1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mùi Hương - Patrick Suskind

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 30

      Trông gã mới kinh khiếp làm sao! Tóc dài tận khoeo, bộ râu lưa thưa ngang rốn, móng tay như vuốt chim, còn ở những nơi mà mớ giẻ rách đủ phủ kín tay và chân da bong ra từng mảng.

      Những con người đầu tiên gã gặp là những nông dân cánh đồng gần thành phố Pierrefort, họ la hoảng bỏ chạy khi thấy gã. Nhưng trong thành phố gã gây chấn động. Hàng trăm người chạy xúm lại để ngó gã. Có người cho rằng gã là tên tù đầy vượt ngục. Kẻ khác lại bảo gã đúng là người mà lai người và gấu, nghĩa là người rừng. người trước từng biển chắc chắn gã giống người của bộ lạc da đỏ mọi rợ ở Cayenne bên kia đại dương. Họ dẫn gã ra mắt thị trưởng. Ở đấy gã đưa trình chứng chỉ thợ lành nghề làm mọi người kinh ngạc, với ít tiếng lắp bắp nhưng hiểu được, gã mở miệng lần đầu tiên sau bảy năm kể rằng đường gã bị bọn cướp bắt giam giữ suốt bảy năm trong cái hang. Trong thời gian này gã hề thấy ánh mặt trời hay thấy người, thức ăn đựng trong giỏ được bàn tay vô hình thòng xuống trong bóng tối, rồi sau rốt được giải thoát nhờ cái thang mà gã hiểu ở đâu ra, và gã cũng như chưa từng thấy mặt bọn bắt cóc lẫn người cứu gã. Gã nghĩ ra câu chuyện này vì theo gã dễ tin hơn ; mà đúng thế vì những vụ cướp tương tự hiếm trong vùng núi ở Auvergne, Languedoc và Cevenne. Dẫu sao viên thị trưởng mảy may ngần ngại lập biên bản và trình vụ lên ngài Marquis de la Taillade-Espinasse, lãnh chúa của thành phố đồng thời là uỷ viên toà án tối cao ở Toulouse.

      Ngay từ năm bốn mươi tuổi Marquis từ giã lối sống cung đình ở Versailles, rút về thái ấp sống cho khoa học. Ngài soạn tác phẩm nổi tiếng về nền kinh tế quốc gia năng động đề nghị bỏ hết mọi thuế thổ trạch và sản phẩm nông nghiệp nhưng ngược lại đánh thuế lợi tức theo cách lũy tiến ngược, như thế bọn nghèo bị nặng nhất và họ buộc phải phát huy hơn nữa những hoạt động kinh tế. Phấn khởi vì quyển sách thành công, ngài viết tiểu luận về giáo dục trai ở lứa tuổi từ năm đến mười, rồi thực những thí nghiệm về nông nghiệp như thử thụ tinh bò nhiều loại cỏ để có được thứ lai tạo động-thực vật cho sữa, kiểu hoa- vú-sữa. Sau những thành công sơ khởi, khiến ngài mạnh dạn làm pho mát từ sữa cỏ, được viện Hàn lâm khoa học Lyon đánh giá là “có mùi vị của dê tuy hơi đắng”; nhưng rồi ngài phải bỏ thí nghiệm vì phun hàng trăm lít tinh trùng bò khắp đồng cỏ quá ư tốn kém. Dẫu sao, qua làm việc với những vấn đề nông sinh học ngài chỉ thêm quan tâm đến những thứ gọi là tảng đất cầy mà là đất chung và về quan hệ của đất với môi sinh.

      Mới vừa ngưng những công việc thực tiễn về hoa- vú-sữa, ngài lao ngay vào biên soạn cảo luận lớn về mối quan hệ giữa vùng tiếp cận đất và sinh lực với hăng hái giảm sút của nhà nghiên cứu. Luận điểm của ngài là sống chỉ phát triển nổi ở khoảng cách nhất định với mặt đất vì từ đất liên tục tuôn ra thứ hơi độc gọi là fluidum letale[1] làm cho sinh lực bị tê liệt và sớm muộn bị tắt hẳn. Do đó, mọi sinh vật đều gắng sức để rời khỏi mặt đất, tăng trưởng bên mặt đất chứ ngược vào trong; cũng như chúng đều hướng những phần quý nhất lên trời: hạt và nhánh lúa, hoa và cành, người và cái đầu, cho nên khi tuổi già làm cho còng xuống chúng bó buộc cong thân về lại đất, bị khí độc làm hư hao cưỡng lại được, để rồi sau khi chết chúng biến thành chính cái hơi ấy trong quá trình phân hoại.

      Khi Marquis de la Taillade-Espinasse nghe tìm thấy ở Pierrefort gã sống chui rúc bảy năm ròng rã trong hang, nghĩa là hoàn toàn bị bao quanh bởi môi trường độc hại của đất ngài vô cùng thú vị và ra lệnh đưa Grenouille đến ngay phòng thí nghiệm để ngài khám gã kỹ. Ngài thấy lý thuyết của mình được chứng thực rành rành hết sức: fluidum letale huỷ hoại Grenouille đến độ cái cơ thể mới hai mươi lăm tuổi của gã phơi bày rệt những biểu suy nhược của người già.
      Ngài Taillade-Espinasse giải thích rằng việc Grenouille được cho ăn thứ thực phẩm làm từ những loại cây cỏ xa mặt đất, có lẽ là bánh mì hay trái cây, là lý do duy nhất khiến gã thoát chết. Gã chỉ có thể hồi sức như xưa nếu dùng cái máy quạt sinh khí do chính ngài phát minh trục hết cái fluidum kia ra khỏi người gã. Ngài có cái máy như thế để trong kho của lâu đài ở Montpellier, nếu Grenouille bằng lòng làm đối tượng cho thuyết minh khoa học những ngài giải thoát gã khỏi nhiễm độc vô vọng bởi khí đất mà còn cho số tiền nữa…

      Hai giờ sau họ ngồi xe. Mặc dù đường xá hết sức xấu họ chỉ mất chưa đầy hai ngày để sáu mươi bốn dặm tới Montpellier vì tuổi cao nhưng Marquis vẫn tha, đích thân vung roi quật cả ngựa lẫn người đánh xe và ngần ngại phụ tay khi trục xe và nhíp bị gẫy nhiều lần, ngài quá phấn khởi với khám phá của mình, khao khát được trình diện nó nhanh trước cử toạ có học thức. Còn Grenouille được rời khỏi xe lấy lần. Gã phải ngồi ở đấy trong mớ giẻ rách, trùm thêm cái chăn dầy những đất ẩm và bùn. Trong chuyến gã được cho ăn rễ cây sống. Bằng cách này ngài Marquis hy vọng giữ được nhiễm độc bởi fluidum của đất trong trạng thái lý tưởng thêm ít lâu nữa.

      Tới Montpellier, ngài cho đưa ngay Grenouille đến hầm cung điện của ngài, gởi thư mời đến toàn thể thành viên của đại học Y khoa, của hội những nhà thực vật học, trường canh nông, hội hoá học, hội Tam điểm và những hội của các nhà học giả khác, thành phố này có cả tá hội như thế. Mấy ngày sau, đúng tuần lễ sau khi giã từ độc núi, gã được đưa lên bệ đại giảng đường đại học Montpellier để giới thiệu với hàng trăm quan khách như là kiện khoa học chấn động trong năm.

      Trong bài thuyết trình, ngài Taillade-Espinasse mô tả gã là bằng chứng sống về đúng đắn của lý thuyết Fluidum letale của đất. Ngài vừa giật từng miếng giẻ rách vừa giải thích cái hậu quả tai hại do khí độc gây ra thân thể Grenouille; ta thấy những mụn mủ và thẹo do khí ăn da, ngực vệt ung thư đỏ tươi và to tướng, da bị thối nát khắp nơi, thậm chí bộ xương biến dạng rệt biểu rành rành qua cái chân quẹo và cái bướu mà nguyên nhân chính là do khí. Nội tạng như lá lách, gan, phổi, mật và đường tiêu hoá cũng bị khí làm thương tổn nặng, điều này được minh chứng rệt qua quan sát phân đựng trong cái chậu đặt dưới chân gã để ai muốn xem cứ tự nhiên. Tóm lại, có thể được rằng tê liệt sinh khí do bảy năm nhiễm độc bởi fluidum letal Taillade[2] tới mức mà cái gã bề ngoài mang nhiều nét chú ý như thể chuột chũi kia phải được gọi là sinh vật gần với cái chết hơn sống. Tuy vậy, người thuyết trình dám tin rằng qua cách điều trị bằng quạt gió kết hợp với chế độ ăn uống kiêng cữ trong vòng tám ngày có thể làm cho cái gã sắp gặp tử thần kia hồi sức đến độ ai cũng nhận ra những dấu hiệu của hoàn toàn bình phục; ngài cầu những người diện sau tuần đến kiểm chứng kết quả của dự đóan và điều này tất nhiên phải được coi là bằng chứng có giá trị về đúng đắn của lý thuyết fluidum letale.

      Bài thuyết trình thành công lớn. Đám cử toạ thông thái vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng diễn giả rồi xếp hàng ngang cái bục Grenouille ngồi9. Trong cái vẻ tiều tụy được duy trì và những vết sẹo cũ cùng với khuyết tật dị dạng trông gã quả hết sức đáng sợ nên ai cũng nghĩ rằng gã thối rữa mất nửa rồi, thể cứu được nữa cho dù chính gã thấy mình khoẻ và có sức. Vài ông gõ gõ người gã khác chuyên gia, đo, xem miệng và mắt gã. Có người với gã, hỏi về cuộc sống trong hang động và tình trạng sức khoẻ giờ của gã. Nhưng gã tuân theo đúng những gì ngài Marquis dặn trước nên chỉ đáp lại những câu hỏi nọ bằng tiếng khò khè yếu ớt, hai tay làm những động tác bất lực chỉ vào yết hầu để tỏ rằng chỗ ấy cũng bị fluidum letale gặm nhấm rồi.

      Cuộc buổi trình diễn, ngài Taillade-Espinasse lại trùm kín gã, cho chở về nhà kho của lâu đài. Ở đấy, ngài nhốt gã vào cái máy quạt hơi sinh khí trước diện của vài bác sĩ chọn lọc của khoa Y, đây là cái cũi đóng khít bằng những thanh gỗ thông, để tránh khí độc, khí được hút tuốt từ cao qua ống hơi nhô ra khỏi mái nhà thổi vào cũi rồi thoát ra bằng nắp da gắn dưới đáy cũi. Lũ gia nhân lo vận hành giàn thiết bị phải giữ cho cái quạt gắn trong ống hút chạy suốt ngày đêm nghỉ. Rồi trong khi bằng cách ấy luồng khí dùng để tẩy uế ngừng bao quanh Grenouille cứ mỗi giờ, qua ô ở vách, gã lại được đưa cho ăn kiêng khem những thứ ở xa mặt đất: canh chim bồ câu, patê chim sơn ca, ra gu vịt trời, mứt trái cây, bánh mì từ loại lúa mì mọc cực cao, rượu vang Pyrénée, sữa sơn dương và kem làm bằng trứng của đan gà nuôi tận gác thượng lâu đài.

      trị liệu tổng hợp khử độc và phục hồi sinh lực kéo dài liền năm ngày. Rồi ngài Marquis cho tắt quạt, đưa Grenouille vào phòng tắm cho gã ngâm nhiều giờ trong nước mưa ấm và sau hết tắm từ đầu đến chân với xà bông làm từ dầu trái bồ đào mua tận thành phố Potosi ở dãy núi Andes. Gã được cắt móng tay, móng chân, chà răng với vôi Dolomit tán mịn, cạo râu, cắt tóc, chải đầu, uốn tóc và rắc phấn. Thợ may và thợ giầy được gọi đến cắt cho Grenouille cái áo lụa viền ren trắng, ống tay áo viền đăng ten trắng, tất lụa, áo choàng, quần, áo gi lê bằng nhung xanh, giầy da đen cài khóa bảnh và chiếc bên phải khéo che cái bàn chân què. Ngài Marquis tự tay đánh phấn họat thạch trắng lên cái mặt chằng chịt thẹo của Grenouille, bôi môi và gã với sơn đỏ rồi dùng than mềm từ gỗ bồ đề kẻ lông mày của gã cho cong cách qúy phái. Rồi ngài xịt lên gã cái nước hoa chính ngài vẫn dùng, loại nước hoa đồng thảo kh’a tầm thường, đoạn lùi lại vài bước, mãi lúc sau mới diễn tả nổi thành lời trầm trồ.

      “Monsieur,”ngài , “tôi phục tôi hết sức. Thiên tài của tôi làm chính tôi rung động. Chưa bao giờ tôi nghi ngờ đúng đắn của cái lý thuyết về khí mà tôi nêu ra, chưa bao giờ, nhưng tôi rung động khi thấy nó được chứng minh cách tuyệt vời qua cách trị liệu thực tiễn. Trước kia ông là con thú, giờ tôi biến ông thành người. Khác gì thần thánh đâu. Xin hãy bỏ qua cho xúc động của tôi! Mời ông tới soi tấm gương đàng kia! Ông nhận ra lần đầu tiên trong đời rằng ông là người, tuy khác thường hay đặc biệt gì nhưng dẫu sao cũng vẫn là người coi được. Monsieur, hãy soi gương ! Ông kinh ngạc về phép lạ tôi vừa hoàn thành nơi ông!”

      Đó là lần đầu tiên có người gọi Grenouille bằng “Monsieur”.

      tới cái gương, soi mình trong đó. Gã chưa từng thấy cái gương bao giờ. Gã thấy trước mắt ông trong trang phục xanh loại sang, áo trắng, tất lụa, gã vội cúi đầu như vẫn thường làm trước những ngài sang trọng như thế. Người đàn ông sang trọng nọ cũng cúi đầu và khi Grenouille thẳng người lại ông ta cũng làm y hệt, rồi cả hai nhìn nhau chăm chú.

      Grenouille kinh ngạc nhất về cái dáng hết sức bình thường của mình. Ngài Marquis đúng, trông gã có gì đặc biệt, đẹp trai nhưng cũng đến nỗi quá xấu. Người gã hơi , cử chỉ hơi vụng về, gương mặt hơi đờ đẫn, tóm lại, trông gã giống như hàng nghìn người khác. Nếu bây giờ gã ra đường hẳn chẳng ai ngoái cổ nhìn. Giả tỉ mà gã gặp người như gã bây giờ chính gã cũng chẳng thèm chú ý, trừ khi gã chỉ ngửi thấy ở người ấy chút hoa đồng thảo ngoài ra còn mùi nào hết như ông nọ trong gương và như chính gã.

      Thế là mười ngày trước đám nông phu la hoảng bỏ chạy khi thấy gã. Lúc ấy gã chẳng cảm thấy gì khác bây giờ, còn bây giờ khi nhắm mắt lại gã cũng chẳng thấy khác trước tí nào. Gã hít cái hoi toả ra từ cơ thể, ngửi thấy mùi nước hoa tầm thường, mùi nhung, mùi da giầy mới dán, gã ngửi thấy mùi lụa, phấn bôi mặt, son, thoang thoảng mùi xà bông từ Potosi. Và gã chợt hiểu ra rằng phải canh chim bồ câu và cái trò quỷ thuật với cái quạt gió làm gã trở thành người bình thường mà hoàn toàn chỉ do ba cái áo quần, bộ tóc và đôi chút trang điểm che đậy.

      Gã mở mắt, nhấp nháy và thấy ông nọ trong gương nháy mắt với gã, nụ cười thoáng môi đỏ màu son như để ra hiệu rằng ông ta thấy gã phải dễ mến. Còn Grenouille cũng nhận thấy ông nọ trong gương, thấy cái hình dáng mùi, mặc quần áo, trang điểm kia đến nỗi tệ, theo gã cái hình dáng ấy có thể tác động được vào thế giới bên ngoài nếu bộ mặt kia được giả trang hoàn hảo trong khi gã, Grenouille này, dám tin rằng làm nổi. Gã gật đầu với cái hình dáng trong gương và nhận thấy cái hình dáng ấy kín đáo hỉnh mũi trong lúc gật đầu đáp lễ…

      Chú thích:.

      [1] Fluidum: lưu chất như khí hoặc chất lỏng,; letale: độc (tiếng La Tinh).

      [2] Các nhà khoa học dùng tên của họ đặt cho phát minh của mình.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 31

      Hôm sau, torng lúc ngài Marquis dạy gã vài thế đứng, vài điệu bộ và bước nhảy tối thiểu cho buổi ra mắt sắp tới trước đông người Grenouille giả lên cơn chóng mặt, nhào xuống ghế dài và ngột thở như thể còn tí sức nào.

      Ngài Marquis quýnh lên. Ngài réo gia nhân mang quạt và cái máy thông gió loại gọn tới, trong lúc lũ gia nhân hối hả chạy tìm ngài quỳ xuống bên Grenouille, dùng khăn tẩm nước hoa đồng thảo của ngài quạt cho gã, kêu gọi, trắng ra là van xin gã đứng dậy, đừng có nhè lúc này mà chết, nếu được, xin đợi đến ngày mốt, bằng cực kỳ phương hại cho sống còn của lý thuyết fluidum letale.

      Grenouille vặn vẹo, uốn cong người, thở hổn hển, rên rỉ, xoa loạn xạ cái khăn tay, tuột từ ghế dài xuống nền nhà cách hết sức bi thảm rồi bò tới cái góc phòng xa nhất. “Bỏ nước hoa này !” gã kêu như thể với sức tàn. “Bỏ nước hoa này ! Nó giết tôi mất!” Sau khi ngài Taillade-Espinasse ném cái khăn tay qua cửa sổ và quẳng luôn cả cái áo khoác cũng có mùi hoa đồng thảo vào phòng bên, Grenouille làm ra vẻ bớt và với giọng bình thường hơn kể rằng gã có cá mùi nhậy cảm do làm nghề chế nước hoa và mũi gã vẫn thường phản ứng mãnh liệt như thế với số loại nước hoa, đặc biệt trong lúc hồi sức này. ngờ mùi thơm thứ hoa dễ thương như hoa đồng thảo lại kích thích gã mạnh đến thế, gã chỉ có thể giải thích qua lượng tinh chất rễ cây đồng thảo quá cao trong nước hoa của ngài Marquis, rễ cây này mọc dưới đất nên có tác dụng độc hại đôi với người bị gặm nhấm bởi fluidum letale như gã. Ngày hôm qua, khi được xịt nước hoa này gã chóng mặt, hôm nay khi lại ngửi cái mùi rễ lần nữa gã như thể bị tống trở lại cái hố ngột ngạt đến kinh hoàng mà gã sống ngắc ngoải suốt bảy năm trời. Thể chất gã vì thế phản ứng chứ gã biết phải sao hơn, vì sau khi nhờ nghệ thuật của ngài Marquis mà gã được sống là người trong bầu khí còn khí độc gã thà chết ngay chứ chịu trở thành nạn nhân của cái fluidum đáng thù ghét kia lần nữa. Ngay lúc này chỉ cần nghĩ đến cái mùi rễ ấy thôi là mọi bộ phận trong người gã thắt lại. Nhưng gã tin tưởng tràn đầy rằng khỏi ngay tức khắc nếu ngài Marquis cho phép gã chế loại nước hoa riêng để trục hết cái mùi đồng thảo. Gã nghĩ đến thứ hết sức , như khí, mà những thành phần chủ yếu đều xa mặt đất như nước của hoa hạnh, nước của hoa cam, khuynh diệp, dầu các cây thông và bách. Chỉ tia nước hoa ấy quần áo, vài ba giọt cổ, má là gã bao giờ còn bị cái cơn chóng mặt làm khổ tâm như gã vừa bị áp chế lúc nãy…

      Những gì chúng ta thuật lại rành mạch ở đây là để cho dễ hiểu chứ trong thực tế Grenouille vừa ho, vừa hổn hển, vừa bị tắc hơi ngớt suốt nửa tiếng đồng hồ làm những lời gã phun ra trở thành khó hiểu, gã phải nhấn mạnh bằng vẻ run lập cập, vung tay và xoay tròn mắt. Điều ấy tác động mạnh đến ngài Marquis. Kẻ mà ngài bảo hộ trình bày những lý luận khéo léo phù hợp với lý thuyết về fluidum letale nên thuyết phục ngài hơn cả những biểu đau đớn của gã.
      Đúng là cái nước hoa đồng thảo rồi! thứ gần đất đáng kinh tởm thậm chí ở dưới mặt đất nữa! Có lẽ chính ngài cũng nhiễm độc vì dùng nó nhiều năm rồi. Ngài đâu ngờ rằng vì dùng nó mà ngày ngày ngài tự dẫn thân đến chỗ chết. Bệnh thống phong, gáy cứng đơ, của quý xụi lơ, bệnh trĩ, chứng ù tai, răng sâu…tất cả những bệnh ấy của ngài chắc chắn do cái mùi hôi thối của rễ đồng thảo bị nhiễm khí độc. Cái gã bé đần độn kia, cái đống khốn khổ trong góc phòng kia khiến cho ngài nghĩ ra điều ấy. Ngài quá ư xúc động. Ngài muốn lại chỗ gã, nâng gã dậy, ôm gã sát trái tim được soi sáng của ngài. Nhưng ngài sợ vẫn còn phải hít hoa đồng thảo nên lại réo gia nhân, ra lệnh mang hết nước hoa đồng thảo ra khỏi lâu đài, thông khí hết cả lâu đài, khử độc áo quần của ngài bằng máy quạt thông sinh khí và dùng kiệu của ngài đưa ngay Grenouille đến nhà chế nước hoa nổi tiếng nhất thành phố. Grenouille lên cơn chóng mặt chỉ nhằm có thế.

      Montpellier có truyền thống lâu đời về ngành nước hoa, tuy gần đây có kém thua so với Grasse, thành phố đối thủ, nhưng vẫn còn có nhiều nhà chế nước hoa và làm găng tay giỏi. Người tiếng tăm nhất là ông Runel nào đó vẫn cung cấp dầu thơm, xà bông, nước hoa cho ngài Marquis de la Taillade-Espinasse; do quan tâm đến buôn bán với gia đình ngài Marquis nên ông sẵn sàng làm cái việc bình thường là cho tay thợ làm nước hoa lạ lùng ở Paris, được khiêng đến bằng kiệu, được sử dụng xưởng của ông tiếng đồng hồ. Tay này để cho ông giảng giải, để cho ông chỉ ở đâu có vật gì, gã biết, rồi, gã tìm ra, rồi tự giam mình trong xưởng gần tiếng, trong khi đó ông Runel cùng với viên quản gia của ngài Marquis đến quán uống vài ly rượu vang, ông được cho biết vì sao người ta thể ngửi nước hoa đồng thảo của ông được nữa.

      Xưởng của ông Runel trang bị thua xa cửa hiệu của ông Baldini ở Paris ngày trước. Vài dăm lọ dầu hoa, ít loại nước và gia vị nhà chế nước hoa trung bình thể thành công được. Nhưng Grenouille nhận ra ngay qua lần đánh hơi đầu tiên rằng những vật liệu sẵn có đủ dùng cho mục đích của gã. Gã muốn tạo thành thứ nước hoa thơm, gã cũng có ý định trộn thứ nước lấy tiếng, cái thứ vượt lên hẳn cái biển nước hoa loại trung bình, làm cho con người thuần phục như thời còn làm cho ông Baldini. Ngay thứ nước thơm đơn giản từ hoa cam như hứa với ngài Marquis cũng phải là mục đích của gã. Những tinh dầu thông dụng của cam nê-rô-li, khuynh diệp, lá bách chỉ để che giấu mùi gã muốn chế: mùi con người. Dù trước mắt chỉ là mùi thay tạm còn dở nhưng gã muốn sở hữu cái mùi con người mà gã có. Tất nhiên mùi con người cũng như vẻ mặt con người. ai biết hơn Grenouille là mỗi người có mùi riêng vì gã biết cả hàng nghìn mùi người khác nhau và biết đánh hơi ngay từ lúc mớisinh để phân biệt người này người nọ. Ấy thế mà xét về mặt nước hoa vẫn còn cái chung cơ bản khá tởm lợm cho mùi con người, đơn giản thôi, mồ hôi dầu, mùi chua của pho mát, nó bám chặt mọi người khá đồng đều, bên nó bồng bềnh mảng mây nho tinh hoa của từng con người, khác biệt nhau hết sức .

      Cái tinh hoa này cực kỳ phức tạp, nó là cái mã số thể nhầm lẫn của mùi từng con người mà chung phần đông con người ta cảm nhận được. Phần lớn con người biết rằng họ có cái tinh hoa ấy, hơn nữa họ còn làm tất cả để che giấu nó dưới áo quần hay dưới những mùi nhân tạo theo thời. Nhưng họ chỉ quen thuộc cái mùi cơ bản nọ, cái hơi hướng người sơ đẳng nọ, họ chỉ sống và cảm thấy được an toàn trong đó, ai đấy chỉ cần tiết ra cái mùi ghê tởm nọ được họ coi ngay là đồng loại.

      Cái nước hoa Grenouille chế ra hôm ấy rất lạ lùng, chưa từng có thế gian từ trước đến nay. Nó toả mùi như nước hoa mà như người toả mùi. Nếu ai đó ngửi nước hoa này trong phòng tối, người ấy ngỡ là có người thứ hai trong phòng. Ai có sẵn mùi người rồi mà còn dùng nó người này xuất như thể hai người đối với khứu giác của chúng ta, thậm chí như sinh vật nhị trùng quái dị, hình dáng mà người ta thể xác định rệt vì nó bồng bềnh mờ ảo như cái hình nằm dưới đáy hồ gợn sóng.

      Grenouille chọn trong xưởng của ông Runel những thành tố bất thường nhất để mô phỏng mùi người, gã tự biết là còn lâu mới giống nhưng cũng đủ khéo để đánh lừa người khác.

      Sau ngưỡng cửa ra sân sau còn bãi phân mèo khá mới. Gã lấy nửa muỗng cho vào bình trộn, thêm ít giọt giấm và ít muối được giã vụn. Gã tìm thấy dưới gầm bàn mẩu pho mát to cỡ ngón tay cái, chắc là thức ăn của ông Runel, nó cũ rồi, bắt đầu hư và toả mùi cay xè. Xích phía sau có thùng cá mòi, gã cạo ở nắp thùng chút gì đấy có mùi cá ôi, trộn với trứng ung, hải ly hương, amoniac, đậu khấu mài thêm ít sừng và da heo thui xém cắt vụn. Gã thêm khá nhiều xạ hương, trộn những thứ ghê rợn này với rượu cồn, để cho thôi ra rồi lọc sang bình thứ hai. Cái nước hôi khủng khiếp. Nó hôi mùi nước thải, mùi xác rữa, và khi quạt để trộn khí với mùi bốc lên từ cái chất nọ chẳng khác gì đứng ở Paris trong ngày hè nóng nực, ngay góc Rue aux Fers với Rue de la Lingerie, nơi hội tụ những mùi của khu chợ Le Halles, từ Cimetìere des Innocents và từ những căn nhà đầy ứ người.

      Phía cái nền kinh khủng, giống mùi xác chết hơn mùi người này, Grenouille đổ lớp dầu tươi của bạc hà, oải hương, nhựa thông, chanh, khuynh diệp mà gã vừa làm dịu vừa khéo che đậy bằng mùi hương phảng phất của dầu những loại hoa quý như phong lữ thảo, hồng, hoa cam và hoa nhài. Sau khi được trộn thêm rượu cồn và ít giấm mùi ghê tởm của cái nền tạo nên dung dịch này biến mất. Cái mùi hôi tiềm phục bị các thành tố tươi át mất cả, còn nhận ra nữa , mùi kinh tởm được mùi hoa thơm tô điểm, trở nên hay ho nữa là khác, mùi xác chết cũng còn thấy nữa, hoàn toàn , kỳ lạ thay! Ngược lại mùi thơm sinh động của sống như thể toát ra từ nước hoa ấy.

      Grenouille đựng vào hai lọ con, nút lại rồi giấu trong người. Rồi gã lấy nước rửa kỹ bình, cối, phễu và muỗng, chùi bằng dầu hạnh đắng để xóa mọi dấu tích của mùi. Gã lấy bình khác, lẹ làng trộn loại nước hoa khác, thứ phó bản, cũng gồm những thành tố tươi và hoa nhưng cái nền chứa tí gì của cái thứ nước kinh khủng cũ mà hoàn toàn bình thường gồm chút xạ hương, long diên hương, chút xíu cầy hương và dầu gỗ thuỷ tùng. Mùi nó hoàn toàn khác với cái trước, nhạt nhẽo hơn, vô tội vạ hơn, ít độc hơn vì thiếu những thành tố mô phỏng mùi người. Nhưng khi người bình thường dùng nó, quyện chặt nó với hơi hám của mình khác gì nữa cái nước hoa Grenouille làm riêng cho gã.

      Sau khi đứng nước hoa thứ hai vào lọ con, gã cởi hết quần áo và vẩy nước thứ nhất lên đó. Đoạn gã chấm thêm vào dưới nách, giữa những ngón chân, ở bộ phận sinh dục, lên ngực cổ, tai và tóc, rồi mặc lại áo quần và rời khỏi xưởng

      Chương 32

      Ra tới đường gã bỗng sợ vì gã biết lần đầu tiên trong đời gã toả mùi người. Gã thấy mình hôi, hôi kinh tởm. Và gã thể tưởng tượng được rằng người khác thấy gã hôi, nên dám đến quán rượu gặp ông Runel và viên quản gia của ngài Marquis đợi gã ở đấy. Gã thấy nên thử cái tinh hoa mới này ở nơi ai biết gã là ai đỡ mạo hiểm hơn.

      Gã len lỏi qua những ngõ hẻm chật chội và tối tăm nhất xuống bờ sông, nơi đây những người thuộc da, nhuộm vải đặt cơ xưởng và làm những công việc hôi hám của họ. Khi gặp ai đó hoặc ngang qua ngưỡng cửa ngôi nhà có trẻ con nô giỡn hay những bà già ngồi chơi, gã cố ý chậm lại, mang cái mùi thơm quanh người như đám mây lớn khép kín và nặng trĩu.

      quen từ thời niên thiếu rằng người ta ngang qua gã mà chẳng hề biết đến có mặt của gã, phải vì họ khinh bỉ như có lần gã tưởng mà vì họ nhận ra diện của gã . gian nào quanh người gã, từ gã có sóng vỗ vào bầu khí như người khác, có đến cả bóng, để gọi là, hắt vào mặt người khác. Chỉ khi nào gã thình lình đụng phải ai đó trong đám đông hay ở góc đường mới có khoảnh khắc của nhận biết và thường người bị đụng dội lại, kinh hoàng nhìn gã trân trân mấy giây như thể nhìn sinh vật lẽ ra được phép hữu, sinh vật có đó, thể chối cãi được, nhưng chẳng hiểu sao lại có đó, rồi chạy xa và lại quên gã ngay…

      Nhưng giờ đây, trong những ngõ ngách của Montpellier, Grenouille cảm thấy và nhìn thấy rất rằng gã có tác động vào con người, mỗi lần thấy thế gã đều tràn ngập cảm giác tự hào mãnh liệt. Khi ngang qua người phụ nữ cúi xuống giếng, gã nhận thấy bà ta ngẩng đầu lên khoảnh khắc xem đấy là ai rồi quay lại với chậu nước, hẳn vì bà ta yên tâm. người đàn ông lưng quay về phía gã, xoay người lại, tò mò nhìn gã lúc lâu. Những đứa bé gặp gã, tránh sang bên, phải vì sợ hãi mà vì để có lối cho gã , ngay cả khi chúng vừa từ trong nhà chạy ra, va phải gã, chúng cũng hốt hoảng mà lách qua như là đương nhiên chẳng khác gì chúng biết trước có người tới gần vậy.

      Qua nhiều lần gặp gỡ như thế, gã biết đánh giá chính xác hơn sức mạnh và các tác dụng của tinh hoa gã mới có, gã trở nên tự tin hơn, táo bạo hơn.
      Gã rảo bước tới gần đám người, sát cạnh họ, vung tay hơi xa tí, chạm tay bộ hành như thể ngẫu nhiên. Có lần gã làm bộ sơ ý xô vào ông mà gã muốn vượt. Gã đứng lại, xin lỗi, người đàn ông dừng lại, nhận lời xin lỗi, lại còn cười nữa chứ và vỗ vai Grenouille như chẳng có gì xảy ra cả, trong khi hôm qua chính ông này làm như thể bị sét đánh khi Grenouille thình lình xuất .

      Gã rời khỏi những con hẻm, bước đến quảng trường trước nhà thờ Saint-Pierre. Chuông nhà thờ đổ. Người ta chen chúc hai bên cửa chính. đám cưới vừa kết thúc. Người ta muốn xem mặt dâu. Grenouille chạy lại, lẫn vào đám người. Gã lấn, chen vào trong, gã muốn đến chỗ đông nhất, để được đứng sát sạt giữa đám người, để gí thẳng vào mũi họ mùi của gã. Gã dang tay dang chân giữa đám đông chen chúc, kéo phăng cổ áo để mùi của gã có thể toả ra từ cơ thể mà bị cản trở…gã vui khôn xiết khi nhận ra rằng người ta chẳng chú ý gì cả, hoàn toàn , rằng tất cả đàn ông đàn bà, trẻ con chen lấn quanh gã đều bị lừa dễ dàng đến thế, hít vào cái mùi hôi của gã pha trộn bậy bạ từ phân mèo, pho mát, giấm mà cho rằng giống với mùi của họ, còn gã, Grenouille này, thằng lộn giống lại được chấp nhận như con người.

      Gã cảm thấy có đứa bé sát đầu gối, kẹt trong đám người lớn. Gã nâng đứa bé lên, làm bộ săn sóc, bế tay để nó nhìn hơn, Người mẹ những để yên mà còn cám ơn gã nữa và đứa bé hét toáng lên vì thích thú.

      Grenouille đứng khoảng mười lăm phút như thế giữa đám đông, ôm đứa bé lạ sát lồng ngực, giả vờ chăm sóc. Và khi dâu chú rể cùng quan khách ngang trong tiếng chuông vang dội và tiếng reo hò của đám đông dưới những đồng tiền được ném như mưa trong lòng Grenouille cũng bật lên tiếng reo hò, thứ reo hò quỷ quyệt, cảm giác chiến thắng hung bạo làm gã run rẩy, mê mẩn như lên cơn dâm đãng và gã phải khó khăn mới kềm nổi để trút cơn giận dữ lên đám người, hét vào mặt họ như kẻ chiến thắng rằng gã sợ họ chẳng thèm ghét họ nữa mà khinh họ tận đáy lòng vì họ quá sức ngu ngốc, vì họ để cho gã lừa bịp, vì họ chỉ là con số còn gã là tất cả! Và như để chế nhạo, gã ôm sát đứa bé hơn, lấy hơi cùng hét với mọi người “Hoan hô dâu! dâu muôn năm! Hoan hô đôi uyên ương!”

      Sau khi đôi uyên ương cùng quan khách xa và đám đông bắt đầu giải tán, gã trao đứa bé lại cho người mẹ rồi vào nhà thờ nghỉ để lấy lại sức sau cơn kích động. Ở đây khí đầy khói trầm, bốc lên như những cột khói lạnh từ hai bình trầm ở hai bên bàn thờ, thành tấm khăn phủ lên những mùi mảnh dẻ của những người vừa mới ngồi đây như làm cho chúng chết ngộp. Grenouille ngồi thu mình cái ghế dài dưới ban đồng ca.

      Gã chợt thấy hết sức hả hê. phải say như cảm thấy trong cái lần truy hoan đơn độc trong lòng núi đá mà lạnh lùng, điềm tĩnh hợp với ý thức về quyền lực mình có. Bây giờ gã biết mình có khả năng gì. Nhờ có thiên tài, gã nhái được mùi con người với vài phương tiện vặt và thành công liền đến nỗi ngay đứa bé cũng bị lừa. Bây giờ gã biết mình còn có thể làm được nhiều hơn nữa. Gã biết còn có thể hoàn thiện cái mùi nọ hơn. Gã có thể chế lọai mùi chỉ giống mùi người mà còn hơn thế nữa, thứ mùi của thiên thần, thơm tả xiết và mãnh liệt để bất cứ ai ngửi cũng bị mê hoặc và hết lòng gã, Grenouille này, kẻ mang mùi thơm ấy trong người.

      Phải, họ phải gã khi bị mùi thơm ấy thôi miên chứ phải chỉ chấp nhận gã như cùng đồng loại, tới mức điên cuồng, đến độ dâng hiến, họ phải run lên vì thích thú, gào lên, khóc vì đê mê mà hiểu tại sao, chỉ cần họ được ngửi gã là họ quỳ xuống như được ngửi khói trầm lạnh lẽo dâng lên Chúa! Gã muốn là Chúa toàn năng của mùi thơm, chỉ như gã nhiều lần tưởng tượng mà bây giờ trong cái thế giới có những con người này. Gã biết có thể làm được. Con ngườicó thể nhắm mắt trước vĩ đại, trước khủng khiếp, trước cái đẹp và có thể bịt tai trước những tiếng du dương hay ầm ĩ. Nhưng người ta thể trốn mùi thơm. Vì mùi thơm là em của hơi thở. Nó theo hơi thở vào người, cường lại được nếu họ muốn sống. Mùi thơm vào trung tâm của họ, ngay thẳng vào tim để quyết định ở đó cách dứt khoát về cảm tình hay khinh thường, ghê tởm hay thích thú, hay ghét. Ai mà nắm được mùi chế ngự được tim của người.

      Grenouille ngồi hoàn toàn thư giãn ghế nhà thờ Saint-Pierre, mỉm cười. Gã thấy say sưa khi định kế hoạch chế ngự con người. Mắt gã ánh lên ngọn lửa cuồng điên, mặt gã cũng có nét gì rồ dại. Gã mất trí. Gã rất tỉnh táo và thoải mái khi tự hỏi tại sao gã muốn như thế. Gã trả lời vì gã độc ác, hoàn toàn độc ác. Gã mỉm cười và rất hài lòng. Gã trông vô tội như bất cứ người hạnh phúc nào.

      Gã ngồi khá lâu như thế trong im lặng thành kính, hít từng hơi dài cái khí đẫm mùi trầm. Ngay cả cái mùi cuồn cuộn từ những bình kia cũng phải trầm nữa. Vừa giả với gỗ bồ đề, bột quế, hồ tiêu vừa dở. Chúa này hôi. Vị Chúa này chỉ là gã tầm thường hôi rình khốn khổ. Vị Chúa này bị lừa dối hay chính Người là tay bịp bợm, chẳng khác gì Grenouille nhưng dở hơn rất nhiều!

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 33

      Ngài Marquis de la Taillade-Espinasse thích thứ nước hoa mới quá. Ngài rằng tuy là người phát ra fluidum letale nhưng ngài vẫn sửng sốt khi thấy món thứ yếu và phù du như nước hoa lại có ảnh hưởng lớn đến thế đến tình trạng sức khoẻ của con người, tuỳ theo nó được làm ra từ những thứ ở gần hay xa đất. Vài giờ trước đây thôi, Grenouille còn nằm kia, tái mét và gần ngất thế mà bây giờ tươi tỉnh như bất cứ người khoẻ mạnh nào ở tuổi gã, phải, có thể là gã được tăng thêm nhân phẩm vậy, bất chấp những hạn chế của người ít học và thuộc vào đẳng cấp như gã. Dẫu sao ngài, Taillade-Espinasse, đề cập đến trường hợp này trong chương viết về ăn uống kiêng khem để có được sinh khí trong luận văn viết về lý thuyết fluidum letale sắp công bố. Bây giờ ngài muốn được tự bôi nước hoa mới.

      Grenouille trao cho ngài hai lọ con đựng thứ nước hoa bình thường và ngài Marquis rẩy lên người. Ngài tỏ ra hết sức hài lòng về nó. Ngài thú nhận rằng sau nhiều năm bị cái nước hoa đồng thảo khủng khiếp kia đè nặng như chì, giờ đây ngài hơi cảm thấy như mọc cánh có đầy hoa và ngài nếu ngài lầm chứng đau đầu gối quỷ quái và bệnh ù tai cũng giảm, chung ngài thấy sôi nổi, đầy sức sống và trẻ hẳn. Ngài bước tới ôm chầm lấy Grenouille, gọi gã là “người em lưu chất của tôi”, và thêm rằng đó hoàn toàn phải là xưng hô giao tế mà thuần tuý mang ý nghĩa tinh thần vì in conspectu universalitis fluidi letalis [1], mọi người đều bình đẳng trước nó và chỉ trước nó mà thôi! Ngài cũng dự tính thành lập ngay hội quốc tế siêu giai tầng nhằm mục đích chế ngự hoàn toàn fluidum letale, thay thế nó bằng fluidum vital[2] tinh khiết trong thời gian ngắn nhất và ngài tin rằng thuyết phục được Grenouille làm người nhập hội đầu tiên; ngài những điều trong lúc buông tay khỏi Grenouille, hết sức thân thiết như lúc ngài buông tay khỏi người ngang hàng vậy, chút ghê tởm nào.
      Rồi ngài cho chép công thức của nước hoa này giấy, cất vào người rồi tặng Grenouille năm mươi đồng Louis vàng.

      Đúng tuần sau buổi thuyết trình, ngài Marquis de la Taillade-Espinasse lại giới thiệu kẻ mà ngài bảo trợ trong đại giảng đường đại học. Đông quá trời. Cả Montpellier tới đó, chỉ giới khoa học mà còn cả giới thượng lưu và chính giới này đông nhất, nhiều mệnh phụ muốn thấy tận mắt cái người ở hang kỳ lạ nọ. Mặc dù những đối thủ của ngài Marquis mà chủ yếu là đại diện của “Hội những người bạn của vườn bách thảo đại học” và hội viên của “Hội tài trợ canh nông” ủng hộ mọi hội viên, buổi giới thiệu vẫn thành công vang dội. Trước hết ngài Taillade-Espinasse cho truyền tay hình vẽ người ở hang xấu xí và tiều tuỵ để cử toạ nhớ lại tình trạng của Grenouille tuần trước. Rồi ngài cho đưa Grenouille vào, trong áo khoác bằng nhung xanh, sơ mi lụa, dồi phấn và tóc uốn quăn, chỉ riêng với cái cách gã thẳng người với từng bước khoan thai, lắc mông rất điệu, leo lên bục cần ai đỡ, cúi thấp người gật đầu mỉm cười chào chỗ này chỗ nọ làm cho mọi kẻ hoài nghi và đả kích câm miệng. Ngay cả “những người bạn của vườn bách thảo đại học” cũng lặng thinh xấu hổ. thay đổi ràng quá. Cái phép lạ ở đây diễn ra hùng hồn quá. Mới tuần trước ở đó còn co rúm con thú rách nát giờ đứng đó con người văn minh, đỏm dáng. Cả giảng đường có vẻ thành kính và khi ngài Taillade –Espinasse đứng lên thuyết trình càng lặng như tờ. Ngài lại khai triển cái lý thuyết quen thuộc ngấy đến tận cổ fluidum letale của trái đất, giải thích dùng những phương tiện cơ học và cách ăn uống kiêng khem nào để trục nó ra khỏi cơ thể gã, thay fluidum vital vào đó và sau hết cầu toàn thể cử toạ, dù là bạn hay đối thủ, trước bằng chứng hùng hồn như thế hãy từ bỏ chống đối học thuyết mới để cùng với ngài, Taillade-Espinasse, chống lại cái fluidum độc hại nọ, đón chào cái fluidum vital tốt lành. Tới đây ngài dang rộng hai tay, mắt nhắm lại, hướng lên trời, nhiều vị học giả cũng làm theo như thế còn các bà khóc nấc lên.

      Grenouille đứng bục, chẳng thèm nghe. Gã hết sức thoả mãn quan sát tác dụng của fluidum khác, hơn, cái của chính gã. Gã bôi rất nhiều nước hoa cho đủ với cái đại giảng đường, vừa bước lên bục, cái tinh hoa của gã toả ra mãnh liệt. Gã thấy nó chạm vào những người ngồi hàng đầu, lan tiếp, đến hàng cuối và hành lang; quả thấy bằng mắt nữa cơ. Tim gã rộn lên vì mừng khi thấy người nào bị nó quệt phải cũng đều biến đổi trông thấy. Họ thay đổi nét mặt, thái độ, tình cảm dưới dưới mê hoặc của mùi gã mà biết. Ai trước đó trố mắt hết sức ngạc nhiên nhìn gã, giờ nhìn gã dịu dàng hơn, ai trước đó nhất định ngồi ngả lưng ghế, nhăn trán hồ nghi, hai bên mép xệ xuống giờ nghiêng ra trước, thoải mái hơn và mặt giãn ra như mặt trẻ con; ngay mặt những người nhát gan nhất, những kẻ kinh hoàng nhất, những vị dễ xúc cảm nhất, những người mà lần trước khiếp hãi nhìn hình dáng gã và lần này còn ít hoài nghi, cũng lên những dấu hiệu của thân mật và cả cảm tình khi mùi gã chạm vào mũi của họ.

      Cuối buổi thuyết trình, cả giảng đường hoan hô nhiệt liệt. “Fluidum vital muôn năm! Taillade-Espinasse muôn năm! Hoan hô học thuyết lưu chất! Đả đảo nền y học chính thống!” Đám trí thức của Montpellier, thành phố đại học nổi tiếng nhất miền nam nước Pháp gào lên như thế, và ngài Marquis de la Taillade-Espinasse sống những giờ phút vinh quang nhất trong đời.

      Grenouille từ bục leo xuống, lẫn trong đám người, gã biết những tung hô kia đúng ra là dành cho gã , cho riêng cho gã, Jean-Baptiste Grenouille, mà thôi dù ai trong giảng đường biết tí gì.

      Chú thích:.

      [1] Trước các khí độc phổ quát (tiếng La tinh).

      [2] Sức sống.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 34

      Gã ở lại Montpellier thêm vài tuần. Gã khá nổi tiếng, được mời đến nhiều buổi mạn đàm; ở đấy người ta hỏi gã về đời sống trong hang và về việc gã được ngài Marquis chữa khỏi. Gã cứ phải kể kể lại câu chuyện bọn cướp bắt gã, về cái giỏ thòng xuống và về cái thang. Mỗi lần như thế gã đều thêm thắt cho ly kỳ với nhiều tình tiết mới; thế là gã có dịp tập , dù rất hạn chế vì trong đời gã chưa bao giờ giỏi về ngôn ngữ, nhưng quan trọng hơn nữa là gã có dịp tập dối thành thạo.

      Gã nghiệm ra rằng ra gã có thể kể bất cứ cái gì gã muốn. Khi họ tin họ tin tất cả, và họ tin gã qua hơi thở đầu tiên hít vào cái mùi giả tạo của gã. Thế là gã có thêm được chút vững tin khi giao tiếp với giới thượng lưu mà gã chưa từng có. vững tin này thể cả cơ thể nữa. Gã như cao lớn hơn. Cái bướu như biến mất. Gã đứng gần hoàn toàn thẳng người. Và khi có ai hỏi chuyện rúm người lại nữa mà vẫn đứng thẳng người, nhìn thẳng vào người hỏi chuyện. Tất nhiên, gã thể trở thành người lịch duyệt, kẻ được hâm mộ trong các buổi mạn đàm hay người phong nhã hoàn toàn trong thời gian ngắn như thế.Nhưng ngượng nghịu và vụng về ở gã giảm thấy , nhường chỗ cho cung cách được xem là bản tính khiêm tốn hay cùng lắm là hơi nhút nhát bẩm sinh, gây ấn tượng dễ mến nơi số quý ông, quý bà; thời bấy giờ thi hiếu trong giới thượng lưu là những gì tự nhiên và dễ thương chất phác.

      sáng đầu tháng ba, gã thu vén đồ đạc và lén lút bỏ ngay khi cổng thành vừa mở, khoác cái áo nâu loại tồi gã mua được ở chợ quần áo cũ hôm trước, đội cái mũ sờn che nửa mặt.
      ai nhận ra gã, ai thấy hay chú ý đến gã vì hôm ấy gã thận trọng dùng nước hoa. Gần trưa khi ngài Marquis cho điều tra bọn lính canh thề sống thề chết rằng họ thấy đủ mọi thứ người ra khỏi thành phố nhưng thấy cái gã người ở hang nổi tiếng nọ, vì chắc chắn họ phải nhận ra gã ngay. Rồi ngài Marquis cho loan tìn rằng Grenouille được ngài đồng ý cho rời Montpellier Paris vì chuyện gia đình. Nhưng trong thâm tâm ngài giận tím ruột vì ngài định chu du khắp vương quốc cùng với Grenouille để thu thêm đồ đệ cho học thuyết lưu chất của ngài.

      Sau thời gian ngài cũng nguôi vì danh tiếng của ngài lan rộng mà chẳng cần chu du, gần như ngài chẳng phải làm gì cả. Nhiều bài tràng giang đại hải về fluidum letale Taillade đăng Journal des Scavans [1] cả Courrier de l’Europe nữa. Rồi những người bị nhiễm độc khí từ những nơi xa xôi đổ về để được ngài chữa. Hè 1764 ngài thành lập “Hội fluidum vital” đầu tiên ở Montpellier với 120 thành viên, hội có chi nhánh ở Marseille và Lyon. Rồi ngài quyết định mạo hiểm lập chi nhánh ở Paris, để từ đây chinh phục toàn thế giới văn minh cho học thuyết của ngài. Nhưng trước đó ngài muốn hoàn thành kỳ công về lưu chất nhằm mục đích tuyên truyền, hỗ trợ cho cuộc chinh phục, kỳ công ấy làm lu mờ việc chữa khỏi gã người ở hang và mọi thứ thí nghiệm khác. Đầu tháng chạp ngài làm chuyến thám hiểm ngọn Pic du Canigou với nhóm môn đệ dũng cảm tháp tùng. Pic du Canigou nằm cùng kinh tuyến với Paris và được coi là ngọn núi cao nhất của rặng Pyrénées. Ngài Marquis, sắp bước vào tuổi lão, muốn được khiêng lên đỉnh núi cao 2800m, ở đó suốt ba tuần trong cái hơi sinh khí trong sạch nhất để rồi thành chàng trai nhanh nhẹn hai mươi tuổi, xuống núi vào Giáng sinh, ngài tuyên bố như thế.

      Bọn môn đệ bỏ cuộc ngay sau Vernet, khu dân cư cuộc cùng ngay dưới chân ngọn núi đáng sợ ấy. Song ngài Marquis chẳng sờn lòng. Ngài vứt cả quần áo trong cái lạnh như nước đá rồi lớn tiếng reo hò, lên núi mình. Rồi người ta chỉ còn thấy cái bóng của ngài, hai tay giơ cao cuồng nhiệt, ca hát và mất hút trong bão tuyết.

      Ngày Giáng sinh, đám môn đệ đợi hoài công trở về của ngài Marquis de la Taillade-Espinasse. Ngài vẫn về, dù là ông lão hay là chàng thanh niên. Đầu hè năm sau, những kẻ gan dạ nhất tìm, leo tận đỉnh Pic du Canigou vẫn còn rơi tuyết, nhưng tìm thấy chút gì còn sót lại của ngài, quần áo, phần thân thể, mẩu xương.

      Nhưng học thuyết của ngài vì thế mà bị gián đoạn. Ngược lại. Truyền thuyết nhanh chóng lan rằng ngài thành hôn với sinh khí bất tử đỉnh núi, cả hai hoà vào nhau và từ đó trở nên vô hình nhưng trẻ trung mãi mãi, lượn đỉnh rặng Pyrénées, ai leo lên với ngài được phúc của ngài, suốt năm bị đau yếu hay già . Cho đến tận thế kỷ 19, học thuyết lưu chất của ngài Taillade được ủng hộ ở số học viện y khoa và được dùng để trị bệnh ở nhiều hội bí mật. Ngay cả nay ở hai bên rặng Pyrénées vẫn còn có những hội bí mật của những người theo học thuyết Taillade ở Perpignan và Figueras, họ gặp nhau hàng năm để leo lên Pic du Canigou.

      Ở đó họ đốt ngọn lửa to, là để làm dấu chí điểm [2] và để vinh danh thánh Jean nhưng ra là để tỏ lòng tôn kính giáo chủ Taillade-Espinasse của họ với học thuyết lưu chất vĩ đại và để được trường thọ.

      Chú thích:.

      [1] Tờ báo của những nhà thông thái. Thời xưa scavan dùng chỉ nhà thông thái, thay cho từ savant bây giờ.

      [2] chí điểm: ngày bắt đầu mùa hè hoặc mùa đông.

      Chương 35

      Chuyến du hành đầu tiên nước Pháp của Grenouille kéo dài bảy năm nhưng lần này chưa đến bảy ngày. Gã tránh những con đường tấp nập và thành phố nữa, gã vòng nữa. Gã có mùi, có tiền, có cả tự tin và gã vội.

      Ngay buổi chiều đầu tiên sau khi rời khỏi Montpellier, gã đến Le Grau-de-Roi, cảng ở tây nam của Aigues-Mortes, từ đây gã bằng tàu buồm chở hàng đến Marseille. Tới Marseille gã rời cảng mà tìm ngay cái tàu chở gã tiếp dọc bờ biển phía đông. Hai ngày sau gã đến Toulon, ba ngày nữa gã có mặt ở Cannes. Đoạn đường còn lại gã bộ. Gã theo con đường mòn dẫn lên đồi, vào đất liền về phía bắc.

      Hai giờ sau gã tới đỉnh đồi, trước mặt gã là thung lũng trải dài nhiều dặm như lòng chảo khổng lồ mà thành chảo là những ngọn đồi thoai thoải và những dãy núi lởm chởm, còn đáy chảo là những cánh đồng mói vừa được cày xới, những khu vườn và những lùm cây ô liu. khí hậu hoàn toàn riêng, ấm cúng lạ lùng trùm lên đây. Dù gần biển đến nỗi từ đỉnh ngọn đồi này cũng trông thấy được nhưng ở đây thấy tí gì mùi của biển, mùi muối, mùi cát, trống trải mà tách rời lặng lẽ, như thể biển cách đây những mấy ngày đường. Và mặc dù phía bắc là những rặng núi cao đầy tuyết hẳn còn lâu mới tan ở đây có chút gì khắc nghiệt hay cằn cỗi và cũng có gió lạnh. Mùa xuân đến sớm hơn ở Montpellier. làn hơi ẩm nhàng phủ lên những cánh đồng như cái chuông thuỷ tinh. Những cây hạnh, cây mơ trổ hoa, khí ấm thơm mùi thuỷ tiên.

      Thành phố ở đầu kia cái lòng chảo khổng lồ, cách đây khoảng hai dặm, cheo leo sườn núi dốc. Nhìn từ xa có vẻ gì nguy nga hào nhoáng. thánh đường đồ sộ cao vượt khỏi mọi ngôi nhà, chỉ có tháp chuông cụt ngọn, pháo đài sừng sững, toà nhà tráng lệ. Tường thành cũng chẳng có vẻ gì kiên cố, đây đó có những ngôi nhà lấn khỏi đường ranh, phần lớn lấn về đồng bằng làm cho thành phố có vẻ lôi thôi. Vùng này có vẻ như bị chiếm chiếm lại nhiều lần nên chẳng buồn chống trả những kẻ xâm lấn trong tương lai, nhưng phải vì yếu mà vì chểnh mảng và vì thấy mình cũng mạnh. Cũng có vẻ như thành phố thấy cần phải phô trương. Nó làm chủ cái chậu khổng lồ thơm tho dưới chân nó, thế là đủ rồi.

      Cái vùng chẳng đẹp đẽ nhưng đồng thời lại đầy tự tin đó là thành phố Grasse mà ai cũng phải thừa nhận là trung tâm buôn bán và sản xuất nước hoa, hương liệu, xà bông, dầu từ hàng chục năm nay. Giuseppe Baldini thường nhắc tên nó với say mê và tán tụng. Thành phố này là Rome của mùi thơm, vùng đất hứa của người làm nước hoa, ai có nổi chút tên tuổi ở đây xứng đáng được gọi là nhà chế tạo nước hoa.

      Grenouille hết sức bình thản nhìn xuống thành Grasse. Gã tìm đến vùng đất hứa của người chế nước hoa nên tim gã cũng chẳng rạo rực trước cái thành phố sườn núi kia. Gã đến vì được biết ở đây có vài kỹ thuật lấy hương thơm hay hơn, đáng học hơn những nơi khác.Gã muốn học cho mục đích của gã. Gã lấy từ túi lọ nước hoa mang mùi gã, chấm sơ sơ rồi tiếp. tiếng rưỡi sau, gần trưa, gã có mặt ở Grasse.

      Gã ăn trong quán trọ ở Place aux Aires, phía đầu nằm cao của thành phố. con suối xuyên dọc quảng trường, những người thợ thuộc da rửa da rồi phơi ở đấy. Cái mùi xóc óc làm cho vài thực khách ăn chẳng thấy ngon lành gì nữa. Riêng Grenouille . Gã quá quen thuộc với mùi ấy, nó tạo cho gã cảm giác an toàn. qua thành phố nào gã cũng tìm khu thuộc da trước tiên. Để rồi xuất phát từ cái khu hôi thối này thăm dò những nơi khác trong thành phố, như thế gã cảm thấy là người lạ nữa.

      khắp thành phố suốt buổi xế trưa. Bẩn thỉu thể tưởng tượng nổi cho dù có rất nhiều nước, có khi bẩn chính vì cả tá nguồn nước và giếng cứ phun nước lên, chảy ồng ộc trong những suối và rãnh hề được chỉnh dòng xuống thành phố, làm những con hẻm bị xói mòn hay phủ kín bùn. Ở số khu, nhà cửa san sát đến nỗi chỉ chừa hơn sải tay cho lối và bậc thềm khiến người qua lại bì bõm trong bùn phải ép sát nhau mới có lối .
      Ngay ở những quảng trường hay số it đường tương đối rộng cũng có chỗ cho xe thồ tránh nhau.

      Tuy vậy, thành phố này vẫn như muốn bung ra bởi làm ăn tất bật mặc bụi bậm, dơ dáy và chật hẹp. Trong lúc quanh phố, Grenouille thấy ít ra có bảy nhà nấu xà bông, cả tá nhà làm nước hoa và găng tay, vô số những nhà chưng cất , xưởng nấu pomát, đồ gia vị và khoảng sáu hay bảy nhà bán sỉ nước hoa.

      Họ là những nhà buôn lớn có kho hương liệu . Thường nhà họ cũng chẳng có gì đáng để xem đâu. Mặt tiền những ngôi nhà trông ra đường này cũng khiêm tốn thôi. Nhưng đàng sau là cả kho tàng mà những bậc vương công có nổi: trong kho chứa và hầm mênh mông chất thành đống nào thùng dầu, nào xà bông làm từ hoa oải hương, nào bình đựng tinh chất của hoa, rượu vang, cồn, hàng súc da tẩm nước hoa, túi, tráp và hòm đầy ắp đồ gia vị. Grenouille ngửi thấy tất cả qua những bức tường, dù dầy tới đâu. Và khi ngửi kỹ hơn chút nữa, ngửi qua cả những cửa tiệm và kho hàng tẻ ngắt trông ra đường, gã phát ra những toà nhà thuộc loại xa hoa nhất nằm sau những ngôi nhà tỉnh lẻ bậc trung này. Những khoảnh vườn nhưng rất đẹp với những cây trúc đào và cọ tươi tốt, có suối phun róc rách được bao quanh bởi những cây hoa giấy dễ thương. Dinh cơ chính thường quay về hướng nam, trải theo hình chữ U quanh những khoảnh vườn ấy, những phòng ngủ ở tầng có nắng chan hoà với tường dán lụa, những phòng khách tráng lệ tường ốp gỗ quý ở tầng trệt và những phòng ăn đôi kéo ra tận ngoài vườn như hàng hiên, ở đó người ta ăn bằng đĩa sứ và dao nĩa bằng vàng, đúng như Baldini . Những chủ nhân ông của những ngôi nhà khiêm nhường nọ bốc ra mùi của vàng, của quyền lực và của giàu có được canh giữ hết sức cẩn thận, về những mặt này mùi của họ mạnh hơn tất cả những gì Grenouille ngửi thấy trong chuyến của gã qua các tỉnh.

      Gã dừng lại khá lâu trước trong những lâu đài nguỵ trang này. Ngôi nhà nằm ngay đầu Rue Droite, đường lớn chạy suốt từ tây sang đông thành phố. Cũng chẳng có vẻ gì khác thường, mặt tiền hơi rộng và nom khá hơn những nhà bên cạnh nhưng hoàn toàn đồ sộ. Trước cổng có cai xe với những thùng gỗ được khuân xuống bệ dốc. xe khác đứng chờ. người đàn ông cầm giấy tờ vào văn phòng rồi cùng với người đàn ông nữa ra, đoạn cả hai biến sau cổng ra vào. Grenouille đứng bên đường đối diện, quan sát. Gã đâu quan tâm gì những chuyện ấy.Nhưng gã vẫn đứng đó. Có cái gì đấy giữ chặt chân gã.

      Gã nhắm mắt lại, tập trung vào những mùi bay sang từ toà nhà trước mặt. Mùi của những thùng gỗ, giấm, rượu vang rồi hàng trăm thứ mùi nặng của kho hàng, rồi mùi của giàu có như thể mồ hôi vàng mịn rỉ qua tường, rồi đến mùi cái vườn, chắc chắn phải nằm tuốt phía kia của ngôi nhà. dễ chụp được những mùi rồi mảnh của cái vườn vì chúng chỉ lọt qua đầu hồi của ngôi nhà thành những vạt mỏng ra đường. Grenouille ngửi ra mùi của mộc lan, lan dạ hương, thụy hương và đỗ quyên…nhưng hình như còn gì khác nữa, thơm kinh khủng trong cái vườn này, cái mùi quá tuyệt diệu mà trong đời gã chưa từng được ngửi bao giờ hay mới chỉ được có lần thôi…Gã phải đến gần cái mùi ấy mới được.

      Gã suy nghĩ có nên thẳng qua cổng vào trong cái dinh cơ . Nhưng những người khuân xuống và kiểm tra những thùng gỗ đông thế kia thế nào họ cũng thấy gã thôi. Gã liền quyết định quay lộn lại, tìm cái hẻm hay lối dẫn tới bìa toà nhà. Sau vài mét thành phố tới cổng thành ở Rue Droite. Gã băng qua cổng thành, quẹo sát về phía trái, men theo tường thành về phía chân núi. Chẳng bao lâu gã ngửi thấy khu vườn, mới đầu còn thoang thoảng, lẫn với khí đồng nhưng rồi đậm dần lên. Gã biết ở gần vườn lắm. Khu vườn nằm sát với tường thành. Còn gã ở ngay bên. Chỉ cần lui lại mấy bước gã có thể nhìn thấy phía tường thành những cành cây cam cao nhất.

      Gã lại nhắm mắt. Những mùi của khu vườn lao vào gã, đường nét ràng như những giải sắc của cầu vòng. Cái mùi quý hơn cả ma gã theo đuổi cũng lẫn trong đó. Grenouille nóng ran vì đê mê nhưng lạnh vì kinh hoàng. Máu chạy lên đầu, như thể thằng nhóc làm quấy bị bắt quả tang, rồi trở xuống giữa thân thể, lại chạy lên rồi trở xuống mà gã làm gì được. Gã bị cái mùi ấy tấn công thình lình quá. nháy mắt, hơi thở đôi với gã bỗng như thể vĩnh viễn, như thể thời gian dài gấp đôi hay biến mất hoàn toàn, vì gã còn biết bây giờ là bây giờ và đây là đây, hay đúng hơn bây giờ là hồi đó còn đây là nơi đó, Rue des Marais ở Paris, tháng chín 1753, và mùi thơm từ vườn bên bay đến là mùi thơm của tóc đỏ gã giết hồi đó. Tìm được lại mùi thơm ấy trong thế giới này làm gã sung sướng đến ưá nước mắt, nhưng vì biết rằng phải như thế nên gã sợ muốn chết.

      Gã thấy chóng mặt và hơi lảo đảo, phải tựa vào tường rồi từ từ tuột xuống, ngồi xổm. Sau khi lấy lại sức và định thần, gã bắt đầu hít cái mùi tai ác ấy bằng những hơi ngắn đỡ nguy hiểm hơn. Gã nhận ra rằng cái mùi sau bức tường vô cùng giống mùi tóc đỏ nhưng hoàn toàn là . dĩ nhiên cũng là của tóc đỏ, còn có thể nghi ngờ gì được nữa. Grenouille nhìn thấy trong tưởng tượng bằng khứu giác của gã như trong tấm hình trước mặt: ngồi yên mà nhảy tới nhảy lui, người nóng lên rồi mát trở lại, có lẽ chơi trò chơi khi phải vận động nhanh khi phải đứng yên, chơi với người nữa mà mùi người này có gì đặc biệt. Da trắng tuyệt vời. Mắt xanh. Có tàn nhang ở mắt, cổ và vú…nghĩa là…Grenouille nín thở lúc rồi hít vào rất mạnh, cố gắng đẩy lui cái kỷ niệm về mùi của ở Rue des Marais…nghĩa là bé này chưa có vú theo đúng nghĩa của nó! Chưa bắt đầu nhú. Cái núm hết sức mịn, lấm tấm tàn nhang thơm nhè ấy có lẽ mới chớm căng lên vài ngày nay, có khi chỉ mới vài giờ, , vừa mới đây thôi! gọn lại: còn là đứa . Nhưng mà đẹp làm sao!

      Mồ hôi vã ra trán Grenouille. Gã biết con nít có gì thơm đặc biệt, giống như cái nụ hoa khi chưa nở. Nhưng cái hoa này, cái hoa gần như khép kín sau bức tường kia vừa toả ra chút mùi thơm đầu tiên mà trừ gã ra ai nhận thấy, vậy mà thơm đến chết người khi cái hoa kia đến thời kỳ rực rỡ nhất và toả mùi thơm hẳn mùi thơm của nó thế giới chưa từng biết. Ngay bây giờ thơm hơn ngày trước ở Rue des Marais, Grenouille nghĩ thế, mạnh, nhiều bằng nhưng dịu hơn, đa dạng đồng thời tự nhiên hơn. Trong hai năm nữa cái mùi này chín và sức hấp dẫn mà ai cưỡng lại được dù là đàn ông hay phụ nữ. Họ bị ma lực của bé chinh phục, bị tước vũ khí, bó tay thúc thủ mà hiểu sao. Bởi vì họ ngu, chỉ biết dùng mũi để thở, vì họ tin vào tất cả những gì họ thấy bằng mắt nên họ rằng vì bé đẹp,duyên dáng và quyến rũ. Do thiển cận, họ ca tụng khuôn mặt đều đặn của nàng, vóc dáng thon thả và bộ ngực tuyệt vời. Họ mắt nàng như ngọc bích, răng như ngọc trai, chân tay mịn như ngà và trăm thứ so sánh ngu xuẩn khác. Rồi nước ta chọn nàng làm nữ hoàng hoa nhài[1], bọn hoạ sĩ truyền thần vớ vẩn họa chân dung nàng, mọi người trố mắt nhìn rồi bảo rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất nước Pháp. Và đêm đêm đám thanh niên ngồi dưới cửa sổ phòng nàng gào khóc trong tiếng đàn mandolin…mấy lão nhà giàu mập ú quỳ gối, lết trước mặt ông bố van xin được lấy nàng…còn phụ nữ ở mọi lứa tuổi thờ dài mỗi khi thấy nàng và trong giấc ngủ mơ có được dung nhan quyến rũ như nàng dẫu chỉ ngày thôi. ai biết rằng h. bị quyến rũ bởi cái hình dáng mà họ cho là tuyệt sắc của nàng mà chỉ vì cái mùi thơm tuyệt vời gì so sánh được! Chỉ có gã, mình gã, Grenouille này, biết ấy. Biết ngay từ lúc này.

      Ôi! Gã muốn có được mùi này! phải bằng cái cách vô ích và uổng phí như với mùi thơm của ở Rue des Marais. Lần đó gã uống ừng ực cái mùi ấy nên làm hỏng nó. , gã muốn chiếm hữu, cái mùi thơm của bé sau bức tường, lột như lột da để làm thành mùi thơm của gã. Phải làm thế nào gã chưa biết. Nhưng gã có hai năm nữa để học. Về cơ bản chắc khó hơn lấy mùi từ loại hoa hiếm.

      Gã đứng lên. Gần như thành kính bước , chẳng khác rời nơi thiêng liêng hay ngủ say, gã khom người, bước để ai trông thấy, ai nghe thấy, ai chú ý đến báu vật gã phát . Gã chuồn dọc theo tường thành đến tận đầu kia của thành phố, ở đây gã ngửi thấy mùi bé nữa, gã trở vào thành phố qua Porte des Fénéants. Gã dừng lại dưới bóng những ngôi nhà. Cái hơi hôi rình của những ngõ ngách làm gã thấy an tâm và giúp gã kềm chế được nỗi đam mê vừa bùng lên. Sau mười lăm phút gã trở lại hoàn toàn bình thường. Gã thầm: trước mắt lại gần khu vườn sát bức tường thành ấy nữa. cần thiết. Gã chỉ bị kích thích thôi. Chẳng cần tới gã bông hoa nọ khai hoa, khai hoa bằng cách nào gã biết cả rồi. Gã được phép uống say mùi thơm ấy khi chưa phải lúc. Phải bắt tay vào việc trước . Gã phải mở rộng hiểu biết và hoàn thiện tay nghề, chuẩn bị cho mùa gặt hái. Gã còn những hai năm nữa.

      Chú thích:.

      [1] Ơ Châu âu, đặc biệt là những vùng chuyên về nông ngiêp, hàng năm thường có những ngày hội về mùa hè, ở đó người ta bầu nữ hoàng hoa, nữ hoàng rượu vang…

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 36

      Grenouille tìm thấy Rue de la Louve, xa Porte des Fénéants, xưởng làm nước hoa và xin vào làm.

      Được biết là ông chủ, Maitre parfumeur Honoré Arnulfi chết vào mùa đông vừa rồi, còn lại mình bà vợ góa tóc đen, nhanh nhẩu, chừng ba mươi tuổi, tiếp tục việc kinh doanh với giúp đỡ của người thợ phụ.

      Sau khi than thở chán chê về thời buổi khó khăn và tình trạng kinh tế bấp bênh, Madame Arnulfi cho biết lẽ ra bà đủ điều kiện thuê thêm thợ phụ nữa, mặt khác lại rất cần thiết cho những việc sắp tới, nhà bà thể chứa thêm được người nữa, tuy vậy bà có cái chòi nằm trong vườn ô liu đàng sau tu viện dòng Franciscain, cách đây chưa đến mười lăm phút, có thể để cho người dễ tính ngủ tạm. Ngoài ra, là bà chủ thành , bà biết trách nhiệm phải lo cho thợ ăn uống đàng hoàng nhưng mặt khác bà đủ khả năng bảo đảm ngày đủ hai bữa ăn nóng được, gọn lại, Madame Arnulfi là người phụ nữ có của và có đầu óc kinh doanh. Grenouille ngửi thấy cả từ lâu rồi. Bởi vì tiền đối với gã phải là điều chính yếu nên gã bằng lòng với tiền công hai quan tuần cùng với những điều kiện ít ỏi khác mà hai bên thoả thuận nhanh chóng. Tay thợ phụ kia được gọi đến, đó là gã đàn ông khổng lồ tên Druot và Grenouille đoán ngay ra rằng thường chung chăn gối với bà chủ và bà ta quyết định số chuyện nào đấy nếu thảo luận trước với . đứng trước mặt Grenouille khiến gã trông lại càng đến độ khôi hài, dạng chân làm xông ra đám mây sặc mùi tinh dịch, nhìn gã soi mói, nhìn xoáy vào mắt gã như để tìm ra bằng cách ấy những mưu xảo trá hay biết đâu tình địch, rồi nhếch mép cười khinh thị, gật đầu tỏ ra đồng ý.

      Mọi chuyện như thế là xong. Grenouille nhận được cái bắt tay, bữa ăn nguội cho buổi chiều, cái chăn và chìa khóa của cái chòi; gã ra sức sắp xếp lại cái chòi cửa sổ đậm mùi dễ chịu của phân cừu để lâu và cỏ khô. Hôm sau gã bắt đầu làm việc cho Madame Arnulfi.

      Lúc này mùa thuỷ tiên. Madame Arnulfi cho trồng hoa những thưở đất riêng của bà trong cái lòng chảo phía dưới thành phố hoặc mua lại từng lố[1] của nông dân mà bà cò kè từng nửa xu . Hoa được đem đến xưởng bằng giỏ từ sáng sớm tinh mơ, đổ thành đống hàng chục nghìn cái hoa thơm mà bẫng này. Trong khi đó Druot hâm lỏng mỡ heo và mỡ bò thành thứ nước lỏng sền sệt trong cái nồi to tướng, rồi trong lúc Grenouille ngừng quấy đều bằng cái khuấy dài như cái chổi ngừng đổ hoa vào đấy.
      Hoa nổi chừng giây mặt nồi, trông như những con mắt trợn trừng kinh hoàng chờ chết, rồi tái lại khi bị cây khuấy khoắng xuống dưới và bị mỡ ấm bọc lại. Gần như ngay lúc ấy chúng nhũn ra, héo và chắc cái chết đến với chúng khá nhanh nên chúng có lựa chọn nào khác hơn là trút hơi thở dài thơm tho cuối cùng của chúng vào chính cái môi trường làm cho chúng chết đuối, bởi vì Grenouille càng xoáy xuống nhiều hoa bao nhiêu mỡcàng thơm bấy nhiêu, gã quan sát điều này với thích thú sao tả được. phải những hoa chết tiếp tục toả hương trong mỡ mà chính mỡ chiếm đoạt mùi hương của hoa.

      Thỉnh thoảng nước mỡ trở nên quá đặc, họ phải đổ gấp vào cái rây lớn, lấy ra những xác hoa hồn, thay hoa tươi vào đấy. Rồi lại đổ hoa vào, lại khuấy, lại rây; suốt ngày như thế nghỉ vì công việc cho phép chậm trễ, cho đến khi xẩm tối khi tất cả đống hoa vào nồi. Bã hoa bỏ có gì bỏ phí cả. Chúng được tưới nước sôi rồi cho vào máy ép, vắt đến giọt cuối cùng, cũng được thứ dầu thơm nhè . Nhưng phần lớn mùi thơm, cái hồn của cả biển hoa, nằm lại trong nồi, bị bọc kín và bảo quản trong cái khối mỡ trắng xám trông chẳng đẹp mắt tí nào từ từ đặc lại.

      Hôm sau cái quy trình được gọi là ngâm bấy này lại tiếp tục; lại hâm nồi lên, mỡ chảy ra và lại cho hoa vào. Nhiều ngày liền như thế, từ sáng đến tối. Công việc rất mệt nhọc. Tối đến khi Grenouille lảo đảo bước về lều tay gã như thể đeo chì, hai bàn tay rộp lên còn lưng đau như dần. Druot khoẻ chắc gấp ba gã nhưng khuấy hộ lần nào, chỉ lo đổ hoa như bông vào nồi, canh chừng lửa và thỉnh thoảng chạy làm ly gì đó giải khát. Nhưng Grenouille hề phàn nàn, gã khuấy từ sáng đến tối, chút than phiền và cũng thấy cực tí nào vì cái quy trình diễn ra trước mắt và mũi ngừng quyến rũ gã: tàn lụi mau chóng của hoa và hấp thụ mùi thơm của mỡ.

      Sau thời gian, Madame Arnulfi rằng mỡ bão hoà rồi, thể tiếp tục hấp thụ mùi thơm được nữa. Họ tắt lửa, rây cái nước đặc sệt lần chót rồi rót vào những lọ sành; nước đặc lại rất nhanh thành pomát thơm tuyệt.

      Bây giờ tới lúc Madame Arnulfi trổ tài; bà tới kiểm nghiệm cái sản phẩm quý giá kia, dán nhãn rồi ghi chính xác vào sổ sách thu hoạch theo phẩm chất và số lượng. Sau khi tự tay nút kín những lọ sành, gắn miệng lọ lại và đem cất dưới hầm lạnh, bà mói mặc đồ đen, đeo khăn tang và vòng đến các nhà bán sỉ và các nhà buôn nước hoa trong thành phố. Bà trình bày hoàn cảnh đơn chiếc của mình với các nhà buôn bằng giọng nao lòng, để rồi được họ đề nghị giá, rồi bà so sánh, rồi thở dài bằng lòng bán hoặc . Hương thơm dưới dạng pomát để lạnh giữ được lâu. Nếu bây giờ chưa được giá biết đâu mùa đông, mùa xuân tới giá lại chẳng lên. Thay vì bán cho bọn cò kè này tại sao cân nhắc có nên cùng với những nhà sản xuất khác gửi chuyến tàu chở pomát Genua hay chung nhau đoàn xe dự hội chợ mùa thu ở Beaucaire, vẫn biết là mạo hiểm đấy nhưng nếu trúng lời lắm. Madame Arnulfi cân nhắc kỹ càng những khả năng , có khi phối hợp chúng với nhau, rồi bán phần, phần còn lại bà thử thời vận. nếu qua thăm dò mà nhận thấy thị trường tràn ngập pomát và trước mắt khan hiếm, nghĩa là bà chẳng được lợi lộc gì chạy về nhà gấp đến bay cả khăn tang và bảo Druot đem rửa hết chỗ pomát với cồn, biến chúng thành essence absolue.

      Thế là pomát lại được khuân từ dưới hầm lên để rửa bằng cách hâm nóng cẩn thận trong nồi đậy kín, cho thêm vào rượu tinh cất loại nhất rồi trộn kỹ với đồ khuấy gắn sẵn trong thùng do Grenouille sử dụng. Sau khi mang xuống hầm, dung dịch nọ nguội nhanh, mỡ đông lại tách khỏi rượu, rượu được chắt vào chai. Nó gần như là loại nước hoa nhưng hết sức đậm trong khi bã còn lại của pomát còn trong nồi bị mất phần lớn các mùi thơm. Mũi thơm của hoa thế là được chuyển sang môi trường khác. Chưa hết. Sau khi lọc cẩn thận với khăn the để giữ lại hết mỡ, kể cả những cục nhất, Druot chuyển rượu sang nồi chưng , chưng chậm lửa liu riu. Sau khi cồn bay hết, trong bình cổ cong chỉ còn lại chút chất lỏng màu tái mà Grenouille quá quen thuộc nhưng chưa từng được ngửi dưới dạng tuyệt hảo và nguyên chất thế này: dầu của hoa, cái mùi thơm còn bị gì che đậy, trăm nghìn lần đậm đặc để trở thành ít giọt essence absolue. Mùi của tinh dầu này còn dễ chịu nữa. Nó nồng, hăng xóc óc. Nhưng chỉ cần giọt thôi, hoà trong lít cồn, mùi thơm của hoa sống dậy, mùi thơm của cả cánh đồng hoa.

      Được rất ít. Chỗ chất lỏng trong bình chưng cất kia chỉ vừa ba lọ con. Mùi thơm của cả hơn trăm nghìn hoa thu lại hơn ba lọ con. Nhưng đó là cả gia tài, ngay cả ở Grasse này. Khi được gửi Paris, Lyon hay Grenoble, Genua hoặc Marseille còn biết mấy lần hơn! Mắt madame Arnulfi nhoà khi nhìn thấy những lọ con ấy, bà vuốt ve chúng bằng mắt và khi cầm lên để nút lại bằng nút thuỷ tinh mài vừa vặn bà nín thở để chút gì của cái chất quý báu kia bị thổi mất. Sau khi nút lại, bà lấy sáp lỏng gắn nút cho kín rồi chụp lên bằng bong bóng cá, cột chặt chỗ cổ lọ để thể nguyên tử mùi thơm nào còn thoát được. Rồi bà đặt chúng trong hộp con lót bông, đem xuống hầm, khóa kỹ.

      Chú thích:

      [1] lố khoảng 17g.

      Chương 37

      Tháng tư họ ngâm bấy kim tước chi và hoa cam, tháng năm ngâm cả biển hoa hồng đến nỗi thành phố như chìm suốt tháng trong màn sương vô hình ngọt ngào mùi thơm. Grenouille làm việc như ngựa. Gã cam chịu làm mọi công việc tầm thường mà Druot giao cho với sẵn sàng gần như nô lệ. Nhưng trong những lúc gã ra vẻ khờ khạo khuấy, quết, lau rửa bồn, quét chùi xưởng và khuân củi khâu quan trọng nào, chút gì trong biến thái của mùi thơm lọt khỏi chú ý của gã. Với cái mũi, Grenouille theo dõi và trông chừng chuyển mùi từ những cánh hoa sang mỡ, rồi cồn cho đến khi đóng vào các lọ còn chính xác hơn cả Druot nữa. Trước khi Druot kịp nhận ra ngửi thấy lúc nào mỡ quá nóng, lúc nào hoa bị rút kiệt, lúc nào chất lỏng bão hoà mùi thơm, gã ngửi thấy cái gì diễn biến bên trong bình trộn cũng như lúc nào ngưng quy trình chưng cất là đúng nhất. Thỉnh thoảng gã cũng góp ý nhưng dĩ nhiên là khẳng định mà vẫn giữ cung cách người dưới. Chẳng hạn như rằng gã thấy có vẻ như mỡ hơi quá nóng chăng hoặc gã nghĩ rằng có thể rây được rồi đấy, hoặc gã có cảm tưởng là cồn bay hơi trong bình chưng cất…Druot tuy thông minh gì lắm nhưng cũng phải hoàn toàn ngu đần, dần dần nhận ra rằng hoặc tự làm hoặc để làm theo cái điều mà Grenouille “nghĩ rằng” hay “có cảm tưởng” có kết quả tốt nhất. Bởi vì Grenouille bao giờ ra điều gã “nghĩ rằng” hay “có cảm tưởng rằng” cách ta đây hay tự phụ, cũng bao giờ coi thường, dù chỉ mỉa mai, uy thế của Druot cũng như địa vị thợ cả trội hơn của , nhất là khi có mặt Madame Arnulfi nên Druot thấy có lý do gì nghe theo những góp ý của Grenouille, dần dà để mặc cho gã quyết định.

      Thế là Grenouille những chỉ khuấy mà còn thường xuyên hơn đổ hoa vào nồi, đốt nóng và rây; trong khi Druot biến sang quán Quatre Dauphins làm ly vang hay lên chỗ Madame xem có cần gì . biết có thể tin cậy Grenouille được. Còn Grenouille tuy phải làm việc gấp đôi nhưng thích thú vì được làm mình để học hỏi nghệ thuật mới cách hoàn hảo và đôi khi được làm dăm ba thí nghiệm nho . Gã vui sướng ngấm ngầm khi nghiệm ra rằng pomát của gã tốt hơn hẳn pomát làm chung với Druot, Essence absolue của gã cũng tinh hơn cấp.

      Cuối tháng bảy bắt đầu mùa hoa nhài, tháng tám mùa hoa nguyệt hạ hương. Hai hương thơm hai thứ hoa này tuyệt diệu nhưng đồng thời thuộc loại khó tính, những phải hái chúng trước khi mặt trời mọc mà cách chế biến chúng cũng phải hết sức đặc biệt và gượng . Nóng làm giảm mùi thơm của chúng , nhúng thình lình trong mỡ nóng như ngâm bấy làm giảm mùi thơm của chúng. Hai thứ hoa quý phái trong các loại hoa này dễ để cho rút hồn của chúng, chúng phải được mơn trớn. Phải rải chúng lên những tấm kính bôi mỡ lạnh hay ủ chúng trong những gói khăn cột lỏng tẩm dầu, đặt trong phòng lấy hương đặc biệt, để chúng chết từ từ trong giấc ngủ. Ba bốn ngày sau chúng héo, chúng phả mùi thơm vào trong lớp mỡ hay dầu. Rồi người ta cẩn thận nhặt xác chúng, rải đợt mới. Mười, hai mươi lần như thế cho đến khi mỡ bão hoà mùi thơm, bấy giờ mỡ trong khăn có thể đem ép được rồi, lúc ấy cũng vừa sang tháng chín, thu hoạch ít nhiều, so với cách ngâm bấy. Nhưng trong nghệ thuật làm nước hoa, phẩm chất của keo hoa nhài hay của huile antique de tubéreuse[1] qua phương pháp enfleurage lạnh vượt hẳn mọi sản phẩm khác về độ tinh chất và độ trung thực. Đặc biệt đối với hoa nhài có vẻ như cái mùi thơm ngọt, gợi tình của hoa in hình lên tấm kính bôi mỡ như tấm gương để được phản chiếu lại hoàn toàn như , dĩ nhiên cum grano salis[2] Bởi vì tất nhiên cái mũi của Grenouille nhận ra khác biệt giữa mùi gốc của hoa khi nguyên vẹn, và mùi ảnh, tức là mùi thơm được tách ra này; mỡ dù sạch đến đâu mùi mỡ như tấm khăn mỏng phủ lên cái mùi ảnh, làm cho nó dịu , làm cho nó yếu hẳn cách nhàng. Có thể nhờ thế mà người bình thường mới chịu nổi chăng…Dù sao phương pháp enfleurage lạnh là cách hay nhất ,hiệu quả nhất để lấy được những mùi thơm mảnh dẻ. Dù cho phương pháp này chưa đủ để làm cho cái mũi Grenouille được hoàn toàn hài lòng gã vẫn biết rằng nó thừa đủ để phỉnh gạt cả thế giới những cái mũi thô lậu.

      Chẳng bao lâu gã qua mặt cả sư phụ Druot về ngâm bấy lẫn enfleurage lạnh, vẫn bằng cái cách hạ mình kín đáo rất thành công gã làm cho tay kia thấy điều ấy. Druot sẵn sàng để cho gã đến lò mổ mua loại mỡ thích hợp nhất để đem về rửa, thắng, lọc và định tỷ lệ thích hợp vì đây là công việc khó và đáng sợ nhất đối với , mỡ được sạch, ôi hay nặng mùi lợn hay cừu hoặc bò có thể làm vứt cái pomát quý báu. để cho gã định khoảng cách giữa những tấm kính trong phòng lấy hương, thời điểm thay hoa mới, độ bão hoà của pomát, rồi đến cả những quyết định quan trọng mà thường chỉ có thể tính toán cách gần đúng dựa theo những quy tắc học, giống như Baldini lúc trước, cũng giao cho gã luôn, nhưng Grenouille lại làm theo hiểu biết của mũi gã, tất nhiên Druot thể nào ngờ được điều này.

      “Gã có hoa tay”, Druot “gã nhậy với mấy chuyện này”. Đôi khi cũng nghĩ “Gã có khiếu hơn mình nhiều, gã là tay chế nước hoa giỏi hơn mình cả trăm lần”. Nhưng đồng thời lại cho gã là thằng thậm ngu vì tin rằng Grenouille chẳng biết kiếm chác gì qua cái tài của gã trong khi sắp thành nhà chế nước hoa, trong khi năng lực chỉ vừa phải. Grenouille còn làm cho tin nghĩ đúng bằng cách chăm chỉ nhưng ngu ngốc, có lấy chút tham vọng nào, làm như biết chút gì về thiên tài của gã mà chỉ toàn thực những lời chỉ dẫn của Druot nhiều kinh nghiệm hơn, rằng gã chẳng làm nên trò trống gì. Nhờ thế mà họ làm việc với nhau được.

      Sau mùa thu đến mùa đông, trong xưởng yên tĩnh hẳn. Chất thơm của hoa nằm trong các bình sành hay lọ con giữ kín trong hầm, nếu bà chủ bảo rửa loại pomát này hay nọ hoặc chưng cất bịch gia vị khô nào đấy chẳng có gì nhiều để làm cả. Vẫn còn nhiều ô liu, vài giỏ đầy mỗi tuần. Họ ép lấy dầu nhất, còn bã cho vào máy nghiền lấy dầu thứ cấp. Còn cả rượu vang mà Grenouille lấy phần để chưng cất và làm tinh rượu.

      Druot ngày ít ló mặt hơn. phải làm bổn phận gối chăn với bà chủ và khi chường mặt ra, hôi rình mùi mồ hôi và tinh dịch, cũng để chuồn lẹ qua quán Quatre Dauphins. Bà chủ cũng ít xuống xưởng. Bà bận rộn với việc quản lý tài sản và sửa quần áo để dùng sau khi mãn tang. Thường cả ngày Grenouille gặp ai ngoài người làm, trưa đến cho gã xúp còn tối bánh mì với ô liu. Gã hề ra ngoài. Những sinh hoạt phường hội, chẳng hạn như các buổi gặp gỡ thường xuyên của thợ với nhau hay các lần diễu hành vui chơi, gã chỉ tham dự vừa đủ để bị chú ý do vắng hay có mặt. Gã có bạn hay người quen thân, nhưng hết sức giữ ý để bị coi là người kênh kiệu hay chịu thích nghi. Gã mặc cho bọn thợ coi trò chuyện với gã là nhạt nhẽo và vô bổ. Gã là bậc thầy trong việc gây buồn tẻ cũng như đóng vai khờ dại vụng về, nhưng quá trớn để người khác khoái chí cười nhạo hay trở thành đối tượng của những chuyện tiếu lâm trong phường hội. Gã đạt được mục đích là trở nên hoàn toàn đáng chú ý. Người ta để gã yên. Gã chẳng mong gì khác hơn cả.

      Chú thích:

      [1] Dầu hoa nguyệt hạ hương kinh điển.

      [2] Đừng hiểu theo nghĩa hẹp (tiếng La tinh).

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :