Mật mã Phù thủy 2A - Deborah Harkness [Kỳ Bí]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      4.

      Bè lũ Bóng đêm háo hức giúp Matthew tìm kiếm sinh vật khác người đó. Các gợi ý của họ đều có vẻ coi thường phụ nữ, phù thủy, và tất cả những ai thiếu giáo dục tại đại học. Henry nghĩ London có thể là mảnh đất màu mỡ cho việc tìm kiếm này, nhưng Walter lại cam đoan rằng thể che giấu tôi khỏi những người hàng xóm mê tín trong cái thành phố đông đúc đó. George băn khoăn liệu có thể thuyết phục các học giả ở Oxford để họ cho mượn chuyên gia , vì ít nhất họ cũng có phẩm chất trí tuệ phù hợp. Tom và Matthew đưa ra bài phê bình thô bạo về ưu điểm và nhược điểm của các nhà khoa học ở đó, rồi ý tưởng ấy cũng bị gạt sang bên. Kit cho rằng là khôn ngoan khi trông cậy vào bất cứ người phụ nữ nào trong nhiệm vụ như thế, liền đưa ra danh sách các quý ông có thể sẵn lòng lên chế độ huấn luyện cho tôi. Bao gồm vị cha xứ của nhà thờ St.Mary, người được điềm báo những dấu hiệu của khải huyền thư ở thiên đàng, ông chủ đất ở gần đây tên Smythson là người chập chững vào nghề giả kim và tìm phù thủy hay tinh để trợ giúp ông ta, cuối cùng là sinh viên ở trường Nhà thờ Chúa, người thanh toán hết các hóa đơn sách quá hạn của mình bằng việc xem dự đoán tương lai.

      Matthew phủ quyết tất cả những gợi ý rồi cho gọi bà góa Beaton, phụ nữ tinh khôn, cũng là bà đỡ của Woodstock. Bà ta nghèo khó và là phụ nữ – chính xác là kiểu người bị Bè lũ Bóng đêm khinh rẻ − nhưng người này, như Matthew chỉ , đảm bảo tốt nhất cho hợp tác đôi bên. Thêm vào đó, bà góa Beaton là sinh vật khác người duy nhất trong vòng mấy dặm gần đây nổi tiếng với tài năng phép thuật. Tất cả những người kia thà bỏ chạy – thú nhận − còn hơn là sống gần wearh.

      “Cho gọi bà góa Beaton có lẽ phải ý tưởng hay,” tôi khi chuẩn bị ngủ.

      “Vậy là em cũng chuyện này,” Matthew đáp với vẻ thiếu kiên nhẫn được che giấu vừa đủ. “Nhưng nếu bà góa Beaton thể giúp chúng ta, bà ta có thể gợi ý ai đó có thể làm việc ấy.”

      “Vào cuối thế kỷ mười sáu này phải thời điểm tốt để công khai dò hỏi về phù thủy đâu Matthew.” Tôi thể làm được gì nhiều hơn ngoài việc bóng gió gợi ý đến cảnh săn lùng phù thủy khi chúng tôi ở cùng Bè lũ Bóng đêm, nhưng Matthew biết những điều khủng khiếp sắp tới. lần nữa lại bác bỏ lo lắng của tôi.

      “Những phiên tòa xét xử phù thủy của Chelmsford bây giờ chỉ còn là những hồi ức thôi và phải thêm hai mươi năm nữa mới đến những cuộc săn lùng của Lancashire. mang em tới đây nếu sắp có cuộc săn lùng phù thủy nổ ra ở nước .” Matthew lướt qua mấy bức thư Pierre để lại bàn cho .

      “Với lý do như thế, tốt khi nhà khoa học chứ phải sử gia,” tôi thẳng. “Chelmsford và Lancashire là đỉnh điểm bùng phát của những mối lo lắng lan rộng từ lâu.”

      “Em nghĩ sử gia có thể hiểu chiều hướng giờ hơn người trải qua nó ư?” Lông mày Matthew nhướng lên vẻ hoài nghi thấy .

      “Vâng,” tôi đáp, xù lông nhím. “Chúng ta thường thế mà.”

      “Đó phải là điều em sáng nay khi em thể hiểu tại sao chẳng có cái dĩa nào trong nhà này,” nhận xét. Đúng là tôi sục sạo khắp nơi suốt hai mươi phút trước khi Pierre nhàng thổ lộ cho tôi rằng những món đồ dùng bếp núc đó phổ biến ở nước .

      “Chắc chắn phải trong số những người tin rằng các sử gia chẳng làm gì khác ngoài việc ghi nhớ ngày tháng cũng như nghiên cứu các kiện còn mơ hồ,” tôi . “Công việc của em là phải hiểu tại sao những thứ đó xảy đến trong quá khứ. Khi có chuyện xảy ra ngay trước mắt , rất khó nhìn thấy được nguyên do của vấn đề, nhưng khi nhìn nhận việc muộn hơn cho thấy viễn cảnh ràng hơn.”

      “Thế em có thể an lòng, bởi vì có cả kinh nghiệm lẫn nhận định về việc sau đó,” Matthew . “ hiểu thái độ e dè của em, Diana, nhưng cho gọi bà góa Beaton là quyết định đúng đắn.” việc chấm hết, giọng điệu của thể ràng ý đó.

      “Vào năm 1590, thực phẩm bị thiếu thốn, và người ta lo lắng về tương lai,” tôi , nhẩm tính vấn đề các ngón tay mình. “Điều đó có nghĩa họ tìm kiếm những kẻ giơ đầu ra chịu trách nhiệm cho thời kỳ khó khăn này. Vì lẽ đó, những người phụ nữ tinh ranh khéo léo và các bà đỡ rất sợ bị kết tội phù thủy, mặc dù những người bạn nam giới của có thể nhận thức được điều đó.”

      là người đàn ông quyền lực nhất ở Woodstock,” Matthew , nắm lấy hai vai tôi. “ ai buộc tội em điều gì cả.” Tôi ngạc nhiên trước ngạo mạn đó.

      “Em là người xa lạ, và bà góa Beaton chẳng nợ em gì cả. Nếu em lôi kéo những ánh mắt tò mò, cũng đồng thời mang đến đe dọa nghiêm trọng đối với an toàn của bà ta,” tôi vặn lại. “Tối thiểu, em cần phải đạt được phong thái như phụ nữ thượng lưu ở thời đại Elizabeth trước khi chúng ta cầu bà ta giúp đỡ. Hãy cho em thêm vài tuần nữa.”

      “Chuyện này thể đợi được, Diana,” cộc cằn đáp.

      phải em cầu kiên nhẫn để em học thêu thùa hay làm mứt. Có những lý do đúng đắn cho cầu này.” Tôi nhìn gay gắt. “Cứ gọi người phụ nữ khôn ngoan của tới . Nhưng đừng có ngạc nhiên khi chuyện này trở thành tồi tệ nhé.”

      “Hãy tin .” Matthew hạ môi về phía môi tôi. Ánh mắt như màu sương khói, bản năng đeo đuổi con mồi và dồn ép nó phải khuất phục trỗi dậy. chỉ là đức ông chồng ở thế kỷ mười sáu muốn thắng thế trước vợ mình, mà còn là chàng ma cà rồng muốn nắm bắt nàng phù thủy.

      “Em thấy có tranh cãi nào dù là nhất ở đây,” tôi , xoay đầu tránh . Tuy nhiên, Matthew ràng lại thấy là có. Tôi nhích ra xa vài centimet.

      tranh cãi,” Matthew khẽ , miệng kề sát tai tôi. “Là em. Và nếu em nghĩ chạm vào em trong lúc giận dữ, vợ ạ, em rất lầm đấy.” Sau khi ghim dính tôi vào cột giường bằng ánh mắt lạnh băng, quay giật lấy cái quần chẽn mặc vào. “ xuống dưới nhà. có ai đó còn thức để bầu bạn với .” hiên ngang tới cửa. Tới đó, dừng bước.

      “Và nếu em muốn cư xử như phụ nữ thời Elizabeth hãy thôi chất vấn ,” thô bạo rồi rời .

      Ngày hôm sau, ma cà rồng, hai tinh cùng ba người đàn ông lặng lẽ kiểm tra lại vẻ ngoài của tôi từ phía bên kia sàn phòng rộng lớn. Những hồi chuông điểm giờ của nhà thờ St.Mary ngân nga, tiếng vang nhạt dần nấn ná kéo dài lúc lâu sau khi hồi chuông dứt. Mùi mộc qua, hương thảo và oải hương thoang thoảng trong khí. Tôi an tọa chiếc ghế gỗ mấy thoải mái và bị giam trong bộ váy xếp nếp, chân váy lót dài nhiều tầng, những ống tay áo, váy ngoài và chiếc áo lót thắt dây chặt. Cuộc đời định hướng theo đuổi nghiệp ở thế kỷ hai mươi mốt của tôi mờ xa dần theo từng hơi thở ngắn ngủi. Tôi nhìn đăm đăm ra khoảng trời u ám, mưa lạnh táp vào khung cửa kính các ô cửa sổ bằng chì.

      “Elle est ici,” Pierre thông báo, ánh mắt ta thoáng lướt qua phía tôi. “Nữ phù thủy ở đây để gặp madame.”

      “Cuối cùng đến,” Matthew . Những đường may giản dị chiếc áo chẽn khiến hai bờ vai trông rộng hơn, trong khi những họa tiết đầu và lá sồi màu đen may viền quanh chiếc cổ áo trắng càng làm tôn lên sắc trắng nhợt nhạt của làn da. nghiêng mái đầu đen để ngắm nghía xem liệu tôi hội tụ đủ tư cách bà vợ đáng kính trọng dưới thời Elizabeth hay chưa.

      “Thế nào?” hỏi. “ ổn chứ?”

      George hạ thấp tròng kính mắt. “Ổn. Chiếc váy dài màu nâu đỏ nhạt này hợp với ấy hơn cái lần trước và nó tôn lên màu tóc của ấy.”

      “Bà Roydon trông cũng vào vai rồi đấy, George, đúng thế . Nhưng chúng ta thể giải thích được lối chuyện khác thường của ấy chỉ đơn giản bằng cách ấy đến từ v-vu-vùng quê,” Henry thêm bằng giọng nam trầm ngữ điệu. ta bước tới để kéo lại các nếp váy thêu kim tuyến của tôi cho ngay ngắn. “Và chiều cao của ấy nữa. che giấu nổi. ấy thậm chí còn cao hơn cả nữ hoàng.”

      “Mọi người có chắc chúng ta thể biến ấy thành người Pháp, người xứ Walt hay Hà Lan ?” Tom dùng mấy ngón tay bị dính mực đưa quả cam có mùi đinh hương lên mũi ngửi. “Có lẽ rốt cuộc bà Roydon cũng có thể sống sót ở London. tinh dĩ nhiên thể nhận ra ấy, nhưng những người đàn ông bình thường có thể liếc nhìn ấy đến lần thứ hai đâu.”

      Walter khịt mũi nín cười rồi gỡ rối cho tôi. “Bà Roydon có dáng người đẹp cũng như chiều cao khác thường. Những người đàn ông bình thường từ độ tuổi mười ba đến sáu mươi có đủ lý do khiến họ muốn tìm hiểu về ấy. , Tom, ấy tốt hơn nên ở đây, với bà góa Beaton.”

      “Có lẽ tôi có thể gặp bà góa Beaton sau, ở trong làng, và mình?” Tôi đưa ra gợi ý, hy vọng có ai đó trong bọn họ có thể tỉnh táo và thuyết phục Matthew để tôi làm theo cách của mình.

      !” Tiếng kêu kinh hoàng của sáu giọng đàn ông vút lên.

      Françoise xuất mang hai mảnh vải lanh và ren được hồ bột, vồng ngực căng phồng của ta giống như chú gà trống giận dữ đối mặt với con gà chọi thích gây gổ. Ngay khi tôi định mở miệng chen vào ngay, thông báo với ấy rằng: “Diana vào triều. Cái cổ áo xếp đó cần thiết,” Matthew kèm theo cử chỉ nôn nóng. “Hơn nữa, tóc của ấy mới là vấn đề rắc rối.”

      “Ngài biết cái gì là cần thiết cả,” Françoise vặn lại. Mặc dù ta là ma cà rồng còn tôi là phù thủy, nhưng chúng tôi đều phải công nhận trước ngốc nghếch của đàn ông. “Madame de Clermont thích cái nào hơn ạ?” ta giơ ra cái tổ xếp nếp có chất vải mỏng như sa và thứ gì đó hình lưỡi liềm tương tự những bông tuyết gắn với nhau bằng các đường khâu vô hình.

      Các bông tuyết trông dễ chịu hơn nên tôi chỉ vào chúng.

      Trong khi Françoise gắn thêm cái cổ áo vào mép chiếc áo lót bó sát của tôi, Matthew chạm vào mái tóc với nỗ lực cố gắng làm cho nó thành nếp như ý. Françoise đập lên tay . “Đừng chạm vào.”

      “Ta chạm vào vợ mình khi ta muốn. Và hãy thôi gọi Diana là ‘Madame de Clermont’,” Matthew quát, trong khi di chuyển tay xuống hai bờ vai tôi. “Ta cứ tưởng mẹ ta đến.” kéo mép cổ áo tách xa ra, nới lỏng sợi dây nhung đen mà Françoise buộc lại.

      “Madame là phụ nữ có chồng. Ngực bà ấy nên được che lại. có đủ những lời bàn ra tán vào về nữ chủ nhân mới rồi,” Françoise phản đối.

      “Bàn tán ư? Lời bàn tán thế nào?” Tôi nhăn nhó hỏi.

      “Bà có mặt ở nhà thờ vào ngày hôm qua, nên có chuyện cho rằng bà có mang, hoặc bị căn bệnh đậu mùa hành hạ đau đớn. Vị linh mục dị giáo tin rằng bà là người theo Thiên Chúa giáo. Những người khác bà là người Tây Ban Nha.”

      “Người Tây Ban Nha ư?”

      “Oui, madame. Ai đó nghe thấy tiếng bà trong tàu ngựa chiều qua.”

      “Nhưng tôi tập tiếng Pháp mà!” Tôi khá có tài bắt chước nên nghĩ bắt chước theo cách nhấn trọng của Ysabeau có thể củng cố thêm tính thuyết phục cho câu chuyện tiểu sử công phu của mình.

      “Con trai của người giữ ngựa lại nhận ra điều đó.” Ngữ điệu của Françoise ngụ ý rằng nhầm lẫn của thằng bé được chứng thực. ta ngắm nghía tôi vẻ hài lòng. “Phải, bà trông ra dáng phụ nữ đáng kính.”

      “Fallaces sunt rerum species,” Kit thở dài , khiến Matthew quắc mắt nhìn giận dữ. “’Vẻ ngoài có thể dối lừa.’ Màn trình diễn của ta chẳng thuyết phục được ai đâu.”

      “Ngày hôm nay còn quá sớm đối với Seneca đấy.” Walter tặng Marlowe ánh nhìn cảnh cáo.

      “Chẳng bao giờ là quá sớm đối với chủ nghĩa khắc kỷ cả,” Kit gay gắt đáp lại. “ nên cảm ơn tôi rằng đó phải Homer đấy. Tất cả những gì chúng ta được nghe gần đây là những đoạn linh tinh vớ vẩn của tác phẩm Iliad. Hãy để tiếng Hy Lạp cho những người hiểu nó, George ạ − ai đó như Matt ấy.”

      “Bản dịch của tôi về tác phẩm của Homer vẫn còn chưa hoàn thành!” George xù lông bật lại.

      Câu trả lời của chàng khơi lên cơn lũ những trích dẫn tiếng Latin từ Walter. trong số đó khiến Matthew phải nén cười, và điều gì đó mà tôi nghi ngờ là tiếng Hy Lạp. Nữ phù thủy đợi ở dưới nhà hoàn toàn bị quên lãng, cánh đàn ông cuồng nhiệt say sưa với trò giải trí thích của họ: chiếm thế thượng phong bằng lý lẽ. Tôi chìm cả người vào chiếc ghế bành của mình.

      “Khi ở trong bầu khí hài hước tốt đẹp thế này, họ quả là kỳ quan,” Henry thầm. “Đây là những người hóm hỉnh sâu cay nhất vương quốc này, thưa bà Roydon.”

      Raleigh và Marlowe bây giờ quát vào mặt nhau về những phẩm chất xứng đáng – hoặc việc thiếu phẩm chất ấy – trong các chính sách đối với thuộc địa và khai phá của Nữ hoàng.

      “Người ta tặng cả nắm vàng cho người phiêu lưu mạo hiểm như cũng chả khác gì mang nó ném xuống sông Thames, Walter ạ,” Kit cười như nắc nẻ.

      “Người phiêu lưu mạo hiểm! bạn chẳng thể bước bước ra khỏi cửa giữa ban ngày ban mặt vì sợ bọn chủ nợ.” Giọng Raleigh rung lên. “ là thằng ngốc thế đấy, Kit ạ.”

      Matthew vẫn cứ theo dõi cuộc đấu võ mồm với vẻ thích thú càng lúc càng tăng.

      “Giờ gặp rắc rối với ai thế?” hỏi Marlowe, với tay lấy ly rượu vang của mình. “Và giá của nó là bao nhiêu mới có thể lôi ra khỏi đó hả?”

      “Tay thợ may của tôi.” Kit phẩy tay về phía bộ đồ đắt tiền người. “Nhà in cho cuốn Tamburlaine.” ta ngập ngừng, ưu tiên nêu ra những con số vượt trội. “Hopkins, cái tên con hoang tự phong là lãnh chúa chỗ tôi ấy. Nhưng tôi có cái này rồi.” Kit giơ ra bức tượng xíu hình nữ thần Diana thắng được của Matthew khi họ chơi cờ vua tối Chủ nhật. Lo lắng khi để bức tượng rời khỏi tầm mắt mình, nên tôi ngọ nguậy nhích tới phía trước vài phân.

      bạn thể cháy túi đến nỗi đem cầm cái thứ rẻ tiền đó lấy vài xu chứ.” Matthew nháy mắt với tôi, đồng thời bằng cử động của bàn tay khiến tôi lại chìm sâu trở lại chỗ ngồi. “Tôi quan tâm đến việc đó.”

      Marlowe đứng khựng lại cùng nụ cười ngoác đến tận mang tai, đút túi bức tượng nữ thần bằng bạc. “ luôn đáng tin cậy, Matt ạ. Tôi trả lại cho , dĩ nhiên là thế.”

      “Tất nhiên,” Matthew, Walter và George lầm bầm vẻ nghi ngờ.

      “Dù vậy, hãy giữ lại đủ tiền để mua cho mình bộ râu nhé.” Kit vuốt ve hàm râu của bản thân với bộ dạng tự mãn. “ trông kinh khủng.”

      “Mua bộ râu ư?” Tôi chẳng hiểu gì cả. Marlowe hẳn lại dùng cách lóng, mặc dù Matthew cầu ta thôi kiểu đó trước mặt tôi.

      “Có thợ cạo ở Oxford vốn là pháp sư. Tóc của chồng bà mọc chậm, đều là nhờ ông ta, ông ta cạo sạch nó.” Khi tôi vẫn còn nhìn ngơ ngẩn, Kit tiếp tục cùng vẻ kiên nhẫn thái quá. “Matt cần bộ râu mới có thể trở về bộ dạng bình thường được. Hiển nhiên, đủ năng lực để cho ấy thứ đó, nên chúng ta nhờ ai khác làm thay vậy.”

      Ánh mắt tôi lạc tới cái bình rỗng chiếc bàn làm bằng gỗ du. Françoise lấp đầy nó bằng những thứ được cắt từ vườn hoa – những nhánh non của cây nhựa ruồi, những cành sơn trà quả màu nâu gần giống quả cây tầm xuân, và vài bông hồng trắng – mang đến sắc hương cho cả căn phòng. Vài giờ trước, tôi luồn mấy ngón tay qua đám cành lá đó để kéo những bông hồng và sơn trà ra phía mặt trước của lọ hoa, vừa băn khoăn nghĩ về khu vườn. Tôi hài lòng với thành quả khoảng chừng mười lăm giây, cho tới khi những bông hoa cùng quả kia khô quắt lại ra ngay trước mắt tôi. khô héo ấy lan rộng ra các phía từ mấy đầu ngón tay, hai bàn tay tôi râm ran, nhoi nhói cùng cảm giác thông tin từ các loài thực vật ấy chảy tràn vào: cảm giác ánh nắng mặt trời, cơn mưa tạnh, sức mạnh trong những bộ rễ đến từ việc chống chịu trước sức kéo của gió, hương vị của đất.

      Matthew đúng. nay, chúng tôi ở năm 1590, phép thuật của tôi thay đổi. Những đợt tuôn trào bất chợt của lửa phù thủy, nước phù thủy và gió phù thủy mà tôi trải qua từ sau khi gặp Matthew nay biến mất. Thay vào đó, tôi thấy được những sợi thời gian tỏa sáng và tinh hoa phát tiết đầy sắc màu bao quanh các sinh vật sống. con hươu trắng chăm chú nhìn tôi từ bóng râm dưới tán sồi mỗi khi tôi dạo trong vườn. Vậy mà bây giờ tôi làm mọi vật khô héo.

      “Bà góa Beaton đợi đấy,” Walter nhắc chúng tôi, rồi dẫn theo Tom về phía cửa.

      “Chuyện gì xảy ra nếu bà ấy đọc được ý nghĩ của tôi?” Tôi lo lắng trong khi xuống cầu thang rộng bằng gỗ sồi trắng.

      “Tôi lo lắng hơn về điều có thể ra miệng cơ. Đừng làm gì để khuấy động ghen tỵ hay thù hận của bà ta,” Walter khuyên, theo phía sau nhóm Bè lũ Bóng đêm. “Nếu tất cả những điều khác đều thất bại hay giả dối. Matthew và tôi lúc nào cũng làm thế.”

      phù thủy thể dối phù thủy khác.”

      “Chuyện này kết thúc tốt đẹp đâu,” Kit lẩm bẩm vẻ u ám. “Tôi đánh cược đấy.”

      “Đủ rồi.” Matthew xoay ngoắt lại tóm lấy cổ áo Kit. Cặp chó tai cụp của đánh hơi rồi gầm gừ bên mắt cá chân Kit. Chúng ủng hộ Matthew – và chẳng con nào thích Kit cả.

      “Tất cả những gì tôi …” Kit bắt đầu, vặn vẹo người cố gắng thoát ra. Matthew, cho ta cơ hội nào, liền nâng ta lên ấn vào sát tường.

      “Điều chẳng có gì thú vị cả, và điều ám chỉ đủ ràng rồi.” Nắm tay Matthew siết chặt thêm.

      “Để cậu ta xuống.” Walter đặt bàn tay lên vai Marlowe còn tay kia lên vai Matthew. Chàng ma cà rồng phớt lờ Raleigh và nâng bạn mình cao lên thêm vài phân nữa. Trong bộ cánh màu đỏ-đen, Kit trông giống con chim kích động hiểu sao lại bị mắc bẫy trong những nếp gỗ ốp tường. Matthew giữ ta ở đó lúc nữa để tỏ thái độ ràng rồi mới thả chàng rơi xuống.

      nào, Diana. Mọi chuyện tốt đẹp cả thôi.” Matthew vẫn vẻ chắc chắn, nhưng điềm báo thúc nhói vào mấy ngón tay cái của tôi lại cảnh báo rằng Kit có thể đúng.

      “Ôi trời,” Walter lẩm bẩm tin khi chúng tôi tiến vào sảnh. “Đó có phải bà góa Beaton ?”

      Ở cuối phòng, đứng trong bóng tối, là phù thủy chuẩn khuôn mẫu: bé tẹo, lưng còng và nhiều tuổi. Khi chúng tôi tới gần hơn, những chi tiết về bộ váy đen sột soạt, mái tóc bạc trắng lòa xòa hay làn da nhăn nheo của bà ta bắt đầu nét hơn. con mắt của bà ta trắng dã do đục thủy tinh thể, con mắt kia màu nâu đỏ vằn tia máu. Tròng mắt bị đục thủy tinh kia xoay tròn trong hốc, như thể khả năng nhìn của nó được cải thiện nếu ở khung cảnh khác. Ngay khi nghĩ chuyện thể tệ hơn nữa, tôi thấy cái mụn cơm sống mũi của bà ta.

      Bà góa Beaton thoáng liếc về phía tôi rồi nhún gối chào vẻ miễn cưỡng. Cảm giác râm ran vừa đủ nhận thấy da thịt cho tôi biết bà ta quả phù thủy. hề báo trước, con mắt thứ ba vụt mở để tìm kiếm thêm thông tin. Tuy nhiên, giống hầu hết các sinh vật khác người khác, bà góa Beaton tỏa ra ánh sáng. Bà ta hoàn toàn xám xịt. nhụt chí khi thấy phù thủy gắng sức khó nhọc để trở nên vô hình. Có phải tôi cũng xanh xao, vàng vọt như thế trước khi chạm vào Ashmole 782 ? Con mắt thứ ba rũ xuống rồi đóng lại.

      “Cảm ơn vì đến gặp chúng ta, bà góa Beaton.” Giọng Matthew ngụ ý rằng bà ta nên vui vẻ, cho phép bà ấy vào nhà mình.

      “Ông chủ Roydon.” Tiếng bà phù thủy lạo xạo nghe như tiếng lá rơi bị cuốn lớp sỏi ngoài kia. Bà ta hướng con mắt còn tốt sang phía tôi.

      “Giúp bà góa Beaton tới chỗ ngồi , George.”

      Chapman tiến tới theo lệnh của Matthew, trong khi những người còn lại vẫn duy trì khoảng cách thận trọng. Bà phù thủy khẽ rên lên khi tứ chi bị mắc chứng thấp khớp được an tọa trong chiếc ghế bành. Matthew lịch đợi cho đến khi bà ta ngồi xuống rồi mới tiếp tục.

      “Chúng ta hãy thẳng vào cốt lõi vấn đề nhé. Người phụ nữ này” – ra dấu về phía tôi – “ở dưới bảo hộ của ta và gần đây gặp nhiều khó khăn.” Matthew đả động gì tới cuộc hôn nhân của chúng tôi.

      “Ngài được vây quanh bởi những người bạn có tầm ảnh hưởng cùng những người hầu trung thành, thưa ông chủ Roydon. người phụ nữ nghèo khổ có lẽ chẳng mấy hữu dụng đối với quý ông như ngài.” Bà góa Beaton cố che đậy ý chỉ trích trong lời bằng ngữ điệu tỏ vẻ nhã nhặn lịch nhưng thất bại, chồng tôi có khả năng nghe tuyệt hảo. Hai mắt nheo lại.

      “Đừng làm trò màu mè với ta,” cộc lốc. “Bà muốn ta là kẻ thù đâu, bà góa Beaton. Người phụ nữ này bộc lộ những dấu hiệu là phù thủy và cần giúp đỡ của bà.”

      phù thủy ư?” Bà góa Beaton tỏ vẻ hoài nghi lịch . “Mẹ bà ấy là phù thủy ư? Hay bố bà ấy là pháp sư?”

      “Cả hai đều chết khi ấy còn . Chúng ta chắc về các sức mạnh họ có,” Matthew thừa nhận, kể lại nửa theo đúng phong cách của ma cà rồng. ném túi tiền xu vào lòng bà ta. “Ta lấy làm biết ơn nếu bà có thể kiểm tra ấy.”

      “Tốt thôi.” Những ngón tay xương xẩu của bà góa Beaton vươn tới mặt tôi. Khi da thịt cả hai chạm vào nhau, cơn sóng năng lượng thể nhầm lẫn dâng lên tràn qua giữa chúng tôi. Bà lão nhảy dựng lên.

      “Thế nào?” Matthew hỏi.

      Hai bàn tay bà góa Beaton thả xuống lòng. Bà ta siết chặt lấy túi tiền và trong thoáng chốc như sắp ném trả cho . Nhưng rồi bà ta lấy lại được vẻ điềm tĩnh.

      “Đúng như tôi nghi ngờ. Người phụ nữ này phải phù thủy, thưa ông chủ Roydon.” Giọng bà ta đều đều, mặc dù có hơi cao hơn bình thường. khinh thường từ trong lòng dâng lên bờ môi tôi với vị đắng ngắt.

      “Nếu bà nghĩ thế, có nhiều quyền năng như mọi người ở Woodstock vẫn tưởng,” tôi phản ứng lại.

      Bà góa Beaton gượng dậy vẻ căm phẫn. “Tôi là người chữa bệnh đáng kính, với kiến thức hiểu biết về thảo dược để bảo vệ đàn ông và đàn bà khỏi đau ốm. Ông chủ Roydon biết khả năng của tôi.”

      “Đó là ngón nghề của phù thủy. Nhưng người của chúng ta cũng có các năng lực khác,” tôi thận trọng . Các ngón tay Matthew siết lấy tay tôi đến phát đau, thúc tôi im lặng.

      “Tôi biết năng lực nào như thế cả,” bà ta đáp nhanh. Bà lão này ngoan cố y như dì Sarah của tôi và cũng chia sẻ khinh thường dành cho các phù thủy giống tôi, những kẻ có thể gọi tới sức mạnh tự nhiên mà cần nghiên cứu cẩn thận truyền thống pháp thuật của phù thủy. Dì Sarah biết cách sử dụng mọi loại thảo dược hay thực vật và có thể nhớ hàng trăm loại bùa chú cách hoàn hảo, nhưng để được như thế cần phải nỗ lực nhiều hơn chỉ là phù thủy. Bà góa Beaton biết điều đó, cho dù bà ta thừa nhận nó.

      “Chắc chắn có cách nào đó để xác định mức quyền năng của người phụ nữ này ngoài tiếp xúc đơn giản. Ai đó có năng lực như bà chắc chắn phải biết được chúng là gì,” Matthew với giọng điệu nhạo báng cao độ lộ thách thức. Bà góa Beaton tỏ vẻ hoang mang, ước lượng cái túi trong tay mình. Cuối cùng sức nặng của nó thuyết phục bà ta khơi dậy cuộc tranh cãi. Bà ta luồn khoản thanh toán đó vào túi dưới lớp váy.

      “Có những bài kiểm tra để xác định xem liệu ai đó có phải phù thủy . số dựa việc học thuộc lòng bài kinh cầu. Nếu sinh vật vấp khi đọc, ngập ngừng dù chỉ trong thoáng chốc, đó là dấu hiệu cho thấy quỷ dữ ở gần,” bà ta tuyên bố, chuyển sang giọng điệu kỳ bí.

      “Quỷ dữ quanh quẩn ở Woodstock, bà Beaton,” Tom . Giọng ta nghe như vị phụ huynh giúp con mình tin rằng có con quái vật nào ở dưới gầm giường cả.

      “Quỷ dữ ở khắp mọi nơi, thưa ngài. Những người tin vào điều ngược lại thành con mồi cho những mưu ma chước quỷ dẫn dụ của chúng.”

      “Đấy là những câu chuyện bịa đặt của loài người làm ta sợ hãi, mê tín và đần độn,” Tom bác bỏ.

      phải lúc này, Tom,” Walter thầm.

      “Cũng còn các dấu hiệu khác nữa mà,” George , háo hức hơn bao giờ hết khi được chia sẻ hiểu biết của mình. “Quỷ dữ đánh dấu phù thủy như sở hữu riêng của nó bằng những vết sẹo và tật xấu.”

      “Quả là thế, thưa ngài,” bà góa Beaton đáp, “và những người đàn ông khôn ngoan biết cách tìm ra chúng.”

      Máu tôi như ồ ạt rút sạch khỏi đầu, để lại cơn choáng váng và xây xẩm mặt mày. Nếu ai có ý định làm thế thấy những dấu vết như vậy người tôi.

      “Hẳn phải có các phương pháp khác nữa,” Henry tỏ vẻ khó chịu.

      “Có, thưa đức ngài.” Con mắt trắng đục của bà góa Beaton quét qua căn phòng. Bà ta nhìn thẳng vào chiếc bàn có các dụng cụ khoa học và đống sách. “Cùng tôi đến chỗ kia.”

      Bà phù thủy trượt bàn tay vào cái lỗ váy, nơi vừa cất giấu những đồng tiền rồi rút ra chiếc chuông mòn vẹt bằng đồng thau, đặt nó lên bàn. “Xin vui lòng mang đến ngọn nến.”

      Henry nhanh nhẹn làm theo, còn những người đàn ông khác vây quanh, vẻ tò mò.

      “Vài người sức mạnh thực của phù thủy đến từ sinh vật ở giữa ranh giới của sống và cái chết, ánh sáng và bóng tối. Ở những ngã tư đường trong thế giới này, bà ta có thể phá hủy công trình của tạo hóa hay tháo gỡ các nút thắt làm mờ trật tự của vạn vật.” Bà góa Beaton lấy ra cuốn trong chồng sách rồi để thẳng hàng giữa cây nến giá đỡ nặng trịch bằng bạc và chiếc chuông đồng. Giọng bà chùng xuống. “Khi hàng xóm phát ra phù thủy trong quá khứ, họ ném bà ta khỏi nhà thờ bằng hồi chuông để ám chỉ rằng bà ta chết.” Bà góa Beaton giơ chiếc chuông lên và lắc cổ tay. Khi thả tay ra, chiếc chuông vẫn ngân nga, lơ lửng bàn. Tom và Kit ghé sát mép bàn, George thở gấp, còn Henry làm dấu thánh. Bà góa Beaton tỏ vẻ hài lòng trước phản ứng của họ rồi quay sang hướng chú ý tới bản dịch tiếng của tác giả kinh điển người Hy Lạp, Euclid’s Elements of Geometrie, nó nằm bàn cùng vài dụng cụ toán học trong bộ sưu tầm đồ sộ của Matthew.

      “Sau đó vị mục sư giơ lên cuốn sách thiêng – cuốn Kinh thánh – và đóng nó lại để thể rằng nữ phù thủy kia bị Chúa trời chối bỏ.” Cuốn Elements of Geometrie đóng sập lại. George và Tom nhảy dựng lên. Các thành viên của Bè lũ Bóng đêm lại là những người đàn ông dễ bị ảnh hưởng tới mức đáng kinh ngạc, mặc dù họ vốn tự cho rằng bản thân miễn nhiễm khỏi thói mê tín.

      “Cuối cùng người mục sư tắt ngọn nến để biểu thị rằng nữ phù thủy nọ có linh hồn.” Những ngón tay của bà ta vươn tới ngọn lửa, kẹp lấy cái bấc nến. Ánh sáng tắt ngấm, chùm khói xám mỏng manh vươn lên trong trung.

      Cánh đàn ông bị thôi miên. Ngay cả Matthew trông cũng bất ổn. thanh duy nhất trong căn phòng là tiếng lách tách của lò sưởi và tiếng chuông rung bé xíu liên hồi.

      phù thủy có thể thắp sáng lại ngọn nến, mở các trang sách này và làm cái chuông ngừng reo. ta là tạo vật tuyệt vời trong mắt Chúa.” Bà góa Beaton ngừng lại làm khí trở nên kịch tính, con mắt màu trắng đục đảo về phía tôi. “ có thể biểu diễn những việc này , ?”

      Ở thời đại, khi phù thủy đến mười ba tuổi, họ được trình diện trước hội đồng phù thủy địa phương trong buổi lễ gợi cho người ta nghĩ đến những bài kiểm tra của bà góa Beaton cách kỳ quái. Những chiếc chuông nơi bệ thờ của phù thủy reo vang chào đón các phù thủy trẻ đến với cộng đồng, dù chúng đều có hình dáng đặc trưng bằng bạc nặng nề, bóng loáng và được truyền từ đời này sang đời khác. Thay cho cuốn Kinh thánh hay quyển sách toán học, cuốn sách bùa chú của gia tộc các phù thủy trẻ được mang tới để tăng thêm sức nặng lịch sử cho dịp lễ này. Thời điểm duy nhất dì Sarah cho phép cuốn bí kíp của gia tộc Bishop ra khỏi nhà là vào dịp sinh nhật thứ mười ba của tôi. Còn về phần cây nến, vị trí và mục đích của nó cũng tương tự. Đó là lý do các phù thủy trẻ luyện tập thắp và tắt nến ngay từ khi còn bé.

      Lần ra mắt chính thức của tôi trước hội đồng phù thủy Madison là thảm họa, trước chứng kiến của tất cả họ hàng. Hai thập kỷ sau, tôi vẫn còn có cơn ác mộng kỳ lạ về ngọn nến chịu thắp sáng, cuốn sách từ chối mở ra và cái chuông rung lên cho mọi phù thủy khác nhưng lại rung lên vì tôi. “Tôi chắc,” tôi ngập ngừng thú nhận.

      “Thử ,” Matthew động viên, giọng đầy tự tin. “Em thắp sáng những ngọn nến mấy hôm trước mà.”

      Đó là . Tôi thực có thể thắp sáng những quả bí ngô xếp thành hàng dọc theo đường xe chạy ở ngôi nhà của gia đình Bishop vào dịp Halloween. Tuy nhiên, lúc đó chẳng có khán giả nào quan sát những cố gắng đầu tiên vụng về của tôi. Hôm nay, ánh mắt Kit và Tom thôi thúc với vẻ mong đợi. Tôi có thể cảm thấy ánh mắt của bà góa Beaton quét qua mình, nhưng hơn cả tôi vẫn ý thức được điềm tĩnh, quen thuộc nơi Matthew. Máu trong huyết quản tôi lạnh cóng phản ứng lại cái nhìn ấy, như thể từ chối phát ra ngọn lửa được cầu bằng pháp thuật phù thủy. Hy vọng điều tốt đẹp nhất, tôi tập trung vào cái bấc nến và lẩm bẩm đọc bùa chú.

      có gì xảy ra.

      “Thư giãn ,” Matthew thầm. “Thế còn cuốn sách sao? Em có nên bắt đầu từ đó ?”

      Gạt qua thực tế là trật tự hợp lý của mọi vật đóng vai trò quan trọng trong pháp thuật phù thủy, tôi biết bắt đầu từ đâu với cuốn Euclid’s Elements. Liệu tôi nên tập trung vào tầng khí bị mắc kẹt trong các trang giấy hay triệu hồi cơn gió để nâng cái bìa sách lên? thể suy nghĩ cách ràng cùng tiếng chuông kêu liên miên thế này được.

      “Bà có thể làm ơn dừng cái chuông lại ?” Tôi bật hỏi khi cơn bồn chồn dâng lên.

      Bà góa Beaton búng tay, cái chuông đồng liền rơi xuống bàn. Nó phát ra tiếng keng cuối cùng, phần mép méo mó rung lên, rồi rơi vào im lặng.

      “Như tôi với ngài, thưa ông chủ Roydon,” bà góa Beaton , khẩu khí đắc thắng. “Cho dù phép thuật mà ngài nghĩ mình chứng kiến là gì, nó chẳng là gì hơn ngoài những ảo giác. Người phụ nữ này có sức mạnh nào cả. Ngôi làng chẳng việc gì phải sợ hãi bà ấy.”

      “Có lẽ ta cố gắng bẫy , Matthew,” Kit leo vào. “Tôi bỏ qua cho ta đâu. Phụ nữ là những sinh vật hai mặt.”

      Các phù thủy khác cũng đưa ra cùng tuyên bố như bà góa Beaton, và cũng với vẻ thỏa mãn tương tự. Đột nhiên tôi cảm thấy mãnh liệt muốn chứng minh rằng bà ta sai và quét cái vẻ hiểu biết gương mặt Kit.

      “Tôi thể thắp sáng cây nến. Và ai có thể dạy tôi cách mở cuốn sách hay dừng chiếc chuông rung. Nhưng nếu tôi có sức mạnh, vậy các vị giải thích chuyện này thế nào?” tô trái cây được đặt gần đó có nhiều trái mộc qua mới hái từ vườn, tỏa ra màu hoàng kim trong ánh sáng ảm đạm. Tôi chọn lấy trái và để nó thăng bằng lòng bàn tay mở rộng, để mọi người đều có thể nhìn .

      Da trong lòng bàn tay râm ran nhoi nhói khi tôi tập trung vào quả mộc qua nằm gọn ở đó. Da thịt nơi này tựa hồ nhuyễn ra xuyên qua lớp vỏ cứng của trái mộc qua như thể quả này được làm ra từ kính. Hai mắt tôi mơ màng khép lại, trong khi con mắt phù thủy mở ra và bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhận thức trườn từ chính giữa trán, xuống cánh tay, rồi xuyên qua đầu ngón tay. Nó lan rộng như bộ rễ của cái cây, những sợi rễ của nó luồn vào trái mộc qua.

      Từng bước tôi nắm được bí mật ở trái mộc qua này. chú sâu nằm trong lõi của nó, nhai nhóp nhép theo đường xuyên qua phần thịt quả mềm. tập trung của tôi bị giữ lại bởi sức mạnh kẹt ở đó, cảm giác ấm áp râm ran qua đầu lưỡi mang hương vị của mặt trời. Làn da nơi hàng mi thầm dậy lên cảm giác thỏa mãn khi uống thứ ánh sáng mặt trời vô hình kia. Quá nhiều sức mạnh, tôi thầm nghĩ. sống. Cái chết. Khán giả của tôi mờ nhạt dần và trở nên vô nghĩa. Thứ duy nhất quan trọng lúc này là khả năng vô hạn dành cho hiểu biết nằm tay tôi.

      Mặt trời đáp lại lời mời lặng lẽ nào đó liền rời khỏi trái mộc qua, chu du tới những ngón tay. Theo bản năng tôi cố kháng cự ánh mặt trời tràn đến và giữ nó ở đúng nơi nó phải ở − bên trong quả chín này – nhưng trái mộc qua chuyển sang màu nâu, nhăn nheo và xẹp lại.

      Bà góa Beaton thở hắt ra, phá vỡ tập trung của tôi. Bị giật mình, tôi đánh rơi trái mộc qua méo mó xuống sàn nhà, đập vào sàn gỗ bóng loáng. Khi tôi ngước mắt lên, Henry lại làm dấu thánh, cơn sốc trong ánh mắt thất thần và động tác chậm chạp máy móc của ta. Còn Tom và Walter chăm chú nhìn vào mấy ngón tay tôi, nơi những sợi nắng mặt trời xíu cố gắng cách vô ích để hàn gắn kết nối bị phá vỡ với trái mộc qua. Matthew bao bọc lấy hai bàn tay phát ra tiếng xì xèo của tôi trong đôi tay , che khuất những dấu hiệu cho thấy sức mạnh vô kỷ luật của tôi. Hai tay tôi vẫn còn phát sáng lấp lánh, tôi cố gắng rút ra để làm cháy tay . lắc đầu, hai bàn tay vững vàng giữ chặt, đón lấy ánh mắt tôi như thể đủ mạnh để hấp thu bất cứ phép thuật nào có thể tác động đến . Sau thoáng chần chừ, hai bàn tay tôi thả lỏng trong tay .

      “Kết thúc rồi. có gì thêm nữa,” dứt khoát.

      “Em có thể nếm ánh mặt trời, Matthew.” Giọng tôi cao vút vẻ hoang mang. “Em có thể trông thấy thời gian, đợi ở các góc phòng.”

      “Người phụ nữ kia bỏ bùa wearh. Đây là công việc của ác quỷ,” bà góa Beaton rít lên. Bà ta thận trọng giật lùi ra xa, các ngón tay chĩa ra cố né tránh nguy hiểm.

      có ma quỷ nào ở Woodstock cả,” Tom dứt khoát nhắc lại.

      “Các người có những cuốn sách đầy con dấu kỳ lạ và những bùa phép ma thuật,” bà góa Beaton , ra hiệu về phía cuốn Euclid’s Elements. Tôi nghĩ, quả là rất hay khi bà ta nghe lỏm được Kit đọc lớn tác phẩm Doctor Faustus.

      “Đó là toán học, phải phép thuật,” Tom phản đối.

      “Cứ gọi nó như các người muốn, nhưng ta thấy . Các người cũng giống như bọn họ, gọi ta tới đây để lôi kéo vào những kế hoạch đen tối.”

      “Giống như ai kia?” Matthew lạnh lùng hỏi.

      “Các học giả đến từ trường đại học. Bọn họ đánh xe đưa hai phù thủy từ Duns Tew đến cùng với những câu hỏi. Họ muốn kiến thức nhưng lại kết tội những phụ nữ có kiến thức đó như bọn ta. Tuy hội đồng phù thủy bắt đầu hình thành ở Faringdon, nhưng các phù thủy phân tán khi họ thu hút chú ý của những kẻ như các người.” Có hội đồng phù thủy đồng nghĩa an toàn, được bảo vệ, có cộng đồng. có hội đồng, phù thủy rất dễ bị tấn công trước ghen ghét đố kỵ và sợ hãi của những người xung quanh.

      ai cố ép buộc bà ở Woodstock cả.” Tôi chỉ định xoa dịu, nhưng bước tiến tới lại làm bà ta thoái lui xa hơn nữa.

      “Có quỷ dữ trong ngôi nhà này. Mọi người trong làng đều biết điều đó. Ngày hôm qua, ông Danforth thuyết giáo hội đồng về mối nguy hiểm của việc để mặc cho ác quỷ cắm rễ.”

      “Tôi đơn độc, là phù thủy giống bà, có gia đình giúp đỡ,” tôi , cố gắng lôi kéo cảm thông của bà ta. “Hãy rủ lòng thương tôi trước khi có bất cứ ai khác phát ra tôi là ai.”

      “Ngươi giống ta, và ta muốn gặp rắc rối. ai thương hại ta khi dân làng dồn ta vào bước đường cùng. Ta có wearh bảo vệ cho mình, cũng có các đức ngài và những quý ông trong triều đứng ra bảo vệ cho danh dự của ta.”

      “Matthew – ông chủ Roydon – để bất cứ điều gì tổn hại đến bà.” Tôi giơ tay lên cam đoan.

      Bà ta hoài nghi. “Wearh thể tin tưởng được. Dân làng làm gì nếu họ khám phá ra Matthew Roydon thực là ai?”

      “Vấn đề này là chuyện giữa hai chúng ta thôi, bà Beaton,” tôi cảnh cáo.

      từ đâu tới, ? tin rằng phù thủy che chở cho phù thủy khác ư? Đây là thế giới nguy hiểm. ai trong chúng ta được an toàn.” Bà lão nhìn Matthew với vẻ căm thù. “Hàng ngàn phù thủy chết, mà bọn hèn nhát của Đại Hội Đồng chẳng làm gì. Tại sao thế, hả wearh?”

      “Thế là đủ rồi,” Matthew lạnh lùng . “Françoise, làm ơn chỉ cho bà Beaton lối ra.”

      “Ta rời khỏi đây, cách thoải mái.” Bà lão rướn thẳng người hết mức mà bộ xương gầy gò cho phép. “Nhưng hãy ghi nhớ lời ta, Matthew Roydon. Mọi sinh vật trong vòng ngày đường quanh đây nghi ngờ ngài là con quái vật bẩn thỉu uống máu người. Khi bọn họ phát ngài che chở cho phù thủy có quyền năng đen tối, Chúa ban phước cho những kẻ chống lại Người đâu.”

      “Vĩnh biệt, bà Beaton.” Matthew quay lưng về phía bà phù thủy, nhưng bà ta quyết tâm lời cuối cùng.

      “Hãy cẩn thận, người chị em,” bà góa Beaton vọng lại khi rời . “ quá chói sáng đối với thời đại này.”

      Mọi con mắt trong phòng đổ dồn vào tôi. Tôi nhấp nhổm, thoải mái vì bị chú ý.

      “Hãy giải thích cho mình .” Walter xẵng giọng.

      “Diana nợ lời giải thích nào cả,” Matthew bắn trả.

      Walter giơ bàn tay lên ra hiệu im lặng tạm đình chiến.

      “Chuyện gì xảy ra?” Matthew hỏi với giọng có vẻ cân nhắc hơn. ràng tôi nợ lời giải thích.

      “Chính xác như điều em dự đoán: Chúng ta làm bà góa Beaton sợ hãi. Bây giờ, bà ta làm mọi điều có thể để giữ khoảng cách với em.”

      “Bà ta đáng lẽ nên biết nghe lời. đối xử quá tốt với bà ta rồi,” Matthew lầm bầm.

      “Tại sao cho bà ta biết em là gì đối với ?” Tôi lặng lẽ hỏi.

      “Có lẽ cùng lý do em cho biết em có thể làm gì với trái cây hái trong vườn,” đáp trả, và nắm lấy khuỷu tay tôi. Matthew quay sang những người bạn của mình. “Tôi cần chuyện với vợ tôi. mình.” hướng tôi ra ngoài.

      “Vậy giờ em lại là vợ cơ đấy!” Tôi thốt lên, vặn khuỷu tay thoát khỏi .

      “Em lúc nào cũng là vợ . Nhưng phải người nào cũng cần biết chi tiết về đời sống riêng tư của chúng ta. Giờ , chuyện gì xảy ra ở đó hả?” hỏi, đứng giữa vườn cạnh cái cây được cắt tỉa hình khối gọn gàng.

      “Lúc trước đúng: Phép thuật của em thay đổi.” Tôi quay nhìn nơi khác. “Điều tương tự xảy ra lúc sớm nay với những bông hoa trong phòng ngủ. Khi em sắp xếp lại chúng, em nếm được vị đất và khí, những thứ nuôi lớn chúng. Những bông hoa đó héo úa khi em chạm vào. Em cố gắng bắt ánh mặt trời quay lại với trái mộc qua, nhưng nó tuân theo lệnh em.”

      “Thái độ của bà góa Beaton đáng lẽ phải làm giải phóng ra gió phù thủy bởi em cảm thấy bị đe dọa, hoặc lửa phù thủy vì em cảm thấy mình bị nguy hiểm. Có lẽ chuyến du hành thời gian gây tổn hại đến phép thuật của em,” Matthew nhíu mày gợi ý.

      Tôi cắn môi. “Đáng lẽ em nên mất bình tĩnh và cho bà ấy thấy em có thể làm gì.”

      “Bà ta biết em đầy quyền năng. Mùi vị sợ hãi của bà ta đầy ắp căn phòng.” Ánh mắt nặng trĩu. “Có lẽ còn quá sớm để em xuất trước mặt người lạ.”

      Nhưng giờ quá muộn rồi.

      Các thành viên của Bè lũ Bóng đêm xuất cạnh mấy ô cửa sổ, những khuôn mặt xanh tái ép sát vào cửa kính như những ngôi sao trong chòm sao tên.

      khí ẩm ướt làm hỏng váy áo của ấy mất, Matthew, mà đó là bộ duy nhất trông chỉnh tề vừa vặn với ấy,” George mắng, ló đầu ra khỏi cánh cửa sổ. Khuôn mặt tinh của Tom cũng ra bên vai George.

      “Tôi tự mình thưởng thức rồi!” Kit gào lên, mở tung cánh cửa sổ khác mạnh đến nỗi các tấm kính kêu lanh canh. “Mụ già xấu xí ấy là mụ phù thủy chính hiệu. Tôi cho bà góa Beaton vào trong những vở kịch của tôi. Các vị có bao giờ tưởng tượng nổi mụ có thể làm chuyện đó với cái chuông cũ kỹ ?”

      “Lịch sử trong quá khứ của đối với các phù thủy bị lãng quên đâu, Matthew,” Walter , đôi chân ta nghiến lạo xạo nền sỏi khi ta cùng Henry nhập hội với chúng tôi ngoài vườn. “Bà ta ra. Phụ nữ như bà góa Beaton luôn làm thế.”

      “Nếu bà ta ra điều chống lại , Matt, liệu có lý do để lo lắng ?” Henry nhàng hỏi.

      “Chúng tôi là những sinh vật khác người, Hal, trong thế giới của con người. Luôn luôn có lý do để lo lắng,” Matthew đáp cách dứt khoát.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      5.

      Bè lũ Bóng đêm có thể tranh luận triết lý, nhưng tất cả đều nhất trí rằng vẫn phải tìm phù thủy. Matthew phái George và Kit dò hỏi ở Oxford, cũng như để hỏi thăm về cuốn cổ thư giả kim thuật bí của chúng tôi.

      Sau bữa tối vào thứ Năm, chúng tôi ngồi quây quần quanh lò sưởi trong đại sảnh. Henry cùng Tom đọc sách và tranh luận về chiêm tinh học hoặc toán học. Walter và Kit chơi xúc xắc ở bàn dài, trao đổi những ý tưởng về các tác phẩm văn chương mới nhất của họ. Tôi đọc to cuốn sách của Walter là The Faerie Queenei để luyện trọng và chẳng thích nó hơn những tác phẩm lãng mạn thời Elizabeth.

      “Mở đầu quá đột ngột, Kit ạ. làm khán giả sợ chết khiếp, họ rời khỏi rạp trước khi màn hai bắt đầu mất,” Walter phản đối. “Nó cần nhiều phiêu lưu hơn.” Họ mổ xẻ Doctor Faustus hàng giờ đồng hồ rồi. Cảm ơn bà góa Beaton, vở kịch màn mở đầu mới.

      phải Faustus của tôi, Walt, vì tất cả cái vẻ giả vờ trí thức của ,” Kit rít lên. “Hãy xem can thiệp của làm gì câu chuyện của Edmund. The Faerie Queene là câu chuyện hoàn hảo thú vị về đức vua Arthur. Giờ nó là mớ hỗn độn thảm họa của Malory và Virgil, nó cứ thế cứ thế, và rồi Gloriana – làm ơn . Nữ hoàng gần già và quái gở bằng bà góa Beaton rồi. Tôi kinh ngạc nếu Edmund hoàn thành được nó, với những gì bảo ta làm. Nếu muốn lưu danh muôn thuở sân khấu, hãy chuyện với Will. luôn cạn kiệt ý tưởng đấy.”

      đồng ý chứ, Matthew?” George thúc giục. chàng gợi lại cho chúng tôi công việc tìm kiếm cuốn cổ thư mà ngày nào đó được biết đến với cái tên Ashmole 782.

      “Tôi xin lỗi, George. gì à?” Có thoáng tội lỗi lên trong đôi mắt xám thất thần của Matthew. Tôi biết các dấu hiệu khi bị phân tâm kiểu ấy. Tôi từng bị như vậy trong cuộc họp của khoa. Các ý nghĩ của có lẽ bị phân tán bởi những lời trò chuyện trong phòng, dòng hồi tưởng vẫn tiếp tục bị cuốn theo bà góa Beaton, nội dung của những túi thư vẫn tiếp tục được chuyển đến.

      người bán sách nào từng nghe đến tác phẩm về thuật giả kim quý hiếm lưu hành trong thành phố. Tôi hỏi người bạn ở nhà thờ Christ, ta cũng chẳng biết gì. Tôi tiếp tục dò hỏi nhé?”

      Matthew mở miệng định đáp lại, nhưng tiếng đổ vỡ vang lên ngoài hành lang khi cánh cửa trước nặng nề mở tung ra. đứng phắt dậy. Walter và Henry nhảy dựng lên, loạng quạng sờ vào những con dao găm, thứ họ luôn đeo bên người.

      “Matthew?” giọng xa lạ rất có sắc vang lên oang oang khiến lông tay tôi dựng đứng lên theo bản năng. Nghe trong trẻo như tiếng nhạc, chẳng giống tiếng của con người. “ có đây ?”

      “Dĩ nhiên, nó ở đây,” ai đó đáp lại, giọng du dương có điệu thổ ngữ Welsh. “Hãy dùng cái mũi của mình . Còn ai khác có cái mùi như gã bán tạp hóa vào ngày gia vị tươi sống được chuyển đến từ bến tàu nữa chứ?”

      Tích tắc sau hai dáng người vạm vỡ trong những chiếc áo choàng tay thô ráp màu nâu xuất ở đầu kia căn phòng, nơi Kit và George vẫn ngồi với con xúc xắc và những cuốn sách. Trong thời đại của tôi, các đội bóng chuyên nghiệp tuyển ngay những người mới tới này. Họ có cánh tay to quá khổ với đường gân nổi gồ lên, cổ tay to bè, hai chân đầy cơ bắp, bờ vai rắn chắc. Khi hai người đàn ông đó tới gần, ánh sáng từ các ngọn nến làm đôi mắt họ sáng long lanh và nhảy nhót đường mép thứ vũ khí sắc lẻm được mài giũa kỹ càng của họ. kẻ là gã khổng lồ tóc vàng cao hơn Matthew chừng hai phân; kẻ kia là gã tóc đỏ thấp hơn khoảng mười lăm phân, có bên mắt trái bị lác thấy . Cả hai quá ba mươi. Kẻ tóc vàng thư thái, nhõm, dù thở gấp. Còn tên tóc đỏ giận dữ và chẳng thèm quan tâm ai biết chuyện đó.

      “Chú của ta đây rồi. Chú mang đến cho chúng ta cuộc chiến, rồi biến mất mà lời,” ma cà rồng tóc vàng ôn tồn , vừa rút thanh kiếm sắc bén dài quá khổ ra khỏi vỏ.

      Walter và Henry cũng rút vũ khí. Họ nhận ra những người đàn ông này.

      “Gallowglass. Tại sao cháu lại ở đây?” Matthew hỏi chiến binh tóc vàng với giọng điệu bối rối dè chừng.

      “Dĩ nhiên là bọn cháu tìm chú. Hancock và tôi ở cùng chú hôm thứ Bảy mà.” Đôi mắt xanh lạnh lẽo của Gallowglass nheo lại khi nhận được câu trả lời. trông giống tên cướp biển đà chém giết. “Ở Chester.”

      “Chester?” Nét mặt Matthew chuyển sang vẻ kinh hoàng. “Chester!”

      “Phải. Chester,” Hancock đầu đỏ nhắc lại. gầm lên và lột phăng đôi găng tay da dài ướt sũng nước từ hai cánh tay, ném chúng xuống sàn nhà cạnh lò sưởi. “Khi đến hội họp với chúng tôi như kế hoạch vào ngày Chủ Nhật, bọn tôi tìm hiểu. Tên chủ quán trọ rằng bỏ , ngạc nhiên , thậm chí còn thèm giả tiền.”

      chú ngồi bên cạnh lò sưởi uống rượu vang phút trước, phút sau biến mất,” Gallowglass kể. “Đứa hầu – cái đứa xíu có mái tóc đen mà thể rời mắt khỏi chú ấy – gây nên vụ khuấy đảo. Ả khăng khăng chú bị những hồn ma mang .”

      Tôi nhắm mắt khi chợt hiểu ra. Chàng Matthew Roydon, người ở Chester thế kỷ mười sáu biến mất vì ta bị thay thế bởi chàng Matthew đến từ Oxfordshire đại. Khi nào chúng tôi khỏi, Matthew thế kỷ mười sáu, đoán chừng, mới xuất trở lại. Thời gian cho phép cả hai Matthew có mặt cùng nơi, trong cùng thời điểm. Chúng tôi làm thay đổi lịch sử ngoài dự định.

      “Đó là đêm Halloween, nên câu chuyện của ràng cũng có lý,” Hancock thừa nhận, chuyển chú ý sang chiếc áo choàng của mình. rũ nước ra khỏi các nếp gấp và quăng nó lên chiếc ghế bên cạnh, thả vào khí mùa đông mùi hương của cỏ xuân.

      “Những người này là ai, Matthew?” Tôi đến gần hơn để nhìn họ hơn. quay sang đặt tay lên tay tôi, giữ tôi ở yên chỗ của mình.

      “Họ là bạn,” Matthew , những nỗ lực của khiến tôi băn khoăn liệu có phải .

      “Á, à. ta phải ma.” Hancock ngó qua vai Matthew, da thịt tôi liền đông cứng lại.

      Dĩ nhiên Hancock và Gallowglass là ma cà rồng. Còn có sinh vật nào khác có thể to lớn và có cái nhìn đẫm máu như thế chứ?

      ta cũng phải đến từ Chester,” Gallowglass đăm chiêu . “ ta lúc nào cũng sáng le lói như thế à?”

      Lời này có thể lạ lùng, nhưng ý nghĩa của nó thực ràng. Tôi lại phát sáng. Chuyện đó thỉnh thoảng xảy đến khi tôi tức giận, hoặc tập trung vào vấn đề. Lại biểu quen thuộc khác của sức mạnh phù thủy, và ma cà rồng có thể phát thấy ánh sáng xanh nhợt đó bằng cặp mắt tinh tường siêu nhiên của họ. Cảm thấy lộ liễu, tôi bước lùi lại nấp sau bóng Matthew.

      “Thế chẳng giúp ích được gì đâu, tiểu thư. Tai chúng tôi cũng tinh tường như cặp mắt vậy. Dòng máu phù thủy của líu lo như chú chim ấy.” Cặp lông mày rậm rì màu đỏ của Hancock nhướng lên khi ta chua chát nhìn bạn đồng hành. “Rắc rối luôn cùng với phụ nữ.”

      “Rắc rối ngốc đâu. Nếu chọn, tôi thà đồng hành cùng với phụ nữ còn hơn là cậu.” Chiến binh tóc vàng hướng đến Matthew. “ ngày dài, mông của Hancock ê ẩm, và đói. Nếu chú nhanh với lý do phù thủy xuất trong nhà chú, cháu dám chắc là ta được tiếp tục an toàn đâu.”

      “Chuyện này chắc chắn liên quan đến Berwick,” Hancock tuyên bố. “Bọn phù thủy chết bầm. Luôn luôn gây ra rắc rối.”

      “Berwick?” Nhịp tim của tôi thót lên. Tôi nhận ra cái tên này. trong những phiên xét xử phù thủy tai tiếng nhất ở nước , Isles cũng bị liên quan. Tôi tìm kiếm trong bộ nhớ của mình ngày tháng diễn ra kiện ấy. Chắc chắn nó phải xảy ra trước hoặc sau năm 1590, nếu Matthew chọn thời điểm này để họ xuyên thời gian đến. Nhưng những lời tiếp theo của Hancock xua tất cả ý nghĩ về niên đại cùng lịch sử ra khỏi đầu tôi.

      “Chuyện đó, hay công vụ mới nào khác của Đại Hội Đồng mà Matthew muốn chúng ta dàn xếp cho.”

      “Đại Hội Đồng ư?” Mắt Marlowe nheo lại, ta nhìn Matthew vẻ đánh giá. “Chuyện này là ? Chẳng lẽ chính là trong những thành viên bí ?”

      “Dĩ nhiên rồi, đó là ! tưởng Matthew giữ cho khỏi cái thòng lọng bằng cách nào hả, nhóc Marlowe?” Hancock nhìn quanh khắp phòng. “ có thứ gì để uống ngoài rượu vang à? Tôi ghét cái trò màu mè kiểu Pháp của , de Clermont ạ. Món rượu này bị sao thế?”

      phải bây giờ, Davy,” Gallowglass cằn nhằn với bạn, dù ánh mắt gắn chặt vào Matthew.

      Hai mắt tôi cũng dán chặt vào , trong khi cảm giác kinh khủng về câu chuyện sáng tỏ bao trùm lấy tôi.

      “Hãy với em rằng phải ,” tôi thầm. “Hãy giấu em chuyện này.”

      thể với em điều đó được,” Matthew thẳng. “ hứa với em có những điều bí mật nhưng dối trá, nhớ ?”

      Tôi thấy như phát ốm. Ở năm 1590, Matthew là thành viên của Đại Hội Đồng, mà Đại Hội Đồng lại là kẻ thù của chúng tôi.

      “Còn Berwick sao? với em có nguy hiểm nào liên quan đến vụ săn lùng phù thủy.”

      có gì tại Berwick ảnh hưởng đến chúng ta ở đây cả,” Matthew cam đoan với tôi.

      “Chuyện gì xảy ra ở Berwick?” Walter hỏi, vẻ khó chịu.

      “Trước khi chúng ta rời Chester, tin tức lọt ra khỏi Scotland. nhóm đông các phù thủy tụ tập trong ngôi làng ở phía đông Edinburgh vào đêm Halloween,” Hancock . “Người ta lại nhắc đến cơn bão mà lũ phù thủy Đan Mạch gọi đến vào mùa hè vừa rồi, cả chuyện cột nước biển tiên đoán xuất của sinh vật có những quyền năng đáng sợ.”

      “Các nhà cầm quyền khoanh vùng hàng tá kẻ nghèo hèn khốn khổ,” Gallowglass tiếp tục, đôi mắt xanh lam băng giá của vẫn rời Matthew. “Mụ đàn bà khôn ranh ở thị trấn Keith, bà góa Sampson, đợi nhà vua thẩm vấn trong hầm ngục điện Holyrood. Ai biết được có bao nhiêu kẻ cùng nhập hội với mụ trước khi vụ việc này kết thúc?”

      “Cậu muốn là nhà vua tra tấn,” Hancock lầm bầm. “Chúng kể rằng mụ ta bị phong ấn trong sợi dây phù thủy để mụ tuyệt đối thể quyến rũ Bệ hạ, và bị xích vào tường mà cho ăn uống.” Tôi ngồi thụp xuống.

      “Vậy đây có phải là kẻ bị kết tội ?” Gallowglass hỏi Matthew. “Và tôi cũng thích giao kèo đôi bên đều có lợi của nàng phù thủy này, nếu tôi có thể: giữ bí mật, nhưng dối trá.”

      im lặng kéo dài trước khi Matthew trả lời. “Diana là vợ tôi, Gallowglass.”

      bỏ rơi chúng tôi ở Chester vì ả đàn bà à?” Hancock kinh hãi. “Nhưng chúng ta có việc phải làm đấy!”

      “Cậu có tài nắm bắt sai ý chính đấy, Davy.” Ánh nhìn của Gallowglass chuyển sang tôi. “Vợ của chú?” thận trọng hỏi. “Vậy đây chỉ là sắp xếp về mặt pháp luật để thỏa mãn tính hiếu kỳ của loài người, và hợp thức hóa diện của ả ở đây trong khi Đại Hội Đồng quyết định tương lai của ả hả?”

      chỉ là vợ của tôi,” Matthew thú nhận. “ ấy còn là người kết đôi cùng tôi nữa.” ma cà rồng kết đôi suốt đời khi bị buộc phải làm thế bởi kết hợp mang tính bản năng của tình cảm thương, cuốn hút hòa hợp, thèm khát nhục cảm và hấp dẫn nhau. Mối dây liên kết đó chỉ có thể bị phá vỡ bởi cái chết. Ma cà rồng có thể kết hôn vô số lần, nhưng chỉ kết đôi duy nhất lần.

      Gallowglass chửi rủa, nhưng thanh đó hầu như bị nhấn chìm bởi khoái trá của gã bạn.

      “Vậy mà Đức giáo hoàng tuyên bố thời đại của những phép màu qua,” Hancock gào lên. “Matthew de Clermont cuối cùng kết đôi. Nhưng phải với loài người an phận, tầm thường hay nàng wearh được giáo dục thích hợp, kẻ biết vị trí của mình phải làm gì. phải dành cho Matthew của chúng ta. Giờ khi cuối cùng chàng cũng quyết ổn định với phụ nữ, đó phải là phù thủy. Chúng ta có nhiều điều phải lo lắng hơn những người tốt bụng ở Woodstock này đấy.”

      “Có gì ổn với Woodstock à?” Tôi nhìn Matthew kèm theo cái nhíu mày.

      có gì,” Matthew đáp thoảng như gió. Nhưng gã ma cà rồng cao lớn tóc vàng lại làm tôi chú ý.

      mụ già phải gió nào đó ngất xỉu ở phiên chợ. Mụ ta đổ lỗi cho .” Gallowglass săm soi tôi từ đầu tới chân như thể cố hình dung làm sao kẻ quá thiếu hấp dẫn như thế này lại gây ra nhiều rắc rối đến vậy.

      “Bà góa Beaton,” tôi nín thở .

      xuất của Françoise cùng Charles ngăn cuộc chuyện xa hơn. Françoise có bánh gừng thơm phức và rượu vang nêm gia vị dành cho những kẻ máu nóng. Kit (người chẳng bao giờ thấy miễn cưỡng khi thử các thứ chứa trong hầm rượu của Matthew) và George ( tìm kiếm chút ít thanh bình sau những tiết lộ trong buổi tối nay) liền ra giúp họ. Cả hai đều có dáng vẻ của các khán giả chờ đợi màn biểu diễn kế tiếp.

      Charles, người có nhiệm vụ phục vụ ma cà rồng, mang đến cái bình tinh xảo với tay cầm bằng bạc và ba chiếc cốc vại bằng thủy tinh thành cao. Thứ chất lỏng ở bên trong sẫm và đục màu hơn bất cứ loại rượu nào. Hancock chặn Charles lại rồi hướng về phía mọi người trong nhà.

      “Tôi cần thức uống gì đó nặng hơn thứ Matthew vẫn dùng,” , tóm lấy chiếc cốc vại trong khi Charles thở hổn hển ngay trước mặt. Hancock đánh hơi thứ đựng trong chiếc bình và cũng lấy cốc. “Tôi có máu tươi ba ngày nay rồi. có khẩu vị kỳ quái với phụ nữ, de Clermont ạ, nhưng ai có thể chê trách lòng hiếu khách của cả.”

      Matthew ra hiệu Charles hướng về phía Gallowglass, kẻ cũng uống cách thèm khát. Khi Gallowglass uống đến lớp cặn cuối cùng, đưa tay quệt ngang miệng.

      “Sao hả?” hỏi. “Cháu biết chú giỏi lắm, nhưng phải có lời giải thích nào đó cho việc tại sao chú để bản thân vướng vào chuyện này.”

      “Chuyện này nên thảo luận riêng,” Walter , đưa mắt nhìn George cùng hai tinh kia.

      “Tại sao thế, Raleigh?” Giọng Hancock nhuốm màu gây hấn. “De Clermont có rất nhiều điều cần trả lời. Cả phù thủy của ta cũng thế. Và những câu trả lời đó tốt nhất là từ miệng ta. Chúng tôi ngang qua linh mục đường. cùng hai quý ông, bọn có mấy cái vòng eo thịnh vượng ấy. Căn cứ theo những gì tôi nghe được bạn kết đôi của de Clermont có ba ngày…”

      “Ít nhất là năm,” Gallowglass chỉnh lại.

      “Có lẽ là năm,” Hancock , hất đầu về phía gã bạn đồng hành, “trước khi ta bị đưa xét xử, hai ngày để nghĩ ra xem phải gì với các vị quan tòa, và đến nửa giờ để quyết định lời dối thuyết phục dành cho vị cha xứ kia. Tốt nhất là cậu nên kể ngay cho chúng tôi .”

      Mọi chú ý đều đổ dồn vào Matthew, vẫn đứng im lặng.

      “Đồng hồ điểm mười lăm phút nhanh thôi,” Hancock nhắc sau khoảng thời gian trôi qua.

      Tôi chủ động . “Matthew bảo vệ tôi khỏi những người của mình.”

      “Diana,” Matthew gầm lên.

      “Matthew can thiệp vào chuyện nội bộ của phù thủy ư?” Mắt Gallowglass mở lớn.

      Tôi gật đầu. “Khi nguy hiểm qua, chúng tôi kết đôi.”

      “Và tất cả chuyện này xảy ra từ chiều đến lúc sẩm tối ngày thứ Bảy à?” Gallowglass lắc lắc đầu. “ phải làm tốt hơn thế, bà ạ.”

      “Bà ư?” Tôi quay sang Matthew trong cơn choáng váng. Đầu tiên là Berwick, rồi đến Đại Hội Đồng, và giờ là chuyện này. “Cá...i gã điên khùng này là cháu trai à? Để em đoán nhé. Cậu ta là con trai của Baldwin!” Gallowglass cơ bắp gần bằng người trai có mái tóc màu đồng của Matthew – và cũng cố chấp y như vậy. Những em nhà de Clermont khác mà tôi biết là: Godfrey, Lousia, và Hugh (người này chỉ được nhắc đến ngắn gọn và bí hiểm). Gallowglass có thể là con của bất cứ ai trong số họ − hoặc của ai đó khác trong cây gia phả loằng ngoằng của Matthew.

      “Baldwin ư?” Gallowglass giả vờ rùng mình cách cường điệu. “Thậm chí trước khi tôi trở thành wearh, tôi biết được để con quái vật đó đến gần cổ của mình. Hugh de Clermont là cha tôi. Để cung cấp thông tin cho , dân tộc của tôi là người Úlfhéðnar, phải là gã điên khùng. Và tôi chỉ có phần người Norse – phần tao nhã, thanh lịch, nếu cần biết. Phần còn lại là gốc Scot, có liên hệ với người Ireland.”

      “Bọn dân Scot là lũ bẩn tính,” Hancock bổ sung.

      Gallowglass thừa nhận lời nhận xét của gã bạn đồng hành bằng cú giật nơi vành tai. Chiếc nhẫn vàng lấp lánh dưới ánh sáng, đó có khắc đường nét của chiếc quan tài. người đàn ông giẫm lên đó, còn có khẩu hiệu ở quanh viền nữa.

      “Các người là hiệp sĩ.” Tôi tìm kiếm chiếc nhẫn tương xứng ngón tay Hancock. Nó ở đó, ở vị trí kỳ quặc ngón cái của ta. Cuối cùng đây là bằng chứng ràng cho thấy Matthew cũng có dính líu vào công vụ của hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus.

      “À à,” Gallowglass lè nhè , đột ngột nghe giống như khi thừa nhận mình là người Scot, “luôn có tranh cãi về chuyện đó. Chúng tôi phải kiểu hiệp sĩ mặc áo giáp sáng loáng, đúng Davy?”

      “Đúng thế. Nhưng những người nhà de Clermont có ví tiền dày lắm. Tiền như thế rất khó mà từ chối được,” Hancock nhận xét, “đặc biệt khi họ hứa hẹn cho cuộc sống dài lâu để hưởng thụ nó.”

      “Họ cũng là những chiến binh dữ dằn nữa.” Gallowglass lại vuốt sống mũi. Nó bị san phẳng, có vẻ bị đập gãy và bao giờ lành lặn hoàn toàn được.

      “Ồ, phải. Những tên con hoang đó giết tôi trước khi cứu tôi. Chúng còn chữa con mắt bị hỏng của tôi nữa,” Hancock vui vẻ , tay chỉ vào mí mắt bị lệch.

      “Vậy cậu trung thành với người nhà de Clermont.” nhõm bất chợt quét qua. Tôi thích có Gallowglass và Hancock là những đồng minh hơn là kẻ thù, căn cứ vào tai họa nảy mầm này.

      phải luôn luôn,” Gallowglass u ám đáp.

      phải với Baldwin. là tên chó chết quỷ quyệt. Và khi Matthew cư xử như thằng ngốc, chúng tôi chú ý đến cậu ta nữa.” Hancock khịt mũi, chỉ vào cái bánh gừng, bị lãng quên nằm bàn. “Có ai ăn cái đó , nếu chúng tôi có thể ném nó vào lò sưởi? Mùi của Matthew quện với mùi đồ ăn Charles nấu khiến tôi phát ốm.”

      “Vì những vị khách đến, chúng ta nên dành thời gian để quyết định phương thức hành động hơn là chuyện lịch sử gia đình,” Walter nôn nóng lên tiếng.

      “Chúa ơi, có thời gian để nghĩ ra kế hoạch đâu,” Hancock hồ hởi . “Thay vào đó, Matthew và các quý ngài nên cầu nguyện thôi. Bọn họ là người của Chúa. Có lẽ Người lắng nghe đấy.”

      “Có lẽ phù thủy này có thể bay khỏi đây,” Gallowglass lầm bầm. Gã giơ cả hai tay lên trong tư thế im lặng đầu hàng khi bị Matthew trừng mắt nhìn.

      “Ồ, nhưng ta thể.” Tất cả các cặp mắt đều quay sang Marlowe. “ ta thậm chí thể làm cho Matthew bộ râu.”

      “Chú lại với phù thủy, chống lại tất cả lên án nghiêm khắc của Đại Hội Đồng, mà ta lại vô giá trị à?” thể biết Gallowglass tỏ ra căm phẫn hay nghi ngờ nhiều hơn. “ người vợ có thể gọi bão hoặc khiến cho kẻ thù của chú chịu trận đau đớn khủng khiếp da thịt chắc chắn là lợi thế rồi, cháu chúc mừng chú. Nhưng còn phù thủy thậm chí thể phục vụ chồng ta sửa bộ râu có gì tốt?”

      “Chỉ có Matthew mới cưới phù thủy từ cái nơi Chúa mới biết được mà lại có phép phù thủy,” Hancock cằn nhằn với Walter.

      “Tất cả các người im ngay!” Matthew thể kìm nén hơn được nữa. “Ta thể suy nghĩ những câu chuyện vớ vẩn vô nghĩa thế này. Diana chẳng có lỗi gì trong việc bà góa Beaton là mụ già ngu ngốc thích xen ngang vào chuyện của người khác, hay việc ấy thể thi triển pháp thuật khi bị ra lệnh. Vợ tôi bị yểm bùa thôi miên. Và kết thúc chuyện này ở đây. Nếu còn ai trong căn phòng này chất vấn tôi hay phê phán Diana, tôi móc tim người đó ra cho ăn trong khi nó vẫn còn đập đấy.”

      “Đây chính là chúa tể và ông chủ của chúng ta,” Hancock với tư thế kính chào nhạo báng. “Trong phút tôi e sợ là kẻ bị bỏ bùa mê. Dù thế, gượm . Nếu ta bị yểm bùa thôi miên, có chuyện gì ổn với ta sao? ta có nguy hiểm ? Bị điên ư? Hay cả hai?”

      Phát bực vì lũ cháu trai, những vị cha xứ bị kích động, và rắc rối phát sinh ở Woodstock, tôi lùi lại phía sau để ngồi xuống ghế. Vì quen với váy áo gò bó, tôi mất thăng bằng và suýt ngã.

      bàn tay mạnh mẽ vụt đưa ra, tóm lấy khuỷu tay tôi, rồi đỡ tôi ngồi xuống ghế với vẻ lịch thiệp đáng kinh ngạc.

      “Ổn cả rồi, ạ.” Gallowglass thốt ra tiếng cảm thông nhàng. “Cháu chắc đầu óc có hỏng hóc gì, nhưng Matthew chăm sóc cho . Chú ấy có trái tim ấm áp với các linh hồn lầm lạc, Chúa ban phước cho chú ấy.”

      “Tôi thấy chóng mặt, chứ bị loạn trí,” tôi vặn lại.

      Ánh mắt Gallowglass tóe lửa trong khi đưa miệng kề sát tai tôi. “Những lời lẽ của đủ lộn xộn để mọi người nghĩ bị loạn trí, và tôi chắc vị linh mục nghĩ theo cách nào. Hơn nữa cũng đến từ Chester hay bất cứ nơi nào tôi từng qua – mà tôi rất nhiều đấy, bà ạ. nên lưu tâm đến hành vi cử chỉ của mình nếu muốn bị nhốt trong hầm mộ nhà thờ.”

      Những ngón tay dài tóm chặt bờ vai Gallowglass kéo ra. “Nếu cậu hoàn thành việc dọa nạt vợ tôi – bài tập vô ích, tôi cam đoan với cậu đấy – cậu có thể với tôi về những người đàn ông mà cậu nhìn thấy,” Matthew lãnh đạm . “Bọn họ có được trang bị vũ khí ?”

      .” Sau lúc nhìn tôi với vẻ thích thú, Gallowglass quay sang ông chú của mình.

      “Và ai cùng với ngài bộ trưởng?”

      “Làm thế quái nào bọn cháu biết được, Matthew? Cả ba đều là sinh vật máu nóng và đáng để ý đến lần thứ hai. tên béo, tóc hoa râm, tên kia tầm vóc trung bình và phàn nàn dứt về thời tiết,” Gallowglass sốt sắng.

      “Bidwell,” Matthew và Walter cùng thốt lên.

      “Có lẽ Iffley cùng ông ta,” Walter nhận định. “Hai người bọn họ lúc nào cũng ca thán về tình trạng đường xá, tiếng ồn trong nhà trọ, chất lượng bia.”

      “Bọn họ là ai?” Tôi lên tiếng thắc mắc.

      người đàn ông tưởng mình là người làm găng tay tốt nhất nước . Somers làm việc cho ta,” Walter đáp.

      “Ông chủ Iffley đúng là làm găng tay thủ công cho nữ hoàng,” George công nhận.

      ta làm cho nữ hoàng duy nhất đôi găng dài để săn từ hai thập kỷ trước. Điều đó cũng đủ khiến Iffley trở thành người đàn ông quan trọng nhất trong vòng ba mươi dặm quanh đây, luôn tha thiết thèm muốn vinh dự đó.” Matthew cười khẩy vẻ khinh bỉ.

      kẻ nào trong bọn chúng thông minh cả. lũ ngu xuẩn. Nếu đó là điều tốt nhất dân làng này có thể làm, chúng ta có thể quay lại với việc đọc sách của mình rồi.”

      “Thế sao?” Giọng Walter gay gắt. “Chúng ta ngồi đây và để chúng tìm đến sao?”

      “Phải. Nhưng Diana được rời khỏi tầm mắt của tôi – hay của cậu, Gallowglass,” Matthew cảnh cáo.

      “Chú cần phải nhắc nhở cháu về bổn phận gia đình, ông chú ạ. Cháu cam đoan người vợ nóng nảy của chú làm việc đó chiếc giường của chú đêm nay.”

      “Nóng nảy, tôi ư? Chồng tôi là thành viên của Đại Hội Đồng. nhóm đàn ông có vũ trang cưỡi ngựa đến đây để buộc tội tôi làm hại bà già độc. Tôi ở nơi xa lạ và vẫn bị lạc đường khi trở về phòng ngủ của mình. Tôi còn chưa có giày để sống trong ký túc xá toàn các thanh niên với cái miệng ngừng!” Tôi nổi đóa. “Nhưng cậu cần bận tâm đến chuyện của tôi. Tôi tự lo cho mình được!”

      “Tự lo cho mình ư?” Gallowglass vừa lắc đầu vừa cười nhạo. “, thể. Và khi nào trận chiến này kết thúc, chúng ta cần xem xét lại cái kiểu nhấn trọng đó. Tôi hiểu được đến nửa những gì .”

      ta hẳn phải là người Ireland,” Hancock lên tiếng, trừng mắt nhìn tôi. “Điều đó giải thích cho cái trò mê hoặc và cách năng lộn xộn này. Hầu hết bọn chúng đều bị điên.”

      ta phải người Ireland,” Gallowglass . “Dù bọn chúng có điên hay , tôi vẫn hiểu bọn chúng gì.”

      “Thôi ngay!” Matthew gầm lên.

      “Những người đàn ông trong làng đứng ở cổng,” Pierre thông báo khi tất cả vẫn chìm trong im lặng.

      “Hãy ra đón họ ,” Matthew ra lệnh. quay sang tôi. “Hãy để chuyện. Đừng trả lời các câu hỏi của họ trừ phi bảo. Giờ ,” nhanh, “chúng ta thể để bất cứ điều gì… bất thường xảy ra như khi bà góa Beaton ở đây. Em vẫn còn chóng mặt à? Em có cần nằm nghỉ ?”

      “Tò mò. Em tò mò,” tôi , hai bàn tay siết chặt. “Đừng lo lắng về phép thuật hay sức khỏe của em. Hãy nghĩ xem phải mất bao lâu để trả lời các câu hỏi của em sau khi ông bộ trưởng khỏi. Và nếu cố duỗi ra bằng cách viện cớ rằng ‘đó phải câu chuyện của , nên thể kể’, em san phẳng đấy.”

      “Vậy là em hoàn toàn khỏe rồi.” Khóe miệng Matthew cong lên. đặt nụ hôn lên trán tôi. “ em, ma lionne.”

      “Chú có thể để dành những lời đương sướt mướt sau được và cho bà của cháu cơ hội để chấn tĩnh ,” Gallowglass gợi ý.

      “Tại sao mọi người thích chỉ bảo tôi phải làm gì với vợ mình thế nhỉ?” Matthew đáp trả. Những vết rạn nứt trong cái vẻ điềm tĩnh của bắt đầu xuất .

      “Cháu thể ,” Gallowglass bình thản . “ ấy khiến cháu nhớ đến bà nội. Chúng ta cũng khuyên ông Philippe về cách tốt nhất để kiềm chế bà. Nhưng ông chẳng nghe.”

      Cánh đàn ông tự sắp xếp chỗ của mình quanh phòng. Vẻ bề ngoài ngẫu nhiên trong vị trí của bọn họ tạo thành cái phễu người – rộng hơn ở lối vào phòng, rồi hẹp dần về phía cạnh lò sưởi nơi Matthew và tôi ngồi. Trong khi George và Kit là những người đầu tiên chào đón người đại diện cho Chúa cùng bạn đồng hành của ông ta, Walter giấu vội con xúc xắc và cuốn Doctor Faustus trong bản in cuốn Herodotus’s Histories được thích. Mặc dù phải cuốn Kinh thánh, nhưng Raleigh cam đoan với chúng tôi nó có vẻ trang trọng cần thiết trong tình huống này. Kit vẫn còn phản đối bất công trong việc thay đổi này tiếng bước chân và những giọng vang lên.

      Pierre dẫn ba người đàn ông vào phòng. người trông cực kỳ giống chàng trai trẻ mảnh khảnh đo giày cho tôi nên có thể biết ngay đây chính là Joseph Bidwell. Ông ta giật mình trước tiếng cửa đóng rầm sau lưng nên ngoái lại nhìn cách thoải mái. Khi đôi mắt lờ đờ của ông ta hướng tới phía trước và thấy nhóm rất đông người đợi mình, ông ta lại nhảy dựng lên lần nữa. Walter, nhân vật chiếm vị trí chiến lược ở ngay giữa căn phòng cùng Hancock và Henry, phớt lờ tay thợ làm giầy lo lắng và ném cái nhìn khinh bỉ về phía gã đàn ông trong bộ đồ theo đạo vấy bùn.

      “Điều gì mang các vị đến đây trong đêm tối thế này, ông Danforth?” Raleigh lên tiếng hỏi.

      “Ngài Walter,” Danforth đáp lời, cúi chào và nhấc chiếc mũ ra khỏi đầu rồi vần vò nó giữa những ngón tay. Ông ta nhận ra ngài Bá tước Northumberland.

      “Thưa đức ngài! Tôi biết ngài vẫn còn ở trong vùng.”

      “Ông có chuyện gì cần sao?” Matthew vui vẻ hỏi. vẫn ngồi, hai chân duỗi dài vẻ thư thái.

      “A, ông chủ Roydon.” Danforth lại cúi chào, lần này hướng về phía chúng tôi. Ông ta nhìn tôi vẻ tò mò rồi sợ hãi thu lại ánh mắt để hướng nó về với chiếc mũ tay. “Chúng tôi thấy ngài ở nhà thờ hay vào thị trấn. Bidwell nghĩ ngài có thể bị khó ở.”

      Bidwell nhấp nhổm đổi chân. Đôi ủng da của ông ta kêu lép nhép, hai lá phổi cũng gia nhập vào dàn hợp xướng với những tiếng thở khò khè và tiếng ho khan. Chiếc cổ áo xếp nếp rủ xuống siết chặt khí quản, và rung lên mỗi khi ông ta cố gắng hít hơi vào. Chất vải lanh xếp li đó hiển nhiên là chất liệu may mặc tồi hơn cả, vùng màu nâu nhờn mỡ gần cằm cho thấy ông ta vừa ăn nước xốt thịt vào bữa tối.

      “Phải, ta bị ốm ở Chester, nhưng qua khỏi, nhờ ơn Chúa và chăm sóc tận tình của vợ ta.” Matthew với sang nắm lấy tay tôi cùng dáng vẻ sủng ái của đức ông chồng. “Bác sĩ nghĩ xén tóc ta loại bỏ được cơn sốt, nhưng Diana kiên quyết rằng tắm nước mát giúp ta khá lên.”

      “Vợ ư?” Danforth yếu ớt hỏi. “Bà góa Beaton với tôi…”

      “Ta chia sẻ chuyện riêng tư của mình với những phụ nữ dốt nát,” Matthew lạnh lùng tiếp lời.

      Bidwell hắt hơi. Đầu tiên Matthew soi xét ông ta với vẻ quan tâm, sau đó với ánh mắt thấu hiểu cẩn trọng. Tôi biết thêm được rất nhiều điều về chồng mình trong buổi tối hôm nay, bao gồm thực tế ấy có thể là diễn viên giỏi đáng kinh ngạc.

      “Ồ. Nhưng dĩ nhiên các vị đến đây để cầu Diana chữa khỏi bệnh cho Bidwell.” Matthew thốt lên vẻ tiếc nuối. “ có quá nhiều lời ngồi lê đôi mách của những kẻ ăn ngồi rồi. Có phải tin tức về khả năng của vợ ta mới đây lan rộng ?”

      Trong thời kỳ này, kiến thức về y học hoàn toàn gói gọn trong hiểu biết của phù thủy. Lẽ nào Matthew cố làm cho tôi gặp rắc rối ư?

      Bidwell muốn đáp lời, nhưng tất cả những gì ông ta có thể làm được là tiếng lí nhí kèm lắc đầu.

      “Nếu ông đến đây vì chuyện chữa bệnh, vậy chắc hẳn ông đến để giao giày của Diana.” Matthew nhìn tôi trìu mến, rồi hướng sang vị cha xứ. “ nghi ngờ gì nữa như ông nghe đấy, hành lý của vợ ta bị mất trong chuyến , ông Danforth.” chú ý của Matthew lại chuyển về phía người thợ đóng giày, và thoáng chỉ trích len lỏi vào giọng . “Ta biết ông là người bận rộn, Bidwell, nhưng ta hy vọng ít nhất ông làm xong đôi giày mẫu. Diana quyết tâm đến nhà thờ trong tuần này, mà con đường mòn tới phòng lễ thường xuyên lầy lội. Ai đó nên để mắt đến nó.”

      Lồng ngực Iffley căng cứng phẫn nộ từ khi Matthew bắt đầu . Cuối cùng thể đứng yên được nữa.

      “Bidwell mang giày ngài đặt đến, nhưng chúng tôi có mặt ở đây để phục vụ vợ ngài hay mấy chuyện vặt vãnh về giày dép và các vũng lầy!” Iffley kéo áo choàng vòng qua hông ra vẻ quý phái đường bệ, nhưng chất len ngấm nước chỉ càng khiến cho bộ dạng ông ta giống con chuột lột, với cái mũi nhọn, đôi mắt tròn sáng. “Hãy cho bà ta biết , ông Danforth.”

      Vị giám mục Danforth đáng kính trông như thể thà bị quay chín trong hỏa ngục còn hơn phải đứng đây, tại nhà của Matthew Roydon, đối mặt với vợ ông ta.

      “Nhanh lên. với bà ta ,” Iffley hối thúc.

      có những bằng chứng được đưa ra…” Danfort mới được đến đây Walter, Henry và Hancock sáp lại.

      “Nếu ngài ở đây để về các bằng chứng, thưa ngài, ngài có thể trực tiếp với tôi hoặc đức ngài đây,” Walter lạnh lùng .

      “Hoặc với tôi,” George to. “Tôi hiểu rất nhiều về luật.”

      “À… Ờ… Vâng… thế …” Vị mục sư lí nhí dần rồi im lặng.

      “Bà góa Beaton đổ bệnh. Cả cậu Bidwell trẻ cũng thế,” Iffley , quyết tâm dấn tới bất chấp lo lắng thảm bại của Danforth.

      nghi ngờ gì nữa, đó cũng là cơn sốt rét hành hạ ta và giờ là người cha của chàng trai ấy,” chồng tôi nhàng . Các ngón tay siết chặt lấy tay tôi. Phía sau, Gallowglass khẽ chửi thề. “Chính xác vì lẽ gì mà các người kết tội vợ ta, Iffley?”

      “Bà góa Beaton từ chối tham dự vào công việc ma quỷ nào đó. Bà Roydon nguyền rủa làm bà ta nhức khớp và đau đầu.”

      “Con trai tôi mất thính giác,” Bidwell ca thán, giọng ông ta đầy đau khổ và lạnh lùng. “Hai tai nó ù đặc như có tiếng chuông rung. Bà góa Beaton bị trù ếm.”

      ,” tôi thầm. Máu đột nhiên rút khỏi đầu khiến tôi giật mình ngã xuống. Hai bàn tay của Gallowglass đặt lên vai tôi ngay lập tức, giữ cho tôi ngồi thẳng được.

      Từ “trù ếm” khiến tôi nhìn đăm đăm vào vực thẳm quen thuộc. Nỗi sợ hãi lớn nhất luôn là lúc con người phát được tôi là hậu duệ của Bridget Bishop. Rồi bắt đầu có những ánh mắt tò mò và cả nghi ngờ. đáp trả duy nhất có khả năng biến mất. Tôi cố rút các ngón tay ra khỏi cái nắm siết của Matthew, nhưng vẫn kiên định như hòn đá, lay chuyển nổi, còn Gallowglass vẫn giữ hai vai tôi.

      “Bà góa Beaton từ lâu vẫn chịu đựng căn bệnh thấp khớp, còn con trai của Bidwell bị chứng bạch hầu theo chu kỳ. Những bệnh đó thường dẫn tới đau đớn và bị điếc. Chuyện đau ốm này xảy ra trước khi vợ tôi tới Woodstock.” Matthew phẩy bàn tay còn lại bác bỏ vẻ lười nhác. “Bà lão ghen tỵ với tài khéo léo của Diana, còn chàng Joseph trẻ bị mất hồn vì sắc đẹp của ấy và ghen tỵ với đời sống hôn nhân của tôi. Đây phải chứng cứ, mà là những trò tưởng tượng vô công rồi nghề.”

      “Là người con của Chúa, ông chủ Roydon, tôi có trách nhiệm coi chúng là nghiêm trọng. Tôi vẫn đọc đây.” Ông Danforth cho tay vào cái áo choàng đen người lôi ra thếp giấy rách nát. Tập giấy đến mười hai tờ được khâu với nhau sơ sài bằng sợi dây thô bản. Thời gian và việc sử dụng nhiều làm mềm các thớ giấy, sờn mép và khiến các trang ngả màu xám. Tôi ở xa quá nhìn được tiêu đề của nó. Dù vậy, cả ba ma cà rồng và George đều thấy, mặt họ trắng bệch.

      “Đó là phần của Malleus Maleficarum. Ta biết rằng tiếng Latin của ông đủ giỏi để đọc được tác phẩm khó đến thế, ông Danforth,” Matthew . Đó là bản chỉ thị săn lùng phù thủy có tầm ảnh hướng nhất từng được soạn ra, và cái tiêu đề giáng đòn kinh hoàng vào trái tim phù thủy.

      Vị cha xứ tỏ vẻ bị sỉ nhục. “Tôi vào đại học, ông chủ Roydon ạ.”

      “Tôi nhõm khi nghe điều đó. Cuốn sách ấy nên nằm trong tay của những kẻ mê tín hay đần độn.”

      “Ngài biết nó ư?” Danforth hỏi.

      “Tôi cũng vào đại học mà,” Matthew hòa nhã đáp.

      “Vậy ngài hiểu lý do tôi phải thẩm vấn người phụ nữ này.” Danforth cố tiến sâu vào trong phòng. Tiếng gầm gừ trầm thấp của Hancock khiến ông ta đứng khựng lại.

      “Vợ tôi gặp khó khăn nào với vấn đề thính giác cả. Ông cần tới gần hơn đâu.”

      “Tôi bảo ông là bà Roydon có những sức mạnh siêu nhiên mà!” Iffley vẻ đắc thắng.

      Danforth siết chặt cuốn sách của mình. “Ai dạy bà những thứ này, bà Roydon?” ông ta kêu to, tiếng vọng vang khắp sảnh. “Bà học pháp thuật phù thủy từ ai?”

      Đây chính là cách điên rồ này bắt đầu: với những câu hỏi được thiết kế hòng đặt bẫy người bị buộc tội lên án các sinh vật khác người khác. có thời, các phù thủy bị bủa giăng trong mạng lưới những lời dối trá và hủy diệt. Hàng ngàn người đồng đạo của tôi bị tra tấn và giết hại nhờ những xảo thuật này. phủ nhận lẩm bẩm dâng lên trong cổ họng tôi.

      “Đừng.” từ cảnh cáo duy nhất của Matthew được thốt ra bằng tiếng thầm lạnh băng.

      “Những chuyện lạ lùng xảy ra ở Woodstock. con hươu đực trắng băng qua đường của bà góa Beaton,” Danforth tiếp tục. “Nó dừng lại đường lớn và nhìn chằm chằm cho tới khi da thịt bà ấy lạnh toát. Đêm qua, có con sói xám bên ngoài nhà bà ta. Ánh mắt nó sáng rực trong đêm tối, sáng hơn cả những ngọn đèn treo bên ngoài để giúp những người lữ hành tìm nơi tránh bão. Con nào trong những sinh vật ấy quen thuộc với bà? Ai ban tặng bà những thứ đó?” Lần này Matthew cần bảo tôi phải im lặng. Nhưng câu hỏi của mục sư theo đúng khuôn mẫu nổi tiếng mà tôi được nghiên cứu khi còn là nghiên cứu sinh.

      “Ả phù thủy này phải trả lời câu hỏi của ông, ông Danforth ạ,” Iffley khăng khăng, giật giật ống tay áo của bạn đồng hành. “ xấc láo như thế đến từ sinh vật của bóng đêm là thể chấp nhận được trong cộng đồng ngoan đạo.”

      “Vợ của ta chuyện với ai mà được ta cho phép,” Matthew . “Và xin lỗi, ông gọi ai là ả phù thủy vậy, Iffley.” Những người dân làng này càng thách thức, Matthew càng cứng rắn kiềm chế bản thân hơn.

      Ánh mắt vị đại diện của Chúa di chuyển từ tôi sang Matthew rồi lại quay về tôi. Tôi nén tiếng rên.

      “Thỏa thuận của bà ta với quỷ dữ khiến bà ta thể ra ,” Bidwell lên tiếng.

      “Yên nào, ông chủ Bidwell,” Danforth khiển trách. “Con muốn gì nào, con của ta? Ai giới thiệu con với quỷ dữ? Có phải người phụ nữ khác ?”

      “Hay người đàn ông?” Iffley thào. “Bà Roydon phải đứa trẻ bóng tối duy nhất được tìm thấy ở đây. Có nhiều cuốn sách và dụng cụ lạ lùng, những vụ tụ tập nửa đêm để gọi hồn.”

      Harriot thở dài và dúi quyển sách của ta cho Danforth. “Toán học, thưa ngài, phải pháp thuật. Bà góa Beaton thấy quyển hình học.”

      “Đây phải chỗ cho ông khuếch trương thế lực của ác quỷ,” Iffley lắp bắp .

      “Nếu là con ác quỷ các người tìm kiếm, hãy tìm nó ở chỗ bà góa Beaton ấy.” Mặc dù cố hết sức nhưng Matthew nhanh chóng mất bình tĩnh.

      “Vậy ngài buộc bà ta vào tội hành thuật phù thủy ư?” Danforth lạnh lùng hỏi.

      , Matthew. phải cách đó,” tôi thầm, khẽ kéo tay .

      Matthew quay lại phía tôi. Gương mặt trông giống con người nữa, đôi đồng tử trong suốt nở lớn. Tôi lắc đầu, hít vào hơi sâu, cố gắng làm dịu cơn giận dữ trước xâm phạm trong ngôi nhà của lẫn bản năng dữ dội phải bảo vệ tôi.

      “Đừng để đôi tai ngài phải nghe những lời của , ông Danforth. Roydon có thể cũng là công cụ của ác quỷ đấy,” Iffley cảnh báo.

      Matthew đối diện với đoàn đại biểu. “Nếu các người có lý do để buộc vợ ta chịu trách nhiệm với những lời xúc phạm như vậy, hãy tìm quan tòa mà làm việc đó. Còn cút khỏi đây. Và trước khi ông trở lại, Danforth, hãy cân nhắc xem liệu nghiêng về phía Iffley và Bidwell có phải là hành động khôn ngoan ?”

      Viên cha xứ nuốt nghẹn.

      “Các người nghe ngài ấy chứ,” Hancock quát. “Cút xéo!”

      “Công lý được thực thi, ông chủ Roydon – công lý của Chúa,” Danforth tuyên bố khi lùi ra khỏi phòng.

      “Chỉ khi nào tôi giải quyết được vấn đề này trước, Danforth ạ,” Walter hứa.

      Pierre và Charles ra từ trong bóng tối, mở toang hai cánh cửa xua đám sinh vật máu nóng mắt mở thao láo ra khỏi phòng. Ngoài trời, gió bão thổi mạnh. dữ dội của cơn bão chờ sẵn chỉ càng khẳng định cho nghi ngờ của bọn họ về sức mạnh siêu nhiên của tôi.

      Cút, cút, cút! giọng kiên quyết cứ vang lên trong đầu tôi. Cơn hoảng loạn ào ạt đưa adrenaline lan tràn khắp hệ tuần hoàn của tôi. lần nữa, tôi lại làm mình trở thành mồi săn. Gallowglass và Hancock quay ngoắt sang tôi, bị quyến rũ bởi mùi hương sợ hãi toát ra từ các lỗ chân lông.

      “Các cậu ở nguyên chỗ đó,” Matthew cảnh cáo hai ma cà rồng. chắn trước tôi. “Bản năng của Diana mách bảo ấy bỏ chạy. ấy ổn trong chốc lát nữa.”

      “Chuyện này bao giờ kết thúc. Chúng ta đến đây để tìm giúp đỡ, nhưng ngay cả ở nơi này em cũng bị săn lùng.” Tôi cắn môi .

      có gì phải sợ cả. Danforth và Iffley phải cân nhắc kỹ càng trước khi gây nên bất cứ rắc rối nào,” Matthew khẳng định chắc chắn, đưa tay nắm lấy hai bàn tay siết chặt của tôi. “ kẻ nào muốn là kẻ thù của – những sinh vật khác người khác và cả con người đều muốn.”

      “Em hiểu lý do các sinh vật khác người e sợ . là thành viên của Đại Hội Đồng và có sức mạnh hủy diệt họ. trách bà góa Beaton đến đây ngay khi ra lệnh. Nhưng điều đó giải thích cho phản ứng của những người này với . Danforth và Iffley hẳn nghi ngờ … wearh.” Tôi kiềm được lại trước khi từ “ma cà rồng” bật ra khỏi miệng.

      “Ồ, chú ấy chẳng bị nguy hiểm nào đe dọa từ phía bọn họ đâu,” Hancock lên tiếng bác bỏ. “Mấy gã đó chẳng là gì cả. may, bọn chúng có thể đưa chuyện khiến cho lũ người kia chú ý.”

      “Đừng nghe ,” Matthew bảo tôi.

      “Những người nào cơ?” Tôi thào hỏi.

      Gallowglass thở gấp. “Vì các đấng thiêng liêng, Matthew. Cháu từng thấy chú làm những chuyện kinh khủng, nhưng làm sao chuyện này mà chú cũng có thể giữ kín với vợ mình chứ?”

      Matthew nhìn đăm đăm vào ngọn lửa trong lò sưởi. Khi ánh mắt cuối cùng cũng gặp mắt tôi, chúng tràn đầy vẻ hối tiếc.

      “Matthew?” Tôi thúc giục. Cái nút thắt bắt đầu hình thành trong lòng tôi kể từ khi túi thư buộc chặt đầu tiên đến nơi.

      “Bọn họ nghĩ là ma cà rồng. Họ biết là gián điệp.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      6.

      “Gián điệp ư?” tôi điếng người nhắc lại.

      “Chúng tôi thích được gọi là những người đưa tin hơn,” Kit cay độc .

      “Câm miệng , Marlowe,” Hancock gầm lên, “ ta chặn miệng ngươi lại đấy.”

      “Khoan dung cho chúng tôi nào, Hancock. ai bắt phải nghiêm túc khi cợt nhả ì xèo như thế cả.” Cằm Marlowe vênh lên. “Và nếu cho tôi giữ lễ độ, mọi vị vua và binh lính xứ Welsh mau chóng có đoạn kết sân khấu đấy. Tôi khiến cho các người trở thành những kẻ phản bội và lũ người hầu có trí khôn ngắn ngủn hết.”

      “Ma cà rồng là cái gì?” George hỏi, tay với lấy cuốn sổ ghi chép, còn tay kia cầm miếng bánh gừng. Như thường lệ, chẳng ai để ý nhiều đến ta.

      “Vậy đại loại kiểu như James Bond thời Elizabeth à? Nhưng…” Tôi nhìn Marlowe, kinh hãi. ta bị giết bằng con dao của hiệp sĩ tại Deptford trước khi bước sang tuổi ba mươi, và tên tội phạm có liên quan tới cuộc sống của ta được cho là gián điệp.

      “Người thợ làm mũ ở London gần St.Dustan, người trông như cái vành mũ gọn gàng ấy ư? James Bond đó ư?” George cười khúc khích. “Thế quái nào mà lại nghĩ Matthew là thợ làm mũ được hả, bà Roydon?”

      , George, phải James Bond đó.” Matthew vẫn khom người phía trước và quan sát các phản ứng của tôi. “Em tốt hơn nên biết về chuyện này.” “Chết tiệt.” Tôi còn biết được liệu câu này có phải là câu chửi thề ở thời Elizabeth hay . “Em xứng đáng được biết .”

      “Có lẽ, thưa bà Roydon, nếu ấy vô nghĩa khi cứ khăng khăng đòi hỏi điều đó,” Marlowe . “Matthew có thể bao giờ phân biệt được điều gì là và điều gì phải đâu. Đây là lý do ta vô giá đối với nữ hoàng.”

      “Chúng mình ở đây để tìm cho em người thầy,” Matthew kiên quyết, ánh mắt khóa chặt lấy mắt tôi. “Việc đồng thời là thành viên của Đại Hội Đồng và là đặc vụ của nữ hoàng giữ cho em khỏi bị hãm hại. chuyện gì xảy ra trong vương quốc này mà biết cả.”

      thoải mái khi biết hết mọi việc, còn em cứ nghĩ rằng có chuyện gì đó ổn xảy ra trong ngôi nhà này. Có quá nhiều thư từ. Còn và Walter tranh cãi với nhau.”

      “Em nhìn thấy cái muốn em thấy. có gì hơn cả.” Bất chấp độc đoán của Matthew phát triển theo cấp số nhân kể từ khi chúng tôi đến Chòi Gác Cổ, quai hàm tôi vẫn muốn rớt ra trước giọng điệu của .

      “Sao dám,” tôi chậm rãi thốt lên. Matthew biết cả cuộc đời tôi bị vây quanh bởi những bí mật. Tôi cũng phải trả cái giá quá cao cho nó. Tôi hiểu chứ.

      “Ngồi xuống,” nghiến răng quát. “Làm ơn.” tóm lấy tay tôi.

      Người bạn thân của Matthew, Hamish Osborne, từng cảnh cáo tôi rằng còn là người đàn ông mà tôi biết khi ở nơi này. Làm sao có thể như vậy, tại thế giới xa lạ nhường này? Phụ nữ được mong đợi phải chấp nhận vô điều kiện những gì người đàn ông bảo họ làm. Ở giữa đám bạn bè của mình, Matthew dễ dàng trở lại lối hành xử cùng khuôn mẫu suy nghĩ cũ.

      “Chỉ khi nào trả lời. Em muốn biết tên người phải báo cáo và làm thế nào để mình dính líu vào công việc này.” Tôi liếc mắt qua cậu cháu trai cùng gã bạn của nó, lo rằng đây là những bí mật quốc gia.

      “Bọn họ đều biết về Kit và ,” Matthew , nhìn theo ánh mắt tôi. vật lộn tìm kiếm lời lẽ để giải thích. “Tất cả bắt đầu với Francis Walsingham.”

      rời nước vào thời Henry trị vì. dành khoảng thời gian ở Constantinople, chu du đến đảo Cyprus, lang thang qua Tây Ban Nha, chiến đấu ở Lepanto – thậm chí còn kinh doanh in ấn ở Antwerp,” Matthew giải thích. “Đó là lối mòn thường thấy đối với wearh. Bọn tìm kiếm thảm kịch, cơ hội để len lỏi vào cuộc đời của người nào đó. Nhưng chẳng có gì phù hợp với , vì vậy quay về nhà. Nước Pháp ở bên bờ cuộc nội chiến tôn giáo. Khi em sống đủ lâu, em nhận thấy những dấu hiệu đó. ông hiệu trưởng người Pháp theo đạo Tin Lành vui mừng nhận tiền và tới Geneva, nơi ông ta có thể nuôi dưỡng các con mình an toàn. giả danh người họ chết từ lâu của ông ta, chuyển vào sống trong ngôi nhà của ông ta ở Paris và bắt đầu lại với vai Matthew de la Forêt.”

      “Matthew của nhà Foret ư?” Lông mày tôi nhướng lên mỉa mai.

      “Đó là tên của ông hiệu trưởng ấy,” nhăn nhó đáp. “Paris lâm nguy, và Walsingham, với tư cách đại sứ của nước , thỏi nam châm cuốn hút mọi cuộc nổi loạn trong đất nước này. Cuối mùa hè năm 1572, tất cả cơn thịnh nộ bị kìm nén ở Pháp bùng lên sôi sục. giúp Walsingham sống sót, cùng với những người theo đạo Tin Lành mà ông ta che chở.”

      “Cuộc thảm sát vào ngày Thánh Bartholomew.” Tôi rùng mình, nghĩ đến hôn lễ đẫm máu giữa nàng công chúa Pháp theo đạo Thiên Chúa và người chồng theo đạo Tin Lành của nàng.

      “Sau đó trở thành đặc vụ của nữ hoàng, khi bà ta cử Walsingham trở lại Paris. Ông ta được sắp xếp làm người mai mối cuộc hôn nhân của bệ hạ với trong những hoàng tử Valois.” Matthew cười khẩy. “ ràng nữ hoàng hề có hứng thú thực với đám mai mối này. Trong suốt chuyến viếng thăm ấy, biết được mạng lưới tình báo của Walsingham.”

      Chồng tôi bắt gặp ánh mắt tôi trong thoáng ngắn ngủi, rồi quay nhìn hướng khác. vẫn còn giấu giếm điều gì đó. Tôi xem xét lại câu chuyện, phát ra những dấu vết sai sót trong bản tường thuật đó và lần theo chúng để có được kết luận duy nhất quá ràng: Matthew là người Pháp, theo đạo Thiên Chúa và thể nào được sắp đặt vào mạng lưới chính trị với Elizabeth Tudor năm 1572 – hay năm 1590. Nếu phục vụ cho ngai vàng quốc, phải vì mục đích lớn lao nào đó. Nhưng Đại Hội Đồng thề đứng bên ngoài lề các vấn đề chính trị của loài người.

      Philippe de Clermont và các hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus của ông ta .

      làm việc cho cha. phải chỉ là ma cà rồng mà còn là tín đồ Công giáo đất nước theo đạo Tin Lành.” Thực Matthew làm việc cho các Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus, chứ phải Elizabeth, làm tăng mức độ nguy hiểm lên theo cấp số nhân. chỉ có các phù thủy bị săn lùng và xử tử hình đất nước thời đại Elizabeth – mà còn cả những kẻ phản bội, các sinh vật có sức mạnh khác thường và những người có đức tin khác nữa. “Đại Hội Đồng chẳng giúp gì được nếu dính líu đến các vấn đề chính trị của loài người. Tại sao gia đình có thể cầu làm việc nguy hiểm như vậy?”

      Hancock nhăn nhở cười. “Đó là lý do tại sao luôn có người de Clermont trong Đại Hội Đồng – để chắc chắn những lý tưởng cao thượng chắn ngang đường công việc tốt đẹp đó.”

      “Đây phải lần đầu tiên làm việc cho Philippe, cũng phải là lần cuối cùng. Em rất giỏi trong việc vạch trần các bí mật. Còn giỏi trong việc giữ kín chúng,” Matthew cách đơn giản.

      Nhà khoa học. Ma cà rồng. Chiến binh. Gián điệp. Lại mảnh khác nữa của Matthew được ghép vào, và cùng với nó tôi hiểu hơn cái thói quen thâm căn cố đế của bao giờ chia sẻ điều gì – dù lớn hay − trừ phi buộc phải làm thế.

      “Em quan tâm có bao nhiêu kinh nghiệm! an toàn của phụ thuộc vào Walsingham – và lừa gạt ông ta.” Những lời chỉ càng làm tôi thêm giận dữ hơn.

      “Walsingham chết rồi. báo cáo với William Cecil bây giờ đây.”

      “Người đàn ông thận trọng nhất còn sống,” Gallowglass lặng lẽ . “Dĩ nhiên là ngoại trừ Philippe.”

      “Còn Kit? ta làm việc cho Cecil hay cho ?”

      “Đừng cho ta biết điều gì cả, Matthew,” Kit lên tiếng. “ phù thủy này thể tin tưởng được.”

      “Tại sao, ngươi xảo quyệt, con quỷ ,” Hancock khẽ . “Chính ngươi là kẻ khuấy đảo đám dân làng này.”

      Hai má Kit đỏ bừng vì lời buộc tội kép kia.

      “Chúa ơi, Kit. làm gì thế?” Matthew kinh ngạc hỏi.

      gì cả,” Marlowe sưng xỉa đáp.

      “Ngươi lại kể chuyện cổ tích rồi.” Hancock lúc lắc ngón tay vẻ khiển trách. “Ta từng cảnh cáo ngươi rằng chúng ta ủng hộ điều đó, ông chủ Marlowe.”

      “Woodstock ồn ào như ong vỡ tổ với những tin tức về vợ của Matthew,” Kit phản đối. “Những lời đồn thổi đó chắn chắn mang Đại Hội Đồng xuống chỗ chúng ta. Làm sao tôi biết được Đại Hội Đồng ở đây?”

      “Chắc hẳn để tôi giết ngay bây giờ, de Clermont. Tôi muốn làm thế từ lâu lắm rồi,” Hancock vừa vừa bẻ khớp ngón tay kêu răng rắc.

      . thể giết ta.” Matthew đưa tay lên vuốt gương mặt mệt mỏi. “ có quá nhiều nghi vấn, và lúc này tôi có kiên nhẫn để bịa ra những câu trả lời thuyết phục. Đó chỉ là lời ngồi lê đôi mách của cả làng thôi. Tôi xử lý nó.”

      “Chuyện tán gẫu này trở nên tồi tệ rồi,” Gallowglass lặng lẽ báo cáo. “ chỉ là Berwick. Chú biết người ta xôn xao lo lắng về các phù thủy đến mức nào ở Chester mà. Khi bọn cháu lên phía bắc vào Scotland, tình hình còn tồi tệ hơn.”

      “Nếu chuyện này lan xuống phía nam vào nước ta là án tử hình của chúng ta,” Marlowe cam đoan, chỉ về phía tôi.

      “Rắc rối này giới hạn ở Scotland thôi,” Matthew trả miếng. “Và có thêm chuyến viếng thăm nào vào làng nữa đâu Kit.”

      ta xuất vào đêm Halloween, ngay lúc xuất của phù thủy sợ sệt rụt rè được tiên đoán trước. thấy sao? Người vợ mới của khơi lên những cơn phong ba bão táp chống lại vua James, và giờ ta chuyển hướng chú ý tới nước . Cecil chắc chắn được báo cho biết. ta gây nguy hiểm cho nữ hoàng.”

      “Im , Kit,” Henry cảnh cáo, kéo cánh tay ta.

      thể làm tôi im lặng được. cho nữ hoàng biết là bổn phận của tôi. từng đồng ý với tôi, Henry. Nhưng kể từ khi ả phù thủy này đến, mọi chuyện hoàn toàn thay đổi! Ả ta mê hoặc mọi người trong cái nhà này rồi.” Ánh mắt Kit long sòng sọc. “ mê mẩn coi ta như em . George có nửa phần là . Tom tán dương hóm hỉnh của ta, còn Walter tốc váy ta lên và ấn lưng ta vào bức tường nếu ấy sợ Matthew. Hãy tống ta quay về nơi vốn thuộc về ta. Chúng ta trước đây vui vẻ.”

      “Matthew vui vẻ.” Tom lùi về tận cuối phòng vì năng lượng từ cơn giận dữ của Marlowe.

      ấy.” Kit quay sang tôi, gương mặt đầy vẻ cầu khẩn. “ biết ấy là gì ? trông thấy ấy ăn, cảm thấy cơn đói khát trong ấy khi có sinh vật máu nóng ở gần chưa? có thể hoàn toàn chấp nhận Matthew – cả phần đen tối trong tâm hồn bên cạnh phần sáng kia – như tôi ? có phép thuật của mình để làm niềm an ủi, nhưng tôi thể sống trọn vẹn nếu ấy. Tất cả thi từ đều bay biến khỏi đầu tôi khi ấy , và chỉ mình Matthew có thể thấy được chút ít ỏi điều tốt đẹp có trong con người tôi. Hãy để lại ấy cho tôi. Làm ơn.”

      “Tôi thể,” tôi đáp lại đơn giản.

      Kit quệt ống tay áo ngang miệng như thể cử chỉ ấy có thể rũ bỏ tất cả dấu vết về tôi. “Khi phần còn lại của Đại Hội Đồng phát tình cảm của dành cho ấy…”

      “Nếu tình cảm của tôi dành cho ấy bị cấm đoán, tình cảm của cũng thế,” tôi ngắt lời. Marlowe khựng lại. “Nhưng ai trong chúng ta lựa chọn được người mình .”

      “Iffley và bạn bè của lão phải những người cuối cùng buộc tội dùng thuật phù thủy,” Kit với điệu đắc thắng chua cay. “Cứ nhớ lấy lời tôi, bà Roydon. tinh thường thấy được tương lai cách ràng cũng như phù thủy vậy.”

      Bàn tay Matthew di chuyển tới eo tôi. tiếp xúc mát lạnh quen thuộc từ ngón tay lướt từ sườn bên này sang mạn sườn bên kia của tôi, bám theo đường vòng cung đánh dấu tôi thuộc về ma cà rồng. Đối với Matthew nó là gợi nhớ mạnh mẽ nhất về lần thất bại trước kia thể bảo vệ tôi an toàn. Kit thốt ra tiếng nuốt khan kinh hãi đau khổ trước cử chỉ thân mật đó.

      “Nếu cậu có thể tiên tri ràng như vậy, đáng lẽ cậu nên thấy trước phản bội của mình có ý nghĩa thế nào đối với tôi,” Matthew , dần lộ ý. “Hãy biến khỏi tầm mắt tôi, Kit, nếu có Chúa cứu giúp, cậu chẳng còn lại gì để có thể an táng đâu.”

      chọn ấy thay vì tôi ư?” Kit lặng người thốt lên.

      “Trong từng nhịp đập trái tim mình. ra ngay!” Matthew nhắc lại.

      Kit bước ngang qua phòng cách thận trọng, nhưng ngay khi tới hành lang ta rảo bước nhanh hơn. Tiếng chân vọng lại cầu thang gỗ, càng lúc càng nhanh, khi ta lên phòng của mình.

      “Chúng ta phải canh chừng .” Cặp mắt sắc sảo của Gallowglass chuyển từ nơi Kit rời quay lại phía Hancock. “Giờ thể tin cậy được.”

      “Chẳng bao giờ tin được Marlowe cả,” Hancock cằn nhằn.

      Pierre len qua cánh cửa mở trông có vẻ khổ sở, cầm trong tay lá thư khác.

      phải lúc này, Pierre,” Matthew rên lên, rồi ngồi xuống, với lấy ly rượu của mình. Hai bờ vai lún vào lưng ghế. “Đơn giản là ngày hôm nay còn chỗ cho bất kỳ biến cố nào nữa – dù là nữ hoàng, vương quốc hay những tín đồ Thiên Chúa giáo. Cho dù là cái gì cũng để đến sáng mai .”

      “Nhưng… thưa đức ngài,” Pierre lắp bắp, giơ ra lá thư. Matthew liếc qua nét chữ dứt khoát mặt trước lá thư.

      “Lạy Chúa và các Thánh thần.” Ngón tay với lên chạm vào tờ giấy, rồi đông cứng lại. Yết hầu Matthew lên xuống khi cố gắng đấu tranh để kiểm soát mình. Thứ gì đó màu đỏ tươi xuất từ khóe mắt , rồi trượt xuống gò má và lên những nếp gấp cổ áo. giọt huyết lệ của ma cà rồng.

      “Chuyện gì thế, Matthew?” Tôi nhìn qua vai , băn khoăn biết điều gì gây nên nỗi đau khổ chừng ấy.

      “À. Ngày hôm nay vẫn chưa hết mà,” Hancock cách khó khăn trong khi bước lùi lại. “Có vấn đề cần ngài lưu ý. Cha ngài nghĩ ngài chết.”

      Vào thời đại của tôi, cha Matthew, Phillipe chết – cách khủng khiếp, đầy bi thảm và thể nào thay đổi được. Nhưng đây là năm 1590, điều đó có nghĩa là ông ấy còn sống. Ngay từ khi chúng tôi đến đây, tôi lo lắng về dịp đối mặt với Ysabeau hay trợ lý phòng thí nghiệm của Matthew, Miriam, và những ảnh hưởng mà cuộc gặp gỡ như thế có thể gây ra cho thời điểm trong tương lai. chỉ lần tôi suy nghĩ xem việc nhìn thấy Phillipe tác động tới Matthew như thế nào.

      Quá khứ, tại và tương lai xung đột. Nếu nhìn vào các góc phòng, tôi chắc chắn thấy thời gian cuồn cuộn va chạm vào nhau. Nhưng mắt tôi vẫn gắn chặt vào Matthew và giọt huyết lệ lớp vải lanh trắng như tuyết nơi cổ .

      Gallowglass cục cằn kể cả câu chuyện. “Cùng với tin tức từ Scotland và việc chú đột ngột biến mất, chúng cháu sợ chú lên phía bắc vì nữ hoàng, bị cuốn vào điên loạn ở đó. Bọn cháu tìm kiếm suốt hai ngày. Khi thể thấy dấu vết của chú – chết tiệt , Matthew, bọn cháu có lựa chọn nào khác phải báo cho Phillipe biết chú biến mất. Hoặc cũng phải báo động với Đại Hội Đồng.”

      “Còn nữa, thưa đức ngài.” Pierre lật ngược lá thư. Dấu niêm phong đó giống những lá thư khác mà tôi liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus – ngoại trừ dấu xi được dùng ở đây là hình xoáy sặc sỡ màu đỏ đen cùng đồng xu cổ bằng bạc được ấn lên mặt dấu xi, các mép cũ mòn và mỏng quẹt, thay thế cho dấu xi thường thấy của dòng tu. Đồng xu đó được in dấu chữ thập và hình trăng lưỡi liềm, hai biểu tượng gia tộc de Clermont.

      “Cháu bảo ông thế nào?” Matthew sững sờ cứng người bởi mặt trăng nhợt nhạt màu bạc trôi nổi biển đỏ-đen kia.

      “Lời của bọn tôi giờ là kết quả nho này đây, thứ này đến rồi. phải ở Pháp nội trong tuần tới. Nếu , Philippe khởi hành đến .” Hancock càu nhàu.

      “Cha ta thể đến đây, Hancock. thể nào.”

      “Dĩ nhiên là thể rồi. Nữ hoàng có được đầu của ông sau tất cả những gì ông làm để khuấy đảo chính trị nước . phải đến chỗ ông. Nếu ngày đêm có rất nhiều thời gian đấy,” Hancock đảm bảo với .

      “Ta thể.” Ánh mắt đông cứng của Matthew gắn chặt vào bức thư chưa mở.

      “Philippe cho ngựa đợi sẵn. Chú quay lại nhanh thôi,” Gallowglass thầm, đặt bàn tay lên vai ông chú. Matthew ngước nhìn lên, ánh mắt đột nhiên trở nên hoang dại.

      phải vì quãng đường xa xôi. Mà là…” Matthew đột ngột ngưng bặt.

      “Ông ấy là chồng của mẹ . Chắc chắn có thể tin tưởng Phillipe – trừ phi vẫn dối ông.” Hai mắt Hancock nheo lại.

      “Kit đúng đấy. ai có thể tin tưởng ta.” Matthew bật đứng lên. “Cuộc đời ta là chuỗi những lời dối trá.”

      “Đây phải lúc cho mớ triết lý vô nghĩa của chú, Matthew. Ngay lúc này Phillipe đinh ninh mất người con trai nữa!” Gallowglass kêu lên. “Để ở lại với bọn cháu, hãy lên ngựa và làm điều cha chú ra lệnh. Nếu , cháu hạ đo ván chú và Hancock mang chú tới đó.”

      “Cháu hẳn phải rất chắc chắn về bản thân, Gallowglass, để có thể ra lệnh cho ta,” Matthew , tia nguy hiểm trong ngữ điệu của . chống hai bàn tay lên bệ lò sưởi và nhìn đăm đăm vào ngọn lửa.

      “Cháu chắc chắn về ông nội. Ysabeau biến chú thành wearh, nhưng chính dòng máu của Philippe mới chảy trong huyết quản của cha cháu.” Những lời của Gallowglass làm tổn thương Matthew. Đầu giật phắt lên khi cú đòn đó giáng xuống, cảm xúc nguyên thủy lấn át bình thản nao núng của .

      “George, Tom lên gác và để mắt đến Kit,” Walter lầm bầm, chỉ tay hai người bạn ra cửa. Raleigh nghiêng đầu về phía Pierre và người hầu của Matthew tham gia ngay vào nỗ lực đưa bọn họ ra khỏi phòng. Những tiếng gọi cầu thêm rượu vang cùng đồ ăn vẳng lại qua tiền sảnh. Khi bọn họ có Françoise chăm sóc, Pierre quay lại, đóng sập cửa cách kiên quyết, đặt thân mình chặn trước nó. Chỉ còn Walter, Henry, Hancock và tôi ở đó chứng kiến cuộc trò chuyện – cùng với Pierre lặng lẽ − Gallowglass tiếp tục cố gắng lay chuyển Matthew.

      “Chú phải Sept-Tours. Ông dừng lại cho tới khi đòi được thi thể của chú để an táng hoặc chú phải đứng trước mặt ông, còn sống. Philippe tin Elizabeth – hay Đại Hội Đồng.” Lần này Gallowglass hướng lời thuyết phục có phần xoa dịu hơn, nhưng bầu khí giết chóc từ Matthew vẫn còn đó.

      Gallowglass tức tối. “Hãy lừa dối những người khác – và bản thân mình, nếu chú phải làm thế. Hãy dành cả đêm để bàn bạc những lựa chọn thay thế nếu chú muốn. Nhưng đúng đấy: nó toàn là thứ cặn bã.” Giọng Gallowglass trùng xuống. “Diana của chú có mùi gì đó sai trái. Và chú có mùi già hơn chú vào tuần trước. Cháu biết bí mật hai người che giấu. Ông cũng biết.”

      Gallowglass suy luận ra tôi là người du hành thời gian. cái nhìn về phía Hancock cho biết ta cũng thế.

      “Đủ rồi!” Walter quát lên.

      Gallowglass cùng Hancock im lặng ngay tức . Lý do là ánh sáng lấp lánh ngón tay út của Walter: dấu ấn mang hình dáng Lazarus và chiếc quan tài của ông ta.

      “Vậy cũng là hiệp sĩ,” tôi thốt lên, bàng hoàng.

      “Phải,” Walter đáp cách cộc lốc.

      “Và ở cấp bậc cao hơn Hancock. Thế còn Gallowglass?” Có quá nhiều lớp chồng chéo của lòng trung thành và bổn phận thần tử trong căn phòng này. Tôi tuyệt vọng thể sắp xếp nổi bọn họ vào cấu trúc nào cho thích hợp.

      “Tôi ở cấp cao hơn mọi người trong căn phòng này, phu nhân ạ, ngoại trừ chồng ,” Raleigh lưu ý. “Và điều đó bao gồm cả nữa.”

      có quyền gì với tôi cả,” tôi bật lại. “Chính xác vai trò của trong công vụ của gia tộc de Clermont là gì, Walter?”

      Qua phía đầu tôi, đôi mắt xanh lơ giận dữ của Raleigh gặp ánh mắt Matthew. “ ấy luôn thế này à?”

      “Thường xuyên,” Matthew lãnh đạm trả lời. “Cần ít lâu để quen được với nó, nhưng tôi khá thích thế. có thể cũng vậy, miễn là có thời gian.”

      “Tôi người đàn bà luôn đòi hỏi trong đời mình rồi. Tôi cần người khác nữa,” Walter khịt mũi. “Nếu phải biết, tôi chỉ huy dòng tu nước , bà Roydon ạ. Matthew thể làm vậy, vì vị trí của cậu ấy trong Đại Hội Đồng. cách khác, các thành viên khác của gia tộc đều bận. Hoặc họ từ chối.” Walter chớp mắt nhìn về phía Gallowglass.

      “Vậy trong tám thống lãnh tỉnh của dòng tu và chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp với Phillipe,” tôi trầm ngâm . “Tôi ngạc nhiên phải hiệp sĩ thứ chín.” Hiệp sĩ thứ chín là nhân vật bí trong dòng tu, danh tính của người này được giữ bí mật với tất cả ngoại trừ nhân vật có cấp bậc tối cao.

      Raleigh chửi thề ghê gớm đến mức Pierre phải thở hắt ra. “Cậu giữ bí mật với vợ việc mình là gián điệp và thành viên của Đại Hội Đồng, nhưng lại kể cho ấy nghe hầu hết công vụ tối mật của dòng tu ư?”

      ấy hỏi mà,” Matthew đơn giản đáp. “Nhưng tôi nghĩ chuyện về các hiệp sĩ dòng thánh Lazarus đêm nay thế là đủ rồi.”

      “Vợ cậu thỏa mãn khi bỏ dở thế đâu. ấy thắc mắc mãi về chuyện này như chú chó săn quẩn quanh với khúc xương vậy.” Raleigh khoanh tay trước ngực và quắc mắt.

      “Được thôi. Nếu phải biết, Henry chính là hiệp sĩ thứ chín đấy. miễn cưỡng khi phải theo đạo Tin lành khiến ta dễ bị lung lay trước những luận điệu mưu phản nơi đây, đất này, và ở cả châu Âu, ta là mục tiêu dễ dàng đối với mọi kẻ bất mãn muốn thấy nữ hoàng mất ngai vàng của người. Philippe đề nghị vị trí đó để che chở cho ta khỏi những kẻ lạm dụng bản tính cả tin của chàng.”

      “Henry ư? kẻ nổi loạn?” Tôi kinh ngạc nhìn chàng khổng lồ dịu dàng.

      “Tôi nổi loạn,” Henry . “Nhưng bảo vệ của Philippe de Clermont cứu cuộc đời tôi hơn lần.”

      “Bá tước xứ Northumberland là người đàn ông quyền lực, Diana,” Matthew lặng lẽ , “điều đó khiến ấy trở thành con tốt có giá trị của tay chơi bất cẩn.”

      Gallowglass ho hắng. “Chúng ta có thể bỏ qua cuộc chuyện về dòng tu và trở lại với các vấn đề cấp thiết hơn ? Đại Hội Đồng cho gọi Matthew để làm dịu tình hình ở Berwick. Nữ hoàng lại muốn chú khuấy đảo nó lên hơn nữa, bởi chừng nào người Scot còn bận tâm tới các phù thủy, họ thể lên kế hoạch gây ra bất cứ mối nguy hại nào ở nước . Người vợ mới của Matthew phải đối mặt với những cáo buộc về tội hành nghề phù thủy ở nhà. Và ông triệu hồi chú về Pháp.”

      “Chúa ơi,” Matthew thốt lên, ấn vào sống mũi. “ mớ lộn xộn rối rắm.”

      “Cậu định gỡ rối nó thế nào?” Walter hỏi. “Cậu Philippe thể đến đây, Gallowglass, nhưng tôi sợ rằng Matthew cũng nên đến đó.”

      có ai từng rằng có ba thống lĩnh – và bà vợ − là chuyện dễ dàng,” Hancock chua chát tuyên bố.

      “Vậy là cái quái quỷ gì, Matthew?” Gallowglass hỏi.

      “Nếu Philippe nhận được đồng xu gắn vào dấu xi của lá thư từ chính tay tôi, ông đến tìm tôi nhanh thôi,” Matthew đáp cách trống rỗng. “Đó là bài kiểm tra về lòng trung thành. Cha tôi thích những bài kiểm tra.”

      “Cha nghi ngờ . Chuyện hiểu lầm này được sắp xếp ổn thỏa khi hai người gặp nhau,” Henry . Khi Matthew đáp lời, Henry tiếp tục lấp đầy khoảng im lặng đó. “ thường bảo tôi rằng phải có kế hoạch, nếu bị lôi kéo vào mưu đồ của những gã đàn ông khác. Hãy cho chúng tôi biết phải làm gì, và chúng ta cùng xem xét nó.”

      đáp lại, Matthew nghe qua các ý kiến, loại bỏ hết cái này đến cái khác. Với bất cứ người đàn ông nào khác phải mất nhiều ngày để sàng lọc các tình huống khả năng xử lý, những biện pháp đối phó. Còn đối với Matthew, việc đó chỉ tốn vài phút. Chẳng có mấy dấu hiệu đấu tranh nội tâm nét mặt , nhưng cơ vai gồng lên và bàn tay lơ đãng ngừng vuốt tóc lại khác.

      “Tôi ,” cuối cùng lên tiếng. “Diana ở đây với Gallowglass và Hancock. Walter phải bịa ra cho nữ hoàng cái cớ nào đó. Còn tôi lo chỗ Đại Hội Đồng.”

      “Diana thể lưu lại Woodstock,” Gallowglass thẳng thắn bảo . “ phải bây giờ khi Kit làm việc trong làng, lan truyền những lời dối trá và đặt ra những nghi vấn về ấy. diện của chú, nữ hoàng hay Đại Hội Đồng có bất cứ động cơ nào để bảo vệ ấy khỏi tòa án.”

      “Chúng ta có thể đến London cùng nhau, Matthew,” tôi nài nỉ. “Đó là thành phố lớn. Ở đó có rất nhiều phù thủy và người ta để ý đến em – họ sợ sức mạnh của em – và những người đưa tin gửi lời tới Pháp là an toàn. cần phải .” cần phải gặp lại cha mình.

      “London!” Hancock chế nhạo. “ trụ nổi ở đó tới ngày thứ ba đâu, madame. Gallowglass và tôi đưa tới Wales. Chúng ta tới Abergavenny.”

      .” Ánh mắt tôi bị thu hút bởi vết đỏ thẫm cổ Matthew. “Nếu Matthew tới Pháp tôi cùng ấy.”

      “Tuyệt đối được. kéo em vào cuộc chiến tranh đâu.”

      “Cuộc chiến đó lắng xuống với mùa đông đến,” Walter . “Đưa Diana đến Sept-Tours có lẽ là điều tốt nhất. Rất ít kẻ đủ dũng cảm dám gây rối với cậu, Matthew. kẻ nào dám qua mặt cha cậu.”

      chỉ có lựa chọn thôi,” tôi cách mạnh mẽ. Bạn bè hay gia đình Matthew dùng tôi để ép buộc tới Pháp.

      “Phải. Và chọn em.” đưa ngón tay cái lướt qua bờ môi tôi. Trái tim tôi trùng xuống. sắp tới Sept-Tours.

      “Đừng làm chuyện này,” tôi nài xin. Tôi thể nhiều thêm thực tế rằng ở thời đại tôi sống, Philippe chết, và đó tra tấn đối với Matthew nếu lần nữa nhìn thấy cha mình còn sống.

      “Philippe với rằng việc kết đôi là định mệnh. khi tìm thấy em, chẳng còn gì để làm nữa ngoài chấp nhận quyết định của số phận. Nhưng đó phải là cách mọi chuyện diễn ra. Trong mỗi khoảnh khắc còn lại của cuộc đời mình, luôn chọn em – chứ phải cha , phải những lạc thú của bản thân , thậm chí trước cả gia tộc de Clermont.” Đôi môi Matthew áp lên môi tôi, khiến những lời phản đối của tôi nín lặng. Sức thuyết phục trong nụ hôn đó thể nhầm lẫn.

      “Vậy là quyết định,” Gallowglass khẽ .

      Mắt Matthew giữ chặt ánh mắt tôi. gật đầu. “Đúng. Diana và tôi về nhà. Cùng nhau.”

      “Có việc phải làm đấy, cần sắp xếp mọi việc ngay,” Walter . “Cứ để nó cho chúng tôi. Vợ cậu trông có vẻ kiệt sức rồi, và chuyến mệt nhọc lắm đấy. Cả hai người nên nghỉ ngơi .”

      Khi cánh đàn ông rời khỏi phòng khách, chúng tôi vẫn nhúc nhích.

      “Thời gian chúng ta ở năm 1590 hóa ra yên ả như hy vọng,” Matthew thừa nhận. “ cho rằng nó quá phức tạp.”

      “Làm sao có thể khó khăn được khi Đại Hội Đồng, những cuộc săn lùng ở Berwick, cơ quan tình báo thời Elizabeth, và hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus, tất cả đều ganh đua đòi hỏi chú ý của ?”

      “Là thành viên của Đại Hội Đồng và đặc vụ của nữ hoàng đáng lẽ phải giúp được việc – thay vì trở thành chướng ngại.” Matthew đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. “ nghĩ chúng mình đến Chòi Gác Cổ, tận dụng phục vụ của bà góa Beaton, tìm cuốn cổ thư ở Oxford và rời trong vòng vài tuần lễ.”

      Tôi cắn môi để thốt ra những kẽ hở trong chiến lược mà Walter, Henry, và Gallowglass lại tối nay, nhưng nét mặt tôi lại để lộ.

      quá thiển cận,” Matthew thở dài. “Vấn đề chỉ là tạo uy tín cho em, hoặc phải tránh những cạm bẫy hiển nhiên như các cuộc truy lùng phù thủy và chiến tranh. cũng bị bất ngờ. Toàn bộ những việc làm cho Elizabeth và Đại Hội Đồng – hay những biện pháp đối phó nhân danh cha – khá ràng, nhưng mọi chi tiết đều phai mờ. biết ngày tháng, nhưng vào thứ mấy. Điều đó có nghĩa chắc người đưa tin nào đến và khi nào chuyến giao thư tiếp theo được thực . có thể thề rằng chia tay Gallowglass và Hancock trước lễ Halloween.”

      “Nhiều khi chúng ta để ý đến những tiểu tiết có thể khiến việc trở nên nghiêm trọng,” tôi thầm rồi đưa tay cọ vết đen do giọt huyết lệ để lại. Gần khóe mắt có những đốm vệt mỏng chảy dọc xuống má. “Đáng lẽ em nên nhận ra cha có thể liên lạc với con trai mình.”

      “Chỉ là vấn đề thời gian trước khi bức thư của ông đến. Bất cứ lúc nào Pierre mang thư tới là cảm giác như đông cứng lại. Tuy vậy, người đưa thư đến rồi vào hôm nay. Lá thư viết tay từ cha khiến ngạc nhiên, đó là tất cả,” Matthew giải thích. “ quên mất nó từng mạnh mẽ nhường nào. Khi mọi người đưa ông trở về từ chỗ quân phát xít năm 1944, thân thể ông bị nát bấy đến mức máu ma cà rồng cũng khôi phục được. Philippe có khả năng cầm nổi cây bút, dù rất muốn viết, và tất cả những gì ông có thể cố xoay sở là những dòng nguệch ngoạc khó đọc.” Tôi biết vụ bắt giữ và giam cầm Philippe trong chiến tranh Thế giới thứ II, nhưng có rất ít thông tin về những gì ông phải chịu đựng khi ở trong tay quân phát xít, những kẻ muốn xác định xem ma cà rồng có thể chịu đau đến mức nào.

      “Có lẽ nữ thần muốn hai ta quay lại năm 1590 vì điều gì khác ngoài em ra. Việc nhìn thấy Philippe lần nữa có thể mở lại những vết thương xưa cũ trong – và chữa lành chúng.”

      “Sau khi làm chúng tồi tệ hơn.” Đầu Matthew gục xuống.

      “Nhưng cuối cùng có thể mọi việc tốt hơn.” Tôi dịu dàng vuốt mái tóc ra sau cái ót cứng rắn, bướng bỉnh của . “ vẫn chưa mở lá thư từ cha.”

      biết nó gì.”

      “Dù thế nào cũng nên mở nó ra.”

      Cuối cùng Matthew luồn ngón tay vào bên dưới mép rồi phá vỡ dấu xi. Đồng xu bật khỏi và tóm lấy nó trong lòng bàn tay mình. Tờ giấy dày được mở ra, tỏa mùi hương nhàn nhạt của hoa nguyệt quế cùng hương thảo.

      “Đây là tiếng Hy Lạp?” Tôi hỏi, nhìn qua vai chồng mình vào dòng chữ duy nhất và biểu xoắn lại của ký tự phi bên dưới.

      “Đúng vậy.” Matthew lướt theo các con chữ, ngập ngừng thực liên kết đầu tiên với cha. “Ông ra lệnh cho về nhà. Ngay lập tức.”

      có dám đối diện với ông lần nữa ?”

      . Có.” Matthew vò nhàu tờ giấy trong nắm tay. “ biết.”

      Tôi đón tờ giấy từ , vuốt phẳng nó ra như cũ. Đồng xu lấp lánh trong lòng bàn tay Matthew. Mảnh bạc xíu này lại là nguyên nhân của quá nhiều rắc rối.

      đối mặt với ông ấy mình.” Việc đứng bên cạnh khi Matthew gặp người cha qua đời có gì nhiều nhặn, nhưng đó là tất cả mọi thứ tôi có thể làm để xoa dịu nỗi đau buồn trong .

      “Mỗi người trong chúng ta đều độc trước Philippe. Đôi khi cha có thể nhìn thấu tâm can của người khác,” Matthew thầm. “Điều ấy khiến lo lắng về việc đưa em tới đó. Với Ysabeau, có thể đoán trước bà phản ứng ra sao: lạnh lùng, tức giận, rồi bằng lòng. Nhưng đối với Philippe thể biết được. Chẳng ai hiểu được cách đầu óc Philippe hoạt động, ông có được thông tin gì, những cạm bẫy nào ông đặt ra. Nếu là người thích giữ bí mật cha lại là người khó nhìn thấu. Thậm chí cả Đại Hội Đồng cũng biết ông định làm gì, và Chúa biết bọn họ bỏ ra quá đủ thời gian để cố gắng khám phá điều đó.”

      “Rồi tốt đẹp cả thôi,” tôi đảm bảo với Matthew. Philippe phải chấp nhận tôi vào gia đình. Giống như mẹ hay trai Matthew, ông ấy có lựa chọn nào khác.

      “Đừng nghĩ em có thể chiếm ưu thế trước ông,” Matthew cảnh cáo. “Em có thể giống mẹ , như Gallowglass , nhưng ngay cả bà cũng bị tóm gọn trong cái mạng của ông hết lần này tới lần khác.”

      “Và tại có phải vẫn là thành viên của Đại Hội Đồng ? Có phải vì thế mà biết Knox hay Domenico cũng là thành viên ?” Phù thủy Peter Knox vẫn săn lùng đeo bám tôi kể từ khi tôi gọi ra được Ashmole 782 ở Bodleian. Còn về phần Domenico Michele, là ma cà rồng có những mối hận thù xưa cũ với người nhà de Clermont. có mặt tại La Pierre khi thành viên khác của Đại Hội Đồng tra tấn tôi.

      ,” Matthew đáp cộc lốc rồi quay .

      “Vậy điều Hancock về người nhà de Clermont luôn diện trong Đại Hội Đồng phải là sao?” Tôi nín thở. phải , tôi câm lặng cầu khẩn, cho dù là lời dối.

      “Đó vẫn là ,” bình thản đáp, xô vỡ hy vọng trong tôi.

      “Vậy là ai…?” Tôi bỏ lửng câu hỏi. “Ysabeau? Baldwin? Chắc chắn phải Marcus!” Tôi thể tin mẹ, trai hay con trai Matthew có thể dính líu đến mà ai lỡ lời.

      “Có những sinh vật khác người trong cây phả hệ của gia đình mà em biết, Diana. Trong bất cứ trường hợp nào, được tự do tiết lộ danh tính thành viên ngồi tại bàn của Đại Hội Đồng.”

      “Có luật lệ nào ràng buộc những người còn mình phục vụ cho gia đình ?” Tôi băn khoăn. “ can thiệp vào chính trị – em thấy những sổ sách kế toán chứng minh điều đó. Có phải hy vọng khi chúng ta quay về tại, thành viên gia đình bí này bằng cách nào đó che chắn cho ta trước cơn thịnh nộ của Đại Hội Đồng ?”

      biết,” Matthew ngắn gọn. “ chắc bất cứ điều gì.”

      Kế hoạch cho chuyến của chúng tôi nhanh chóng hình thành. Walter tranh cãi với Gallowglass về lộ trình tốt nhất, trong khi Matthew sắp xếp các công vụ của mình.

      Hancock được phái đến London cùng Henry, mang theo bưu kiện thư tín bọc trong da. Với tư cách nhà quý tộc của vương quốc, ngài bá tước được triệu tập để dự các nghi lễ tổ chức thường niên của nữ hoàng diễn ra ngày mười bảy tháng Mười . Bên cạnh đó, George cùng Tom đóng gói hành lý tới Oxford kèm theo món tiền đáng kể và Marlowe bị thất sủng. Hancock cảnh cáo bọn họ về những hậu quả tàn khốc xảy ra nếu chàng tinh gây thêm bất cứ rắc rối nào.

      Tuy Matthew xa, nhưng Hancock ở lại để giám sát và do dự giải quyết triệt để nếu có lý do xác đáng. Matthew còn chỉ thị chính xác cho George những thắc mắc xoay quanh cuốn cổ thư thuật giả kim mà ta có thể hỏi các học giả Oxford.

      Công việc của tôi đơn giản hơn nhiều. Tôi chỉ có vài thứ đồ cá nhân cần đóng hành lý: những chiếc hoa tai của Ysabeau, đôi giày mới với mấy món quần áo. Françoise dành toàn tâm toàn ý để may thêm cho tôi bộ váy màu quế dành cho chuyến . Cổ áo thành cao bằng lông thú được thiết kế để tránh khỏi gió mưa. Những miếng da lông cáo mềm như lụa mà Françoise khâu đường trong chiếc áo choàng của tôi cũng vì mục đích này, cả những dải lông được lồng vào đường viền thêu vân đôi găng tay mới cũng vậy.

      Việc cuối cùng tôi làm ở Chòi Gác Cổ là mang cuốn sổ Matthew cho tới thư viện. dễ dàng đánh mất món đồ như thế đường tới Sept-Tours, thêm nữa, tôi muốn cuốn nhật ký của mình được an toàn tránh khỏi những con mắt soi mói hết mức có thể. Tôi khom người bên bậu cửa sổ hái mấy nhành hương thảo lẫn oải hương non, rồi tới bên bàn của Matthew để chọn cây bút lông ngỗng và lọ mực, viết nhật ký lần cuối cùng.

      Ngày 5 tháng Mười , 1590, trời mưa lạnh

      Tin tức từ nhà. Chúng tôi chuẩn bị cho chuyến dài.

      Sau khi thổi các chữ viết cho khô mực, tôi luồn nhánh hương thảo cùng oải hương vào kẽ hở giữa các trang giấy. Dì Sarah dùng hương thảo dành cho các câu thần chú ghi nhớ và oải hương để biểu lộ lưu ý cẩn trọng về bùa kết hợp vừa vặn cho tình huống tại của chúng tôi.

      “Hãy cầu cho bọn con gặp may mắn, dì Sarah,” tôi thầm khi thả cuốn sổ vào tận cuối giá sách, với hy vọng nó vẫn còn ở đó khi tôi quay trở lại.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      7.

      Rima Jaén ghét tháng Mười . Những giờ trời sáng bị rút ngắn lại, mỗi ngày trôi qua lại nhượng bộ với bóng tối hơn chút. Đây cũng là thời điểm kinh khủng ở Seville, cả thành phố vào dịp mùa lễ hội và mưa giăng khắp nơi. Thói quen lái xe ẩu tả của cư dân nơi đây mỗi giờ càng trở nên tệ hơn.

      Rima bị dính kẹt tại bàn làm việc hàng tuần nay. Sếp của quyết định dọn sạch kho hàng chỗ gác xép. Mùa đông vừa rồi, cơn mưa làm nứt vỡ mái ngói nóc ngôi nhà vốn đổ nát này và dự báo thời tiết cho các tháng tới thậm chí còn tệ hơn. có tiền khắc phục vấn đề nên nhân viên bảo dưỡng phải chuyển những thùng các tông mốc meo xuống gác nhằm đảm bảo thứ gì có giá trị bị phá hủy trong những trận bão sắp tới. Mọi thứ khác được kín đáo mang bỏ để các nhà quyên tặng tiềm năng chẳng thể khám phá chuyện gì xảy ra.

      Đây là công việc kinh doanh bẩn thỉu, lừa đảo, nhưng dù sao vẫn phải làm cho xong, Rima ngẫm nghĩ. Thư viện là kho lưu trữ chuyên dụng cỡ từ những nguồn quý hiếm. Thứ tinh túy trong bộ sưu tập này đến từ gia tộc xuất chúng người Andalusian, các thành viên của gia tộc có thể truy nguồn gốc ngược trở về thời tái chinh phục, khi người Thiên Chúa giáo giành lại bán đảo từ chiến binh Hồi giáo, những kẻ chiếm giữ nó hồi thế kỷ thứ tám. Đây cũng là lý do vài học giả muốn mò mẫm xem những loạt sách hay đồ vật kỳ quái mà người nhà Gonçalves thu thập trong suốt những năm qua. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều xuống phố ở khu Archivo General de India để tranh cãi về Columbus. bạn Sevillanos của muốn chuỗi thư viện nơi đây có tác phẩm kinh dị mới nhất, thay vì mấy cuốn sổ tay hướng dẫn Jesuit từ những năm 1700 bong ra từng mảng hay tạp chí thời trang phụ nữ từ hồi 1800.

      Rima cầm lên cuốn sách nằm góc bàn làm việc và đung đưa cặp kính màu sáng luôn được cài đỉnh đầu khiến mái tóc đen bị hất ngược ra sau. để ý thấy cuốn sách này từ tuần trước, lúc công nhân bảo dưỡng đánh rơi cái thùng gỗ trước mặt và cằn nhằn tỏ vẻ khó chịu. Kể từ đó, Rima cho nó vào bộ sưu tập với tên gọi Cổ Thư Gonçalve 4890 cùng phần miêu tả “sách tiếng bình thường, khuyết danh, cuối thế kỷ mười sáu.” Như hầu hết các cuốn sách bình thường khác, phần lớn bên trong là giấy trắng. Rima gửi bản mẫu tiếng Tây Ban Nha do người thừa kế nhà Gonçalve sở hữu tới đại học Seville năm 1628. Nó được đóng khung gọn gàng, kẻ dòng, đánh số trang đẹp bằng cách trang trí cầu kỳ xoắn ốc hình mực nhiều màu. Nhưng từ nào cả. Thậm chí ở thời quá khứ, người ta chưa bao giờ sống đúng theo khát vọng của bản thân.

      Những cuốn sách bình thường như thế này được đặt ở nơi dành cho các trang Kinh thánh, thơ ca, đề từ ngẫu hứng, và châm ngôn của tác gia kinh điển. Đặc trưng là những dòng chữ nguệch ngoạc, danh sách mua sắm cũng như lời bài hát tục tĩu và phần kế toán chi tiêu cho những kiện kỳ lạ, quan trọng. Cuốn sách này cũng chẳng khác gì, Rima nghĩ vậy. Buồn thay, ai đó trang đầu tiên mà có lẽ từng được đề tên chủ nhân. có trang sách đó hầu như chẳng thể xác định được danh tính người sở hữu, hoặc bất kỳ ai khác vốn chỉ được nhắc đến ở phần mở đầu. Các sử gia ít quan tâm hơn tới những bằng chứng vô danh dạng này, vì việc danh có phần làm cho người đứng sau nó ít quan trọng.

      Những trang còn lại bao gồm bảng phân loại tất cả các đồng tiền xu của được dùng vào thế kỷ mười sáu và quan hệ giá trị giữa chúng. Trang phía sau viết nguệch ngoạc danh sách về trang phục : áo khoác, hai đôi giày, chiếc váy dài đính lông trang trí, sáu áo lót, bốn váy lót dài kèm đôi găng tay. Có vài ngày ghi nhật ký vô nghĩa cùng phương thuốc chữa chứng đau đầu – món súp nóng cho người ốm, làm từ sữa và rượu. Rima mỉm cười tự hỏi liệu nó có hiệu quả với chứng đau nửa đầu của mình .

      Đáng lẽ phải trả cuốn sổ cho phòng giữ đồ ở tầng ba nơi lưu trữ cổ thư, nhưng có điều gì đó khiến Rima muốn giữ nó bên mình. ràng phụ nữ viết cuốn sổ này. Chữ viết tay tròn trịa run run chắc chắn trông dễ thương, từ ngữ ngoằn ngoèo lên xuống và các trang giấy những chấm mực rải rác tùy tiện khắp nơi. người đàn ông có học nào ở thế kỷ mười sáu viết như thế cả, trừ phi ông ta bị ốm hoặc có tuổi. Tác giả của cuốn sách phải cả hai dạng đó. cảm giác rung động tò mò được gợi lên trước những dòng nhật ký kỳ lạ viết bằng nét chữ có vẻ ngập ngừng này.

      cho Javier López xem cuốn sách, người quyến rũ nhưng chẳng am hiểu gì, ta được những người cuối cùng nhà Gonçalves thuê để biến ngôi nhà của gia đình với những dấu ấn cá nhân thành thư viện và viện bảo tàng. Văn phòng mở rộng dưới tầng trệt của ông ta được ốp ván tường bằng gỗ gụ loại tốt và có những chiếc máy sưởi duy nhất còn hoạt động trong tòa nhà. Trong suốt buổi chuyện riêng ngắn ngủi giữa hai người, Javier bác bỏ gợi ý của Rima rằng cuốn sách này đáng được nghiên cứu kỹ càng hơn. Ông ta cũng cấm chụp ảnh nó vì có thể chia sẻ những hình ảnh với các đồng nghiệp trong vương quốc . Về phần niềm tin của rằng người chủ cuốn sách là phụ nữ, ông giám đốc lẩm bẩm gì đó về người theo thuyết nam nữ bình quyền rồi phẩy tay đuổi khỏi văn phòng.

      Và bởi vậy cuốn sách vẫn còn nằm bàn của Rima. Tại Seville, cuốn sách như thế này luôn vô ích và chẳng có vai trò gì. ai đến Tây Ban Nha để tìm kiếm những cuốn sách tiếng bình thường cả. Họ đến thư viện , hoặc thư viện Folger Shakespeare ở Mỹ.

      người đàn ông lạ mặt thỉnh thoảng tới xem qua các bộ sưu tập. Ông ta là người Pháp, và cái nhìn chằm chằm đánh giá từ người này khiến Rima thấy khó chịu. Herbert Cantal – hay có lẽ là Gerbert Cantal. thể nhớ . Ông ta có để lại tấm danh thiếp vào lần ghé thăm cuối cùng và khuyến khích liên lạc nếu xuất bất cứ thứ gì thú vị. Khi Rima hỏi chính xác thứ gì có thể đủ tiêu chuẩn đó, người đàn ông này đáp mình thấy hứng thú với mọi thứ. Đó phải là câu trả lời hữu ích nhất.

      Giờ đây, thứ gì đó thú vị xuất . may, thể tìm thấy tấm danh thiếp của người đàn ông nọ, dù dọn sạch cả bàn để tìm ra nó. Rima phải đợi tới khi ông ta trở lại để chia sẻ cuốn sách . Biết đâu người này quan tâm tới nó hơn ông chủ của .

      Rima lướt qua các trang sách. nhành oải hương xíu cùng vài chiếc lá hương thảo bong ra nằm giữa hai trang giấy. trông thấy thứ đó lúc trước, liền cẩn thận nhặt chúng lên qua khe sách. Trong thoáng chốc, dải hương thoang thoảng giữa mẩu lá ép phai màu vượt lên thành sợi kết nối giữa với người sống cách hàng trăm năm trước. Rima bâng khuâng mỉm cười nghĩ đến người phụ nữ mình bao giờ biết được.

      “Más basura.” Daniel ở bộ phận bảo dưỡng tòa nhà trở lại, bộ đồ bảo hộ áo liền quần màu xám cũ mèm bám đầy bụi bẩn từ chuyến vận chuyển thùng các tông gác xép. Lão ta đẩy thêm vài hộp đựng dụng cụ dưới sàn nhà. Bất chấp thời tiết mát mẻ, mồ hôi lão cứ túa ra trán, lão đưa ống tay áo quệt , để lại vệt bẩn đen xì. “Café?”

      Đây là lần thứ ba trong tuần lão mời chơi. Rima biết Daniel thấy hấp dẫn. Tổ tiên người Berber của mẹ vốn hấp dẫn đàn ông – ngạc nhiên vì dòng tộc đó ban tặng Rima những đường cong mềm mại, làn da ấm áp cùng đôi mắt hạnh đào. Daniel vẫn lảm nhảm bình phẩm tục tĩu, xoa lưng khi vào phòng thư hay liếc nhìn ngực Rima hàng mấy năm trời. Việc lão thấp hơn chục phân và gấp đôi tuổi dường như chẳng hề làm lão nhụt chí.

      “Estoy muy ocupada,” Rima đáp.

      Tiếng cằn nhằn của Daniel thấm đẫm vẻ hoài nghi. Lão liếc ra sau nhìn mấy cái hộp lúc bỏ . Hộp phía cùng chứa chiếc bao tay lông của phụ nữ và con chim hồng tước tiêu bản được gắn vào mảnh cây tuyết tùng. Daniel lắc đầu, kinh ngạc thấy thích dành thời gian cùng những con vật chết hơn ở cạnh lão.

      “Gracias,” Rima lẩm bẩm khi tên nhân viên rời . đóng cuốn sách nhàng rồi đặt nó về chỗ cũ bàn làm việc của mình.

      Trong khi chuyển các món đồ bên trong chiếc hộp tới cạnh bàn, ánh mắt Rima lang thang lạc trở về cuốn sách dưới lớp bìa bọc da giản dị. Trong bốn trăm năm tới, liệu có phải bằng chứng duy nhất cho tồn tại của trang từ tờ lịch, danh sách mua sắm và mảnh giấy ghi công thức của bà về món alfajores, tất cả được đặt trong tệp tài liệu dán nhãn: “Vô danh, quan trọng” và bị cất tại kho lưu trữ chẳng ai ghé thăm?

      Những ý nghĩ u ám đó có hơi hướng bất hạnh. Rima rùng mình, chạm vào lá bùa hộ mệnh hình bàn tay con nhà Proher, Fatima. Nó được đeo quanh cổ bằng sợi dây da và được truyền lại cho những người phụ nữ trong gia đình lâu đến mức chẳng ai có thể nhớ nổi.

      “Khamsa fi ainek,” thầm, hy vọng những lời này xua linh hồn ma quỷ nào mà mình vô tình gọi ra.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Phần II. Sept - Tours và ngôi làng của thánh Lucien

      8.

      “Chỗ mọi khi hả?” Gallowglass lặng lẽ hỏi khi chàng đặt mấy mái chèo xuống và giương cánh buồm đơn lên. Mặc dù còn hơn bốn giờ đồng hồ nữa mặt trời mới mọc, nhưng trong màn đêm có thể thấy bóng dáng con tàu khác. Tôi phân biệt được đường nét tối sẫm của cánh buồm, chiếc đèn lồng đung đưa cây cột tại đuôi con thuyền lớn bên cạnh.

      “Walter chúng ta đến Saint-Malo,” tôi lên tiếng, đầu xoay trong nỗi khiếp đảm. Raleigh đồng hành cùng chúng tôi từ Chòi Gác Cổ tới Portsmouth và điều khiển con thuyền đưa tất cả tới Guernsey. ta bị bỏ lại cầu cảng gần ngôi làng của Cảng Thánh Pierre vì thể xa hơn nữa – thể khi chiếc đầu của ta được treo giá đất Âu châu Thiên Chúa giáo.

      “Tôi nhớ nơi Raleigh bảo tôi đến, thưa , nhưng ta là tên cướp biển. Và là người . Thêm nữa, ta ở đây. Tôi hỏi chú Matthew đấy.”

      “‘Immensi tremor oceani,’” Matthew thầm trong lúc trầm ngâm ngắm nhìn sóng biển nhấp nhô. Chăm chú trông ra làn nước đen ngòm, vẻ mặt tựa như bức tượng chạm khắc nơi mũi tàu. Và lời đáp cho câu hỏi của cậu cháu trai kỳ quặc − run rẩy của đại dương mênh mông. Tôi tự hỏi liệu có phải mình hiểu sai câu bằng tiếng Latin đó .

      “Thủy triều sắp lên rồi, và ngựa đến Fougeres gần hơn đến Saint-Malo.” Gallowglass tiếp tục như hiểu Matthew vừa gì. “Trong thời tiết này, dù ở biển hay đất liền ấy cũng chẳng bị lạnh hơn đâu, mà còn phải cưỡi ngựa quãng đường dài nữa.”

      “Và cháu bỏ rơi chúng ta.” Đây phải là câu hỏi mà là lời tuyên bố. Mí mắt Matthew hạ xuống. gật đầu. “Tốt thôi.”

      Gallowglass kéo buồm, con thuyền đổi hướng từ chính nam hơi chếch về phía đông. Matthew ngồi xuống khoang thuyền, dựa lưng vào những tấm ván trụ cong cong của thân thuyền, rồi kéo tôi vào vòng tay để áo khoác của bao bọc quanh tôi.

      thể có giấc ngủ ngon lành, nhưng tôi vẫn thiếp lồng ngực Matthew. Chuyến làm người ta kiệt sức, với những con ngựa phóng hết tốc lực và những con thuyền chuyên dụng cho quân đội. lạnh giá cùng lớp sương mù mỏng tạo nên tấm màn tuyết mong manh chất vải len của nước . Gallowglass và Pierre giữ nhịp điệu trò chuyện đều đều bằng thứ phương ngữ nào đó của Pháp, tuy nhiên, Matthew vẫn im lặng. đáp lại câu hỏi từ họ nhưng giữ các ý nghĩ của riêng mình giấu phía sau chiếc mặt nạ trầm tĩnh kỳ quái.

      Trời chuyển sang sương tuyết vào lúc bình minh. Bộ râu của Gallowglass đổi thành màu trắng, biến ta thành bản mô phỏng Ông Già Noel. Cùng lúc đó, Pierre điều chỉnh buồm theo lệnh của cậu chủ, khung cảnh xám trắng dần hé lộ ra đường bờ biển nước Pháp. Chưa đầy ba mươi phút sau, thủy triều bắt đầu chạy đua hướng về đất liền. Con thuyền bị nâng những đợt sóng và qua làn sương mù, tháp chuông xuyên lên các đám mây. Nó gần đến mức kinh ngạc, trong khi thời tiết khiến tòa kiến trúc trông mơ hồ . Tôi thở hắt ra.

      “Giữ chắc vào,” Gallowglass nhắc khi Pierre thả cánh buồm.

      Con thuyền lao vút xuyên qua màn sương. Tiếng kêu của lũ mòng biển và tiếng vỗ nước vào vách đá cho tôi biết mình tiến gần bờ, nhưng thuyền vẫn chậm lại. Gallowglass nhấn mái chèo vào con lũ thủy triều, làm chúng tôi lao nghiêng nhanh. Có ai đó la lên, để cảnh báo hoặc chào đón.

      “Il est le chevalier de Clermont!” Pierre khum hai bàn tay quanh miệng gọi đáp lại. Lời của ta được đáp lại bằng im lặng trước khi có tiếng chân chạy nhốn nháo vẳng qua bầu khí lạnh giá.

      “Gallowglass!” Tất cả hướng thẳng vào bức tường. Tôi quờ quạng tìm mái chèo để chống đỡ trước tai nạn hiển nhiên này. Ngay khi các ngón tay tôi tóm được nó Matthew kéo giật ra khỏi nắm tay tôi.

      “Cậu ta vẫn thường táp vào vị trí đó hàng thế kỷ rồi và người của cậu ta quá quen với việc đó,” Matthew điềm tĩnh , hai tay giữ cái mái chèo bẫng. có lẽ nào, vòm thuyền lại liệng nhanh sang trái, thân thuyền áp sát các tấm lát bằng đá granit được đẽo thô. Phía cao, bốn người đàn ông xuất cùng với dây móc, giăng mắc con thuyền giữ nó đứng yên. Mực nước tiếp tục dâng với tốc độ đáng báo động, mang con thuyền lên cao cho tới khi ngang bằng ngôi nhà bằng đá. cây cầu thang leo lên mất hút khỏi tầm nhìn, Pierre nhảy lên mặt đất, thấp giọng trao đổi nhanh và ra dấu về phía con thuyền. Hai người lính được trang bị vũ khí bước nhanh về phía chúng tôi, rồi tăng tốc về hướng cầu thang.

      “Chúng ta đến Mont Saint-Michel, madame.” Pierre chìa tay ra. Tôi nắm lấy bàn tay ấy và bước ra khỏi thuyền. “Ở đây bà nghỉ ngơi trong khi milord chuyện với cha trưởng tu viện.”

      Kiến thức hiểu biết của tôi về hòn đảo này giới hạn trong những câu chuyện cùng mấy người bạn khi ra khơi vào mỗi mùa hè vòng quanh Hòn đảo của Wight: lúc thủy triều thấp nó được bao quanh bởi bờ cát lún, còn khi thủy triều lên cao bị những dòng chảy nguy hiểm vây bọc khiến tàu thuyền đâm vào vách đá. Tôi ngoái nhìn con thuyền xíu mà rùng mình. phép màu khi mọi người vẫn còn sống.

      Trong khi tôi cố gắng chỉnh đốn lại dáng vẻ của mình, Matthew chăm chú nhìn cậu cháu trai của , vẫn còn đứng bất động trong thuyền. “ an toàn hơn cho Diana nếu cháu cùng.”

      “Khi các bạn của chú gây rắc rối cho ấy vợ chú dường như có khả năng tự chăm sóc mình rồi.” Gallowglass ngước lên mỉm cười nhìn tôi.

      “Philippe truy hỏi về cháu đấy.”

      “Hãy với ông…” Gallowglass ngừng lại, nhìn đăm đăm về phía xa. Đôi mắt xanh lam của chàng ma cà rồng chìm sâu trong nỗi mong nhớ. “Hãy với ông cháu vẫn chưa thể quên được.”

      “Vì Chúa, cháu phải cố gắng tha thứ,” Matthew lặng lẽ .

      “Cháu bao giờ tha thứ,” Gallowglass lạnh lùng đáp, “và Philippe bao giờ cầu cháu điều đó. Cha cháu chết trong tay người Pháp mà sinh vật khác người nào đứng lên chống lại đức vua. Cho tới khi cháu làm lành được với quá khứ, cháu đặt chân lên đất Pháp.”

      “Hugh rồi, Chúa phù hộ cho linh hồn ấy được yên nghỉ. Cha cháu vẫn sống giữa chúng ta. Đừng lãng phí thời gian của cháu với ấy.” Matthew bước ra khỏi con thuyền. lời từ biệt, quay sang nắm lấy khuỷu tay tôi, hướng tới chỗ đám cây cối lộn xộn cành lá cằn cỗi. Cảm thấy sức nặng lạnh lẽo từ cái nhìn chằm chằm của Gallowglass, tôi quay lại và ánh mắt khóa chặt vào chàng Celt. Bàn tay chàng ta giơ lên ra hiệu từ biệt.

      Matthew vẫn im lặng trong khi cả hai tới cầu thang. Tôi thể thấy được những bậc thang này dẫn đến đâu và nhanh chóng đếm nổi số bậc của chúng. Thay vào đó, tôi tập trung giữ cho bước chân mình đặt đều đều lên những mặt thang cũ mòn, trơn bóng. Các mảnh băng đá rơi lả tả xuống từ viền váy và gió rít lên qua chiếc mũ trùm đầu to đùng của tôi. cánh cửa chắc chắn, được trang trí bằng những thanh sắt uốn nặng nề rỉ sét, rỗ lỗ chỗ do bụi nước biển mặn mở ra trước mặt.

      Chúng tôi bước vào căn phòng có cả rừng cột để chống đỡ mái vòm. Các lò sưởi lớn rải rác bên những bức tường, lan tỏa khí ấm áp an lành. Tôi thở ra hơi nhõm và rũ chiếc áo khoác ngắn tay của mình cho các mảnh băng đá và nước văng ra. tiếng ho khẽ hướng chú ý của tôi về phía người đàn ông đứng trước ngọn lửa cháy sáng rực. ta mặc chiếc áo choàng đỏ của hồng y giáo chủ mà có vẻ như mới hai mươi mấy tuổi – quá trẻ đối với người có thứ bậc cao như thế trong hàng ngũ chức sắc của nhà thờ Thiên Chúa.

      “A, Chevalier de Clermont. Hay thời điểm này chúng ta phải gọi bằng cái tên nào khác? vẫn ở bên ngoài nước Pháp. Có lẽ đảm nhận chức danh cùng với vị trí của Walsingham, giờ xuống địa ngục nơi thuộc về rồi.” Tiếng của vị hồng y giáo chủ này hoàn hảo chê vào đâu được mặc dù trọng hơi nặng. “Theo chỉ thị từ seignew, chúng tôi theo dõi ba ngày nay. thấy nhắc tới người phụ nữ.”

      Matthew thả cánh tay tôi ra để có thể bước lên phía trước. quỳ gối bằng động tác khom gối nhàng và hôn lên chiếc nhẫn bàn tay chìa ra của người đàn ông. “Éminence. Tôi nghĩ ngài ở Rome, lựa chọn giáo hoàng mới cho chúng ta. Hãy hình dung xem tôi vui mừng thế nào khi thấy ngài ở đây.” Matthew nghe chẳng có vẻ vui mừng. Tôi băn khoăn tự hỏi mình có thể sa vào rắc rối nào khi tới Mont Saint-Michel mà phải Saint-Malo như Walter định trước.

      “Thời điểm tại, nước Pháp cần ta hơn là hội nghị các giáo chủ áo đỏ. Những vụ giết hại đức vua và hoàng hậu thời gian gần đây làm Chúa hài lòng.” Mắt vị hồng y ánh lên tia cảnh cáo. “Elizabeth nhanh chóng phát ra, khi bà gặp ngài.”

      “Tôi có mặt ở đây vì công vụ của nước , thưa đức hồng y Joyeuse. Đây là vợ tôi, Diana.” Matthew cầm đồng xu bạc mỏng của cha giữa ngón trỏ và ngón giữa đưa ra. “Tôi về nhà.”

      “Ta cũng được báo vậy. Cha gửi thứ này để đảm bảo chuyến thông hành của được an toàn.” Joyeuse ném vật lấp lánh về phía Matthew, bắt gọn lấy nó. “Philippe de Clermont quên mất bản thân mình và cư xử như thể ông ấy là vua nước Pháp vậy.”

      “Cha tôi cần luật lệ, vì ông ấy chính là thanh gươm sắc bén lập nên và phế truất những ông vua.” Matthew khẽ khàng đáp. trượt chiếc nhẫn vàng nặng nề qua khớp ngón tay giữa đeo găng. đó khảm viên đá màu đỏ. Tôi chắc chắn hoa văn khắc chiếc nhẫn trông giống như vết bớt lưng tôi. “Các ông chủ của ngài biết rằng nếu phải là cha tôi, Thiên Chúa giáo biến mất đất Pháp. Khi đó ngài cũng có mặt ở đây.”

      “Có lẽ tốt hơn cho tất cả nếu seignew là vua, mà ngai vàng Tin Lành tại có chủ rồi. Nhưng đó là chủ đề chúng ta nên bàn luận riêng,” hồng y giáo chủ Joyeuse cách mệt mỏi. Ông ta ra hiệu cho người hầu đứng trong bóng tối cạnh cửa. “Đưa vợ của chevalier về phòng bà ấy. Bà phải rời khỏi đây, madame. Chồng bà ở giữa những người dị giáo quá lâu. khoảng thời gian quỳ gối nền đá lạnh lẽo nhắc cho ông ấy nhớ mình là ai.”

      Gương mặt tôi chắc hẳn biểu lộ vẻ hoang mang khi phải ở mình tại nơi như thế này.

      “Pierre ở bên cạnh em,” Matthew đảm bảo trước khi cúi xuống áp môi lên môi tôi. “Chúng mình cưỡi ngựa lên đường khi thủy triều xuống.”

      Và đó là lần cuối cùng tôi thấy Matthew Clairmont, nhà khoa học. Người đàn ông sải bước hướng ra cửa còn là giảng viên của Oxford nữa mà là ông hoàng thời kỳ Phục Hưng. Nó hữu trong phong thái của , đôi vai , trong khí chất tinh túy của sức mạnh dẻo dai, và trong ánh mắt lạnh lùng của . Hamish đúng khi cảnh cáo tôi rằng Matthew còn là người đàn ông mà tôi biết khi ở đây. Dưới vẻ bề ngoài dịu dàng của Matthew, thay đổi sâu sắc diễn ra.

      Từ cao vẳng xuống những tiếng chuông ngân nga báo giờ.

      Nhà khoa học. Ma cà rồng. Chiến binh. Gián điệp. Những tiếng chuông ngừng lại trước khi hồi cuối cùng rung lên buồn thảm.

      Hoàng tử.

      Tôi tự hỏi cuộc hành trình còn tiết lộ thêm điều gì về người đàn ông phức tạp mà tôi cưới làm chồng.

      “Chúng ta đừng để Chúa phải chờ đợi, đức hồng y Joyeuse,” Matthew lạnh lùng . Joyeuse theo sau, như thể Mont Saint-Michel thuộc về gia tộc de Clermont chứ phải là nhà thờ.

      Bên cạnh tôi, Pierre buông ra tiếng thở phào nhàng. “Milord est lui-même,” ta thầm cùng vẻ

      nhõm.

      Đức ngài vẫn là đức ngài. Nhưng vẫn là của tôi ư?

      Matthew có thể là hoàng tử, nhưng phải nghi ngờ ai là vua nữa.

      Với mỗi nhịp vó ngựa sải con đường đóng băng, quyền lực hay sức ảnh hưởng của cha Matthew càng lúc càng lớn. Khi chúng tôi càng tới gần Philippe de Clermont, người con trai của ông càng trở nên xa cách và độc đoán hơn – kết hợp khiến tôi phải cắn răng chịu đựng và dẫn đến vài cuộc tranh cãi nảy lửa. Matthew thường xin lỗi vì hành vi áp đặt mỗi khi qua cơn nóng giận, và bởi biết áp lực phải chịu khi tới gần cuộc đoàn tụ với cha mình, tôi lại tha thứ.

      Sau khi đương đầu với những cồn cát lộ ra quanh Mont Saint-Michel lúc thủy triều xuống thấp và di chuyển sâu vào đất liền, các đồng minh của nhà de Clermont chào đón chúng tôi tới thành phố của Fougeres, sắp xếp chỗ nghỉ ngơi trong tòa tháp tiện nghi được chọn sẵn nằm thành lũy nhìn ra quang cảnh đồng quê nước Pháp. Hai đêm sau, những người hầu cầm đuốc đón chúng tôi con đường bên ngoài thành Baugé. Gia huy quen thuộc bộ chế phục của họ: biểu tượng tượng trưng cho quyền lực của Philippe là cây thánh giá và mặt trăng lưỡi liềm. Trước đây tôi trông thấy nó khi mò mẫm vào ngăn kéo bàn làm việc của Matthew tại Sept-Tours.

      “Đây là nơi nào?” Tôi hỏi sau khi người hầu dẫn tới lâu đài bị bỏ hoang. Nó ấm áp đến ngạc nhiên đối với ngôi nhà bị để như vậy, và cả mùi thức ăn được nấu nướng thơm phức thoảng qua những dãy hành lang vang vọng nơi đây.

      “Nhà của người bạn cũ.” Matthew cậy đôi giày khỏi hai bàn chân lạnh cứng của tôi. Mấy ngón tay cái của ấn vào hai lòng bàn chân buốt giá, khiến máu bắt đầu trở lại phần cơ thể đó. Tôi rên lên tiếng sảng khoái. Pierre đặt cốc rượu cay nóng vào tay tôi. “Đây là căn chòi săn ưa thích của René. Khi ông ta sống ở đây, nó đầy sức sống, với những nghệ sĩ và học giả chật kín các căn phòng. Bây giờ cha quản lý nó. Do chiến tranh liên miên nên có dịp để ý đến tòa lâu đài này.”

      Khi còn ở Chòi Gác Cổ, Matthew cùng Walter giảng giải cho tôi về những cuộc chiến diễn ra giữa người Pháp theo Tin lành và người Pháp theo Thiên Chúa giáo xem kẻ nào điều khiển ngai vàng – cũng như đất nước. Từ cửa sổ ở Fougeres, tôi trông thấy các chùm khói đánh dấu doanh trại quân đội gần nhất của người Tin lành ở phía xa xa và cả những ngôi nhà hay nhà thờ bị tàn phá rải rác đường tới đây. Tôi bị sốc bởi phạm vi tàn phá của nó.

      Vì cuộc xung đột này, nên câu chuyện xuất thân được xây dựng cẩn thận của tôi phải thay đổi. Ở nước , tôi có thể là phụ nữ Tin lành gốc Pháp bỏ trốn khỏi mảnh đất chôn nhau cắt rốn để cứu lấy cuộc đời mình và để trung thành với đức tin của mình. Còn ở đây nhất thiết tôi phải là tín đồ Thiên chúa giáo người chịu đau khổ từ rất lâu. Bằng cách nào đó, Matthew có thể nhớ được mọi lời dối và nửa cần thiết để duy trì các nhân dạng của chúng tôi, chưa tới các chi tiết lịch sử của mỗi nơi chúng tôi qua.

      “Giờ chúng mình ở tỉnh Anjou.” Giọng trầm ấm của Matthew khiến tôi chú ý trở lại. “Những người em gặp nghi ngờ em là gián điệp của người Tin lành vì em tiếng , cho dù chúng ta có kể cho họ nghe câu chuyện thế nào nữa. Vùng này ở nước Pháp từ chối công nhận quyền của nhà vua đối với ngai vàng và thích người thống trị theo Thiên Chúa giáo hơn.”

      “Như Philippe,” tôi lẩm bẩm. chỉ hồng y giáo chủ Joyeuse được lợi từ ảnh hưởng của Philippe. Các linh mục Thiên Chúa giáo với bên má hõm sâu cùng những đôi mắt ám ảnh cũng dừng lại để chuyện với chúng tôi suốt đường , chia sẻ tin tức và gửi lời cảm ơn tới cha Matthew vì trợ giúp của ông ấy. ai là tay trắng cả.

      “Ông quan tâm tới tinh tế huyền ảo của đức tin Thiên Chúa giáo. Tại các vùng khác đất nước này, cha ủng hộ những người Tin Lành.”

      “Đó là quan điểm thống nhất các giáo phái cơ đốc rệt còn gì.”

      “Tất cả những gì Philippe quan tâm là cứu nước Pháp khỏi chính nó. Trong giai đoạn quá khứ này, August là vị vua mới của chúng ta, Henri của xứ Navarre, cố gắng ép buộc Paris chấp nhận vị trí chính trị và tôn giáo của ông ta. Người Paris thà chết đói còn hơn cúi đầu trước vị vua theo đạo Tin Lành.” Matthew cào những ngón tay qua mái tóc, dấu hiệu mệt mỏi lo lắng. “Hàng nghìn người chết và giờ cha tin tưởng con người có thể dàn xếp đống lộn xộn này.”

      Philippe cũng có ý định cho con trai ông xử lý các công việc của mình. Pierre đánh thức chúng tôi dậy trước bình minh để thông báo rằng ngựa mới được thắng yên cương và sẵn sàng. ta nhận lời nhắn rằng chúng tôi cần có mặt ở thị trấn cách đây hơn trăm dặm – trong hai ngày tới.

      “Điều đó là thể. Chúng ta thể nhanh quãng đường xa đến thế!” Tôi có thể chất khỏe mạnh, nhưng có bài thể dục vận động đại nào tương đương với việc cưỡi ngựa hơn năm mươi dặm ngày băng qua vùng đồng mông quạnh vào tháng Mười như thế này.

      “Chúng ta có rất ít lựa chọn,” Matthew cách dứt khoát. “Nếu chúng ta trì hoãn, ông càng gửi nhiều người đến để hối thúc suốt dọc đường thôi. Tốt hơn hết là làm như điều được cầu.” Đến chiều muộn ngày hôm ấy, khi tôi sắp phát khóc vì mệt mỏi Matthew nâng tôi lên yên ngựa của gì, cứ thế phi tới lúc con ngựa kiệt sức. Tôi quá mệt mỏi để phản đối.

      Chúng tôi tới chỗ những bức tường đá và nhà gỗ của Saint-Benoir theo đúng lịch trình, y như Philippe ra lệnh. Và cứ như thế, chúng tôi tiến tới Sept-Tours đủ gần để cả Pierre lẫn Matthew bớt lo lắng hơn, nên tôi cưỡi ngựa bên. Bất chấp tôn trọng triệt để từ chúng tôi đối với lịch trình ông đặt ra, Philippe tiếp tục tăng thêm lượng người tùy tùng hộ tống, như thể ông lo sợ chúng tôi có thể đổi ý và quay trở lại . số bám sát gót đường . Số khác mở đường, lo liệu lương thực, ngựa và chỗ nghỉ trong các quán trọ ồn ào, những ngôi nhà riêng, hay các tu viện kiên cố. Khi leo lên dãy đồi đá do những ngọn núi lửa tắt của vùng Auvergne để lại, chúng tôi phát ra bóng dáng các kỵ sĩ dọc theo chuỗi đỉnh đồi bị cấm. Sau khi trông thấy chúng tôi, họ xoay người bỏ mang theo tin báo về cuộc hành trình tới Sept-Tours.

      Hai ngày sau, khi bóng chiều nhập nhoạng buông xuống, Matthew, Pierre và tôi dừng lại đỉnh núi xơ xác, tòa lâu đài của gia tộc de Clermont vừa vặn ra trong tầm mắt qua màn gió tuyết xoáy lộn. Những đường thẳng tắp của tòa nhà chính giúp nó mang vẻ quen thuộc, nếu có lẽ tôi chẳng thể nhận ra nơi này. Các bức tường lượn tròn vẫn còn nguyên vẹn, cũng như cả sáu tòa tháp tròn, mỗi tòa đội cái mái hình nón bằng đồng mà qua nhiều năm tuổi chuyển thành màu xanh lá mềm mại. Khói tỏa ra từ ống khói che mờ những lỗ châu mai của các tòa tháp, đường nét lởm chởm nơi đó gợi cho ta nghĩ đến người khổng lồ điên cuồng cùng những vết xén bờm xờm tô điểm mỗi bức tường. Khu vườn phủ đầy tuyết, có hàng rào vây quanh cùng các luống cây hình chữ nhật xa xa.

      Trong thời đại, pháo đài bị cấm. Nhưng lúc này, với chiến tranh tôn giáo cũng như nội chiến diễn ra khắp nơi, năng lực phòng thủ của nó càng được thấy rệt hơn. tòa nhà cổng gác lừng lững đứng canh đêm giữa Sept-Tours và ngôi làng. Bên trong, người ta hối hả ngược xuôi, nhiều người được trang bị vũ khí. Chăm chú nhìn xuyên qua màn mưa tuyết lúc sẩm tối, tôi trông thấy các kiến trúc bằng gỗ rải rác khắp khu vực sân khép kín bên trong. Ánh sáng từ các ô cửa sổ tạo thành những hình lập phương ấm áp đối lập với màu đá xám xịt vững chắc cũng như nền đất phủ đầy tuyết.

      Con ngựa cái tôi cưỡi nhả ra hơi thở ấm áp và ẩm ướt. nàng là con ngựa tốt nhất tôi từng cưỡi kể từ khi bắt đầu cuộc hành trình. Con ngựa của Matthew khá lớn, đen như mực, có tầm vóc trung bình và hay đớp bất cứ ai đến gần ngoại trừ sinh vật khác người lưng nó. Chúng từ tàu ngựa nhà de Clermont, nên biết đường về mà cần bất cứ chỉ dẫn nào, và đều háo hức vui mừng được tiến gần tới những xô yến mạch cùng cái chuồng ấm áp của mình.

      “Dieu. Đây là nơi cuối cùng trái đất mà hình dung đặt chân đến.” Matthew chớp mắt, chầm chậm như thể chờ đợi lâu đài biến mất ngay trước mắt.

      Tôi với sang, đặt bàn tay mình lên mu bàn tay . “Thậm chí bây giờ vẫn có thể lựa chọn. Chúng ta có thể quay lại.” Pierre nhìn tôi với vẻ tiếc nuối, còn Matthew tặng tôi nụ cười buồn bã.

      “Em biết cha .” Ánh mắt đăm đăm hướng về phía lâu đài.

      Dãy đuốc cháy sáng rực suốt dọc đường tới khi chúng tôi bước vào Sept-Tours. Những cánh cửa bằng gỗ và sắt nặng nề được mở ra sẵn, cùng đội bốn người đàn ông đứng lẳng lặng bên cạnh lúc chúng tôi bước qua. Các cánh cửa đóng sầm lại phía sau lưng, rồi hai người đàn ông kéo thanh gỗ chắn dài bức tường để đóng chặt lối ra vào. Sau nhiều ngày ròng rã cưỡi ngựa băng qua nước Pháp, tôi được dạy rằng đó là thận trọng khôn ngoan. Bên ngoài đầy rẫy những kẻ lạ mặt, bọn lính cướp bóc có thể ập đến bất cứ lúc nào, hay địa ngục chết chóc và bạo lực để làm hài lòng vị lãnh chúa mới.

      Đội quân được trang bị vũ trang dàn hàng ngang – cả người lẫn ma cà rồng – đợi sẵn ở bên trong. Nửa tá người trong số đó chịu trách nhiệm về lũ ngựa. Pierre giao gói thư , trong khi những người kia thấp giọng hỏi han ta và ngầm liếc nhìn tôi. ai đến gần hay đề nghị giúp đỡ cả. Tôi ngồi ngựa của mình, run rẩy vì mệt lả và lạnh cóng, tìm kiếm Philippe trong đám đông. Chắc chắn ông ấy ra lệnh cho ai đó giúp tôi xuống.

      Matthew để ý thấy tình thế khó khăn của tôi bèn quăng người xuống ngựa với duyên dáng đáng ganh tỵ. Bằng vài bước sải dài, ở bên cạnh, nhàng tháo bàn chân mất cảm giác của tôi ra khỏi bàn đạp, hơi xoay nó để khôi phục lại khả năng cử động. Tôi cảm ơn muốn màn ra mắt đầu tiên của mình ở Sept-Tours lại dính dáng đến cú ngã bổ nhào mặt tuyết bị giày xéo bẩn thỉu ở khoảng sân trong lâu đài.

      “Người đàn ông nào trong số này là cha vậy?” Tôi thầm khi luồn qua phía dưới cổ ngựa để sang phía bên kia.

      ai cả. Ông ấy ở trong nhà, dường như chẳng buồn bận tâm gặp chúng ta sau khi khăng khăng bắt chúng ta cưỡi ngựa như thể chó địa ngục truy đuổi đằng sau. Em cũng nên vào trong thôi.” Matthew bắt đầu đưa ra loạt mệnh lệnh bằng thứ tiếng Pháp cộc lốc, giải tán lũ người hầu trố mắt nhìn cách ngớ ngẩn, khiến bọn họ tản ra các hướng cho tới khi chỉ còn duy nhất ma cà rồng đứng lại dưới chân những bậc thềm xoáy ốc bằng gỗ dẫn lên cửa lâu đài. Tôi lại trải qua cảm giác gai gai người khi quá khứ và tại va đụng nhau, do nhớ đến lần đầu tiên leo lên các bậc thềm bằng đá để tới gặp Ysabeau.

      “Alain.” Gương mặt Matthew giãn ra nhõm.

      “Chào mừng về nhà.” Ma cà rồng này tiếng . Khi ông ta tiến tới gần cùng dáng hơi cà nhắc, tôi dần chú ý hơn tới các chi tiết của vẻ bề ngoài: mái tóc muối tiêu, nhiều nếp nhăn quanh đôi mắt hiền hậu và vóc người rắn rỏi.

      “Cảm ơn, Alain. Đây là vợ tôi, Diana.”

      “Bà de Clermont.” Alain cúi đầu chào, vẫn giữ khoảng cách tôn kính cẩn trọng.

      vinh hạnh được gặp ông, Alain.” Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng tôi gắn tên ông ấy với lòng trung thành và ủng hộ kiên định. Đó chính là Alain mà Matthew gọi giữa đêm khuya ở thế kỷ hai mươi mốt khi muốn đảm bảo có sẵn thức ăn đợi tôi tại Sept-Tours.

      “Cha ngài đợi,” Alain , bước sang bên để chúng tôi qua.

      “Nhờ họ đưa thức ăn tới phòng tôi – thứ gì đó đơn giản thôi. Diana rất mệt và đói.” Matthew đưa găng tay của cho Alain. “Tôi gặp cha trong giây lát nữa.”

      giờ ngài ấy mong cả hai vị.” Vẻ mặt thận trọng thể tính trung lập biểu lộ gương mặt Alain. “Cẩn thận với cầu thang, thưa bà. Các bậc thang bị đóng băng rồi.”

      “Vậy ư?” Matthew ngước nhìn lên chòi canh hình vuông, miệng mím chặt.

      Với bàn tay Matthew nắm chắc khuỷu tay mình, tôi gặp rắc rối nào khi hướng lên cầu thang. Nhưng hai chân tôi run lẩy bẩy đến nỗi vấp phải rìa phiến đá lát gồ ghề ở lối vào. Cú trượt chân đó đủ khiến cho tâm trạng Matthew bừng bừng nổi giận.

      “Philippe là vô lý,” Matthew cằn nhằn, tóm lấy eo tôi. “ ấy suốt nhiều ngày qua.”

      “Ngài ấy dứt khoát ra lệnh như vậy, thưa ngài.” Vẻ trang trọng cứng nhắc của Alain là lời cảnh báo.

      “Ổn cả mà, Matthew.” Tôi đẩy cái mũ trùm ra khỏi mặt để quan sát đại sảnh phía xa. Chẳng thấy bóng dáng bộ sưu tập trưng bày áo giáp và giáo mác mà tôi thấy ở thế kỷ hai mươi mốt. Thay vào đó là tấm bình phong trạm khắc bằng gỗ, giúp làm chệch hướng làn khí ẩm thấp khi cửa mở. Các đồ trang trí thời trung cổ, chiếc bàn tròn, cái bát sứ mỏng manh Được thay thế bởi nhiều tấm thảm thêu nhàng lay động những bức tường đá bởi làn khí ấm áp từ lò sưởi hòa vào luồng gió lạnh hơn từ bên ngoài lọt vào. Hai chiếc bàn dài có loạt dãy ghế băng thấp kê sát bên sườn choán đầy khoảng gian còn lại, và những người đàn ông đàn bà tới lui như con thoi giữa chúng bày ra đủ loại cốc đĩa để chuẩn bị bữa tối. Có chỗ cho hàng tá sinh vật khác người tụ họp ở đó. Ban công của người hát rong ở phía cao lúc này đông nghẹt những nhạc công chuẩn bị nhạc cụ sẵn sàng.

      kinh ngạc,” tôi thốt lên qua đôi môi cứng đờ.

      Những ngón tay lạnh cóng nắm lấy cằm tôi và xoay nó qua. “Nhìn em xanh xao quá,” Matthew .

      “Tôi mang chiếc lò than đến để sưởi ấm bàn chân bà ấy, cả rượu vang nóng nữa,” Alain hứa. “Và chúng ta đốt lửa to lên.”

      sinh vật máu nóng xuất , đón lấy cái áo choàng ướt từ tôi. Matthew quay phắt về hướng mà tôi vốn biết nó như phòng ăn sáng. Tôi lắng tai nhưng chẳng nghe thấy gì.

      Alain lắc đầu vẻ lấy làm tiếc. “Ông ấy trong tâm trạng tốt lắm.”

      ràng là thế.” Matthew nhìn xuống. “Philippe gầm lên vì chúng ta. Em có chắc , Diana? Nếu em muốn gặp ông tối nay, đương đầu với cơn thịnh nộ đó.”

      Nhưng Matthew đơn độc trong lần đầu tiên gặp mặt cha sau khoảng thời gian hơn sáu thập kỷ. đứng bên cạnh khi tôi đối mặt với những bóng ma của mình tôi cũng làm thế vì . Rồi tôi lên giường ngủ và nằm lì ở đó cho tới dịp Giáng Sinh.

      “Mình nào,” tôi đáp cách kiên quyết, nhấc cao mấy lớp váy.

      Sept-Tours quá cổ xưa nên chẳng thể có những thiết kế đại như hành lang, nên chúng tôi phải luồn qua khung cửa vòm ở bên phải lò sưởi và vào trong góc căn phòng mà ngày nào đó là phòng khách rộng rãi của Ysabeau. giờ, nó chưa bị nhét đầy các đồ gỗ nội thất đẹp đẽ mà được trang trí bằng những đồ vật mộc mạc như mọi nơi khác tôi thấy cuộc hành trình. Đồ nội thất bằng gỗ sồi nặng nề chống trộm cắp và có thể chịu được những va chạm từ vài trận chiến thi thoảng xảy ra, điều đó được minh chứng bằng vết xước sâu cắt theo đường chéo ngang bề mặt chiếc tủ búp phê.

      Từ đó, Alain dẫn cả hai vào căn phòng nơi Ysabeau và tôi ngày nào đó dùng bữa sáng giữa những bức tường màu nâu đỏ ấm áp, chiếc bàn bày đồ sứ cùng dao dĩa nặng trịch bằng bạc. Nó khác xa hình ảnh ở tại, chỉ có duy nhất cái bàn và ghế. mặt bàn phủ đầy các giấy tờ và nhiều đồ dùng bàn giấy khác. có thời gian để nhìn ngó thêm, chúng tôi leo lên chiếc cầu thang đá mòn vẹt dẫn tới phần xa lạ khác của lâu đài.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :