Mật mã Phù thủy 2A - Deborah Harkness [Kỳ Bí]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      người hùng với mái tóc đen và đôi mắt màu xanh lá tên là Peleus rời khỏi quê hương để tìm kiếm vận may cho mình. Đó là nơi rất giống Saint–Lucien, mình trong những rặng núi, nhưng Peleus từ lâu mơ về biển cả và những chuyến phiêu lưu mà chàng ta có thể trải qua ở những vùng đất xa lạ. Chàng tập hợp đám bằng hữu của mình lại, và họ cùng chu du qua các đại dương của thế giới. Ngày nọ, họ đến hòn đảo nổi tiếng bởi những người phụ nữ xinh đẹp có phép thuật quyền năng.” Matthew và tôi trao đổi những cái nhìn dài. Giọng trầm ấm của Philippe ngân lên:

      Hạnh phúc hơn cả đó là thời đại dành cho đấng mày râu

      Để giờ đây thương mong mỏi! Các ngài – những hùng,

      Dòng dõi của thần thánh trong thời đại bạc, xin hãy ban ân cho con

      Khi con gọi các ngài lúc này bằng bài ca màu nhiệm của con.

      Cả căn phòng bị thôi miên bởi giọng hát trầm bổng thần tiên của Philippe.

      “Ở nơi đó, Peleus lần đầu tiên trông thấy Thetis, con của Nereus, vị thần biển cả, người bao giờ dối và nhìn thấy được tương lai. Từ cha mình, Thetis có được khả năng tiên tri và có thể vặn mình biến hình từ những con nước di chuyển cho đến ngọn lửa sống động rồi đến khí. Mặc dù Thetis rất xinh đẹp, nhưng ai xin cưới nàng làm vợ cả, vì lời sấm tiên tri rằng con trai nàng có sức mạnh hơn cả cha của nó.

      Peleus Thetis bất chấp lời tiên tri kia. Nhưng để cưới người phụ nữ như thế, chàng phải có đủ dũng cảm để giữ chặt Thetis mỗi khi nàng biến đổi. Peleus mang Thetis rời hòn đảo và ôm chặt lấy nàng vào trái tim mình trong khi nàng biến đổi từ nước thành lửa, thành mãng xà, rồi thành sư tử. Khi Thetis trở lại thành người đàn bà, chàng đưa nàng về quê hương và hai người cưới nhau.”

      “Thế còn đứa trẻ? Có phải con trai của Thetis tiêu diệt Peleus như điềm báo tiên tri ?” phụ nữ thầm hỏi khi Philippe chìm vào im lặng, các ngón tay ông vẫn lướt tạo nên những nốt nhạc từ cây đàn kithara.

      “Con trai của Peleus và Thetis là hùng vĩ đại, chiến binh được ban phước cả khi sống lẫn khi chết, tên gọi Achilles.” Philippe mỉm cười với người phụ nữ nọ. “Nhưng đó là câu chuyện dành cho buổi tối khác.”

      Tôi mừng vì cha tường thuật tỉ mỉ cả đám cưới đó và cuộc chiến thành Trojan nổ ra như thế nào. Và tôi thậm chí còn mừng hơn là ông tiếp tục kể câu chuyện về thời trẻ của Achilles: những bùa chú khủng khiếp mà mẹ chàng dùng để cố gắng khiến cho chàng thành bất tử như bà hay cơn cuồng nộ thể kiểm soát được – là nguyên nhân khiến chàng ta gặp rắc rối hơn nhiều so với cái gót chân được bảo vệ nổi tiếng của mình.

      “Chỉ là câu chuyện thôi mà,” Matthew thầm , cảm nhận được thoải mái của tôi.

      Nhưng nó là những câu chuyện được các sinh vật kể kể lại, hết lần này tới lần khác mà biết chúng có ý nghĩa gì, đó lại thường là điều quan trọng nhất, cũng như các nghi thức về danh dự, hôn nhân và gia đình ăn mòn thời gian mà người đời tổ chức cách trang trọng thiêng liêng nhất cho dù họ thường có vẻ như thờ ơ với chúng.

      “Ngày mai là ngày quan trọng, ngày mà tất cả chúng ta đều mong ngóng.” Philippe đứng dậy, cây đàn kithara cầm trong tay. “Theo tục lệ dâu và chú rể phải tách riêng cho tới lễ cưới.”

      Đây lại là nghi thức khác: thời khắc trang trọng cuối cùng của chia tách được tiếp nối bằng cuộc sống chung hưởng cùng nhau.

      “Tuy nhiên, dâu có thể tặng cho chú rể kỷ vật tình để đảm bảo ta quên dâu của mình trong suốt những giờ đơn qua đêm đó,” Philippe , hai mắt lấp lánh tinh quái.

      Matthew và tôi đứng dậy. Tôi vuốt xuôi váy mình, chú ý của tôi dồn cả lên chiếc áo chẽn ngoài của . Tôi nhận thấy đường may rất đẹp, xíu và đều đặn. Những ngón tay dịu dàng nâng cằm tôi lên, tôi lạc hồn vào trò chơi giữa những đường cong mềm mại và các góc cạnh sắc nét tạo nên khuôn mặt Matthew. Tất cả cảm giác về buổi lễ đều biến mất khi chúng tôi đắm đuối nhìn nhau. Chúng tôi đứng giữa sảnh đường và khách khứa dự đám cưới, nụ hôn này là câu thần chú mang cả hai vào thế giới thân mật của riêng mình.

      gặp em vào chiều mai,” Matthew thầm môi tôi khi chúng tôi tách ra.

      “Em là người sau tấm mạng đó.” Hầu hết các dâu ở thế kỷ mười sáu đeo mạng, nhưng chúng là món trang phục cổ xưa, và Philippe con nào của ông đến nhà thờ mà thiếu nó cả.

      nhận ra em ở bất cứ nơi đâu,” đáp, mỉm cười rạng rỡ với tôi, “dù có mạng hay .”

      Ánh mắt Matthew hề dao động trong khi Alain hộ tống tôi rời khỏi phòng. Tôi cảm thấy đụng chạm của chúng, mát lạnh mà chớp mắt, lâu sau khi tôi rời khỏi sảnh đường.

      Ngày hôm sau, Catrine và Jehanne im ắng khẽ khàng đến nỗi tôi ngủ mạch qua cả lúc họ làm những công việc vặt thường ngày vào buổi sáng. Mặt trời lên cao khi họ kéo màn trướng che quanh chiếc giường và thông báo đến giờ tôi dậy tắm rửa.

      đoàn phụ nữ với bình đựng nước diễu hành vào phòng tôi, tán chuyện liên thanh như đại bác và đổ đầy cái bồn tắm lớn bằng đồng mà tôi nghi ngờ vốn thường được dùng để làm rượu vang hoặc rượu táo. Nhưng nước chảy vào bồn nóng và cái chậu lớn bằng đồng vẫn còn giữ được vẻ ấm áp rực rỡ kia, nên tôi chẳng buồn thắc mắc nữa. Tôi ngây ngất chìm hẳn người xuống dưới mặt nước.

      Những người phụ nữ để mặc cho tôi ngâm mình, và tôi nhận ra vài thứ đồ dùng cá nhân của mình – những cuốn sách, giấy ghi chép viết về thuật giả kim và vài cụm từ tiếng Occitan – biến mất. Cả chiếc tủ búp phê dài thấp đựng quần áo cũng thế. Khi tôi hỏi Catrine, ấy giải thích rằng mọi thứ được di chuyển đến dãy phòng ngủ của milord ở phía mặt bên kia lâu đài.

      Tôi còn là con của Philippe nữa, mà là vợ của Matthew rồi. Tài sản của tôi theo đó được di chuyển.

      Catrine và Jehanne tận tình đưa tôi ra khỏi bồn tắm và lau khô người đúng lúc đồng hồ điểm tiếng. Giám sát nỗ lực công việc của họ là Marie, thợ may giỏi nhất Saint–Lucien, đến để hoàn thành nốt các chi tiết cuối cùng trong công việc của mình. Những đóng góp cho việc hoàn thành chiếc váy cưới này – do người thợ may của làng, ông Beaufils làm ra – được công nhận.

      Công bằng mà về Marie, La Robe (tôi nghĩ ấn tượng chung của mình chỉ ở tiếng Pháp, mà luôn là những chữ cái viết hoa) đẹp mắt. Làm sao ấy có thể hoàn thành nó trong khoảng thời gian ngắn như thế còn là điều bí mật, dù tôi ngờ là mọi phụ nữ trong vùng lân cận đều đóng góp ít nhất là mũi khâu vào đó. Trước khi Philippe tuyên bố tôi kết hôn, kế hoạch này vốn chỉ là chiếc váy đơn giản bằng lụa màu xám đen nặng nề. Tôi khăng khăng cầu cặp tay áo, phải là hai, và đường cổ cao để phòng tiết trời mùa đông. cần phải quá rắc rối với việc thêu thùa, tôi bảo Marie thế. Tôi cũng từ chối hỗ trợ của chiếc lồng váy phồng thái quá nhằm giúp xòe rộng chân váy ra mọi phía.

      Marie vận dụng mọi quyền uy của mình trong việc hiểu lầm và sáng tạo nhằm thay đổi thiết kế ban đầu của tôi lâu trước khi Philippe cho ta biết chiếc váy được mặc ở đâu và vào dịp nào. Sau đó gì kiềm giữ được người phụ nữ này lại nữa.

      “Marie, La Robe est belle,” tôi bảo ta, chỉ vào chất lụa thêu nặng nề. Cách điệu sừng dê kết hoa quả, biểu tượng quen thuộc của trù phú dồi dào và sinh sôi nảy nở, được thêu khắp nơi bằng chỉ vàng, đen hay màu hoa hồng. Nơ hoa hồng và những nhánh lá kèm các chiếc sừng đầy hoa, trong khi những dải thêu viền theo mép cả hai ống tay áo. Cùng nhiều dải thêu như thế trang trí viền thân áo trong nền uốn lượn của những hình cuộn, mặt trăng và các vì sao. hai vai, hàng viền hình vuông gọi là pickadil bị che khuất dưới đăng ten nối tay với thân áo. Bất chấp loạt trang trí cầu kì tỉ mỉ này, những đường cong tao nhã thân váy vừa khít cách hoàn hảo, còn mong ước của tôi về cái lồng váy phồng ít nhất được tôn trọng. Chân váy đầy đặn, nhưng do khối lượng vải chứ vì bất cứ dụng cụ kim loại nào. Thứ duy nhất tôi mặc bên dưới váy lót dài là cái miếng độn kiểu bánh rán vòng nằm hông tôi và đôi tất lụa dài.

      “Nó có dáng vẻ mạnh mẽ. Rất đơn giản.” Marie cam đoan với tôi, kéo mạnh phần đáy của thân áo để giúp nó nằm thẳng thớm hơn.

      Khi mái tóc tôi gần được làm xong có tiếng gõ cửa. Catrine lao tới mở cửa, xoay ngược chiếc giỏ đựng khăn tắm đường ra.

      Đó là Philippe, trông rất tuyệt vời trong bộ cánh màu nâu sậm, cùng với Alain đứng phía sau ông. Cha của Matthew nhìn chòng chọc sửng sốt.

      “Diana?” Giọng Philippe nghe có vẻ chắc chắn.

      “Gì thế ạ? Có gì ổn sao?” Tôi nhìn bao quát khắp chiếc váy dài của mình và lo lắng vỗ lên mái tóc. “Chúng ta có chiếc gương nào đủ lớn để con nhìn cả…”

      “Con xinh đẹp, và ánh mắt của Matthew khi nó trông thấy con cho con biết điều này tốt hơn bất cứ chiếc gương nào,” Philippe chắc nịch.

      “Còn cha chiếc lưỡi bằng bạc, Philippe de Clermont ạ,” tôi cười đáp. “Cha có việc gì cần con sao?”

      “Ta đến để tặng quà cưới.” Philippe đưa tay ra và Alain đặt túi nhung lớn vào lòng bàn tay ông. “ có thời gian để làm thứ gì cả, ta e là thế. Đây là mấy món của gia đình.”

      Ông đổ những thứ trong túi ra tay. luồng sáng và ánh lửa ào ra: vàng, kim cương, sapphire. Tôi thở hắt. Nhưng vẫn còn nhiều báu vật hơn giấu bên trong lớp nhung, bao gồm cả sợi dây ngọc trai, vài hình trăng lưỡi liềm đính đá opal, và đầu mũi tên bằng vàng hình dáng khác lạ, các đường mép của nó bị làm mềm theo thời gian.

      “Chúng để làm gì ạ?” Tôi băn khoăn hỏi.

      “Tất nhiên là để cho con đeo rồi,” Philippe , bụm miệng cười. “Sợi dây chuyền này là của ta, nhưng khi trông thấy chiếc váy dài của Marie, ta nghĩ kim cương màu vàng và đá sapphire trông bị lạc lõng. Kiểu dáng cổ xưa, và số người có thể nó quá nam tính đối với dâu, nhưng sợi dây chuyền chuỗi này vừa vặn với con. Nguyên bản có cây thánh giá treo ở chính giữa, nhưng ta nghĩ con có thể thích treo mũi tên thay vào đó hơn.”

      “Con nhận ra những bông hoa này.” Những nụ hoa mới hé màu vàng mảnh mai gợi cho tôi nhớ đến loài lan Nam Phi, chúng được xen kẽ với những bông huệ tây bằng vàng viền ngoài bởi những viên sapphire.

      “Planta genista. Người gọi nó là hoa đậu chổi. Người nhà Angevins dùng nó làm biểu tượng gia huy của họ.”

      Ông ám chỉ những người nhà Plantagenet: gia đình hoàng tộc quyền lực nhất trong lịch sử nước . Những người nhà Plantagenet mở rộng tu viện Westminster, nhượng bộ các nam tước và ký Đại Hiến Chương, thành lập Nghị viện, và hỗ trợ thành lập các trường đại học Oxford hay Cambridge. Những người thống trị nhà Plantagenet chiến đấu trong Cuộc Thập Tự Chinh và trải qua Cuộc Chiến Trăm Năm với nước Pháp. trong số họ tặng sợi dây chuyền này cho Philippe như dấu hiệu của ân huệ hoàng gia. gì khác có thể lý giải cho vẻ lộng lẫy này.

      “Philippe, con thể nào…” Những lời phản đối của tôi ngưng lại khi ông chuyển các trang sức khác cho Catrine và choàng sợi dây chuyền qua đầu tôi. Người phụ nữ ngây người nhìn đáp lại tôi từ tấm gương u còn là sử gia thời đại nữa, chẳng khác gì Matthew từng là nhà khoa học đại cả. “Ôi,” tôi thốt lên trong kinh ngạc.

      phi thường,” ông tán đồng. Mặt ông xịu vẻ tiếc nuối. “Ta ước gì Ysabeau có thể ở đây để nhìn thấy con như thế này, và chứng kiến hạnh phúc của Matthew.”

      ngày nào đó, con kể cho mẹ mọi chuyện,” tôi khẽ hứa, đón lấy ánh nhìn mê mải của ông trong gương khi Catrine buộc chặt mũi tên vào phía trước sợi dây chuyền và đeo chuỗi ngọc trai qua mái tóc tôi. “Con cũng giữ cẩn thận số trang sức này tối nay, và đảm bảo chúng trở lại với cha vào sáng mai.”

      “Những thứ này giờ thuộc về con, Diana, liên quan đến những việc con phải làm. Như thứ này này.” Philippe kéo chiếc túi khác từ thắt lưng của ông rồi đưa nó cho tôi, chiếc túi da bền chắc.

      nặng. Rất nặng.

      “Phụ nữ trong gia đình này tự điều hành tài chính của họ. Ysabeau khăng khăng điều đó. Tất cả tiền xu trong đây đều là tiền của hoặc Pháp. Chúng có giá trị bằng đồng ducat của Venice, nhưng bớt phiền phức hơn khi con tiêu chúng. Nếu con cần thêm nữa, chỉ phải hỏi Walter hoặc ai đó trong dòng tu.”

      Khi tôi đến Pháp, tôi hoàn toàn phụ thuộc vào Matthew. Trong vòng chỉ hơn tuần lễ, tôi học được cách tự chủ, trò chuyện, điều hành gia vụ và chưng cất rượu cồn. Giờ tôi có tài sản riêng của mình, và Philippe de Clermont tuyên bố công khai tôi là con ông.

      “Cảm ơn cha, vì tất cả những điều này,” tôi khẽ đáp. “Con nghĩ cha muốn con là con dâu đâu.”

      “Có lẽ ban đầu . Nhưng những lão già cũng có thể đổi ý mà.” Philippe toét miệng cười tươi. “Và ta luôn luôn có được thứ ta muốn vào phút cuối cùng.”

      Đám phụ nữ bọc tôi trong chiếc áo choàng tay. Để kết thúc, Catrine và Jehanne còn thả tấm lụa mỏng tang trùm qua đầu rồi ghim nó vào tóc tôi bằng những vầng trăng lưỡi liềm đá opal, chúng có nhiều chân gài bám chắc ở mặt sau.

      Thomas và Étienne, giờ tự coi bản thân là các vệ sĩ riêng của tôi, dẫn đầu chạy trước xuyên qua lâu đài để loan báo chúng tôi đến bằng lượng phổi cao nhất. Tất cả nhanh chóng tạo thành đoàn rước, di chuyển dưới ánh chiều tà hướng về phía nhà thờ. Ai đó hẳn có mặt tít tháp chuông nên ngay khi thấy chúng tôi, những chiếc chuông bắt đầu rung lên ngân nga.

      Tôi loạng choạng khi đến nơi. Cả làng tụ tập bên ngoài cửa nhà thờ, cùng với vị linh mục. Tôi đưa mắt tìm kiếm Matthew và thấy đứng nơi bậc cao nhất bậc thềm ngắn. Qua lớp khăn voan trong suốt, tôi có thể cảm thấy được quan tâm của . Giống như mặt trời và mặt trăng, vào lúc này đây chúng tôi chẳng liên quan gì tới thời gian, khoảng cách, hay khác biệt. Quan trọng là vị trí của cả hai tương xứng với nhau.

      Tôi nâng váy tiến tới bên . Leo những bậc thang ngắn ngủi mà có cảm giác như vô tận. Có phải thời gian đều cư xử đáng ghét như thế này với tất cả các dâu , tôi tự hỏi, hay là chỉ với các phù thủy thôi?

      Vị linh mục cười rạng rỡ với tôi từ cánh cửa nhà thờ nhưng hề tỏ vẻ gì cho phép chúng tôi vào bên trong. Ông ta cầm chặt cuốn sách bằng hai bàn tay nhưng mở nó ra. Tôi cau mày bối rối.

      “Ổn cả chứ, mon coeur?” Matthew thầm hỏi.

      “Chúng mình vào bên trong à?”

      “Các hôn lễ diễn ra ở bên ngoài cánh cửa nhà thờ để tránh những cuộc tranh chấp đẫm máu, sau đó nghi lễ lại diễn ra như bình thường. Chúng ta có thể tạ ơn Chúa là trận bão tuyết.”

      “Commencez!” Vị linh mục ra lệnh, gật đầu với Matthew.

      Toàn bộ vai trò của tôi trong buổi lễ là thốt ra bảy từ. Matthew chịu trách nhiệm với mười lăm từ. Philippe thông tin cho vị linh mục biết rằng chúng tôi sau đó lặp lại lời thề bằng tiếng , bởi vì quan trọng là dâu phải hiểu cách đầy đủ những gì ấy hứa hẹn. Việc này khiến cho tổng cộng số từ cần thiết để chúng tôi trở thành vợ chồng lên tới năm mươi hai từ.

      “Maintenant!” Vị linh mục run lẩy bẩy và muốn ăn bữa tối của ông ta rồi.

      “Je, Matthew, donne mon corps à toi, Diana, en loyal marriage.” Matthew cầm lấy tay tôi. “Tôi, Matthew, xin dâng tặng thân thể này cho em, Diana, trong đời sống vợ chồng chung thủy.”

      “Et je le reçois,” tôi đáp. “Em xin đón nhận.”

      Chúng tôi được nửa đường rồi. Tôi hít vào hơi sâu và tiếp tục.

      “Je, Diana, donne mon corps à toi, Matthew.” Phần khó khăn qua, tôi nhanh chóng lời cuối cùng của mình. “Tôi, Diana, xin dâng tặng thân thể này cho , Matthew.”

      “Et je le reçois, avec joie.” Matthew vén tấm khăn voan qua đầu tôi. “Và đón nhận nó, với niềm hân hoan hạnh phúc.”

      “Những lời đó đúng,” tôi gay gắt . Tôi ghi nhớ lời thề và hề có cụm từ “avec joie” ở chỗ nào trong đó cả.

      “Thế là đúng rồi,” Matthew khăng khăng, cúi gần lại.

      Chúng tôi kết hôn theo tục lệ của ma cà rồng khi kết đôi và lần nữa theo luật lệ đời thường lúc Matthew đeo chiếc nhẫn của Ysabeau vào ngón tay tôi ở Madison. Bây giờ chúng tôi cưới lần thứ ba.

      Những gì diễn ra sau đó đều mờ nhạt . hàng đuốc dài dọc theo đường bộ ngược lên đồi bao quanh bởi nhiều lời chúc tụng tốt lành. Bữa tiệc linh đình của Đầu Bếp được bày sẵn, mọi người bị cuốn vào bầu khí hăng hái náo nhiệt. Matthew và tôi ngồi riêng ở bàn gia đình, trong khi Philippe loanh quanh để cung cấp rượu và đảm bảo lũ trẻ có được phần chia bằng nhau món thịt thỏ rừng xiên nướng kèm phô mai chiên. Thỉnh thoảng ông lại ném về phía chúng tôi cái nhìn hãnh diện tự hào, như thể chúng tôi giết được những con rồng hung dữ vào chiều hôm đó.

      “Ta bao giờ nghĩ mình được thấy ngày này,” Philippe với Matthew khi ông đặt lát bánh tart trứng sữa trước mặt chúng tôi.

      Bữa tiệc dường như thoái trào khi đám đàn ông bắt đầu đẩy bàn ghế sang hai bên cánh của sảnh đường. Tiếng sáo và tiếng trống vang lên từ khu ban công dành cho ban nhạc hát rong phía cao.

      “Theo truyền thống, điệu vũ đầu tiên thuộc về bố của dâu,” Philippe cúi đầu chào lịch . Ông dẫn tôi ra sàn khiêu vũ. Philippe là bạn nhảy tuyệt vời, nhưng dù vậy tôi vẫn làm cho cả hai rối tung lên.

      “Cho phép con chứ?” Matthew vỗ lên vai cha mình.

      “Xin vui lòng. Vợ con cố gắng giẫm nát chân ta đây.” Cái nháy mắt của Philippe lấy vẻ châm chọc trong lời , rồi ông rút lui, để tôi lại với chồng của mình.

      Mọi người vẫn khiêu vũ, nhưng họ rút ra xa để cho chúng tôi ở chính giữa căn phòng. Tiếng nhạc chậm rãi khoan thai cất lên khi nhạc công gảy đàn luýt, rồi chuỗi giai điệu ngọt ngào của sáo hòa theo. Khi chúng tôi tách ra rồi lại quay về cùng nhau, lần, hai lần, và lần nữa, huyên náo trong phòng mờ nhạt dần.

      là bạn nhảy giỏi hơn Philippe nhiều, cho dù mẹ nữa,” tôi bảo Matthew và nín thở mặc dù điệu nhảy vào nhịp.

      “Đó là bởi vì em theo dẫn dắt của ,” Matthew trêu chọc. “Em chiến đấu với Philippe trong từng bước nhảy còn gì.”

      Khi điệu vũ đưa chúng tôi lại bên nhau lần nữa, nắm lấy hai khuỷu tay kéo tôi áp sát vào người, và hôn tôi. “Giờ chúng mình lấy nhau rồi đấy, em tiếp tục tha thứ cho những tội lỗi của chứ?” hỏi, trở lại với các bước nhịp đều đặn.

      “Cái đó còn tùy,” tôi dè chừng đáp. “Thế giờ phạm lỗi gì rồi hả?”

      phải lòng cái cổ áo xếp nếp của em vô phương cứu vãn.”

      Tôi bật cười lảnh lót và Matthew lại hôn tôi lần nữa, chóng vánh nhưng mãnh liệt. Người chơi trống lấy đó như tín hiệu, nhịp điệu nhạc tăng thêm. Các cặp đôi khác xoay tròn rồi nhảy theo nhịp băng ngang qua sàn khiêu vũ. Matthew kịp kéo chúng tôi vào chốn an toàn gần lò sưởi trước khi bị giẫm bẹp. Chỉ loáng sau, Philippe có mặt ở đó.

      “Đưa vợ con lên giường và hoàn thành hôn lễ này ,” Philippe lẩm bẩm.

      “Nhưng khách khứa…” Matthew chống chế.

      “Đưa vợ con lên giường , con trai của ta,” Philippe nhắc lại. “Trốn ngay bây giờ, trước khi những người khác quyết định cùng con lên lầu và đảm bảo con thực đúng bổn phận của mình. Cứ để mọi chuyện cho ta.” Ông quay sang trịnh trọng hôn lên cả hai má tôi trước khi thầm điều gì đó bằng tiếng Hy Lạp và tống chúng tôi lên tháp của Matthew.

      Mặc dù tôi biết phần lâu đài này vào thời đại của mình, nhưng tôi chưa nhìn thấy nó trong dáng vẻ nguy nga tráng lệ ở thế kỷ mười sáu. Trật tự các gian phòng của Matthew thay đổi. Tôi mong đợi nhìn thấy sách trong căn phòng ở lầu , nhưng thay vào đó lại là chiếc giường lớn màn che trướng rủ. Catrine và Jehanne mang ra chiếc hộp được trạm khắc cầu kỳ để đựng đồ trang sức mới của tôi, đổ đầy nước vào chậu, và lăng xăng xung quanh với những chiếc khăn vải mới tinh. Matthew ngồi trước lò sưởi và kéo đôi bốt ra rồi nhấc ly rượu khi qua phòng.

      “Còn tóc của bà, madame?” Jehanne hỏi, đưa mắt nhìn chồng tôi thăm dò.

      “Ta lo chuyện đó,” Matthew cộc cằn đáp, mắt vẫn nhìn lò sưởi.

      “Đợi ,” tôi , kéo những món trang sức hình mặt trăng ra khỏi tóc mình, đặt chúng vào lòng bàn tay ngửa lên của Jehanne. ấy và Catrine giúp tháo khăn voan rồi rời , để tôi lại đứng cạnh chiếc giường, còn Matthew uể oải an trú ở đó gác chân lên chiếc rương quần áo.

      Khi cánh cửa đóng lại, Matthew đặt ly rượu xuống, tiến đến chỗ tôi, chụm mấy ngón tay luồn vào tóc tôi và kéo để gỡ ra trong thoáng chốc thứ mà các phải kỳ công mất gần ba mươi phút mới làm xong. ném sợi dây ngọc trai sang bên. Tóc tôi xõa lên hai vai, hai cánh mũi Matthew phập phồng khi hít vào mùi hương đó. lời, kéo người tôi dán sát vào và cúi xuống hôn.

      Nhưng vẫn còn nhiều nghi vấn cần được hỏi và giải đáp trước . Tôi kéo người tách ra.

      “Matthew, có chắc…?”

      Những ngón tay mát lạnh luồn dưới cổ áo xếp nếp, tìm kiếm sợi dây buộc nối nó với áo lót.

      Tách. Tách. Tách.

      Mảnh vải lanh được gia cố chắc chắn rời khỏi cổ tôi rơi xuống sàn. Matthew tháo các khuy giữ cho cái cổ áo cao khép chặt. cúi đầu hôn lên cổ tôi. Tôi siết chặt lấy áo chẽn của .

      “Matthew,” tôi lặp lại. “Chuyện này là về…”

      làm tôi im lặng bằng nụ hôn khác trong khi nâng sợi dây chuyền nặng trịch từ vai. Chúng tôi bị ngắt trong giây lát để Matthew có thể nhấc nó qua đầu tôi. Rồi tay thọc vào đường ren lỗ của cái cổ áo kiểu pickadils nơi hai ống tay gặp thân áo. Những ngón tay trượt quanh chỗ khe áo, tìm kiếm điểm yếu trong tấm vỏ bọc phòng thủ.

      “Có rồi đây,” lẩm bẩm, móc hai ngón tay trỏ vào mép áo và tặng cú giật mạnh có chủ ý. tay áo, rồi đến chiếc còn lại, trượt xuống hai cánh tay tôi và nằm sàn nhà. Matthew có vẻ hoàn toàn chẳng quan tâm, nhưng đây là chiếc váy cưới của tôi và dễ gì thay thế được.

      “Váy của em,” tôi , vặn mình trong vòng tay .

      “Diana.” Matthew hơi ngả đầu ra sau, đặt hai bàn tay lên eo tôi.

      “Vâng?” Tôi nín thở đáp, cố gắng lấy mũi dép lê để khều cái ống tay áo và ấn nó vào chỗ ít có khả năng bị xéo nhàu hơn.

      “Linh mục ban phước cho hôn lễ của chúng mình. Cả làng mong ước chúng mình tốt đẹp. Có đồ ăn và khiêu vũ nữa. nghĩ hai ta có thể kéo gần khoảng cách đêm nay bằng việc làm tình. Nhưng dường như em lại quan tâm tới tủ quần áo của bản thân hơn phải.” định vị được mấy dải dây buộc chân váy của tôi với phần dưới thân áo lót, dưới rốn khoảng tám phân. nhàng, Matthew lùa hai ngón cái vào giữa mép áo lót và phần xương mu của tôi.

      “Em muốn lần đầu tiên cùng nhau của chúng mình là để làm hài lòng cha .” Bất chấp lời phản đối từ chính mình, hông tôi vẫn ưỡn cong lên hướng về phía trong lời mời mọc câm lặng, khi tiếp tục để hai ngón cái di chuyển điên cuồng, như tiếng vỗ của đôi cánh thiên thần. khẽ thốt ra thanh thỏa mãn và tháo cái vòng độn giấu ở đó.

      Giật. Xoạt. Giật. Xoạt. Giật. Xoạt.

      Các ngón tay nhanh nhẹn của Matthew kéo từng sợi dây chằng chéo, và rút chúng qua những cái lỗ được kín. Có tất cả mười hai lỗ, cơ thể tôi cong như cánh cung rồi lại duỗi thẳng theo tác động từ săn sóc của .

      “Cuối cùng rồi,” với vẻ thỏa mãn. Rồi rên lên. “Chúa ơi. Vẫn còn nữa.”

      “Ôi, chẳng đến gần đâu. Em bị trói chặt y như con ngỗng Giáng Sinh ấy,” tôi khi nâng thân áo lót ra khỏi chân váy, để lộ ra chiếc coóc–xê bên dưới. “Hoặc, chính xác hơn là con ngỗng Mùa Vọng.”

      Nhưng Matthew hề chú ý tới tôi tẹo nào. Thay vào đó, chồng tôi dồn hết tập trung vào nơi mà chiếc áo lót cao cổ gần như trong suốt của tôi mất hút vào tấm khung được gia cố nặng nề của chiếc coóc–xê. ép môi lên cái gò cao vút đó. Cúi đầu chào cùng dáng vẻ tôn thờ, hít vào hơi gấp gáp.

      Tôi cũng vậy. Nó khuấy đảo mất hồn cách đáng kinh ngạc, cọ xát của đôi môi bằng cách nào đó càng được khuếch đại thêm ranh giới ngăn cách của thứ vải batit loại tốt này. biết làm gì để ngăn những nỗ lực tâm tâm niệm niệm của nhằm lột trần tôi ra, tôi đành đưa hai tay lên ôm đầu và đợi tiến hành bước tiếp theo.

      Cuối cùng Matthew cầm lấy hai tay tôi vòng chúng ôm quanh cây cột trụ được chạm khắc cầu kỳ chống đỡ góc màn trướng chiếc giường. “Giữ chắc nhé,” .

      Giật. Xoạt. Giật. Xoạt. Trước khi làm xong, Matthew luồn hai bàn tay vào bên trong chiếc coóc–xê. Chúng nhào đến lần tìm bầu vú quanh lồng ngực. Tôi rên lên khe khẽ khi kẹp lớp áo lót vào giữa hai đầu nhũ hoa ấm áp căng cứng của tôi và những ngón tay mát rượi của . kéo tôi ngả ra sau dựa sát vào cơ thể mình.

      dường như giống gã đàn ông chỉ thích làm hài lòng người khác ngoại trừ em nhỉ?” thầm bên tai. Thấy tôi trả lời, bàn tay liền luồn xuống bụng để ép sát tôi vào gần hơn. Tay kia vẫn ở nguyên chỗ của nó, khum lấy bên bầu ngực.

      .” Đầu tôi nghiêng ra sau ngả lên vai , để lộ cổ và vai.

      “Thế thêm gì nữa về bố nhé. Và mua cho em hai mươi chiếc váy dài y hệt thế vào ngày mai nếu em thôi lo lắng về những cái ống tay áo ngay bây giờ.” Matthew bận rộn vén cao áo lót của tôi lên thành đống xếp nếp. Tôi buông tay khỏi cọc giường, chộp lấy tay và đặt nó vào giữa hai chân mình.

      chuyện trò gì nữa,” tôi đồng ý, thở hổn hển khi các ngón tay chạm vào vùng da thịt nhạy cảm kia.

      Matthew khiến tôi im lặng bằng nụ hôn. Những cử động chậm rãi của đôi tay tạo ra luồng điện dâng lên trong cơ thể tôi.

      “Nhiều quần áo quá,” tôi hổn hển . tán thành của được phát biểu thành lời, nhưng hiển ràng trong vẻ nôn nóng khi trượt chiếc coóc–xê xuống hai cánh tay tôi. Các sợi dây buộc giờ đủ lỏng nên tôi có thể đẩy qua hông và bước ra khỏi nó. Tôi cởi chiếc quần ống túm của trong khi Matthew mở khuy áo chẽn. Hai món đồ cũng nối với nhau ở hai bên hông giống y như những sợi dây buộc chằng chéo thân áo lót và chân váy của tôi.

      Khi cả hai chẳng mặc gì hơn ngoài đôi tất dài, tôi trong chiếc áo lót, còn Matthew với áo sơ mi, chúng tôi ngừng lại, ngượng ngùng quay về.

      “Em để em chứ, Diana?” Matthew hỏi, quét nỗi bồn chồn trong tôi bằng câu hỏi đơn giản mà lịch thiệp đó.

      “Em đồng ý,” tôi thầm. quỳ gối xuống và cẩn thận tháo những sợi ruy băng giữ chiếc tất người tôi. Chúng có màu xanh lam, Catrine đây là màu thủy chung. Matthew cuộn lớp tất dài tuột xuống, áp môi lên đầu gối và mắt cá chân của tôi đánh dấu chỗ chúng qua. tự cởi đôi tất nhanh đến nỗi tôi chẳng có cơ hội nhận biết màu sắc nịt tất đó.

      Matthew nhàng nâng tôi lên khiến cho những ngón chân tôi chẳng thể chạm tới sàn nhà, và có thể đưa mình vào cái khe chữ V riêng tư giữa hai chân tôi.

      “Chúng mình có lẽ cần lên giường đâu,” tôi , ôm siết lấy bờ vai . Tôi muốn ở bên trong, nhanh.

      Nhưng chúng tôi làm chuyện đó ở chốn êm ái, được che khuất trong bóng tối, giải thoát cho nhau khỏi mớ vải lanh đường . Khi tới nơi rồi, thân thể tôi đón chào tiến vào khe mặt trăng giữa hai bắp đùi mình trong khi hai cánh tay kéo xuống. Dù vậy tôi vẫn thở gấp gáp kinh ngạc lúc hai cơ thể hợp thành – ấm áp và lạnh giá, ánh sáng và bóng tối, đàn ông và đàn bà, phù thủy và ma cà rồng, kết hợp của những mặt đối lập.

      Nét mặt Matthew từ vẻ tôn sùng tới băn khoăn khi bắt đầu chuyển động bên trong tôi, rồi trở nên có mục đích sau khi nghiêng người và tôi phản ứng lại bằng tiếng nức nở sung sướng. luồn cánh tay xuống dưới thắt lưng và nâng tôi lên áp sát vào hông trong khi hai tay tôi siết chặt bờ vai .

      Chúng tôi rơi vào nhịp điệu riêng có dành cho những tình nhân, làm cho nhau vui sướng bằng đụng chạm nhàng của miệng và tay lúc chúng tôi dốc cạn cùng nhau, cho tới khi tất cả những gì còn lại để trao tặng là trái tim và linh hồn chúng tôi. Nhìn sâu vào mắt nhau, trao nhau lời thề ước cuối cùng với thể xác và tâm hồn, run rẩy như những kẻ mới được sinh ra.

      “Hãy để được em mãi mãi,” Matthew thầm vầng trán ẩm ướt của tôi, môi lướt đường mát lạnh qua lông mày tôi khi cả hai nằm cuốn chặt lấy nhau.

      “Em đồng ý,” tôi hứa lần nữa, rúc người vào gần sát hơn.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      13.

      “Em thích được kết hôn,” tôi uể oải . Từ khi sống sót qua ngày hôm đó – sau bữa đại tiệc và được nhận những món quà – mà hầu hết chúng đều kêu ùm bò hoặc quang quác – chúng tôi chẳng làm gì trong những ngày này ngoại trừ làm tình, chuyện, ngủ và đọc sách. Thi thoảng Đầu Bếp gửi khay đồ ăn thức uống lên để duy trì sống cho cả hai. Còn lại tôi và Matthew được riêng tư. Ngay cả Philippe cũng xen ngang vào khoảng thời gian chúng tôi bên nhau.

      “Em có vẻ thích ứng tốt nhỉ,” Matthew , dụi chóp mũi lành lạnh vào sau tai tôi. Tôi nằm, mặt úp sấp và hai chân giang rộng, trong căn phòng được dùng để cất trữ vũ khí thừa phía xưởng rèn. Matthew nằm bên , che chắn cho tôi khỏi làn khí lạnh lùa qua các khe hở ở cánh cửa gỗ. Mặc dù tôi biết chắc cơ thể mình bị phơi bày ra bao nhiêu nếu có ai đó bước vào đây, nhưng phần cơ thể phía sau của Matthew và cặp chân trần chắc chắn lọt vào tầm nhìn. cử động cọ xát lên tôi cách khiêu khích.

      thể nào lại muốn nữa chứ.” Tôi cười hạnh phúc khi lặp lại cử động đó lần nữa. Tôi tự hỏi liệu năng lực tình dục này vốn là đặc trưng của ma cà rồng hay chỉ thuộc về Matthew thôi.

      “Em phê phán sáng tạo của đấy hả?” lật người tôi lại và đặt mình vào giữa hai đùi tôi. “Hơn nữa, thay vào đó nghĩ đến điều này cơ.” cúi xuống hôn tôi và nhàng trượt vào trong.

      “Chúng mình ra đây để tiếp tục bài học bắn của em mà,” lát sau tôi . “Đây là những gì ám chỉ về mục tiêu thực hành đấy hả?”

      Matthew cười vang. “Có hàng trăm cách uyển chuyển về chuyện làm tình ở vùng Auvergnat, nhưng tin đó là trong số chúng. hỏi Đầu Bếp xem ông ấy có biết kiểu đó .”

      làm thế.”

      “Có phải em ra vẻ đức hạnh đấy, Tiến sĩ Bishop?” hỏi với vẻ ngạc nhiên giễu cợt, đưa tay nhặt lên mẩu rơm từ mái tóc rối bù thắt lưng tôi. “Đừng lo. ai có bất cứ ảo tưởng nào về việc chúng ta dành thời gian của mình để làm gì đâu.”

      “Em hiểu ý ,” tôi đáp, kéo qua đầu gối chiếc bít tất dài vốn là của ấy. “Giờ quyến rũ em đến đây rồi, có thể cũng cố gắng như thế để tìm hiểu xem em làm sai cái gì.”

      “Em là người chưa có kinh nghiệm và thể mong đợi lần nào cũng bắn trúng tâm được,” , đứng dậy lục tìm tất của mình. chân tất vẫn còn ở trong chiếc quần túm, nằm ngay bên cạnh đó, còn chiếc kia thấy đâu cả. Tôi với xuống dưới vai mình và đưa cho mớ bùi nhùi tròn như quả bóng là tình trạng lúc này của nó.

      “Với việc được huấn luyện tốt, em có thể trở thành tay lão luyện mà.” Giờ tôi thấy Matthew bắn cung rồi, được sinh ra làm cung thủ với hai cánh tay dài và những ngón mạnh mẽ, đẹp đẽ. Tôi cầm lên cây cung cong cong, hình trăng lưỡi liềm được đánh bóng làm từ sừng hươu và gỗ, dựa vào đống cỏ khô gần đó. Sợi dây cung làm bằng da bện rung lên tự do.

      “Thế em nên dành thời gian với Philippe chứ phải . Ngón nghề bắn cung của ông vào truyền thuyết rồi.”

      “Cha lại kể với em là mẹ Ysabeau bắn giỏi hơn.” Tôi dùng cây cung của Ysabeau, nhưng còn xa tôi mới bám gót được kỹ thuật bắn cung của bà.

      “Bởi vì maman là sinh vật duy nhất từng bắn được mũi tên vào bên sườn ông.” hất đầu ra hiệu về phía cây cung. “Để căng dây cho em nhé.”

      vệt hồng hào vắt ngang qua má tôi kể từ lần đầu tiên tôi cố gắn sợi dây cung vào khuyên của nó. Việc này đòi hỏi sức mạnh to lớn cùng khéo léo để uốn cong phần cánh cung và dưới thành đường thẳng thích hợp. Matthew chống cánh cung dưới lên đùi , uốn cong cánh cung xuống bằng tay, rồi dùng tay kia để buộc dây cung.

      làm trông dễ dàng.” Nhìn cũng có vẻ ngon ơ như khi xoắn mở cái nút bần của chai sâm–panh lúc còn ở Oxford thời đại.

      “Nếu em là ma cà rồng và có khoảng chừng nghìn năm để luyện tập nó cũng làm được thế thôi.” Matthew đưa tôi cây cung với nụ cười tươi rói. “Nhớ nhé, phải giữ cho hai vai em nằm đường thẳng tắp, đừng nghĩ quá nhiều đến việc bắn, và thở ra nhàng êm ái vào.”

      nghe cũng dễ dàng làm sao. Tôi quay ra đối diện với mục tiêu. Matthew dùng mấy con dao găm để ghim cái mũ lưỡi trai mềm, cái áo chẽn, và chiếc váy vào đống cỏ khô. Ban đầu tôi nghĩ đích bắn là phải trúng thứ gì đó: chiếc mũ, cái áo chẽn hoặc chiếc váy. Matthew giải thích rằng đích ngắm là bắn trúng vào cái tôi nhắm đến. biểu diễn minh họa bằng việc bắn từng mũi tên vào đống cỏ khô, khoanh tròn quanh nó theo chiều kim đồng hồ là năm mũi tên khác, rồi bắn mũi tên thứ sáu chẻ đôi cán mũi tên ở chính giữa.

      Tôi rút mũi tên ra khỏi ống đựng, lắp vào cung, nhắm xuôi theo đường bằng cánh tay trái, rồi kéo dây. Tôi do dự. Cây cung chệch nghiêng .

      “Bắn ,” Matthew thúc.

      Khi tôi nhả dây ra, mũi tên phóng vút về phía đống cỏ và rơi xuống nền đất.

      “Để em thử lại,” tôi , với ống đựng tên để cạnh chân.

      từng thấy em bắn lửa phù thủy vào ma cà rồng và thổi bay lỗ thẳng qua lồng ngực ta,” Matthew lặng lẽ .

      “Em muốn về Juliette.” Tôi cố lắp mũi tên vào vị trí, nhưng hai tay run lẩy bẩy. Tôi hạ cây cung xuống. “Cả Champier. Hay thực tế là các sức mạnh em có dường như hoàn toàn biến mất. Và cả việc làm thế nào em có thể khiến trái cây khô héo, trông thấy màu sắc và ánh sáng xung quanh mọi người nữa. Chúng mình thể mặc kệ nó – trong tuần thôi ư?” Thêm lần nữa, phép thuật của tôi (hoặc việc thiếu nó) lại là chủ đề trò chuyện thường xuyên.

      “Thuật bắn cung có thể giúp em bổ trợ cho việc điều khiển lửa phù thủy,” Matthew lưu ý. “ chuyện về Juliette có thể giúp ích mà.”

      “Tại sao thể là việc em thực hành vài bài luyện tập hả?” Tôi hỏi lại, mất kiên nhẫn.

      “Bởi vì chúng ta cần hiểu lý do tại sao sức mạnh của em thay đổi,” Matthew điềm tĩnh . “Giương cung lên, kéo mũi tên về phía sau, và thả cho nó bay .”

      “Ít nhất lần này em cũng bắn trúng đống cỏ,” tôi trả lời sau khi mũi tên đáp vào phần góc bên phải của đống cỏ.

      “Quá tệ khi em nhắm bắn phần dưới thấp.”

      tất cả chuyện này có gì vui hết.”

      Nét mặt Matthew chuyển thành nghiêm túc. “ có gì thư thái vui vẻ khi liên quan đến chuyện sống còn. Lần này lắp tên giương cung nhưng hãy nhắm mắt lại trước khi em ngắm bắn.”

      muốn em dùng bản năng của mình.” Tiếng cười rung lên khi tôi đặt mũi tên vào cung. Mục tiêu ngay trước mặt, nhưng thay vì tập trung lên đó, tôi nhắm mắt lại như Matthew gợi ý. Ngay khi vừa làm thế, sức nặng của khí khiến tôi xao lãng. Nó ép lên hai cánh tay, hai bắp đùi tôi, trùm lên hai vai giống chiếc áo choàng tay ngắn nặng nề. khí cũng giữ cho đầu mũi tên hướng lên. Tôi điều chỉnh tư thế của mình, hai vai mở rộng, đẩy khí sang hai bên. cơn gió dịu , chuyển động vuốt ve mơn trớn kéo vài lọn tóc tuột khỏi vành tai để hưởng ứng.

      Mi muốn gì? Tôi hỏi cơn gió thoảng qua cách cáu kỉnh.

      Lòng tin của người, nó thầm đáp lại.

      Môi tôi hé mở kinh ngạc, tâm nhãn mở ra, đầu mũi tên cháy vàng rực với sức nóng cùng áp lực mà nó bị quai đập tại xưởng rèn. Ngọn lửa bị giữ chặt ở đó muốn được bay tự do lần nữa, nhưng nó ở nguyên chỗ trừ phi tôi buông lỏng nỗi sợ hãi trong mình. Tôi từ từ thở ra hơi khẽ, để dọn chỗ cho tin tưởng. Hơi thở của tôi lướt dọc theo cán mũi tên, và rồi tôi thả sợi dây cung. Mang theo hơi thở đó ở tít đỉnh, mũi tên bay vụt .

      “Em bắn trúng rồi.” Mắt vẫn còn nhắm chặt, nhưng tôi cần nhìn mà vẫn biết mũi tên của mình đến trúng đích.

      “Em làm được. Vấn đề là làm thế nào vậy?” Matthew đón cây cung từ tay tôi trước khi nó có thể bị đánh rơi.

      “Lửa bị giữ chặt mũi tên, sức nặng của khí bao xung quanh cán và đầu mũi tên.” Tôi mở mắt ra.

      “Em cảm nhận các yếu tố tự nhiên đó như em làm với nước bên dưới vườn ăn quả của Sarah ở Madison, cả ánh mặt trời trong trái mộc qua ở Chòi Gác Cổ.” Giọng Matthew nghe có vẻ tư lự.

      “Đôi khi có cảm giác dường như thế giới đầy ắp những tiềm năng vô hình nằm xa tầm tay em. Có lẽ nếu em giống như Thetis và có thể biến hóa hình dáng của mình khi muốn, em biết làm gì với tất cả những thứ này.” Tôi với lấy cây cung kèm mũi tên khác. Chừng nào còn nhắm mắt, tôi còn bắn trúng mục tiêu. Tuy nhiên, ngay khi tôi lén nhìn trộm xung quanh, các phát bắn của tôi trượt ra xa hoặc rơi xuống khi chưa tới đích.

      “Ngày hôm nay như thế là đủ rồi,” Matthew , tiếp tục nghịch cái nơ buộc gần xương đòn bên vai phải của tôi. “Đầu Bếp mong mưa vào cuối tuần này. Có lẽ chúng mình nên cưỡi ngựa khi còn có thể.” Đầu Bếp chỉ là tay nhào bánh cừ khôi mà còn là nhà khí tượng học tài ba nữa. Ông ta thường gửi lên bản dự báo thời tiết kèm theo khay đồ ăn sáng.

      Chúng tôi cưỡi ngựa ra vùng đồng quê và phát vài đốm lửa cháy trong những cánh đồng đường quay về nhà, Sept–Tours cũng sáng rực đèn đuốc. Tối nay là hội thần Saturnalia, mở đầu chính thức cho mùa nghỉ lễ ở lâu đài. Ngài Philippe Cơ Đốc giáo muốn ai cảm thấy bị bỏ rơi và bởi vậy chia đôi thời gian cho các lễ hội truyền thống của La Mã cũng như Thiên Chúa giáo. Thậm chí có cả phần lễ hội của Norse Yule lướt qua chớp nhoáng trong tổng thể hỗn hợp này, tôi cảm thấy chắc chắn điều này có liên quan đến chàng Gallowglass vắng mặt.

      “Hai đứa thể nào chán nhau sớm thế chứ!” Philippe oang oang từ khu ban công dành cho gánh hát rong khi chúng tôi trở về. Ông đội bộ gạc hươu lộng lẫy đầu, khiến ông trông giống kết hợp kỳ lạ giữa sư tử và hươu. “Chúng ta mong trông thấy hai đứa trong khoảng chừng mươi ngày nửa tháng. Nhưng giờ các con ở đây, hai đứa có thể khiến cho bản thân trở nên hữu ích đấy. Hãy lấy vài ngôi sao và mặt trăng rồi treo chúng lên bất cứ chỗ nào còn trống ấy.”

      Đại sảnh đa phần được trang trí bằng cây cỏ, nhiều đến mức quang cảnh và mùi hương giống hệt khu rừng. Vài thùng rượu đặt tự do nên những người tham dự cuộc vui có thể uống bất cứ lúc nào có tinh thần. Những tiếng hoan hô chào đón trở lại của chúng tôi. Nhóm trang trí muốn Matthew trèo lên bệ lò sưởi và thêm chùm đèn vào cành cây to. chạy lướt lên tảng đá với vẻ lẹ làng, chứng tỏ đây phải lần đầu tiên làm chuyện này.

      thể nào kháng cự được tinh thần của ngày lễ, khi bữa tối dọn lên, hai chúng tôi tình nguyện phục vụ bữa ăn cho các vị khách trong nghi lễ rối tinh rối mù, đám người hầu thành chủ nhân còn các chủ nhân lại thành người phục vụ. Chàng vệ sĩ Thomas của tôi kéo cọng rơm dài điều khiển bữa tiệc như Đức Ngài Cai Trị Vô Tổ Chức. Cậu ta được ngồi ở vị trí của Philippe chồng đệm, đội chiếc vương miện ruby–và–vàng–vô–giá lấy từ gác trông như cái dàn giáo. Bất cứ cầu nông nổi nào Thomas đưa ra đều được Philippe chấp nhận trong vai diễn là viên sủng thần. Các đặc ân của ông tối nay bao gồm bản khiêu vũ lãng mạn với Alain (cha Matthew chọn bước nhảy của phái nữ), khiến lũ chó phát cuồng lên bằng việc thổi khúc sáo, và làm bóng những con rồng leo lên bức tường khiến lũ trẻ khóc thét.

      Philippe cũng quên đám người lớn, ông sắp đặt những trò chơi tinh vi để lấp đầy thời gian của họ trong khi bản thân tiêu khiển vài trò nhặt. Ông tặng túi hạt đậu đầy ắp cho người đánh cược và hứa hẹn tặng bao tiền cho người may mắn nhất cuối buổi tối ngày hôm nay. nàng Catrine dạn dĩ ra đòn sát thủ bằng cách trao đổi những nụ hôn để lấy hạt đậu, còn tôi đánh cược tất cả vật kỷ niệm mình có cho nàng để giành lấy giải thưởng cuối cùng.

      Suốt buổi tối, tôi luôn thấy Matthew và Philippe đứng cạnh nhau, trao đổi gì đó hoặc bông đùa. Khi họ chụm đầu vào nhau, tối sáng, khác nhau trong diện mạo của hai người nổi bật. Nhưng theo nhiều cách khác, bọn họ khá giống nhau. Cứ mỗi ngày trôi qua, tinh thần mã thượng gì dập tắt từ cha lại thấm dần vào những góc cạnh sắc nét của Matthew. Hamish đúng: Matthew còn là con người cũ khi ở nơi đây. thậm chí tốt đẹp hơn. Và bất chấp những lo sợ lúc ở Mont Saint–Michel, vẫn là của tôi.

      Matthew cảm nhận được cái nhìn đắm đuối đó và ngước lên nhìn tôi vẻ giễu cợt. Tôi cười rồi gửi cho nụ hôn gió ngang qua sảnh đường. cúi đầu, ngượng ngùng vui sướng.

      Khoảng năm phút trước lúc nửa đêm, Philippe kéo tuột nhanh lớp vải phủ của vật bên cạnh lò sưởi.

      “Chúa ơi. Philippe thề là ông có cái đồng hồ đứng và cho chạy lại, nhưng tin.” Matthew đến cùng tôi khi lũ trẻ con và cả người lớn ồ lên thích thú.

      Chiếc đồng hồ này giống bất cứ cái nào tôi từng thấy trước đây. Lớp vỏ được chạm khắc, nạm vàng bao quanh thùng nước. ống dẫn bằng đồng kéo dài trồi lên từ cái thùng giọt nước vào thân của mô hình con thuyền đẹp lộng lẫy, nó được treo bằng sợi dây thừng cuốn quanh chiếc xi–lanh. Khi con thuyền gia tăng thêm sức nặng từ trọng lượng của nước, chiếc xi–lanh xoay liền di chuyển cây kim quanh chiếc đĩa quay số mặt đồng hồ để chỉ thời gian. Chiếc đồng hồ này phải cao gần bằng tôi ấy.

      “Chuyện gì xảy ra vào lúc nửa đêm?” Tôi hỏi.

      “Chắc hẳn có liên quan đến chỗ thuốc súng mà ông hỏi xin ngày hôm qua,” Matthew đáp cách dứt khoát.

      Qua việc trưng bày chiếc đồng hồ vào dịp lễ thích hợp, Philippe bắt đầu việc bày tỏ lòng tôn trọng với bạn bè trong quá khứ và tại, cùng gia đình mới và cũ, đồng thời cũng thích hợp cho dịp lễ hội tôn vinh vị thần cổ xưa. Ông điểm tên mọi sinh vật trong cộng đồng mất năm qua, bao gồm con mèo con của Thomas (khi được Đức Ngài Cai Trị Vô Tổ Chức nhắc nhở), Prunelle, người chết bi thảm trong tai nạn bất ngờ. Chiếc kim đồng hồ tiếp tục nhích tới con số mười hai.

      Vào chính xác nửa đêm, con thuyền nổ bùng cùng tiếng inh tai nhức óc. Chiếc đồng hồ rùng mình dừng khựng lại khi cái vỏ gỗ vỡ ra từng mảnh.

      “Skata.” Philippe buồn bã nhìn cái đồng hồ bị phá hủy của mình.

      “Cầu Chúa cho linh hồn ông ấy an nghỉ, ông Finé chắc mấy vui vẻ trước những cải tiến này với thiết kế của cha đâu.” Matthew xua làn khói bốc lên trước mắt khi cúi xuống để nhìn gần hơn. “Mỗi năm Philippe lại thử nghiệm vài thứ mới mẻ: ống nước, chuông gió, con cú máy huýt báo giờ. Ông vẫn chắp vá nó kể từ khi vua François thua ông trong ván bài.”

      “Người ta nghĩ rằng súng thần công đốt lửa ít sáng và nhả khói. Nó làm bọn trẻ vui ra trò,” Philippe phẫn nộ đáp. “ thứ thích hợp với thuốc súng của con đâu, Matthaios.”

      Matthew bật cười. “ ràng là phải, phán xét thiển cận.”

      “C’est dommage,” Thomas lên tiếng kèm cái lắc đầu thông cảm. Cậu ta khom người cạnh Philippe, chiếc vương miện xiên xẹo đầu cùng vẻ mặt lo lắng rất chi người lớn.

      “Pas de problem. Năm sau chúng ta làm tốt hơn,” Philippe phấn chấn cam đoan với Thomas.

      Ngay sau đó, chúng tôi để mặc những người dân Saint–Lucien chơi bài và ồn ào đánh chén. Lên lầu, tôi nấn ná bên cạnh lò sưởi cho tới lúc Matthew tắt nến rồi vào giường. Khi ở giường, tôi vén áo và ngồi lên người .

      “Em làm gì thế?” Matthew ngạc nhiên nhận thấy bản thân nằm ngửa thẳng cẳng chiếc giường của mình, còn vợ cao nhìn xuống.

      “Quyền thống trị chỉ cho đàn ông thôi đâu,” tôi , lướt bộ móng tay cào lên ngực . “Em đọc bài báo về chủ đề này ở lớp cao học, nhan đề ‘Phụ nữ ở .’”

      “Thông thường em vẫn là người chủ động mà, thể hình dung em học hỏi được gì nhiều từ bài báo ấy, mon coeur.” Ánh mắt Matthew như hai đốm lửa đam mê ỉ cháy lúc tôi điều chỉnh trọng lượng cơ thể mình để kẹp chặt cách chắc chắn giữa hai bắp đùi.

      “Đồ nịnh hót.” Đầu ngón tay tôi chu du từ bờ hông rắn chắc gọn gàng của lên, lướt các múi cơ nhấp nhô ở vùng bụng và ngang qua cơ bắp ở hai vai. Tôi cúi người ghim chặt hai cánh tay xuống giường, tặng cho chồng góc nhìn tuyệt hảo cả cơ thể mình qua viền cổ áo ngủ mở rộng. rên lên thành tiếng.

      “Chào mừng đến thế giới nằm đảo ngược.” Tôi thả ra đủ lâu để cởi bỏ chiếc áo ngủ, rồi níu lấy hai tay và hạ thấp người xuống để hai đầu ngực của mình cọ xát với làn da .

      “Chúa ơi. Em sắp giết mất.”

      dám chết bây giờ đâu, chàng ma cà rồng,” tôi , dẫn dắt để vào trong tôi, rồi đung đưa, kiên trì hứa hẹn cho nhiều hơn nữa. Matthew phản ứng lại bằng tiếng rên khàn khàn. “ thích thế,” tôi khẽ .

      thúc vào tôi nhịp mạnh hơn, nhanh hơn. Nhưng tôi tiếp tục giữ giai điệu chậm rãi của mình và đứng yên, say sưa thích thú với cái cách cơ thể chúng tôi vừa khít vào nhau. Matthew là diện mát lành đến tận xương tủy của tôi, là cội nguồn khoái hoạt của va chạm khiến cơ thể tôi nóng bừng. Tôi đăm đắm nhìn sâu vào mắt khi lên đỉnh, yếu đuối nguyên sơ ấy khiến tôi cũng tới ngay sau đó. Tôi đổ nhào gục người , và định ngọ nguậy trèo xuống hai cánh tay siết chặt lấy tôi.

      “Ở yên đó em,” thầm.

      Tôi nằm lại đó cho tới khi Matthew đánh thức dậy vài giờ sau. chiếm hữu tôi thêm lần nữa trong lặng lẽ trước bình minh và ôm chặt lấy tôi như thể tôi phải trải qua quá trình biến hình, từ lửa thành nước rồi thành khí, và lần nữa trở lại với những giấc mơ.

      Thứ Sáu đánh dấu ngày ngắn nhất trong năm và việc tổ chức kỷ niệm lễ Yule. Ngôi làng vẫn hồi phục lại trạng thái thường ngày từ lễ hội Saturnalia để đón lễ Giáng Sinh phía trước, nhưng Philippe hề nao núng.

      “Đầu Bếp làm thịt lợn,” ông . “Làm sao ta có thể làm ông ấy thất vọng được?”

      Tranh thủ khi thời tiết hửng lên, Matthew vào làng để giúp sửa lại mái nhà bị sập do sức nặng của đợt tuyết rơi cuối cùng. Tôi để nơi đó, quai búa đóng thanh xà ngang cho thợ mộc khác và vui sướng trước viễn cảnh buổi sáng lao động chân tay giữa nhiệt độ đóng

      băng được.

      Tôi nhốt mình trong thư viện cùng vài cuốn sách về giả kim thuật tốt hơn của gia đình và mấy tờ giấy trắng. tờ phủ kín những dòng nguệch ngoạc và những sơ đồ chẳng có ý nghĩa gì với ai ngoại trừ tôi. Với tất cả những gì diễn ra bên trong lâu đài, tôi từ bỏ nỗ lực làm rượu cồn. Thomas và Étienne muốn chạy chơi cùng lũ bạn của chúng và mó tay vào phần bột làm chiếc bánh cuối cùng, nên giúp tôi làm thí nghiệm khoa học nữa.

      “Diana.” Philippe di chuyển với tốc độ rất nhanh và được nửa đường vào phòng rồi mới phát thấy tôi. “Ta nghĩ con ở cùng Matthew.”

      “Con thể chịu nổi việc nhìn thấy ấy đó,” tôi thú nhận. Ông gật đầu vẻ thấu hiểu.

      “Con làm gì thế?” Ông hỏi, nhìn qua vai tôi.

      “Cố gắng khám phá xem Matthew và con phải làm gì với giả kim thuật.” Đầu óc tôi mụ mị vì lâu dùng đến và vì thiếu ngủ.

      Philippe thả tay đầy các hình thù bằng giấy lên bàn và kéo ghế ngồi. Ông chỉ vào trong những bản phác thảo của tôi.

      “Đây là dấu xi của Matthew.”

      “Đúng nó ạ. Nó cũng là biểu tượng cho bạc và vàng, mặt trăng và mặt trời nữa.” Sảnh đường được trang hoàng bằng giấy trang kim hình ảnh của những thiên thể này trong dịp lễ Saturnalia. “Con vẫn suy ngẫm về nó suốt từ tối thứ Hai. Con hiểu tại sao phù thủy có thể được biểu tượng hóa bằng hình ảnh trăng lưỡi liềm và bạc – cả hai thứ đó đều có liên quan tới nữ thần. Nhưng tại sao có bất cứ ai dùng hình ảnh mặt trời hay vàng để ám chỉ ma cà rồng?” Nó ngược lại với mọi hiểu biết và truyền thuyết phổ biến.

      “Bởi vì chúng ta bất biến. Cuộc đời của chúng ta có thịnh suy, và giống như vàng, cơ thể chúng ta chống lại mục nát đến từ cái chết hay bệnh tật.”

      “Đáng lẽ con nên nghĩ đến điều đó.” Tôi làm mấy ghi chú.

      “Con có vài ý tưởng khác trong đầu rồi.” Philippe tủm tỉm cười. “Matthew rất hạnh phúc đấy.”

      phải chỉ vì con thôi đâu,” tôi , đón cái nhìn chăm chú của cha chồng. “Matthew hạnh phúc vì lại được ở bên cha đấy.”

      Vẻ u ám thoáng lướt qua đáy mắt Philippe. “Ysabeau và ta thích lúc những đứa con trở về nhà. Chúng có cuộc sống riêng, nhưng điều đó cũng làm cho việc chúng vắng mặt dễ chịu hơn chút nào.”

      “Và hôm nay cha cũng nhớ Gallowglass,” tôi . Philippe dường như mấy khuất phục.

      “Ta nhớ.” Ông lướt giở những trang giấy bị gập nếp bằng mấy ngón tay. “Là Hugh, đứa con lớn nhất của ta, người mang thằng bé vào gia đình này. Hugh luôn đưa ra các quyết định thông thái khi cần chia sẻ máu của mình, và Gallowglass cũng ngoại lệ. Thằng bé là chiến binh dữ dằn với ý thức danh dự từ cha nó. an ủi khi ta biết rằng cháu trai mình cùng với Matthew.”

      “Matthew rất hiếm khi nhắc đến Hugh.”

      “Nó thân thiết với Hugh hơn bất cứ người em trai nào khác. Khi Hugh chết với các Hiệp sĩ Dòng Đền cuối cùng trong tay nhà thờ và đức vua, nó làm lay chuyển lòng trung thành của Matthew. mất khoảng thời gian trước khi nó giải thoát được khỏi cơn cuồng máu và quay trở lại với chúng ta.”

      “Còn Gallowglass?”

      “Gallowglass vẫn chưa sẵn sàng để lại nỗi đau ở phía sau, và chừng nào nó chưa làm được điều đó, nó đặt chân lên đất Pháp. Cháu trai ta buộc người đàn ông phản bội lòng tin của Hugh phải trả giá, cũng như Matthew, nhưng báo thù bao giờ là phương thuốc tương xứng với mất mát cả. ngày nào đó, cháu trai ta trở về. Ta chắc chắn điều đó.” Trong thoáng, Philippe trông già hẳn , còn là người thống trị mạnh mẽ đầy sinh lực nữa mà là người cha phải gánh nỗi đau bất hạnh làm kẻ đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh.

      “Cảm ơn cha, Philippe.” Tôi ngập ngừng trước khi nắm chặt bàn tay ông. Philippe giữ yên nó trong thoáng chốc rồi đứng lên. Sau đó ông cầm lên cuốn sách về thuật giả kim. Nó là bản in của cuốn Aurora Consurgens có tranh minh họa đẹp tuyệt của Godfrey, chính là cuốn sách lúc đầu quyến rũ tôi đến Sept–Tours.

      chủ đề gợi tò mò như thế này, thuật giả kim,” Philippe lẩm bẩm, lật lướt qua các trang sách. Ông tìm thấy bức tranh Đức Vua Mặt Trời và Hoàng Hậu Mặt Trăng cưỡi ngựa đấu thương lưng con sư tử và con nhân sư, nụ cười của ông nở rộng hơn. “Phải, điều này được thực .” Ông kẹp trong những vật nhiều hình dạng bằng giấy của mình vào giữa các trang sách.

      “Cha làm gì thế ạ?” Tôi bị nỗi tò mò đánh bại.

      “Nó là trò mà Ysabeau và ta hay chơi. Khi trong hai chúng ta vắng, chúng ta để lại những lời nhắn giấu trong các trang sách. Có quá nhiều việc xảy ra trong ngày, thể nào nhớ hết được mọi thứ khi chúng ta gặp lại nhau. Bằng cách này chúng ta có thể bất chợt nhớ được chút hồi ức giống như chuyện này khi chúng ta ít ngờ tới nhất, và chia sẻ chúng.”

      Philippe tới chỗ giá, rút ra cuốn sách dày bìa da cũ mòn. “Đây là trong những câu chuyện ưa thích của chúng ta, The Song of Armouris. Ysabeau và ta có khiếu thưởng thức đơn giản cũng như các câu chuyện phiêu lưu. Chúng ta thường giấu các lời nhắn trong này.” Ông nhồi cuộn giấy xuống gáy sách giữa phần bìa và phần giấy da. miếng hình chữ nhật được gấp nếp rơi ra từ dưới đáy khi ông nhét cuộn giấy vào gian chật hẹp ấy.

      “Ysabeau chiếm dụng để dùng con dao nên tin nhắn của bà ấy khó tìm thấy hơn. Bà ấy đầy mánh khóe, cái đó đây. Ta hãy xem bà ấy gì nào.” Philippe mở mảnh giấy ra và lặng lẽ đọc nó. Ông ngước lên nhìn với tia lấp lánh trong mắt và hai má đỏ hơn bình thường.

      Tôi bật cười, nhỏm dậy. “Con nghĩ có lẽ cha cần thêm riêng tư để soạn thảo lời hồi của mình.”

      “Sieur.” Alain thập thò nơi lối cửa, mặt nghiêm trọng. “Người đưa tin tới ạ. từ Scotland. người khác đến từ nước . Người thứ ba đến từ Lyon.”

      Philippe thở dài rồi lầm bầm nguyền rủa. “Bọn họ đáng ra có thể đợi cho tới sau lễ hội Thiên Chúa mà.”

      Miệng tôi đắng ngắt.

      thể nào là tin tốt được,” Philippe , thoáng bắt được biểu cảm của tôi. “Người đưa tin từ Lyon báo cáo gì?”

      “Champier đề phòng trước khi rời , ông ta kể cho những người khác rằng mình được gọi đến đây. Giờ ông ta vẫn chưa trở về nhà nên bạn bè của ông ta nghi vấn. nhóm phù thủy chuẩn bị rời thành phố để tìm kiếm Champier, và họ theo hướng này,” Alain giải thích.

      “Bao giờ?” Tôi thào hỏi. Nó đến quá nhanh.

      “Tuyết làm họ chậm lại, và gặp khó khăn trong việc di chuyển vào dịp nghỉ lễ. Sau vài ngày nữa, có thể là tuần.”

      “Còn những người đưa tin khác?” Tôi hỏi Alain.

      “Họ ở trong làng, tìm milord.”

      “Để gọi ấy quay về , nghi ngờ gì nữa,” tôi .

      “Nếu thế ngày Giáng Sinh là thời điểm tốt nhất để lên đường. Rất ít người đường và mặt trăng tối. Đây là điều kiện di chuyển lý tưởng đối với manjasang, nhưng phải dành cho loài máu nóng,” Philippe cách thản nhiên. “Ngựa và chỗ nghỉ chân sẵn sàng cho các con đến tận Calais. con thuyền đợi sẵn tại đó để đưa hai đứa đến Dover. Ta nhắn cho Gallowglass và Raleigh chuẩn bị cho chuyến trở về của các con.”

      “Cha vẫn chờ đợi tin này,” tôi , run rẩy trước viễn cảnh phải rời . “Nhưng con chưa sẵn sàng. Người ta vẫn biết con khác biệt mà.”

      “Con hòa đồng với mọi người tốt hơn mức bản thân nghĩ đấy. Chẳng hạn con trò chuyện với ta bằng thứ tiếng Pháp tốt hơn hẳn và tiếng Latin suốt cả buổi sáng.” Miệng tôi há hốc ra tin nổi. Philippe cười phá lên. “Là đấy. Ta đổi qua đổi lại ngôn ngữ đến hai lần, nhưng con để ý.” Nét mặt ông trở nên nghiêm túc. “Ta xuống cho Matthew biết về kế hoạch của mình được chứ?”

      ,” tôi , đặt bàn tay lên cánh tay ông. “Con làm điều đó.”

      Matthew ngồi thanh xà nhà, lá thư tay và mặt mày cau lại. Khi phát thấy tôi, trượt xuống mái hiên dốc rồi đáp xuống mặt đất bằng tư thế duyên dáng của con mèo. Niềm hạnh phúc hay tâm tình nhõm đùa giỡn sáng nay giờ chẳng còn gì ngoài hồi ức. Matthew nhấc áo chẽn của mình mắc cái giá cắm đuốc gỉ sét. Khi khoác nó lên vai, người thợ mộc biến mất và chàng hoàng tử trở lại.

      “Agnes Sampson thú nhận năm mươi ba tội lên án thuật phù thủy.” Matthew chửi thề. “Các ủy viên tài phán của giáo hội Scotland đáng lẽ phải biết rằng chất chồng cả đống trách nhiệm như thế khiến cho mỗi việc đều có vẻ ít đáng tin hơn chứ. Theo như báo cáo này, ác quỷ tuyên bố với Sampson rằng Vua James là kẻ thù lớn nhất. Elizabeth chắc hẳn thấy vui mừng vì bà ta nằm ở vị trí đầu tiên trong danh sách.”

      “Phù thủy tin vào ác quỷ,” tôi bảo . Trong tất cả những điều kỳ dị mà loài người về phù thủy, đây là thứ khó hiểu nổi nhất.

      “Hầu hết các sinh vật tin vào bất cứ điều gì hứa hẹn chấm dứt tình trạng khốn khổ thời của bọn họ, nếu họ bị bỏ đói, tra tấn và kinh hãi suốt hàng tuần lễ.” Matthew đưa tay cào tóc. “Lời thú tội của Agnes Sampson đáng tin, nó cung cấp bằng chứng rằng phù thủy can thiệp vào chính trị, trong khi Vua James đấu tranh để giành phần thắng.”

      “Bằng cách ấy hiệp ước bị phá vỡ,” tôi , hiểu được lý do vì sao Agnes lại bị vua Scotland truy đuổi ghê gớm đến thế.

      “Phải. Gallowglass muốn biết phải làm gì.”

      làm gì khi ở đây… lúc trước ấy?”

      để mặc cái chết của Agnes Sampson qua gặp trở ngại gì, trừng phạt công dân thích đáng đối với tội ác nằm bên ngoài vòng bảo vệ của Đại Hội Đồng.” Mắt tìm gặp ánh mắt tôi. Phù thủy và sử gia tranh đấu với lựa chọn thể đặt ra trước mắt.

      “Vậy phải tiếp tục giữ im lặng rồi,” tôi , sử gia thắng thế trong trận đối đầu.

      im lặng của đồng nghĩa với cái chết của bà ta.”

      “Còn lên tiếng của làm thay đổi quá khứ, có lẽ kèm theo cả những hậu quả thể tưởng tượng được cho tại. Em cũng muốn phù thủy đó chết, Matthew. Nhưng nếu chúng ta bắt đầu làm thay đổi những điều này, đâu là điểm chúng ta dừng lại?” Tôi lắc đầu.

      “Vậy theo dõi toàn bộ vụ việc khủng khiếp ở Scotland lần nữa. Dù lần này nó có vẻ rất khác,” miễn cưỡng . “William Cecil ra lệnh trở về nhà để có thể tập hợp tin tình báo về tình huống của Scotland cho nữ hoàng. phải tuân theo các mệnh lệnh từ ông ta, Diana. lựa chọn.”

      “Chúng ta phải trở về ngay cả khi có lệnh triệu hồi của Cecil. Bạn bè của Champier phát ông ấy mất tích. Và chúng ta có thể rời ngay lập tức. Philippe sắp đặt tất cả cho chuyến ra cấp tốc, đề phòng trước.”

      “Đó là cha mà,” Matthew gượng cười .

      “Em rất tiếc chúng mình phải rời quá sớm,” tôi thào .

      Matthew đưa tay kéo tôi gần lại. “Nếu phải nhờ em những kỷ niệm cuối cùng của về cha mình là cái vỏ vỡ vụn của người đàn ông. Chúng ta phải biết nếm đắng cay để thấy được vị ngọt ngào.”

      Vài ngày sau đó, Matthew và cha trải qua nghi thức tạm biệt mà hẳn rất quen thuộc, căn cứ theo tất cả những lời tạm biệt mà hai người họ trao đổi. Nhưng lần này là độc nhất vô nhị. Lần tới Matthew hoàn toàn khác trở về Sept–Tours, người biết gì về tôi hay tương lai của Philippe.

      “Những người dân Saint–Lucien từ lâu quen với việc bầu bạn cùng manjasang,” Philippe trấn an khi tôi lo lắng làm thế nào Thomas và Étienne có thể giữ kín toàn bộ bí mật đó. “Chúng ta đến rồi . Họ chẳng hỏi han gì và chúng ta cần phải giải thích gì cả. Mọi chuyện luôn như thế.”

      Dù vậy, Matthew vẫn đảm bảo chắc chắn các kế hoạch của mình được hiểu ràng. Tôi nghe lỏm chuyện với Philippe ở kho cỏ khô sau buổi luyện tập sáng.

      “Việc cuối cùng con làm trước khi cả hai trở về thời đại của mình là gửi cho cha lời nhắn. Hãy sẵn sàng để ra lệnh cho con tới Scotland nhằm thắt chặt mối liên minh của gia tộc với Vua James. Từ đó con đến Amsterdam. Người Hà Lan mở những tuyến đường giao thương với phương Đông.”

      “Ta có thể xoay sở được, Matthew,” Philippe ôn tồn . “Cho tới khi đó ta mong chờ những cập nhật đều đặn từ và tin tức về việc con cùng Diana sinh sống ra sao.”

      “Gallowglass giúp cha luôn theo kịp các chuyến phiêu lưu của chúng con,” Matthew hứa.

      “Chuyện đó giống việc được nghe tin tức từ con,” Philippe đáp. “ khó lòng làm ngơ trước tương lai của con khi mà con trở nên vênh vang tự đắc, Matthew. Nhưng ta cũng giải quyết được bằng cách nào đó thôi.”

      Thời gian như chơi khăm chúng tôi suốt những ngày cuối cùng ở lại Sept–Tours, ban đầu là dài lê thê, sau đó rút ngắn mau chóng mà hề báo trước. Vào đêm Giáng Sinh, Matthew xuống nhà thờ tụ hội lớn cùng hầu hết gia nhân trong nhà. Tôi tiếp tục ở lại lâu đài và tìm thấy Philippe trong phòng làm việc của ông phía bên kia đại sảnh. Ông ấy, như vẫn luôn thế, viết các lá thư.

      Tôi gõ cửa. Đó chỉ là thủ tục, vì chắc hẳn ông dõi theo tôi khi tới đây kể từ lúc rời khỏi tòa tháp của Matthew, nhưng việc mời mà vào có vẻ phải là điều đúng đắn.

      “Introite.” Cùng kiểu mệnh lệnh ông ban ra khi tôi lần đầu đến, nhưng giờ nó nghe có vẻ gần gũi hơn rất nhiều vì rằng tôi biết ông hơn.

      “Con xin lỗi làm phiền cha, Philippe.”

      “Vào , Diana,” ông , đưa tay chà hai mắt. “Catrine tìm thấy mấy chiếc hộp của ta rồi à?”

      “Vâng, cả cái cốc và hộp bút nữa.” Philippe khăng khăng bắt tôi mang theo bộ đồ dùng du lịch đẹp đẽ của ông trong chuyến này. Mỗi món đồ đều được làm từ da cứng và có thể chống chọi với thời tiết khắc nghiệt như tuyết, mưa hay việc di chuyển xóc nảy. “Con muốn cảm ơn cha trước khi chúng con rời – và chỉ về đám cưới đâu ạ. Cha chữa lành những tổn thương trong lòng Matthew.”

      Philippe đẩy cái ghế đẩu ra sau và quan sát tôi kỹ. “Chính ta mới là người nên cám ơn con, Diana. Gia đình này vẫn luôn cố gắng chữa lành tâm hồn Matthew trong hơn nghìn năm qua. Nếu ta nhớ chính xác, con chỉ mất chưa đầy bốn mươi ngày để làm việc đó.”

      “Matthew giống thế này đâu ạ,” tôi lắc đầu, “ như vậy cho tới khi ấy ở đây, cùng với cha. Có phần bóng tối trong ấy mà con thể chạm tới được.”

      người đàn ông như Matthew bao giờ hoàn toàn buông thả bản thân trong bóng tối. Nhưng có lẽ việc nương theo bóng tối ấy để nó là cần thiết,” Philippe tiếp tục.

      “Xin đừng chối bỏ ta bởi vì ta là bóng đêm và tăm tối,” tôi lẩm bẩm.

      “Ta nhận ra câu thơ này,” Philippe cau mày .

      “Nó ở trong cuốn sách về thuật giả kim mà con chỉ cho cha xem lần trước ấy – the Aurora Consurgens. Câu thơ thoáng lướt qua gợi cho con nghĩ đến Matthew, nhưng con vẫn hiểu lý do vì sao. Dù vậy, con biết được thôi.”

      “Con rất thích chiếc nhẫn đó, đúng ?” Philippe , ngón tay nhè gõ lên mặt bàn. “Đấy cũng là những lời nhắn thông minh từ Ysabeau đấy.”

      “Mẹ muốn cha biết bà chấp thuận cuộc hôn nhân này,” tôi đáp, ngón tay cái vươn ra với cảm giác nằng nặng đầy an ủi.

      . Ysabeau muốn ta biết bà ấy chấp nhận con. Giống như chất vàng làm ra nó vậy, con là người trung thành kiên định. Con cất giấu trong mình rất nhiều bí mật, cũng giống như những dải nhẫn giấu kín những vần thơ trong nó. Nhưng chính viên đá mới là báu vật tốt nhất, cũng giống con: sáng ngời bề mặt, dữ dội nơi thẳm sâu, và thể vỡ nát.”

      “Ồ, con có thể quỵ ngã mà,” tôi rầu rĩ . “Cha có thể đập vỡ viên kim cương chỉ bằng chiếc búa bình thường.”

      “Ta trông thấy những vết sẹo Matthew để lại người con. Ta ngờ là còn có những vết khác nữa, dù chúng hữu. Nếu khi đó con quỵ ngã, bây giờ cũng .”

      Philippe vòng qua chiếc bàn. Ông dịu dàng hôn lên hai má tôi, và hai mắt tôi cay xè rơm rớm lệ.

      “Con nên rồi. Chúng con lên đường vào sáng sớm ngày mai.” Tôi quay người rời , rồi bất chợt quay lại giang hai cánh tay ôm choàng lấy đôi vai lực lưỡng của Philippe. Làm sao người đàn ông như thế này có thể gục ngã được chứ?

      “Chuyện gì thế?” Philippe lầm bầm hỏi, hơi ngả người ra sau.

      “Cả cha cũng độc đâu, Philippe de Clermont,” tôi thầm vẻ kiên quyết. “Con tìm cách để đến bên cạnh cha trong bóng tối, con hứa. Và khi cha nghĩ cả thế giới này bỏ rơi mình, con ở đó, nắm chặt tay cha.”

      “Sao có thể khác được chứ,” Philippe nhàng , “khi mà con ở trong tim ta?”

      Sáng hôm sau chỉ có vài sinh vật tập trung lại trong sân lâu đài để tiễn chúng tôi lên đường. Đầu Bếp nhét tất cả các loại đồ ăn vặt vào mấy chiếc túi bên yên ngựa của Pierre dành cho tôi, còn Alain nhét những lá thư gửi cho Gallowglass, Walter và các ghi chép công thức nấu ăn khác vào khoảng trống còn sót lại. Catrine đứng bên cạnh, mắt đỏ hoe vì khóc. ấy muốn cùng chúng tôi, nhưng Philippe đồng ý.

      Và còn có Philippe, người kéo tôi trong cái ôm thắm thiết trước khi thả tôi ra. Ông và Matthew khẽ chuyện lúc. Matthew gật đầu.

      “Ta tự hào về con lắm, Matthaios,” Philippe , vỗ vai . Matthew nhàng tiến về phía cha khi Philippe thả ra, miễn cưỡng ngắt đứt kết nối thân tình đó.

      Khi Matthew quay sang tôi, gương mặt ánh lên vẻ kiên định. giúp tôi lên yên ngựa trước khi tung mình lên lưng con ngựa của .

      “Khairem, cha,” Matthew , ánh mắt long lanh.

      “Khairete, Matthaios kai Diana,” Philippe đáp lại.

      Từ lúc ấy Matthew hề ngoái lại nhìn cha mình lần cuối và giữ nguyên tấm lưng cứng rắn mạnh mẽ. Mắt nhìn thẳng con đường phía trước, nghênh diện đón tương lai chứ ngoảnh nhìn quá khứ.

      Tôi ngoái lại lần, khi thoáng chuyển động lọt vào tầm mắt. Đó là Philippe, ông cưỡi ngựa dọc theo dải đồi bên cạnh, quyết để mất dấu con trai cho tới khi thể nữa.

      “Tạm biệt, Philippe,” tôi thầm trong gió, hy vọng ông nghe thấy.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      14.

      “Ysabeau? Bà ổn chứ?”

      “Tất nhiên rồi.” Ysabeau uốn cong lại bìa cuốn sách cũ vô giá và lắc ngược lắc xuôi.

      Emily Mather nhìn Ysabeau vẻ nghi ngại. Thư viện này ở trong tình trạng cực kỳ hỗn độn. Phần còn lại của lâu đài gọn gàng ngăn nắp, nhưng căn phòng này trông như thể bị vòi rồng quét qua. Sách rải la liệt khắp nơi. Ai đó lôi chúng ra khỏi giá và quăng lên mọi bề mặt trong phòng.

      “Nó hẳn phải ở đây. Ông ấy chắc biết rằng bọn trẻ ở cùng nhau.” Ysabeau ném cuốn sách tay sang bên và với tới cuốn khác. Việc này làm tâm hồn người thủ thư của Emily đau nhói khi chứng kiến các cuốn sách bị đối xử tệ bạc thế này.

      “Tôi hiểu. Bà tìm gì thế?” Emily nhặt lên cuốn và nhàng đóng lại.

      “Matthew và Diana đến năm 1590. Tôi khi đó có mặt ở nhà, mà ở Trier. Philippe chắc hẳn biết về người vợ mới của Matthew. Ông ấy để lại lời nhắn cho tôi.” Mái tóc Ysabeau xõa tung bao quanh khuôn mặt bà, xòa xuống tận eo lưng. Bà nóng nảy đưa tay vén tóc và hất nó ra cho khỏi vướng. Sau khi kiểm tra gáy và các trang cuốn sách cuối cùng, bà rạch mở trang sau cùng bằng móng tay chỏ sắc bén của mình. Thấy có gì được giấu ở đó, bà gầm gừ thất vọng và tức giận.

      “Nhưng đây là sách chứ phải những lá thư,” Emily thận trọng . Tuy biết về Ysabeau, nhưng Emily rất quen thuộc với các huyền thoại khủng khiếp hơn về bà mẹ của Matthew và những gì bà làm ở Trier cũng như nhiều nơi khác. Nữ chúa của gia tộc de Clermont có bạn bè gì với phù thủy cả, và mặc dù Diana tin tưởng người phụ nữ này, Emily vẫn dám chắc chắn.

      “Tôi tìm lá thư nào cả. Chúng tôi giấu những lời nhắn cho nhau giữa các trang sách. Tôi tìm kiếm qua mọi cuốn sách trong thư viện khi ông ấy chết, mong muốn có được từng mẩu ký ức về ông ấy. Nhưng tôi chắc chắn bỏ sót thứ gì đó.”

      “Có lẽ đó phải nơi tìm thấy nó – chưa tìm thấy.” giọng khô khốc vọng vào từ bóng tối bên cánh cửa. Mái tóc đỏ của Sarah Bishop trông hoang dã và gương mặt trắng nhợt vì lo lắng cùng thiếu ngủ. “Marthe ngất xỉu mất khi trông thấy cảnh này. Và may là Diana có ở quanh đây. Con bé lên lớp cho bà bài về việc bảo quản giữ gìn sách đến mức khiến bà thấy ngốc nghếch.” Tabitha, con mèo vẫn bám theo Sarah khắp nơi, vọt ra từ giữa hai chân bà.

      Đến lượt Ysabeau bối rối. “Ý bà là gì, Sarah?”

      “Thời gian chơi khăm chúng ta. Dù cho mọi có theo đúng kế hoạch, Diana đưa Matthew trở về đúng ngày đầu tiên của tháng Mười năm 1590 có thể vẫn còn quá sớm để tìm kiếm lời nhắn từ chồng bà. Và bà tìm thấy lời nhắn trước đó đâu, bởi vì Philippe chưa gặp cháu tôi.” Sarah ngừng ngang. “Tôi nghĩ Tabitha ăn cuốn sách kia.”

      Tabitha, hài lòng được ở trong ngôi nhà có lượng cung cấp chuột dư dả cũng như rất nhiều góc tối để nấp, và gần đây nàng bắt đầu xâm chiếm trèo lên các đồ gỗ nội thất hay những tấm màn trướng. nàng chễm chệ cái giá trong thư viện và gặm góc cuốn sách bìa bọc da lớn.

      “Kakó gati!” Ysabeau gào lên, lao ào qua các giá sách. “Đó là trong những cuốn sách thích của Diana.”

      Tabitha, kẻ bao giờ lùi bước khi đối đầu với sinh vật săn mồi khác ngoại trừ Miriam, đập mạnh vào cuốn sách làm nó rơi xuống sàn nhà. ả nhảy xuống theo sau, lởn vởn bên chiến lợi phẩm như sư tử canh mồi.

      “Là trong những cuốn sách về giả kim thuật có hình minh họa,” Sarah , giải phóng cho cuốn sách khỏi con mèo của bà rồi lật giở qua các trang. Bà hít ngửi cái bìa. “À, chả trách Tabitha muốn nhai nó. Cuốn sách có mùi bạc hà và da, giống y như món đồ chơi thích của nó.”

      miếng giấy vuông vắn, được gấp nhiều lượt, rập rờn rơi xuống sàn nhà. Bỏ rơi cuốn sách, Tabitha ngoạm mẩu giấy giữa hai hàm răng sắc và nghênh ngang tiến về phía cửa.

      Ysabeau đợi sẵn nó. Bà túm gáy Tabitha nhấc lên và cạy mảnh giấy từ miệng con mèo. Rồi bà hôn lên mũi nàng mèo sững sờ sửng sốt. “Con mèo thông minh. Mày được ăn cá vào bữa tối nay nhé.”

      “Đó là thứ bà tìm kiếm à?” Emily nhìn mảnh giấy vụn. Nó dường như xứng với việc xới tung cả căn phòng lên như thế.

      Câu trả lời của Ysabeau ràng từ việc bà nâng niu nó. Ysabeau cẩn thận giở các nếp gấp để trải ra thành tờ giấy dày, khoảng hơn mười centimet vuông, cả hai mặt đều được phủ kín bằng những ký tự li ti.

      “Cái đó được viết bằng loại mật mã,” Sarah . Bà đẩy cặp kính đọc gọng vằn ngựa lên sống mũi để nhìn hơn.

      phải mật mã – là tiếng Hy Lạp.” Đôi tay Ysabeau run run khi bà vuốt phẳng tờ giấy ra.

      “Nó gì thế?” Sarah hỏi.

      “Sarah!” Emily mắng. “Đó là chuyện riêng mà.”

      “Nó là từ Philippe. Ông ấy gặp chúng,” Ysabeau thở hắt, đôi mắt chạy đua lướt các dòng chữ. Bàn tay bà đưa lên miệng, nhõm ganh đua cùng cảm giác tin nổi.

      Sarah đợi cho Ysabeau đọc xong. Mất khoảng hai phút, đó là chín mươi giây dài đằng đẵng mà bà bao giờ trao cho ai khác cả.

      “Thế nào?”

      “Họ ở cùng ông ấy vào dịp lễ. ‘Vào buổi sáng ngày lễ thánh, tôi tạm biệt con trai em. Thằng bé cuối cùng hạnh phúc, được kết bạn đời với người đàn bà theo dấu chân của nữ thần và xứng đáng với tình của nó,’” Ysabeau đọc to lên.

      “Bà có chắc ông ấy ám chỉ Matthew và Diana ?” Emily thấy cụm từ này trang trọng và mập mờ cách kỳ quặc khi dùng trao đổi giữa vợ chồng.

      “Đúng thế. Matthew luôn là đứa con làm chúng tôi lo lắng, dù các chị em nó còn vướng vào những tình thế khó khăn tồi tệ hơn nhiều. Mong ước của tôi là được thấy Matthew hạnh phúc.”

      “Và phần ám chỉ ‘người đàn bà theo dấu chân của nữ thần’ khá ràng,” Sarah tán đồng. “Ông ấy thể ghi tên con bé và nhận định Diana là phù thủy. ra sao ra nếu có ai khác tìm thấy lời nhắn?”

      “Còn nữa,” Ysabeau tiếp tục. “‘Số phận vẫn có sức mạnh khiến chúng ta kinh ngạc, vui sướng. Tôi sợ rằng khoảng thời gian khó khăn ở phía trước dành cho chúng ta. Tôi làm những gì có thể, trong khoảng thời gian còn lại của mình, để đảm bảo cho an toàn của bà và cho các con cháu chúng ta, những đứa trẻ cho chúng ta niềm vui và cả những đứa trẻ còn chưa được sinh ra.’”

      Sarah chửi thề. “Chưa sinh ra, phải chưa được tạo ra à?”

      “Đúng vậy.” Ysabeau thầm. “Philippe thường lựa chọn từ ngữ cách cẩn thận.”

      “Vậy ông ấy cố gắng cho chúng ta biết điều gì đó về Diana và Matthew,” Sarah .

      Ysabeau thả người lên sofa. “ thời gian rất lâu, rất lâu trước đây, cũng có những lời đồn về các sinh vật khác thường – bất tử nhưng đầy quyền năng. Khoảng thời điểm hiệp ước lần đầu tiên được ký, có người tuyên bố rằng có phù thủy sinh ra đứa trẻ khóc ra máu giống ma cà rồng. Mỗi khi đứa bé khóc như thế lại có những con gió dữ dội thổi từ biển vào.”

      “Tôi chưa bao giờ nghe thấy chuyện đó cả,” Emily cau mày .

      “Nó bị phủ nhận như câu chuyện thần thoại được thêu dệt nên nhằm khiến các sinh vật sợ hãi. Rất ít người trong chúng ta giờ còn nhớ được, và thậm chí càng ít hơn nữa những người tin vào khả năng có câu chuyện ấy.” Ysabeau chạm vào tờ giấy trong lòng. “Nhưng Philippe biết đó là . Ông ấy giữ đứa trẻ ấy, bà thấy đấy, và biết nó dành cho điều gì.”

      “Điều đó là cái gì chứ?” Sarah sửng sốt hỏi.

      manjasang được phù thủy sinh ra. Đứa trẻ tội nghiệp chết đói. Gia đình của phù thủy kia lấy đứa bé từ chỗ mẹ nó và cho thằng bé ăn máu, họ cho rằng nếu chi cho thằng bé uống sữa, ngăn được nó biến thành sinh vật như chúng tôi.”

      “Chắc chắn Matthew biết câu chuyện này,” Emily . “Bà chắc kể cho cậu ấy để cậu ấy tìm kiếm, nếu phải vì lợi ích của Diana.”

      Ysabeau lắc đầu. “Đấy phải truyện của tôi để tôi được kể.”

      “Các người và những bí mật của các người,” Sarah chua chát .

      “Còn những bí mật của các vị sao, Sarah?” Ysabeau la lên. “Bà tin rằng phù thủy – những sinh vật như Satu và Peter Knox – biết gì về đứa trẻ manjasang này hay mẹ của nó ư?”

      “Dừng lại , cả hai người,” Emily đột ngột lên tiếng. “Nếu câu chuyện này có , và các sinh vật khác biết nó, thế Diana gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Cả Sophie nữa.”

      “Cha mẹ ấy đều là phù thủy, nhưng ấy lại là tinh,” Sarah , lòng nghĩ đến cặp vợ chồng trẻ xuất bậc thềm nhà bà ở New York vài ngày trước lễ Halloween. ai hiểu làm sao hai tinh ấy lại vừa vặn liên quan tới điều bí này.

      “Chồng Sophie cũng vậy, nhưng con họ là phù thủy. ấy và Nathaniel là bằng chứng nhãn tiền cho thấy chúng ta hiểu làm thế nào mà phù thủy, tinh và ma cà rồng sinh sản và truyền các khả năng của họ cho con cháu,” Emily lo lắng .

      “Sophie và Nathaniel phải là những sinh vật duy nhất cần tránh xa Đại Hội Đồng. may là Matthew và Diana an toàn ở thời điểm 1590 chứ ở đây.” Sarah dữ dằn thêm vào.

      “Nhưng hai đứa ở trong quá khứ càng lâu khả năng chúng làm thay đổi tại càng nhiều,” Emily nhận định. “Chẳng chóng chầy, Diana và Matthew lộ diện thôi.”

      “Ý muốn gì, Emily?” Ysabeau hỏi.

      “Thời gian phải điều chỉnh – và theo cách quá đáng như mọi người nghĩ, với những cuộc chiến tranh bị ngăn chặn hay các cuộc bầu cử tổng thống thay đổi. Nó là những việc bé thôi, giống như lời nhắn này, xuất ở chỗ này chỗ kia.”

      “Những điều dị thường,” Ysabeau lẩm bẩm. “Philippe luôn tìm kiếm những điều dị thường thế giới. Đây là lý do vì sao tôi vẫn đọc tất cả chỗ báo đó. Nó trở thành thói quen của chúng tôi đọc lướt qua chúng vào mỗi buổi sáng.” Mắt bà khép lại trước hồi ức thân thuộc ấy. “Chồng tôi thích các mục thể thao, dĩ nhiên rồi, và cũng đọc cả các cột báo về giáo dục nữa. Philippe lo lắng về những gì bọn trẻ học trong tương lai. Ông ấy lập nhóm bằng hữu để nghiên cứu tiếng Hy Lạp, triết học, và còn tài trợ cho những trường đại học dành cho phụ nữ. Tôi luôn nghĩ việc đó kỳ lạ.”

      “Ông ấy tìm Diana,” Emily với vẻ đoan chắc của người có năng lực linh cảm trời ban.

      “Có lẽ thế. Có lần tôi hỏi ông ấy tại sao lại quá mức bận tâm tới các kiện diễn ra như thế và ông ấy hy vọng phát được điều gì trong đống báo chí. Philippe trả lời ông ấy biết đó là gì khi thấy nó,” Ysabeau kể. Bà mỉm cười buồn bã. “Ông ấy những điều kỳ bí và nếu có thể, ông ấy muốn làm thám tử, giống như Sherlock Holmes vậy.”

      “Chúng ta cần chắc chắn phát ra bất cứ khác thường nào dù bé trong thời gian trước khi Đại Hội Đồng biết được,” Sarah .

      “Tôi bảo Marcus,” Ysabeau gật đầu tán thành.

      “Bà đáng lẽ nên kể cho Matthew biết về đứa bé lai đó.” Sarah thể kìm nén được vẻ trách cứ lộ ra trong giọng .

      “Con trai tôi Diana, nếu biết về đứa trẻ đó, Matthew thà rằng quay lưng với con bé chứ bao giờ đặt con bé – và đứa trẻ – vào vòng nguy hiểm.”

      “Những người nhà Bishop dễ bị dọa thế đâu, Ysabeau. Nếu Diana muốn con trai bà, con bé tìm cách để có được cậu ấy.”

      “Diana muốn có cậu ấy, và giờ họ có nhau,” Emily nhắc. “Nhưng chúng ta chỉ chia sẻ tin này cho Marcus đâu. Sophie và Nathaniel cũng cần phải biết.”

      Sarah cùng Emily rời khỏi thư viện. Họ ở trong căn phòng cũ của Louisa de Clermont, xuôi theo hành lang tới phòng Ysabeau. Sarah nghĩ biết bao nhiêu lần ngày khi thấy nó có mùi hơi giống Diana.

      Ysabeau vẫn ở lại sau khi hai người rời , thu thập những cuốn sách để sắp lại lên giá. Khi căn phòng lần nữa lại ngăn nắp trật tự, bà trở lại chỗ sofa và nhặt lên lời nhắn từ chồng. Nó còn có nhiều chuyện hơn điều bà tiết lộ với hai phù thủy. Bà đọc lại những dòng cuối cùng.

      “Nhưng đủ những chuyện u ám rồi. Em cũng phải giữ mình an toàn để có thể tận hưởng tương lai cùng với chúng. hai ngày rồi kể từ khi tôi thầm nhắc em nhớ rằng em là người nắm giữ trái tim thôi. Tôi ước rằng mình có thể làm vậy từng phút từng giây, để em quên điều đó, hay quên tên của người đàn ông thương em mãi mãi. Philipos.”

      Vào những ngày cuối đời, có nhiều lúc Philippe thể nhớ được tên mình, huống hồ là tên của bà.

      “Cảm ơn Diana,” Ysabeau thầm trong bóng đêm, “vì mang ông ấy trở lại cho ta.”

      Vài giờ sau, Sarah nghe thấy thanh lạ lùng phía đầu – giống tiếng nhạc, nhưng còn hơn cả nhạc. Bà lao bổ ra khỏi phòng để rồi tìm thấy Marthe trong hành lang, bà lão bọc mình trong chiếc áo choàng tắm dây viền cũ với con ếch được thêu miệng túi, nét mặt biểu lộ vẻ vừa sung sướng lại vừa đau đớn. Con người bao giờ có thể tạo ra thanh đẹp đẽ nhưng sầu thảm đó. Chắc hẳn thiên thần mái nhà.

      “Ysabeau hát trở lại,” Marthe trả lời. “Bà ấy chỉ làm thế lần duy nhất từ khi Philippe chết – là khi cháu bà gặp nguy hiểm và cần được kéo trở về thế giới này.”

      “Bà ấy ổn chứ?” Quá nhiều đau đớn và mất mát trong mỗi nốt nhạc khiến tim Sarah thắt lại.

      Marthe gật đầu. “ nhạc là điều tốt, dấu hiệu cho thấy thời kỳ để tang của bà ấy có thể kết thúc. Chỉ khi đó Ysabeau mới bắt đầu sống lại.”

      Hai người phụ nữ, ma cà rồng và phù thủy, cùng lắng nghe cho đến khi những nốt nhạc cuối cùng trong bài hát của Ysabeau lắng dần vào im lặng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần III. London: Blackfriars

      15.

      “Trông như chú nhím điên ấy,” tôi nhận xét. Đường chân trời London phủ kín những ngọn tháp nhọn tua tủa như vô số cây kim chĩa thẳng lên trời, nổi lên giữa đống lộn xộn các tòa nhà xung quanh chúng. “Đó là gì vậy?” tôi thở hắt ra, chỉ về phía tòa kiến trúc bằng đá có nhiều ô cửa sổ cao vút.

      “Nhà thờ Thánh Paul,” Matthew giải thích. “Sét đánh trúng tháp nhọn, mái gỗ bắt lửa cháy. Người tin đó là cả phép màu khi toàn bộ nhà thờ bị thiêu ra tro,” tiếp lời.

      “Còn chẳng gì ngạc nhiên khi người Pháp tin rằng đó ràng là bàn tay của Chúa tạo nên kiện ấy,” Gallowglass bình luận. chàng gặp chúng tôi ở Dover, và trưng dụng con thuyền tại Southwart, giờ chèo thuyền đưa chúng tôi ngược dòng. “Bất kể lúc nào Chúa Trời thể uy quyền của Người nữa, Người cũng chả bao giờ cấp tiền tu sửa cho nó cả.”

      “Nữ hoàng cũng .” Matthew toàn tâm để ý các cầu cảng dọc bờ, còn bàn tay phải đặt chuôi gươm.

      Tôi chưa bao giờ tưởng tượng nổi nhà thờ Thánh Paul cũ to lớn đến thế và lại tự véo mình cái nữa. Tôi phải làm việc đó kể từ khi phát thấy tòa tháp (cả nó nữa, trông to lớn khổng lồ khi có những tòa nhà chọc trời vây quanh) và Cầu London (nơi có chức năng như khu trung tâm thương mại.) Rất nhiều quang cảnh cũng như thanh gây ấn tượng cho tôi kể từ khi cả hai đến quá khứ, nhưng gì khiến tôi sửng sốt nghẹt thở như lần đầu tiên nhìn lướt qua toàn cảnh London.

      “Chú có chắc là muốn cập cảng thị trấn trước ?” Gallowglass vẫn luôn ngụ ý thăm dò về hành động lần này kể từ lúc chúng tôi trèo vào con thuyền.

      “Chúng ta đến Blackfriars,” Matthew kiên quyết . “Mọi chuyện khác đều có thể đợi.”

      Gallowglass tỏ vẻ hồ nghi, nhưng chàng vẫn tiếp tục chèo cho tới khi chúng tôi đến cực tây của thành phố cổ có tường bao quanh. Tại đó, thuyền cập bến ở cầu cảng có những bậc thang bằng đá. Nhiều nấc thang dưới cùng bị nhấn chìm dưới dòng sông, và nhìn vào các bức tường thủy triều tiếp tục lên cho tới khi phần còn lại của các bậc thang đá này cũng nằm dưới mặt nước. Gallowglass ném sợi dây cho người đàn ông vạm vỡ, người này cảm ơn cậu ta rối rít vì trả lại tài sản của ông ta.

      “Cậu hình như chỉ lại bằng thuyền của người khác nhỉ, Gallowglass. Có lẽ Matthew nên tặng cho cậu chiếc thuyền riêng vào dịp Giáng Sinh,” tôi lạnh nhạt . Chuyến trở về nước của chúng tôi – và theo lịch cũ – có nghĩa chúng tôi ăn mừng dịp nghỉ lễ lần thứ hai trong năm nay.

      “Và tước đoạt trong những lạc thú ít ỏi của cháu ư?” Hàm răng trắng bóng của chàng lấp ló sau bộ râu. Cậu cháu trai của Matthew cảm ơn người lái thuyền rồi ném cho ông ta đồng tiền xu có kích cỡ và độ nặng đủ làm giảm hẳn vẻ lo lắng của người đàn ông khốn khổ, chuyển thành biểu cảm kích choáng váng.

      Chúng tôi từ chỗ lên bờ xuyên qua hành lang mái vòm, ngang qua hẻm Water, con đường giao thông huyết mạnh ngoằn ngoèo, chật hẹp đông đúc nhà ở và cửa hàng. Mỗi sàn nhà càng lúc càng nâng cao lên, các ngôi nhà nhô lên cao hơn so với mặt đường, giống như cái tủ búp phê có những ngăn kéo được kéo ra hết. Hậu quả là vải lanh, thảm trải sàn, và các thứ linh tinh khác được phơi giăng ra ngoài cửa sổ. Mọi người đều tranh thủ ngày thời tiết đẹp hiếm hoi để làm thoáng khí cho nơi ăn ở hay hong đồ may mặc.

      Matthew vẫn nắm chặt tay tôi, còn Gallowglass bên phải tôi. Các hình ảnh cùng thanh đổ đến từ mọi phía.

      “Chúng ta đến rồi,” Matthew . “Hươu Đực và Vương Miện.”

      Tòa nhà có nửa được xây bằng gỗ, giống hầu hết cả con phố. hành lang vòm bắc qua hai dãy cửa sổ. Người thợ đóng giày bận rộn làm việc ở đầu bên này mái vòm, trong khi người phụ nữ ở phía đối diện trông chừng mấy đứa trẻ, khách hàng, cùng cuốn sổ ghi chép lớn. Bà ta gật đầu nhanh nhẹn chào Matthew.

      “Vợ của Robert Hawley quản lý học viên cũng như khách hàng của ông ấy bằng bàn tay thép. có chuyện gì diễn ra tại Hươu Đực và Vương Miện mà Margaret biết,” Matthew giải thích. Tôi thầm ghi nhớ kết bạn với người phụ nữ ấy ngay khi có cơ hội.

      Lối vắng vẻ dẫn vào sân trong khu nhà – nơi xa hoa trong thành phố đông đúc như London. Khoảng sân kiêu hãnh nhờ vẻ trang nhã hiếm có: giếng cung cấp nước sạch cho bộ phận dân cư nơi đây gồm nhiều thành phần khác nhau. Vài người còn tận dụng phần sân phía nam lộ thiên bằng cách cạy những viên đá lát cũ lên để trồng mảnh vườn, và bây giờ các luống đất gọn gàng trống của nó kiên nhẫn đợi mùa xuân đến. nhóm phụ nữ giặt giũ làm việc bên ngoài khu kho cũ cạnh nhà vệ sinh chung.

      Phía bên trái, cầu thang xoắn dẫn lên khu phòng của chúng tôi ở tầng , nơi Françoise đợi để chào đón phần chiếu nghỉ rộng rãi. ấy mở tung cánh cửa kiên cố dẫn vào khu phòng. Trong phòng có tủ bát đầy chật những khuyên xâu. con ngỗng, trụi lông và gãy cổ, bị buộc vào quả đấm cửa tủ.

      “Cuối cùng cũng đến.” Henry Percy xuất , cười rạng rỡ. “Chúng tôi đợi mấy tiếng đồng hồ rồi đấy. Mẫu thân phu nhân tốt bụng của tôi gửi cho các vị con ngỗng này. Bà nghe báo rằng trong thành phố có gia cầm và bắt đầu khẩn trương lo lắng các vị có thể bị đói.”

      vui được gặp bạn, Hal,” Matthew bật cười vang vừa vừa lắc đầu trước con ngỗng nọ. “Mẹ có khỏe ?”

      “Vẫn luôn là người nhiều lời lắm chuyện vào dịp Giáng Sinh, cảm ơn bạn hỏi thăm. Hầu hết cả gia đình đều tìm cớ để ở lại nơi nào đó, nhưng tôi bị giữ lại đây để làm nữ hoàng vui lòng. Bệ hạ quát lên, vang vọng cả khán phòng rằng tôi đáng tin cậy ngay cả khi ở xa tận P–P–Petworth.” Henry cà lăm , mặt mày ỉu xìu trước hồi tưởng kia.

      vô cùng được chào mừng đón Giáng Sinh với chúng tôi, Henry,” tôi , vừa cởi áo choàng vừa bước vào trong, nơi mùi gia vị cùng mùi gỗ linh sam tươi mới ngập tràn khí.

      tốt bụng mời tôi, Diana, nhưng em Eleanor và em trai George của tôi ở trong thành phố và chúng có can đảm đương đầu với bà.”

      “Ít nhất hãy ở lại với chúng tôi tối nay,” Matthew khẩn nài, lái Henry sang bên phải ở nơi ấm áp và có ánh lửa lò sưởi bập bùng cháy, “và hãy kể cho chúng tôi nghe những chuyện diễn ra trong thời gian chúng tôi vắng.”

      “Ở đây mọi chuyện đều yên ắng cả,” Henry vui vẻ báo cáo.

      “Yên ắng ư?” Gallowglass giậm mạnh chân lên các bậc thang, nhìn vị bá tước cách lãnh đạm.

      “Marlowe ở lễ đội mũ của Hồng Y uống như cái hũ chìm, rao bán những bài thơ với chàng công chứng viên kiết xác đến từ Stratford, kẻ này bám đuôi với hy vọng trở thành nhà soạn kịch. Và giờ có vẻ như Shakespeare rất hài lòng với việc học cách giả mạo chữ ký của chú, Matthew. Theo như ghi chép sổ sách của chủ quán trọ, chú hứa trả tiền phòng cho Kit cùng các chi phí ăn ở tuần trước.”

      “Tôi chỉ để họ ở riêng có tiếng đồng hồ,” Henry chống chế. “Kit biết Matthew và Diana đến vào chiều nay. ta và Will hứa cư xử tử tế hết mức.”

      “Vậy ra đó là lời giải thích,” Gallowglass lẩm bẩm mỉa mai.

      “Đây là cái làm ư, Henry?” Tôi nhìn từ tiền sảnh vào trong khu phòng sinh hoạt chính. Ai đó cài những cành nhựa ruồi, thường xuân và linh sam quanh chỗ lò sưởi cùng các khung cửa sổ và bày thành đống lên giữa chiếc bàn gỗ sồi. Lò sưởi được chất đầy các xúc củi với ngọn lửa vui tươi xì xèo cháy và nổ tí tách.

      “Françoise và tôi muốn Giáng Sinh đầu tiên của khí lễ hội,” Henry đáp, khuôn mặt ửng hồng.

      Hươu Đực và Vương Miện đại diện cho cuộc sống thành thị ở mức tốt nhất của thế kỷ mười sáu. Phòng khách có kích thước đẹp, cảm giác ấm cúng và dễ chịu. Bức tường phía tây là khung cửa sổ cùng rất nhiều ô kính nhìn ra Hẻm Water. Đó là vị trí hoàn hảo để ngắm nhìn mọi người, với chỗ ngồi được lót đệm êm ái xây liền vào bậu cửa sổ. Ván ốp chân tường làm các bức tường có vẻ ấm áp, mỗi tấm đều được chạm khắc hình những đóa hoa và dây leo xoắn vào nhau mềm mại.

      Nội thất gỗ trong phòng đều là đồ thừa nhưng được chế tác tốt. chiếc ghế tủ và hai ghế bành lòng sâu đợi sẵn bên cạnh lò sưởi. Chiếc bàn bằng gỗ sồi ở chính giữa căn phòng đẹp cách khác thường, bề ngang chưa đầy mét nhưng lại khá dài, các chân bàn trang trí bằng nhiều khuôn mặt thanh tú của tượng phụ nữ và mặt thần Hermes. giá nến sáng rực treo lơ lửng phía chiếc bàn. Nó có thể được nâng lên và hạ xuống bằng cách sử dụng hệ thống dây thừng kéo gắn trần nhà. Những cái đầu sư tử gầm được trạm trổ phía mặt trước của cái tủ chén quái dị chứa hàng loạt các cốc vại, bình đựng, tách hay ly chân dài – mặc dù rất ít đĩa, là thích hợp cho gia đình ma cà rồng.

      Trước khi an vị dùng bữa tối với món ngỗng quay, Matthew dẫn tôi xem phòng ngủ của hai đứa và phòng làm việc riêng của . Cả hai đều ở phía bên kia tiền sảnh, đối diện phòng khách. Cửa sổ đầu hồi nhìn ra sân trong quán trọ, khiến cả hai căn phòng mang cảm giác sáng sủa và thoáng đãng đến ngạc nhiên. Phòng ngủ chỉ có ba món đồ gỗ: chiếc giường bốn cọc với phần đầu giường được chạm khắc cầu kỳ kèm màn treo bằng gỗ nặng nề, tủ áp tường cao được ốp gỗ các mặt, tủ búp phê thấp đặt dưới cửa sổ. Nó bị khóa kỹ, và Matthew giải thích rằng trong đó đựng bộ áo giáp cùng vài món vũ khí của . Henry và Françoise cũng vào chỗ này. Dây thường xuân được cuốn các cột giường, rồi họ còn buộc những cành nhựa ruồi vào thành giường nữa chứ.

      Trái ngược với phòng ngủ trông có vẻ hiếm khi dùng, phòng làm việc của Matthew ràng được sử dụng rất tốt. Ở đây có các giỏ giấy, túi và cốc vại đầy những bút lông và lọ mực, có đủ xi để làm ra vài tá nến, nhiều cuộn dây bện và rất nhiều thư từ đợi sẵn khiến tim tôi trùng xuống khi nghĩ về nó.

      cái ghế bành trông rất thoải mái với lưng tựa dốc nghiêng cùng hai tay ghế cong cong được đặt trước cái bàn có những tấm ván có thể kéo dài ra. Ngoại trừ phần chân bàn nặng nề chạm trổ hình chiếc cốc củ hành, mọi thứ đều đơn giản và thiết thực.

      Thấy tôi tái mặt trước hàng đống công việc đợi , nhưng Matthew vẫn chẳng bận tâm. “Tất cả cái đó có thể đợi. Ngay cả công vụ gián điệp vào đêm Giáng Sinh cũng thế,” với tôi.

      Suốt bữa tối, chúng tôi trò chuyện nhiều hơn về những thành tích chói lọi mới nhất của Walter và choáng váng trước tình trạng giao thông ở London, rồi hướng sang vài chủ đề nghiêm túc hơn như cuộc chè chén say sưa gần nhất của Kit và chàng William Shakespeare dám nghĩ dám làm. Sau khi đám đĩa được dọn sạch, Matthew lôi ra bàn trò chơi . lấy bộ bài từ ngăn kéo bên dưới rồi ân cần dạy tôi cách chơi bài, theo phong cách thời Elizabeth. Henry vừa mới thuyết phục Matthew và Gallowglass chơi trò vẩy rồng – trò ghê rợn liên quan đến việc đặt nho khô cháy sáng vào đĩa rượu brandy và đánh cược xem ai có thể nuốt được nhiều nhất – đúng lúc tiếng thánh ca vọng lên từ dưới đường bên ngoài cửa sổ. phải tất cả bọn họ đều hát đúng nhịp, những người đó còn biết lời bài hát chêm thêm các chi tiết khiếm nhã về đời sống riêng tư của Joseph và Mary.

      “Đây, milord,” Pierre , dúi túi tiền xu cho Matthew.

      “Chúng ta có bánh ?” Matthew hỏi Françoise.

      ấy nhìn Matthew như thể mất trí vậy. “Dĩ nhiên chúng ta có bánh. Chúng ở trong chiếc tủ chén đựng đồ ăn mới dưới tầng trệt, ở đó mùi của nó làm phiền ai,” Françoise đáp, chỉ tay về phía cầu thang. “Năm trước ngài cho bọn họ rượu, nhưng tôi tin bọn họ xin nó vào đêm nay.”

      “Tôi cùng , Matt.” Henry tình nguyện. “Tôi thích bài hát hay vào đêm Giáng Sinh.”

      xuất của Matthew và Henry dưới lầu được đánh dấu bởi lượng tăng lên thấy của đội hợp xướng. Khi dàn hát thánh ca kết thúc, Matthew cảm ơn bọn họ rồi phát thưởng tiền xu. Henry phân phát những cái bánh, hành động này dẫn theo hàng loạt cái cúi đầu kính cẩn kèm theo tiếng thầm “cảm ơn, thưa đức ngài” khi thông tin đây là Bá tước Northumberland được truyền ra. Rồi tất cả di chuyển sang ngôi nhà khác, theo sắp xếp thứ tự ưu tiên bí nào đó mà họ hy vọng được đảm bảo nghỉ ngơi dưỡng sức và trả công tốt nhất.

      Chẳng mấy chốc tôi thể kìm nén những cái ngáp dài nữa, và Henry cùng Gallowglass bắt đầu gọi người mang đến găng tay và áo choàng của họ. Cả hai cười tủm tỉm giống những bà mối hài lòng mãn ý trong khi hướng ra phía cửa. Matthew lên giường cùng tôi, ôm tôi vào lòng cho tới lúc tôi chìm vào giấc ngủ, những bài thánh ca vọng lại xa xa cùng nhiều chiếc chuông ngân nga điểm giờ vang lên khắp thành phố.

      “Đó là nhà thờ Thánh Mary–le–Bow,” , lắng nghe những thanh trong thành phố. “Và Thánh Katherine Cree.”

      “Đó có phải là nhà thờ Thánh Paul ?” Tôi hỏi khi tiếng ngân nga lanh lảnh kéo dài vang lên.

      . Tia sét đánh vào gác chuông đó cũng phá hủy cả những quả chuông rồi,” đáp. “Đó là nhà thờ Thánh Saviour. Chúng ta qua nó đường vào thị trấn đấy.” Các nhà thờ còn lại ở London cùng đổ dồn theo tiếng chuông nhà thờ Southwark. Cuối cùng hồi chuông rung ngẫu hứng kết thúc bằng những tiếng lanh lảnh chói tai và cũng là thanh cuối cùng tôi nghe được trước khi giấc ngủ trùm lên.

      Giữa đêm, tôi bị đánh thức bởi tiếng trò chuyện vẳng ra từ phòng làm việc của Matthew. Tôi cảm nhận được chiếc giường, nhưng còn nằm cùng tôi nữa. Sợi đai da giữ cho tấm đệm khỏi xô lệch kêu rít lên và kéo giãn ra khi tôi nhảy xuống sàn nhà lạnh ngắt. Tôi run rẩy cuốn tấm khăn choàng trước khi rời khỏi phòng.

      Phán đoán bằng các vùng sáp giá cắm nến hẳn Matthew làm việc nhiều giờ đồng hồ rồi. Pierre ở cùng , đứng cạnh cái giá được xây khuất bên lò sưởi. ta trông như thể bị kéo ngược phía sau lê qua lớp bùn của sông Thames lúc thủy triều xuống vậy.

      “Tôi qua khắp cả thành phố với Gallowglass và đám bạn người Iceland của cậu ấy,” Pierre lầu bầu. “Nếu đám người Scot biết bất cứ điều gì về ông thầy giáo ấy, chúng để lộ ra đâu, milord.”

      “Thầy giáo nào thế?” Tôi bước vào phòng. Chỉ khi đó tôi mới phát ra cánh cửa hẹp sau lớp ván gỗ ốp tường.

      “Tôi xin lỗi, madame. Tôi định làm bà thức giấc.” Vẻ mặt mất can đảm của Pierre lộ ra qua mớ rác rưởi, và mùi hôi thối kèm theo ta khiến mắt tôi chảy nước.

      “Được rồi, Pierre. . Ta tìm sau.” Matthew đợi trong khi tiếng giày lép nhép của người hầu dần và biến mất. Ánh mắt Matthew trôi dạt tới khoảng bóng tối bên cạnh lò sưởi.

      “Căn phòng nằm xa tít sau cánh cửa đó chào đón rồi,” tôi lưu ý nhắc nhở, tới bên cạnh . “Giờ chuyện gì xảy ra thế?”

      “Có thêm tin tức từ Scotland. Bồi thẩm đoàn kết án tử hình pháp sư tên John Fian – thầy giáo đến từ Pretonpans. Trong khi vắng, Gallowglass cố khám phá là gì, nếu có bất cứ điều dối trá nào sau hàng loạt lời buộc tội dã man đó: phụng thờ Satan, chặt thây người chết trong nghĩa địa, biến chân chuột chũi thành những mẩu bạc nên bao giờ thiếu tiền cả, ra biển bằng con thuyền cùng quỷ dữ và Agnes Sampson để phá ngang những chính sách của đức vua.” Matthew quăng tờ giấy lên bàn trước mặt mình. “Những gì có thể Fian là trong những thứ chúng ta gọi là tempestarii, ngoài ra chẳng có gì khác cả.”

      cơn gió phù thủy, hoặc có thể là nước phù thủy,” tôi , chuyển ngữ cụm từ lạ kia.

      “Đúng thế,” Matthew gật đầu. “Fian làm tăng thêm số tiền lương giáo viên của mình bằng cách gây nên bão tố sấm chớp bằng bùa chú suốt đầu mùa băng tan khi mà mùa đông ở Scotland có vẻ chẳng bao giờ kết thúc. Dân làng ngưỡng mộ ông ta. Ngay cả học trò của Fian cũng chỉ có tán dương và ca ngợi ông ta. Fian có lẽ cũng sở hữu chút khả năng tiên tri – ông ta tiên đoán được cái chết của mọi người, nhưng chuyện này cũng có thể do Kit bịa ra để thêm mắm thêm muối cho câu chuyện kể với đám khán giả người mà thôi. ta bị ám ảnh về phù thủy có khả năng linh cảm, hẳn là em còn nhớ.”

      “Phù thủy dễ bị thương tổn trước tâm tính thất thường của những người hàng xóm lắm, Matthew. Phút trước bọn em còn là bạn bè, phút sau phải chạy khỏi thị trấn – hoặc có khi còn tệ hơn nữa.”

      “Những gì xảy ra với Fian hẳn là tồi tệ hơn rồi,” Matthew dứt khoát .

      “Em có thể tưởng tượng được,” tôi rùng mình đáp lại. Nếu Fian bị tra tấn như Agnes Sampson chắc hẳn ông ấy chào đón cái chết để giải thoát. “Có gì trong căn phòng ấy thế?”

      Matthew cân nhắc việc với tôi rằng đó là bí mật nhưng khôn ngoan kiềm chế lại. đứng lên. “ tốt hơn nếu chỉ cho em thấy. Ở sát bên nhé. Trời còn chưa sáng, và chúng ta thể mang nến vào phòng đó được vì sợ có người trông thấy từ bên ngoài. muốn em bị vấp ngã.” Tôi lặng lẽ gật đầu và cầm lấy tay .

      Chúng tôi bước qua bậu cửa vào căn phòng dài với những hàng cửa sổ chỉ vừa vặn lớn hơn mấy cái rãnh mũi tên nằm kẹp phía dưới mái hiên. Sau lúc, mắt tôi thích nghi và nhiều hình thù xam xám bắt đầu ra từ trong bóng tối tù mù. cặp ghế đan cũ kỹ làm từ liễu non dùng để ngồi trong vườn được đặt đối diện nhau, lưng ghế ưỡn cong về phía trước. Những băng ghế thấp mòn vẹt được sắp xếp thành hai hàng xuôi theo lối chính giữa phòng. Mỗi chiếc mang loạt những món đồ kỳ lạ được phân loại: sách, giấy tờ, thư từ, mũ, và quần áo. Từ bên phải có ánh kim loại le lói: những thanh kiếm, cán dựng phía , mũi chúc xuống. đống dao găm nằm sàn phòng ở gần đó. Có cả tiếng sột soạt và tiếng chân chạy nháo nhác.

      “Chuột đấy.” Tiếng Matthew thản nhiên, nhưng tôi thể kéo sát chiếc váy ngủ áp vào hai chân mình. “Pierre và làm mọi thứ có thể, nhưng chẳng thể nào loại bỏ chúng hoàn toàn. Chúng thấy chỗ giấy tờ này hấp dẫn cưỡng nổi.” hất hàm lên phía , và tôi lần đầu tiên để ý thấy những tràng hoa kỳ dị ở tường.

      Tôi lê bước lại gần hơn và săm soi những vòng hoa đó. Mỗi vòng được treo bằng sợi thừng bện mảnh được trát vữa gắn với cái đinh đầu vuông. Sợi thừng này sau đó được xâu qua cái khuyên móc ở góc trái của hàng loạt các văn bản giấy tờ. Nút cuối sợi thừng được treo ngược lên cũng luồn qua cái đinh đó, tạo thành vòng hoa bằng giấy.

      trong những cái tủ tài liệu đầu tiên thế giới. Em giữ quá nhiều bí mật,” khẽ lên tiếng, đưa tay ra đập vào vòng hoa. “Em có thể bổ sung những thứ này vào mối quan tâm của mình.”

      “Nhưng có đến hàng ngàn tài liệu.” Chắc chắn ngay cả chàng ma cà rồng –nghìn–năm–trăm–tuổi cũng thể đọc hết quá nhiều như thế.

      “Đúng vậy,” Matthew đồng tình. quan sát trong khi tôi đưa mắt quét khắp căn phòng, ghi nhận những gì được canh giữ. “Bọn ghi nhớ nhiều điều mà các sinh vật khác muốn lãng quên, việc đó giúp cho Các hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus có thể bảo vệ những thứ mình trân trọng. số bí mật là ngược về thời đại trị vì của tiên đế. Hầu hết các tài liệu cũ hơn được chuyển đến Sept–Tours để giữ an toàn.”

      “Có quá nhiều dấu vết giấy tờ,” tôi lẩm bẩm, “và tất cả chúng sau cùng đều dẫn trở về hay những người nhà de Clermont.” Căn phòng nhòa dần cho tới khi tôi chỉ còn thấy các vòng hoa bằng giấy và cơn lốc xoáy lộn của ngôn từ trải ra thành nhiều sợi dây dài bện xoắn lại. Có điều gì đó tôi cần phải hiểu trong những dòng chữ chằng chéo này.

      xem qua các giấy tờ này từ lúc em ngủ, tìm kiếm thông tin tham khảo về Fian. nghĩ rằng có lẽ ông ta cũng được nhắc tới ở đây,” Matthew , dẫn tôi quay trở lại phòng làm việc. “Điều gì đó để giải thích tại sao hàng xóm láng giềng lại quay lưng với ông ta. Hẳn phải có ví dụ mẫu cho chúng ta biết tại sao con người xử theo cách này.”

      “Nếu tìm thấy nó các sử gia đồng nghiệp của em rất háo hức được biết đấy. Nhưng hiểu trường hợp của Fian đảm bảo rằng có thể ngăn cản điều tương tự xảy đến với em.” Thớ cơ giần giật quai hàm Matthew cho tôi biết lời của mình đánh trúng đích. “Và em khá chắc chắn là đào xới vào vấn đề này sâu sát hơn trước được đâu.”

      còn là gã đàn ông mắt nhắm mắt mở cho qua tất cả nỗi đau khổ này – và muốn trở thành gã đàn ông đó lần nữa.” Matthew kéo chiếc ghế của rồi nặng nề ngồi xuống. “Chắc chắn có thể làm được điều gì đấy.”

      Tôi vòng hai cánh tay ôm vào lòng. Cho dù ngồi, vẫn cao đến mức đỉnh đầu thúc lên lồng ngực tôi. rúc sâu thêm nữa, rồi im lặng, sau đó từ từ kéo người ra, mắt nhìn dán vào bụng tôi.

      “Diana. Em …” dừng lại.

      “Có thai. Em nghĩ vậy,” tôi thản nhiên . “Chu kỳ của em đều từ sau vụ Juliette, nên em dám chắc. Em ốm đường từ Calais tới Dover, nhưng biển động và con cá em ăn trước khi chúng ta rời ràng là tươi.”

      tiếp tục nhìn chằm chằm vào bụng tôi, khiến tôi ngọ nguậy thoải mái.

      “Thầy giáo dạy sức khỏe ở trường trung học của em đúng: Con có thể có thai ngay lần đầu tiên quan hệ tình dục với chàng trai.” Tôi tính toán và khá chắc chắn quá trình thụ thai xảy ra trong dịp cuối tuần lễ đám cưới của chúng tôi.

      vẫn im lìm lên tiếng.

      “Matthew, .”

      “Có thể lắm.” trông có vẻ sửng sốt, bàng hoàng.

      “Mọi thứ về chúng mình đều có thể.” Tôi hạ bàn tay run rẩy đặt lên bụng mình.

      Matthew đan các ngón tay lồng vào tay tôi và cuối cùng cũng nhìn vào mắt tôi. Tôi ngạc nhiên trước những gì mình thấy trong đó: kinh ngạc, tự hào, và đôi chút hoang mang. Thế rồi mỉm cười. Đó là biểu của niềm vui sướng hoàn toàn.

      “Nếu em làm được phụ huynh tốt sao?” Tôi hỏi vẻ chắc chắn. “ từng làm cha – biết phải làm gì.”

      “Em người mẹ tuyệt vời” là lời phản bác ngay tức từ . “Tất cả những gì đứa trẻ cần là tình thương, người lớn có trách nhiệm với chúng, nơi êm ái để dựa vào.” Matthew đưa hai bàn tay đan chặt dịu dàng vuốt ve bụng tôi. “Chúng mình khắc phục bước đầu tiên cùng nhau. Bước cuối cùng phụ thuộc cả vào em đấy. Bây giờ em cảm thấy thế nào?”

      “Hơi mệt mỏi và buồn nôn, về mặt thể chất. Về cảm xúc, em chẳng biết bắt đầu từ đâu.” Tôi hít vào hơi run run. “Có phải thông thường nó mang cảm giác sợ hãi, dữ dội và dịu dàng cùng lúc ?”

      “Đúng thế – cả rùng rợn, lo lắng, rồi sợ đến phát ốm nữa,” dịu dàng đáp.

      “Em biết lố bịch, nhưng vẫn luôn lo rằng phép thuật của mình có thể làm tổn thương đứa bé, mặc dù mỗi năm có đến hàng nghìn phù thủy sinh con.” Nhưng họ đâu cưới chàng ma cà rồng.

      “Đây phải là bào thai bình thường mà,” Matthew , như đọc được suy nghĩ của tôi. “Nhưng em cần phải làm mình lo lắng.” thoáng u buồn lướt qua mắt . Tôi có thể thấy vừa bổ sung thêm nỗi lo lắng nữa vào danh sách của mình.

      “Em muốn kể với ai cả. Chưa phải bây giờ.” Tôi nghĩ đến căn phòng bên cạnh. “Cuộc đời có thể gói thêm điều bí mật nữa – ít nhất là trong lúc được ?”

      “Dĩ nhiên rồi,” Matthew đáp ngay tắp lự. “Trong vài tháng tới, bụng em chắc chưa lộ đâu. Nhưng Françoise và Pierre mau chóng biết được từ mùi của em, nếu bọn họ còn chưa biết, rồi cả Hancock và Gallowglass nữa. Cũng may, ma cà rồng hay hỏi những câu riêng tư.”

      Tôi cười khẽ. “Đúng ra em mới là người giữ bí mật này chứ. thể nào tỏ vẻ bao bọc nhiều hơn được đâu, cho nên ai đoán ra được chúng ta che giấu điều gì nếu chỉ nhìn qua thái độ cư xử của .”

      “Đừng có chắc chắn quá thế,” , mỉm cười tươi rói. Matthew khum những ngón tay khép lại phía tay tôi. Đó là cử chỉ bao bọc che chở rất bản năng.

      “Nếu cứ chạm vào em theo cách ấy, mọi người nhanh chóng đoán ra đấy nhé,” tôi thủng thẳng tán đồng, lướt các ngón tay dọc theo bờ vai . rùng mình. “ lẽ ra thể rùng mình khi cảm thấy thứ gì ấm áp chứ.”

      “Đó phải nguyên nhân run rẩy đâu.” Matthew đứng lên, che khuất ánh sáng từ những ngọn nến.

      Trái tim tôi đón bắt được ánh nhìn của . tủm tỉm cười, nghe thấy nhịp đập thất thường khe khẽ đó, và kéo tôi về phía cái giường. Chúng tôi cởi bỏ áo quần rồi ném xuống sàn nhà, nơi chúng nằm lại trong hai ô trắng từ vầng sáng bàng bạc chiếu hắt xuống qua cửa sổ.

      Mỗi cái âu yếm từ Matthew tựa lông hồng theo dấu từng phút biến đổi thân thể tôi. nấn ná mỗi centimét da thịt mềm mại, nhưng ánh nhìn mát lạnh của làm tăng thêm cảm giác nhức nhối ấy hơn là xoa dịu nó. Từng nụ hôn càng thắt càng rối y như cảm xúc mà chúng tôi chia sẻ về đứa con này. Cùng lúc đó, những lời thầm của trong bóng tối lại khuyến khích tôi dồn chú ý chỉ vào mình thôi. Khi tôi thể chờ đợi lâu hơn nữa, Matthew vào trong tôi, mỗi chuyển động đều vội vã mà dịu dàng, giống như nụ hôn của .

      Tôi ưỡn cong người để cố gắng nhận được nhiều hơn nữa, và Matthew đứng yên lại. Cùng với sống lưng tôi cong hình cánh cung, đàng hoàng ở ngay lối vào tử cung. Và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng là mãi mãi, cha, mẹ và con ở gần nhau hơn bất cứ ba sinh vật nào đời này có thể làm được.

      “Cả con tim và cả cuộc đời ,” thầm hứa, vẫn chuyển động trong tôi.

      Tôi òa khóc và Matthew ôm siết tôi vào lòng cho tới khi cơn rung động ngừng lại. Rồi hôn suốt dọc cơ thể tôi, bắt đầu với con mắt thứ ba của phù thủy, rồi tiếp đó đến bờ môi, cổ họng, giữa hai bầu ngực, dưới ngực, rốn và cuối cùng là bụng tôi.

      đắm đuối nhìn xuống, lắc đầu và tặng kèm nụ cười rạng rỡ trẻ con. “Chúng mình tạo ra em bé,” , rồi lặng người lên tiếng.

      “Chúng mình làm được,” tôi đồng ý cùng với nụ cười đáp lại.

      Matthew len đôi vai vào giữa hai bắp đùi tôi, đẩy cho chúng mở rộng ra. cánh tay bao quanh đầu gối tôi, tay còn lại ôm qua bờ hông bên kia để bàn tay có thể đặt lên mạch đập nơi đó, ngả đầu bụng tôi như thể nó là cái gối và buông tiếng thở dài thỏa mãn. Hoàn toàn yên tĩnh, lắng tai tìm kiếm tiếng óc ách nhè từ dòng máu giờ đây nuôi dưỡng đứa con của cả hai. Khi nghe tiếng, nghiêng đầu và ánh mắt chúng tôi gặp nhau. cười tươi, rạng rỡ, đầy chân thực, rồi quay trở lại với niềm mong mỏi của mình.

      Trong màn đêm dưới ánh nến của buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, tôi cảm nhận được sức mạnh lặng lẽ đến từ việc chia sẻ tình với sinh vật khác. còn là vật thể đơn độc trôi nổi di chuyển xuyên qua gian và thời gian nữa, giờ đây tôi phần của hệ hành tinh. Tôi cần phải học cách giữ lực hút của chính mình trong khi bị lôi kéo như thế này bởi những cơ thể to lớn hơn và mạnh mẽ hơn tôi. Nếu Matthew, những người nhà de Clermont, con chúng tôi – và Đại Hội Đồng – dĩ nhiên, có thể kéo tôi mất.

      Khoảng thời gian tôi có với mẹ mình quá ngắn, nhưng trong bảy năm bà dạy cho tôi nhiều điều. Tôi còn nhớ tình thương vô điều kiện của mẹ, vòng tay mẹ chở che bao bọc, và cách mẹ luôn có mặt ở đúng nơi tôi cần. Đúng như Matthew : Trẻ con cần tình , nguồn an ủi tin cậy, và người lớn sẵn lòng chịu trách nhiệm với chúng.

      đến lúc dừng việc coi nơi tạm trú của chúng tôi ở đây như buổi hội thảo đặt trước ở nước của Shakespeare, mà thay vào đó nhận ra nó là cơ hội cuối cùng và tốt nhất của tôi để khám phá chính mình, để tôi có thể giúp con mình hiểu được chỗ của nó trong thế giới này.

      Nhưng trước hết tôi cần phải tìm được phù thủy .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      16.

      Chúng tôi trải qua dịp cuối tuần bình lặng, say sưa với bí mật của bản thân và đắm chìm trong những suy đoán mà tất cả các bậc làm cha làm mẹ đều có. Thành viên mới nhất của gia tộc de Clermont có mái tóc đen giống cha nó nhưng có cặp mắt xanh của tôi ư? Cậu nhóc thích khoa học hay lịch sử? Cậu nhóc khéo tay giống Matthew hay vụng về giống tôi? Về phần giới tính, chúng tôi có những ý kiến khác nhau. Tôi có lòng tin đó là bé trai, còn Matthew cũng chắc chắn kém rằng nó là bé .

      Lúc mệt bã người và vui vẻ, cả hai tạm ngưng các ý nghĩ về tương lai để ngắm nhìn London thế kỷ mười sáu từ những căn phòng ấm áp của mình. Chúng tôi bắt đầu ở các cửa sổ nhìn ra Hẻm Water, nơi tôi ngắm nhìn các tòa tháp tu viện Westminster xa xa, và kết thúc ở hàng ghế bành được kéo dài tới trước cửa sổ phòng ngủ, nơi có thể trông thấy sông Thames. Thời tiết lạnh giá cùng thực tế rằng đây là ngày lễ của người theo Thiên Chúa giáo cũng ngăn được những người chèo thuyền tiếp tục công việc giao hàng và chở khách qua sông. Tận cuối con phố chúng tôi sống, nhóm người chèo thuyền thuê túm tụm các bậc thềm dẫn xuống bờ sông, còn những con thuyền trống của họ nhấp nhô bập bềnh sóng nước.

      Matthew chia sẻ nhiều kỷ niệm của về thành phố này suốt chiều hôm đó trong khi thủy triều lên rồi xuống. kể cho tôi có thời điểm ở thế kỷ mười lăm lúc sông Thames đóng băng tới hơn ba tháng trời – lâu đến nỗi các cửa hàng tạm bợ được dựng lên ngay mặt băng để phục vụ cho giao thông đường bộ qua sông. cũng hồi tưởng lại những năm chưa sản sinh thế hệ sau của mình ở Thavies Inn, nơi trải qua những năm tháng học luật lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng.

      mừng rằng em trông thấy nó trước khi chúng mình rời khỏi,” , siết chặt tay tôi. Lần lượt từng cái , người ta thắp sáng đèn, đem treo lên trước mũi thuyền và đặt bên cửa sổ của các ngôi nhà và những quán trọ. “Chúng mình cố gắng sắp xếp chuyến thăm Sở giao dịch Hoàng gia.”

      “Chúng ta trở về Woodstock ư?” Tôi bối rối hỏi.

      “Có lẽ, trong thời gian ngắn thôi. Sau đó mình quay về tại.”

      Tôi chằm chằm nhìn , quá sửng sốt nên lời.

      “Chúng mình biết được điều gì xảy đến trong suốt thời kỳ thai nghén, và vì an toàn của em – cả của con nữa – mình cần kiểm tra theo dõi bé con. Cần làm vài xét nghiệm, và tốt nhất là cả siêu nữa. Thêm nữa, em cũng nên ở cùng dì Sarah và Emily.”

      “Nhưng, Matthew,” tôi phản đối, “chúng ta chưa thể trở về nhà được. Em biết làm cách nào.” quay ngoắt lại.

      “Em giải thích ràng trước khi chúng mình đấy. Để du hành trở về thời điểm, cần ba món đồ để đưa tới nơi muốn đến. Để du hành tới cần có phép thuật, nhưng em thể làm phép được. Đó là lý do chúng ta đến đây.”

      “Em thể nào mang thai sinh nở ở đây được,” Matthew đứng bật dậy khỏi ghế.

      “Phụ nữ thế kỷ mười sáu vẫn có con còn gì,” tôi ôn tồn . “Hơn nữa, em thấy có gì khác nhau cả. Em đâu phải chỉ mang thai vài tuần lễ.”

      “Em có đủ sức mạnh để mang cả con bé và trở về tương lai chứ? , chúng ta cần rời càng sớm càng tốt, và tốt hơn hết là trước khi con bé ra đời.” Matthew dừng sững lại. “ ra sao nếu việc du hành thời gian gây tổn hại tới đứa bé theo cách nào đó? Phép thuật là chuyện, nhưng điều này…” thình lình ngồi thụp xuống.

      “Chẳng có gì thay đổi cả,” tôi xoa dịu. “Đứa bé thể lớn hơn hột thóc đâu. Bây giờ chúng ta ở London, có gì khó khăn trong việc tìm được ai đó giúp em điều khiển phép thuật của mình – chưa đến người có thể hiểu về du hành thời gian hơn cả dì Sarah và Em.”

      “Con bé lớn bằng hạt đậu lăng rồi.” Matthew dừng lại. nghĩ ngợi giây lát rồi đưa ra quyết định. “Tới sáu tuần tất cả quá trình phát triển then chốt của thai nhi diễn ra. Cái đó cho em nhiều thời gian.” Giọng điệu giống bác sĩ hơn là ông bố. Tôi bắt đầu thấy thích những cơn giận dữ ở thời đại của Matthew hơn là cái tính khách quan theo thói đại của .

      “Thế em chỉ còn vài tuần lễ, nếu em cần bảy tuần sao?” Nếu dì Sarah có ở trong phòng này, cảnh cáo rằng vẻ biết điều của tôi phải là dấu hiệu tốt đâu.

      “Bảy tuần cũng tốt,” Matthew , chìm đắm trong các ý nghĩ riêng mình.

      “Ồ, thế à, tốt quá rồi. Em ghét cảm thấy bị dồn ép khi có liên quan đến thứ quan trọng như việc khám phá ra em là ai.” Tôi sải bước tiến về phía .

      “Diana, cái đó …”

      Lúc này chúng tôi đứng, mũi chạm mũi. “Em có cơ hội là người mẹ tốt nếu biết hơn về sức mạnh có trong dòng máu mình.”

      “Điều này hay…”

      dám chuyện này tốt cho con . Em phải kiểu bình rỗng đâu nhé.” Lúc này tâm trạng của tôi sôi sục đây. “Ban đầu muốn máu của em cho các thí nghiệm khoa học của mình, giờ là đứa bé này.”

      Matthew, chàng chết tiệt, đứng im lìm đó, tay khoanh trước ngực và cặp mắt xám cứng rắn.

      “Thế nào hả?” Tôi hỏi.

      “Thế nào cái gì? ràng quyền tham gia đối thoại của trong cuộc chuyện này hề có. Em nốt các câu định . Em có lẽ cũng bắt đầu luôn ấy chứ.”

      “Chuyện này chẳng liên quan gì tới hoóc–môn của em cả,” tôi . Tôi từ từ nhận thấy trạng thái đơn độc này có lẽ là bằng chứng cho điều ngược lại.

      chẳng nhắc gì cả cho đến khi em đề cập tới nó.”

      “Nghe có vẻ giống thế.”

      Lông mày nhướng lên.

      “Em vẫn là cùng người như em của ba ngày trước. Việc mang thai phải là trạng thái bệnh lý, và nó loại trừ các lý do chúng ta ở đây. Chúng ta thậm chí còn chưa có cơ hội thích đáng để tìm kiếm Ashmole 782.”

      “Ashmole 782 ư?” Matthew thốt lên thanh nôn nóng. “Mọi chuyện thay đổi, và em còn là cùng người nữa rồi. Ta thể giữ bí mật việc có thai này vô thời hạn đâu. Chỉ tính theo ngày thôi, rồi mọi ma cà rồng đều có thể ngửi thấy thay đổi trong cơ thể em. Kit phát ra ngay sau đấy, và ta hỏi về người cha của nó – bởi thể là , đúng ? phù thủy mang thai sống cùng với wearth làm dấy lên tình trạng thù địch của các sinh vật trong thành phố này, ngay cả những kẻ chẳng quan tâm mấy đến hiệp ước kia. có kẻ phàn nàn với Đại Hội Đồng. Cha cầu chúng ta trở lại Sept–Tours vì an toàn của em, và thể chịu đựng được việc lời chia tay với ông lần nữa.” cao giọng ngừng nghỉ.

      “Em nghĩ…”

      ,” Matthew cắt ngang, “em nghĩ. Em thể nghĩ được. Chúa ơi, Diana. Trước đây, em và ở trong cuộc hôn nhân bị cấm đoán. Điều đó là có hai rồi. Còn giờ em mang con của . Đó chỉ là điều độc nhất duy nhất – các sinh vật khác còn tin là điều thể. Ba tuần nữa thôi, Diana. thể nhiều hơn khắc nào.” kiên quyết xiêu lòng.

      “Cho đến lúc đó thể nào tìm được phù thủy sẵn lòng giúp đỡ đâu,” tôi kháng nghị. “ thể được với những gì xảy ra ở Scotland bây giờ.”

      “Có ai bất kỳ điều gì về chuyện nguyện ý sẵn lòng đâu?” Nụ cười của Matthew làm tôi ớn lạnh.

      “Em sang phòng khách để đọc sách.” Tôi quay người hướng tới phòng ngủ, muốn tránh càng xa càng tốt. đợi sẵn tôi ở lối cửa rồi, cánh tay chắn ngang lối tôi .

      để mất em đâu, Diana,” , giọng điệu kiên quyết nhưng lặng lẽ. “ phải để tìm kiếm cuốn cổ thư giả kim thuật và cũng phải vì đứa trẻ chưa chào đời.”

      “Còn em đánh mất chính mình đâu,” tôi đáp trả. “ phải để thỏa mãn nhu cầu điều khiển kiểm soát của . Cũng phải trước khi em tìm ra mình là ai.”

      ***

      Ngày thứ Hai, tôi lại ngồi trong phòng khách, lướt qua cuốn The Faerie Queene và thất thần chán nản cửa phòng mở ra. Có khách viếng thăm. Tôi đóng sập cuốn sách lại vẻ hồ hởi.

      “Tôi nghĩ là mình còn được sưởi ấm lần nữa,” Walter đứng trong khung cửa, người ướt lướt thướt. George và Henry cùng , cả hai trông cũng khốn khổ kém.

      “Chào Diana.” Henry hắt hơi, rồi chào tôi bằng cái cúi đầu trịnh trọng trước khi hướng tới lò sưởi và vươn tay hơ trước lửa kèm theo tiếng rên thỏa mãn.

      “Matthew đâu rồi?” Tôi hỏi, ra hiệu cho George vào chỗ ngồi.

      “Với Kit. Bọn tôi bỏ họ lại chỗ bán sách.” Walter ra dấu về hướng nhà thờ Thánh Paul. “Tôi đói chết mất. Cái tên Kit học gạo ấy gọi bữa tôi ăn nổi. Matt Françoise nên làm cho chúng tôi thứ gì đó để ăn.” Nụ cười toe toét ranh mãnh bóc mẽ lời dối của ta.

      Các chàng dùng đến món thứ hai và lượt rượu thứ ba Matthew về nhà cùng với Kit, ôm sách tay và đầy đủ các mặt tóc biếu của trong những thợ cạo pháp sư mà tôi nghe đến. Bộ ria mới được cắt tỉa gọn gàng của chồng tôi hợp với khuôn miệng rộng của , còn hàm râu rất thời thượng gọn tạo hình khéo léo. Pierre theo sau, mang theo bao bố bằng vải lanh đầy những giấy hình vuông và hình chữ nhật.

      “Tạ ơn Chúa,” Walter , gật gù tán thành bộ râu. “Giờ trông mới là .”

      “Xin chào, em ,” Matthew , hôn lên má tôi. “Em có nhận ra ?”

      “Có – mặc dù trông giống tên cướp biển,” tôi cười .

      “Đúng thế , Diana. ta và Walter giờ trông như em ấy,” Henry công nhận.

      “Tại sao lại cứ khăng khăng gọi vợ Matthew bằng tên thân mật của ấy thế, hả Henry? Bà Roydon trở thành người được bảo trợ hay sao? Giờ ấy là em rồi ư? Giải thích khác duy nhất là có ý định quyến rũ đấy,” Marlowe cằn nhằn, ngồi phịch xuống cái ghế.

      “Hãy thôi chọc vào tổ ong , Kit,” Walter mắng.

      có quà Giáng Sinh muộn đây,” Matthew , trượt chồng đồ của mình về phía tôi.

      “Sách.” bối rối khi cảm thấy mới mẻ rành rành từ chúng – tiếng cọt kẹt của gáy sách chặt khít phản đối khi được mở ra lần đầu tiên, mùi giấy và hương mực. Tôi quen với việc trông thấy những cuốn sách như thế này trong tình trạng cũ mòn ở các phòng đọc của thư viện, chứ phải nằm chiếc bàn nơi chúng tôi dùng bữa. Cuốn sách cùng có màu đen thế chỗ cho cuốn vẫn ở Oxford. Cuốn kế tiếp là bản kinh cầu nguyện đẹp. Trang tựa đề được trang trí hoa mỹ và tô điểm bằng hình ảnh từa tựa như giáo trưởng Jesse của kinh thánh. cái cây ngả ra xuất từ bụng ông ta. Trán tôi nhăn lại. Tại sao Matthew lại mua cho tôi cuốn kinh nhỉ?

      “Lật trang sách ấy ,” giục, hai tay lặng lẽ áp lên thắt lưng tôi.

      Ở mặt bên kia là bản tranh khắc gỗ hình nữ hoàng Elizabeth quỳ gối cầu nguyện. Những bộ xương, các hình thuộc về kinh thánh, và những hình tượng kinh điển trang trí cho mỗi trang sách. Cuốn sách là kết hợp giữa văn tự và hình ảnh, giống như những chuyên luận về thuật giả kim mà tôi nghiên cứu.

      “Đó chính xác là kiểu sách mà phu nhân đáng kính kết hôn sở hữu,” Matthew , toét miệng cười. hạ thấp giọng đầy bí . “Cái đó thỏa mãn mong muốn của em nhằm giữ vững thể diện bên ngoài. Nhưng đừng lo. Cuốn tiếp theo đáng kính tẹo nào đâu.”

      Tôi để cuốn kinh sang bên và cầm lấy quyển sách dày mà Matthew gợi ý. Các trang sách của nó bị khâu vào nhau và lồng vào trong tấm bọc bảo vệ bằng giấy da hảo hạng dày dặn. Chuyên luận này hứa hẹn lý giải về các triệu chứng và phương thức chữa trị mọi loại bệnh tật làm loài người đau đớn, khổ sở.

      “Sách tôn giáo là những món quà phổ thông, và dễ bán. Sách về y học có lượng độc giả thôi và quá đắt đỏ thể mua bán chứ chưa tới tiền hoa hồng,” Matthew giải thích khi tôi lần ngón tay lớp bìa mềm mại. đưa cho tôi cuốn sách khác. “Rất may, đặt được bản sao in của cuốn sách này. Nó là cuốn sách hot của các nhà in và định trước là cuốn bán chạy đấy.”

      Món đồ tới đó được bọc bìa da đen giản dị, với vài dấu hiệu trang trí bằng bạc. Bên trong là bản in đầu tiên của Philip Sidney xứ Arcadia. Tôi cười to, nhớ lại mình ghét đọc nó đến mức nào hồi ghế đại học.

      phù thủy thể sống bằng cầu nguyện và bốc thuốc thôi.” Đôi mắt Matthew lấp lánh vẻ châm biếm. Bộ ria của chọc nhồn nhột khi hôn tôi.

      “Gương mặt mới của cần chút thời gian mới quen được,” tôi , bật cười và cọ cọ môi vào thứ cho cảm giác là lạ mới mẻ ấy.

      Ngài Bá tước Northumberland đưa mắt nhìn tôi trong khi thưởng thức miếng thịt ngựa bổ sung dinh dưỡng cần thiết. “Mấy cuốn sách này giữ cho Diana bận rộn lâu đâu. ấy quen với những hoạt động đa dạng hơn cơ.”

      “Đúng như . Nhưng ấy thể nào lang thang trong thành phố và rao giảng về giả kim thuật được.” Miệng Matthew mím lại vẻ hài hước. Cứ sau mỗi giờ, trọng và cách lựa chọn từ ngữ của lại càng khuôn đúc hợp thời. dựa sát vào tôi, cúi người tới trước hít ngửi bình rượu và nhăn mặt. “Có gì để uống mà bị bỏ cả liều đinh hương và hạt tiêu thế này ? Mùi kinh quá.”

      “Diana có lẽ thích kết bạn với Mary đấy,” Henry gợi ý, chẳng nghe câu thắc mắc từ Matthew.

      Matthew nhìn chằm chằm Henry. “Mary ư?”

      “Họ tuổi tác tương đương và tính khí cũng tương tự, tôi nghĩ thế, và cả hai đều là những người uyên bác về học thức.”

      “Nữ bá tước chỉ học tài biết rộng mà còn có thiên hướng làm mọi thứ bốc cháy,” Kit nhận xét, tự rót cho bản thân cốc vại đầy rượu. ta dí mũi vào cái cốc rồi hít vào hơi thở sâu. Nó có mùi khá giống Matthew. “Hãy tránh xa những cái vạc chưng cất và lò luyện của bà ấy, bà Roydon ạ, trừ phi muốn có mái tóc cháy xém quăn tít hợp thời trang.”

      “Lò luyện ư?” Tôi thắc mắc người này có thể là ai.

      “À, đúng thế. Nữ bá tước xứ Pembroke,” George , đôi mắt sáng rực lên trước triển vọng nhà bảo trợ quyền thế.

      “Tuyệt đối .” Giữa Raleigh, Chapman, và Marlowe, tôi gặp đủ những huyền thoại văn chương để mang theo đến hết đời rồi. Bà nữ bá tước là người phụ nữ lỗi lạc nhất của đất nước này, và là chị của ngài Philip Sidney. “Tôi sẵn sàng để gặp Mary Sidney đâu.”

      “Mary Sidney cũng sẵn sàng gặp đâu, bà Roydon, nhưng tôi ngờ là Henry đúng đấy. mau chóng chán những người bạn của Matthew và cần tìm kiếm bạn bè của riêng mình. có họ thấy vô công rỗi việc và u uất sầu muộn mất.” Walter gật đầu với Matthew. “Cậu nên mời Mary đến đây dùng bữa tối.”

      “Blackfriars tắc nghẽn hoàn toàn nếu nữ bá tước Pembroke xuất ở Hẻm Water. tốt hơn nhiều nếu để bà Roydon tới lâu đài Baynard. Nó chỉ ở phía bên kia bức tường thôi mà,” Marlowe , hồ hởi vì loại bỏ được tôi.

      “Diana phải bộ vào thành phố,” Matthew chỉ ra.

      Marlowe khịt mũi khinh thường. “ là tuần lễ giữa Giáng Sinh và năm mới mà. có ai để ý nếu có hai phụ nữ kết hôn cùng chia sẻ cốc rượu và ngồi tán chuyện đâu.”

      “Tôi rất vui được đưa ấy ,” Walter tình nguyện. “Có lẽ Mary cũng muốn biết về chuyến phiêu lưu mạo hiểm của tôi ở Tân Thế Giới.”

      phải để lần khác đề nghị nữ bá tước đầu tư vào Virginia. Nếu Diana , tôi cùng ấy.” Ánh mắt Matthew sắc bén. “Tôi tự hỏi liệu Mary có biết phù thủy nào ?”

      ta là đàn bà, đúng ? Dĩ nhiên ta biết các phù thủy rồi,” Marlowe .

      “Thế tôi viết thư cho ấy nhé, Matt?” Henry hỏi.

      “Cảm ơn, Hal.” Matthew ràng bị thuyết phục với khả năng thành công của kế hoạch này. Thế rồi thở dài. “ quá lâu rồi kể từ lần cuối tôi gặp ấy. Hãy với Mary chúng ta ghé thăm ấy vào ngày mai.”

      miễn cưỡng ban đầu của tôi với việc gặp gỡ Mary Sidney nhạt dần khi thời điểm hẹn gặp tới gần. Càng nhớ lại, càng phát được nhiều điều về nữ bá tước Pembroke, tôi càng trở nên háo hức hơn.

      Françoise lo lắng cao độ cho chuyến viếng thăm này, nàng nhặng xị lên với quần áo của tôi hàng giờ. ta đặc biệt gắn vào cái cổ xếp nếp phù phiếm vòng quanh cái đường cổ cao của chiếc áo khoác nhung màu đen mà Maria thiết kế cho tôi ở Pháp. ta còn làm sạch và ép phẳng chiếc váy dài màu nâu đỏ nổi bật cùng những dải nhung đen của nó. Món đồ này kết hợp với chiếc áo khoác rất đẹp đến mức làm người ta choáng váng vì màu sắc. Khi tôi mặc đồ xong, Françoise tuyên bố tôi có thể thông qua, mặc dù quá mộc mạc giản dị và trông quá Đức so với quan điểm ăn mặc của ta.

      Matthew tận hưởng khoảng thời gian vô tận để nhấm nháp rượu và hỏi bằng tiếng Latin về buổi sáng của tôi. Vẻ mặt gian manh.

      “Nếu cố làm em tức điên lên thành công rồi đấy!” Tôi đáp sau câu hỏi đặc biệt bực mình.

      “Refero mihi in latine, quaeso,” Matthew với giọng điệu giáo sư. Khi tôi ném khúc bánh mỳ về phía , cười ầm ĩ và hụt người tránh.

      Henry Percy đến vừa đúng lúc bắt được cái bánh mỳ gọn gàng bằng tay. chàng trả nó lại bàn mà bình luận gì, bình thản tủm tỉm cười và hỏi xem chúng tôi sẵn sàng lên đường chưa.

      Pierre ra tiếng động từ trong bóng tối gần lối vào cửa hiệu giày và bắt đầu bộ ngược con đường với dáng vẻ rụt rè, khiêm tốn, bàn tay phải nắm chắc cán con dao găm. Khi Matthew rẽ đưa chúng tôi hướng vào thành phố, tôi ngước nhìn lên. Đó là nhà thờ Thánh Paul.

      “Em thể nào quen được với cái đó ở ngay gần bên như thế,” tôi lẩm bẩm.

      Khi chúng tôi chầm chậm hướng tới nhà thờ lớn, các giác quan của tôi bắt đầu quen với hỗn loạn ồn ào này, và còn có thể tách riêng ra các thanh, mùi vị cũng như hình ảnh. Tiếng làm bánh mỳ. Lửa than đá. Khói gỗ. Mùi men. Rác rưởi được rửa trôi sạch nhờ vào cơn mưa ngày hôm qua. Mùi lông ẩm ướt. Tôi hít vào hơi sâu, thầm làm ghi chú trong đầu là thôi với sinh viên của mình rằng nếu các em quay trở về đúng thời điểm, các em lập tức bị choáng váng bởi mùi hôi hám khó chịu. Thực tế đó phải , ít nhất là vào thời điểm cuối tháng Mười Hai này.

      Đàn ông và đàn bà rời mắt khỏi công việc làm và ra cửa sổ với vẻ tò mò hề xấu hổ khi chúng tôi ngang qua, khẽ cúi đầu chào vẻ kính trọng khi nhận ra Matthew và Henry. Chúng tôi qua xưởng in, qua cửa hiệu khác lúc người thợ cạo cắt tóc cho người đàn ông, và men vòng qua phân xưởng bận rộn.

      Khi những điều lạ lùng qua, tôi có thể tập trung chú ý vào điều người ta , mẫu vải quần áo của họ, biểu mỗi gương mặt. Matthew về hàng xóm của chúng tôi toàn là người nước ngoài, nhưng nó nghe giống tiếng Babel. Tôi quay đầu. “Bà ấy ngôn ngữ nào thế?” Tôi thầm liếc mắt nhìn phụ nữ đẫy đà mặc chiếc áo khoác màu xanh lục lam đậm viền lông thú. Tôi để ý thấy nó được cắt khá giống áo của tôi.

      phương ngữ nào đó của người Đức,” Matthew , cúi thấp đầu xuống cạnh tôi để tôi có thể nghe tiếng át những thanh ồn ào đường.

      Chúng tôi xuyên qua vòm cong của ngôi nhà cổng cổ. Con hẻm mở rộng thành con đường, nó xoay sở để chống lại tất cả những thứ kỳ dị nhằm giữ lại hầu hết các mặt đường lát của mình. tòa nhà nhiều tầng nằm ngổn ngang bên tay phải lối với nhiều hoạt động ồn ào ầm ĩ.

      “Tu viện Dominic,” Matthew giải thích. “Khi vua Henry trục xuất các tu sĩ, nó trở nên hoang tàn sau đó thành khu nhà để ở. Giờ thể được có bao nhiêu người nhồi nhét vào đó.” liếc nhanh qua sân trong tòa nhà, nơi bức tường bằng gỗ và đá kéo dài khoảng cách giữa khu nhà ở và mặt sau của ngôi nhà khác. Vì cái cớ đáng tiếc nào đó nên mới có cánh cửa treo lủng lẳng khớp bản lề duy nhất.

      Matthew ngước nhìn nhà thờ Thánh Paul rồi nhìn xuống tôi. Gương mặt mềm mại . “Đến địa ngục còn thận trọng. thôi.”

      hướng tôi xuyên qua khoảng trống giữa phần của bức tường thành phố cũ và ngôi nhà trông như thể sắp đổ nghiêng tầng thứ ba lên khách qua đường bên dưới. Nó có thể trở thành con đường lớn nghèo nàn bởi vì mọi người di chuyển theo cùng phương hướng: ngược lên, hướng bắc, ra ngoài. Chúng tôi được làn sóng người đưa vào con đường khác, rộng hơn Hẻm Water. Tiếng ồn tăng thêm, cùng với đông đúc.

      thành phố giống như hoang mạc vào dịp nghỉ lễ mà,” tôi bình luận.

      “Đúng thế,” Matthew đáp. Sau vài bước, chúng tôi bị ném vào tình trạng rối loạn thậm chí còn lớn hơn. Tôi dừng lại đường .

      Những ô cửa sổ của nhà thờ Thánh Paul đều sáng lên trong ánh chiều nhợt nhạt. Khoảng sân nhà thờ xung quanh nó đặc kín người – đàn ông, đàn bà, trẻ em, người học việc, người hầu, giáo sĩ, binh lính. Người hò hét, người trò chuyện, và có thể thấy giấy tờ ở khắp mọi nơi. Nó được treo lên các sợi dây bên ngoài các quầy sách, đóng đinh lên bất kỳ bề mặt cứng nào, hay xếp thành tập phe phẩy trước mặt những con người bàng quan. nhóm đàn ông trẻ tuổi ồn ào bàn luận quanh cây cột phủ đầy tờ bướm thông báo, lắng nghe ai đó chậm rãi rao các quảng cáo việc làm. Thỉnh thoảng lại có người tách ra khỏi đám, những bàn tay vỗ vỗ vào lưng ta khi ta kéo chiếc mũ xuống và lên đường tìm việc.

      “Ôi, Matthew.” Đó là tất cả những gì tôi cố gắng lắm mới thốt ra được.

      Người người tiếp tục di chuyển thành đàn quanh chúng tôi, cẩn thận tránh mũi kiếm dài mà những người hộ tống tôi đeo bên hông. làn gió tạt vào chiếc mũ chùm đầu. Tôi cảm thấy nhoi nhói râm ran, tiếp theo là sức ép mơ hồ. Ở đâu đó trong khoảng sân nhà thờ bận rộn này, phù thủy và tinh cảm nhận được có mặt của chúng tôi. Ba sinh vật khác người và quý tộc du hành cùng nhau khó lòng làm ngơ cho được.

      “Chúng ta thu hút chú ý của ai đó,” tôi . Matthew dường như quá mức quan tâm khi quét mắt nhìn những khuôn mặt gần đó. “Ai đó giống em. Ai đó giống Kit. có ai giống cả.”

      “Chưa hẳn,” thở hắt. “Em được tự đến đây mình nhé Diana – bao giờ. Hãy ở yên trong khu Blackfriar cùng với Françoise. Nếu em đến bất cứ đâu xa hơn lối bộ đó,” – Matthew gật đầu ra hiệu về phía sau chúng tôi – “Pierre hoặc phải cùng em.” Khi hài lòng rằng tôi nhận thức lời cảnh cáo này cách nghiêm túc, kéo tôi . “Chúng ta gặp Mary nào.”

      Chúng tôi rẽ lại về phía nam, hướng ra con sông, và cơn gió táp chân váy ép vào hai chân tôi. Mặc dù xuống đồi, nhưng mỗi bước chân đều vất vả. tiếng huýt sáo trầm trầm cất lên khi chúng tôi ngang qua ngôi nhà thờ của London, và Pierre liền biến mất vào cái ngõ. ta ra từ ngõ khác ngay khi tôi nhận thấy tòa nhà trông quen quen phía sau bức tường.

      “Đó là nhà chúng ta!”

      Matthew gật đầu và hướng chú ý của tôi xuôi xuống con phố. “Còn đó là lâu đài Baynard.”

      Đó là tòa nhà lớn nhất tôi từng thấy ngoại trừ Tháp lớn, nhà thờ Thánh Paul, và quang cảnh xa xa của tu viện Westminster. Ba tòa tháp có lỗ châu mai hướng mặt ra sông, được nối với nhau bằng những bức tường cao gấp hai lần bất cứ ngôi nhà phụ cận nào.

      “Lâu đài Baynard được xây dựng để tiếp cận từ con sông, Diana,” Henry bằng giọng điệu lấy làm tiếc khi chúng tôi xuôi xuống con hẻm đầy gió khác. “Đây là lối vào phía sau, và phải là cách mà các vị khách nên đến – nhưng nó là lối ấm áp hơn cả vào ngày như thế này.”

      Chúng tôi cúi đầu tiến vào cánh cổng uy nghi đường bệ. Hai người đàn ông mặc đồng phục màu xanh tím than với những huy hiệu màu nâu sẫm, đen và vàng kim rảo bước tiến lên để xác nhận danh tính khách đến thăm. người nhận ra Henry vội tóm lấy tay áo người cùng trước khi ta kịp hỏi chúng tôi.

      “Đức ngài Northumberland!”

      “Chúng ta đến đây để gặp nữ bá tước.” Henry quăng cái áo khoác ngắn tay về phía người gác cửa. “Hãy xem liệu ngươi có thể làm khô nó . Và tìm cho ông chủ Roydon thứ đồ uống nóng nào đó, nếu có thể.” Vị bá tước bẻ khớp ngón tay bên trong đôi găng tay da và nhăn mặt.

      “Tất nhiên rồi, thưa đức ngài,” người gác cổng , đưa mắt nhìn Pierre vẻ hoài nghi.

      Lâu đài này được sắp đặt xung quanh hai quảng trường khổng lồ sâu trũng, gian ở giữa đầy những cây trụi lá và vết tích còn sót lại của nhiều loài hoa mùa hè. Chúng tôi leo lên cầu thang rộng và gặp các gia nhân mặc chế phục, người dẫn chúng tôi tới phòng sưởi nắng của nữ bá tước: căn phòng rất mời gọi với những ô cửa sổ lớn, quay mặt về hướng nam nhìn ra dòng sông. Chúng đem đến quang cảnh trải dài của dòng sông Thames nhìn thấy từ khu Blackfriars.

      Dù khung cảnh tương tự, nhưng có gì nhầm lẫn được giữa gian sáng sủa, cao ngất này với ngôi nhà của chúng tôi. Mặc dù khu phòng ở của chúng tôi rộng rãi và đầy đủ tiện nghi, nhưng lâu đài Baynard là nhà của quý tộc, và nó thể điều đó. Rộng lớn, những chiếc đệm ngồi được sắp đặt ở bên cạnh lò sưởi, dọc theo đó là hàng ghế tựa sâu đến mức phụ nữ có thể cuộn người lại trong đó cùng tất cả mớ váy áo của mình nhét xung quanh. Thảm thêu làm các bức tường đó thêm sinh động bằng màu sắc tươi sáng và những phong cảnh từ trong thần thoại kinh điển. Cũng có dấu hiệu của đầu óc học giả ở đây. Sách, vài tượng cổ, những món đồ tự nhiên, tranh vẽ, bản đồ, và các đồ vật hiếm lạ phủ đầy các bàn.

      “Ông chủ Roydon?” người đàn ông với bộ râu nhọn và mái tóc đen muối tiêu đứng đó. Ông ta cầm cái bảng trong tay và cây cọ xíu ở tay kia.

      “Hilliard!” Matthew thốt lên vui vẻ. “Điều gì mang ông tới đây thế?”

      phận với lệnh bà Pembroke,” người đàn ông đáp, vẫy vẫy cái bảng màu của mình. “Tôi phải hoàn thành những chi tiết cho bức tiểu họa này. Lệnh bà muốn có nó làm quà tặng nhân dịp năm mới.” Đôi mắt màu nâu sáng của ông ta quan sát tôi.

      “Tôi quên mất, ông chưa găp vợ tôi, Diana, đây là họa sĩ Nicholas Hilliard.”

      “Tôi rất vinh hạnh,” tôi , nhún gối chào. London có tới hơn trăm ngàn người sinh sống. Tại sao Matthew lại biết mỗi con người mà ngày nào đó các sử gia nhận thấy họ quan trọng nhỉ? “Tôi biết và ngưỡng mộ công việc của ông.”

      ấy thấy bức chân dung của ngài Walter mà ông vẽ cho tôi năm ngoái,” Matthew trơn tru , khỏa lấp lời chào hỏi quá mức dạt dào tình cảm từ tôi.

      trong những bức đẹp nhất của ông ấy, tôi cũng công nhận,” Henry lên tiếng, nhìn qua vai người họa sĩ. “Bức này có vẻ được định trước là đối thủ của nó đấy. là giống Mary đến tuyệt vời, Hilliard. Ông bắt được thần thái ánh mắt dữ dội của bà ấy rồi đấy.” Hilliard tỏ vẻ vui mừng.

      người hầu xuất với rượu vang, Henry, Matthew và Hilliard hạ giọng chuyện trong khi tôi ngắm nghía quả trứng đà điểu châu Phi đặt cái bệ vàng còn cái vỏ ốc cái bệ bằng bạc, cả hai được để chiếc bàn mà dọc theo đó là vài món dụng cụ đo lường vô giá của toán học mà tôi dám chạm vào.

      “Matt!” Nữ bá tước Pembroke đứng lối vào hối hả chùi những ngón tay rây mực vào cái khăn tay mà người hầu dâng lên. Tôi tự hỏi tại sao có ai thấy phiền, vì chiếc váy dài màu bồ câu xám của lệnh bà bị bôi bẩn và thậm chí cháy xém nhiều chỗ. Nữ bá tước lột bỏ chiếc áo giản dị khỏi người, để lộ ra bộ váy áo nhung bóng như lụa lộng lẫy trong sắc màu mận chín giàu sang. Khi bà giao cho người hầu chiếc áo khoác thí nghiệm tương đối có dáng vẻ đại, tôi ngửi thấy luồng hơi thuốc súng rệt. Nữ bá tước vuốt ngược lên lọn tóc vàng xoăn tuột xuống bên tai phải. Bà cao lớn và yểu điệu thướt tha, với làn da màu kem cùng đôi mắt nâu sâu thẳm.

      Bà dang hai tay ra chào đón. “Bạn thân của tôi. Tôi gặp bao năm rồi, phải từ hồi đám tang em trai Philip của tôi ấy nhỉ.”

      “Mary,” Matthew , cúi đầu bàn tay bà. “ trông tuyệt.”

      “London bằng lòng với tôi, như biết đấy, nhưng thành truyền thống chúng ta đều về đây vào dịp lễ kỷ niệm thường niên của nữ hoàng, và tôi ở đây. Tôi làm việc với mấy cuốn thánh ca của Philip và vài đam mê khác mà cũng để tâm đến nó nhiều lắm. Cũng có mấy nguồn an ủi, kiểu như gặp gỡ bạn bè cũ.” Giọng Mary nhàng ung dung, nhưng vẫn truyền tải được thông minh sắc sảo của mình.

      quả là mạnh mẽ,” Henry , bổ sung thêm vào lời chào của Matthew và nhìn nữ bá tước với vẻ hài lòng.

      Đôi mắt nâu của Mary dán vào tôi. “Và ai đây thế này?”

      “Niềm vui của tôi khi gặp làm tôi thất thố mất rồi. bà Pembroke, đây là vợ tôi, Diana. Chúng tôi mới cưới.”

      “Chào lệnh bà.” Tôi nhún gối thấp chào nữ bá tước. Đôi giày của Mary được thêu những họa tiết trang trí bằng bạc và vàng huyền ảo làm người ta liên tưởng đến Eden, phủ kín là hình rắn, táo và côn trùng. Chúng hẳn phải đáng giá cả gia tài.

      “Bà Roydon,” bà , đôi mắt chớp chớp vẻ thích thú. “Giờ thủ tục ban đầu xong rồi, chúng ta hãy cứ là Mary và Diana. Henry kể với tôi rằng sinh viên học giả kim thuật.”

      người đọc về thuật giả kim thôi, thưa lệnh bà,” tôi sửa lại, “chỉ thế thôi. Đức ngài Northumberland quá phóng đại rồi.”

      Matthew cầm lấy tay tôi. “Và em quá khiêm tốn rồi. ấy biết lượng lớn kiến thức đấy, Mary. Vì Diana mới đến London, Hal nghĩ có thể giúp ấy làm quen với thành phố này.”

      “Rất hân hạnh,” nữ bá tước Pembroke . “ nào, chúng ta ngồi bên cửa sổ. Ông Hilliard cầu có ánh sáng mạnh để làm việc. Trong khi ông ấy hoàn thành bức chân dung của tôi, các vị kể cho tôi tất cả tin tức mới. Những chuyện nhặt xảy ra trong vương quốc này Matthew cũng đều phát và biết , Diana ạ, mà tôi ở nhà tại Wiltshire nhiều tháng rồi.”

      Khi chúng tôi an vị, người hầu của bà quay trở lại với đĩa mứt trái cây.

      “Ố ồ,” Henry thốt lên, vui sướng ngọ nguậy ngón tay đĩa mứt màu vàng, xanh lá và da cam. “Mứt quả làm giống ai cả.”

      “Và tôi chia sẻ bí mật của mình với Diana,” Mary , trông vui vẻ. “Dĩ nhiên, khi ấy có công thức làm rồi, tôi có lẽ bao giờ còn có được niềm vui bầu bạn từ Henry nữa.”

      “Nào nào, Mary, quá xa rồi,” ta phản đối với miệng đầy những miếng mứt vỏ cam.

      “Chồng của cùng , Mary, hay công vụ của nữ hoàng giữ ông ấy ở Wales rồi?” Matthew hỏi.

      “Bá tước Pembroke rời Milford Haven vài ngày trước nhưng thà đến tòa án còn hơn phải đến đây. Tôi mang William và Philip cùng, nhưng chúng tôi nấn ná lâu ở thành phố mà tiếp tục đến Ramsbury. khí ở đó khoan khoái tốt cho sức khỏe.” vẻ buồn bã thoáng lướt qua gương mặt bà.

      Những lời Mary gợi cho tôi nhớ đến bức tượng của William Herbert ở sân trong thư viện Bodleian. Người đàn ông tôi vẫn lướt qua đường tới khu Công tước Humfrey mỗi ngày, và là trong những nhà hảo tâm vĩ đại nhất, lại là con trai của người phụ nữ này. “Các con bà bao nhiêu tuổi rồi?” Tôi hỏi, hy vọng câu hỏi này quá riêng tư.

      Nét mặt nữ bá tước mềm lại. “William mười tuổi, còn Philip mới lên sáu. Con tôi, Anne, bảy tuổi nhưng nó ốm tháng trước, và chồng tôi cảm thấy con bé nên ở lại Wilton.”

      có gì nghiêm trọng chứ?” Matthew cau mày hỏi.

      Lại thêm vẻ u ám lướt qua khuôn mặt nữ bá tước. “Bất cứ cơn đau ốm nào làm các con tôi khổ sở đều nghiêm trọng cả,” bà khẽ.

      “Thứ lỗi cho tôi, Mary. Tôi mà chẳng suy nghĩ gì. Ý định của tôi chỉ là muốn hỏi xem tôi có thể hỗ trợ gì .” Giọng của chồng tôi trầm sâu với vẻ hối tiếc. Cuộc chuyện chạm tới chuyện cũ được chia sẻ mà tôi biết.

      giữ những gì tôi thương khỏi bị tổn hại hơn lần. Tôi quên điều đó đâu, Matthew, cũng quên gọi lần nữa nếu cần thiết. Nhưng Anne phải chịu đựng cơn sốt rét của trẻ , chỉ thế thôi. Bác sĩ cam đoan với tôi con bé hồi phục.” Mary quay sang tôi. “ có con , Diana?”

      “Chưa có,” tôi lắc đầu trả lời. Ánh mắt màu xám bạc của Matthew thoáng lướt qua tôi trong thoáng chốc, rồi rời nơi khác. Tôi bất an kéo mạnh gấu áo khác.

      “Diana trước đây chưa từng kết hôn,” Matthew .

      “Chưa bao giờ ư?” Nữ bá tước Pembroke bị cuốn hút bởi mẩu thông tin này và mở miệng định hỏi tôi thêm. Nhưng Matthew cắt ngang.

      “Cha mẹ ấy qua đời khi ấy còn . có ai sắp đặt chuyện hôn nhân đó cả.”

      Vẻ cảm thông của Mary tăng lên. “ đáng buồn, cuộc sống của trẻ phụ thuộc vào những ý thích nhất thời của người bảo hộ.”

      “Quả là thế.” Matthew nhướng lông mày nhìn tôi. Tôi có thể tưởng tượng ra nghĩ gì: Tôi độc lập cách đáng thương, dì Sarah và Em là những sinh vật ít bất thường nhất đời.

      Câu chuyện chuyển hướng sang chính trị và các kiện thời. Tôi lắng nghe chăm chú lúc, cố gắng dung hòa những ký ức mơ hồ của lớp học lịch sử từ rất lâu trước đây với những câu chuyện tán gẫu phức tạp mà ba người họ trao đổi. Có về chiến tranh, cuộc xâm lược của người Tây Ban Nha có thể xảy ra, những người có cảm tình theo Thiên Chúa giáo, và tình trạng căng thẳng tôn giáo ở Pháp, nhưng những cái tên và địa danh thường rất xa lạ. Khi tôi thư giãn thả lỏng vào khí ấm áp trong phòng sưởi nắng của Mary, và thấy dễ chịu bởi tiếng trò chuyện liên miên ngớt, tâm trí tôi bắt đầu phiêu lãng.

      “Tôi hoàn thành ở đây rồi, lệnh bà Pembroke. Người hầu Isaac của tôi giao bức tiểu họa vào cuối tuần,” Hilliard thông báo, thu dọn dụng cụ.

      “Cảm ơn, ông Hilliard.” Nữ bá tước chìa tay ra, ánh sáng lấp lánh của trang sức tỏa ra từ những chiếc nhẫn bà đeo. Ông ta hôn tay bà, gật đầu chào Henry và Matthew, rồi rời .

      người đàn ông tài ba,” Mary , cựa mình ghế. “Ông ấy được rất nhiều người ưa thích và tôi phải tốn cả gia tài mới mời được ông ấy phục vụ.” Hai bàn chân bà bá tước lấp lánh trong ánh lửa lò sưởi, những họa tiết trang trí bằng bạc đôi giày sang trọng trong nhà bắt sáng lóe lên màu đỏ, cam và vàng kim. Tôi vu vơ tự hỏi ai là người thiết kế mẫu thêu trang trí khó hiểu này. Nếu thân thiết hơn, tôi xin được sờ vào các mũi thêu ấy. Champier có thể đọc được từ da thịt tôi bằng những ngón tay của ông ta. Vậy vật vô tri có thể cung cấp thông tin tương tự thế ?

      Mặc dù các ngón tay tôi chẳng đến gần được đôi giày của nữ bá tước, nhưng tôi nhìn thấy khuôn mặt người phụ nữ trẻ. ta chăm chú nhìn vào tờ giấy có mẫu thiết kế cho đôi giày của Mary đó. Những lỗ xíu dọc theo các đường vẽ lý giải của việc làm thế nào thể được những họa tiết phức tạp đó chất liệu da. Tập trung vào bức vẽ, tâm nhãn của tôi lui vài bước về đúng thời điểm. Bây giờ tôi thấy Mary ngồi với người đàn ông có quai hàm cứng rắn, bướng bỉnh, bàn đầy mẫu côn trùng và thực vật trước mặt họ. Cả hai chuyện với dáng vẻ rất hào hứng sôi nổi về con châu chấu, khi người đàn ông bắt đầu mô tả nó chi tiết, Mary cầm bút lên và vẽ phác họa hình dáng nó.

      Vậy là Mary quan tâm tới thực vật và côn trùng, cũng như thuật giả kim nữa, tôi nghĩ, tìm kiếm hình ảnh con châu chấu đôi giày của bà. Nó ở đó, gót giày. Quá sống động. Và con ong ở mũi giày bên phải trông như thể nó sắp bay bất cứ lúc nào.

      thanh vo ve mờ nhạt lọt vào tai tôi khi con ong màu đen bạc tách mình ra khỏi chiếc giày của nữ bá tước Pembroke và bay vào trung.

      “Ôi, ,” tôi thở gấp.

      con ong lạ lùng,” Henry bình phẩm, đập mạnh vào khi nó bay ngang qua. Nhưng thay vào đó tôi nhìn con rắn trườn tuột ra khỏi chân Mary và lao đến. “Matthew!”

      phóng tới cầm đuôi con rắn nhấc lên. Nó vươn cái lưỡi chẽ đôi ra và phun phì phì phẫn nội trước hành vi đối xử thô lỗ này. Lắc cổ tay cái, Matthew quăng con rắn vào lửa, nơi nó kêu xèo xèo lúc trước khi bắt lửa.

      “Em định…” Tiếng tôi trượt dài rồi tắt lịm.

      “Tất cả ổn rồi, mon coeur.” Matthew chạm vào má tôi trước khi nhìn sang nữ bá tước, người nhìn chằm chằm xuống đôi giày trong nhà lúc này tương xứng nữa. “Chúng tôi cần phù thủy, Mary. Có trường hợp khẩn cấp.”

      “Tôi biết phù thủy nào cả,” nữ bá tước Pembroke đáp lại rất nhanh.

      Cặp lông mày Matthew nhướng lên.

      “Tôi giới thiệu ai cho vợ đâu. biết tôi thích về những vấn đề như thế mà, Matthew. Khi an toàn từ Paris trở về, Philip cho tôi biết là cái gì. Khi đó tôi còn và hiểu nó như bịa đặt, truyền thuyết mà thôi. Đó là cách tôi mong ước giữ gìn nó.”

      “Nhưng vẫn thực hành thuật giả kim à?” Matthew nhàn nhạt . “Đó cũng là câu chuyện bịa đặt ư?”

      “Tôi thực hành thuật giả kim để hiểu biết về sáng tạo kỳ diệu của Chúa Trời!” Mary la lên. “ hề có… thuật phù thủy… trong giả kim thuật!”

      “Từ muốn là ‘ma quỷ’.” Đôi mắt chàng ma cà rồng tối sầm lại và khuôn miệng mím chặt. Nữ bá tước theo bản năng rụt lùi lại. “ chắc chắn về bản thân và vị Chúa Trời mà tuyên bố là biết ý chí của Người chứ?”

      Mary cảm nhận thấy lời khiển trách nhưng sẵn sàng từ bỏ cuộc chiến. “Chúa Trời của tôi và của phải là , Matthew.” Đôi mắt chồng tôi nheo lại thành khe hẹp và Henry nắm lấy ống tất của mình vẻ bồn chồn lo lắng. Cằm nữ bá tước hất lên. “Philip cũng kể với tôi điều đó. vẫn trung thành với giáo hoàng và số đông. ấy thấy những sai lầm quá khứ trong đức tin của đối với người đàn ông kia, và tôi cũng làm giống thế với hy vọng rằng ngày nào đó thấy được theo nó.”

      “Tại sao, khi trông thấy về những sinh vật như Diana và tôi mỗi ngày mà vẫn chối bỏ nó?” Giọng Matthew đầy mệt mỏi. đứng dậy. “Chúng tôi làm phiền nữa, Mary. Diana tìm thấy phù thủy theo cách khác.”

      “Tại sao chúng ta thể tiếp tục như trước đây và về chuyện này nữa?” Nữ bá tước nhìn tôi và cắn môi, vẻ chắc chắn lên trong mắt bà.

      “Bởi vì tôi vợ mình và muốn thấy ấy được an toàn.”

      Mary quan sát lúc, đánh giá chân thành của . Nó hẳn làm bà thỏa mãn. “Diana cần sợ tôi, Matt. Nhưng nên tin tưởng phó thác cho ai khác ở London biết về ấy. Những gì diễn ra ở Scotland khiến mọi người sợ hãi, và mau chóng đổ lỗi cho người khác vì bất hạnh của bọn họ.”

      “Tôi rất lấy làm tiếc về đôi giày của bà,” tôi lúng túng . Chúng bao giờ như cũ được nữa.

      “Chúng ta nhắc đến nó nữa,” Mary kiên quyết , đứng lên để lời tạm biệt.

      ai trong chúng tôi gì khi rời khỏi lâu đài Baynard. Pierre thong dong ra khỏi cổng ngôi nhà phía sau chúng tôi, ấn chiếc mũ lưỡi trai lên đầu.

      “Tôi nghĩ chuyện như thế là rất tốt rồi,” Henry lên tiếng, phá tan im lặng

      Chúng tôi quay sang ta vẻ tin.

      “Có vài khó khăn, chắc chắn thế,” chàng vội vàng , “nhưng có gì nhầm lẫn là Mary thích Diana hoặc lòng tận tâm của ấy vẫn tiếp tục dành cho , Matthew. phải cho ấy cơ hội. ấy dâng hiến lòng tin cách dễ dàng. Đó là lý do vì sao các vấn đề về đức tin làm phiền ấy đến vậy.” kéo áo choàng quanh người. Gió vẫn giảm bớt, và trời tối dần. “Trời ơi, tôi phải chia tay các bạn ở đây thôi. Mẹ tôi ở Aldersgate và mong tôi đến dùng bữa tối.”

      “Bà bình phục khỏi cơn khó ở rồi chứ?” Matthew hỏi. Nữ bá tước quả phụ phàn nàn về việc thở dốc suốt dịp Giáng Sinh, và Matthew lo lắng đó có thể là do tim của bà.

      “Mẹ tôi là Neville. Vì thế cho nên bà sống lâu và gây rắc rối mỗi khi có cơ hội!” Henry hôn lên má tôi. “Đừng lo lắng về Mary, hay về à… vấn đề kia.” ta nhướng lông mày đầy ý và rời .

      Matthew và tôi nhìn theo ta trước khi rẽ hướng về Blackfriars.

      “Chuyện gì thế?” khẽ hỏi.

      “Trước đây, cảm xúc của em khơi gợi phép thuật. Giờ câu hỏi miễn cưỡng cũng đủ khiến em nhìn thấu mọi việc. Nhưng biết làm thế nào em lại khiến cho con ong đó sống dậy.”

      “Tạ ơn Chúa là em chỉ nghĩ đến đôi giày của Mary. Nếu em quan sát mấy tấm thảm thêu của ấy, chúng ta thấy mình ở giữa cuộc chiến của các vị thần đỉnh Olympus mất,” thở dài .

      Chúng tôi nhanh chóng ngang sân nhà thờ Thánh Paul và trở lại chốn yên tĩnh của khu Blackfriars. Mọi hoạt động náo nhiệt buổi sớm nay chậm lại thành nhịp điệu nhàn nhã thong thả hơn. Thợ thủ công túm năm tụm ba ở các ô cửa chia sẻ tin tức buôn bán, để lại cho đám thợ học việc làm nốt các nhiệm vụ trong ngày.

      “Em có muốn mua mang về ?” Matthew chỉ vào cửa hiệu bánh. “Nó phải bánh pizza, trời ạ, nhưng Kit và Walter giành hết phần bánh thịt của Prior mất rồi.” Tôi gật đầu, miệng chảy nước miếng khi mùi hương từ trong bay ra.

      Ông chủ Prior bị sốc khi Matthew bước vào và bối rối khi hỏi chi tiết về nguồn gốc và những thứ liên quan tới độ tươi sạch của thịt ở đây. Cuối cùng tôi chọn miếng bánh rau húng đầy thịt vịt. Tôi ăn thịt hươu nai, bất kể nó được giết như thế nào.

      Matthew trả tiền đồ ăn cho Prior trong khi phụ tá của người thợ làm bánh này gói nó lại. Mỗi giây họ lại lén liếc trộm chúng tôi. Tôi lại được nhắc cho nhớ rằng phù thủy và ma cà rồng lôi kéo nghi ngờ của loài người như cây nến thu hút bướm đêm.

      Bữa tối dễ chịu và ấm cúng, dù Matthew dường như khá lo lắng ám ảnh. Thoáng cái tôi ăn hết miếng bánh của mình, tiếng bước chân vang lên cầu thang gỗ. Đừng là Kit, tôi nghĩ và bắt chéo hai ngón tay ước nguyện, phải tối nay.

      Khi Françoise mở cánh cửa, hai người đàn ông trong bộ chế phục màu tím than quen thuộc đợi sẵn ở đó. Matthew cau mày rồi đứng dậy. “Nữ bá tước khỏe sao? Hay trong các cậu bé?”

      “Tất cả đều khỏe, thưa ngài.” người đưa ra mảnh giấy được gấp lại cẩn thận, cùng là dấu xi đỏ mang vết in đầu mũi tên. “Từ Nữ Bá tước Pembroke ạ,” ta giải thích kèm theo cái cúi đầu cung kính, “cho bà Roydon.”

      Cảm giác xa lạ khi nhìn thấy địa chỉ chính thức bức thư: “Bà Diana Roydon, biển Hươu Đực và Vương Miện, khu Blackfriars.” Các ngón tay tôi lang thang dòng địa chỉ dễ dàng thu về hình ảnh gương mặt thông minh của Mary Sidney. Tôi mang bức thư tới bên lò sưởi, luồn ngón tay vào dưới dấu xi phá vỡ nó và ngồi xuống đọc. Tờ giấy dày kêu sột soạt khi tôi trải rộng ra. mảnh giấy trượt ra rơi lòng tôi.

      “Mary gì thế?” Matthew hỏi sau khi cho những người đưa tin lui . đứng phía sau và đặt hai tay lên vai tôi.

      ấy muốn em đến lâu đài Baynard vào thứ Năm. Mary có thí nghiệm về thuật giả kim mà ấy nghĩ có thể làm em quan tâm.” Tôi thể giấu được hoài nghi trong giọng mình.

      “Đó là Mary dành cho em. ấy thận trọng nhưng trung thành,” Matthew , đặt nụ hôn lên đầu tôi. “Và ấy luôn có sức mạnh hồi phục đáng kinh ngạc. tờ giấy kia viết gì thế?”

      Tôi nhặt nó lên và đọc lớn những dòng đầu tiên của bài thơ gửi kèm:

      “Đúng thế, khi tất cả tôi đều quá lầm tưởng,

      Tôi dường như là con quái vật,

      Nhưng hy vọng trong tôi vẫn mãnh liệt.”

      “Chà chà,” Matthew cắt ngang bằng tiếng cười nén lại. “Vợ đến nơi rồi.” Tôi nhìn bối rối. “Dự án có giá trị nhất của Mary phải là giả kim thuật mà là bản dịch các bài Thánh ca cho tín đồ Tin Lành nước . Em trai ấy Philip bắt đầu nó và chết trước khi kịp hoàn thành. Mary là người thứ hai, bài thơ này là của ta. Đôi khi ấy nghi ngờ nhiều chuyện, nhưng ấy bao giờ thừa nhận nó. Đó là lời mở đầu của bài Thánh Ca Bảy Mươi Mốt. Mary gửi nó cho em để chỉ thế giới mà em là phần trong vòng luân hồi của ấy – người bạn và người tâm tình tin cậy.” Giọng thấp xuống thành lời thầm ranh mãnh. “Thậm chí nếu em có phá hoại đôi giày của ấy.” Với tiếng cười thầm khe khẽ sau cùng, Matthew rút lui vào phòng làm việc của mình, cố thủ bên Pierre.

      Tôi chiếm chiếc bàn chân nặng nề trong phòng khách làm bàn làm việc. Giống mọi bề mặt để làm việc tôi từng chiếm cứ, nó giờ đây bừa bãi ngổn ngang cả rác và những món giá trị. Tôi lật tung xung quanh và tìm thấy những tờ giấy trắng cuối cùng của mình, chọn cái bút lông mới, phủi sạch bụi.

      Mất năm phút để tôi viết xong bức hồi ngắn cho nữ bá tước. Có hai chỗ nhòe mực đó, nhưng chữ viết tay nghiêng nghiêng khá đẹp, tôi còn nhớ đánh vần mấy từ đúng phát để trông chúng quá đại. Khi nghi ngờ tôi bèn cho gấp đôi phụ hoặc thêm chữ e phía cuối từ. Tôi rắc cát lên tờ giấy và đợi cho tới khi nó thấm khô mực trước khi thổi sạch cát . Khi lá thư được gấp lại, tôi nhận ra mình có xi hay con dấu riêng để đóng lên nó. Chuyện đó phải được chấn chỉnh.

      Tôi để lời nhắn của mình sang bên cho Pierre và trở lại với mẩu giấy rơi ra khỏi lá thư kia. Marry gửi cho tôi cả ba khổ của Thánh Ca Bảy Mươi Mốt. Tôi lấy ra cuốn sổ trắng mới mà Matthew mua cho và mở trang đầu tiên. Sau khi chấm bút lông vào lọ mực gần đó, tôi cẩn thận di chuyển ngòi bút trang giấy.

      Nhờ bọn họ mà cuộc đời ta bị ghét bỏ

      Với những kẻ theo dõi giờ

      Cuộc chuyện của họ, và xem kìa,

      Chúa ơi, họ , vì lợi ích của người.

      Giờ đây truy đuổi, người phải ra ;

      ai đến giải cứu người.

      Khi mực khô, tôi đóng sổ lại và lùa nó nằm dưới cuốn Arcadia của Philip Sidney.

      Nhận được món quà này từ Mary còn ý nghĩa hơn lời đề nghị kết bạn đơn giản, vì thế tôi chắc chắn. Trong khi những dòng thơ tôi đọc to cho Matthew nghe chứng nhận phục vụ của đối với gia đình nữ bá tước và là lời tuyên bố rằng bà ấy quay lưng với vào lúc này, những dòng cuối cùng lại mang thông điệp dành cho tôi: Chúng ta bị theo dõi. Có ai đó nghi ngờ rằng tất cả mọi chuyện dường như bình thường ở Hẻm Water, và kẻ thù của Matthew đánh cuộc rằng ngay cả đồng minh của cũng quay sang chống lại khi họ phát .

      Matthew, ma cà rồng đồng thời là bầy tôi của nữ hoàng và là thành viên của Đại Hội Đồng, thể dính líu với chuyện tìm kiếm phù thủy để làm gia sư cho tôi được. Mà có đứa bé bất ngờ thế này, việc nhanh chóng tìm phù thủy lại mang ý nghĩa trọng đại mới.

      Tôi lôi ra tờ giấy và bắt đầu lên danh sách.

      Xi gắn thư

      con dấu riêng

      London là thành phố lớn. Và tôi mua sắm đôi chút.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :