1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mùi Hương - Patrick Suskind

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 20
      Nó sốt nặng. Những ngày đầu còn đổ mồ hôi nhưng sau chỉ nổi toàn những mụn như thể da nó đủ lỗ chân lông vậy. Thân thể Grenouille đầy những mụn đỏ, nhiều cái vỡ ra, ứa nước để rồi lại phồng lên. Những cái khác phát thành chùm nhọt, tấy đỏ, toác ra như miệng núi lửa, chảy thứ mủ sền sệt, máu lẫn nước vàng. Ít lâu sau Grenouille trông như kẻ tử vì đạo chịu hình phạt ném đá – nhưng ném từ bên trong – với hàng trăm vết lở lói.

      Dĩ nhiên Baldini lo lắm. hết sức phiền nếu cái thằng học việc quý giá của ông đúng vào cái lúc ông dự tính mở rộng việc buôn bán ra khỏi phạm vi thủ đô, thậm chí ra ngoài biên giới đất nước. Vì quả chỉ các tỉnh mà cả cung đình các vương quốc khác cũng đặt thường xuyên hơn những nước hoa loại mới mà Paris khao khát. Để đáp ứng nhu cầu này, Baldini nuôi ý định lập chi nhánh ở Faubourg Saint-Antoine, xi nghiệp thôi để trộn khối lượng lớn những nước hoa thông dụng và đóng hàng loạt vào những chai , xinh xắn, do những nhắn dễ thương đóng thùng để gởi sang Hà Lan, và Đức. Đối với chủ tiệm cư ngụ tại Paris hành động liều lĩnh này hợp pháp nhưng gần đây Baldini có được che chở ở những nơi chóp bu, nước hoa tuyệt diệu của ông tạo cho ông che chở chỉ của ngài đổng lý văn phòng ngự tiền mà còn ở những nhân vật quan trọng như của quan giám thu quan thuế (zollpaechter) của Paris và của ngài Feydeau de Brou, thành viên hội đồng tài chính hoàng gia, đồng thời là người tài trợ các xí nghiệp làm ăn phát đạt. Thậm chí ngài còn tính tới khả năng ông được đặc ân của hoàng gia, thứ giấy thông hành giúp thoát khỏi mọi quy định của nhà nước và phường hội, chấm dứt mọi lo lắng trong hành nghề và là bảo đảm vĩnh viễn cho thịnh vượng vững chắc ai dám tranh chấp, nghĩa là cái cao nhất mà người ta chỉ dám mơ.

      Baldini còn ấp ủ dự tính khác, dự tính ưa thích nhất, như đối chọi với xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, sản xuất hàng loạt nhưng ai cũng có thể mua được; ông muốn chế, phải là ông ra lệnh chế đúng hơn, số loại nước hoa riêng cho số khách hàng tuyển chọn có địa vị cao và cao, giống như quần áo được đo cắt riêng, chỉ thích hợp với từng cá nhân, chỉ người đó sử dụng và chỉ mang cái tên tăm tiếng của người ấy. Ông hình dung ra nào là nước hoa của Marquis de Cernay, nào là nước hoa của Maréchale de Villars, nào là nước hoa của Duc d’Aguillon, vân vân. Ông mơ đến nước hoa của Madame la Marquise de Pompadour, thậm chí nước hoa của Sa Majesté le Roi, đựng trong lọ con mài bằng đá mã não đắt tiền với viền vàng trạm trổ, có khắc mặt trong của đáy lọ cái tên Giuseppe Baldini, nhà làm nước hoa, tên của ông và tên của Đức Vua ở cùng món hàng, Baldini dám thả hồn cao đến những tưởng tượng tuyệt vời nhường ấy! Vậy mà Grenouille lại ốm! Dù rằng Grimal, xin Chúa đoái thương linh hồn , thề sống thề chết rằng nó chẳng bao giờ ốm cả, nó chống chọi được tất, kể cả bệnh dịch hạch đen.
      Thế mà thình lình nó đau chờ chết. Nhỡ nó chết sao? Khủng khiếp quá! Những đề án hay ho về xí nghiệp, về những bé dễ thương, về đặc ân và về nước hoa của Đức Vua cũng chết theo nó.

      Cho nên Baldini quyết định phải cứu mạng sống quý báu của tên học việc. thể thử được. Ông ra lệnh dời nó từ cái phản trong xưởng lên cái giường sạch lầu. Ông cho trải giường với khăn thêu hoa. Tự tay ông giúp khiêng người bệnh lên cầu thang chật hẹp dù rằng những mụn nhọt lở lói làm ông kinh tởm khôn xiết. Ông ra lệnh cho vợ nấu canh gà với rượu vang, Ông cho tìm tay thầy thuốc nổi tiếng nhất khu phố, tay Procope nào đấy, và phải trả trước những hai mươi quan mới chịu đến cho.

      Thầy thuốc đến, dùng đầu ngón tay hất khăn giường ra, ném cái nhìn duy nhất lên thân thể Grenouille trông khác bị cả trăm viên đạn bắn lỗ chỗ, rồi rời khỏi phòng ngay, thèm mở cái cặp mà người phụ tá của ông luôn luôn mang theo. Ông ta với Balidni rằng trường hợp này quá ràng. Đây là biến chứng giang mai của bệnh đậu mùa lẫn với bệnh sởi làm mủ in stadio ultimo[1]. cần điều trị gì nữa vì thể dùng lưỡi trích để lấy máu đúng quy cách được thân thể rữa, chết nhiều hơn sống như thế kia. Dưới góc độ khoa học nghiêm túc chưa nhận thấy được trong tíến trình căn bệnh cái mùi hôi đặc trưng của bệnh dịch là hiếm có nho , đáng ngạc nhiên, nhưng chắc chắn rằng bệnh nhân chết trong vòng bốn mươi tám giờ nữa, như tên ông ta là bác sĩ Procope vậy. Ông ta thu thêm hai mươi quan nữa vì đến thăm và chẩn bệnh, rồi cáo lui, nếu để cho ông ta sử dụng cái xác với những biểu kia vào mục đích thuyết minh được hoàn lại năm quan.

      Balidni quýnh lên. Ông than vãn, khóc lóc vì tuyệt vọng. Ông cắn ngón tay vì căm giận số phận, Lại lần nữa những dự án hứa hẹn thành công, thành công vĩ đại của ông bị hỏng ngay khi gần tới đích. Trước kia là Pélissier và lũ bạn bè với sáng tạo phong phú của chúng. Bây giờ là thằng lỏi này với cái kho nước hoa bao giờ cạn của nó, cái thằng khốn nạn quý hơn cả vàng này, nó lại nhè ngay cái giai đoạn xây dựng cơ sở làm ăn mà bị đậu mùa do giang mai với sởi làm mủ in stadio ultimo! Nhè ngay lúc này! Tại sao đợi hai năm nữa? năm thôi cũng được? Tới lúc đó có thể khai thác nó hết sạch như mỏ bạc hay con gà đẻ trứng vàng. năm nữa nó được quyền chết thanh thản. Nhưng mà ! Nó phải chết bây giờ cơ, lạy Chúa tôi, và trong vòng bốn mươi tám tiếng!

      Balidni cân nhắc rất nhanh, có nên hành hương sang Notre-Dame, châm ngọn nến và cầu xin Đức Mẹ cho Grenouille được khỏi bệnh hay . Nhưng ông bỏ ý định đó vì cấp bách quá rồi. Ông chạy tìm giấy mực rồi đuổi vợ ra khỏi phòng người bệnh. Ông muốn tự canh chừng. Rồi ông ngồi xuống cái ghế cạnh giường, giấy đặt đầu gối, bút mực trong tay, tìm cách moi từ Grenouille lời xưng tội – dĩ nhiên là về nước hoa. Lạy Chúa, nó đừng im lìm mang theo cái kho tàng trong người! Nó hãy để lại vào giây phút cuối cùng di chúc nơi người đáng tin cậy để hậu thế bị mất những nước hoa tuyệt diệu nhất tự cổ chí kim! Ông, Baldini này, thực hết sức trung thực những công thức kinh điển của những nước hoa tuyệt vời hơn mọi nước hoa từng biết và làm rạng rỡ mọi nước hoa của nó.Ông xin thề trước các thánh rằng gắn chặt các vinh hoa bất tử với tên của Grenouille, phải, ông dâng lên Đức Vua loại nước hoa tuyệt nhất, đựng trong lọ con bằng đá mã não có viền vàng trạm trổ và khắc hàng chữ kính dâng của “Jean-Baptiste Grenouille, nhà chế nước hoa của Paris”. Ông như thế hay đúng hơn ngớt thầm vào tai của Grenouille, thề thốt, năn nỉ, mơn trớn.

      Nhưng đều vô ích. Từ Grenouille chẳng thoát ra được gì khác ngoài cái nước vàng và mủ với máu. Nó nằm câm nín nệm hoa, tiết ra cái chất nước ghê tởm kia chứ phải là kho báu của nó, hiểu biết của nó, chẳng có lấy được công thức nước hoa nào. Baldini muốn bóp cổ nó, muốn đánh nó, muốn nện cho bật từ cái thân thể chờ chết kia bí mật quý báu nếu như quả có triển vọng thành công…và nếu ý thức về tình thương đồng loại của con chiên kịch liệt phản kháng.

      Thế là ông lại tiếp tục êm ái thổi vào tai người bệnh những lời ngọt lịm, vuốt ve và dùng khăn lạnh thấm từ cái trán đẫm mồ hôi và những vết lở nóng như núi lửa, dù phải cố hết sực chịu đựng đến rợn người, rót từng muỗng vang vào miệng nó để làm cho lưỡi nó phát ra tiếng, suốt đêm như thế nhưng công toi. Sáng sớm ra ông bỏ cuộc. Ông kiệt sức buông người xuống ghế trong góc phòng và, còn giận dữ nữa mà chỉ còn là cam chịu thầm lặng, nhìn sững cái thân thể Grenouille bé chờ chết giường phía góc bên kia mà ông còn có thể vớt vát gì được cho mình, đành chịu bó tay nhìn nó lìa đời như thuyền trưởng nhìn con tàu của mình chìm mang theo tất cả của cải xuống đáy biển.

      Bỗng đôi môi của kẻ chờ chết hé mở, nó ràng và chắc chắn chẳng có vẻ gì là của kẻ sắp lìa đời: “Maitre, xin cho biết có cách nào khác để lấy được hương thơm từ vật thể ngoài cách ép hay chưng cất ?”

      Baldini nghĩ rằng tiếng nọ là do ông tưởng tượng hay đến từ thế giới bên kia nên trả lời như máy: “Có đấy”.

      “Cách gì?” câu hỏi vọng ra từ giường và Baldini mở choàng đôi mắt mệt mỏi. Grenouille nằm động đậy gối. Cái xác ư?

      “Cách gì?” câu hỏi vang lên và lần này Baldini nhận ra đôi môi Grenouille mấp máy. “Hỏng rồi”, ông thầm nghĩ, “ tới lúc rồi, hoặc là cuồng vì sốt, hoặc là giẫy chết”. Rồi ông đứng dậy, bước tới giường và cúi xuống người bệnh. Nó mở mắt nhìn Baldini cũng với cái nhìn rình rập lạ lùng như ở lần gặp nhau đầu tiên.

      “Cách gì?” nó hỏi.

      Baldini quyết định sau lúc do dự, ông muốn kẻ sắp chết điều mong muốn cuối cùng nên trả lời: “Có ba cách, con ạ. Cách enfleurage à chaud, cách enfleurage à froid và cách enfleurage à l’huile [2]. Chúng trội hơn phương pháp chưng cất về nhiều mặt và người ta dùng để có thể lấy được những mùi hương thanh cao nhất: hương hoa nhài, hoa hồng và hoa cam”.

      “Ở đâu?” Grenouille hỏi.

      “Ở phía nam”, Baldini đáp. “Nhiều nhất là ở thành phố Grasse”.

      “Hay lắm”. Grenouille .

      Rồi nó nhắm mắt lại. Baldini từ từ đứng dậy, ông quá chán nản, gom lại những tờ giấy ghi được dòng nào, thổi tắt nến. Bên ngoài trời sáng. Ông hết sức mệt mỏi. Lẽ ra phải mời linh mục đến, ông thầm nghĩ. Rồi ông đưa tay phải làm dấu thánh giá vội vàng và ra .

      Còn lâu Grenouille mới chết. Nó chỉ ngủ say, mơ sâu và hút trở vào những thứ tiết ra thân thể. Những vết phồng da bắt đầu khô lại, những vết lở ngưng chảy mủ, những vết loét khép lại dần. Trong vòng tuần nó khỏi hẳn.

      Chú thích:

      [1] Ở giai đoạn cuối cùng (tiếng La Tinh).

      [2] Các phương pháp lấy hương thơm trong ngành nước hoa: cách lấy nóng, cách lấy lạnh và cách lấy bằng dầu.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 21

      Nó muốn ngay xuống miền nam để học ở đó những kỹ thuật mới như ông già . Nhưng đâu có thể được. Nó chỉ là đứa học nghề có nghĩa là chẳng là cái thớ gì cả. Nghiêm khắc mà , Baldini giải thích sau khi nỗi mừng rỡ ban đầu vì Grenouille sống lại qua , nghiêm khắc mà nó còn kém cả chẳng ra cái thớ gì, vì đứa học việc đúng đắn phải có được gốc gác chính thức đàng hoàng, họ hàng cùng giai tầng xã hội và giao kèo học nghề mà cả ba thứ đó nó đều có. Tuy vậy Baldini vẫn muốn giúp nó ngày kia có được chứng chỉ thợ lành nghề chỉ vì cân nhắc cái năng khiếu dễ có của Grenouille, phẩm hạnh tốt của nó trong tương lai và vì lòng tốt bờ bến của ông, điều mà nó bao giờ có thể phủ nhận, dù rằng lòng tốt ấy thường đem hại đến cho ông.

      Dĩ nhiên cần khá lâu, ngót ba năm, để hoàn thành lời hứa của hảo tâm này. Trong thời gian ấy có Grenouille trợ giúp, Baldini thực được giấc mộng vói cao của ông. Ông thành lập xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, những nước hoa độc đáo của ông được ưa chuộng trong hoàng cung, và ông nhận được đặc quyền của hoàng gia. Nước hoa hảo hạng của ông bán tận sang Petersburg, tới Palermo, tới cả Kopenhagen. Thậm chí thứ đặc biết có mùi xạ hương rất được ưa chuộng ở Konstaninopel (Istanbul ngày nay) dù họ thừa nước hoa, như Chúa biết đấy. Trong những cửa hàng sang trọng của London cũng thơm nức nước hoa của Baldini như ở trong hoàng cung Parma, trong cung điện ở Warsaw cũng khác lâu đài của bá tước Von und zur Lippe-Detmold.
      Sau khi tưởng cam phận sống nốt tuổi già nghèo túng ở Messina, Baldini dứt khoát trở thành nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu và là trong những công dân giàu có nhất Paris vào năm ông bảy mươi tuổi.

      Đầu năm 1756, lúc này ông tậu thêm ngôi nhà bên cạnh Pont au Change, chỉ để làm chỗ ở thôi vì ngôi nhà cũ ngập tới tận nóc, phải ngoa, với hương liệu và đồ gia vị, ông ngỏ ý với Grenouille rằng sẵn lòng trả tự do cho gã, tất nhiên chỉ với ba điêu kiện: thứ nhất, trong tương lai gã chế tất cả nước hoa gã chế dưới mái nhà của Baldini, và cũng đưa công thức cho ai khác; thứ hai là gã phải khỏi Paris và trở lại khi Baldini còn sống và thứ ba là gã phải tuyệt đối giữ kín hai điều kiện . Gã phải thề trước các vị thánh, trước vong linh khốn khổ của mẹ gã và danh dự của chính gã.

      Grenouille thề ngay dù rằng chẳng hề có danh dự, cũng như chẳng tin vào thánh hay vong linh khốn khổ của mẹ gã. Gã sẵn sàng thề mọi thứ, chấp nhận mọi điều kiện, vì gã muốn có được cái chứng chỉ thợ lành nghề khôi hài để có thể sống kín đáo, lại bị trở ngại và tìm được chỗ làm. Những chuyện khác gã chẳng màng tới. Những điều kiện kia nào có nghĩa gì! được trở lại Paris ư? Gã cần gì Paris chứ! Gã biết Paris tới tận ngóc ngách hôi hám cuối cùng, dẫu đâu gã cũng đều có Paris trong người từ nhiều năm rồi. được chế những nước hoa độc đáo của Baldini, được trao công thức cho người khác ư? Làm như gã thể sáng tạo ra hàng nghìn thứ khác tốt bằng và tốt hơn nếu gã muốn! Nhưng gã đâu có muốn? Gã đâu định cạnh tranh với Baldini hay với bất kỳ nhà chế nước hoa trưởng giả nào. Gã đâu có ý định làm giàu với nghệ thuật của gã ngay cả chỉ để sống cũng thế, khi gã có thể làm cách khác. Gã muốn bộc lộ cái gã tàng trữ trong lòng mà gã cho rằng tuyệt vời hơn tất cả những gì ngoại giới cống hiến, gã muốn gì khác hơn thế cả. Cho nên điều kiện của Baldini đối với gã phải là điều kiện.

      Gã ra vào mùa xuân, sáng sớm tháng năm. Gã nhận được của Baldini túi đeo lưng , cái áo thứ nhì, hai đôi tất, khúc dồi to, cái chăn thô và hai mươi lăm quan. Baldini thế là quá nhiều so với những gì ông có bổn phận cung cấp, nhất là Grenouille trả tí tiền học nào cho đào tạo chu đáo mà gã hưởng. Ông chỉ buộc phải cho gã hai quan tiền đường, thế thôi. Nhưng mà ông thể chối bỏ lòng tốt của mình cũng như tình cảm sâu đậm chất chứa trong trái tim ông trong suốt bao năm dành cho thằng Jean-Baptiste Grenouille giỏi giang. Ông chúc gã nhiều may mắn trong cuộc hành trình và lần nữa nghiêm khắc cảnh cáo gã đừng quên lời thề. Rồi ông đưa gã tới cổng dành cho người làm, nơi xưa kia ông gặp gã, để cho gã .

      Ông đưa tay cho gã bắt, cái tình cảm chưa đủ sâu đậm đến thế. Ông chưa bao giờ bắt tay gã. Ông luôn luôn tránh đụng chạm đến gã do thứ ghê tởm mù quáng như thể có nguy cơ gã làm ông lây bệnh, làm ông ô uế. Ông chỉ gọn lỏn adieu[1], Grenouille gật đầu rồi khom người lại, ra . Đường phố bóng người.

      Chú thích:

      [1] Vĩnh biệt (tiếng Pháp)

      Chương 22
      Baldini nhìn theo gã lê bước qua cầu, sang bên hòn đảo, thó, khom người, mang cái túi lưng như mang cái bướu, nhìn từ sau chẳng khác ông già. Tới khúc ngoặt của con hẻm nơi toà án tối cao (Parlement) gã biến khỏi tầm mắt và ông hẳn cả người.

      Ông chưa bao giờ mến gã, chưa hề, và bây giờ ông có thể dứt khoát thú nhận được rồi. Suốt thời gian ông cho gã ở và moi móc gã, ông thoải mái tí nào. Ông cảm thấy như người chân lần đầu tiên làm việc bị cấm đoán hay chơi gian ván bài. Vẫn biết khả năng làm việc này bị phát giác thôi mà triển vọng thành công vô cùng to lớn nhưng lòng bất an và lương tâm cắn rứt cũng lớn kém. Quả suốt mấy năm ấy ngày nào ông bị đeo đuổi bởi cái ý nghĩ vui rằng rồi ông phải đền bù bằng cách nào đó cho giao du với gã. Ước gì được trôi chảy, ông ngớt lo âu cầu khẩn, ước gì mình có thể gặt hái được thành công của việc mạo hiểm này mà phải đền bù gì! Ước gì mình thành công! Điều tôi làm đúng đấy nhưng Chúa nhắm mắt làm ngơ, chắc chắn Người làm ngơ! Trong đời tôi Người từng trừng phạt nặng nề nhiều lần mà chẳng vì lý do gì cả nếu lần này Người có thái độ làm hoà cũng đúng thôi. Tôi làm tội gì nào, nếu như quả đó là tội? Cùng lắm là tôi hơi vượt quá điều lệ của phường hội qua việc tôi lợi dụng cái năng khiếu tuyệt vời của thằng thiếu kinh nghiệm và nhận năng lực của gã làm của tôi. Cùng lắm là tôi trệch ít khỏi cái con đường mòn truyền thống đầy tư cách của ngành thủ công. Cùng lắm là hôm nay tôi làm cái mà tôi lên án ngày hôm qua. Thế là tội ác chưa? Có những kẻ bịp cả đời. Còn tôi chỉ mới gian dối vài ba năm nay thôi.
      Cũng chỉ tại vì ngẫu nhiên mà cái cơ hội ngàn năm thưở ấy đến với tôi đấy chứ? Cũng có thể ngẫu nhiên đâu, có thể chính Chúa gởi cái tay phù thuỷ ấy đến nhà tôi để đền bù cho những ngày tôi bị Pélissier và lũ bạn gã hạ nhục. Có thể Chúa hoàn toàn ưu ái tôi đâu mà chỉ trừng phạt Pélissier thôi! Có thể lắm chứ? Chúa làm cách nào trừng phạt được Pélissier nếu nâng đỡ tôi? Như thế may mắn của tôi là phương tiện để Chúa thực công bằng và tôi những được phép mà còn phải nhận mà cần phải xấu hổ hay hối hận tí nào…

      Baldini vẫn thường nghĩ như thế trong những năm qua, sáng sáng khi ông xuống cửa tiệm qua cái cầu thang hẹp cũng như chiều chiều khi ông ôm cái két lên lầu đếm những đồng tiền vàng và bạc nặng trịch và đêm đêm khi ông nằm cạnh cái thân thể gầy đét ngáy vang của vợ, thể nhắm mắt vì may mắn làm ông quá sợ.

      Nhưng bây giờ rốt cuộc những ý nghĩ gở ấy qua rồi. Người khách lạ lùng khỏi và bao giờ quay trở lại nữa. Còn giàu có ở lại và vững bền mãi mãi. Baldini đặt tay lên ngực, cảm thấy qua làn vải áo quyển sổ nơi trái tim. Sáu trăm công thức ghi trong ấy, phải nhiều thế hệ nhà chế nước hoa mới hòng thực được. Nếu như hôm nay ông mất hết tất cả trong vòng năm, chỉ với quyển sổ tuyệt vời này thôi ông lại giàu. , ông còn đòi hỏi gì hơn.

      Mặt trời buổi sáng phía đầu hồi các nhà đối diện chiếu ánh nắng vàng ấm lên mặt ông. Baldini vẫn nhìn về phía nam, hướng con đường dẫn đến toà án tối cao, cảm thấy dễ chịu khi còn nhìn thấy Grenouille nữa và quyết định hành hương sang Notre-Dame ngày hôm ấy để cúng đồng tiền vàng với lòng chan chứa biết ơn, thắp ba ngọn nến, quỳ xuống cám ơn Chúa ban cho ông thừa thãi may mắn và tránh cho ông bị báo thù.

      Nhưng trớ trêu sao lại có chuyện xảy đến giữa chừng. Ngay khi ông định sang nhà thờ vào lúc xế trưa có tin đồn ầm là tuyên chiến với Pháp. ra chẳng có gì đáng lo lắng cả. Nhưng đúng hôm ấy Baldini định gởi chuyến hàng nước hoa sang London nên ông hoãn lại việc sang Notre-Dame để vào phố lấy thêm tin tức rồi tiếp đến xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, huỷ ngay việc gởi hàng sang London. Tối đến nằm giường ông nảy ra sáng kiến thiên tài ngay trước khi vào giấc ngủ: nhân cuộc chiến tranh xảy ra để tranh giành thuộc địa ở các nước Tân thế giới, ông định tung ra loại nước hoa có tên Prestige de Québec (Uy danh Québec), mùi thơm quả cảm làm từ nhựa cây mà thành công của nó chắc chắn thừa bù đắp cho cái vụ bỏ buôn bán với . Maitre Baldini ngả cái đầu già nua đần độn lên gối, cả người với cái ý nghĩ ngọt lịm kia, thấy sức nặng của quyển sổ đè lên ngực dễ chịu hẳn, ông chìm trong giấc ngủ và bao giờ dậy nữa.

      Số là đêm hôm đó xảy ra tai biến mà sau đó ít lâu là lý do để có chiếu chỉ ra lệnh dần dần phá sập mọi nhà tất cả các cầu ở Paris: mạn tây của Pont au Change, giữa trụ cầu ba và bốn sụp mà nguyên nhân. Hai ngôi nhà đổ ụp xuống sông bất ngờ đến nỗi thể cứu được ai cả. May mắn sao chỉ có hai người chết, Giuseppe Baldini và bà vợ ông, bà Teresa. Những người giúp việc, chẳng biết được phép hay đều ra ngoài cả. Còn Chénier mãi hửng sáng mới chếnh choáng về nhà, đúng hơn phải là muốn về nhà vì ngôi nhà còn ở đó nữa, liền bị suy nhược thần kinh. Ông tận tuỵ ba mươi năm ròng với hy vọng được Baldini chọn làm người thừa kế trong di chúc vì ông này có con cái cũng thân thích. Bây giờ bỗng nhiên cả gia sản biến mất; tất cả, nhà, cửa hàng, nguyên vật liệu, xưởng, ngay cả Baldini, thậm chí cả tờ di chúc biết đâu lại chẳng để cho ông cái xí nghiệp để làm của riêng!

      Chẳng tìm thấy gì cả, xác , tủ tiền , quyển sổ với sáu trăm công thức cũng . Cái duy nhất còn sót lại của Giuseppe Baldini, nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu, là mùi trộn lẫn xạ hương, quế, giấm, oải hương và hàng nghìn thứ khác tràn ngập sông Seine từ Paris tới tận Le Havre suốt mấy tuần liền.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Phần 2

      Chương 23
      Vào cái lúc ngôi nhà của Giuseppe Baldini sập Grenouille đường đến Orléans. Gã để lại phía sau cái bầu trời mờ đục bao phủ thành phố lớn, cứ mỗi bước xa thêm khí quanh gã trong hơn, tinh khiết hơn, sạch hơn. Cả loãng hơn nữa. có cảnh trăm, nghìn thứ mùi dồn dập luân phiên rượt đuổi nhau từng mét nữa mà chỉ mùi sẵn có như mùi đường cát sỏi, mùi đồng cỏ, mùi đất, mùi cây cối, mùi nước…bất tận đồng quê; chầm chậm nở ra, chầm chậm biến , bao giờ đứt đoạn đột ngột cả.

      Grenouille thấy mộc mạc này như là giải thoát. Những mùi hương nhàng mơn trớn gã. Lần đầu tiên trong đời gã phải cảnh giác rằng với mỗi hơi thở lại phát ra mùi thù địch mới ngờ hay để mất mùi dễ chịu. Lần đầu tiên gã gần như có thể thở tự do mà phải vừa ngửi vừa rình rập. Gọi là gần như vì ra chẳng có gì tự do qua mũi Grenouille cả. Dù có chút lý do nào nhưng gã luôn luôn thận trọng bẩm sinh khi để cho những thứ bên ngoài lọt vào bên trong gã. Cả đời, kể cả đôi lúc hiếm hoi mà gã được sống trong những thứ tương tự như thoải mãn, hài lòng, thậm chí cả may mắn nữa, gã vẫn thích thở ra hơn hít vào như gã bắt đầu sống phải bằng hít vào đầy hy vọng mà bằng cái tiếng khóc rùng rợn. Trừ cái hạn chế bẩm sinh này ra càng xa Paris bao nhiêu Grenouille càng thấy thoải mái bấy nhiêu, gã cảm thấy dễ thở hơn, bước nhanh nhẹn hơn và đôi lúc thẳng người lên được, lúc ấy nhìn từ xa thấy gã chẳng khác mấy gã thợ thủ công, nghĩa là như người hoàn toàn bình thường.

      Gã thấy xa cách con người là giải thoát hay nhất. Ở Paris người ta sống chen chúc hơn bất kỳ đâu thế giới này. Sáu, bảy trăm nghìn người sống ở Paris. Họ nhan nhản ngoài đường phố và quảng trường, trong nhà đầy ứ từ hầm tới nóc. xó xỉnh nào ở Paris mà con người trân trối ngó vào, khoảnh đất nào mà lại có hơi người.,

      Sang ngày thứ ba của chuyến , gã bị hút vào trọng trường mùi của Orléans.
      Grenouille phát trong khí tích tụ của con người lâu trước khi có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy ở gần thành phố và quyết định tránh xa Orléans, ngược với ý định ban đầu. Gã muốn cái hơi thở tự do vừa mới có được lại sớm bị cái môi trường ngột ngạt của con người ô nhiễm. Gã vòng xa thành phố, gặp con sông Loire ở Chateauneuf và vượt sông ở Sully. Tới đây cũng vừa ăn hết dồi, gã mua cây khác rồi bỏ dòng sông sâu vào đất liền.

      Lúc này gã chỉ tránh thành phố mà tránh cả làng mạc. Gã như bị say bởi cái khí ngừng loãng và vắng con người hơn. Chỉ khi nào phải mua thêm đồ ăn gã mới đến gần khu dân cư hay nông trại chơ vơ, mua bánh mì rồi lại biến vào rừng. Sau vài tuần ngay cả những lần gặp đôi người qua lại những con đường khuất nẻo cũng là quá nhiều đối với gã, gã chịu nổi mùi toát ra từ những nông phu cắt vụ cỏ đầu tiên đồng cỏ. Gã sợ hãi tránh những đàn cừu, phải sợ lũ cừu mà để tránh mùi người chăn cừu. Gã băng đại ngang đồng cỏ, sẵn sàng vòng hàng dặm nếu ngửi thấy mùi đoàn kỵ binh phi về phía gã dù họ còn cách xa gã cả tiếng đồng hồ. vì hề biết có chiến tranh nên phải gã sợ bị khám xét hay hỏi giấy tờ và bị bắt lính như những tay thợ thủ công hay bọn du thủ du thực khác mà chỉ vì gã gớm ghiếc mùi người của các kỵ binh. Vì thế kế hoạch nhanh tới Grasse tự động tan biến dần, chẳng do quyết định đặc biệt nào, có thể là kế hoạch hoà tan trong tự do như mọi dự tính và kế hoạch khác. Grenouille muốn bất kỳ đâu nữa mà chỉ muốn xa con người.

      Cuối cùng gã chỉ còn vào ban đêm. Ban ngày gã chui vào các lùm cây thấp, ngủ trong các bụi cây rậm rạp ở những nơi khó vào nhất, cuộn tròn như con vật, cái chăn thô màu đất nâu trùm kín cả người lẫn đầu, mũi kê giữa khuỷu tay, quay xuống đất để chút mùi lạ nào quấy rầy giấc mơ của gã. Gã thức dậy khi mặt trời lặn, đánh hơi khắp mọi hướng và chỉ sau khi ngửi thấy chắc chắn rằng người nông phu cuối cùng rời khỏi đồng ruộng và ngay cả người bộ hành gan góc nhất cũng tìm chỗ trọ trước màn đêm, chỉ sau khi đêm tối với những nguy hiểm tưởng tượng quét sạch con người khỏi vùng đất, Grenouille mới chui ra khỏi chỗ nấp, tiếp tục chuyến . Gã cần ánh sáng để nhìn. Ngay trước đây, khi còn trong ban ngày, gã thường bịt mắt hàng giờ liền và chỉ theo cái mũi. Cái bức tranh đồng quê sặc sỡ, loá mắt, thay đổi bất chợt và phải nhìn làm mắt gã đau. Gã chỉ thích ánh trăng. Ánh trăng có màu và chỉ soi nhạt đường nét địa thế. Ánh trăng phủ mảnh đất với màu xám nhơ nhuốc và bóp nghẹt sống được đêm dài. Cái thế giới trong đêm như được đúc bằng chì, có gì lay động ngoài ngọn gió thỉnh thoảng như cái bóng đổ xuống những cánh rừng màu xám và có gì sống trong đó ngoài mùi thơm của đất trần trụi, là cái thế giới duy nhất mà gã chấp nhận vì giống với cái thế giới của tâm hồn gã.

      về hướng nam như thế đấy. Gọi đại khái là hướng nam thôi vì gã theo la bàn nam châm mà chỉ theo la bàn của mũi gã, nó bảo gã vòng mỗi thành phố, mỗi làng, mỗi khu dân cư. Hàng tuần liền gã gặp ai. Và gã có thể tự ru ngủ trong niềm tin vững vàng rằng gã là kẻ duy nhất trong cái thế giới tối tăm, được tắm trong ánh trăng lạnh lẽo nếu cái la bàn nhậy bén của gã chỉ ra điều ngược lại.

      Trong đêm cũng có người. Ở trong những vùng hẻo lánh nhất cũng có người. Họ chỉ rút về chỗ trú ngủ như chuột. Mặt đất chưa hết sạch hơi họ bởi vì ngay trong giấc ngủ họ vẫn phả ra mùi, xuyên qua cửa sổ để ngỏ hay những kẽ hở trong nhà, bay ra ngoài làm uế tạp cái thiên nhiên tưởng chừng gì đụng đến được. Grenouille càng quen với cái khí trong lành bao nhiêu gã càng nhậy cảm bấy nhiêu với cái mùi người có lần ào đến bất ngờ, hoàn toàn chờ đợi, kinh tởm như mùi phân bón, tố giác rằng nơi trú chân của người chăn cừu hay lều của người đốt than hay hang của bọn cướp đâu đó quanh đây. Thế là gã tiếp tục chạy, càng ngày càng phản ứng nhậy hơn với cái mùi người ngày càng ít hẳn . Và cái mũi gã càng dẫn gã đến những vùng hẻo lánh hơn, xa con người hơn và đẩy gã mãnh liệt hơn về cái cực nam châm của độc, càng gần càng tốt.

      Chương 24

      Cái cực này, tức là điểm xa cách con người nhất trong toàn vương quốc, nằm ở Massif Central, vùng Auvergne, cách phía nam Clermont năm ngày đường, đỉnh ngọn núi lửa cao hai nghìn mét, có tên là Plomb du Cantal.

      Cái núi khoáng thạch màu xám chì có hình chóp nón khổng lồ được bao quanh bởi cao nguyên mênh mông, trơ trụi, mọc toàn rêu màu xám và những bụi cây rậm rạp lè tè cũng màu xám; đây đó dựng lên những tảng đá nhọn màu nâu trông như những cái răng sâu và vài thân cây cháy thành than. Ngay giữa ban ngày vùng này cũng cằn cỗi buồn tẻ đến nỗi người chăn cừu cùng khổ nhất của cái tỉnh vốn nghèo này cũng chẳng thèm xua lũ cừu đến đây. Còn ban đêm, trong ánh trăng sáng nhờ nhờ cái cảnh hoang vu như thể bị Chúa bỏ rơi làm cho vùng này có vẻ như thuộc về thế giới nào khác. Ngay đến tên cướop Lebrun ở Auvergne bị truy nã khắp nơi cũng thà chọn vùng Cévenne để thoát thân rồi bị tóm ở đó và bị tứ mã phanh thây hơn là trốn ở Plomb du Cantal, cho dù chắc chắn ở đó chẳng ai thèm tìm bắt , nhưng cũng chắc chắn là phải chết đau khổ hơn nữa, đó là chết mòn mỏi trong đơn. Chung quanh núi hàng dặm bóng người hay con thú có máu nóng nào trừ vài con dơi, vài con bọ hung và rắn.
      Hàng chục năm rồi ai leo lên đỉnh núi cả.

      Grenouille tới chân núi tối tháng năm năm 1756. Tờ mờ sáng gã đứng ngọn núi. Gã chưa biết rằng chuyến của gã chấm dứt ở đây. Gã vẫn nghĩ rằng đây chỉ là chỗ dừng chân con đường đến nơi có khí trong lành hơn và gã xoay quanh, mũi lướt nhìn phong cảnh hùng vĩ của vùng núi lửa hoang vu, lướt về phía đông nơi có cao nguyên Saint-Flour bao la và những đầm lầy của con sông Riou, và lướt về phía bắc nơi gã phát xuất và nhiều ngày qua những dãy núi đá vôi, lướt về phía tây nơi ngọn gió ban mai mang đến cho gã chỉ mùi của đá và loại cỏ cứng, sau hết về phía nam nơi những núi con của Plomb trải dài hàng dặm tới tận những hẻm núi tối tăm của sông Truyere. Khắp nơi, phía nào cũng vậy, đều xa con người cả nhưng đồng thời mỗi bước về mỗi phía có nghĩa lại gần con người hơn, cái la bàn cứ xoay quanh. Nó còn chỉ phương hướng nữa. Grenouille tới đích. Nhưng đồng thời gã bị giam giữ.

      Khi mặt trời lên cao, gã vẫn đứng tại chỗ hếch mũi lên. Với cố gắng tuyệt vọng, gã đánh hơi tìm xem đâu là hướng con người nguy hiểm có thể đến và đâu là hướng ngược lại để gã chạy trốn tiếp . Hướng nào gã cũng nghi là rồi phát ra chút hơi hướng của con người còn đâu đó. Nhưng chẳng có gì cả. Chỉ là bình yên, bình yên của mùi, nếu có thể như thế được. Chung quanh chỉ có tiếng xào xạc khe khẽ do mùi thơm thuần nhất của đá sống, của thạch y xám và của cỏ úa, ngoài ra còn gì khác.

      Phải rất lâu Grenouille mới chịu tin những gì gã ngửi thấy. Gã chờ đợi gặp may. nghi ngại dằng co dai dẳng với nhận thức Thậm chí, khi mặt trời lên, gã dùng đến trợ giúp của mắt lục lọi khắp chân trời dấu hiệu nhoi về diện của con người, chẳng hạn mái lều, làn khói, bờ rào, cây cầu, đàn gia súc. Gã khum tay quanh tai lắng nghe tiếng cắt của lưỡi hái, tiếng chó sủa hay tiếng trẻ khóc. Gã ở lì đỉnh ngọn Plomb du Cantal suốt ngày hôm ấy trong cái nóng như thiêu đốt, chờ đợi hoài công dấu hiệu nhất. Chỉ khi mặt trời lặn nghi ngại của gã mới từ từ nhường chỗ cho cảm giác phơi phới mạnh dần lên: gã thoát khỏi cái mùi xú uế đáng ghét! Gã hoàn toàn mình! Gã là con người duy nhất thế giới!

      Tiếng hò reo ầm ĩ vỡ oà trong con người gã. Như kẻ bị đắm tàu sau nhiều tuần trôi giạt lênh đênh say sưa chào mừng hòn đảo đầu tiên có người ở, Grenouille ăn mừng đến được ngọn núi độc. Gã gào lên vì sung sướng. Gã tung hê túi đeo, chăn, gậy và ngớt dậm chân thình thịch, tay giơ cao, xoay người múa và hét toáng tên gã khắp bốn phương, nắm tay lại, đắc thắng dứ dứ vào cái vùng đất nằm tuốt phía dưới và vào vầng mặt trời lặn như thể chính gã xua đuổi nó khỏi bầu trời. Gã hành động như kẻ điên tới tận khuya.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 25

      Gã dành mấy ngày sau đó để sắp xếp ngọn núi vì gã thấy sớm rời khỏi miền đất lành này. Trước hết gã đánh hơi tìm nước và tìm thấy trong chỗ lõm gần ngọn núi. Nước nhỉ thành lớp mỏng dọc theo tảng đá vào đấy. nhiều nhưng nếu gã kiên nhẫn liếm khoảng tiếng cũng đủ cho nhu cầu trong ngày. Gã tìm thấy cả thức ăn. Đó là những con kỳ nhông và rắn khoang mà gã nuốt cả da lẫn xương sau khi bứt đầu. Gã ăn thêm thạch y khô, cỏ và những hạt rêu. Theo tiêu chuẩn bình thường ăn uống kiểu này hoàn toàn thể chấp nhận được nhưng lại chẳng làm gã bực mình tí nào. Mấy tuần rồi, mấy tháng rồi gã đâu có sống nhờ vào thực phẩm làm sẵn của con người như bánh mì, dồi, phomát, mà khi thấy đói gã ăn tất những gì gã gặp và thấy là ăn được. Gã phải là kẻ sành ăn. Gã cũng chẳng cần thưởng thức nếu như thưởng thức cốt phải ở cái mùi thuần tuý vô thể. Gã cũng cần đến tiện nghi và sẵn sàng hài lòng dựng chỗ ở đá trần trụi. Nhưng gã tìm thấy chỗ tốt hơn.

      Gần chỗ lấy nước gã phát ra đường hầm thiên tạo, dẫn sau vào trong núi, qua nhiều khúc quanh hẹp, để sau chừng ba mươi mét tiếp được nữa vì đầy đá lở. Ở đó, nơi cuối đường hầm, chật đến nỗi hai vai gã chạm vào đá và thấp đến nỗi gã chỉ có thể đứng lom khom, nhưng ngồi được và nếu gã cong người có thể nằm được nữa.
      Thế là đáp ứng hoàn toàn cái nhu cầu về tiện nghi của gã. Vì chỗ này có nhiều thuận lợi lường được: cuối đường hầm ngay cả ban ngày cũng tối như mực, tĩnh mịch như bãi tha ma, còn khí ẩm, lạnh và có vị muối. Grenouille ngửi ngay ra là chưa từng có sinh vật nào vào đấy cả. Khi chiếm chỗ này gã có cảm giác rụt rè thành kính. Gã cẩn thận trải cái khăn thô lên nền đá như thể phủ cái bàn thờ rồi nằm lên . Gã thoải mái vô cùng. Gã nằm trong lòng ngọn núi quạnh nhất nước Pháp, năm mươi mét dưới mặt đất, như trong nấm mồ của chính gã vậy. Trong đời gã chưa bao giờ cảm thấy an toàn như thế, kể cả khi nằm trong bụng mẹ. Dẫu ngoài kia thế giới có cháy rụi ở đây gã cũng chẳng hề biết. Gã khóc thầm. Gã biết phải cám ơn ai với bấy nhiêu may mắn.

      Về sau gã chỉ ra ngoài để liếm nước, để giải quyết nhanh cái việc tiêu tiểu, để săn thằn lằn và rắn. Dễ tóm được chúng vào ban đêm vì chúng rúc dưới các phiến đá hay chui vào hang và gã tìm dấu chúng bằng mũi.

      Mấy tuần đầu gã leo lên đỉnh núi thêm vài ba lượt nữa để đánh hơi phía chân trời. Chẳng bao lâu cái việc này trở thành thói quen chán ngắt hơn là cần thiết vì lần nào gã ngửi thấy đe doạ cả. Cho nên cuối cùng gã bỏ cả các chuyến khảo sát và lo trở về phần mộ cho nhanh sau khi làm những việc lặt vặt cần thiết nhất cho sống còn. Bởi vì ở đấy, trong phần mộ, gã mới thực sống. Có nghĩa là gã ngồi hơn hai mươi tiếng trong ngày nơi cuối đường hầm, cái chăn thô, hoàn toàn trong bóng tối, im lặng và tuyệt đối cử động, lưng tựa vào đống đá lở, vai kẹp giữa những tảng đá và đòi hỏi gì hơn.

      Ta biết có những người tìm quạnh như những kẻ sám hối, những người thất chí, những vị thánh hay những nhà tiên tri. Họ thích rút vào sa mạc, sống bằng cào cào và mật ong. Có người chọn hang động hay am những hòn đảo xa xôi, hoặc khác thường hơn, ngồi chồm hổm trong cái cũi treo lơ lửng trong khí. Họ làm như thế để được gần Thượng Đế hơn. Họ sống khổ hạnh qua quạnh, qua đó mà sám hối. Họ làm như thế với niềm tin rằng cuộc sống ấy hợp với ý Thượng Đế. Hay là họ chờ đợi ròng rã nhiều tháng nhiều năm, tin rằng lời rao truyền của Thượng Đế đến với họ trong cảnh độc, để rồi họ vội vã đem rao giảng trong cõi nhân gian.

      Grenouille chẳng có gì giống như thế cả. Gã nghĩ chút xiú nào đến Thượng Đế. Gã sám hối cũng chẳng chờ đợi linh cảm màu nhiệm nào. Gã rút về đây chỉ do thích thú riêng đó là được gần với chính gã. Gã ngụp lặn trong tồn tại gì làm phân tâm được của gã và thấy tuyệt vời. Gã nằm trong cái phần mộ bằng đá như xác chết, thở, tim ngừng đập nhưng lại sống hết sức mãnh liệt và phóng đãng mà chưa kẻ phóng đãng nào ngoài đời từng sống.

      Chương 26

      Nơi diễn ra phóng đãng là cái vương quốc bên trong người gã chứ thể ở đâu khác, ngay từ khi mới lọt lòng gã chôn vào đấy tất cả những đường nét của tất cả mọi mùi mà gã gặp. Để phấn chấn, trước hết gã gọi hồn những mùi đầu tiên nằm xa lắc, xa lơ, cái mùi thù địch ẩm ướt trong phòng ngủ ở nhà Madame Gaillard, cái mùi da khô đét của bà, cái mùi chua như giấm của cha Terrier, mùi mồ hôi ấm tình mẫu tử của chị vú Bussie hớt ha hớt hải, mùi xác chết ở Cimetìere des Innocents, mùi chết chóc của mẹ gã. Gã lặn ngụp trong ghê tởm và thù ghét, tóc dựng đứng vì nỗi khiếp sợ đầy khoái cảm.

      Thỉnh thoảng, khi mà khai vị với những thứ gớm ghiếc này chưa đủ làm cho tức giận gã tạt qua chỗ Grimal, nếm mùi hôi của da sống nhầy nhụa thịt, của nước thuộc da hay gã hình dung đến cái xú khí của sáu trăm nghìn người dân Paris trong cái oi bức ngột thở giữa mùa hè.

      Tức thù ghét bị dồn nén trong người gã bật ra với khoái cảm mãnh liệt tột cùng, đó là ý nghĩa của tập dượt. Như thể cơn giông, gã đè bẹp những cái mùi cả gan lăng mạ cái mùi cao quý của gã. Gã quật chúng tới tấp như mưa đá quật đồng lúa, như cơn bão, gã nghiền nát cái lũ hèn hạ ấy và nhận chìm chúng trong trận đại hồng thuỷ của nước cất để tẩy uế. thịnh nộ của gã chính đáng bao nhiêu báo thù của gã ghê gớm bấy nhiêu. Ôi chao, cái khoảnh khắc ấy mới tuyệt diệu làm sao! Grenouille, cái thằng người bé, run lên vì nôn nao, thân thể gã quằn quại trong hứng thú đầy khoái cảm, oằn người lên làm đầu gã đụng tường đá trần hầm để rồi ngồi xuống từ từ, nằm dài ra, thư giãn và hết sức thoả mãn. là thống khoái, cái màn tiêu diệt như vũ bão mọi thứ mùi kinh tởm kia quả là thống khoái…Gã gần như thích màn này nhất trong những tiết mục của đoàn kịch vĩ đại bên trong người gã, vì cái màn ấy đem lại cảm giác tuyệt vời về mệt mỏi chính đáng chỉ có thể có được sau những hành động dũng cảm, vĩ đại.

      Giờ gã có quyền nghỉ ngơi thời gian với lương tâm thanh thản.
      Gã duỗi người ra, càng được nhiều càng tốt, trong cái hang đá chật chội. Nhưng bên trong người gã, cái tấm nệm được quét sạch của tâm hồn, gã thoải mái duỗi hết cả người, thiu thiu ngủ và để cho những mùi thơm thanh tao chơi giỡn với những mùi của gã, chẳng hạn làn gió đậm đà như được đồng cỏ mùa xuân mang đến, hay ngọn gió tháng năm dịu dàng thổi qua những lá sồi xanh non đầu tiên, hay làn gió biển có vị đắng của hạnh nhân muối. Xế trưa khi gã nhỏm dậy – gọi là xế trưa vì có chiều, xế trưa, chiều hay sáng, có ánh sáng hay bóng tối, cũng có đồng cỏ mùa xuân hay lá sồi xanh…hoàn toàn vật gì cả ở cái vũ trụ bên trong của Grenouille mà chỉ có mùi thơm của vật thôi (Bởi vậy chỉ là facon de parler – cách – khi về cái vũ trụ ấy như thể là cảnh vật, dĩ nhiên là tương ứng thôi, đồng thời là cách khả dĩ duy nhất vì ngôn ngữ của chúng ta diễn tả nổi thế giới của mùi). Vậy là vào xế trưa – gọi thế để ám chỉ thời điểm và trạng thái trong tâm hồn Grenouille – như thông thường ở miền Nam sau giấc ngủ trưa, khi tê liệt của buổi trưa từ từ rút khỏi cảnh vật và sống lại bắt đầu sau khi thoát khỏi chế ngự. Kẻ thù của những mùi thơm tuyệt vời là cái nóng như thiêu đốt biến , bầy ma quỷ bị tiêu diệt. Cảnh vật bên trong phơi trần mềm mại trong cái êm ả khêu gợi của tỉnh giấc, nằm chờ đợi ý muốn của chủ nhân.

      Như , Grenouille nhỏm dậy trong vương quốc của gã, vung tay chân cho tỉnh ngủ. Gã, thằng Grenouille bên trong to lớn, đứng lên sừng sững như người khổng lồ, trông hết sức huy hoàng và vĩ đại, nhìn quanh đầy tự hào và oai vệ, gã đáng được chiêm ngưỡng nhưng tiếc thay chẳng có ai trông thấy gã cả.

      Phải, đây là vương quốc của gã! Cái vương quốc Grenouille có hai! Do gã, Grenouille độc đáo, dựng nên và cai trị, bị tàn phá khi gã muốn, rồi được gã tái lập và mở rộng cùng, được gã dùng thanh kiếm lửa bảo vệ chống mọi quân xâm lược. Ở đây chỉ có ý muốn của gã ngự trị, ý muốn của Grenouille vĩ đại, tuyệt vời, có hai. Bây giờ sau khi những mùi hôi kinh tởm của quá khứ bị quét sạch rồi, gã muốn vương quốc của gã thơm tho. Thế là với những bước chân hùng dũng, gã ngang những thửa đất bỏ hoang, gieo mùi thơm đủ loại, chỗ này thừa thãi, chỗ kia tiện tặn, vung từng nắm hạt giống hay bỏ từng hạt vào nơi được chọn trong những đồn điền mênh mông hay những khoảnh đất nằm kín đáo. Grenouille Vĩ Đại rảo bước đến tận những vùng hẻo lánh nhất của vương quốc và chẳng bao lâu còn góc nào được người làm vườn hối hả ấy gieo hạt của mùi thơm.

      Khi thấy được rồi và cả vương quốc đầy những hạt giống Grenouille thần thánh rồi Grenouille Vĩ Đại cho rơi xuống trận mưa rượu tinh cất nhàng, liên tục, khắp nơi bắt đầu nảy mầm, đâm chồi, nảy lộc làm trái tim rộn rã niềm vui. Rồi đồn điền sum suê lượn sóng và cây ứ nhựa trong những khu vườn nằm khuất. Nụ hoa gần như bật ra khỏi đài hoa.

      Thế là Grenouille Vĩ Đại ra lệnh ngừng mưa. Và mưa tạnh . Rồi gã phái mặt trời dịu dàng, chính là nụ cười của gã, khắp nước; tức hàng triệu đóa hoa rực rỡ nở rộ, từ đầu này đến đầu kia của vương quốc, thành tấm thảm duy nhất đủ màu, đan bởi vô số những bình nước hoa quý giá. Và Grenouille Vĩ Đại thấy hay, rất hay. Và gã thổi gió, là hơi thở của gã, khắp nước. Và những bông hoa được mơn trớn toả hương thơm, vô số những hương thơm ấy trộn thành mùi ngớt thay đổi nhưng trong ngớt thay đổi vẫn hoà vào nhau thành mùi thơm tôn kính toàn vẹn dâng lên cho gã, Grenouille Vĩ Đại, Độc Nhất, Tuyệt Vời, ngự đám mây thơm mùi vàng, phập phồng mũi hít trở lại hơi chính gã thở ra, mùi lễ vật làm gã dễ chịu. Và gã hạ cố ban phúc nhiều lần cho tạo vật của gã để rồi được chúng cám ơn với những tung hô và những mùi thơm tuyệt vời. Trong khi ấy chiều đến, những mùi thơm tiếp tục toả ra hoà vào màu xanh của đêm thành những khúc nhạc càng lúc càng tuyệt diệu. buổi dạ vũ của đủ mọi thứ hương thơm với buổi bắn pháo bông khổng lồ bằng mùi thơm sắp đến ngay rồi.

      Grenouille Vĩ Đại hơi mệt, ngáp và phán “Xem kìa, ta hoàn thành kiệt tác và ta rất hài lòng. Nhưng như mọi thứ toàn hảo, nó bắt đầu làm ta nhàm chán. Ta muốn ra về, vui thú chút trong những ngăn của trái tim ta để chấm dứt ngày nhiều việc”.

      Grenouille Vĩ Đại phán rồi từ đám mây vàng giang đôi cánh rộng, lướt cái đất nước ở trong đêm tối của tâm hồn gã, trở về ngôi nhà trong trái tim, trong khi đám thần dân mùi thơm ở phía dưới vui vẻ nhảy múa, ăn mừng.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 27
      Chao ơi, là thoải mái khi về đến nhà! Quả là mệt vì hai trọng trách: là kẻ báo thù và là người tạo dựng thế giới; sau đó lại để cho chính tạo vật của gã tung hô hàng giờ liền còn gì là nghỉ ngơi nữa. Thậm mệt bởi trách nhiệm tạo dựng thiêng liêng và chủ trì buổi lễ, Grenouille Vĩ Đại thèm có được chút vui riêng.

      Trái tim của gã là lâu đài đỏ thẫm nằm trong sa mạc đầy sỏi đá, khuất sau những đụn cát, bao quanh bởi ốc đảo bùn lầy và bảy lần tường đá. Chỉ có bay mới đến đó được. Nó có nghìn căn phòng, nghìn căn hầm và nghìn phòng khách sang trọng, trong số đó có ghế dài đỏ tía giản dị mà Grenouille nằm nghỉ sau ngày mệt nhọc; lúc này là Grenouille Vĩ Đại nữa mà chỉ là Grenouille trơn thôi hay đơn giản là bạn Jean-Baptiste.

      Trong những phòng của lâu đài đầy kệ từ nền đến trần, chứa tất cả những mùi mà Grenouille sưu tầm trong đời, hàng triệu thứ. Còn những căn hầm chứa những thùng to nước hoa tuyệt nhất trong đời gã. Khi đến tuổi, chúng được hút sang chai, để đầy những hành lang ẩm lạnh dài hàng cây số , sắp theo năm và xuất xứ, nhiều đến nỗi đời người đủ để uống hết.

      Và cuối cùng khi bạn Jean-Baptiste về được đến chez-soi [1] của gã, nằm cái ghế dài đơn giản quen thuộc trong phòng khách đỏ tía, giầy ống – cứ gọi như thế - được tháo ra, vỗ tay gọi những người hầu của gã, những người hầu ảo vì vô ảnh, sờ mó được, nghe thấy được và đặc biệt ngửi thấy được, ra lệnh cho chúng vào phòng tìm trong cái thư viện mùi đồ sộ, quyển này quyển nọ hay xuống hầm lấy thức uống. Lũ hầu ảo hối hả còn bao tử của Grenouille bị thắt lại vì chờ đợi hành hạ. Gã có cảm giác như bợm nhậu ngồi ở quầy rượu bỗng sợ rằng người ta bán cho ly rượu muốn vì lý do nào đó. Phải làm gì nếu thình lình các căn phòng và hầm trống trơn? Phải làm gì nếu rượu vang trong các thùng hư hết cả? Tại sao để gã chờ? Bọn hầu sao chưa tới? Gã cần những thứ ấy ngay, cần gấp, gã bị nghiện rồi, gã chết ngay tại chỗ nếu có được.

      Bình tĩnh nào Jean-Baptiste! Bình tĩnh nào, bạn! Chúng mang đến mà, chúng mang đến những gì thèm khát. Và lũ hầu bay đến ngay. Chúng mang những cái khay vô hình quyển sách mùi, chúng cầm trong bàn tay vô hình đeo gắng trắng những chai quý giá, chúng đặt chai xuống hết sức cẩn thận, rồi cúi chào và biến mất.

      Còn lại mình – có thế chứ! – Jean Baptiste vớ lấy những mùi khao khát, khui chai thứ nhất, rót ly đầy ắp, đưa lên môi uống. Uống hơi hết cái ly mùi ướp lạnh; ngon làm sao! Jean-Baptiste khoan khoái đến nỗi trào nước mắt vì đê mê và rót liền ly thứ hai cũng mùi thơm ấy, mùi thơm năm 1752, hớp được vào mùa xuân, trước lúc rạng đông, Pont Royal, mũi hướng về phía tây, làn gió từ hướng ấy trộn lẫn mùi biển, mùi rừng và ít mùi hắc ín của các tàu hàng neo bên bờ. Đó là mùi kết thúc cái đêm đầu tiên gã lang thang ở Paris mà được Grimal cho phép. Đó là cái mùi tươi mát của ngày đến, của buổi rạng đông đầu tiên gã được biết trong tự do. Lúc ấy cái mùi đó hứa hẹn với gã tự do. Nó báo trước cho gã cuộc đời khác. Đối với Grenouille cái mùi của buổi sớm ấy là mùi của hy vọng. Gã cất giữ nó cẩn thận và mỗi ngày mỗi uống.

      Sau khi cạn ly thứ hai mọi bồn chồn, lo ngại và bất an biến mất hết, gã thấy thanh thản lạ lùng. Gã tựa sát lưng vào những cái gối mềm của ghế dài, mở quyển sách và bắt đầu đọc trong ký ức. Gã đọc về những mùi của thời ấu, những mùi của trường học, đường xá, và những ngóc ngách trong thành phố, của con người. rùng mình dễ chịu len lỏi qua người gã vì những mùi gã gọi về đó toàn là những mùi đáng ghét bị tiêu diệt rồi. Vừa thích thú lại vừa ghê,Grenouille đọc quyển sách về những mùi ghê tởm và khi ghê tởm lấn át thích thú gã gấp sách lại, bỏ qua bên và lấy quyển khác.

      Song song, gã uống ngừng những mùi thơm quý. Sau cái chai mùi thơm hy vọng, gã khui cái chai năm 1744 đựng mùi gỗ ấm phía trước ngôi nhà của Madame Gaillard. Sau chai này, gã uống chai mùi thơm buổi chiều mùa hè, đậm hương và nặng mùi hoa, góp nhặt được bên lề công viên Saint-Germain-des-Prés năm 1753.

      Giờ gã đầy mùi thơm. Tay chân đè nặng gối. Tâm trí gã mờ mịt tuyệt vời. Nhưng gã đâu hết nhậu? tuy mắt gã còn đọc được nữa, quyển sách tuột khỏi tay gã từ lâu rồi, nhưng gã muốn chấm dứt buổi chiều trước khi uống cạn chai chót, chai tuyệt vời nhất: mùi thơm của ở Rue des Marais…

      Gã uống cái mùi ấy đầy thành kính; để được như thế, gã ngồi ngay ngắn ghế dài cho dù khó khăn vì căn phòng đỏ tía lắc lư và quay cuồng quanh gã theo mỗi động tác. Gã ngồi như cậu học trò, hai đầu gối ép sát, hai chân kề nhau, tay trái đặt đùi trái; Grenouille uống trong tư thế ấy mùi thơm quý nhất lấy lên từ trong căn hầm của trái tim gã, ly này đến ly khác, và cứ mãi buồn hơn. Gã biết mình quá chén rồi. Gã biết mình kham nổi bấy nhiêu thứ ngon.Nhưng gã vẫn uống cho đến khi cạn chai, gã xuyên qua cái lối tối om từ đường vào sân. Gã tiến lại chỗ quầng sáng. ngồi cắt những trái mơ. Từ xa vọng lại tiếng nổ của pháo bông và pháo đại…

      Gã đặt ly xuống, ngồi như hóa đá thêm mấy phút nữa vì buồn bã, và vì quá chén cho đến khi cái dư vị cuối cùng biến khỏi lưỡi. Gã trố mắt nhìn trân trối trước mặt. Óc gã chợt trống trơn như những cái chai. Rồi gã ngã dài ghế và ngủ mê man.

      Cùng lúc ấy gã Grenouille bằng xương bằng thịt cũng ngủ chiếc chăn thô. Và giấc ngủ của gã cũng say như gã Grenouille ở trong hồn, vì kỳ công và quá chén của gã này cũng làm gã kia kiệt sức, xét cho cùng hai gã cũng là của con người.

      Tất nhiên khi thức giấc thức trong căn phòng đỏ tía của cái lâu đài đỏ tía sau bảy lần tường, cũng trong cái cảnh vật thơm phức mùa xuân của tâm hồn gã mà nền cứng của ngục đá tối om nơi cuối đường hầm. Gã đói và khát đến muốn ói, ớn lạnh và khốn khổ như tay nghiện rượu sau đêm chè chén. Gã bò ra khỏi đường hầm.

      Ngoài trời là lúc nào đó trong ngày, thường là bắt đầu hay chấm dứt của đêm, nhưng ngay cả lúc nửa đêm ánh sao cũng làm mắt gã nhức như bị kim đâm. Gã thấy khí như đầy bụi, cay sè, cháy phổi, cảnh vật cứng nhắc, gã vấp phải đá. Ngay cả những mùi dịu nhất cũng thành gắt và cay đối với cái mũi gã xa lạ với thế giới. Grenouille, con bọ chét, trở thành con cua rất dễ bị thương khi nó rời khỏi cái vỏ sò ở nhờ, trần trụi rong chơi trong biển.

      Gã đến chỗ lấy nước, liếm cái chất ẩm vách đá , hai giờ liền, chẳng khác gì bị tra tấn vì quá lâu mà suốt thời gian ấy cái thế giới có như đốt cháy da gã. Gã lột vài mảng rêu đá, cố nuốt, ngồi xổm vừa nuốt vừa ị, nhanh, nhanh, mọi chuyện phải nhanh. Rồi chẳng khác con thú , thịt mềm bị lũ diều hâu bay lượn săn đuổi, gã chạy thục mạng về lại hang, tới tận cuối đường hầm, chỗ trải cái chăn thô. Ở đấy gã mới cảm thấy an toàn.

      Gã tựa lưng vào đống đá lở, duỗi chân chờ đợi. Bây giờ gã phải giữ cơ thể được yên, cho yên, như cái thùng di chuyển quá nhiều có thể bị trào ra. Dần dà gã lấy lại được hơi thở. Trái tim loạn xạ đập chậm trở lại, những đợt sóng bên trong vỗ yếu dần. Chợt nỗi đơn đè lên hồn gã như tấm gương đen. Gã nhắm nghiền mắt. Những cánh cửa bí mật bên trong người gã mở ra, gã bước vào. Buổi trình diễn của gánh kịch bên trong tâm hồn Grenouille bắt đầu.

      Chú thích:

      [1] Nhà riêng

      Chương 28

      Cứ như thế ngày nối ngày, tuần nối tuần, tháng nối tháng. Bảy năm dài như thế.

      Lúc ấy ở ngoài đời có chiến tranh, thế chiến nữa cơ. Đánh nhau ở Schlesien và Sachsen, ở Hanover và ở Bỉ, ở Boehmen và ở Pommern. Lính của Đức Vua bị chết ở Hessen và ở Westfalen, chết quần đảo Balearen, chết ở Ấn độ, ở Mississipi và ở Canada nếu như họ chưa bị chết đường viễn chinh vì bị thương hàn.
      Cuộc chiến làm cho triệu người chết, vua Pháp mất thuộc địa mênh mông và các nước tham chiến chịu biết bao tổn phí đến nỗi cuối cùng họ miễn cưỡng quyết định chấm dứt chiến tranh.

      Vào mùa đông của những năm này tí nữa Grenouille bị chết cóng mà biết. Gã nằm năm ngày liền trong căn phòng khách đỏ tía, khi thức giấc trong hang gã cựa nổi vì lạnh. Gã định nhắm mắt ngủ tiếp cho chết luôn. Nhưng thời tiết chợt thay đổi làm rã băng và gã thoát chết.

      Có lần tuyết dầy tới nỗi gã đủ sức để bới tìm thạch y. Thế là gã phải ăn toàn dơi chết cứng vì đông lạnh.

      Có lần con quạ chết trước cửa hang, gã ăn luôn. Đó là tất cả những kiện mà gã ghi nhận được từ thế giới bên ngoài trong suốt bảy năm. Kỳ dư gã chỉ sống trong trái núi của gã, trong cái vương quốc tự tạo của hồn gã. Và gã ở đó cho đến chết (vì gã chẳng thấy thiếu thốn gì) nếu như tai hoạ xảy ra, lùa gã khỏi ngọn núi và khạc gã trở lại với thế giới.

      Chương 29
      Cái tai họa nọ phải là động đất, cháy rừng, núi lở hay đường hầm sụt. Nó phải là cái tai hoạ từ ngoại cảnh mà là từ bên trong nên hết sức chua xót vì nó chặn mất cái lối thoát thân mà Grenouille ưng nhất. Nó xảy ra trong giấc ngủ. Trong giấc mơ đúng hơn. Trong giấc mơ, khi gã ngủ trong trái tim tưởng tượng của gã càng chính xác hơn nữa.

      Lúc ấy gã nằm ngủ chiếc ghế dài trong phòng khách đỏ tía. Quanh gã là những chai cạn. Gã uống nhiều lắm rồi, sau cùng lại làm những hai chai mùi thơm tóc đỏ. Có lẽ như thế là quá nhiều vì lần này dẫu ngủ say như chết gã vẫn mơ thấy những giấc mơ lằng nhằng quái đản. Cái mớ lằng nhằng này ràng là những mảnh của mùi. Mới đầu chúng kéo ngang mũi Grenouille như sợi chỉ mỏng manh, rồi phình ra như mây vậy. Lúc ấy gã như thể đứng giữa cánh đồng hoang có sương mù bốc lên. Sương mù mỗi lúc mỗi dâng cao. Chẳng bao lâu Grenouille bị bao phủ hoàn toàn bằng sương mù, đẫm sương mù và trong làn sương mù ấy chút khí nào, để khỏi chết ngạt, gã phải hít sương mù ấy. Mà sương mù là mùi, như . Và Grenouille biết đó là mùi gì. Sương mù chính là mùi gã. Mũi của gã, của Grenouille, là sương mù.

      Mặc dù Grenouille biết đó là mùi của gã nhưng gã lại ngửi ra nổi, thế mới kinh hoàng. Dù chết đuối trong cái mùi ấy gã cũng thể nào ngửi ra nổi.

      Khi thấy điều đó, gã gào lên khủng khiếp như thể bị thiêu sống. Tiếng gào phá toang tường căn phòng khách đỏ tía, phá tan cả những lớp tường của toà lâu đài, vọt ra khỏi trái tim, băng qua những đường hào, những đầm lầy, những sa mạc, phóng ào ào như cơn bão lửa trong cảnh vật ban đêm của tâm hồn gã; tiếng gào vang ra từ miệng gã, xuyên suốt đường hầm ngoằn ngoèo tới tận thế giới bên ngoài, vượt cả cao nguyên Saint-Flour như thể chính ngọn núi kêu gào vậy. Grenouille thức giấc bởi tiếng gào của chính gã. Gã đạp lung tung như để xua đám sương mù thể ngửi ra mùi muốn làm gã chết ngộp ấy. Gã sợ gần chết, người run lập cập vì khiếp đảm. Nếu tiếng gào xé toang màn sương chết đuối trong chính gã rồi, cái chết khủng khiếp. Nghĩ đến mà toát mồ hôi. Trong lúc ngồi run, thử gom lại những ý nghĩ sợ hãi tản mạn gã chắc chắn điều: gã phải thay đổi cuộc sống, chỉ vì gã muốn sống lại giấc mơ kinh hoàng như thế lần thứ hai. Lần thứ hai chắc chắn gã sống sót.

      Gã vắt cái chăn thô lên vai rồi bò ra ngoài.
      Ngoài kia buổi sáng, sáng cuối tháng hai. Có mặt trời. Đất có mùi đá ướt, rêu và nước. Gió thoảng mùi thơm của thu mẫu đơn. Gã ngồi xổm đá trước cửa hang, sưởi nắng. Gã hít làn khí trong lành. Gã vẫn còn rùng mình khi nghĩ đến làn sương mù mà gã chạy thoát và khi thấy ấm ở lưng gã lại rùng mình vì sảng khoái. May mà cái thế giới bên ngoài vẫn còn, dẫu chỉ để dùng làm nơi chạy trốn. biết phải hình dung kinh hoàng như thế nào nếu gã còn thấy thế giới ở cuối đường hầm? ánh sáng, mùi, gì cả, chỉ có cái màn sương kinh khủng ấy ở trong, ở ngoài, cùng khắp…

      Gã bớt choáng dần. sợ hãi cũng từ từ nới lỏng cái siết và Grenouille cảm thấy an toàn hơn. Tới gần trưa gã thản nhiên trở lại. Gã đưa ngón tay trỏ và giữa lên mũi rồi hít hơi qua kẽ ngón tay. Gã ngửi ra khí của mùa xuân ẩm và đậm đà của thu mẫu đơn. Còn chẳng ngửi thấy gì từ ngón tay cả. Gã lật tay, ngửi lòng bàn tay. Gã cảm thấy bàn tay ấm nhưng ngửi thấy gì hết. Gã xắn cái tay áo rách buơm lên, gí mũi vào khuỷu tay. Gã biết chỗ này ai cũng có mùi riêng cả. Thế mà gã vẫn ngửi thấy gì, nách , chân cũng mà ở bộ phận sinh dục – gã phải gắng hết sức cúi người xuống – cũng nốt. lố bịch! Gã, Grenouille này, có thể đánh hơi bất kỳ ai ở cách hàng dặm lại thể ngửi thấy mùi gì ở bộ phận sinh dục của mình chỉ cách gang tay! Tuy vậy gã hoảng hốt mà bình tĩnh suy nghĩ rồi tự nhủ như sau: phải ta có mùi vì mọi vật đều có mùi. Ta ngửi ra được ta có mùi chẳng qua vì ta ngửi mùi ấy ngày này qua ngày khác từ lúc mới sinh nên mũi của ta quá quen đến nỗi cảm nhận ra cái mùi ấy đấy thôi. Nếu tách được cái mùi của ta, hay chỉ phần thôi, khỏi cơ thể sau thời gian thói quen hẳn ta ngửi ra được cái mùi ấy, nghĩa là ngửi ra chính ta.

      Gã để chăn xuống rồi cởi quần áo – những mảnh, những giẻ rách – nghĩa là những gì còn sót lại của quần áo suốt bảy năm gã chưa hề cởi. Chắc chắn chúng phải đẫm mùi của gã chứ. Gã quẳng chúng thành đống trước cửa hang rồi bỏ quãng xa. Rồi gã lại leo lên đỉnh núi, lần thứ nhất sau bảy năm, gã đứng lại đúng cái chỗ đứng lần mới tới, hướng mũi về phía tây, để mặc cho gió rít qua cái thân thể trần truồng. Ý định của gã là để cho bay hết mùi rồi hứng đầy gió tây có mùi của biển và những đồng cỏ ẩm ướt để át hẳn mùi gã, như thế tạo ra chênh lệch về mùi giữa gã, Grenouille, với cái đống quần áo, và như thế gã hoàn toàn có khả năng nhận biết rệt. Để cho mùi gã ít vào mũi nhất, gã khom người tới trước, hết sức vươn cổ về phía ngược gió, và duỗi tay ra đàng sau. Trông gã giống như vận động viên bơi lội sắp nhảy xuống nước.

      Gã đứng liền mấy tiếng trong cái tư thế hết sức dị hợm; nắng tuy yếu nhưng cũng đủ làm cho da gã vốn trắng bợt như dòi vì thiếu ánh sáng trở nên đỏ như tôm luộc. Xẩm tối gã xuống lại hang. Gã trông thấy đống quần áo ngay từ xa , còn cách mấy mét gã bịt chặt mũi và chỉ bỏ ra khi gã gí sát mũi vào đấy. Gã làm cách ngửi thử như học được của Baldini, hít nhanh vào rồi thở ra từ từ. Để bắt được mùi, gã khum hai bàn tay lại như cái chuông đống quần áo còn cái mũi là núm chuông. Gã làm đủ cách để ngửi cho ra mùi gã từ đống quần áo. Nhưng có mùi ấy. Dứt khoát có. Có cả nghìn mùi khác ở đấy: mùi đá, cát, rêu, nhựa cây, máu quạ, thậm chí mùi dồi gã mua gần Sully mấy năm về trước vẫn còn rành rành. Quần áo này mang thứ nhật ký về mùi của bảy tám năm qua. Chỉ riêng mùi gã, kẻ mang chúng suốt hề đứt quãng những năm ấy, lại có.

      Giờ gã hơi lo. Mặt trời lặn. Gã đứng tồng ngồng trước cửa hầm, nơi gã sống bảy năm dài ở cái đầu tối tăm kia. Gió lạnh và gã cóng người nhưng gã nhận thấy mình cóng bởi trong người gã có cái lạnh đối chọi, đó là sợ hãi. Nó phải sợ hãi gã có trong mơ, cái sợ chết – ngạt – bởi – chính – mình quái đản phải tống khứ cho bằng được và gã thoát. Nỗi sợ mà gã cảm thấy lúc này là về chính mình. Nó ngược hẳn với nỗi sợ kia. Gã chạy thoát nổi nó, mà phải đương đầu. Gã phải biết chắc chắn gã có mùi hay cho dù kinh hoàng đến đâu nữa. Phải biết ngay. Tức khắc.

      Gã trở vào trong hầm. Chỉ sau vài mét, bóng tối bao trùm gã nhưng gã vẫn như trong ánh sáng ban ngày. Gã đoạn đường này mấy nghìn lần, từng nấc và từng chỗ quanh, ngửi ra từng cây đá lòng thòng như mũi hay từng mỏm đá nhất nhô ra. Tìm đường khó. Chống chọi lại với những hồi tưởng về giấc mơ khiếp sợ bóng tối mói khó, chúng cứ mãi dâng lên như đợt sóng triều theo từng bước gã . Nhưng gã can đảm lắm. Có nghĩa là gã lấy cái sợ chưa biết để đối chọi với cái sợ biết và gã thành công vì gã biết có chọn lựa nào khác. Khi đến được cuối đường hầm rồi, nơi mà chỗ đá lở dốc lên, hai nỗi sợ biến mất cả. Gã thấy bình thản, đầu óc tỉnh táo còn mũi như cái dao mổ được mài sắc. Gã ngồi xổm, bịt mắt, ngửi. Nơi đây, trong cái mộ bằng đá xa hẳn thế giới này, gã nằm suốt bảy năm. Còn đâu nữa thế giới này có mùi gã nếu phải là ở đây! Gã thở từ từ. Gã kiểm nghiệm kỹ. Gã vội vàng phán đoán. Gã ngồi chồm hổm mười lăm phút. Gã có trí nhớ nhầm lẫn nên biết rất bảy năm về trước chỗ này có mùi gì: mùi tinh khiết của đá, lạnh, ẩm và muối vì chưa có sinh vật nào, dù người hay thú, từng vào đấy…Nhưng mùi lúc này y hệt trước kia.

      Gã còn ngồi xổm thêm lát nữa, rất bình tĩnh, chỉ hơi gục gặc đầu. Đoạn ra, mới đầu còn lom khom rồi thẳng người khi đường hầm đủ cao.

      Ra tới ngoài gã khoác lại mớ giẻ rách (giầy gã hư từ mấy năm trước), vắt chăn thô lên vai rồi ngay đêm ấy rời khỏi Plomb du Cantal về miền nam.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :