâm đến sắc thái của mỗi câu thần chú và kinh nghiệm quá khứ của mọi phù thủy dùng nó.

      “Những thợ dệt làm điều đó,” Goody Alsop đáp.

      “Tôi chưa bao giờ nghe tới thợ dệt,” Matthew thận trọng .

      “Rất ít người biết. Chúng tôi là bí mật, ông Roydon ạ, bí mật rất ít phù thủy khám phá được, chứ phải chỉ mình wearth biết. Tôi nghĩ ông quá quen thuộc với các bí mật và cách giữ kín chúng.” Đôi mắt bà lão ánh lên vẻ châm chọc.

      “Tôi sống rất nhiều năm, Goody Alsop ạ. Tôi thấy khó mà tin rằng phù thủy có thể giữ kín tồn tại của những thợ dệt trước các sinh vật khác người kia trong suốt chừng đó thời gian.” cáu. “Đây có phải là trò chơi khác của Hubbard hả?”

      “Tôi quá già để chơi đùa rồi, ông de Clermont. Ồ, phải, tôi biết ông là ai và ông chiếm giữ vị trí nào trong thế giới của chúng tôi,” Goody Alsop khi Matthew tỏ ra ngạc nhiên. “Có lẽ ông thể giấu giếm trước các phù thủy như ông vẫn nghĩ.”

      “Có lẽ ,” Matthew gầm gừ cảnh cáo. Tiếng gầm gừ của còn làm bà lão vui thích nhiều hơn.

      “Cái mánh đó có thể dọa bọn trẻ con như Jeffrey và John cũng như lừa phỉnh các tinh như gã bạn Christopher của ông, nhưng chẳng làm tôi sợ đâu.” Giọng bà lão chuyển sang nghiêm túc. “Các thợ dệt trốn bởi vì có thời chúng tôi bị truy lùng và giết chết, giống như các hiệp sĩ của cha ông vậy. phải mọi người đều chấp nhận sức mạnh của chúng tôi. Như ông biết đấy, dễ dàng sống sót hơn khi kẻ thù của ông nghĩ ông chết rồi.”

      “Nhưng kẻ nào làm việc như thế, và tại sao?” Tôi hy vọng rằng câu trả lời dẫn chúng tôi trở lại mối thù truyền kiếp giữa ma cà rồng và phù thủy.

      phải wearth hay tinh săn lùng chúng ta, mà chính là các phù thủy khác,” Goody Alsop bình tĩnh . “Bọn họ sợ chúng ta bởi chúng ta khác biệt. Nỗi sợ hãi làm nảy sinh coi thường, rồi căm ghét. Nó là câu chuyện quen thuộc rồi. Cũng từng có lúc các phù thủy tiêu diệt toàn bộ những gia đình để khỏi có những đứa bé lớn lên thành thợ dệt. Số ít thợ dệt sống sót gửi con họ trốn. Tình của cha mẹ đối với đứa trẻ chính là sức mạnh, cả hai người nhanh chóng khám phá ra thôi.”

      “Bà biết về đứa bé,” tôi thốt lên, hai tay di chuyển tới bảo vệ trước bụng mình.

      “Đúng thế.” Goody Alsop trang trọng gật đầu. “ tạo ra tấm dệt đầy quyền năng đấy, Diana. thể che giấu nó khỏi các phù thủy khác lâu quá đâu.”

      đứa trẻ ư?” Mắt Susanna trợn tròn lên. “ hoài thai giữa phù thủy và wearth ư?”

      phải là bất cứ phù thủy nào. Chỉ có những thợ dệt mới có thể tạo nên phép thuật như thế. Đó là lý do vì sao nữ thần chọn cho nhiệm vụ này, Susanna, cũng như lý do gọi tôi đến. bà đỡ, và tất cả kỹ năng của là cần thiết trong những ngày sắp tới.”

      “Tôi có kinh nghiệm giúp ích cho bà Roydon,” Susanna phản đối.

      vẫn trợ giúp những người phụ nữ trong việc sinh nở suốt bao năm đấy thôi,” Goody Alsop nhận xét.

      “Phụ nữ máu nóng, Goody, với những đứa trẻ máu nóng!” Susanna phẫn nộ đáp. “ phải những sinh vật giống…”

      “Wearth có tay có chân, cũng giống chúng ta thôi,” Goody Alsop cắt lời. “Ta thể tưởng tượng đứa bé này có gì khác lạ.”

      “Chỉ bởi vì nó có mười ngón tay, mười ngón chân có nghĩa nó có linh hồn,” Susanna , đưa mắt nhìn Matthew nghi hoặc.

      “Ta ngạc nhiên vì đấy, Susanna. Linh hồn của ông Roydon đây cũng trong sạch như ta và thôi. Có phải lại nghe lời chồng mình và những chuyện tầm phào của ông ta về ác quỷ trong wearth và tinh hả?”

      Miệng Susanna mím chặt lại. “Nếu đúng sao, Goody?”

      “Thế là đồ ngốc. Phù thủy nhìn thấy được cách hiển nhiên – cho dù chồng của họ có đầy vô lý nữa.”

      “Vấn đề dễ dàng như bà tin là vậy đâu,” Susanna cằn nhằn.

      “Cũng cần thiết phải quá khó khăn. Người thợ dệt được chờ đợi từ lâu ở giữa chúng ta đây, và chúng ta phải lên kế hoạch.”

      “Cảm ơn bà, Goody Alsop,” Matthew . nhõm khi có ai đó cuối cùng cũng đồng tình với . “Bà đúng. Diana phải học những gì ấy cần biết nhanh. ấy thể sinh đứa bé ở đây.”

      “Chuyện đó hoàn toàn phải quyết định của ông, ông Roydon. Nếu đứa trẻ được định là sinh ra ở London, vậy đó là nơi nó ra đời.”

      “Diana thuộc về nơi này,” Matthew , vội vàng bổ sung thêm, “tại London.”

      “Chúa ban phước cho chúng ta, điều đó đủ ràng rồi. Nhưng với tư cách là người se sợi thời gian, nên việc di chuyển ta tới nơi khác cũng chẳng giúp được gì. Diana chẳng ít bị nghi ngờ hơn khi ở Canterbury hay York.”

      “Vậy là bà biết các bí mật khác của chúng tôi rồi,” Matthew tặng bà lão cái nhìn trừng trừng lạnh lẽo. “Vì bà biết quá nhiều, nên bà cũng phải tiên đoán được rằng Diana trở về thời đại của ấy mình. Đứa bé và cả tôi cùng ấy. Bà dạy ấy những gì ấy cần để làm điều đó.” Matthew gánh lấy trách nhiệm, nó có nghĩa những chuyện này sắp khiến vòng quay thường nhật của họ tệ hơn.

      “Giáo dục vợ của ông giờ là chuyện của tôi, ông Roydon – trừ phi ông nghĩ mình biết nhiều hơn tôi về việc làm thợ dệt có nghĩa như thế nào,” Goody Alsop ôn tồn .

      ấy biết rằng đây là vấn đề giữa các phù thủy,” tôi với Goody Alsop, đặt bàn tay kiềm chế lên cánh tay . “Matthew can thiệp.”

      “Mọi chuyện về vợ tôi đều là việc của tôi, Goody Alsop,” Matthew . quay sang tôi. “Và đây phải vấn đề chỉ giữa các phù thủy thôi. thể, nếu các phù thủy ở đây có thể quay ra chống lại bạn đời và con của .”

      “Vậy đó là phù thủy chứ phải wearth làm bị thương,” Goody Alsop khẽ . “Ta cảm thấy vết thương và biết rằng phù thủy là phần trong đó nhưng hy vọng rằng bởi vì người phù thủy này chữa lành những tổn thương cho chứ phải gây ra nó. Thế giới thành cái thứ gì khi mà phù thủy lại làm điều như vậy với phù thủy khác?”

      Matthew gắn toàn bộ chú ý vào Goody Alsop. “Có thể phù thủy đó cũng nhận ra Diana là thợ dệt.”

      Vừa vặn tôi nghĩ tới Satu có thể biết. Căn cứ vào những gì Goody Alsop kể với tôi về thái độ của các đồng đạo phù thủy với những thợ dệt, ý tưởng Peter Knox và các bạn bè chí cốt của ở Đại Hội Đồng có thể nghi ngờ tôi che giấu bí mật như thế cũng khiến máu trong người tôi chạy đua rồi. Matthew tìm kiếm tay tôi, dùng cả hai tay để nắm lấy nó.

      “Có thể, nhưng ta chắc chắn được,” Goody Alsop với chúng tôi đầy tiếc nuối. “Tuy nhiên, chúng ta phải làm những gì có thể trong thời gian nữ thần ban cho để chuẩn bị cho Diana với tương lai của ấy.”

      “Dừng lại,” tôi , đập tay lên bàn. Chiếc nhẫn của Ysabeau phát ra tiếng kêu thanh thúy khi chạm vào mặt gỗ cứng. “Các người đều chuyện như thể việc làm thợ dệt này có ý nghĩa lắm vậy. Nhưng tôi thậm chí thể thắp cây nến. Tài năng của tôi là phép thuật. Tôi có nước, lửa – thậm chí cả lửa – trong máu mình.”

      “Nếu ta có thể thấy được linh hồn của chồng , Diana, ngạc nhiên là ta cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh của . Nhưng phải là lửa phù thủy, hay nước phù thủy, hay bất cứ thứ gì tin tưởng. thể ra lệnh cho các yếu tố tự nhiên này. Nếu đủ ngốc nghếch cố thử nó, bị hủy diệt.”

      “Nhưng tôi gần như chết đuối trong chính nước mắt của mình,” tôi bướng bỉnh . “Và để cứu Matthew tôi giết wearth bằng mũi tên của lửa phù thủy. Dì tôi nhận ra mùi đó.”

      lửa phù thủy cần đến các mũi tên. Lửa lời khỏi và đến mục tiêu của nó trong tức thời.” Goody Alsop lắc đầu. “Những thứ này đơn giản chính là việc dệt sợi, con của ta ạ, tạo nên hình dáng từ nỗi đau khổ và tình . Nữ thần ban phước lành của người cho , cho mượn sức mạnh cần nhưng tuyệt đối để ra lệnh cho bất cứ thứ gì trong số đó.”

      “Cho mượn chúng.” Tôi ngẫm nghĩ về những kiện gây nản lòng trong những tháng qua và ánh sáng lờ mờ của phép thuật bao giờ hành động như chúng được kỳ vọng. “Vậy đó là lý do vì sao các năng lực này đến rồi . Chúng bao giờ thực là của tôi.”

      phù thủy nào có thể nắm giữ quá nhiều sức mạnh trong mình mà làm đảo lộn cân bằng của các thế giới. thợ dệt lựa chọn cẩn thận từ phép thuật quanh mình và sử dụng nó để tạo hình dáng cho thứ gì đó mới mẻ.”

      “Nhưng phải có tới hàng nghìn câu thần chú tồn tại – chưa kể tới bùa mê và thuốc độc nữa. gì tôi tạo nên có thể là khởi nguồn cả.” Tôi đưa tay vuốt ngang trán, và vị trí Philippe tạo ra lời thề máu dường như lành lạnh khi được chạm vào.

      “Tất cả thần chú đều đến từ đâu đó, Diana: khoảnh khắc cần thiết, mong đợi, thử thách có thể bị bắt gặp theo bất kỳ cách nào khác. Và chúng cũng đến từ ai đó.”

      “Phù thủy đầu tiên,” tôi thầm thốt lên. số sinh vật khác người tin rằng Ashmole 782 chính là cuốn bí kíp đầu tiên, cuốn sách chứa những bùa mê và phép thuật khởi thủy được người của chúng tôi sáng tạo nên. Đây lại là kết nối khác giữa tôi và cuốn cổ thư bí kia. Tôi nhìn Matthew.

      “Thợ dệt đầu tiên,” Goody Alsop nhàng sửa lại, “cũng như những người nối tiếp họ. Các thợ dệt đơn thần là phù thủy, Diana. Susanna là phù thủy vĩ đại, với kiến thức về phép thuật của trái đất và toàn bộ hiểu biết cùng truyền thuyết nhiều hơn bất cứ người chị em nào của ấy ở London. Dù với tất cả những gì ấy được ban tặng, ấy cũng thể dệt nên câu thần chú mới. có thể.”

      “Tôi thậm chí hình dung nổi bắt đầu như thế nào,” tôi .

      làm nở ra chú gà con đó thôi,” Goody Alsop , chỉ về phía trái bóng lông vàng ươm ngủ.

      “Nhưng tôi cố thử đập vỡ trứng!” Tôi phản đối. Bây giờ khi tôi hiểu về thuật bắn cung, tôi ý thức được chuyện này là rắc rối. Phép thuật của tôi, giống như những mũi tên, trượt mục tiêu của nó.

      “Hiển nhiên là . Nếu chỉ đơn giản là cố làm nứt vỏ trứng, chúng ta được thưởng thức những chiếc bánh trứng tuyệt vời của Susanna rồi. Có điều gì đó trong tâm thức .” Chú gà con bày tỏ đồng tình, phát ra tiếng kêu đặc biệt lớn và tiếng chiếp ràng.

      Bà ấy đúng. Tôi quả có những ý nghĩ khác trong đầu mình: con của chúng tôi, liệu chúng tôi có thể chăm sóc cậu nhóc tử tế , làm thế nào chúng tôi có thể giữ cho nó được an toàn.

      Goody Alsop gật đầu. “Ta cũng nghĩ vậy.”

      “Tôi từ nào, thực nghi thức nào, chẳng pha chế thứ gì.” Tôi bám chặt vào những gì dì Sarah dạy về thuật phù thủy. “Tất cả những gì tôi làm là đặt ra vài câu hỏi. Chúng thậm chí cũng chẳng phải những câu hỏi hay ho đặc biệt gì cả.”

      “Phép thuật bắt đầu với khát vọng. Những lời đến muộn hơn nhiều, rất nhiều,” Goody Alsop giải thích. “Thậm chí sau đó thợ dệt thể luôn luôn chuyển đổi câu thần chú thành vài dòng chữ cho các phù thủy khác sử dụng. vài sản phẩm dệt kháng cự lại, cho dù chúng ta có cố gắng thử bao nhiêu. Chúng là chỉ dành cho chúng ta sử dụng thôi. Đó là lý do họ sợ chúng ta.”

      “‘Tất cả bắt đầu từ thiếu vắng và nỗi thèm khát,’” Tôi lẩm bẩm đọc. Quá khứ và tại lại va chạm nhau khi tôi nhắc lại dòng đầu tiên của khổ thơ trong trang giấy lấy từ Ashomole 782 mà người nào đó từng gửi đến cho cha mẹ tôi. Lần này, khi các góc phòng sáng lên và làm le lói những hạt bụi li ti trong bóng của màu xanh lam và vàng kim, tôi quay nhìn nơi khác. Cả Goody Alsop cũng thế. Ánh mắt Matthew và Susanna nhìn theo chúng tôi, nhưng ai thấy được bất cứ gì khác thường.

      “Chính xác. Thấy đó, cách mà thời gian cảm nhận vắng mặt của và muốn quay lại để dệt cho bản thân vào cuộc sống trước đây.” Bà lão cười tươi, vỗ hai bàn tay vào nhau như thể tôi làm cho bà bức vẽ hình ảnh ngôi nhà bằng bút chì màu đặc biệt đẹp đẽ và bà dự định trưng bày nó lên cánh cửa tủ lạnh. “Dĩ nhiên, thời gian chưa sẵn sàng cho bây giờ. Nếu nó sẵn sàng, màu xanh lam sáng rực rỡ hơn nhiều.”

      “Bà khiến nó nghe như có thể kết hợp phép thuật và thuật phù thủy vậy, nhưng chúng là riêng biệt mà,” tôi , vẫn còn thấy lúng túng. “Thuật phù thủy sử dụng thần chú, còn phép thuật là sức mạnh được thừa kế qua thành tố tự nhiên, giống như khí hay lửa.”

      “Ai dạy thứ ngớ ngẩn vô nghĩa đó thế?” Goody Alsop khịt mũi khinh thường, và Susanna trông thất kinh. “Phép thuật và thuật phù thủy chính là hai con đường mòn giao nhau trong rừng. thợ dệt có thể đứng ở ngã tư đường chân giẫm con đường. ta có thể chiếm lấy gian ở giữa, nơi các sức mạnh là lớn nhất.”

      Thời gian phản đối tiết lộ này bằng tiếng khóc lớn.

      đứa trẻ ở giữa, phù thủy ở bên,” tôi lẩm bẩm đọc trong nỗi băn khoăn. Bóng ma của Bridget Bishop cảnh báo tôi về những nguy hiểm liên quan với vị trí dễ tổn thương. “Trước khi chúng tôi đến đây, bóng ma của trong những vị tổ tiên của tôi – Bridget Bishop – cho tôi biết đó là số phận của tôi. Bà ấy chắc biết tôi là thợ dệt.”

      “Cả bố mẹ cũng vậy,” Goody Alsop . “Ta có thể nhìn thấy những sợi chỉ cuối cùng còn lại trong nút trói của họ. Cha cũng là thợ dệt. Ông ấy biết theo con đường của ông ấy.”

      “Cha ấy ư?” Matthew hỏi.

      “Các thợ dệt hiếm khi là nam giới, Goody Alsop,” Susanna nhắc nhở.

      “Cha Diana là thợ dệt có tài năng vĩ đại nhưng được rèn luyện. Thần chú của ông ấy rời rạc gắn với nhau chứ phải là tấm dệt hoàn thiện. Dù thế, nó được làm bằng tình phục vụ cho mục đích của nó thời gian dài, nó khá giống sợi dây xích trói vào với wearth của , Diana.” Sợi dây xích là vũ khí bí mật của tôi, mang đến cảm giác an ủi rằng tôi được gắn chặt vào với Matthew trong những khoảng thời gian đen tối nhất của mình.

      “Briget còn với tôi điều khác nữa vào đêm đó: ‘ có con đường nào về phía trước mà ta ở đó.’ Bà ấy hẳn cũng biết về Matthew,” tôi thú nhận.

      “Em chưa bao giờ kể với về cuộc chuyện này, mon Coeur,” Matthew nghe có vẻ tò mò nhiều hơn là bực bội.

      “Ngã tư đường, các lối mòn và những lời tiên đoán mơ hồ dường như quan trọng. Với mọi điều xảy ra sau đó, tôi quên rồi.” Tôi nhìn Goody Alsop. “Hơn nữa, làm thế nào tôi có thể tạo ra thần chú mà cần biết đến nó?”

      “Các thợ dệt được bao quanh bởi ,” Goody Alsop bảo tôi. “Chúng ta có thời gian để kiếm tìm câu trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của bây giờ mà phải tập trung thay vì dạy cách xử lý với phép thuật khi nó lướt qua .”

      “Sức mạnh của tôi vẫn ổn định,” tôi thừa nhận, nghĩ đến trái mộc qua héo rũ và đôi giày bị phá hủy của Mary. “Tôi chưa bao giờ biết làm thế nào tiếp theo cả.”

      “Đó phải chuyện gì khác thường đối với thợ dệt lần đầu đến với sức mạnh của bản thân. Nhưng tỏa sáng của có thể nhìn thấy và cảm nhận được, ngay cả với loài người.” Goody Alsop ngả người vào trong chiếc ghế bành và ngắm nghía tôi. “Nếu các phù thủy thấy glaem của tôi giống như Annie thấy, họ có thể dùng kiến thức này với các mục đích của họ. Chúng ta để hay đứa trẻ sa vào nanh vuốt của Hubbard. Ta tin tưởng ông có thể xử lý Đại Hội Đồng chứ?” Bà lão , nhìn sang Matthew. Goody Alsop diễn giải im lặng của Matthew như lời đồng ý.

      “Vậy tốt rồi. Hãy đến gặp ta vào thứ Hai và thứ Năm, Diana. Bà Norman gặp vào thứ Ba. Ta cử Marjorie Cooper vào thứ Tư, Elizabeth Jackson và Catherine Streeter vào thứ Sáu. Diana cần giúp đỡ của họ để điều hòa lửa và nước trong máu của ấy, nếu ấy chẳng bao giờ tạo ra được cái gì hơn là hơi nước.”

      “Có lẽ khôn ngoan khi cho tất cả các phù thủy đó chia sẻ bí mật đặc biệt này, Goody,” Matthew .

      “Ông Roydon đúng đấy. có quá nhiều lời xì xào về phù thủy này. John Chandler vẫn lan truyền tin tức về bà ấy để lấy lòng Cha Hubbard. Chắc chắn chúng ta có thể tự mình dạy ấy,” Susanna .

      “Và trở thành lửa phù thủy từ khi nào hả?” Goody Alsop vặn lại. “Máu của đứa bé đầy lửa. Sức mạnh của ta do nước phù thủy thống trị, còn của là sức mạnh của đất. Chúng ta đủ cho nhiệm vụ này.”

      “Nhóm của chúng ta lôi kéo quá nhiều chú ý nếu hành động theo kế hoạch của bà. Chúng ta có mười ba phù thủy, nhưng bà dự định lôi kéo năm người vào việc này. Hãy để nhóm khác đảm nhận vấn đề của bà Roydon – nhóm ở Moorgate, hoặc có thể là Aldgate.”

      “Nhóm Aldgate phát triển quá lớn, Susanna. Nó thể quản lý được vụ của chính mình, chứ chẳng có tâm trí mà đảm nhận việc giáo dục thợ dệt. Hơn nữa, chỗ đó quá xa tiện cho tôi di chuyển, và bầu khí tồi tệ do thành phố đầy mương rạch đó làm cho chứng thấp khớp của tôi càng tệ hơn. Chúng ta đào tạo ấy trong giáo xứ này, như nữ thần định.”

      “Tôi thể…” Susanna bắt đầu.

      “Ta là tiền bối của , Susanna. Nếu muốn phản đổi thêm nữa, cần phải kiếm phán quyết từ Rede.” Bầu khí nặng nề cách khó chịu.

      “Tốt thôi, Goody. Tôi gửi cầu của mình tới Queenhithe.” Susanna dường như bị giật mình vì tuyên bố của chính mình.

      “Ai là Nữ hoàng Hithe vậy?” Tôi hạ thấp giọng hỏi Matthew.

      “Queenhithe là địa danh, phải người,” thào. “Nhưng chuyện về cây sậy này là sao?”

      “Em cũng biết,” tôi thú nhận.

      “Thôi thầm ,” Goody Alsop , lắc đầu dáng vẻ bực bội. “Với bùa phép yểm cửa sổ và cửa ra vào, những tiếng rì rầm của mấy người khuấy động khí làm đau tai ta đấy.”

      lần nữa bầu khí lại im ắng, Goody Alsop tiếp tục. “Susanna thử thách uy quyền của ta trong vấn đề này. Vì ta là lãnh đạo của nhóm Garlickhythe – và đồng thời là tiền bối bề theo phân khu trong thành phố của Vintry – bà Norman phải trình bày trường hợp của bà ấy cho bề phân khu khác ở London. Họ quyết định phương thức hành động của chúng ta, khi họ làm thế lúc nào cũng có bất đồng ý kiến giữa các phù thủy. Có hai mươi sáu tiền bối bề , và chúng ta được biết đến với tư cách là hội đồng Rede.”

      “Vậy đây chỉ là vấn đề chính kiến ư?” Tôi .

      “Chính kiến và tính thận trọng. có cách nào để dàn xếp cuộc tranh cãi của chúng tôi, cha Hubbard nhúng ngón tay wearth của ông ta vào vụ của chúng tôi nhiều hơn,” Goody Alsop . “Tôi xin lỗi nếu có xúc phạm ông, ông Roydon.”

      có xúc phạm nào cả, Goody Alsop. Nhưng nếu bà đưa vấn đề này ra với các tiền bối bề của bà, Diana bị cả London biết đến.” Matthew đứng lên. “Tôi thể đồng ý chuyện đó.”

      “Mọi phù thủy trong thành phố đều nghe về vợ ông. Tin tức ở đây truyền rất nhanh, cũng phải cảm ơn người bạn Christopher Marlowe của ông đấy,” Goody Alsop , nghển cổ lên để đón ánh mắt . “Ngồi xuống , ông Roydon. Bộ xương già của ta cong lên để tiếp chuyện nổi nữa đâu.” Trước kinh ngạc của tôi, Matthew ngồi xuống .

      “Các phù thủy ở London vẫn biết là thợ dệt đâu, Diana, và đó mới là điều quan trọng,” Goody Alsop tiếp. “Dĩ nhiên hội đồng Rede được cho biết. Khi những phù thủy khác nghe được gọi tới trước các tiền bối bề , họ mặc định bị trừng phạt vì mối quan hệ với ông Roydon, hoặc rằng bị trói buộc theo kiểu cách nào đó để giữ cho ông ta thể kiếm lợi thêm thông qua máu và sức mạnh của .”

      “Cho dù họ có quyết định thế nào, bà vẫn là giáo viên của tôi chứ?” Tôi quen với chống đối khinh miệt của các phù thủy khác và biết tốt hơn hết là hy vọng các phù thủy ở London chấp nhận mối quan hệ của tôi với Matthew. Vấn đề liệu Marjorie Cooper, Elizabeth Jackson, và Catherine Streeter (cho dù họ là ai nữa) có tham gia vào chế độ giáo dục của Goody Alsop hay cũng chẳng mấy quan trọng. Nhưng Goody Alsop khác. Đây là phù thủy mà tôi muốn có được tình bạn và giúp đỡ của bà.

      “Ta là phù thủy cuối cùng ở London này và là trong ba thợ dệt được biết đến thế giới. Thợ dệt người Scotland Agnes Sampson nằm trong nhà tù ở Edinburgh. ai thấy hay nghe gì về thợ dệt người Ireland từ nhiều năm nay. Rede có lựa chọn nào khác ngoài việc để ta hướng dẫn .” Goody Alsop cam đoan với tôi.

      “Khi nào các phù thủy họp mặt?” Tôi hỏi.

      “Ngay khi có thể sắp xếp,” Goody Alsop hứa.

      “Chúng tôi sẵn sàng,” Matthew cam đoan với bà.

      “Có số việc vợ ông phải tự làm, ông Roydon. Mang thai đứa bé và gặp hội đồng Rede nằm trong số đó,” Goody Alsop đáp. “Niềm tin tưởng phải là việc dễ dàng đối với wearth, ta biết, nhưng ông phải cố gắng vì lợi ích của ấy.”

      “Tôi tin tưởng vợ mình. Bà cảm nhận được điều các phù thủy làm với ấy rồi đấy, vậy nên bà chẳng ngạc nhiên khi tôi tin tưởng chút nào vào đồng loại của bà lúc ở bên ấy,” Matthew .

      “Ông phải cố gắng thôi,” Goody Alsop lặp lại. “Ông thể xúc phạm hội đồng Rede. Nếu ông làm thế, Hubbard phải can thiệp. Hội đồng Rede chịu nổi thêm sỉ nhục đó và khăng khăng đòi lôi Đại Hội Đồng dính líu vào. Cho dù bất đồng của chúng ta là gì nữa, ai trong căn phòng này muốn Đại Hội Đồng hướng chú ý tập trung vào London, ông Roydon.”

      Matthew cân nhắc giải pháp cả Goody Alsop. Cuối cùng gật đầu. “Tốt thôi, Goody.”

      Tôi là thợ dệt.

      Rất nhanh thôi tôi làm mẹ.

      đứa trẻ ở giữa, phù thủy ở bên, giọng của bóng ma Bridget Bishop thầm.

      Cái hít hơi mạnh của Matthew cho tôi biết rằng phát thấy thay đổi trong mùi hương của tôi. “Diana mệt rồi và cần về nhà.”

      ấy mệt mà sợ hãi. Thời gian dành cho lo sợ qua rồi, Diana. phải đối mặt với việc mình là ai,” Goody Alsop với dáng vẻ điềm tĩnh lấy làm tiếc.

      Nhưng nỗi lo lắng của tôi cứ tiếp tục dâng lên thậm chí sau khi chúng tôi an toàn trở về Hươu Đực và Vương Miện. Khi ở nhà, Matthew cởi bỏ chiếc áo khoác may chần. phủ nó bao quanh người tôi, cố đẩy lùi khí lạnh giá. Lớp vải vẫn lưu lại mùi đinh hương và quế của , cùng với dấu vết ám khói từ bếp lửa của Susanna và khí ẩm ướt của London.

      “Em là thợ dệt.” Có lẽ nếu tôi tiếp tục thế, thực tế này bắt đầu có ý nghĩa. “Nhưng em biết điều đó có ý nghĩa gì, hay em là ai nữa.”

      “Em là Diana Bishop – sử gia, phù thủy.” nắm lấy hai vai tôi. “Cho dù em từng là gì khác trước đây hay có thể là sau này, đây vẫn là em. Và em là cuộc đời .”

      “Vợ ,” tôi sửa lời .

      “Cuộc đời ,” lặp lại. “Em chỉ là trái tim mà còn là nhịp đập của trái tim . Trước đây chỉ là cái bóng, giống như cái bóng của Goody Alsop ấy.” Trọng của nhấn mạnh hơn, giọng trầm khàn đầy xúc cảm.

      “Rốt cuộc em đáng lẽ nên nhõm vì biết ,” tôi qua hai hàm răng run rẩy trong khi leo vào giường. Cái lạnh dường như ngấm vào tận xương tủy tôi. “Cả đời mình, em thắc mắc tại sao mình khác biệt thế. Giờ em biết, nhưng nó chẳng giúp gì được cả.”

      ngày nào đó nó có ích,” Matthew hứa hẹn, gia nhập hội cùng tôi dưới chiếc chăn phủ giường. vòng hai cánh tay quanh người tôi. Chúng tôi len chân vào nhau giống như những rễ cây, quấn lấy nhau. Sâu thẳm trong tôi, sợi dây xích mà bằng cách nào đấy tôi rèn ra được từ tình và nỗi niềm mong nhớ dành cho người, bắt đầu thay đổi. Nó dày dặn và thể bẻ gãy, được lấp đầy nhựa sống chảy ngừng từ phù thủy sang ma cà rồng và quay trở về phù thủy. Chẳng mấy chốc tôi còn cảm thấy bất cứ khoảng cách, chỉ còn dồn tụ của hạnh phúc, trọn vẹn. Tôi hít vào hơi thở sâu, rồi lại tiếp hơi nữa. Khi tôi thử kéo người ra, nhưng Matthew cho.

      chưa sẵn sàng buông em ra đâu,” , kéo tôi vào gần sát hơn.

      còn phải làm việc mà – cho Đại Hội Đồng, Philippe, Elizabeth. Em khỏe mà, Matthew,” tôi khăng khăng, mặc dù muốn ở lại trong lòng càng lâu càng tốt.

      “Ma cà rồng tính toán thời gian khác các sinh vật máu nóng,” , vẫn nguyện ý thả tôi ra.

      “Vậy phút của ma cà rồng là bao lâu?” Tôi hỏi, dụi dụi vào cằm .

      “Rất khó ,” Matthew lầm bầm. “Độ dài thời gian đôi khi nằm giữa phút thông thường và mãi mãi.”

      69. Cây sậy tiếng là reed, Matthew nghe nhầm Rede thành cây sậy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :