1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mùi Hương - Patrick Suskind

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 38
      Gã ở miết trong xưởng. Gã bảo Druot rằng gã muốn tìm công thức mới cho nước hoa Eau de Cologne. ra gã thí nghiệm những loại nước hoa khác. Nước hoa gã trộn ở Montpellier sắp hết đến nơi dù gã xài rất ít. Gã trộn thứ mới. Nhưng lần này gã thoả mãn với mùi người tạm bợ bằng những vật liệu góp nhặt vội vã mà gã có tham vọng làm , có thể nhiều, thứ nước hoa riêng cho gã.

      Trước hết gã trộn thứ bình thường, hôi như chuột cho ngày thường, vẫn còn mùi người chua như phó mát nhưng chỉ toả ra ngoài như xuyên qua lớp dầy những len với dạ từ da khô khốc của người già. Với mùi này gã dễ hoà trong đám đông. Nó đủ mạnh để chứng tỏ về phương diện khứu giác có mặt của người nhưng đồng thời kín đáo để bị chú ý. Grenouille đúng ra hữu vì gã có mùi, nhưng với cái mùi hết sức khiêm nhường này gã lại có mặt, nhập nhằng rất hợp ý gã, dù là ở trong nhà bà Arnulfi hay đôi khi gã ra phố.

      Dĩ nhiên trong số công chuyện cái mùi này gây trở ngại. Chẳng hạn như khi gã đến nhà buôn, theo lệnh Druot hay do tự ý, mua chút cầy hương hay dăm hột xạ hương vì cái mùi quá sức kín đáo nên có thể người ta nhận ra có mặt của gã, do đó tiếp hoặc có nhận ra nhưng lại bán lộn món hàng hay giữa chừng lại quên mất gã. Cho những dịp như thế, gã trộn thứ nước hoa mạnh hơn, hơi có mùi mồ hôi, thêm chút ít nồng gắt, tạo vẻ lỗ mãng làm người khác có cảm tưởng gã vội lắm, cần mua hàng gấp. Gã nhái y hệt aura seminalis[1] của Druot bằng cách cho hút mùi của bột mì rang nóng đánh với trứng vịt tươi vào tấm khăn len bôi mỡ, với mùi này gã cũng gây được chú ý nếu cần.

      loại nước hoa khác trong cái kho của gã có tác dụng gây thương hại, thành công ở các bà sồn sồn trở lên. Nó có mùi sữa loãng, mùi gỗ mềm và sạch. Với nước hoa này cạo râu, mặt lầm lì và mang áo măng tô Grenouille vẫn giống như thằng xanh xao khốn khổ trong cái áo rách te tua cần phải được cứu giúp. Khi ngửi mùi này, các bà bán hàng ở chợ dúi cho gã hạt dẻ và lê khô vì thấy thằng đói khổ quá. Còn bà vợ ông hàng thịt, mụ nạ dòng khe khắt đừng có hòng mà xin xỏ, lại cho gã tha hồ chọn lấy trong mớ thịt dư và xương ôi vì cái mùi ngây thơ của gã làm mềm trái tim bà mẹ trong người mụ. Những thứ bỏ này gã chiết tinh với rượu lấy thành phần chính cho thứ mùi gã dùng đến khi nhất định muốn bị ai quấy rầy. Nó tạo quanh gã lớp khí có mùi hôi kinh tởm, hơi hôi thối như hơi thở từ những cái miệng chẳng bao giờ được săn sóc khi ngủ dậy. Nó hiệu nghiệm đến nỗi ngay tay khó tính như Druot cũng tự động quay , lảng ra xa mà cái gì xua như thế. Vài ba cái giọt đáng kinh tởm này ngưỡng cửa lều cũng đủ xua người lẫn vật tránh xa.

      Tuỳ hoàn cảnh đòi hỏi mà gã thay những mùi khác nhau này như thay áo để khỏi lộ liễu trong thế giới con người và bản chất gã bị phát giác, núp dưới những mùi này, Grenouille theo đuổi hết mình nỗi đam mê của gã: cuộc săn đuổi cực kỳ khéo léo mùi thơm. Vì có mục đích lớn trước mũi, và vì còn những hơn năm nữa nên gã bắt tay vào việc mài sắc vũ khí của gã, tức là rèn luyện kỹ thuật, từng bước làm cho những phương pháp của gã thêm hoàn hảo, chỉ với nỗi hăm hở cháy bỏng mà còn có kế hoạch cách hệ thống.
      Gã tiếp tục những việc dở dang hồi còn làm cho Baldini, tìm cách lấy mùi của những vật vô sinh như đá, kim loại, thuỷ tinh, gỗ, muối, nước, khí…

      Những gì thất bại thảm hại trước kia với phương pháp chưng cất thô thiển, nay thành công nhờ hấp thụ mạnh của mỡ. Gã thích mùi mốc lạnh của quả đấm cửa bằng đồng thau, thế là gã bọc nó trong mỡ bò mấy ngày. Quả nhiên, khi gã lột lớp mỡ, kiểm nghiệm thấy có mùi nắm cửa, dù rất ít. Ngay cả sau khi rửa trong cồn cái mùi ấy vẫn còn ở đó, rất mỏng như ở tận đâu đó xa, bị che phủ bởi hơi rượu mà cái thế giới này chỉ có cái mũi nhậy của Grenouille mới nhận ra, nhưng đó có nghĩa là dùng được, ít nhất nguyên tắc. Nếu gã bọc chục nghìn nắm đấm trong mỡ rồi để yên nghìn ngày gã có thể lấy được giọt xíu essence absolue của nắm đấm cửa đồng thau ngay sát mũi.

      Gã cũng lấy được mùi vôi xốp của cục đá lượm cánh đồng ô-liu ngay trước lều. Bằng cách ngâm bấy, gã lấy được cục pomát xíu mùi đá, cái mùi cực mạnh làm gã vui thể tả. Gã trộn mùi này với đủ thứ mùi của những vật quanh lều và dần dà tạo ra được mùi của cánh đồng ô-liu phía sau tu viện Franciscain dưới dạng thu , gã đem theo trong người cái mùi được nút kín trong lọ này để khi nào thích gã có thể dựng lại mùi của cả cánh rừng ô-liu.

      Đó là những mùi kiệt tác gã hoàn thành như những trò chơi nho mà ngoài gã ra chẳng ai thấy hay ho hay chú ý đến. Riêng gã vô cùng hứng thú với hoàn hảo vô nghĩa này, trước kia gã có và sau này gã cũng có được những sung sướng thơ ngây như lúc này, say sưa trong trò chơi tạo nên mùi của phong cảnh, của tĩnh vật và của từng vật thể. Rồi gã chuyển sang các đối tượng sống.

      Gã tìm bắt ruồi trong mùa đông, rồi bọ, chuột, mèo con; bó chúng trong mỡ ấm. Đêm đêm gã mò vào các chuồng trại để trùm khăn dính mỡ lên bò, dê, heo hay quấn chúng trong cái băng vải tẩm dầu trong vài giờ. Hay gã lẻn vào bãi chăn cừu, lén xén lông con cừu non đem về rửa trong rượu tinh cất. Lúc đầu kết quả chẳng khả quan gì. Vì như quả đấm cửa hay cục đá, lũ vật đâu để cho gã lấy mùi của chúng dễ dàng. Bầy heo cạ cẳng vào cột để làm tuột băng vải. Đám cừu be be khi gã cầm dao lẻn vào chuồng ban đêm. Lũ bò cứng đầu lắc bầu vú để hất khăn . số côn trùng gã bắt được lại xịt ra mùi hôi trong lúc gã lấy mùi, còn lũ chuột vãi phân vào chỗ pomát rất dễ bắt mùi, chắc là vì quá sợ. giống như hoa, những con vật gã muốn ngâm bấy chịu cho mùi cách dễ dàng mà chống cự cách kịch liệt trước cái chết, giãy giụa nhất định chịu để khuấy trong nồi, do đó toát quá nhiều mồ hôi làm hỏng nồi mỡ nóng vì quá chua. Như thế thể làm ăn gì được. Chúng được sợ hay giãy giụa mà phải yên ngay tức . Phải giết chúng.

      Trước hết gã thử với con chó con. Với miếng thịt, gã dụ con chó rời khỏi mẹ nó từ lò mổ về tới xưởng, rồi trong khi nó vẫy đuôi mừng rỡ vồ miếng thịt gã cầm trong tay trái tay phải gã nện nhanh gọn lên gáy nó bằng thanh củi. Cái chết đến quá nhanh nên ngay cả khi Grenouille đặt nó lên vỉ, giữa những tấm kính bôi mỡ trong phòng lấy mùi để lấy mùi thơm lẫn mồ hôi của nó, vẻ vui sướng vẫn còn nơi mõm và mắt của con vật. Dĩ nhiên phải cẩn thận. Xác chết cũng mau hư như hoa bị hái. Cho nên Grenouille canh xác con vật suốt mười hai tiếng cho đến khi có mùi xác chết toát ra, tuy mùi vẫn dễ chịu nhưng đúng nữa. Tức gã chấm dứt enfleurage, vứt cái xác , rồi mang chút xíu mỡ mang mùi thơm lấy được ấy vào trong nồi, dùng cồn rửa kỹ. Rồi gã chưng cất chỗ cồn ấy chỉ còn bằng đầu ngón tay, đựng trong ống thuỷ tinh xíu. Nó ràng có mùi lông chó ẩm, nhờn và hơi nồng, giống cách hết sức ngạc nhiên. Cho nên khi Grenouille cho con chó mẹ ở lò mổ ngửi nó sủa vang mừng rỡ, ve vẩy đuôi, mũi nó như muốn rời cái ống thuỷ tinh nọ. Grenouille nút kín, cất trong người và giữ thời gian dài như để kỷ niệm cái ngày vinh quang này, cái ngày mà gã thành công trong việc lấy được hồn thơm của sinh vật.

      Rồi gã thử với người, từng bước , hết sức thận trọng. Đầu tiên gã chỉ dám lén theo ở khoảng cách bảo đảm, với cái lưới mặt thưa, vì đối với gã cái chính phải là mẻ lưới mà là để thử nguyên tắc phương pháp săn của gã.

      Ngụy trang với loại nước hoa bình thường, gây chú ý, tối tối gã trà trộn trong số khách của quán Quatre Dauphins để gắn những mẩu vải xíu tẩm dầu và mỡ dưới ghế, bàn và trong những hốc tường kín đáo. Vài ngày sau gã gỡ về, kiểm nghiệm. Quả nhiên chúng có chút hơi hướng người trộn đủ với thứ mùi nhà bếp, mùi khói thuốc, mùi rượu vang. Nhưng cái hơi hướng người này chỉ lờ mờ vậy thôi, giống hơi thở chung hơn là mùi riêng biệt. Grenouille cũng lấy được khối lớn mùi người như thế, nhưng thuần chất hơn và mùi mồ hôi cũng siêu phàm hơn, bằng cách gắn những mẩu vải nọ dưới ghế nhà thờ vào ngày 24 tháng mười hai, rồi gỡ về vào ngày 26 tháng mười hai, sau khi có ít nhất bảy lượt người ngồi lên chúng xem lễ, tập hợp mùi khủng khiếp biểu những mẩu vải ấy, từ mùi hôi mông, máu tháng, mùi khoeo chân nhớp mồ hôi và bàn tay nắm chặt trộn với mùi hơi thở của ngàn cái miệng đồng ca và lầm rầm Ave Maria cùng với cái hơi làm ngột thở của trầm và mật nhi lạp; hội tụ u ám, mờ ảo, buồn nôn, khủng khiếp, nhưng rệt là mùi người.

      tay thợ bao bì mới chết vì bị lao phổi trong nhà thương thí, cái khăn trải giường nằm hai tháng lẽ ra phải mang đốt nhưng Grenouille thuổng được, thế là gã kiếm được mùi riêng của người. Tấm khăn đẫm những chất nhờn, cáu ghét của tay thợ khiến nó hút mùi chẳng khác gì lớp mỡ vẫn dùng trong enfleurage nên có thể đem rửa với rượu ngay được. Kết quả đáng sợ: ngay dưới mũi Grenouille tay thợ làm bao bì sống dậy từ cõi chết, bồng bềnh trong rượu, tuy bị cái phương pháp tái tạo kỳ quái và đủ thứ chướng khí do bệnh của làm cho méo mó nhưng vẫn nhận được qua bức tranh mùi-riêng-của-, tay cỡ ba mươi tuổi, tóc vàng, mũi tẹt, ngũ đoản, bàn chân bẹt hôi mùi phomát, của quý phồng to, hay cau có, hôi mồm, nghĩa là chẳng đẹp đẽ gì, mùi của đáng để giữ lâu như mùi con chó con. Tuy vậy Grenouille vẫn để cái hồn mùi ấy bồng bềnh trong lều, ngửi liên tục để sung sướng và thoả mãn vì cảm giác có được quyền lực cái tinh hoa của người khác. Hôm sau gã đổ .

      Mùa đông này gã còn thử lần nữa. Gã trả cho mụ ăn mày câm quan để mụ mang thân thể những tấm giẻ tẩm dầu, mỡ trộn nhiều kiểu khác nhau trong ngày. Gã thấy rằng mỡ của thận cừu non trộn với mỡ heo và mỡ bò lọc nhiều lần trong tỷ lệ 2:5:3 , thêm chút dầu mới ép hút mùi người nhiều nhất.

      Grenouille thấy thử bấy nhiêu đó đủ rồi. Gã từ bỏ ý định bắt sống người để chế biến mùi. Vì vừa nguy hiểm vừa đem lại hiểu biết gì mới. Gã biết bây giờ gã rành cái kỹ thuật lấy mùi người rồi, cần phải chứng minh tiếp.

      ra gã đâu quý báu gì mùi người. Gã có thể mô phỏng khá giống bằng những chất khác. Gã thèm muốn mùi số người hiếm hoi nhất định: những người khêu gợi tình . Họ là nạn nhân của gã.

      Chú thích:.

      [1] Mùi tinh dịch (tiếng La tinh)

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 39

      Ra giêng bà quả phụ Arnulfi tái giá với tay thợ cả Dominique Druot và vọt thành Maitre Gantier et Parfumeur. Có tiệc tùng linh đình đãi những ông thầy trong phường hội, đám thợ phụ được chiêu đãi kém hơn chút, bà chủ sắm cái nệm mới để chính thức chung sống với Druot và đem những áo quần màu tươi ra mặc. Ngoài ra mọi chuyện vẫn như cũ. Bà vẫn giữ cái tên Arnulfi quen biết, gia tài vẫn là của riêng bà, bà vẫn giữ tài chánh của tiệm và chìa khoá hầm, ngày ngày Druot phục vụ bà chủ theo đúng bổn phận rồi sau đó uống vang giải khát, còn Grenouille tuy thành thợ cả duy nhất, vẫn phải gánh phần lớn công việc cùng với đồng lương ít ỏi, ăn uống vẫn đạm bạc và chỗ ở vẫn tồi tàn.

      Năm mới bắt đầu với biển vàng hoa đậu, hoa dạ lan hương, hoa đồng thảo và hoa thuỷ tiên thơm mê mẩn. Vào sáng chủ nhật của tháng ba, tức là khoảng năm sau ngày tới Grasse, Grenouille đến khu vườn sát tường thành ở đầu kia thành phố xem thể ra sao. Gã chuẩn bị sẵn tinh thần đón mùi thơm năm trước vì gã biết khá cái gì chờ đợi…thế mà khi gã đánh hơi thấy cái mùi ấy ở Porte Neuve, tức là còn nửa đường nữa mới đến chỗ tường nọ, tim gã đập mạnh hơn và máu nhộn nhạo trong huyết quản vì sung sướng, cái cây đẹp gì sánh nổi vẫn còn ở nguyên đó, qua được mùa đông mà suy suyển, căng nhựa, cao lên, lớn ra, trổ nhiều cành hoa rực rỡ! Thơm nồng nàn hơn gã chờ đợi, nhưng giảm thanh tao. Nếu năm trước còn là tản mạn, rời rạc nay kết thành dòng thơm của nghìn màu chói lọi, màu nào có thể tuột ra. Grenouille mừng rỡ thấy rằng nguồn của dòng thơm này ngày càng mạnh hơn. năm nữa, chỉ năm nữa thôi,chỉ mười hai tháng nữa thôi, cái nguồn ấy đầy ứ và gã có thể tới lấy, hứng cái mùi thơm tuôn ra mãnh liệt ấy.

      Gã chạy dọc theo tường thành tới chỗ giáp vườn. Dù ở ngoài vườn mà ở trong nhà, cửa sổ khép kín mùi thơm của vẫn bay ra như làn gió . Grenouille đứng lặng. Gã say hay choáng váng như lần đầu được ngửi. Mà gã có cảm giác sung sướng của người tình, đứng xa lắng nghe, nhìn ngắm người và biết chắc rằng sang năm đến đón về. Thế đấy, con bọ chét độc, con người ghê tởm, con quái vật Grenouille chưa từng biết lại chưa từng biết rung động, lại đứng nơi tường thành ở Grasse này vào ngày tháng ba ấy để và vôc ùng sung sướng trước mối tình của gã.

      Dĩ nhiên phải gã con người, như bé trong nhà sau bức tường nọ. Gã mùi thơm ấy. Chỉ mùi thơm ấy chứ gì khác bởi vì trong tương lai nó là của gã.
      Gã thề năm sau đón nó về. Sau lời thề, lời hứa hôn kỳ quặc này, hứa chung thuỷ với chính gã và với mùi thơm của gã trong tương lai, gã rời khỏi nơi đó mà lòng đầy tin tưởng, gã qua Porte du Cours về lại phố.

      Đêm ấy nằm trong lều, gã lại lôi cái mùi thơm ấy ra từ trong trí nhớ, gã thể cưỡng được cám dỗ, gã lặn ngụp trong nó, vuốt ve và để được vuốt ve, sát, sát như trong mơ, như thể cái mùi ấy là của gã, của riêng gã rồi vậy, rồi gã nó, và qua nó chính gã, say đắm tuyệt vời lúc lâu. Gã muốn đem cái cảm giác tự say mê mình ấy theo vào giấc ngủ. Nhưng vào chính cái lúc gã nhắm mắt lại và chỉ cần hơi thở nữa thôi để vào giấc ngủ cái cảm giác kia rời bỏ gã, thình lình biến mất, trong lều chỉ có mùi chuồng dê lạnh và gắt thay vì mùi của gã.

      Gã hốt hoảng chồm dậy, gã thầm nghĩ “ sao đây, nếu cái mùi thơm mà tôi chiếm hữu.. sao đây nếu nó hết ? Mùi thơm trong trí nhớ còn mãi mãi nhưng mùi thơm ngoài đời phai . thoáng qua. Và khi nó hết cái nguồn mà tôi vẫn hứng nó cũng còn nữa. Rồi tôi trần trụi như xưa và lại phải dùng đến những thứ thay tạm. , tệ hơn xưa chứ! Vì tôi được biết và chiếm hữu được cái mùi thơm tuyệt vời ấy và tôi thể quên nó được vì bao giờ tôi quên được mùi nào cả. Và thế là cả đời tôi phải sống nhờ vào hồi tưởng đến nó, giống như tôi vừa mới sống giây lát nhờ vào tiền-hồi-tưởng tới nó, tới cái mà tôi chiêm hữu…Vậy tôi cần gì đến nó mới được chứ?”

      Suy nghĩ này làm Grenouille vô cùng bồn chồn. Gã hết sức kinh hãi vì khi chiếm hữu được cái gã chưa có lại mất cưỡng lại được. Gã giữ được nó trong bao lâu? Vài ngày? Vài tuần? Có thể được tháng chăng nếu như gã dùng nó hết sức dè xẻn. Rồi sao nữa? Ngay lúc này đây gã thấy trước những giọt mùi cuối cùng được vẩy ra, cái lọ con lại còn được tráng với rượu tinh cất để còn chút nào của cái mùi gã sót lại, ngay lúc này đây gã thấy, ngửi thấy cái mùi gã ấy tan biến mãi mãi, lấy lại được nữa. giống như cái chết kéo dài, cái chết gây ra bởi tự bốc hơi từ từ cực kỳ đau đớn ra cái thế giới ghê tởm bên ngoài, ngược với chết ngạt.

      Gã ớn lạnh. Gã thèm được bỏ quách những toan tính, bỏ ngay trong đêm. Gã muốn ngang qua những núi non còn phủ tuyết, suốt hàng trăm dặm đến vùng Auvergne để chui vào cái hang xưa, ngủ cho đến khi chết. Nhưng gã làm thế. Vẫn ngồi yên, dù khao khát rất mãnh liệt. Gã làm theo điều khao khát vì gã từng thèm được bỏ , rúc vào hang nào đó. Gã biết rồi. Điều gã chưa biết là làm chủ được cái mùi thơm tuyệt vời như của bé sau bức tường thành. Ngay cả khi biết rằng gã phải trả giá đắt khủng khiếp vì mất mùi ấy sau khi chiếm hữu được nó, gã vẫn tha thiết được chiếm hữu và mất hơn là từ bỏ cả hai. Gã quen từ bỏ cả đời rồi. Nhưng chưa từng có rồi lại mất.

      nghi ngại biến dần kéo theo ớn lạnh. Gã thấy máu nóng làm gã sống lại cùng với cái ý muốn làm những gì toan tính. Cái ý muốn này mãnh liệt hơn trước vì nó phải chỉ hoàn toàn do thèm muốn mà còn do quyết định có cân nhắc. Khi phải chọn giữa chết khô hay để rơi xuống đất con bọ chét Grenouille chọn khả năng thứ hai dù biết lần rơi này là lần rơi chót. Gã lại nằm xuống, thoải mái giữa đống rơm, chăn và tự thấy rất hùng.

      Nhưng Grenouille phải là Grenouille nữa nếu gã tự thấy thoả mãn lâu dài với cảm giác hùng mù quáng. Cái ý chí tồn tại và chiến thắng của gã quá bền bỉ, bản chất gã quá xảo quyệt, đầu óc gã quá khôn ngoan. Đúng, gã quyết chí chiếm mùi thơm của bé sau bức tường thành. Nếu chiếm được mùi thơm ấy mà chết hay giữ được lâu rồi mới mất tốt hơn. Phải tìm cách giữ cho lâu. Phải khử bay hơi của nó mà vẫn giữ được đặc tính, đấy là cả vấn đề trong ngành nước hoa.

      Có những mùi thơm giữ được cả chục năm. cái tủ được cà với xạ hương, miếng da tẩm với dầu quế, củ long diên hương, cái tráp bằng gỗ bách hương giữ mùi hầu như mãi mãi. Những loại khác như dầu chanh, cam chanh, tinh chất thuỷ tiên hay huệ và mùi thơm của nhiều loại hoa bay mất trong vài giờ nếu để chúng dưới dạng tinh chất ngoài khí mà được hãm. Nhà chế nước hoa đối phó với những hoàn cảnh tai hại này bằng cách hãm những mùi dễ bay hơi như thể xích chúng lại, kiềm chế cái thói bay nhảy; nghệ thuật ở đây là xích đủ lỏng để cho cái mùi bị hãm chừng như vẫn có tự do nhưng lại đủ chặt để nó bay mất. Grenouille có lần gặp trường hợp khó khăn này và thành công cách tuyệt hảo khi hãm cái mùi thơm phù du của hoa huệ với chút xíu cầy hương, vani, labdanum, dầu bách, nhờ thế mới có được mùi thơm này. Tại sao thể làm tương tự với mùi thơm của nhỉ? Tại sao gã lại phải dùng dưới dạng nguyên chất để phí phạm cái hương thơm quý nhất và mỏng mảnh nhất kia? Thô lỗ quá! Chẳng khéo chút nào! Có ai để nguyên kim cương mài chăng? Có ai đeo vàng nguyên tảng quanh cổ ? Chẳng lẽ gã cũng chỉ là thứ cướp bóc mùi thơm tầm thường như Druot hay như những tay chỉ biết ngâm bấy, chưng cất, ép hoa khác? Hay gã đúng là nhà chế tạo nước hoa vĩ đại nhất thế giới?

      Gã kinh hoàng tự đánh vào đầu vì sớm nghĩ ra; tất nhiên cái mùi thơm có hai này thể nào dùng dưới dạng thô được. Phải coi nó như viên ngọc quý nhất. Phải tạc vương miện ở nơi cao quý nhất rồi kết với những mùi thơm khác mà vẫn vượt hẳn lên; mùi thơm của gã toả ra rực rỡ. Gã chế tạo thứ nước hoa theo đúng những quy tắc nghệ thuật và mùi thơm của sau bức tường là cái hồn của nó.

      thể dùng xạ hương, cầy hương, dầu hoa hồng , dầu hoa cam để làm những chất phụ trợ, làm đầu, mình, chân, tay, làm chất hãm được rồi. chắc chắn thế. thứ nước hoa như thế, nước hoa người, cần phải có những thành phần khác…

      Chương 40

      Tháng năm năm ấy người ta tìm thấy xác trần truồng của mười lăm tuổi cánh đồng hoa hồng nằm giữa Grasse và Opio, làng ở phía đông. bị cú đập mạnh vào đầu. Người nông dân phát giác ra cái chết khủng khiếp nọ hoảng loạn đến nỗi tí nữa bị tình nghi, bởi vì run giọng khai với viên thiếu uý cảnh sát rằng ông ta chưa từng thấy cái gì đẹp như thế, đúng ra ông ta muốn rằng chưa từng thấy cái gì khủng khiếp như thế.

      Đúng là rất đẹp. thuộc loại phụ nữ chậm chạp, như thể được sinh ra từ mật ong sẫm màu, mịn màng, ngọt lịm và vô cùng hấp dẫn, chỉ cần điệu bộ lừ đừ, cái hất tóc, cái quắc mắt chậm chạp như thể quất ngọn roi cũng đủ chế ngự cả căn phòng, trong khi bình thản đứng nơi trung tâm của trận bão, có vẻ thèm biết đến cái sức hút cưỡng lại được của đối với khát khao và linh hồn của cả đàn ông lẫn phụ nữ. còn trẻ, rất trẻ, vẻ quyến rũ chưa bị giảm sút bởi đẫy đà. Hai đùi mịn và lẳn, bộ ngực như trứng gà bóc còn khuôn mặt hơi bè được ôm bởi mái tóc đen dày vẫn còn những nét thanh tao và những chỗ bí mật. Nhưng mái tóc còn nữa. Kẻ sát nhân cắt và lấy mất cùng với quần áo.

      Người ta tình nghi người Ziguener [1] Chẳng có gì mà người Ziguener dám. Ai cũng biết họ dệt thảm từ quần áo cũ, nhồi tóc người vào gối và làm búp bê từ da và răng người treo cổ. Chỉ bọn Ziguener mới gây ra những tội ác ghê tởm như thế. Thế nhưng vào lúc ấy có người Ziguener nào ở đấy cả, chung quanh đấy cũng vì họ kéo qua đấy lần chót vào tháng mười hai.

      có người Ziguener người ta nghi bọn Italia làm thuê. Nhưng cũng chẳng có người Italia nào ở đấy cả vì lúc ấy đối với họ còn quá sớm, tháng sáu họ mới đến vào mùa hoa nhài, vậy cũng phải là họ. Sau đó đến lượt mấy người làm tóc giả bị tình nghi, người ta lục soát tìm tóc . Vô ích. Rồi đám người Do Thái, rồi đám tu sĩ bị coi là dâm đãng trong tu viện dòng Bénédict dù họ ngoài bảy mươi xa, rồi đến những tu sĩ dòng Cister, rồi những người của hội Tam điểm, rồi những người điên trong nhà thương thí, rồi bọn làm than, rồi bọn ăn xin và sau hết là những nhà quý tộc đồi trụy, đặc biệt là hầu tước de Cabris, vì ngài lấy vợ tới ba lần, nghe ngài tổ chức những buổi xem lễ trác táng dưới hầm dinh thự của ngài, tại đó ngài uống máu trinh nữ để được cường dương. Tất nhiên chẳng có bằng chứng cụ thể nào, ai trông thấy án mạng, tìm ra áo quần và tóc nạn nhân. Sau ít tuần viên thiếu uý cảnh sát ngưng cuộc điều tra.

      Giữa tháng sáu những người Italia đến hái thuê, nhiều người mang theo cả gia đình.
      Nông dân ở đấy thuê họ nhưng do án mạng, cấm vợ và con tiếp xúc. Cẩn thận vẫn hơn. Vì mặc dù thực tế họ chịu trách nhiệm về vụ giết người nhưng nguyên tắc có thể lắm chứ, cho nên tốt nhất vẫn nên cẩn thận.

      Mùa hoa nhài bắt đầu chưa lấy gì làm lâu xảy ra tiếp hai vụ giết người. Nạn nhân là hai đẹp, cũng thuộc loại lừ đừ, tóc đen, người ta lại cũng tìm thấy họ bị đánh sau gáy, nằm chết trần truồng cánh đồng hoa, tóc bị cắt mất. Lại vẫn có dấu tích nào của thủ phạm. Tin dữ lan nhanh như đám cháy rừng, những hành động thù địch với đám dân làm thuê có nguy cơ nổ ra được biết nạn nhân là hai Italia, con người làm công nhật đến từ Genua.

      sợ hãi trùm lên khắp vùng. Người ta biết phải hướng căm giận đầy bất lực vào ai. Vẫn còn có kẻ nghi cho bọn người điên hay ngài hầu tước đáng nghi nhưng ai tin, vì bọn điên bị canh chừng cả ngày lẫn đêm, còn ngài hầu tước Paris từ lâu rồi. Thế là họ gần lại nhau. Các nông dân cho những người Italia làm thuê được vào ở trong các nhà kho, trước nay họ vẫn phải cắm trại ngoài đồng trống. Dân thị thành tổ chức những buổi tuần tra đêm trong mỗi khu vực. Viên thiếu uý cảnh sát cho tăng số lính gác cổng thành. Nhưng mọi biện pháp đều vô hiệu quả. Chỉ vài ngày sau vụ giết hai người, người ta lại tìm thấy xác cũng bị giống như những vụ trước. Lần này là thợ giặt trong toà giám mục, quê ở đảo Sardinien, bị đánh chết ở gần hồ nước ở Fontaine de la Foux, nghĩa là ngay trước cổng thành. Trước sức ép của đám thị dân bị kinh hãi, các vị tổng lý cho thành phố cho tiến hành thêm số biện pháp: kiểm soát gắt gao ở cổng thành, tăng cường tuần tra đêm, cấm phụ nữ ra khỏi nhà sau khi trời tối, tuy vậy trong mùa hè này, tuần nào trôi qua mà tìm thấy xác thiếu nữ. Và toàn là ở tuổi chớm dậy , rất đẹp, tóc màu sẫm, rất quyến rũ. Chẳng bao lâu sau kẻ sát nhân cũng chê những loại thiếu nữ chiếm đa số trong cư dân vùng đấy: mềm mại, da trắng và hơi đẫy đà. Gần đây nhất, ngay những tóc nâu hay vàng sẫm cũng trở thành nạn nhân, miễn là quá gầy. Nơi nào cũng có nạn nhân của , chỉ chung quanh Grasse mà ngay cả trung tâm thành phố, thậm chí cả ở trong nhà. Con của người thợ mộc bị giết trong phòng riêng tầng thứ năm mà ai nghe thấy tiếng động nào, những con chó bình thường vẫn đánh hơi và sủa vang khi có người lạ lại chẳng ho he gì. Có vẻ như thể sờ được tới tên sát nhân vì vô hình, chẳng khác nào ma quỷ.

      Người ta tức giận, chửi bới đám quan chức. chút xíu tin đồn đủ làm người ta bu lại. người bán rong suýt bị thảm sát chỉ vì nghe rằng trong bột tình và các thứ khác lẩm cẩm của có tóc con tán . Nhà của ngài De Cabris và nhà thương thí suýt bị đốt. tối kia, nhà buôn khăn Alexandre Misnard bắn chết tên đầy tớ khi về nhà vì ngỡ là tên sát nhân. Ai có đủ khả năng gởi con lớn của mình đến họ hàng ở xa hoặc học nội trú ở Nice, Aix hay Marseille. Dưới sức ép của hội đồng thành phố, viên thiếu uý cảnh sát bị cách chức. Người thay ông ta là hội đồng bác sĩ khám nghiệm xác những thiếu nữ bị cắt tóc kia xem họ còn trinh trắng . Kết quả là hết thảy bọn họ đều còn trinh nguyên cả.

      Lạ lùng làm sao, điều này thay vì giảm lại làm tăng khủng khiếp vì trong thâm tâm ai cũng nghĩ rằng các bị hãm hiếp. Và ít ra như thế người ta cũng còn biết được động cơ của kẻ sát nhân. Bây giờ người ta chẳng còn hiểu ra làm sao cả, hoàn toàn bối rối. Ai tin vào Chúa tìm bình an trong cầu nguyện, mong rằng ít nhất nhà mình thoát khỏi bàn tay của ác quỷ.

      Hội đồng thành phố gồm ba mươi vị, cả thị dân giàu, được trọng vọng nhất, lẫn những nhà quý tộc của Grasse, phần lớn họ là những bậc trí giả chống giáo hội, đến nay họ vẫn để cho giám mục được yên tuy rất muốn biến những tu viện, chủng viện thành những kho hàng, nhà máy; trong lúc cùng quẫn này, những vị đầy uy quyền và cao ngạo của hội đồng thành phố ngần ngại hạ mình thảo thư thỉnh nguyện rằng vì quyền lực trần thế đành bó tay, xin Đức ngài giám mục nguyền rủa và rút phép thông công tên ác quỷ giết hại các kia, theo gương bậc tiền nhiệm tôn quý của ngài làm đối với trận dịch châu chấu đe doạ đất nước năm 1708. Quả nhiên đến cuối tháng chín, tên sát nhân ở Grasse – đến lúc đó giết dưới 24 tuyệt đẹp thuộc mọi thành phần xã hội – bị nguyền rủa và rút phép thông công qua yết thị cũng như bục giảng khắp các nhà thờ khắp thành phố và do chính đức giám mục tại bục giảng của nhà thờ Notre Dame du Puy.

      Kết quả thấy , chỉ hôm trước hôm sau còn ai bị giết nữa. xác chết nào trong tháng 10 và tháng 11. Đầu tháng 12 có tin từ Grenoble cho hay ở đó mới xuất kẻ giết người, bóp cổ các rồi xé áo quần của họ thành từng nhiều mảnh và lột tóc cả búi. Mặc dù kiểu giết người thô bạo này chẳng khớp chút nào với kiểu giết gọn ghẽ ở Grasse, ai nấy đều tin rằng cùng thủ phạm. Người dân thành Grasse làm dấu thánh ba lần vì thấy cả người; tên ác quỷ còn hoành hành ở đây nữa mà sang tận Grenoble, cách những bảy ngày đường. Họ tổ chức buổi rước đuốc để tạ ơn đức giám mục và lễ tạ ơn Chúa trọng thể vào ngày 24 tháng 12. Sang ngày 1 tháng Giêng 1766, các biện pháp an ninh được nới lỏng, lệnh cấm phụ nữ ra khỏi nhà vào ban đêm được huỷ bỏ. Sinh hoạt cộng đồng và đời sống riêng tư bình thường trở lại mau lẹ ngờ. sợ hãi như bị quét sạch, còn ai nhắc đến nỗi khủng khiếp mới mấy tháng trước còn bao trùm thành phố và vùng lân cận. Ngay cả trong những gia đình nạn nhân cũng thế. Như thể nguyền rủa của đức giám mục chỉ xua đuổi kẻ sát nhân mà còn cả những ký ức về nó nữa. Người dân lấy thế làm hài lòng.

      Chỉ những ai có con gần cái tuổi độc đáo kia vẫn thể thả lỏng, vẫn phải canh chừng. Họ lo âu khi đêm xuống và sáng ra khi thấy con họ vui khoẻ mừng rỡ cho dù muốn nhìn nhận cái duyên cớ gây ra tình cảm như thế của mình.

      Chú thích:.

      [1] săc dân du mục ở Châu Âu, còn gọi là người Bohemien.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 41





      Nhưng ở Grasse có người tin vào bình yên. Ông ta tên là Antoine Richis, đệ nhị tổng lý thành phố, dinh cơ bề thế của ông toạ lạc ngay đầu Rue Droite. Ông Richis goá vợ, có con tên là Laure. Tuy chưa đến 40 và còn đầy sức sống, ông định đợi thêm ít lâu nữa mói nghĩ đến chuyện tục huyền. Trước hết lo dựng vợ gả chồng cho con . Và phải là bất cứ ai đâu nhé, phải là môn đăng hộ đối cơ. Ông thoả thuận chuyện cưới xin với Baron de Bouyon rồi, ông này có cậu con trai và lãnh địa ở gần vùng Vence, có tiếng tăm nhưng khốn quẫn về mặt tài chính. Sau khi Laure yên chỗ rồi ông dự định dọ ý nơi những gia đình vọng tộc hạng cao như Drée, Maubert hoặc Fontmichel, phải vì ông tự cao hay bằng mọi giá phải có được người quý tộc để chung chăn gối, nhưng vì ông muốn xây dựng dòng họ và đặt nền móng cho những thế lực chính trị xã hội cao nhất cho những kẻ nối dõi. Vì thế ông cần có thêm ít nhất hai đứa con trai nữa, đứa nối nghiệp ông tiếp tục kinh doanh, còn đứa kia học luật để rồi hoạn lộ dẫn đến toà án tối cao ở Aix và tiến thành quý tộc. Nhưng ở vào địa vị của ông tham vọng nọ chỉ có hy vọng thành công nếu cá nhân ông và gia đình gắn bó mật thiết với giới quý tộc trong vùng. Antoine Richis dám có cao vọng như thế vì ông giàu sụ. Sản nghiệp của ông vượt xa mọi người khác. Ông những có điền trang trong vùng Grasse để trồng cam, ô liu, lúa mì và cây gai, mà còn ở gần Vence và cả hướng Antibes nữa, những chỗ này ông cho lính canh. Ông còn là chủ của nhiều ngôi nhà ở Aix và vùng quê, có cổ phần trong những tàu buôn với Ấn độ, có văn phòng thường trực ở Genua và là nhà buôn sỉ lớn nhất nước Pháp về hương liệu, gia vị, dầu và da thuộc. Nhưng thứ quý nhất mà Richis có được là con . là con , mới vừa 16, tóc nâu đỏ, mắt xanh. Gương mặt dễ thương đến nỗi ai trông thấy cũng sững sờ, thể quay , dù là đàn ông hay đàn bà và ở mọi lứa tuổi, họ ngớt hôn khuôn mặt bằng mắt như thể mút kem bằng lưỡi vậy, và lúc ấy vẻ mặt họ đầy nét say mê, đờ đẫn, đặc biệt như khi mê mải mút kem. Chính Richis khi nhìn con cũng sững sờ mất lúc lâu, mười lăm phút, cũng có thể là nửa tiếng, quên tất cả thế giới và chuyện kinh doanh, điều này chưa hề xảy ra ngay cả khi ông ngủ, ông như tan ra trong chiêm ngưỡng con để rồi ngay sau đó thể được mình làm gì. Ông phiền muộn nhận ra rằng, mới đây buổi tối, khi ông đưa vào giường ngủ hay đôi khi sáng ra ông vào đánh thức dậy, thấy còn nằm như có bàn tay Chúa đặt, hông và ngực hằn dưới làn áo ngủ mỏng, rồi từ cái vùng ngực, nách, khuỷu tay và cánh tay mịn màng áp vào má toả lên hơi thở đều và nóng… ruột gan ông như quặn lại, họng ông như thắt lại, ông nuốt nước miếng, lạy Chúa! Ông nguyền rủa mình sao lại là bố của chứ phải là người lạ, người nào cũng được, và nằm thế kia trước mặt gã như nằm trước mặt ông chẳng đắn đo gì mà nằm xuống cạnh , , trong với tất cả thèm muốn. Ông toát mồ hôi, run lẩy bẩy trong lúc bóp chết cái dục vọng kinh hoàng kia, rồi cúi xuống đánh thức dậy bằng nụ hôn trong sạch của người cha.
      Vào lúc xảy ra những vụ giết người năm ngoái, ông chưa bị cám dỗ nguy hiểm đến như vậy. Cái ma lực của con ông lúc ấy chỉ là của đứa trẻ con, ít nhất là có vẻ như thế đối với ông. Nên ông chưa từng sợ rằng Laure có thể thành nạn nhân của kẻ giết người, vì ai cũng biết hại đàn bà và trẻ con mà chỉ toàn chọn trinh nữ. Tất nhiên ông cho canh gác dinh cơ kỹ hơn, thêm song sắt cho các cửa sổ lầu và bảo người hầu của Laure ngủ chung phòng với . Ông gởi học xa như những người cùng địa vị, họ những gởi con mà cả gia đình nữa. Ông thấy hành động như thế là đáng khinh, xứng với uỷ viên hội đồng thành phố kiêm đệ nhị tổng lý, vốn phải là tấm gương về bình thản, can đảm và bất khuất cho đám thị dân. Hơn nữa ông là người để cho ai ảnh hưởng đến quyết định của mình, dúm kẻ sợ hãi hốt hoảng cũng vậy mà tên giết người khốn kiếp lại càng . Cho nên trong suốt thời gian kinh hoàng ấy, ông là trong ít người nhiễm phải cái cơn sốt sợ hãi mà luôn giữ được tỉnh táo. Nhưng bấy giờ lại khác, lạ lùng . Trong lúc ngoài kia người ta mừng như thể tên sát nhân bị treo cổ, chấm dứt những ngày tội ác của và sắp quên hết chuỗi ngày khủng khiêp sợ hãi lại len vào trong tim Antoine Richis như thứ thuốc độc ghê gớm. Trong thời gian dài ông dám thú nhận rằng đó là lý do khiến ông trì hoãn chuyến lẽ ra phải tiến hành từ lâu, rằng ông thoải mái khi phải rời khỏi nhà và rút ngắn những buổi thăm viếng họp hành để về nhà cho mau. Ông viện cớ vì bất tiện và vì làm việc quá sức để tự bào chữa nhưng cũng tự thú nhận rằng cũng có hơi lo lắng về con tới tuổi cập kê, âu đó cũng là lo lắng thông thường của mỗi người cha…Chẳng phải sắc đẹp của được đồn đại ra ngoài sao? Chẳng phải người ta nghển cổ nhìn khi ông đưa nhà thờ xem lễ mỗi chủ nhật đó sao? Chẳng phải số các vị trong hội đồng thành phố dạm trước cho con trai hoặc cho chính mình đó sao?



      Chương 42





      Nhưng rồi ngày tháng Ba ông Richis ngồi trong phòng khách nhìn con ra vườn. Tóc xoã ra nền áo màu xanh da trời, ánh lên trong nắng. Ông chưa bao giờ thấy đẹp đến thế. biến mất sau bờ dậu, rồi lại xuất , chỉ lâu hơn ông chờ đợi có hai nhịp tim thôi thế mà ông sợ muốn chết, vì trong khoảnh khắc hai nhịp tim ấy, ông nghĩ rằng ông mất vĩnh viễn rồi.
      Đêm hôm ấy ông choàng dậy giữa giấc mơ kinh hoàng, nhớ mơ gì nhưng có liên quan đến Laure, nhào vào phòng con , tin rằng bị làm nhục, bị giết, bị cắt tóc, nằm chết giường…nhưng thấy chẳng làm sao cả. Quay về phòng riêng, mồ hôi như tắm, ông run rẩy vì khích động, , phải vì khích động mà vì sợ, bây giờ ông mới chịu thú nhận rằng bị nỗi sợ túm chặt, thú nhận làm cho ông bình tĩnh và tỉnh táo hơn. Ngay từ đầu ông tin rằng lệnh rút phép thông công của đức giám mục có tác dụng, tin cả cái chuyện tên sát nhân lảng vảng ở Grenoble, tin luôn rằng rời khỏi thành phố. , vẫn còn ở đây, giữa những cư dân thành phố Grasse này, và có lúc ra tay lại. Hồi tháng tám và tháng chín Richis có thấy mấy bị giết, Thấy mà kinh hoàng nhưng đồng thời lại ngây ngất như ông thú nhận, vì toàn là những nhan sắc hiếm có, mỗi người vẻ. Ông ngờ rằng ở Grasse lại có nhiều người đẹp ai biết đến như thế. Tên sát nhân mở mắt cho ông. Quả khiếu thẩm mỹ độc đáo. Hành động cũng có hệ thống nữa. phải chỉ vì vụ nào cũng thực gọn như nhau mà cách chọn nạn nhân bộc lộ ý đồ được hoạch định chu đáo gần như là trong kinh doanh. Đúng là Richis biết tên giết người muốn gì nơi các nạn nhân vì cướp của họ những thứ quý nhất, đó là nhan sắc và quyến rũ của tuổi trẻ…hay là có nhỉ? Nghe có vẻ phi lý nhưng theo ông tên sát nhân phải là con quỷ giết chóc mà là kẻ sưu tầm tỉ mỉ. Đừng xét từng nạn nhân riêng rẽ , Richis thầm nghĩ, mà hãy hình dung họ là những thành phần, những viên đá của nguyên lý cao hơn và hãy tưởng tượng những nét đặc trưng của họ quyện lại với nhau bằng cách lý tưởng nào đó thành thể thống nhất, bức tranh được khảm từ những viên đá đẹp kia là bức tranh về tuyệt mĩ và ma lực của nó toả ra còn là ma lực của con người nữa mà là của thần thánh. (Như chúng ta thấy Richis có lối suy luận của bậc học giả, e dè trước những kết luận dù là báng bổ, tuy ông suy luận về mặt thị giác chứ phải là khứu giác, nhưng cũng đến được gần sát ).
      Cứ giả thư rằng tên sát nhân là kẻ sưu tầm sắc đẹp, Richis tiếp tục suy luận, và thực bức tranh về sắc đẹp tuyệt mĩ, cho dù bức tranh ấy chỉ có trong tưởng tượng nơi cái đầu óc bệnh hoạn của , giả thử thêm rằng kẻ có khiêu thẩm mĩ cực cao và phương pháp hoàn hảo, cuộc thế đấy, thể nghĩ rằng có thể bỏ qua viên đá quý giá nhất cõi đời cho bức tranh của : sắc đẹp của Laure. có sắc đẹp của con bé mọi chuyện giết người từ trước đến nay của chẳng có ý nghĩa gì. Sắc đẹp của con bé là viên đá quý đỉnh toà nhà của .
      Khi rút ra kết luận này Richis ngồi giường trong bộ đồ ngủ và ông ngạc nhiên sao mình bình tĩnh vậy. Ông rùng mình cũng chẳng run. Cái nỗi sợ vô hình quấy rầy ông từ mấy tuần nay chợt biến mất nhường chỗ cho ý thức về nguy cơ cụ thể: tên sát nhân nhắm Laure ngay từ đầu. Những vụ giết người kia chẳng qua chỉ là phụ trợ cho vụ tuyệt đỉnh cuối cùng. Đến giờ cũng những vụ giết người kia nhằm mục đích nào nếu quả có mục đích.Nhưng Richis thấu cái cơ bản, đó là phương pháp có hệ thống và động cơ lý tưởng của tên sát nhân. Càng nghĩ kỹ ông càng tâm đắc về hai điều và càng phục , cho đúng chẳng khác gì ông tự phục mình vì chẳng gì chính ông, ông Richis này, truy ra được đối thủ bằng suy luận rạch ròi.
      Nếu Richis này là tên sát nhân ấy và cũng có những đam mê y hệt như hẳn ông cũng làm khác những gì làm và cũng làm tất cả để giết Laure, đẹp có hai, để hoàn tất cái công trình của đưa nó đạt đến đỉnh cao. Ông hết sức hài lòng với ý nghĩ sau cùng này. Làm nổi cái chuyện qua suy luận mà đặt mình vào được hoàn cảnh kẻ giết con con ông nghĩa là ông trội hơn rất xa. Vì dứt khoát là tên giết người dù thông min đến đâu cũng thể đặt mình vào hoàn cảnh của Richis được, chỉ vì chắc chắn thể nào lường được Richis đặt mình vào hoàn cảnh của từ lâu rồi. Xét cho cùng cũng chẳng khác gì trong kinh doanh, mutatis, mutantis (với những thay đổi thiết yếu-trong so sánh), dĩ nhiên. Thấy trước ý đồ của kẻ cạnh tranh mình chiếm thượng phong thôi, đừng hòng mà chơi trội với ông, nhất là khi Richis này quá lõi đời và sẵn tính đấu tranh trong máu. Là nhà buôn hương liệu lớn nhất nước Pháp, cái tài sản của ông, chức vị đệ nhị tổng lý của ông có phải vì ai thương mà cho đâu, ông phải đấu đá, gan góc và mưu lược, lường trước nguy cơ, khôn khéo đoán trước dự tính của đối phương và đánh văng họ đấy chứ. Những mục tiêu sắp tới của ông, thế lực và địa vị quý tộc cho lũ con cháu, ông đạt được cả thôi. Rồi ông cũng làm thất bại những toan tính của tên sát nhân trong việc cạnh tranh với ông để giành Laure chứ thể nào khác được, ngay cả nếu Laure cũng chỉ là viên đá đỉnh toà nhà toan tính của ông chăng nữa. Dĩ nhiên ông con bé nhưng ông cũng cần nó nữa. Cái gì ông cần để thực những tham vọng tột bực để cho ai giật mất, ông giữ rịt bằng cả răng lẫn vuốt. Giờ ông thấy thoải mái hơn. Sau khi đặt được những suy tính trong đêm về cuộc đọ sức với tên quỷ nọ xuống bình diện đấu đá trong kinh doanh ông thấy thêm can đảm, thậm chí kiêu ngạo. sợ hãi biến sạch, cái cảm giác do dự và lo âu bực bội vốn hành hạ ông như hành hạ người già run rẩy vì lão nhược cũng biến mất luôn, cái màn sương của những linh cảm u ám mà ông phải lần mò trong đó mấy tuần nay cũng tan biến. Ở cái địa bàn quen thuộc này ông chấp nhận mọi thách đố.



      Chương 43





      Ông thấy cả người, nhảy khỏi giường, gần như phấn khởi, ông kéo chuông và ra lệnh cho gã đầy tớ còn chuệch choạng vì ngái ngủ thu xếp quần áo và lương thực vì ông định đến Grenoble với con ngay sau hửng sáng. Rồi ông mặc áo quần và xua đám người làm ra khỏi giường. Sinh hoạt hối hả choàng dậy ngay giữa đểm trong ngôi nhà ở phố Rue Droite. Lửa bừng lên trong bếp, lũ hầu rối rít qua lại trong hành lang, đám tớ trai vội vàng lên xuống cầu thang, tiếng chìa khóa của người giữ kho chạm vào nhau trong cái nhà kho xây hình vòm, sân bập bùng ánh đuốc, bọn giữ ngựa loay hoay quanh lũ ngựa, đám khác kéo bầy la ra khỏi chuồng, thắng yên cương, chạy lấy đồ chất lên chẳng khác cảnh đám quân ô hợp của Áo và Sardines đường cướp phá vào năm 1746, còn gia chủ thu vén để chạy trong cơn hoảng loạn. Đâu phải thế! Gia chủ ngồi đường bệ trước bàn giấy văn phòng như thể thống chế của nước Pháp, uống cà phê sữa, ra chỉ thị cho lũ người hầu ngớt hối hả vào ra. Trong lúc đó ông viết thư cho ông thị trưởng kiêm đệ nhất tổng lý, cho công chứng viên, cho luật sư của ông, cho chủ ngân hàng ở Marseille, cho Baron de Bouyon và những bạn hàng. Khoảng sáu giờ ông kết thúc những thư từ giao dịch và những sắp xếp cần thiết cho kế hoạch của ông. Ông nhét hai khẩu súng ngắn vào người, cột chắc dây da đựng tiền, khoá bàn giấy lại. Đoạn đánh thức con . Đúng tám giờ, đoàn người ngựa lên đường. Richis cỡi ngựa trước dẫn đường, trông đỏm dáng trong áo khóac màu rượu vang đỏ, viền vàng, quần đen, mũ đen gài lông đúng kiểu. Rồi đến con ăn mặc giản dị hơn nhưng đẹp lồ lộ, khiến người đường phố và sau các cửa sổ chỉ chăm chú nhìn với những tiếng “a” “ô” trầm trồ, đám đàn ông ngả mũ như thể chào ngài đệ nhị tổng lý nhưng ra họ ngả mũ trước , bà hoàng của họ. Rồi đến người tớ được ai chú ý tới, tiếp theo là gã tớ trai của ông Richis dẫn theo hai con ngựa thồ vì đường ở Grenoble có tiếng là xấu, thể dùng xe được, cuối đoàn người là hai tên giữ ngựa trông coi tá la chất đủ mọi thứ vật dụng. Tới Porte du Cours, đám lính gác bồng súng nghiêm chào và chỉ hạ súng xuống sau khi con la cuối cùng qua. Lũ trẻ con còn chạy theo vẫy đám người ngựa chậm chạp xa dần con đường dốc vòng vèo lên núi. Chuyến của Antoine Richis và con tạo nên ấn tượng sâu đậm kỳ lạ. Họ thấy như vừa chứng kiến đám rước tế thần kiểu cổ xưa. Người ta kháo nhau rằng Richis Grenoble, nơi mà con quỷ sát nhân vừa đến lâu. Họ chẳng biết phải nghĩ như thế nào nữa. Hành động của ông Richis là bất cẩn thể tha thứ hay là can đảm đáng khâm phục? Là thách thức hay xoa dịu thần thánh? Họ linh cảm hết sức mơ hồ là họ vừa được nhìn thấy tóc đỏ lần cuối cùng. Họ linh cảm rằng Laure Richis sắp bị kết liễu rồi. Linh cảm này được chứng thực, dù chúng dựa những tiền đề hoàn toàn đúng. Bởi vì Richis đâu có Grenoble. Chuyến khởi hành rềnh rang chỉ là mẹo lừa thôi. về hướng tây bắc được dặm rưỡi, tới gần làng Saint-Vallier ông ra lệnh dừng lại. Rồi ông trao cho gã người hầu giấy uỷ quyền và giấy giới thiệu, bảo gã dẫn mấy tay coi ngựa và đoàn la Grenoble.
      Còn ông dẫn Laure và người tớ nhắm hướng Cabris, họ nghỉ trưa ở đây rồi vượt rặng núi Tanneron về hướng Nam. Đường rất hiểm trở, nhưng có thể vòng xa thành Grasse và vùng lòng chảo theo cánh cung về phía tây tới được bờ biển khi đêm xuống mà ai hay biết…Kế hoạch của Richis là hôm sau cho người đưa ông và Laure sang nhóm đảo Lérins mà hòn đảo nhất có tu viện Saint-Honorat rất kiên cố. Tu viện này được nhóm tu sĩ coi sóc, tuy họ già cả rồi nhưng vẫn hoàn toàn còn có khả năng để tự vệ. Richis với họ là chỗ quen biết vì từ nhiều năm nay ông mua và tiêu thụ tất cả những gì tu viện có được về rượu bổ khuynh diệp, hạt tùng và dầu bách. Ông định để ở tạm trong chính tu viện Saint-Honorat đó, nơi an toàn nhất vùng Provence, kể nhà tù Château d’If và nhà tù lớn hơn đảo Saint-Margueritte. Còn ông quay lại đất liền ngay sau đó, lần này vòng Grasse về phía đông theo ngã Antibes và Cagnes để chiều tối tới được Vence. Ông cầu công chứng viên có mặt tại đó để chứng thực những thoả thuận sắp tới với Baron de Bouyon về cuộc hôn nhân của hai trẻ Laure và Alphonse. Ông đễ nghị ngài Bouyon trang trải số nợ nần lên đến 4000 livre của ngài, của hồi môn cũng gần chừng đó số tiền, thêm số đất đai và nhà máy ép dầu Maganosc, niên lợi 3000 livre cho đôi vợ chồng son, nhất định ngài Nam tước từ chối. Điều kiện duy nhất của ông Richis là hôn lễ phải cử hành trong vòng mười ngày và phải thành thân ngay hôm ấy rồi sau đó hai vợ chồng về ở tại Vence.
      Richis biết rằng việc tiến hành hôn nhân gấp gáp như thế này đẩy cái giá làm thông gia giữa nhà ông và nhà Nam tước de Bouyon lên cao cách cân xứng. Chờ lâu thêm nữa ông được giá rẻ hơn nhiều. Bởi vì sắc đẹp của Laure cứ nức danh thêm, sản nghiệp của Richis cũng tăng nữa, còn túng quẫn của Bouyon cũng tăng thêm nốt lúc ấy ông nam tước phải lạy lục để được phép nâng cao địa vị con của nhà buôn gốc bình dân qua việc chịu lấy con trai mình. Đành vậy! Trong chuyện gả bán này ngài Baron phải là đối thủ, cái tên sát nhân vô danh kia cơ. Phải cho vố. phụ nữ có chồng, còn là trinh nữ nữa và biết đâu lại có bầu hết còn thích hợp với cái phòng trưng tranh độc đáo của . Như thế viên đá cuối cùng bị tì vết, Laure chẳng còn giá trị gì cho kẻ giết người và công trình của tan vỡ. Và phải thấm thía thất bại ấy! Richis dự định cho rước dâu ở Grasse, linh đình, trước chứng kiến của mọi người. Cho dù ông hề biết mặt đối thủ của mình, và chẳng bao giờ biết cả, ông vẫn lấy làm thú vị khi biết rằng chứng kiến kiện , và phải chính mắt nhìn thấy người khác cướp cái mà thèm muốn nhất. Kế hoạch là xảo diệu. lần nữa chúng ta lại khâm phục cái trí óc nhậy bén của Richis đến gần sát . Nếu con trai của Baron de Bouyon thành thân với Laure Richis đó đúng là đòn chí tử giáng vào tên giết người của thành Grasse. Nhưng kế hoạch vẫn chưa được tíến hành. Con ông vẫn chưa được yên chỗ. Ông vẫn chưa đưa được con sang cái tu viện kiên cố Saint-Honorat kia. Ba người vẫn còn rong ruổi qua rặng núi Tanneron hoang vu. Thỉnh thoảng họ phải xuống ngựa vì đường quá xấu. Họ tiến rất chậm. Họ hy vọng đến tối gặp bờ biển ở gần Napoule, thị trấn phía tây của Cannes.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 44





      Lúc Laure Richis cùng với cha rời khỏi Grasse Grenouille ở trong xưởng của bà Arnulfi, tuốt đầu kia của thành phố và ngâm bấy hoa trường thọ. Chỉ có mình gã và gã phấn khởi. Thời gian gã ở lại Grasse sắp chấm dứt. Ngày vinh quang sắp đến rồi. Trong căn lều ngoài kia có tráp gỗ lót bông với hai mươi bốn lọ bé xíu đựng mươi giọt tinh hoa của hai mươi bốn nàng trinh nữ, những tinh chất cực quý mà Grenouille lấy được trong năm vừa qua bằng những cách lấy được hơi thơm từ cơ thể họ với mỡ để nguội, sắc áo quần với tóc của họ rồi rửa với cồn và chưng cất. Tinh chất thứ hai mươi lăm tức là cái quý nhất và quan trọng nhất gã định lấy hôm nay. Cho lần này, gã chuẩn bị sẵn hũ sành đựng mỡ được làm sạch sạch lại nhiều lần, khăn len loại tốt nhất, bầu rượu tinh cất thượng hạng. Địa hình được nghiên cứu tỉ mỉ. Đêm nay lại trăng.
      Gã biết rằng đột nhập vào cái dinh cơ được canh gác rất kỹ ở Rue Droite là vô ích. Cho nên gã định là ngay lúc trời vừa chạng vạng, cổng còn chưa đóng, lẻn vào núp ở xó nào đó, vì gã có mùi như thứ nguỵ trang che chở gã bị người và vật phát giác. Khuya đến, khi mọi người ngủ cả, gã theo cái mũi như thứ la bàn hướng dẫn trong đêm, leo lên phòng có báu vật. Gã lấy hương thơm bằng khăn tẩm mỡ ngay tại chỗ. Chỉ lấy theo tóc và áo quần như trước nay vì những thứ này rửa thẳng trong cồn được, làm trong xưởng thong thả hơn. Cần thêm tối nữa mới xong khâu cuối cùng của pomát và chưng cất thành đậm đặc. Nếu mọi trôi chảy ngày mốt gã là chủ những tinh chất quý nhất cho loại nước hoa tuyệt nhất thế giới, và gã rời khỏi Grasse như người thơm nhất thế gian, gã chẳng có lý do gì để nghi ngại rằng mọi trôi chảy.
      Gần trưa gã gần xong cái đống hoa trường thọ. Gã tắt bếp, đậy nồi mỡ lại, ra trước xưởng cho bớt nóng nực. Gió thổi đến từ hướng tây.
      Qua hơi thở đầu tiên gã nhận ra ngay có điều gì ổn. Bầu khí như có xáo trộn. Qua tấm màn thơm của thành phố được dệt bởi nghìn vạn thứ mùi như những sợi vải thiếu mất cái sợi bằng vàng. Những tuần gần đây sợi thơm này đậm đến nỗi cho ở tuốt đãu này thành phố Grenouille dù ở trong lều cũng vẫn nhận ra. Bây giờ nó rồi, mất tiêu, đánh hơi cách mấy cũng thấy tông tích. Grenouille gẫn như tê liệt vì hoảng sợ. Nàng chết rồi, gã thầm nghĩ. Nhưng rồi còn khủng khiếp hơn nữa: có kẻ ra tay trước ta! Kẻ khác ngắt mất bông hoa của ta, lấy mùi thơm rồi! Gã kêu lên nổi vì quá sức rung động, nhưng bỗng nhiên nước mắt tràn ra kẽ mắt, rơi xuống hai bên mũi. Rồi Druot về nhà từ quán Quatre Dauphins sau bữa ăn trưa, ngẫu nhiên kể rằng sáng sớm nay ngài đệ nhị tổng lý cùng con Grenoble với 12 con la. Grenouille nuốt lệ, chạy biến , xuyên qua thành phố tới Porte du Cours. Gã dừng lại ở quảng trường, trước cổng thành, đánh hơi. Trong cái làn gió tây bợn mùi thành phố, gã tìm lại được sợi chỉ bằng vàng của gã , tuy mảnh và thoang thoảng thôi, nhưng nhầm được. Nhưng mùi hương quý này đến từ hướng Tây bắc, hướng Grenoble, mà từ hướng Cabris mới đúng, nếu là theo hướng tây nam. Grenouille hỏi lính canh hướng của viên đệ nhị tổng lý. Người lính chỉ về hướng bắc. phải là hướng Cabris hay sao? Hay là hướng nam Auribeau và Lanopoule? Người lính canh khẳng định là , chính mắt ta trông thấy mà. Grenouille chạy ngược về lều, nhét khăn len, hũ pomát, que, kéo và khúc gỗ ô liu nhẵn nhụi vào túi hành lý rồi gã lên đường tức , theo hướng Grenoble, mà theo hướng mũi gã chỉ, về phía Nam. Con đường dẫn thẳng đến Napoule này chạy dọc theo những ngọn đồi của rặng núi Tanneron và cắt ngang những thung lũng của sông Frayère và Siange. Đường tốt nên Grenouille được rất nhanh. Khi Auribeau xuất bên triền núi tay phải ngửi thấy sắp bắt kịp những kẻ chạy trốn. Chỉ lát sau ở ngang độ cao với họ. Gã ngửi ra từng người , kể cả mùi mồ hôi ngựa nữa. Cùng lắm cách nửa dặm về phía tây, đâu đó trong khu rừng của rặng Tanneron. Họ về hướng nam, ra biển, đúng như gã đoán vậy. Quãng năm giờ chiều Grenouille tới Napoule. Gã vào lữ quán, ăn và thuê chỗ trọ rẻ tiền. Gã kể mình là thợ thuộc da ở Nice, và đường Marseille. Chủ quán bảo gã có thể ngủ qua đêm trong chuồng ngựa. Gã chọn góc và nằm nghỉ. Gã ngửi thấy ba người cưỡi ngựa tới gần. Chỉ còn chờ nữa thôi. Hai giờ sau họ tới nơi. Trời sắp tối hẳn. Để giữ bí mật, họ thay đổi y phục, hai người phụ nữ mặc đồ màu sẫm, che khăn, còn Richis mặc áo choàng đen. Ông xưng là nhà quý tộc đến từ Castillance, định sáng mai qua nhóm đảo Lerins, chủ quán lo hộ cái xuồng, phải sẵn sàng ngay khi mặt trời mọc. Ngoài ông và những người cùng nhóm còn có người nào khác nữa ? Chủ quán thưa , chỉ có tay thợ thuộc da ngủ trong chuồng ngựa mà thôi. Richis bảo con và người tớ lên phòng họ trước. Còn ông phải ra chuồng ngựa lấy vài thứ từ túi yên ngựa, ông thế. Mới đầu ông tìm ra người thợ thuộc da nên kêu tay giữ ngựa đưa chiếc đèn bão. Giờ ông trông thấy gã nằm đống rạ phủ cái chăn cũ trong góc, gối đầu túi hành lý ngủ say. Gã trông hoàn toàn tầm thường khiến thoạt tiên Richis có cảm tưởng như hề có gã mà chỉ là trong những dị hình gây ra bởi cái bóng của ngọn đèn bão đung đưa qua lại. Dẫu sao ông nhận thấy ngay rằng cái sinh vật vô hại đáng thương kia chẳng có gì nguy hiểm để phải lo sợ cả, ông rón rén ra để khỏi quấy rầy giấc ngủ của gã rồi trở vào quán.
      Ông ăn tối với con ngay trong phòng của ông. Ông giải thích cho về lý do và mục đích của chuyến kỳ lạ này dù cầu, ngay cả lúc này cũng thế. Ông rằng ngày mai tiết lộ và hãy tin rằng tất cả những gì ông sắp đặt và thực đều vì và vì hạnh phúc của trong tương lai. Sau bữa ăn, hai cha con chơi mấy ván bài l’hombre mà ông hoàn toàn thua chỉ vì ông nhìn gương mặt của , khoan khoái vì nhan sắc của thay vì nhìn vào quân bài. Quãng chín giờ ông đưa sang phòng đối diện với phòng ông, hôn , chúc ngủ ngon rồi khóa cửa từ bên ngoài. Rồi ông cũng nằm.
      Ông chợt thấy rất mệt vì ngày và tối căng thẳng nhưng cũng rất hài lòng với chính mình và diễn tiến. Ông ngủ ngay, chút lo âu, chút linh cảm ảm đạm vẫn giày vò ông cho tới tận tối hôm qua mỗi khi tắt đèn khiến ông thức trắng, ông ngủ mộng mị, rền rĩ, co giật hay trăn trở bồn chồn. Lâu rồi ông mới có được giấc ngủ ngon, thanh thản và hồi sức.
      Cùng lúc ấy Grenouille chồm dậy trong chuồng ngựa. Gã cũng hài lòng với chính mình và với diễn tiến, thấy rất tỉnh táo dù chẳng ngủ giây nào. Khi Richis vào chuồng ngựa để tìm gã, gã chỉ giả vờ ngủ để tạo thêm nữa ấn tượng rằng gã vô hại. dù ra gã có mùi đủ gây ấn tượng ấy rồi. Khác hẳn với Richis cảm nhận về gã, gã cảm nhận Richis hết sức chính xác qua khứu giác và kiện Richis như được trút bỏ gánh nặng qua mắt gã. Qua lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy người này tin vào vô tâm của người kia, người đúng còn người nhầm. Grenouille thấy như thế là tốt vì vô tâm giả của gã và vô tâm của Richis thuận lợi cho công việc của gã, chắc chắn Richis cũng nghĩ thế thôi nếu như xảy ra ngược lại. Lúc Laure Richis cùng với cha rời khỏi Grasse Grenouille ở trong xưởng của bà Arnulfi, tuốt đầu kia của thành phố và ngâm bấy hoa trường thọ. Chỉ có mình gã và gã phấn khởi. Thời gian gã ở lại Grasse sắp chấm dứt. Ngày vinh quang sắp đến rồi. Trong căn lều ngoài kia có tráp gỗ lót bông với hai mươi bốn lọ bé xíu đựng mươi giọt tinh hoa của hai mươi bốn nàng trinh nữ, những tinh chất cực quý mà Grenouille lấy được trong năm vừa qua bằng những cách lấy được hơi thơm từ cơ thể họ với mỡ để nguội, sắc áo quần với tóc của họ rồi rửa với cồn và chưng cất. Tinh chất thứ hai mươi lăm tức là cái quý nhất và quan trọng nhất gã định lấy hôm nay. Cho lần này, gã chuẩn bị sẵn hũ sành đựng mỡ được làm sạch sạch lại nhiều lần, khăn len loại tốt nhất, bầu rượu tinh cất thượng hạng. Địa hình được nghiên cứu tỉ mỉ. Đêm nay lại trăng.
      Gã biết rằng đột nhập vào cái dinh cơ được canh gác rất kỹ ở Rue Droite là vô ích. Cho nên gã định là ngay lúc trời vừa chạng vạng, cổng còn chưa đóng, lẻn vào núp ở xó nào đó, vì gã có mùi như thứ nguỵ trang che chở gã bị người và vật phát giác. Khuya đến, khi mọi người ngủ cả, gã theo cái mũi như thứ la bàn hướng dẫn trong đêm, leo lên phòng có báu vật. Gã lấy hương thơm bằng khăn tẩm mỡ ngay tại chỗ. Chỉ lấy theo tóc và áo quần như trước nay vì những thứ này rửa thẳng trong cồn được, làm trong xưởng thong thả hơn. Cần thêm tối nữa mới xong khâu cuối cùng của pomát và chưng cất thành đậm đặc. Nếu mọi trôi chảy ngày mốt gã là chủ những tinh chất quý nhất cho loại nước hoa tuyệt nhất thế giới, và gã rời khỏi Grasse như người thơm nhất thế gian, gã chẳng có lý do gì để nghi ngại rằng mọi trôi chảy.
      Gần trưa gã gần xong cái đống hoa trường thọ. Gã tắt bếp, đậy nồi mỡ lại, ra trước xưởng cho bớt nóng nực. Gió thổi đến từ hướng tây.
      Qua hơi thở đầu tiên gã nhận ra ngay có điều gì ổn. Bầu khí như có xáo trộn. Qua tấm màn thơm của thành phố được dệt bởi nghìn vạn thứ mùi như những sợi vải thiếu mất cái sợi bằng vàng. Những tuần gần đây sợi thơm này đậm đến nỗi cho ở tuốt đãu này thành phố Grenouille dù ở trong lều cũng vẫn nhận ra. Bây giờ nó rồi, mất tiêu, đánh hơi cách mấy cũng thấy tông tích. Grenouille gẫn như tê liệt vì hoảng sợ. Nàng chết rồi, gã thầm nghĩ. Nhưng rồi còn khủng khiếp hơn nữa: có kẻ ra tay trước ta! Kẻ khác ngắt mất bông hoa của ta, lấy mùi thơm rồi! Gã kêu lên nổi vì quá sức rung động, nhưng bỗng nhiên nước mắt tràn ra kẽ mắt, rơi xuống hai bên mũi. Rồi Druot về nhà từ quán Quatre Dauphins sau bữa ăn trưa, ngẫu nhiên kể rằng sáng sớm nay ngài đệ nhị tổng lý cùng con Grenoble với 12 con la. Grenouille nuốt lệ, chạy biến , xuyên qua thành phố tới Porte du Cours. Gã dừng lại ở quảng trường, trước cổng thành, đánh hơi. Trong cái làn gió tây bợn mùi thành phố, gã tìm lại được sợi chỉ bằng vàng của gã , tuy mảnh và thoang thoảng thôi, nhưng nhầm được. Nhưng mùi hương quý này đến từ hướng Tây bắc, hướng Grenoble, mà từ hướng Cabris mới đúng, nếu là theo hướng tây nam. Grenouille hỏi lính canh hướng của viên đệ nhị tổng lý. Người lính chỉ về hướng bắc. phải là hướng Cabris hay sao? Hay là hướng nam Auribeau và Lanopoule? Người lính canh khẳng định là , chính mắt ta trông thấy mà. Grenouille chạy ngược về lều, nhét khăn len, hũ pomát, que, kéo và khúc gỗ ô liu nhẵn nhụi vào túi hành lý rồi gã lên đường tức , theo hướng Grenoble, mà theo hướng mũi gã chỉ, về phía Nam. Con đường dẫn thẳng đến Napoule này chạy dọc theo những ngọn đồi của rặng núi Tanneron và cắt ngang những thung lũng của sông Frayère và Siange. Đường tốt nên Grenouille được rất nhanh. Khi Auribeau xuất bên triền núi tay phải ngửi thấy sắp bắt kịp những kẻ chạy trốn. Chỉ lát sau ở ngang độ cao với họ. Gã ngửi ra từng người , kể cả mùi mồ hôi ngựa nữa. Cùng lắm cách nửa dặm về phía tây, đâu đó trong khu rừng của rặng Tanneron. Họ về hướng nam, ra biển, đúng như gã đoán vậy.
      Quãng năm giờ chiều Grenouille tới Napoule. Gã vào lữ quán, ăn và thuê chỗ trọ rẻ tiền. Gã kể mình là thợ thuộc da ở Nice, và đường Marseille. Chủ quán bảo gã có thể ngủ qua đêm trong chuồng ngựa. Gã chọn góc và nằm nghỉ. Gã ngửi thấy ba người cưỡi ngựa tới gần. Chỉ còn chờ nữa thôi.
      Hai giờ sau họ tới nơi. Trời sắp tối hẳn. Để giữ bí mật, họ thay đổi y phục, hai người phụ nữ mặc đồ màu sẫm, che khăn, còn Richis mặc áo choàng đen. Ông xưng là nhà quý tộc đến từ Castillance, định sáng mai qua nhóm đảo Lerins, chủ quán lo hộ cái xuồng, phải sẵn sàng ngay khi mặt trời mọc. Ngoài ông và những người cùng nhóm còn có người nào khác nữa ? Chủ quán thưa , chỉ có tay thợ thuộc da ngủ trong chuồng ngựa mà thôi. Richis bảo con và người tớ lên phòng họ trước. Còn ông phải ra chuồng ngựa lấy vài thứ từ túi yên ngựa, ông thế. Mới đầu ông tìm ra người thợ thuộc da nên kêu tay giữ ngựa đưa chiếc đèn bão. Giờ ông trông thấy gã nằm đống rạ phủ cái chăn cũ trong góc, gối đầu túi hành lý ngủ say. Gã trông hoàn toàn tầm thường khiến thoạt tiên Richis có cảm tưởng như hề có gã mà chỉ là trong những dị hình gây ra bởi cái bóng của ngọn đèn bão đung đưa qua lại. Dẫu sao ông nhận thấy ngay rằng cái sinh vật vô hại đáng thương kia chẳng có gì nguy hiểm để phải lo sợ cả, ông rón rén ra để khỏi quấy rầy giấc ngủ của gã rồi trở vào quán. Ông ăn tối với con ngay trong phòng của ông. Ông giải thích cho về lý do và mục đích của chuyến kỳ lạ này dù cầu, ngay cả lúc này cũng thế. Ông rằng ngày mai tiết lộ và hãy tin rằng tất cả những gì ông sắp đặt và thực đều vì và vì hạnh phúc của trong tương lai.
      Sau bữa ăn, hai cha con chơi mấy ván bài l’hombre mà ông hoàn toàn thua chỉ vì ông nhìn gương mặt của , khoan khoái vì nhan sắc của thay vì nhìn vào quân bài. Quãng chín giờ ông đưa sang phòng đối diện với phòng ông, hôn , chúc ngủ ngon rồi khóa cửa từ bên ngoài. Rồi ông cũng nằm. Ông chợt thấy rất mệt vì ngày và tối căng thẳng nhưng cũng rất hài lòng với chính mình và diễn tiến. Ông ngủ ngay, chút lo âu, chút linh cảm ảm đạm vẫn giày vò ông cho tới tận tối hôm qua mỗi khi tắt đèn khiến ông thức trắng, ông ngủ mộng mị, rền rĩ, co giật hay trăn trở bồn chồn. Lâu rồi ông mới có được giấc ngủ ngon, thanh thản và hồi sức. Cùng lúc ấy Grenouille chồm dậy trong chuồng ngựa. Gã cũng hài lòng với chính mình và với diễn tiến, thấy rất tỉnh táo dù chẳng ngủ giây nào. Khi Richis vào chuồng ngựa để tìm gã, gã chỉ giả vờ ngủ để tạo thêm nữa ấn tượng rằng gã vô hại. dù ra gã có mùi đủ gây ấn tượng ấy rồi. Khác hẳn với Richis cảm nhận về gã, gã cảm nhận Richis hết sức chính xác qua khứu giác và kiện Richis như được trút bỏ gánh nặng qua mắt gã. Qua lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy người này tin vào vô tâm của người kia, người đúng còn người nhầm. Grenouille thấy như thế là tốt vì vô tâm giả của gã và vô tâm của Richis thuận lợi cho công việc của gã, chắc chắn Richis cũng nghĩ thế thôi nếu như xảy ra ngược lại.



      Chương 45





      Grenouille bắt tay vào việc với ung dung chuyên nghiệp. Gã mở túi hành lý lấy ra cái khăn len, pomát và cái que, rồi trải khăn lên cái chăn gã vừa mới nằm đây, bắt đầu phết mỡ lên đấy. Đây là công trình đòi hỏi nhiều giờ vì chỗ này phết lên lớp mỡ dày, chỗ kia lại mỏng hơn tuỳ theo chỗ đó ôm bộ phận nào của cơ thể. Miệng, nách, ngực, bộ phận sinh dục, bàn chân cho nhiều mùi hơn ống chân, lưng, khuỷu tay chẳng hạn, lòng bàn tay cho nhiều mùi hơn mu bàn tay, lông mày nhiều hơn lông mi, vân vân. Và vì thế cần có nhiều mỡ cho tương xứng. Như thế có thể là Grenouille đắp lên tấm chăn mô hình của cái thân thể dưới dạng mùi thơm. cho đúng việc làm này gã thích thú nhất vì nó chẳng khác gì nghệ thuật, đòi hỏi cùng lúc biết suy nghĩ, óc tưởng tượng, và đôi tay khéo léo, ngoài ra còn được thưởng thức trước cách hay ho cái thành quả cuối cùng chờ đón. Sau khi bôi hết mỡ trong hũ sành, gã còn chấm thêm đây đó ,lấy bớt mỡ chỗ này thêm vào chỗ kia, sửa lại, kiểm tra lần nữa cái mô hình cảnh vật bằng mỡ, kiểm bằng mũi chứ phải bằng mắt đâu nhé, vì gã làm việc này trong đêm tối om, đó có thể là lý do nữa làm cho Grenouille vui vẻ và bình thản. Trong cái đêm trăng này chẳng có gì khiến gã phải chia trí cả. Thế giới này chẳng có gì ngoài chút ít mùi và tiếng sóng biển vỗ bờ. Đây là môi trường của gã. Đoạn gã gấp khăn lại như gấp thảm để những chỗ bôi mỡ chồng lên nhau. Gã thấy đau đớn vì biết khi gấp như thế dù cẩn thận đến đâu phần của cái đường nét vừa hình thành cũng bị bẹt và lệch , nhưng có cách nào khác để mang theo tấm khăn. Sau khi gấp đủ gọn để có thể vắt lên tay mà vướng víu, gã nhét que, kéo và khúc gỗ ô liu vào túi rồi lẻn ra ngoài. Bầu trời đầy mây. Đèn trong nhà tắt cả. Ánh lập loè duy nhất trong cái đêm tối như mực này nhấp nháy ở phía đông, nơi ngọn hải đăng của pháo đài đảo Saint-Marguerite cách đây hơn dặm như đầu kim sáng xíu tấm khăn đen ngòm. Từ phía vịnh thổi lại cơn gió mang mùi cá. Lũ chó ngủ yên. Grenouille tới cái cửa tò vò cuối cùng của nhà xay, ở đó có kê cái thang. Gã nâng cái thang, giữ cho ngay bằng cách dùng tay phải kẹp ba bậc thang, phần còn lại ép sát vào vai phải, như thế ngang sân tới dưới cửa sổ phòng nàng. Cửa sổ mở hé. Trong khi leo lên thang cũng dễ dàng như leo tam cấp, gã mừng vì hoàn cảnh cho gã lấy mùi thơm của ở Napoule này. Ở Grasse với cửa sổ có song sắt rồi dinh cơ được canh gác nghiêm cẩn mọi chuyện khó khăn hơn rất nhiều. Ở đây, nàng thậm chí ngủ riêng phòng. Gã phải mất công giải quyết người tớ .
      Gã đẩy cánh cửa sổ ra, chui vào phòng, để tấm chăn xuống đất. Rồi gã về hướng cái giường. Mùi thơm của tóc nàng vượt lên tất cả vì nàng nằm sấp, úp mặt gối, tay khoanh quanh đầu, phía sau đầu lộ ra rất tiện cho cú đánh bằng gậy. Tiếng nện nghe khô khốc và lạo xạo. Gã ghét cái thứ tiếng ấy. Gã ghét chỉ bởi vì đó là tiếng động trong cái công việc đáng ra phải lặng lẽ như tờ của gã. Gã phải nghiến răng lại mới chịu đựng nổi cái thứ tiếng kinh tởm ấy, rồi sau khi xong xuôi gã còn đứng ngay đơ và tức tối mất lúc, bàn tay cầm khúc gỗ co thắt lại như thể gã sợ cái tiếng động nọ có thể trở về đâu đó như tiếng vọng. phải tiếng động mà là im ắng quay trở lại trong căn phòng, thậm chí còn im ắng hơn vì bây giờ còn hơi thở nặng nề của nữa. Rồi tư thế căng thẳng của Grenouille chợt biến mất (cũng có thể gọi đó là tư thế thành kính hoặc giả phút mặc niệm cứng đờ). Thân thể gã mềm dẻo trở lại. Gã cất khúc gỗ và bây giờ chỉ còn tất bật với công việc. Trước hết gã giở tấm khăn ra, trải sơ mặt dưới lên bàn và ghế, cẩn thận để dính vào mặt có mỡ. Đoạn gã kéo chăn. Mùi thơm tuyệt diệu của nàng bốc lên, nồng ấm và cuồn cuộn nhưng làm cho gã xúc động. Gã biết rồi, còn thưởng thức, thưởng thức đến say mèm để sau, khi gã làm chủ nó. Bây giờ phải lấy cho được nhiều, để mất ít, bây giờ phải tập trung và lẹ. Gã dùng kéo mau lẹ rọc áo ngủ của nàng, cởi ra, vớ cái khăn tẩm mỡ chụp lên cái thân thể trần truồng. Rồi gã bế nàng lên, nhét cái khăn lòng thòng xuống phía dưới, lăn nàng như thợ bánh mì lăn bánh, túm đầu khăn, phủ kín nàng từ đầu đến chân. Chỉ có mái tóc còn thò ra khỏi cái xác ướp. Gã cắt tóc nàng sát da đầu, gói trong áo ngủ của nàng rồi buộc thành gói. Sau hết gã ép chỗ dư của miếng khăn lên cái sọ trụi tóc, vuốt cho phẳng phiu, nhàng dùng ngón tay ấn sát. Gã kiểm lại cái bó, kẽ hở, lỗ , nếp gấp cộm lên toang hoác để mùi thơm của bay mất được. Nàng được gói rất kỹ. còn gì để làm nữa, ngoài việc đợi, đợi suốt sáu tiếng cho đến khi trời tờ mờ sáng. Gã kéo cái cái ghế tựa có để quần áo của nàng sát lại gần giường, ngồi xuống đó. Trong bộ đồ đen rộng còn phảng phất làn hương thơm của nàng, còn lẫn với mùi hồi trong bánh ăn dọc đường nhét vào túi. Gã để chân lên thành giường gần chỗ chân nàng, lấy bộ đồ nàng đắp lên người rồi ăn chiếc bánh hồi. Gã mệt. Gã muốn ngủ nhưng ai lại nằm ngủ trong lúc làm việc, cho dù làm việc lúc này chỉ là chờ đợi. Gã hồi tưởng lại những đêm ngồi chưng cất trong xưởng của ông Baldini: cái nồi chưng đen bỗ hóng, ánh lửa chập chùng, tiếng tinh chất từ ống làm lạnh giọt nhè trong bình Florentine. Thỉnh thoảng phải xem lại lửa, phải thêm nước vào cho nồi cất, đổi bình Florentine, thay bã trong nồi. Tuy nhiên gã luôn luôn nghĩ rằng người ta thức canh để làm những thứ việc năm mười hoạ này ma thức canh có ý nghĩa riêng của nó. Theo Grenouille ngay trong căn phòng này đây thức canh cũng quan trọng dù có là cái quy trình enfleurage tự nó diễn ra, đúng thế, ngay cả kiểm tra đúng lúc, lật lên hay tác động vào cái bó thơm kia chỉ tác dụng tốt. Ngủ phương hại đến cái thần của thành quả.
      Ngoài ra gã thấy thức chờ, canh khó khăn gì dù gã mệt. Gã thích lần chờ đợi này. Ở hai mươi bốn trước gã cũng thích chờ chứ, vì đó phải là chờ đợi vớ vẩn cho qua giờ hay có ý mong đợi mà là chờ đợi kèm với công việc, có ý nghĩa, trong chừng mực là cần thiết. Trong khi chờ đợi cũng xảy ra đôi việc chứ: cái chính yếu diễn ra. Dù chính gã chẳng làm gì cả nó cũng vẫn diễn ra thông qua gã. Gã làm hết sức mình. Có bao nhiêu thủ thuật gã đem ra cả. phạm sơ xuất nào. Tác phẩm của gã quả có hai. Thành công này đem lại cho nó vòng vương miện…Chi còn phải chờ thêm vài ba tiếng nữa thôi. Lần chờ đợi này làm cho gã vô cùng thoả mãn. Trong đời, kể cả lúc ở núi trước kia, gã chưa từng thấy thoải mái, bình thản, kiên định, trọn vẹn và hài lòng như những giờ nghỉ trong khi làm việc như thế này, thức canh bên nạn nhân của mình trong đêm khuya. Đó là những khoảnh khắc hiếm hoi mà trong cái đầu óc đen tối của gã có được vài ý nghĩ vui vẻ.
      Lạ lùng làm sao, những ý nghĩ này lại hướng đến tương lai. Gã nghĩ tới cái mùi thơm gặt hái được trong vài tiếng nữa, nghĩ tới cái nước thơm từ tinh hoa của hai mươi lăm , nghĩ đến những dự tính, may mắn và thành công trong tương lai. , gã tưởng nhớ về quá khứ. Gã nhớ lại những chặng đời của gã từ ngôi nhà của Madame Gaillard với đống gỗ ẩm và ấm trước cửa nhà cho đến chuyến hôm nay đến cái làng có mùi cá ở Napoule bé này. Gã nhớ lại người thợ thuộc da Grimal, nhớ lại Giuseppe Baldini và Marquis de la Taillade-Espinasse. Gã nhớ lại thành phố Paris với cái hơi thở nồng nặc của hàng nghìn thứ mùi, gã nhớ đến bé tóc đỏ ở Rue des Marais, đến vùng quê mở rộng, đến những làn gió và những cánh rừng. Gã cũng nhớ đến ngọn núi ở vùng Auvergne, đến cái hang của gã, đến cái khí bợn hơi người, gã hề né tránh những kỷ niệm này. Gã nhớ đến cả những giấc mơ. Gã nhớ đến tất cả với chan chứa hài lòng. Đúng vậy, vì khi nhớ lại như thế gã thấy hình như gã là người có may mắn đặc biệt và tuy số phận khiến gã phải chịu nhiều phen khốn khổ nhưng cuối cùng vẫn dẫn gã đúng đường, nếu làm sao gã có thể tìm tới tận đây, trong căn phòng tối om này, đến được với cái đích của mong muốn? Nghĩ cho kỹ gã đúng là đứa được thần tài phù hộ!
      Gã xúc động, khiêm tốn và biết ơn “Cám ơn mi”, gã khẽ “Cám ơn mi, Jean Bapiste Grenouille, vì mi là mi!” Gã cảm động quá chừng.
      Rồi gã nhắm mắt lại, phải để ngủ mà để say đắm với yên bình của cái đêm thiêng liêng. Yên bình trong trái tim gã. Và cả chung quanh nữa, như gã thấy. Gã ngửi thấy giấc ngủ êm đềm của người tớ trong phòng bên, giấc ngủ đầy vẻ hài lòng của Antoine Richis bên kia hành lang, gã ngửi thấy giấc ngủ hiền hoà của chủ quán và bọn người làm, của lũ chó, những con vật trong chuồng ngựa, của cả cái làng này và của biển. Gió lặng rồi. Mọi đều yên ắng. có gì làm xáo trộn yên bình.Gã co chân sang bên, chạm chân Laure. Đúng ra phải chân gã chạm chân nàng mà chạm phải cái khăn mỏng tẩm lớp mỡ bọc chân nàng, thẫm đẫm mùi thơm tuyệt diệu của nàng.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 46





      Khi chim chóc bắt đầu kêu, nghĩa là còn khá lâu mới hửng sáng, gã đứng lên, làm nốt công việc. Gã giở tấm chăn ra, lột khỏi người chết như lột miếng băng dán. Lớp mỡ tróc dễ dàng khỏi da. Chỉ ở những chỗ góc cạnh mới vướng lại ít và gã lấy que hớt nốt. Gã lấy áo lót của Laure lau những vệt mỡ còn sót rồi chà từ đầu đến chân, kỹ đến nỗi cả chút dầu dính trong lỗ chân lông cũng dính theo, nghĩa là sót mảnh vụn mùi thơm nào của nàng. Đối với gã chỉ lúc ấy nàng mới chết, như đống hoa khi thải ra, héo rũ, nhợt nhạt, èo uột.
      Gã ném cái áo lót vào cái khăn đẫm hơi nàng, chỉ trong cái khăn này nàng vẫn thành phố tục sống, gã để thêm bộ áo ngủ bọc tóc nàng vào đấy rồi cuộn chặt thành gói , kẹp trong cánh tay. Gã chẳng thèm đậy cái xác lại. Và mặc dù đêm đen chuyển sang tờ mờ sáng màu xám xanh và mọi vật trong phòng bắt đầu nét, gã cũng ném lấy được cái nhìn xuống giường để nhìn nàng bằng mắt lần duy nhất trong đời. Gã đâu chú ý gì đến hình dáng của nàng. Đôi với gã nàng đâu còn nữa trong cơ thể mà chỉ còn trong cái mùi thơm thân xác thôi. Cái mùi thơm ấy gã mang theo, kẹp chặt trong tay.
      nhàng nhảy lên thành cửa sổ, trèo xuống thang. Ngoài trời gió lại nổi lên, bầu trời sáng ra, chiếu sáng lạnh lẽo màu xanh đậm lên cảnh vật. Nửa tiếng sau những tớ nhóm lửa trong nhà bếp. Khi ra ngoài nhà lấy củi, thấy cái thang tựa ở đó nhưng vì còn ngái ngủ nên chẳng nghĩ ngợi gì. Sau sáu giờ mặt trời ló dạng, vươn lên từ biển giữa hai hòn đảo Lérins, đỏ chói, khổng lồ. Bầu trời gợn mây. ngày xuân phơi phới bắt đầu. Richis thức dậy vào lúc bảy giờ trong căn phòng ở hướng tây của ông. Đây là lần đầu từ nhiều tháng nay ông mới ngủ ngon. Trái với thói quen, ông nằm nán thêm mười lăm phút, vươn người, thở phào sảng khoái, lắng nghe tiếng xôn xao dễ chịu vọng lên từ nhà bếp. Khi ông dứng dậy mở toang cửa sổ, thấy bên ngoài trời đẹp, hít khí ban mai thơm ngát, nghe sóng biển vỗ bờ ông hào hứng tràn trề, chúm môi thổi khúc hát vui tươi.
      Ông huýt sáo lúc mặc áo quần và vẫn tiếp tục huýt sáo khi rời khỏi phòng nhanh nhẹn bước qua hành lang đến phòng con . Ông gõ cửa. Ông gõ nữa, rất khẽ để khỏi kinh động. có tiếng trả lời. Ông cười. Ông biết còn ngủ. Ông rón rén tra chìa khóa vào ổ, nhàng quay then gài, để thức giấc, gần như khao khát được thấy còn ngủ, để được đánh thức dậy bằng nụ hôn, lần nữa, làn cuối cùng trước khi ông phải trao cho người đàn ông khác.
      Cửa bật mở, ông bước vào phòng, ánh sáng mặt trời vụt thẳng vào mặt. Mọi vật sáng choang như thể căn phòng lấp lánh những bạc làm ông phải nhắm mắt lúc vì chói quá. Khi mở mắt ra, ông thấy Laure nằm chết giường, trần truồng, trắng toát, tóc bị cắt sạch. Giống như cơn ác mộng ông mơ ở Grasse đêm hôm kia mà ông quên, giờ đây giấc mơ ấy như được tia chớp soi rọi lại trong trí nhớ. Mọi bỗng dưng y hệt như giấc mơ nọ, có điều sáng chói hơn nhiều.



      Chương 47





      Tin Laure Richis bị giết truyền rất nhanh khắp vùng Grasse gây kinh hoàng chẳng kém, có khi còn hơn tin “Đức Vua băng hà!” hay “Chiến tranh!” hoặc “Bọn cướp biển đổ bộ lên bờ!”. Bỗng dưng sợ hãi mà người ta cố tình quên hết sạch vụt trở về, tai hại như trong mùa thu năm ngoái với mọi biểu kèm theo: hốt hoảng, giận dữ, phẫn nộ, nghi ngờ bừa bãi và tuyệt vọng. Tối đến người ta ở nhà, giấu kín con , gài chắc mọi cửa giả, nghi kỵ lẫn nhau, ngủ nữa. Ai cũng nghĩ lại như trước kia, mỗi tuần vụ giết người. Chẳng khác gì thời gian quay ngược lại nửa năm. sợ hãi lần này làm thiên hạ đờ người ra., hơn cả nửa năm trước vì quay lại đột ngột của nỗi nguy hiểm tưởng qua từ lâu khiến người ta cảm thấy bất lực. Khi mà ngay cả lệnh rút phép thông công của đức giám mục cũng chẳng có tác dụng gì, khi mà ngay cả Antoine Richis, Richis vĩ đại, công dân giàu có nhất thành phố, đệ nhị tổng lý, nhân vật uy quyền, thận trọng và có đủ mọi phương tiện cũng thể che chở nổi con mình, khi mà bàn tay của tên sát nhân chùn lại trước sắc đẹp thánh thiện của Laure – quả như thánh nữ đôi với những người biết , đặc biệt bây giờ sau khi chết – còn hi vọng nào để thoát được kẻ giết người? tàn bạo hơn cả dịch hạch, vì người ta còn có thể trốn chạy bệnh dịch chứ thể chạy trốn kẻ giết người, như trường hợp Richis cho thấy. Chắc có những năng lực siêu nhiên. Chắc chắn liên minh với ma quỷ nếu phải chính là ma quỷ. Thế là nhiều người, trước hết là những người dễ tin, biết làm gì hay hơn là nhà thờ cầu nguyện. Ngành nghề nào cầu thánh bảo hộ nghê nấy, thợ nguội cầu thánh Aloysius, thợ dệt cầu thánh Krispinius, người làm vườn cầu thánh Antonius, người làm nước hoa cầu thánh Josephus. Và họ dẫn theo cả vợ lẫn con , cùng cầu nguyện, ăn ngủ trong nhà thờ, ra khỏi nhà thờ nữa ngay cả ban ngày, họ tin rằng tìm thấy khả năng an toàn duy nhất, nếu như còn có an toàn, dưới che chở của cái cộng đồng tuyệt vọng và dưới mắt của Đức Bà.
      Bởi vì giáo hội lần thất bại, những kẻ ranh mãnh hơn họp thành những nhóm bí mật, bỏ ra nhiều tiền thuê mụ phù thuỷ có giấy phép hành nghề ở Gourdon, rồi chui vào trong nhiều hang đá vôi dưới lòng đất ở Grasse, tổ chức những buổi lễ cầu quỷ satan mong được quỷ đóai thương. Còn những người khác, đa số thuộc loại trưởng giả và quý tộc có học thức, lại bỏ tiền vào những phương pháp khoa học tân tiến nhất như “từ trường hoá” nhà cửa của họ, thôi miên con họ, tụ tập trong phòng khách thành những nhóm trầm tư mặc tưởng tĩnh lặng, thử dùng truyền tư tưởng tập thể để trục hồn của tên sát nhân qua thần giao cách cảm. Các phường hội tổ chức buổi rước sám hối từ Grasse Napoule rồi trở về. Tu sĩ của năm tu viện trong thành phố tổ chức lễ cầu an thường trực, hát liên tục, thành lời than vãn dứt, nay nghe thấy ở góc này, lát nghe thấy ở nơi khác trong thành phố, suốt ngày đêm. Chẳng có ai làm việc cả. Người dân thành Grasse gần như là sốt ruột mong chờ vụ giết người kế tiếp trong thụ động náo nhiệt như thế đấy. Nó sắp xảy ra, ai hoài nghi nữa cả. Người nào cũng thầm chờ cái tin khủng khiếp ấy với niềm hi vọng độc nhất rằng phải cho mình mà cho người khác.
      Tuy nhiên lần này các quan chức trong thành phố, vùng và tỉnh để nhiễm phải tâm trạng kích động của đám dân đen như trước nữa. Lần đầu tiên kể từ khi tên sát nhân xuất , phối hợp có kế hoạch và hiệu quả hình thành giữa các cơ quan hành chính của Grasse, Draguignan và Toulon, giữa các biện lý, cảnh sát, quan giám quận, toà án tối cao của vùng và hải quân.
      hợp tác giữa các vị có quyền thế phần là vì họ sợ dân chúng nổi loạn, mặt khác chỉ vì sau khi Laure Richis bị giết, người ta mới có được những đầu mối khiến có thể truy nã được hung thủ cách có kế hoạch. Có người trông thấy tên sát nhân. Hẳn là cái tay thợ thuộc da đáng nghi nọ, trong đêm xảy ra án mạng, có mặt trong chuồng ngựa của lữ quán làng Napoule và sáng hôm sau biến mất tông tích. Theo những lời khai trùng hợp của chủ quán, của gã giữ chuồng ngựa và của Richis người, có gì đặc biệt, áo khoác nâu và túi hành lý bằng len thô. Mặc dù trí nhớ của ba nhân chứng về những đặc điểm khác mơ hồ cách kỳ lạ, chẳng hạn họ thể tả được nét mặt, màu tóc hay cách ăn của , nhưng chủ quán được rằng ông để ý thấy bộ dạng và dáng của kẻ lạ mặt có vẻ vụng về, cà nhắc như bị thương ở chân hay bàn chân què quặt, nếu như ông nhầm. Có được những dấu hiệu này, ngay gần trưa hôm sau xảy ra án mạng, hai đội kỵ binh của Maréchaussée (hiến binh) theo hướng Marseille truy lùng hung thủ, đội dọc bờ biển còn đội kia theo con đường trong đât liền. Người ta cho những người tình nguyện lục soát khắp vùng chung quanh Napoule. Toà án Grasse gởi hai phái viên đến Nice để điều tra về tay thợ thuộc da này. Ở các cảng Fréjus, Cannes và Antibes người ta kiểm soát mọi chuyến tàu rời bến, ở biên giới với Savoy mọi con đường bị chặn hết, ai qua đều phải trình giấy tờ. yết thị truy nã tả hung thủ cho những ai biết đọc dán tại các cổng thành Grasse, Vence, Gourdon và tại cổng nhà thờ của tất cả các làng. Yết thị này được rao to ngày ba lần. Tuy nhiên dữ kiện cái chân tình nghi bị què lại càng củng cố thêm cái quan điểm chính hung thủ là quỷ sứ và vì thế gây hoảng hốt trong dân chúng hơn là được họ cung cấp thêm những thông tin có ích. Chỉ sau khi chánh án toà án Grasse, được ông Richis uỷ nhiệm, bố cáo phần thưởng dưới hai trăm livre cho tin tức nào giúp bắt được hung thủ vài thợ thuộc da ở Grasse, Opio và Gourdon mới bị bắt qua tố giác, trong số đó có tay chẳng may cà nhắc . Người ta định đem ra tra tấn dù bằng chứng vắng mặt của được nhiều nhân chứng xác nhận, – lúc ấy là ngày thứ mười sau khi án mạng xảy ra – những trong đội lính gác thành phố trình diện ở biện lý và khai với các quan toà như sau: ông ta tên là Gabriel Tagliasco, trưởng đội gác thành phố, trưa hôm xảy ra án mạng, ông làm nhiệm vụ như bình thường ở Porte du Cours gã khá giống như tả trong yết thị truy nã, như ông ta được biết bây giờ, đến bắt chuyện, ngớt hỏi soi mói ngài đệ nhị tổng lý và đoàn người ngựa sáng hôm ấy rời thành phố theo con đường nào. Lúc đó và cả sau này ông hề thắc mắc về dữ kiện , còn về gã nọ tự ông ta chắc chắn tài nào nhớ ra nôi vì gã hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt, đáng để chú ý cả nếu như hôm qua ông tình cớ gặp lại gã ngay tại thành Grasse này, trước xưởng của Maitre Druot và Madame Arnulfi ở Rue de la Louve, khi gã quay vào xưởng ông ta nhận thấy gã bị cà nhắc.
      giờ sau Grenouille bị bắt. Chủ lữ quán ở Napoule và tay giữ chuồng ngựa có mặt ở Grasse để nhận diện những kẻ bị tình nghi nhận ngay ra gã là tay thợ thuộc da trọ đêm trong quán, chính là gã chứ ai khác cả, gã hẳn là tên sát nhân bị truy bắt.
      Người ta lục soát xưởng và căn lều trong vườn ô liu sau tu viện dòng Franciscain. Cái áo ngủ bị rọc, áo lót và mái tóc đỏ của Laure Richis nằm trong góc, chỉ che giấu sơ. Khi đào nền, lần lần tìm thấy quần áo và tóc của hai mươi bốn kia. Người ta cũng tìm thấy cái túi hành lý bằng len cùng thanh gỗ gã dùng để nện các nạn nhân. Bằng chứng chối cãi được. Người ta rung chuông nhà thờ. Viên chánh án cho dán yết thị và rao truyền rằng sau gần năm truy tìm, tên sát nhân bỉ ổi bị bắt giam.



      Chương 48





      Thoạt tiên người dân tin vào bố cáo. Họ cho rằng đó là kế để cơ quan công quyền che đậy bất lực của mình và trấn an khí sục sôi nguy hiểm trong dân chúng. Họ còn nhớ rất cái lần bố cáo rằng tên sát nhân Grenoble rồi. Lần này sợ hãi khắc quá sâu trong đầu óc họ. Hôm sau, những tang vật được trưng bầy công khai tại quảng trường trước toà thị chính, là rùng rợn khi nhìn thấy hai mươi lăm bộ áo quần với hai mươi lăm mái tóc móc thành hàng cột trước mặt nhà thờ như những bù nhìn đuổi chim, chỉ lúc ấy dư luận dân chúng mới thay đổi. Từng đoàn hàng trăm người ngang cuộc trưng bày khủng khiếp. Thân nhân của những nhận ra áo quần của họ, khóc chết ngất. Những người khác muốn được nhìn thấy hung thủ, phần do hiếu kỳ, phần để được thuyết phục hoàn toàn. Người ta lớn tiếng đòi thấy gã, cái quảng trường đầy ních người náo động đầy đe doạ khiến viên chánh án quyết định cho đem Grenouille từ phòng giam lên cửa sổ lầu của toà thị chính để trình diện gã trước dân chúng. Khi Grenouille tới sát cửa sổ những tiếng la hét im bặt. Bỗng dưng hoàn toàn im ắng như vào buổi trưa hè nóng nực và mọi người ở ngoài đồng hay chui vào xó mát trong nhà. nghe tiếng bước chân, tiếng hắng giọng, hơi thở. Đám người trố mắt, há miệng nhìn, mấy phút liền. ai có thể ngờ được cái gã thó, lom khom, luống cuống nơi cái cửa sổ kia, cái đồ tầm thường kia, cái đống hèn mọn kia, cái con số kia lại là hung thủ của hơn hai mươi vụ giết những. Gã chẳng có vẻ gì giống tên sát nhân cả. Tuy có ai có thể được con quỷ sát nhân lẽ ra phải như thế nào nhưng mọi người đều nhất trí rằng thể như thế kia! Kẻ giết người giống như thiên hạ tưởng, do đó lẽ ra ai cũng nghĩ rằng trình diên gã ít có sức thuyết phục, vậy mà, nghịch lý làm sao, nội cái chuyện con người này xuất bằng xương bằng thịt trước cửa sổ và dữ kiện chỉ có gã chứ còn ai khác được trình diện là kẻ giết người cũng đủ thuyết phục rồi. Họ đều nghĩ đúng! Nhưng ngay lúc ấy họ biết rằng hẳn phải đúng. cho đúng chỉ sau khi lính gác lôi cái con người thó kia khỏi cửa sổ, nghĩa là chỉ sau khi gã còn đó, còn trông thấy nữa mà chỉ còn như ký ức trong tích tắc, hay có thể chỉ còn như khái niệm – cái khái niệm về tên sát nhân ghê tởm trong đầu óc thiên hạ, chỉ lúc ấy sửng sốt mới biến , nhường chỗ cho phản ứng thích đáng: miệng họ ngậm lại, cả nghìn con mắt hồi sinh. Rồi tiếng kêu đồng loạt, phẫn nộ đòi báo thù duy nhất vang như sấm “Giao gã ngay!” Họ rục rịch chực xông vào toà thị chính, muốn được tự tay bóp cổ gã, xé xác gã, băm vằm gã. Lính gác phải hết sức mới chặn được cổng, đẩy lui đám đông. Grenouille được đưa ngay xuống phòng giam. Viên chánh án tiến lại cửa sổ, hứa xử nhanh chóng và nghiêm khắc để làm gương.Nhưng cũng phải mất mấy giờ sau đám đông mới giải tán, mấy ngày sau thành phố mới tạm yên. Quả nhiên vụ xử Grenouille tiến hành hết sức nhậm lẹ, những vì tang vật rành rành mà còn vì bị can thú nhận né tránh tội trạng những vụ giết người quy cho gã trong những lần hỏi cung. Chỉ khi hỏi về lý do trả lời được thoả đáng. Gã cứ lập lập lại rằng gã cần những ấy nên phải đập chết họ. Khi hỏi gã cần họ để làm gì và thế nào là cần gã im lặng. Cho nên người ta cho tra tấn gã, treo gã ngược đầu luôn mấy tiếng, đổ vào miệng bảy pinte nước, kẹp chân mà chẳng ăn thua gì. Gã như thể vô cảm giác trước những nhục hình, chẳng kêu lấy tiếng và mỗi khi bị hỏi đều trả lời gì khác hơn “Tôi cần họ”. Quan toà cho rằng gã bị tâm thần. Họ ngừng tra tấn và quyết định xử cho xong, thẩm vấn nữa. Điều duy nhất gây nên trì hoãn là tranh chấp về mặt pháp lý với biện lý của Draguignan có thẩm quyền cho cả La Napoule và với toà án tôi cao vùng Aix, hai nơi này đều muốn giành xử vụ án. Nhưng quan toà thành Grasse đâu có chịu. Chính họ bắt hung thủ, đa số vụ án mạng xảy ra trong phạm vi thẩm quyền của họ, nếu giao tên sát nhâncho toà án khác họ phải chịu hứng cơn thịnh nộ của dân chúng. Máu của phải chảy ở Grasse này.
      Ngày 15 tháng Tư năm 1766 bản án được phán quyết và tuyên đọc cho bị cáo nghe trong phòng giam như sau: “Trong vòng bốn mươi tám tiếng, tay thợ làm nước hoa Jean-Baptiste Grenouille bị điệu ra quảng trường trước cổng thành, tại đây bị trói vào thập tự bằng gỗ, ngửa mặt lên trời, bị đánh ngay khi còn sống mười hai lần bằng gậy sắt cho nát những khớp xương tay, chân, hông, vai, sau đó phơi thập tự cho đến chết”. Viên đao phủ bị nghiêm cấm được ban ân huệ cuối cùng như bình thường là dùng dây thắt cổ phạm nhân sau khi các xương vừa bị đánh nát, dù cho gã phải chịu đau khổ nhiều ngày trước khi chết. Xác đem vùi nơi chôn xác thú vật vào ban đêm và được ghi dấu. Grenouille bình thản tiếp nhận bản án. Viên thừa phát lại hỏi gã điều mong muốn cuối cùng, “ cần gì cả”, Grenouille đáp, gã có đủ những thứ cần thiết rồi. linh mục bước vào phòng giam dể cho gã xưng tội nhưng trở ra mười lăm phút uổng công. Kẻ bị kết án ngó ông lom lom, ngớ ra hiểu khi đến Chúa, như thể gã mới vừa nghe đến lần đầu, rồi duỗi dài người bục, chìm ngay vào giấc ngủ say. nữa cũng vô ích.
      Trong hai ngày tiếp đó người ta lũ lượt đến để được thấy gần tên sát nhân nổi tiếng. Người gác ngục cho họ ghé mắt qua cái khe cửa phòng giam với giá sáu xu lần nhìn. thợ chạm đồng muốn chạm phác chân dung gã phải trả hai quan. Nhưng mà đối tượng làm họ thất vọng. Kẻ tử tù nằm ngủ miết bục, chân tay bị xích. Gã quay mặt vào tường, phản ứng dù gõ cửa hay kêu. Người vào xem bị nghiêm cấm được vào phòng giam, nên người gác ngục dám làm càn dù nhiều đề nghị rất hấp dẫn. Người ta sợ rằng gã có thể bị thân nhân của trong những nạn nhân giết chưa phải lúc. Cũng vì thế mà được dúi đồ ăn cho gã. Dám có thuốc độc lắm chứ. Suốt thời gian bị giam, Grenouille được cho ăn thức ăn của đám người làm trong toà giám mục, sau khi viên quản ngục nếm trước. Tuy nhiên hai ngày gần đây gã ăn gì cả. Gã chỉ nằm ngủ. Thỉnh thoảng nghe tiếng xích nghiến, khi người gác ngục chạy vội tới nhìn qua khe thấy gã uống hớp nước từ chai rồi lại ngủ tiếp. Có vẻ như gã chán đời quá rồi, muốn sống tỉnh táo những giờ cuối cùng nữa.
      Trong khi đó quảng trường trước cổng thành được chuẩn bị cho vụ hành quyết. Thợ mộc dựng giàn hành quyết, vuông vức mỗi chiều ba mét, cao hai mét, có bao lơn và cầu thang vững chắc, người ta chưa từng thấy giàn hành quyết nào đô sộ như thế ở Grasse. Rồi khán đài gỗ cho quan khách và vòng rào cản để giữ đám dân đen ở khoảng cách nhất định. Cửa sổ các nhà hai bên Porte du Cours và trong trại lính canh cho thuê với giá cắt cổ từ lâu. Ngay cả ở cái nhà thương nằm hơi chếch, tay phụ tá viên đao phủ cũng thuê lại phòng của bệnh nhân rồi cho những kẻ hiếu kỳ thuê tiếp, kiếm lời ít. Người bán nước chanh pha sẵng hàng thùng nước cam thảo để dự trữ, người thợ chạm đồng cho in hàng trăm bản phác hoạ tên sát nhân mà ông ta phác trong nhà giam và gấp gáp thêm thắt qua tưởng tượng. Hàng tá những bán hàng rong đổ vào thành phố, thợ bánh mì nướng bánh lưu niệm. Mấy năm nay có phạm nhân nào phải đánh gẫy xương nên viên đao phủ Monsieur Papon, cho rèn cây sắt nặng, vuông vức rồi vác vào lò mổ quật tới tấp xác thú vật. Ông chỉ được phép quật đúng mười hai lần vào mười hai khớp xương, phải nát mà làm hại đến những bộ phận quý báu của cơ thể, chẳng hạn ngực hay đầu, đúng là phận khó khăn, đòi hỏi cực kỳ thông thạo.
      Dân chúng chuẩn bị cho kiện này chẳng khác đón ngày hội lớn. Nghỉ, làm việc là chuyện đương nhiên rồi. Đàn bà ủi lễ phục cho thẳng thớm, đàn ông rũ áo khoác cho sạch bụi và cho đánh giầy ống bóng loáng. Ai có chức tước trong quân đội hay cơ quan công quyền, là trưởng phường hội, luật sư, công chứng viên, huynh trưởng giáo đoàn hay là gì quan trọng khác, đóng bộ đồng phục hay y phục chính thức với đủ mề đay, băng vải, dây chuyền và mang tóc giả rắc phấn trắng. Những người mộ đạo định sau khi xong xuôi họp lai cùng rước lễ, những kẻ khẩn cầu satan định làm lễ linh đình tạ ơn Ma vương, còn những nhà quý tộc có học thức họp về từ tính tại dinh cơ của các gia đình ở Cabris, Villeneuves và Fontmichels. Trong các nhà bếp, người ta nướng bánh, chiên thịt, lấy rượu vang từ dưới hầm, mua sẵn hoa ở chợ. Trong nhà thờ ban đồng ca tập dượt với người đánh đại phong cầm. Tĩnh mịch phủ lên dinh cơ của ông Richis ở Rue Droite. Ông cấm chuẩn bị cho cái Ngày giải thoát – dân chúng gọi cái ngày hành quyết tên sát nhân như thế. Ông kinh tởm tất cả. lo âu bùng lại bất chợt của thiên hạ làm ông gớm ghiếc, vui mừng náo nhiệt của họ làm ông kinh tởm. Ngay chính họ, cả lũ, làm ông kinh tởm. ông dự buổi trình diện hung thủ và những nạn nhân của gã ở quảng trường trước nhà thờ, dự phiên toà, cũng ở trong cái dòng người hiếu kỳ đáng ghét lũ lượt trước phòng giam tên tội phạm. Để nhận dạng tóc vào áo quần con , ông cầu phía toà án đến nhà riêng, ông điềm tĩnh khai ngắn gọn rồi cầu họ để lại những thứ để ông lưu niệm và được họ đồng ý. Ông mang vào phòng của Laure, để cái áo ngủ bị rọc và áo lót giường, trải búi tóc đỏ mặt gối rồi nhìn cả ngày lẫn đêm, rời khỏi phòng, như thể ông muốn chuộclại qua thức canh vô nghĩa này điều sơ suất ở La Napoule đêm hôm đó. Lòng ông chất đầy gớm ghiếc, gớm ghiếc thế giới, gớm ghiếc chính ông thể khóc nổi.
      Ông cũng gớm ghiếc cả tên sát nhân. Ông muốn nhìn gã như người nữa mà chỉ như nạn nhân bị tàn sát. Ông chỉ muốn nhìn gã ở buổi hành quyết, khi gã nằm thập tự giá và mười hai lần gậy sắt giáng nát xương gã, lúc ấy ông mới muốn nhìn thấy gã, nhìn gần, ông cho giữ chỗ ở hàng đầu. Rồi sau khi dân chúng giải tán sau vài ba giờ, lúc ấy ông muốn bước xuống chỗ gã giàn hành quyết đẫm máu, ngồi xuống cạnh gã, thức canh suốt đêm, suốt ngày nếu cần thiết, ông nhìn vào mắt kẻ giết con ông, vào mắt gã tất cả kinh tởm chất chứa trong người ông, hắt hết gớm ghiếc như a xít nóng bỏng vào gã trong cơn quằn quại hấp hối, cho đến khi con vật này chết cách khốn khổ… Rồi sau đó? Sau đó ông làm gì? Ông biết. Có thể lại sống bình thường, có thể tục huyền, có thể sinh đứa con trai, có thể làm gì cả, có thể chết. Ông thấy sao cũng được. Suy nghĩ về câu hỏi này theo ông cũng vô nghĩa như suy nghĩ ông làm gì sau khi chết, chẳng làm gì, tất nhiên rồi. Chẳng làm gì cả, đấy là cái mà ông có thể biết lúc này.



      Chương 49





      Cuộc hành quyết được ấn định vào lúc năm giờ chiều. Những người hiếu kỳ đầu tiên tới ngay từ sáng để giữ chỗ. Họ mang theo ghế ngồi và ghế kê chân, nệm con, đồ ăn, rượu vang, và lũ con cái. Gần trưa dân quê từ mọi hướng nườm nượp kéo đến quảng trường đầy nghẹt, những kẻ đến sau phải tìm chỗ ở những thửa vườn và ruộng bậc thang thoai thoải phía bên kia và đường Grenoble. Hàng quán bán rất chạy, người ta ăn uống, ồn ào và náo nhiệt như ở hội chợ. Chẳng mấy chốc tới chục nghìn người, đông hơn cả hội chọn nữ hoàng hoa nhài, hơn cả đám rước lớn nhất, chưa từng thấy ở Grasse. Họ đứng tận sườn núi cheo leo.Họ bám cây, ngồi chồm hổm tường và nóc nhà, mười, mười hai người chen chúc nhau ở khung cửa sổ. Chỉ ở giữa quảng trường chừa khoảng trống cho khánh đài và giàn hành quyết được chắn bởi những rào cản, như thể cái tảng bột được hình thành bởi đám người bị khoét mất chỗ đó vậy, còn giàn hành quyết bỗng dưng trông xíu giống như đồ chơi hay như sân khấu dùng cho múa rối. lối từ pháp trường qua Porte du Cours tới tận Rue Droite cũng được chừa ra. Ba giờ hơn, Monsieur Papon và người phụ tá xuất . Tiếng vỗ tay ồ lên. Họ khiêng cái thập tự giá đóng bằng gỗ xà nhà lên giàn hành quyết, đặt bốn cái giá gỗ vững chắc để có được độ cao thích hợp lúc ra tay. Rồi tay thợ mộc đóng đinh cho chắc. Mỗi động tác của viên phụ tá đao phủ và người thợ mộc đều được vỗ tay tán thưởng. Đến khi Papon cầm gậy sắt lại gần, quanh giá gỗ, đo từng bước, đánh dứ phía này rồi phía nọ tiếng reo hò vang dậy. Bốn giờ khán đài đông dần. Những ông nhà giàu đầy cung cách với gia nhân, những mệnh phụ xinh đẹp mang mũ rộng vành và áo quần óng ánh, nghĩa là có rất nhiều người quý phái để mà ngưỡng mộ. Tất cả giới quý tộc thành phố và vùng quê đều có mặt. Quý ông trong hội đồng thành phố thành đoàn, dẫn đầu bởi hai ngài tổng lý. Ông Richis mặc tang phục đen, mũ đen, tất đen. Theo sau Hội đồng là các viên chức toà án do ngài chánh án dẫn đầu. Sau cùng là đức giám mục được khiêng bằng kiệu mặc áo choàng tím rực rỡ, đội mũ màu xanh lá cây. Ai còn đội mũ lúc này ngả mũ chào. khí trở nên trang nghiêm. Rồi gần mười phút liền chẳng có gì nhúc nhích. Quý ông qúy bà yên vị, dân chúng cũng ngồi yên, ai ăn uống nữa, mọi người chờ. Papon và tay phụ tá đứng như bị đóng đinh giàn hành quyết. Mặt trời to vàng lơ lửng ngọn núi Esterel. làn gió ấm từ vùng lòng chảo Grasse mang đến mùi thơm hoa cam. Trời rất nóng và im ắng lạ thường. Rồi khi người ta ngỡ rằng căng thẳng thể kéo dài thêm được nữa vì nổ bùng ngàn tiếng la ó, náo động hay điên loạn hoặc những tượng gì khác của đám đông trong im ắng có tiếng ngựa phi và tiếng bánh xe kẽo kẹt.
      xe hai ngựa bít bùng đổ từ Rue Droite xuống, đó là xe của viên thiếu uý cảnh sát. Nó băng qua cổng thành và lúc này mọi người đều thấy nó trong cái lối hẹp dẫn ra pháp trường. Viên thiếu uý cảnh sát đòi phải làm như thế vì nếu ông ta tin rằng có thể bảo đảm an toàn cho phạm nhân. Tất nhiên hoàn toàn bình thường tí nào. Nhà tù chỉ cách pháp trường đầy năm phút và khi kẻ bị kết án vì lý do nào đó bộ nổi đoạn đường ngăn này cho lên xe hở mui, lừa kéo cũng được. Nhưng người ta chưa từng thấy kẻ được chở hành quyết trong xe hòm, có xà ích, có người hầu mặc chế phục và có hộ vệ cưỡi ngựa theo hai bên như thế này bao giờ.
      Tuy vậy thấy đám đông xôn xao hay bực bội, mà ngược lại. Người ta hài lòng thấy có gì mới lạ, họ cho rằng dùng xe ngựa chở tù là sáng kiến hay, giống như người ta vẫn thích thú khi được xem vở kịch tuy biết rồi nhưng trình diễn bằng cách mới lạ, bất ngờ. Nhiều người còn cho rằng xuất như thế là đúng tầm vóc. tội phạm ghê tởm lạ thường nhường ấy xứng đáng được đối xử ngoại lệ. Người ta thể nào lôi gã trong xiềng xích tới pháp trường để gia hình như với tên cướp đường tầm thường được. Thế chẳng còn gì là giật gân nữa cả. Đưa gã từ nệm xe đến thập tự giá, thế mới là tàn bạo đầy sáng tạo gì bằng. Chiếc xe ngựa dừng lại giữa giàn hành quyết và khán đài. Bọn gia nhân nhảy xuống, mở cửa xe, hạ bục đỡ chân xuống. Viên thiếu uý cảnh sát bước xuống trước, rồi đến viên sĩ quan thuộc đội canh gác, Grenouille xuống sau chót. Gã khoác áo xanh da trời, sơ mi trắng, tất lụa trắng và giầy đen có khoá. Gã bị trói. ai giữ tay gã cả. Gã bước xuống xe như người hoàn toàn tự do. Rồi phép lạ xảy ra. Hay cái gì giống như phép lạ vì thể nào hiểu được, chưa từng thấy, thể tin nổi khiến sau đó mọi nhân chứng đều gọi đó là phép lạ nếu như họ còn có dịp nhắc đến điều này. Nhưng dịp này bao giờ đến bởi vì sau đó hết thảy bọn họ đều mắc cở vì có mặt. Chỉ tại vì cả chục nghìn người quảng trường và những triền núi chung quanh bỗng chốc chan chứa niềm tin lay chuyển rằng cái người thó trong áo khoác xanh mới vừa từ xe ngựa bước xuống kia thể nào là kẻ sát nhân được. phải họ hoài nghi rằng ở gã có chỗ nào trá ngụy! Đứng kia vẫn là con người mà họ thấy ở cửa sổ toà thị chính, quảng trường nhà thờ mấy ngày trước, và nếu gã lọt vào tay họ họ nhai sống vì điên tiết rồi. Vẫn người đó bị kết án đúng luật hai ngày trước do những chứng cớ quá hiển nhiên và do tự thú nhận. Vẫn những đó mà phút trước đây họ còn nôn nóng chờ tay đao phủ gia hình. Đúng là gã, còn nghi ngờ gì nữa. Ấy thế mà phải gã, thể là gã, gã thể nào là tên sát nhân được. Cái người đàn ông đứng quảng trường kia là thân của vô tội. Giây phút này ai cũng biết thế cả, từ đức giám mục đến gã bán nước chanh, từ bà hầu tước cho chí chị thợ giặt, từ ngài chánh án đến thằng nhóc cầu bơ cầu bất. Cả Papon cũng biết thế. Và hai bàn tay cầm gậy sắt run rẩy. Hai cánh tay mạnh mẽ bỗng yếu xìu, đầu gối nhũn ra, sợ hãi như đứa trẻ con. Chắc là ông ta nhấc nổi cây gậy rồi, chẳng đời nào ông ta đủ sức nhấc gậy đánh cái con người vô tội thó này. Ôi, ông ta sợ cái giây phút người ta dẫn gã lên giàn, ông – Papon dũng mãnh vĩ đại – run như cầy sấy, yếu đến nỗi phải chống cả cây gậy giết người để khỏi quỵ xuống! Chục nghìn đàn ông, đàn bà, trẻ con, người già tụ tập ở đó cũng đều thế cả, họ nhũn người như cưỡng nổi vẻ quyến rũ của người tình. Lòng họ dạt dào mến thương, trìu mến, mê đắm rồ dại như trẻ nít. Lạy Chúa, họ cả tên sát nhân thó ấy nữa cơ, đúng như thế, mà họ thể, muốn cưỡng lại. Cũng như người ta thể cưỡng được khóc, cưỡng được những dòng lệ bị nén từ lâu, nay trào lên từ đáy lòng, làm tan rã cách kỳ diệu mọi dồn nén, hóa lỏng và tràn ngập tất cả. Trong lòng, linh hồn và trí tuệ của họ tan biến hết, họ chỉ còn là chất lỏng, chất lỏng hình thể, và cảm thấy gì khác hơn là trái tim, họ bềnh bồng trong đó như khối vật vờ, rồi từng người đặt trái tim ấy vào bàn tay của người đàn ông thó khoác áo màu xanh, vô điều kiện: họ gã rồi.
      Grenouille đứng luôn mấy phút ở cửa xe ngựa, nhúc nhích. Tên gia nhân cạnh gã quỳ gối, cúi người xuống mãi cho đến khi hoàn toàn phủ phục như ở các nước phương Đông người ta vẫn làm thế trước vua hay trước Allah. Vậy mà vẫn còn run rẩy, lắc lư, muốn cúi người xuống nữa, nằm dài đất, chui sâu xuống đất. Gã muốn chui mãi đến tận đầu kia của trái đất để tỏ khúm nụ Viên thiếu uý cảnh sát và viên sĩ quan đội gác là những kẻ dũng cảm, có phận điệu tội nhẩn lên giàn hành quyết giao cho viên đao phủ mà thể làm nổi hành động ăn ý nào. Họ khóc lóc, ngả mũ rồi lại đội mũ, quăng xuống đất, túm lấy nhau, rồi bỏ nhau ra, khoa tay múa chân như rồ dại, bàn tay vận vẹo, co quắp người, mặt nhăn nhó như bị động kinh.
      Những bậc danh giá ngồi phía xa cũng để lộ xúc động kín đáo gì hơn. Mỗi người đắm mình theo giục giã của trái tim. Có những mệnh phụ nắm chặt tay trong lòng, thở dài vì khoái cảm, những bà khác ngất lúc nào chẳng biết vì khao khát chàng trai họ thấy tuấn tú kia. Có những ông cứ ngớt đứng lên rồi lại ngồi xuống, thở như bò rống, tay nắm chặt đuôi kiếm như muốn rút ra, rồi mới rút ra lại tra vào liền khiến kiếm cứ rung lách cách trong bao, những vị khác câm nín, ngước mắt nhìn trời, hai bàn tay cứng đờ vì cầu nguyện, còn Đức Ông giám mục như thể bị nôn nao, chúi người ra phía trước, trán va phải đầu gối, cái mũ xanh lá cây to bằng bàn tay rơi ra khỏi đầu, lăn lông lốc, nhưng ngài đâu có nôn nao, lần đầu tiên trong đời ngài được đắm mình trong say mê đạo giáo vì phép lạ xảy ra trước mắt mọi người: chính Đức Chúa Trời ngăn chặn bàn tay của viên đao phủ kia khi Người tiết lộ cho biết cái kẻ bị coi là giết người trước bàn dân thiên hạ kia là thiên thần. Ôi kiện như thế vẫn xảy ra trong thế kỷ thứ 18 này. Người vĩ đại biết bao! Còn cái kẻ tuyên cáo rút phép thông công mà chẳng hề tin, chỉ cốt để trấn an dân chúng, kẻ ấy mới hèn hạ làm sao! Ôi kiêu ngạo! Ôi thiếu lòng tin! Để rồi giờ đây Người làm phép lạ! Ôi quả là ân sủng khi thân làm giám mục mà được Người trừng trị bẽ bàng mà tuyệt diệu, nhục nhã mà ngọt ngào như thế. Trong khi đó đám dân chúng đàng sau rào chắn càng buông thả trắng trợn hơn nữa theo cái tình cảm mê say kỳ quái do xuất của Grenouille gây ra. Ai mới thoạt nhìn gã đều cảm thấy tội nghiệp và xúc động giờ đây che giấu thèm muốn, ai mới đầu thán phục và thèm muốn giờ đây trở nên ngây ngất. Mọi người đều cho rằng cái gã đàn ông trong cái áo khoác xanh kia là kẻ đẹp đẽ nhất, quyến rũ nhất, hoàn toàn nhất mà người ta có thể hình dung được: gã như thể là thân của Chúa Cứu Thế đối với các nữ tu sĩ, là Chúa tể rực rỡ của Bóng tối đối với các đỗ đệ satan, là Đấng Tối Cao đối với những bậc trí giả, là Hoàng tử trong chuyện thần thoại đối với những , là cái hình ảnh lý tưởng của chính họ đối với đám đàn ông. Ai nấy đều thấy gã như biết được và nắm được chỗ nhậy cảm nhất của mình, gã điểm trúng cái trung tâm tình dục của họ. như thể gã có cả vạn bàn tay vô hình đặt lên bộ phận “quý” của vạn người quanh gã, ve vuốt nó đúng cái cách mà mỗi người, dù đàn ông hay đàn bà, thèm khát nhất trong tưởng tượng bí mật của mình. Hậu quả là cuộc hành quyết dành cho tên tội phạm ghê tởm nhất thời bấy giờ biến thành cơn cuồng lạc lớn nhất mà thế giới từng được chứng kiến từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên đến nay. Đúng là địa ngục. Grenouille đứng đó, cười. Hay đúng hơn, những người nhìn gã thấy có vẻ gã nụ cười vô tội nhất, đáng nhất, duyên dáng nhất đồng thời quyến rũ nhất thế gian. Nhưng ra đó phải là nụ cười mà là cái nhếch mép ngạo báng đáng ghét môi gã, phản ánh toàn thắng và tất cả khinh miệt của gã. Gã, Jean-Baptiste Grenouille, sinh ra có mùi ở nơi hôi hám nhất thế gian, giữa rác rưởi, phân súc vật và những thứ thối rữa, lớn lên tình thương, sống thiếu hơi ấm của tâm hồn người, chỉ dựa vào sức mạnh của phản kháng và kinh tởm, con, gù, cà nhắc, xấu xí, bị xa lánh, tên khả ố cả trong lẫn ngoài, gã đạt được chuyện làm cho cả thế gian thích mình. Sao lại chỉ là thích? Phải là ! Kính! Sùng bái! Gã hoàn thành kỳ công chẳng khác thần Prometheus [1]. Nhờ khéo léo cùng, gã bền gan lấy được những tia lửa thần vẫn được dễ dãi đặt vào nôi mọi người nhưng riêng nôi gã lại . Hơn nữa chứ. Vì đúng ra gã tự làm bật ra những tia lửa kia trong chính người của gã. Gã còn vĩ đại hơn cả Prometheus nữa. Gã tạo được tinh hoa rạng rỡ và có tác dụng hơn mọi người trước gã. Và gã chẳng phải hàm ơn ai khác, cha , mẹ cũng , lại càng vị Chúa nhân đức nào, ngoài chính gã ra. Quả gã chính là chúa của gã, vị chúa tuyệt diệu hơn vị chúa hôi mùi trầm hương trong nhà thờ nọ. giám mục bằng xương bằng thịt quỳ trước gã, khóc thút thít vì sung sướng. Những người giàu có, những kẻ quyền uy, những ngài và những mệnh phụ kênh kiệu chết lịm trong khâm phục, trong khi dân chúng khắp chung quanh, trong đó có cha, mẹ, chị em những nạn nhân của gã, nhân danh gã mừng cuộc cuồng lạc để vinh danh gã. cái vẫy tay của gã làm mọi người chối bỏ Chúa của họ, và tôn sùng gã, Grenouille Vĩ Đại. Đúng, gã là Grenouille Vĩ Đại! Bây giờ rành rành. Năm xưa gã vĩ đại như thế nào trong cái giấc mơ gã tự mình bây giờ cũng thế, nhưng mà trong thực tế. Gã sống những giây phút vinh quang nhất trong đời. Nhưng vinh quang lại làm gã kinh khủng.
      Gã kinh khủng vì gã thưởng thức được nó lấy giây. Trong lúc gã bước từ xe xuống cái quảng trường chói nắng, phủ người lớp nước hoa mà gã thèm khát cả đời và phải mất hai năm làm việc ròng rã mới có được, cái nước hoa làm cho người ta thích… trong cái lúc gã nhìn và ngửi thấy cái nước hoa ấy toả nhanh như gió, chế ngự mọi người quanh gã, cưỡng lại được, cũng chính lúc ấy tất cả kinh tởm con người lại cuộn lên trong gã, làm ô uế mọi vinh quang khiến gã chẳng những thấy gì vui mà cũng chẳng mảy may toại ý. Trong cái khoảnh khắc của thành công nỗi khát khao được con người thích trở nên thể chịu đựng nổi vì gã họ, gã ghét họ. Gã chợt hiểu rằng gã bao giờ tìm thấy thoả mãn trong tình , mà chỉ có thể trong thù ghét, ghét người và bị người ghét. Nhưng thù ghét gã dành cho con người được con người đáp lại. Lúc này gã càng ghét họ họ lại càng tôn sùng gã bởi vì họ cảm nhận được gì từ gã ngoài cái tinh hoa vay mượn, cái mặt nạ mùi của gã, cái nước hoa ăn cướp của gã. Mà cái nước hoa tuyệt diệu này đáng hâm mộ . Gã chỉ muốn tiêu diệt cái bọn người ngu xuẩn, hôi hám, trở thành dâm ô này ra khỏi mặt đất, y như trước kia tiêu diệt những mùi lạ ở cái vương quốc trong tâm hồn u tối của gã. Gã mong họ nhận ra rằng gã ghét họ biết mấy, bởi vì đó là cái tình cảm duy nhất của gã, để họ ghét gã và cũng muốn tiêu diệt gã như định lúc đầu. Gã muốn được bộc lộ lần trong đời. Gã muốn được lần bộc lộ cõi lòng như mọi người khác, họ bộc lộ tình tôn kính ngu xuẩn còn gã bộc lộ thù ghét. lần, chỉ lần duy nhất thôi, gã muốn rằng hữu sực của gã được ghi nhận thù ghét, cái tình cảm duy nhất của gã, được đáp lại.
      Nhưng chẳng được gì. thể được gì. Hôm nay lại càng . Vì gã nguỵ trang dưới lớp nước hoa tuyệt diệu nhất thế gian. Dưới nó gã có bộ mặt nào cả ngoài mùi hoàn toàn. Gã cảm thấy nôn nao vì chợt thấy sương mù bốc lên trở lại.
      Giống như thời kỳ còn ở hang, khi ngủ trong trái tim của tưởng tượng, sương mù bỗng bốc lên trong giấc mơ, cái sương mù khủng khiếp của chính mùi gã mà gã thể ngửi ra vì chính gã có mùi. Như thời ấy, gã kinh hoàng tột cùng, tin rằng chết ngộp. Nhưng giờ đây là trần truồng, chỉ là mơ, là ngủ như xưa. Và gã cũng thân mình như thời ở hang mà đứng quảng trường, trước mặt cả vạn người. Cũng khác xưa, ở đây tiếng kêu nào giúp được gã choàng tỉnh, giải thoát gã, trốn chạy nào giúp được gã trở về với cái thế giới bao dung, ấm áp, tốt đẹp. Bởi vì chính nơi đây, ngay lúc này là thế giới, và chính nơi đây, ngay lúc này, giấc mơ của gã thành . Chính gã muốn như thế.
      Làn sương mù khủng khiếp, ngột ngạt tiếp tục bốc lên từ cái đầm lầy của tâm hồn gã, trong khi đám dân quanh gã rên rỉ, co quắp vì khoái lạc của cuộc truy hoan. người đàn ông chạy gấp tới gã. Ông ta nhảy vọt lên từ hàng đầu của khán đài danh dự, đột ngột đến nỗi rơi cả cái mũ đen đội, phóng qua chỗ hành hình, áo choàng đen phấp phới trông như con quạ hay thiên thần báo oán. Đó là Richis.
      Ông giết ta thôi, Grenouille thầm nghĩ. Ông là người duy nhất để bị lưa bởi cái mặt nạ của ta. Ông thể nào để bị lừa được. Mùi thơm của con ông bám chặt vào ta, ràng lật tẩy ta chẳng khác gì máu. Nhất định ông nhận ra và giết ta. Nhất định thế.
      Rồi gã dang tay ra để đón thiên thần lao tới. Gã tin rằng cảm thấy dao găm hay kiếm thọc vào ngực, nhói lên tuyệt vời, xuyên thủng lớp áo giáp của mùi thơm và làn sương mù ngột ngạt, đâm vào giữa trái tim lạnh lẽo của gã. Có thế chứ, rồi tim gã cũng có được cái gì khác chứ phải chỉ có chính gã mà thôi! Gã thấy như sắp được giải thoát.
      Nhưng bỗng dưng Richis ngả đầu vào ngực gã, phải là thiên thần báo oán mà là ông Richis quá đỗi xúc động, nức nở đến tội nghiệp, ôm chầm lấy gã, bấu hết sức chặt như thể tìm ra chỗ bám nào khác giữa trùng dương của hạnh phúc tột cùng. có cú đâm giải thoát, có cú thọc vào tim, có được lấy lời nguyền rủa hay chỉ tiếng gào oán ghét. Thay vào đó ông Richis áp má đẫm lệ vào má gã, đôi môi run rẩy thút thít với gã “Tha lỗi cho ta, con trai của ta, con quý, tha lỗi cho ta!”. Thế là mắt gã hoa lên, trời đất tối sầm lại. Sương mù bị giam hãm đọng lại thành chất lỏng, réo ầm ầm như sữa nấu sôi sủi bọt. Nó tràn đầy người gã, căng lên với sức ép thể nào chịu nổi vào vách chắn bên trong người gã mà thoát ra được. Gã muốn chạy trốn, chạy trốn, nhưng chạy đâu được hở trời…Gã muốn được rách toác ra, vỡ tan ra để khỏi bị chêt ngộp. Rồi gã ngục xuống, bất tỉnh.

      Chú thích:. [1] Thần thoại Hy lạp: vì thương loài người, Prometheus lấy cắp lửa đem cho, trái lệnh của thần Chúa tể Zeus, nên bị Zeus trừng phạt xích vào núi đá, ngày ngày bị chim ưng rỉa gan. Sau được thần Hercules giải thoát.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :