1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mùi Hương - Patrick Suskind

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      [​IMG]

      Mùi Hương

      Công ty phát hành Nhã Nam

      Nhà xuất bản NXB Văn Học

      Dịch giả Lê Chu Cầu

      Số trang 348

      Ngày xuất bản 09/2007


      Giới thiệu sách
      điều kì lạ là tất cả những ai ruồng bỏ Jean đều phải chết. Jean có hình dáng kỳ dị, và tâm hồn cũng bệnh hoạn. Mọi người ghẻ lạnh, khinh miệt Jean. từng phải sống trong độc và đói rét. Nhưng biệt tài giúp cho tìm con đường sống. có khả năng khứu giác đặc biệt. có thể nhận biết, phân biệt và hơn thế, ghi nhớ các mùi hương. Nhờ vào đó, trở thành thiên tài trong giới sản xuất nước hoa Pháp.Với đầu óc dị hợm, mơ ước tạo ra được hương thơm độc đáo cho riêng mình, loại nước hoa gợi cảm vô song. Và để thoả mãn dục vọng đó, săn đuổi mùi hương từ hai mươi lăm trinh nữ…

      Mùi Hương là tiểu thuyết đầu tay của Patrick Suskind. Thế nhưng trong 9 năm liền, cuốn sách "kì dị" này đều nằm ở trong danh sách những sách bán chạy nhất chỉ ở Đức và được dịch ra 46 thứ tiếng, ấn hành 15 triệu bản.

      Được xuất bản tại Việt Nam vào năm 2007, "Mùi Hương" được tái bản nhiều lần và nay tiếp tục nhanh chóng bán hết tại các hiệu sách ở cả 2 khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. 2Sao liên lạc với đại diện công ty cổ phần sách Nhã Nam và được công ty cho biết lên kế hoạch tái bản cuốn sách hấp dẫn này.

      Cuốn sách được dựng thành phim điện ảnh "Perfume: The Story of a Murderer" ra mắt năm 2006.

      Tác giả

      Patrick Süskind sanh ngày 26 tháng 3 năm 1949 ở Ambach "Bavière" gần Munich

      Ông từng học ở Munich ( Đức ) và Aix en Provence ( Pháp ) , ngành về văn chương và lịch sử thời Trung cổ và thời cận đại, ngoài ra ông còn tập và viết truyện phim cho đài vô tuyến truyền hình.

      Le Parfum " Das Farfum " là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông được xuất bản năm 1984 đưa tên tuổi ông nổi khắp Âu Châu.

      Ông chuyên về phim , kịch hay làm dạo diễn cho những nghệ sĩ.

      Nổi tiếng nhất là vỡ kịch " La Contrebasse " trình diễn tại Munich lần đầu tiên năm 1981, và đuợc quảng cáo và nổi tiếng năm 1984.

      Vỡ kịch này được trình diễn nhiều lần được sản xuất ở Đức, và đưọc trình diễn tại Paris với nghệ sĩ Jacques Villeter trong vai của những vỡ kịch của ông.

      Le Fafum " Das Farfum "là cuốn tiểu thuết đầu tiên của ông, được xuất bản năm 1985 dưới cái tựa " Das Farfum " Die Geschichte eines Mörders , được dịch ra tiếng Pháp bởi dịch giả F.B. Lortholary en 1986 sau đó được sửa lại bởi Fayard và sau đó được dựng lên thành phim với tựa bằng tiếng Pháp năm 2006 La parfum, histoire d un meutrier.​

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Phần I Chương 1

      Vào thế kỷ 18, ở nước Pháp có gã thuộc loại thiên tài nhưng cũng đáng ghê tởm nhất của thời đại hiếm những nhân vật thiên tài và đầy kinh tởm. Cuộc đời gã được thuật lại ở đây. Gã tên là Jean-Baptiste Grenouille, nếu mà tên tuổi của gã nay bị rơi vào lãng quên, chứ như những tên tuổi thiên tài kinh tởm khác kiểu De Sade, Saint Just, Fouché, Bonapartre v…v…, nhất định phải vì Grenouille kém những kẻ đồi bại nổi tiếng ở ở tính kiêu ngạo, coi rẻ con người, vô đạo đức, gọn là bất kể Thượng Đế, mà chỉ bởi thiên tài và khát vọng duy nhất của gã giới hạn trong lãnh vực để lại dấu vết nào trong lịch sử cả: đó là vương quốc phù du của hương thơm.

      Vào cái thời mà chúng ta tới ấy các thành phố bị bao phủ bởi thứ mùi hôi mà con người văn minh ngày nay thể hình dung nổi. Đường xá hôi mùi phân, sân sau hôi mùi nước tiểu, cầu thang hôi mùi gỗ mủn và phân chuột, bếp hôi mùi bắp cải thối và mỡ cừu, những căn phòng đọng khí hôi mùi bụi lưu cữu, buồng ngủ hôi mùi khăn giường nhơn nhớt, mùi nệm nhồi lông ẩm ướt và mùi ngọt hăng của bô nước tiểu. Ống khói hôi mùi lưu huỳnh, lò thuộc da hôi mùi dung dịch kiềm, lò mổ hôi mùi máu đông. Người hôi mùi mồ hôi và áo quần lâu giặt, miệng hôi mùi răng sâu, từ bao tử toả ra mùi hành và khi cơ thể còn trẻ trung nữa hôi mùi pho mát oi, mùi sữa chua và mùi ung nhọt. Sông hôi, quảng trường hôi, nhà thờ hôi, gầm cầu hôi mà cung điện cũng hôi. Người nông dân cũng hôi như vị linh mục, gã học việc cũng hôi nhưy vợ người thợ cả, toàn giới quý tộc hôi, phải, ngay cả đức vua cũng hôi như con thú dữ, còn hoàng hậu hôi như con dê già, mùa hè cũng như mùa đông. Bởi vì vào thế kỷ 18 những hoạt động phân huỷ của vi khuẩn gặp cản trở nào, cho nên có hoạt động nào của con người, dù là xây dựng hay huỷ hoại, biểu lộ nào của mầm sống hay tàn lụi lại kèm với mùi hôi.

      Tất nhiên Paris hôi nhất vì Paris là thành phố lớn nhất nước Pháp. Tại Paris lại có nơi đặc biệt hôi khủng khiếp, nằm giữa Rue aux Fers và Rue de la Ferronnerie, đó là Cimetère des Innocents[1] Suốt tám trăm năm người ta mang đến đây những người chết từ nhà thương Hôtel Dieu [2] và từ các họ đạo chung quanh; suốt tám trăm năm, ngày ngày xác của hàng tá người được chở đến bằng xe kéo, đổ xuống những mương dài, suốt tám trăm năm xương chồng lên thành lớp trong những nhà mồ ấy.
      Chỉ sau này, ngay trước Cách mạng Pháp, sau khi vài cái mương ấy sụp và mùi hôi của cái nghĩa trang chật ních ấy buộc cư dân quanh vùng chỉ phản đối suông mà còn nổi loạn nghĩa trang ấy mới bị đóng cửa và giải toả. Cả triệu xương và sọ được đào lên, đem về hầm mộ ở Montmartre. bãi đất đó người ta xây lên cái chợ bán thực phẩm.

      Chính nơi đây, cái nơi hôi thối nhất toàn vương quốc, Jean Baptiste Grenouille ra đời ngày 17 tháng Tám năm 1738. Đó là ngày nóng bức nhất trong năm. Hơi nóng trùm lên nghĩa trang như chì, dồn cái mùi của dưa tây thối lẫn mùi hôi như của sừng súc vật bị đốt sang các khu lân cận. Khi trở dạ, mẹ của Grenouille đánh vẩy cá tại sạp Rue aux Fers chỗ cá mà chị ta moi ruột. Những con cá chị ta khoe rằng vừa mới bắt được từ sông Seine hồi sáng hôi hơn cả mùi xác chết. Mẹ của Grenouille chẳng ngửi được mùi cá lẫn mùi xác chết vì mũi chị ta mất cảm giác với mùi hôi, hơn nữa bụng đau đến tê liệt cả mọi cảm giác. Chị ta chỉ muốn hết đau, muốn xong cho lẹ cái việc sinh nở gớm ghiếc.Đây là lần thứ năm chị ta sinh nở.Mấy lần trước cũng đều ở cái sạp cá này. Toàn là chết hoặc ngắc ngoải cả vì cái khối thịt nhớp nháp máu ấy khác đống ruột cá nằm kia bao nhiêu và cũng chẳng sống thêm được mấy vì chiều đến tất cả bị hót , kéo sang nghĩa trang hoặc tống xuống sông. Hôm nay cũng thế thôi. Mẹ của Grenouille còn trẻ, mới chừng hai lăm, xinh xắn, còn khá nhiều răng trong miệng và tóc đầu, ngoài bệnh thống phong và giang mai, cũng như lao chị ta mắc bệnh nặng nào khác; chị ta còn hy vọng sống lâu thêm năm hoặc mười năm, và biết đâu chẳng lập gia đình thành bà vợ đàng hoàng của thợ thủ công góa vợ hoặc đại loại như thế rồi có con theo đúng nghĩa…Mẹ của Grenouille ước chi mọi xong cho lẹ. Đến lúc phải rặn, chị ta ngôi xổm dưới bàn làm cá, đẻ ở đấy như bốn lần trước và cắt rốn cái sinh vật mới đẻ bằng con dao làm cá. Rồi vì cái nóng và vì mùi hôi, ra chị ta chẳng ngửi thấy gì cả mà chỉ cảm thấy cái gì đấy khó chịu, làm hôn mê như ở cánh đồng hoa huệ tây hay ở trong căn phòng hẹp có quá nhiều hoa thuỷ tiên, chị ta ngất , ngã vật sang bên, tuột từ gầm bàn xuống đường, nằm lăn ra đó, tay còn nắm con dao.

      Thiên hạ nhốn nháo, la hét, bu lại, người ngó lom lom, người gọi cảnh sát. Người đàn bà với con dao tay vẫn nằm đường nhưng tỉnh dần.

      “Chuyện gì xảy đến với chị ta vậy?”

      “Chẳng có gì cả”.

      “Chị ta làm gì với con dao?”

      “Chẳng thấy làm gì hết”.

      “Máu váy chị ta ở đâu ra vậy?”

      “Máu cá đấy mà”.

      Chị ta đứng dậy, quẳng con dao rồi bỏ rửa ráy.

      Thình lình, đứa trẻ sơ sinh dưới gầm bàn ré lên. Người ta tìm quanh và thấy đứa đầy ruồi bu nằm lẫn trong đám lầy nhầy ruột và đầu cá, bèn lôi nó ra. Đứa bé được giao cho người vú còn bà mẹ bị bắt giữ. Bởi vì chị ta thú nhận và khai là cũng để nó chết như bốn lần trước, chị ta bị kết án về tội nhiều lần giết trẻ sơ sinh và ít tuần sau bị chặt đầu tại Place de Grève.

      Cho tới lúc này đứa trẻ đổi vú nuôi ba lần. bà nào chịu giữ quá vài ngày. Nó háu ăn quá, bú bằng hai trẻ thường, lấy hết phần sữa của trẻ khác làm bà vú mất phương tiện mưu sinh vì nếu chỉ nuôi có đứa đủ sống. Viên sĩ quan cảnh sát, ông La Fosse nào đấy, nản quá nên định đem cho nó đến nơi tạm cư giữ trẻ mồ côi và vô thừa nhận ở tận Rue Saint-Antoine, từ đây ngày ngày chúng được chở đến trại mồ côi của nhà nước ở Rouen. Chúng được phu khuân vác thồ trong giỏ, để tiết kiệm, trong mỗi giỏ nhét tới bốn đứa, vì thế mà số bị chết đường hết sức cao, vì lý do đó, phu khuân vác buộc chỉ được chở những đứa bé được rửa tội và những đứa có phiếu chuyên chở hợp lệ, giấy này phải được đóng dấu nhận ở Rouen. Vì thằng Grenouille chưa được rửa tội và cũng chưa có tên để ghi trong phiếu chuyên chở như quy định, hơn nữa vì cảnh sát quen bỏ đứa bé trước cổng nơi tạm cư cách lén lút, dù đó là cách duy nhất gỡ được bao nhiêu thứ giấy tờ… do loạt những trở ngại về thủ tục hẳn xảy ra khi tống nó , ngoài ra vì cấp bách, viên sĩ quan cảnh sát Le Fosse rút lại quyết định ban đầu và ra chỉ thị giao thằng cho bất kỳ tổ chức nào đó của nhà thờ, lấy giấy biên nhận, để người ta rửa tội cho nó và quyết định số phận của nó. Người ta trao nó cho tu viện Saint-Merri ở Rue Saint-Martin, Nó được rửa tội và đặt tên Jean-Baptiste. Và vì hôm ấy cha bề vui vẻ và trong quỹ còn khá tiền nên đứa bị gởi Rouen mà được tu viện đài thọ nuôi. Vì thế nó được giao cho chị vú Jeanne Bussie ở Rue Saint-Denis, tạm thời với ba quan tiền công mỗi tuần.

      Chú thích :

      [1] Nghĩa trang dành cho người nghèo

      Chương 2
      Ít tuần sau chị vú Jeanne Bussie, tay xách giỏ, đứng trước cổng tu viện và với cha Terrier ra mở cổng – cha đầu hói, chừng năm mươi tuổi và thoang thoảng mùi dấm – “Đây!” rồi đặt giỏ xuống ngưỡng cửa.

      “Cái gì vậy?” cha Terrier hỏi và cúi xuống giỏ ngửi vì nghĩ trong ấy có gì ăn được.

      “Thằng lộn giống của cái mụ giết con ở Rue aux Fers!”

      Ông cha khều ngón tay trong giỏ và ló ra mặt đứa bé ngủ.

      “Trông mạnh hè. Hồng hào và bụ bẫm ghê”.

      “Vì nó bú hết sữa của tôi đấy. Bú kiệt đến tận xương. Dẹp. Bây gjờ các người tự nuôi nó với sữa dê, bột, nước củ cải. Cái gì nó cũng ngốn cả. Đồ lộn giống!”

      Cha Terrier là người vô tư. Ông phụ trách quỹ từ thiện của tu viện, phát chẩn cho người nghèo túng. Và ông chờ đợi người ta cám ơn chứ đừng quấy rầy tiếp. Ông ưa những chi tiết vì chi tiết luôn luôn có nghĩa là rắc rối mà rắc rối có nghĩa là xáo trộn vô tư của ông và ông chịu được. Ông bực mình vì ra mở cổng. Ông muốn cái con mụ này xách giỏ lên , về nhà với ba cái chuyện bú mớm của mụ và để cho ông được yên. Ông từ từ đứng dậy, hít sâu mùi thơm của sữa và mùi len ngầy ngậy toả ra từ chị vú. mùi dễ chịu.

      “Tôi hiểu chị muốn gì. Tôi hiểu chị gì. Tôi chỉ có thể hình dung rằng hại gì cho thằng bé nếu nó còn được chị ôm ấp ít lâu nữa”.

      “Nó ”, chị vú gắt “nhưng mà tôi! Tôi sụt mất năm ký dù rằng ăn gấp ba. Để được gì cơ chứ? Được ba quan tuần!”

      “À, ra thế” cha Terrier người chút “Tôi hiểu rồi, lại vì tiền”.

      ” chị vú đáp.

      “Lại còn nữa. Lúc nào cũng chỉ vì tiền mà thôi. Người ta gõ cổng nơi này chỉ vì tiền. Tôi mong có được lần ra mở cổng gặp người đến vì chuyện khác. Chẳng hạn người mang đến chút quan tâm dưới dạng trái cây hay vài trái hồ đào. Mùa thu có thể mang đến lắm chứ. Hoa chẳng hạn. Hoặc người đến chỉ để vui vẻ “Lạy Chúa phù hộ, cha Terrier, chúc cha khoẻ!” Nhưng chắc chẳng bao giờ tôi được gặp thế. phải gã ăn xin cũng tay lái buôn, nếu phải lái buôn tay thợ thủ công, nếu xin bố thí thế nào cũng xì ra giấy đòi tiền. Tôi dám ra đường nữa. Tôi mà ra chưa được ba bước bị bọn người cần tiền bu quanh”.

      “Tôi đòi tiền” chị vú .

      “Nhưng tôi cho chị biết, chị phải là người vú duy nhất trong họ đạo. Có cả trăm bà vú hạng nhất sẵn sàng vì ba quan tuần giành nhau cho thằng bé dễ thương này bú hoặc đổ bột, nước cốt hay thứ thực phẩm nào đó…”

      cha cứ giao nó cho người trong bọn họ”.

      “…Mặt khác, đẩy đứa bé cho người khác là nên. Ai mà biết nó có hợp với sữa người khác như với sữa chị hay .
      Chị phải hiểu rằng nó quen hơi với chị và nhịp tim của chị”.

      Rồi lần nữa ông hít sâu cái hơi ấm tuôn ra từ người chị vú và tiếp, sau khi nhận thấy những điều vừa có tác dụng gì.

      “Mang đứa bé về ! Tôi thưa với cha bề . Tôi đề nghị với Bề rồi đây trả chị bốn quan tuần”.

      !” chị vú khăng khăng.

      “Thôi được: năm!”

      ”.

      “Thế chị muốn bao nhiêu?” cha Terrier quát “Năm quan là khối tiền cho cái việc vặt là nuôi đứa !”

      “Tôi chẳng cần gì đến tiền” chị vú “Tôi chỉ muốn cái quân lộn giống này xéo khỏi nhà tôi”.

      “Nhưng vì sao mới được chứ, cái nhà chị này?” Cha Terrier và chọc ngón tay vào cái giỏ “Nó đứa hết sức dễ thương. Hồng hào, khóc, ngủ ngon và được rửa tội.”

      “Nó bị quỷ ám.”

      Cha Terrier vội vàng rút tay ra khỏi giỏ.

      “Vô lý! Tuyệt đối thể có chuyện đứa còn bú bị quỷ ám. Trẻ sơ sinh chưa phải là người, mới chỉ là dạng tiền con người và chưa có linh hồn trọn vẹn. Do đó quỷ đâu có thèm. Nó được chưa? Nó co giật chăng? Nó di chuyển đồ đạc trong phòng chăng? Hay là nó hôi kinh khiếp?”

      “Nó chẳng có mùi gì cả” chị vú đáp.

      “Thấy chưa, đó là dấu hiệu ràng. Nếu bị quỷ ám nó phải bốc mùi hôi”.

      Và để trấn an chị vú cũng như để tỏ lòng can đảm, cha Terrier nhấc cái giỏ lên sát mũi.

      “Tôi chẳng ngửi thấy gì khác thường cả” ông sau khi đánh hơi lúc “Đúng là chẳng có gì khác thường. Ấy, hình như có mùi từ tã.” Ông và chìa cái giỏ về phía chị vú để chờ xác nhận.

      “Ý tôi phải như thế.” Chị vú gắt, đẩy cái giỏ ra. “Tôi đâu có muốn về cái thứ trong tã. Tất nhiên là phân nó có mùi chứ. Chính nó, chính cái thằng lộn giống cơ, mới có mùi.”

      “Vì nó khoẻ mạnh,” cha Terrier to tiếng “chính vì nó khoẻ nên mới có mùi. Chi lũ trẻ đau yếu mới có mùi. Điều này ai cũng biết. Ai cũng biết đứa bị đậu mùa có mùi phân ngựa, đứa bị tinh hồng nhiệt có mùi táo thối, đứa bị lao có mùi hành. Đứa này khoẻ mạnh, chỉ có thế. Chả lẽ nó phải hôi à? Thế lũ con của chị có hôi ?”

      .” Chị vú đáp “Lũ con tôi có mùi như những đứa con khác của người bình thường.”

      Cha Terrier cẩn thận đặt cái giỏ xuống đất vì ông thấy cơn giận dữ của cái mụ ngoan cố này trào lên. Biết đâu ông lại chẳng phải dùng hai tay để làm điệu bộ khi tiếp tục cuộc tranh luận và đứa bé bị vạ lây. Nhưng tạm thời ông vắt tay ra sau lưng, hướng cái bụng lép kẹp về phía chị vú rồi hỏi gặng “Chị dám bảo rằng biết đứa bé con của người, tôi nhắc lại, cũng đồng thời là con của Chúa khi nó được rửa tội, có mùi như thế nào à?”

      “Đúng thế” chị vú đáp.

      “Chị còn khăng khăng rằng nếu đứa có mùi giống như chị nghĩ – chị, vú nuôi Jeanne Bussie ở Rue Saint-Denis! – nó là con nuôi của quỷ?”

      Ông kéo tay trái ra khỏi lưng rồi giơ ngón tay trỏ khum khum như dấu hỏi trước mặt chị vú, răn đe. Chị vú suy nghĩ. là xui vì cuộc chuyện bỗng dưng biến thành buổi cật vấn về thần học, mà chị hẳn chỉ có thua thôi.

      “Tôi đâu muốn vậy” chị tránh né. “Vụ này có dính đến quỷ hay tự cha xét lấy, cha Terrier ạ, chứ tôi đâu có nhiệm vụ ấy. Tôi chỉ biết có điều thôi, tôi rợn người trước thằng bé này vì nó có mùi như những trẻ con khác.”

      “À há” cha Terrier hài lòng và lại vắt tay ra sau lưng. “Cái vụ quỷ kia coi như xong. Thế là tốt. Nhưng mà chị vui lòng cho tôi biết, đứa bé sơ sinh có mùi gì khi nó phải có cái mùi giống như chị nghĩ? Thế nào?”

      “Nó thơm” chị vú đáp.

      “Thế nào là thơm?” Cha Terrier to tiếng “Thiếu gì thứ thơm. Bó hoa oải hương thơm. Thịt để nấu súp thơm. Vườn Ả rập thơm. Còn đứa bé sơ sinh có mùi ra sao? Đó là điều tôi muốn biết?”

      Chị vú ngần ngừ. Chị biết trẻ sơ sinh có mùi gì chứ. Chị biết quá chứ…chị từng nuôi cả tá đứa, săn sóc, đưa võng, hôn hít…ban đêm chị còn có thể tìm ra chúng bằng mùi nữa kìa, vì rằng ngay lúc này đây mùi trẻ sơ sinh trong mũi chị. Nhưng mà chị chưa bao giờ diễn tả bằng lời.

      “Sao?” cha Terrier quát và sốt ruột nhấm móng tay.

      “Ỡ…” chị vú bắt đầu “ dễ vì…vì phải chỗ nào mùi chúng cũng giống nhau, dù rằng chỗ nào cũng thơm cả, cha hiểu . Chân chẳng hạn có mùi của viên đá nhẵn ấm…, giống mùi sữa đông hơn…hoặc như bơ, bơ tươi, đúng rồi, như mùi bơ tươi. Mình chúng như mùi…bánh kếp nhúng sữa. Và ở đầu, nữa, phía sau cơ, chỗ có cái xoáy ấy, đây này, cha thấy chưa, đấy, chồ mà cha chẳng còn tóc ấy…” Và chị gõ lên đầu cha Terrier á khẩu mất lúc bởi cái tràng chi tiết vớ vẩn nọ và ngoan ngoãn cúi đầu, nơi bị sói “…đấy, ngay chỗ này, chúng thơm nhất. Chúng thơm mùi kẹo caramen, cái thứ kẹo có mùi ngọt, tuyệt lắm cha ạ, cha hình dung được đâu! Khi được ngửi chỗ đó rồi chúng, dù là con ruột hay con người dưng. Và trẻ chỉ có thể có mùi như thế chứ thể khác được. Và khi mà chúng có mùi như thế, khi mà đầu chẳng có mùi gì, còn thua cả khí lạnh như thằng đó, thằng lộn giống đó …Cha muốn giải thích như thể nào tuỳ cha chứ tôi…” và chị ta khoanh tay trước ngực với vẻ kiên quyết, ném cái nhìn kinh tởm vào cái giỏ ở dưới chân như thể trong ấy toàn cóc nhái “tôi, Jeanne Bussie, đem thứ đó về nhà nữa đâu.”

      Cha Terrier từ từ ngẩng đầu lên và lấy ngón tay vuốt vào chỗ đầu sói đôi ba lần như thể cho tóc được ngay ngắn rồi làm như vô tình đặt ngón tay lên mũi, ngửi cách đăm chiêu.

      “Như kẹo caramen à…” Ông hỏi và cố lấy giọng nghiêm nghị “Caramen! Chị có biết cái gì về caramen? Chị từng ăn chưa?”

      ra chưa” chị vú đáp “Nhưng có lần tôi tới khách sạn ở Rue Saint-Honoré và được xem làm từ đường nấu chảy và kem như thế nào. Nó thơm đến nỗi tôi vẫn quên”.

      “Hừm, thôi đủ rồi” cha Terrier và kéo ngón tay ra khỏi mũi. “Giờ chị im cho. Tiếp tục trao đổi với chị ở mức độ này mệt quá sức. Tôi nhận thấy chị từ chối việc tiếp tục nuôi đứa trẻ sơ sinh Jean-Baptiste Grenouille vì bất cứ lý do nào đó và trao lại nó cho người bảo hộ tạm thời là tu viện Saint-Merri. Tôi hết sức tiếc nhưng thể thay đổi được. Thôi được, chị về !”

      xong ông xách cái giỏ, hít thêm hơi cái làn sữa ấm thoang thoảng rồi đóng cổng, vào phòng làm việc của ông.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 3

      Cha Terrier là người có học thức. Ông chỉ nghiên cứu thần học mà còn thông hiểu các triết gia. Ngoài ra còn biết thực vật học lẫn thuật giả kim [1] Ông coi thường khả năng phán đoán của mình. Tuy quá xa như số kẻ nghi ngờ phép lạ, lời tiên tri cũng như chân lý của Kinh thánh, dù nghiêm khắc mà những thứ kể thể giải thích đơn thuần bằng lý trí, thậm chí còn thường mâu thuẫn nữa. Ông thích đụng tới những vấn đề này, chúng chẳng thú vị gì mà chỉ tổ đẩy ông tới chỗ hoang mang và vô cùng bất an, khó chịu, trong khi sử dụng lý trí tâm hồn phải yên ổn và thanh thản. Cái mà ông kiên quyết chống là thói mê tín của quảng đại quần chúng, phù thuỷ, bói bài, đeo bùa, thôi miên, trò quỷ thuật đêm trăng và ai mà còn biết được còn những trò gì nữa, hết sức nản lòng khi thấy những tập tục ngoại đạo này vẫn chưa bị tận diệt sau hơn ngàn năm kiến lập vững chắc Giáo hội Thiên chúa! Phần lớn những vụ gọi là quỷ ám hay liên minh với quỷ xét cho kỹ cũng chỉ là trò hề mê tín. cho đúng, xa đến độ chối bỏ hữu của quỷ xa tăng, nghi ngờ quyền lực của nó cha Terrier dám, quyết định những vấn đề đụng chạm tới nền tảng của thần học như thế thuộc thẩm quyền những cơ quan nào khác hơn là tu sĩ quèn. Mặt khác rành rành là khi người dạ như cái chị vú nọ cứ mực rằng phát ra quỷ hình chẳng bao giờ có quỷ nhúng tay vào đó cả. Chính việc chị ta tin phát ra nó là chứng cớ đanh thép rằng chẳng có tí gì của quỷ được phát cả vì nó ngu đến độ để cho chị vú Jeanne Bussie lột được mặt nạ. Mà lại bằng mũi nữa cơ chứ! Bằng cái khướu giác tầm thường, kém cỏi nhất trong các giác quan! Như thể địa ngục có mùi lưu huỳnh còn thiên đường có mùi trầm và mùi mật nhi lạp! Ôi, cái mê tín khốn khổ! Cứ như trong thời tiền sử đen tối còn tà giáo, khi con người còn sống như thú vật, mắt chưa đủ tinh, phân biệt được màu sắc nhưng có thể ngửi được mùi máu và qua ngửi mà phân biệt được bạn với thù, tin rằng bị những tên khổng lồ ăn thịt người, những ma chó sói và nữ thần báo oán đánh hơi phát nên cúng tế đủ loại thần gớm ghiếc của họ với đồ cúng tế nướng cháy hôi rình! là khủng khiếp! Đứa ngu nhìn bằng mũi hơn bằng mắt và có lẽ ánh sáng của lý trí Chúa ban cần soi rọi thêm cả nghìn năm nữa mới mong quét sạch tàn dư cuối cùng của thứ tín ngưỡng sơ khai này.

      “Chao, đứa tội nghiệp! Cái sinh vật vô tội! Nằm tbiu thiu ngủ trong giỏ mà chẳng biết gì hết vễ những nghi ngờ gớm ghiếc gán cho nó. Mày có mùi như con của người, cái ả vô liêm sỉ kia dám xưng xưng thế đấy. Nào, biết phải gì bây giờ? Tú ti, tú ti!”

      Và ông nhàng rung cái giỏ đầu gối, vuốt đầu đứa bé và thỉnh thoảng lại “Tú ti, tú ti” mà ông cho rằng có tác dụng vuốt ve trẻ .
      “Mày phải có mùi caramen! Vớ vẩn. Tú ti, tú ti”.

      Chặp sau ông rút ngón tay ra, đặt lên mũi rồi hít mạnh, chẳng ngửi thấy gì ngoài mùi cải chua mới ăn bữa trưa.

      Ông do dự lúc, nhìn quanh để được chắc chắn là ai ngó, nhấc cái giỏ lên, gí cái mũi to tướng vào. Ông dí sát đến nỗi lớp tóc hoe mỏng của đứa bé cọ vào mũi, ông hít mạnh khắp đầu nó, hy vọng ngửi được mùi. Ông đầu lũ sơ sinh phải có mùi gì. Chắc chắn phải caramen, nhất định thế, vì caramen là đường nấu chảy được.Có thể nó có mùi sữa, sữa của người vú. Nhưng mà nó có mùi sữa. Có thể nó có mùi tóc, mùi da, và chút mùi mồ hôi của trẻ . Và cha Terrier lại hít và nghĩ rằng ngửi thấy mùi da, tóc và chút mồ hôi. Nhưng ông chẳng ngửi thấy cái gì cả. . Ông nghĩ trẻ sơ sinh có mùi, hẳn là phải thế. Khi được giữ sạch , trẻ sơ sinh có mùi, giống như biết , biết chạy hay viết. Phải đợi đến khi lớn. Xét cho kỹ con người ta chỉ toả mùi khi dậy . Thế chứ thể khác được. chẳng phải Horaz [2] từng viết “trai tơ nồng ấm mùi dê, tơ thơm ngát khác gì thuỷ tiên…” đó sao? Mà bọn La Mã rành mấy thứ này lắm nhé. Mùi thơm của con người bao giờ cũng là mùi thơm xác thịt, nghĩa là mùi thơm tội lỗi. Thế làm thế nào mà trẻ sơ sinh ngay cả trongmơ cũng biết đến tội lỗi xác thịt lại có mùi được? Làm thế nào nó có mùi được? Tú ti tú ti? Tất nhiên nhiên là rồi!

      Ông lại đặt cái giỏ lên đầu gối và lắc nhè . Đứa bé vẫn ngủ say. Nắm tay phải thò ra khỏi chăn, bé bỏng và đỏ hồng, thỉnh thoảng khẽ cọ vào má. Cha Terrier mỉm cười và chợt cảm thấy rất thoải mái. Ông tự cho phép tưởng tượng là bố đứa trong giây lát. Ông là tu sĩ nữa mà là công dân bình thường, có thể là thợ thủ công ngay thẳng, lấy người đàn bà thơm mùi sữa ấm, có với ta đứa con trai và giờ đây đung đưa nó, đứa con ruột thịt của ông, đầu gối, tú ti, tú ti…Nghĩ thế ông thấy dễ chịu. Trong suy nghĩ ấy có cái gì đấy nghiêm chỉnh. Người cha đung đưa con trai mình đầu gối, tú ti tú ti, là hình ảnh xưa như trái đất nhưng lại luôn luôn mới khi thế giới này còn, đấy! Cha Terrier thấy ấm đôi chút trong tim và mềm lòng .

      Đứa bé thức dậy. Nó thức trước tiên bằng cái mũi. Cái mũi xíu động đậy, hếch lên rồi hít. Nó hít khí rồi thở ra từng đợt ngắn như thể hắt hơi chưa hết. Nó nhăn mũi rồi lại mở mắt. Màu mắt nó khó xác định, nửa xám màu vỏ con hàu, nửa trắng đục màu kem, còn bị phủ lớp màng mỏng là chưa thích ứng để nhìn. Cha Terrier có cảm giác là đôi mắt ấy nhận ra có ông ở đấy. Cái mũi ngược lại. Trong khi đôi mắt đục của đứa bé liếc tận đâu đâu cái mũi lại có vẻ tập trung vào mục tiêu nhất định và cha Terrier có cảm giác lạ lùng rằng chính ông, Terrier, là cái mục tiêu ấy. Hai cánh của hai lỗ mũi xíu ngay giữa mặt đứa bé phập phồng như bông hoa nở. Giống nắp của thứ hoa ăn thịt trồng trong vườn của Đức Vua đúng hơn. Mũi nó như thể có sức hút kỳ quái giống loài hoa nọ. Như thể đứa bé nhìn thấy ông, Terrier, bằng lỗ mũi của nó, như thể nó nhìn ông chăm chắm, soi mói, thấu suốt hơn là người ta có thể nhìn bằng mắt, như thể nó nuốt chửng vào mũi nó cái gì đấy tiết ra từ người ông, Terrier, mà ông thể giữ và che giấu cái ấy được…Cái đứa bé mùi ấy ngửi ông hôi mùi mồ hôi và giấm, mùi cải muối chua và mùi quần áo giặt. Ông có cảm giác như trần truồng và xấu xa, như bị kẻ nấp kín soi mói nhìn. Như thể nó ngửi xuyên qua cả da ông, vào tận nội tạng. Những tình cảm dịu dàng nhất, những ý nghĩ bẩn thỉu nhất phơi trần trước cái mũi đầy thèm khát này. Chưa là mũi nữa, mới chỉ là dấu vết của mũi, bộ phận có lỗ xíu ngừng nhăn lại, phồng lên xẹp xuống. Cha Terrier rùng mình, tởm lợm. Ông quay mũi như thể gặp vật gì có mùi kinh tởm, muốn đụng chạm tới. Hết rồi cái ý nghĩ thân thương rằng đấy là máu thịt của ông. Tan biến cái tình cảm thơ mộng cha con và người mẹ ngát thơm. Tấm màn tư tưởng mềm mại mà ông tưởng tượng trùm quanh đứa bé và ông, bị giật phăng , sinh vật lạ hoắc, lạnh ngắt đầu gối ông, con vật thù địch mà nếu như ông phải là người cẩn trọng, biết sợ Chúa, có suy nghĩ hẳn ông ghê tởm quẳng nó như con nhện.

      Cha Terrier đứng bật dậy, đặt cái giỏ lên bàn. Ông muốn tống khứ cái của nợ này càng nhanh càng tốt, ngay, ngay lập tức.

      Đứa bé chợt khóc. Nó nhắm nghiền mắt lại, há hốc miệng, rít lên khủng khiếp khiến cha Terrier lạnh cả xương sống. Ông dang tay ra đung đưa cái giỏ, miệng kêu “tú ti tú ti” cho nó im nhưng nó còn gào to hơn, mặt nó tím lại như thể sắp vỡ ra vì gào.

      Phải tống khứ ngay! Cha Terrier nghĩ thầm. Tống khứ tức khắc cái đồ…ông muốn “đồ quỷ” nhưng cố nén lại được…tống khứ ngay cái quái vật này, cái thằng lỏi thể chịu đựng được này! Nhưng tống đâu? Ông biết cả tá bà vú và nhà mồ côi trong vùng nhưng mà họ gần quá, khác nào ngay bên cạnh sườn, cái vật này phải tống xa, xa để còn phải nghe nó, xa để thể cứ mỗi giờ người ta lại đem nó đến đặt ngay trước cửa, nếu được họ đạo khác, bên kia sông càng tốt, tốt nhất là Extra Muros [3] ở Faubourg Saint-Antoine, phải đấy! Thằng nhóc hay gào này đến đấy, tuốt phía đông, bên kia cửa ngục Bastille, nơi tối tối người ta đóng cổng thành.

      Ông khoác vội áo dòng, vớ cái giỏ gào chạy , chạy qua ngóc ngách bàn cờ tới Rue du Faubourg Saint-Antoine, ngược sông Seine về phía đông, ra khỏi thành phố, xa xa nữa tới Rue de Charonne, khoảng cuối đường này, gần tu viện Madeleine de Trenelle, ông biết địa chỉ Madame Gaillard nào đó nhận nuôi mọi loại trẻ ở mọi lứa tuổi miễn là có người trả tiền, ông giao cái đứa bé vẫn còn khóc ở đó, trả trước hẳn năm rồi chạy biến về lại thành phố, về tới tu viện, ông vất quần áo như thể bị dính dơ, tắm gội từ đầu đến chân rồi len lén vào phòng riêng lên giường, làm dấu thánh giá nhiều lần, đọc kinh lâu rồi cuối cùng thiếp nhõm.

      Chú thích:

      [1] Nhà giả kim: nhà hóa học thời Trung cổ.

      [2] Horaz: nhà thơ La Mã trước công nguyên.

      [3] Ở ngoại thành (tiếng La tinh).

      Chương 4

      Madame Gaillard tuy chưa tới tuổi ba mươi mà như thể lìa đời. Bề ngoài bà có cái diện mạo của tuổi nhưng đồng thời già gấp hai, gấp ba, gấp trăm lần, giống như xác ướp của , còn bên trong chết từ lâu. Lúc bà bị ông bố nện que sắt cời lò sưởi vào trán, ngay phía sống mũi, từ đó bà mất khả năng ngửi cũng như mọi cảm giác về tình người nồng nàn hay lạnh lẽo và mọi xúc cảm. Do cái đánh đó mà dịu dàng cũng trở thành xa lạ giống như ghê tởm, niềm vui hay tuyệt vọng. Bà chẳng cảm thấy gì cả sau này, khi ăn nằm với người đàn ông hay khi đẻ con. Đứa chết bà chẳng buồn mà đứa sống bà cũng chẳng hề vui. Bà nhúc nhích khi bị chồng đánh mà cũng chẳng nhõm khi ông ta chết vì bệnh tả ở Hotel Dieu. Bà chỉ biết có hai thứ cảm giác, đó là hơi ủ dột mỗi khi tháng tháng sắp đến kì bệnh đau nửa đầu làm tình làm tội và hơi thoải mái khi nó biến mất. Kỳ dư người phụ nữ chết mòn này cảm thấy gì hết.

      Mặt khác …hoặc giả có thể chính vì hoàn toàn xúc động mà Madame Gaillard có ý thức lạnh lùng về trật tự và công bằng. Bà ưu ái riêng mà cũng để thiệt đứa bé nào được gửi cho bà. Bà cho chúng ăn ngày ba bữa chứ thêm chút xíu nào. Bà thay tã cho chúng ba lần trong ngày và chỉ đến năm đầy hai tuổi thôi. Sau đó đứa nào còn bậy ra quần bị ăn bạt tai mà hề được cảnh cáo trước và bị cắt bữa ăn. Bà chỉ cho chúng đúng nửa số lệ phí, giữ đúng nửa còn lại. Trong thời buổi rẻ rúng bà kgtìm cách giữ phần hơn, gặp lúc khó khăn cũng chẳng đòi thêm xu nào dù lúc ấy là cả vấn đề sinh tử. Nếu việc bà làm chẳng đáng gì nữa cả. Bà cần tiền. Bà tính toán rất kỹ. Khi về già bà muốn mua hưu bổng, ngoài ra vẫn còn thừa tiền để bà đợi chết ở nhà chứ chết khốn khổ ở Hotel Dieu như chồng bà. Bà chẳng đếm xỉa gì đến cái chết của chồng. Nhưng mà phải chết chung với hàng trăm người lạ làm bà rùng mình. Bà muốn được chết kín đáo vì thế bà cần trọn cái phần trong lệ phí. Đúng là có mùa đông chết tới ba hay bốn trong hai tá đứa ở trọ. Nhưng mà như thế là ít hơn hẳn so với phần lớn các bà vú khác, vượt xa những trại mồ côi lớn của nhà nước hay giáo hội mà tỉ lệ tử vong lên đến chín phần mười.
      sợ thiếu trẻ thay thế. Mỗi năm Paris cho ra đời hơn chục nghìn trẻ vô thừa nhận, hoang và mồ côi. Thành ra hơi đâu mà bận tâm trước những mất mát như thế.

      Đôi với thằng Grenouille cơ sở của Madame Gaillard là phúc lớn. Có lẽ nó thể sống ở nơi khác. Nhưng ở đây, nơi người đàn bà ít phần hồn này, nó mau lớn. Cơ thể nó dẻo dai. Ai sống sót khi sinh ra trong bãi rác như nó dễ bị tống khỏi cái thế giới này. Nó có thể ăn chỉ có cháo loãng ngày này qua ngày khác, nó chịu nổi thứ sữa loãng nhất cũng như rau thối và thịt ôi. Thời thơ ấu của nó qua được cái bệnh sởi, bệnh lị, bệnh tả, ngã xuống giếng sâu sáu mét và ngực bị phỏng nước sôi mà chết. Tuy phải mang thẹo, da bị lở và đóng vẩy, thêm cái chân bị tật khiến phải cà nhắc nhưng nó sống. Nó dai dẳng như con vi khuẩn dã quá quen thuốc và đòi hỏi gì nhiều như con bọ chét lặng lẽ cây, sống chỉ với chút xíu máu hút được từ nhiều năm trước. Nó chỉ cần chút tối thiểu thức ăn và quần áo. Còng chẳng cần gì cho phần hồn cả. che chở, môi quan tâm, dịu dàng, tình , những tình cảm mà người ta gọi bằng đủ thứ tên và cho rằng đứa bé nhất thiêt phải có, với thằng Grenouille là hoàn toàn cần thiết. Hay đúng hơn có vẻ như tự nó cần những thứ ấy để mà có thể sống sót được ngay từ đầu. Tiếng khóc khi nó chào đời, tiếng khóc vang ra từ dưới gầm bàn để được chú ý đến và đưa mẹ nó đến nơi hành quyết, phải là tiếng khóc bản năng đòi được được thương xót hay tình . Đó là tiếng khóc được cân nhắc, có thể được cân nhắc chín chắn, qua đó đứa trẻ sơ sinh quyết định chống lại tình , vì cuộc sống. Trong hoàn cảnh lúc ấy chọn cái sau là phải bỏ cái trước chứ nếu đòi hỏi cả hai chắc chắn nó chết khốn khổ ngay. Tất nhiên lúc ấy nó vẫn có thể chọn cái khả năng thứ hai, tức là khóc và thẳng từ cửa sinh sang cửa tử mà cần phải vòng qua cuộc sống, như thế nó bớt cho thế giới và cho bản thân ít phiền lụy. Để từ giã cõi đời khiêm nhường như thế cần phải có đôi chút tối thiểu lòng tốt bẩm sinh nhưng Grenouille lại có. Ngay từ đầu nó đứa khả ố. Nó quyết định chọn cuộc sống chỉ vì ngang ngạnh và độc ác.

      Tất nhiên là nó quyết định giống như người lớn, ít nhiều dùng đến lý trí và kinh nghiệm để chọn lựa giữa các khả năng. Nó quyết định giống như cây cỏ, như hạt đậu rơi vãi tự quyết định nảy mầm hay .

      Hay giống như con bọ chét nọ cây mà cuộc đời mời chào gì hơn là giấc ngủ đông triền miên. Cái con bọ chét bé ghê tởm ấy cuộn cái thân màu xám chì thành hình cầu để thu diện tích tiếp xúc với bên ngoài đến mức nhất, nó làm cho da nhẵn và khô cứng để toả gì ra cả, dù chỉ chút mồ hôi. Nó hết sức thu mình kín đáo để ai thấy và xéo chết nó. Con bọ chét đơn thu mình nằm cuộn cây, mù, câm và điếc, chỉ lo đánh hơi, đánh hơi suốt năm, hàng dặm xa, mùi máu của những con vật mà nó bao giờ tự sức bò tới nổi. Con bọ chét có thể để tự rơi mình xuống chứ. Nó có thể để rơi đất rừng, bò bằng sáu cái cẳng xíu vài milimét tới chỗ này chỗ nọ rồi rúc xuống dưới lá nằm chờ chết chứ, và lạy Chúa, chẳng có gì đáng tiếc cả. Nhưng con bọ chét ngang ngạnh, ngoan cố và ghê tởm cứ co mình lại cây, sống và chờ đợi. Chờ cho đến khi mà hết sức ngẫu nhiên, máu, dưới dạng con vật, tới ngay dưới gốc cây. Chỉ khi ấy nó mới còn thận trọng, buông mình xuống, bấu, xoi và cắn vào thịt con vật lạ…

      Thằng bé Grenouille là con bọ chét như thế. Nó sống khép kín và chờ thời. Nó chẳng cho thế giới cái gì khác ngoài phân, cười mỉm, khóc, ánh mắt và cả mùi của chính nó. Gặp phải người phụ nữ khác cái đứa quái dị này bị tống cổ rồi. Madame Gaillard thế. Bà ngửi ra được rằng nó có mùi và cũng hề chờ đợi xúc động trong tâm hồn nó vì chính tâm hồn bà bị khoá chặt.

      Lũ trẻ kia ngược lại, cảm thấy ngay Grenouille muốn gì. Ngay ngày đầu kẻ mới tới là mối đe doạ đối với chúng. Chúng né tránh cái thùng gỗ nó nằm, và nằm sát nhau hơn như thể căn phòng bị lạnh hơn vậy. Thỉnh thoảng những đứa nhất khóc trong đêm, chúng thấy như có gió lùa qua phòng. Những đứa khác chiêm bao bị cái gì đấy lấy hơi thở. Có lần mấy đứa lớn hùa nhau định làm nó chết nghẹt. Chúng phủ giẻ, chăn và rơm lên mặt nó rồi lấy gạch đè lên. Sáng hôm sau khi Madame Gaillard lôi nó ra khỏi nó nhầu nát, bầm dập, thâm tím nhưng chết. Chúng thử thêm mấy lần nữa nhưng vô ích. Cách chắc chắn hơn là bóp cổ nó bằng tay, hoặc bịt mũi, bịt mồm nó chúng dám. Chúng muốn đụng chạm vào nó. Chúng ghê tởm nó như thể ghê tởm con nhện to mà người ta muốn tự tay bóp chết.

      Khi nó lớn hơn chúng bỏ ý định giết nó. Hẳn chúng thấy rằng thể diệt nó được. Thay vào đấy chúng né tránh, chạy xa nó, bằng mọi cách tránh chạm vào người nó. Chúng ghét nó. Chúng cũng ghen hay tranh ăn với nó. Trong nhà của Madame Gaillard có cơ hội nào cho những cảm nghĩ như thế. Chúng bị xáo trộn vì có mặt của nó, thế thôi. Chúng ngửi thấy mùi nó. Nên chúng sợ nó.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 5

      Khách quan mà nó đâu có gì đáng sợ. Khi lớn nó chẳng to cao đặc biệt , khoẻ, xấu đấy, nhưng đâu xấu ghê gớm đến nỗi người ta phải sợ nó. Nó hung hăng, nham hiểm, lén lút, khiêu khích. Nó còn thích sống tách biệt nữa kia. Còn trí thông minh của nó cũng chẳng có gì ghê gớm. Mãi năm lên ba nó mới biết đứng, chữ đầu tiên lúc lên bốn, đó là chữ “cá”, buột ra như thể tiếng vọng trong lúc kích thích bất chợt khi từ xa người bán cá tới Rue de Charonne lớn tiếng rao hàng. Những tiếng kế tiếp nó thốt ra là “cây quỳ thiên trúc”, “chuồng dê”, “cái lá xoăn”, và “Jacqueslorreux”, cái chữ sau cùng là tên người phụ việc vườn tược cho nữ tu viện Filles de la Croix ở gần đó, thỉnh thoảng vẫn làm cho Madame Gaillard những việc nặng và nổi tiếng vì trong đời chưa hề tắm lần nào. Nó ít khi dùng đến động từ, tính từ và từ chêm. Ngoài “có” và “” – mà mãi sau này nó mới – nó chỉ dùng danh từ, đúng hơn là tên riêng của mỗi vật, cây cỏ, thú vật, người cụ thể và cũng chỉ khi nào mùi của những vật, cây cỏ, thú vật và người này đột nhiên chế ngự nó.

      ngày tháng ba, ngồi phơi nắng chồng gỗ sồi mới xẻ, gỗ bị nắng nứt kêu răng rắc, đó là lần đầu tiên nó thốt ra từ “gỗ”. Nó trông thấy gỗ cả trăm lần trước đó, cái từ đó cũng nghe cả trăm lần. Nó cũng hiểu vì mùa đông nó thường bị sai ra ngoài lấy gỗ. Nhưng cái gọi là gỗ chưa bao giờ làm cho nó quan tâm để phải nhọc công ra tên ấy. Điều này chỉ xảy ra vào cái ngày tháng ba ấy khi nó ngồi đống gỗ nọ. Đống gỗ được xếp chồng lên nhau như thể cái ghế dài dưới cái mái ở mặt nam kho dụng cụ của Madame Gaillard. Những thớt gỗ cùng mùi ngọt hắc, từ phía dưới bốc lên mùi rêu và từ vách gỗ thông của nhà kho bay ra trong nắng ấm mùi thơm của nhựa.

      Grenouille ngồi im đống gỗ, duỗi thẳng chân, lưng tựa vách nhà kho và nhắm mắt lại. Nó trông thấy, nghe và cảm thấy gì cả. Nó chỉ ngửi mùi thơm của gỗ bốc lên quanh nó và bị giữ lại dưới cái mái như trong cái nón. Nó uống mùi thơm ấy, nó chết đuối trong đó, tẩm vào người đến tận lỗ chân lông cuối cùng, hoá thành gỗ, rồi như thể hình nhân bằng gỗ, nó nằm chết đống gỗ chẳng khác Pinochio, cho đến lúc lâu sau, hình như là mãi nửa tiếng sau, nó oẹ ra cái từ “gỗ”. Nó oẹ ra cái từ ấy như thể là nó được nhồi gỗ đến tận tai, như thể bụng nó, họng nó, mũi nó toàn là gỗ. Cái từ ấy làm cho nó tỉnh lại, cứu nó kịp trước khi nó bị có mặt áp đảo của gỗ, của mùi gỗ, làm cho chết nghẹt. Mãi mấy ngày sau nó vẫn còn choáng váng do nếm cái mùi quá mạnh ấy và khi quá nhớ ngớt lẩm bẩm van nài “gỗ, gỗ”.

      Nó học như thế đấy. Những từ chỉ đối tương mùi, nghĩa là những khái niệm trừu tượng, đặc biệt là những thứ về đạo đức và luân lý là quá khó đối với nó. Nó nhớ nổi, lẫn lộn hết trơn, ngay cả khi lớn nó cũng thích dùng, và thường là dùng sai, tỉ như công lý, lương tâm, thượng đế, hân hoan, trách nhiệm, khiêm tốn, biết ơn, vân vân…những khái niệm này dùng để chỉ cái gì đối với nó mãi mãi là bí .

      Mặt khác ngôn ngữ thông dụng nhanh chóng trở thành đủ để chỉ tất cả những vật mà nó gom góp bằng khứu giác. Chẳng mấy chốc nó chỉ ngửi gỗ chung, mà loại gỗ như gỗ thích, gỗ sồi, gỗ thông, gỗ cây du, gỗ cây lê, già, non, mục, mủn, có rêu thậm chí từng khúc gỗ , dằm, mảnh gỗ và ngửi rành rẽ những vật thể khác nhau mà người khác phân biệt nổi bằng mắt. Với những vật khác cũng vậy. Cái thứ nước màu trắng mà sáng sáng madame Gaillard cho lũ trẻ uống luôn được gọi là sữa theo cảm giác của Grenouille mỗi sáng có mùi và vị khác nhau tuỳ theo độ ấm, của con bò nào, và con bò này ăn gì, còn được bao nhiêu chất béo, v..v..Còn khói, tổng hợp của hàng trăm mùi khác nhau, biến đổi thiên hình vạn trạng từng phút, thậm chí từng giây thành thể thống nhất mới như khói của ngọn lửa, lại chỉ có cái tên “khói” này thôi…Rồi đất, phong cảnh, khí mà trong từng bước , từng hơi thở đều được rót đầy mùi khác nhau và như thế được mang đặc tính khác rồi sao vẫn chỉ được gọi bằng ba cái từ thô thiển ấy thôi].
      Tất cả những khập khiễng lố bịch ấy giữa phong phú của cái thế giới nhận biết được qua mùi và nghèo nàn của ngôn ngữ khiến thằng Grenouille hoàn toàn nghi ngờ về ý nghĩa của ngôn ngữ, nên nó có thói quen chỉ dùng đến ngôn ngữ khi giao tiếp với người khác nhất thiết đòi hỏi.

      Năm lên sáu nó hoàn toàn nắm môi trường chung quanh qua khứu giác. Trong nhà Madame Gaillard vật gì, phía bắc Rue de Charonne chỗ nào, người nào, hòn đá, bụi cây, ngọn cây hay hàng rào đóng cọc nào, xó xỉnh nào dù đến đâu mà nó mùi, nhận ra được và giữ chặt cái mùi riêng của từng thứ trong trí nhớ. Nó tích lũy cả vạn, trăm nghìn mùi riêng biệt, sẵn sàng khi cần đến, ràng, đủ loại, để những có thể nhớ lại khi ngửi chúng mà còn ngửi thấy chúng mỗi khi nhớ lại, hơn thế nữa, chỉ cần qua tưởng tượng thôi nó biết phối hợp chúng để tạo ra những mùi hề có trong thế giới thực tế. Như thể nó làm chủ vốn từ khổng lồ tự học về mùi khiến nó có đủ khả năng tạo ra cơ man mùi đủ loại ở lứa tuổi mà những đứa trẻ khác còn lắp bắp đặt những câu đầu tiên đầy lỗi để mô tả thế giới với những từ được người ta ra sức nhồi nhét. Năng khiếu của nó có thể so sánh sát nhất với năng khiếu thần đồng nhạc, nghe giai điệu và hoà mà tìm ra từng , như từng mẫu tự, và rồi tự sáng tác giai điệu và hoà mới hoàn chỉnh. Tất nhiên khác ở chỗ mẫu tự của mùi nhiều và tinh tế hơn là của . Thêm điểm khác nữa là những hoạt động sáng tạo của thần đồng Grenouille chỉ diễn ra bên trong nó, ngoài nó ra ai cảm nhận được.

      Càng ngày nó càng sống khép kín hơn. Nó thích nhất lang thang mình phía bắc Faubourg Saint-Aintoine, qua những vườn cau, những đồng nho, bãi cỏ. Có khi tối đến nó về, biệt tăm mấy ngày liền. Nó chịu bị đòn bằng gậy mà chẳng hề tỏ ra đau đớn. Cấm cho ra ngoài, bắt nhịn đói, phạt làm việc nặng cũng thay đổi được cung cách của nó. năm rưỡi học thất thường ở trường đạo Notre Dame de Bon Secours cũng có tác dụng trông thấy nào. Nó hoc đánh vần chút ít, học viết tên nó, thế thôi. Thầy giáo cho nó là đần độn.

      Madame Gaillard, ngược lại, thấy là nó có số khả năng và đặc tính rất khác thường nếu là siêu tự nhiên, chẳng nó hoàn toàn sợ đêm và bóng tối như trẻ con bình thường. Bất cứ lúc nào người ta cũng có thể sai nó xuống hầm lấy cái gì đó mà những đứa kia ngay cả có đèn cũng dám làm, hay ra nhà kho lấy gỗ trong đêm tối như mực. Chẳng lần nào nó mang theo đèn mà vẫn tìm ra và tức khắc đem về cái được đòi hỏi mà động tác sai, vấp ngã hay xô đổ thứ gì. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là hình như nó có thể nhìn xuyên qua giấy, vải, gỗ và qua cả tường gạch hay cửa khóa nữa. Madame Gaillard tin rằng phát ra như thế. Nó biết có bao nhiêu đứa trẻ và những đứa nào trong phòng ngủ dù bước chân vào đấy. Nó biết trong bông súp lơ có con sâu trước khi tách bông ra. Có lần bà tìm thấy tiền bởi cất quá kỹ (bà đổi chỗ cất luôn), nó hề tìm lấy giây mà chỉ ngay vào chỗ sau xà ngang lò sưởi, y như rằng! Thậm chí nó có thể nhìn thấy cả tương lai, chẳng hạn nó báo có khách khi khách còn chưa đến hay báo trước sai trận bão dù bầu trời vẩn mây. Nó nhìn những cái ấy bằng mắt mà đánh hơi bằngcái mũi ngày thính và ngửi ngày chính xác hơn, con sâu trong bông súp lơ, tiền sau cái xà ngang, người sau tường và còn ở xa tới mấy quãng đường, thế có nằm mơ Madame Gaillard cũng thể đoán được, kể cả nếu cái đánh bằng que cời lò sưởi ọ gây tổn hại cho khứu giác của bà. Đần với chả độn, bà tin chắc rằng thằng phải có bộ mặt thứ hai. Vì bà biết rằng kẻ hai mặt đem theo điều gở và cái chết nên nó làm bà ớn. Ớn hơn nữa, đến thể chịu nổi là lo lắng phải ở chung nhà với kẻ có biệt tài nhìn qua cả tường lẫn xà ngang thấy được tiền giấu kỹ. khi phát cái khả năng đáng sợ của Grenouille bà liền tìm cách tống khứ nó. Khi ấy nó được tám tuổi.May sao cũng khoảng thời gian ấy tu viện Saint-Merri ngưng trả tiền hàng năm cho nó mà nêu lý do. Bà đòi. Giữ đúng phong cách, bà đợi thêm tuần lễ nữa và khi tiền vẫn tới, bà mới dắt nó vào phố.

      Bà quen người thợ thuộc da tên là Grimal ở gần sông, Rue de la Mortellerie, cần người phụ việc còn trẻ, phải người học nghề hay thợ phụ mà là cu li rẻ tiền. Trong nghề này có những công việc nguy hiểm như cạo thịt từ da súc vật thối rữa, trộn các dung dịch độc hại để thuộc và nhuộm da, đun nước vỏ dà…mà người thợ cả có ý thức trách nhiệm cố tránh phung phí những thợ phụ có tay nghề, chỉ dùng bọn hạ lưu vô nghề nghiệp, bọn du thủ du thực và ngay cả trẻ vô thừa nhận để ai truy cứu trong những trường hợp khả nghi. Tất nhiên là Madame Gaillard biết rằng Grenouille có khả năng sống sót trong cái xưởng thuộc da của Grimal, theo xét đoán thông thường. Nhưng bà phải thứ phụ nữ bận tâm về chuyện ấy. Bà làm xong bổn phận. việc coi sóc chấm dứt. Cái gì đến với đứa dính dáng tới bà.Nó sống được tốt, nó chết cũng sao. Cái chính là phải đúng luật. Thế là bà đòi Monsieur Grimal xác nhận bằng giấy mực việc bà trao thằng , còn bà ký nhận mười lăm quan tiền hoa hồng rồi trở về nhà ở Rue de Charonne. Bà chẳng cảm thấy lương tâm cắn rứt tí nào. Ngược lại, bà tin rằng những chỉ làm đúng luật mà còn chính đáng nữa vì giữ lại đứa ai trả tiền nhất thiết lạm vào tiền dành cho những đứa khác, thậm chí của chính bà, rồi biết đâu phương hại đến tương lai của trẻ khác và cả của bà; được chết mình, kín đáo, chung đụng, đó là giấc mơ duy nhất của cả đời bà.

      Vì chúng ta chia tay với Madame Gaillard ở đoạn này của câu chuyện và sau đó gặp bà nữa, chúng ta hãy dành it dòng viết về đoạn cuối của cuộc đời bà. chẳng may cho bà, mặc dù chết từ bên trong từ thời con , Madame lại sống lâu, rất lâu. Năm 1782, khi ngót bảy mươi tuổi, bà hành nghề nữa, mua hưu bổng như tính rồi ngồi ở nhà chờ chết. Nhưng cái chết đến, mà thay vào đó là thứ khác mà ai thế giới lại có thể lường được và cũng chưa từng xảy ra trong nước, đó là Cách mạng, có nghĩa là thay đổi nhanh chóng toàn bộ những quan hệ xã hội, đạo đức và những giá trị siêu việt. Lúc đầu cuộc Cách mạng này ảnh hưởng gì đến số phận của riêng Madame Gaillard gì cả. Nhưng khi bà ngót tám mươi, đột nhiên người quản lý hưu bổng của bà phải di cư sang nước ngoài, tài sản của ông ta bị tịch biên và bị bán đấu giá cho người sản xuất quần. Trong thời gian dài, xem ra thay đổi này cũng gây ra ảnh hưởng gì tai hại cho Madame Gaillard vì người sản xuất quần vẫn tiếp tục trả đúng hạn hưu bổng. Nhưng đến ngày kia bà còn được nhận tiền bằng kim loại nữa mà dưới dạng in giấy, đó là khởi đầu của suy sụp.

      Sau hai năm hưu bổng đủ để trả tiền củi. Madame buộc phải bán nhà với giá rẻ mạt vì bỗng nhiên phải chỉ có mình bà mà hàng nghìn người khác cũng phải bán nhà. Bà lại chỉ nhận được tiền đối lưu những mảnh giấy vớ vẩn nọ chỉ để hai năm sau hầu như chẳng còn chút giá trị nào, và năm 1797, bà mất sạch cái tài sản ký cóp được trong ngót trăm năm làm lụng cực nhọc, phải ở trọ trong căn phòng xíu có sẵn đồ đạc ở Rue des Coquilles, khi đó bà gần chín mươi. Mãi lúc này, muộn mất mười, hai mươi năm, cái chết mới đến do ung thư họng lâu năm, trước hết cướp của bà ngon miệng rồi đến tiếng , do đó bà thốt lên được lời nào phản đối khi bị chở đến Hotel Dieu. Ở đây, bà bị đưa vào chính cái căn phòng mà chồng bà nhắm mắt, cùng với hàng trăm người bệnh sắp chết khác, bị nhét vào trong cái giường với năm bà già lạ hoắc khác, nằm như cá hộp suốt ba tuần để rồi chết trước mắt bao người. Bà được bỏ vào bao khâu lại, bị quẳng lên xe kéo lúc bốn giờ sáng cùng với năm mươi xác nữa rồi được chở trong tiếng chuông rung yếu ớt đến nghĩa trang mới hình thành ở Clamart, cách cổng thành dặm, ở đây bà được đặt vào ngôi mộ tập thể phủ lớp vôi sống dầy, đó là nơi an nghỉ cuối cùng của bà.

      Đó là năm 1799. Rất may là khi về nhà vào cái ngày nọ của năm 1747, rời bỏ thằng bé Grenouille và câu chuyện của chúng ta, Madam mảy may linh cảm về số phận đến với bà. Nếu có biết đâu bà chẳng mất niềm tin vào công bằng và cùng với nó là cái ý nghĩa duy nhất mà bà hiểu về cuộc đời.

      Chương 6

      Thoạt nhìn Monsieur Grimal – phải lần đầu tiên đánh hơi cái lớp mùi bao quanh Grimal – nó biết ngay ông này sẵn sàng đánh nó chết liền dù chỉ phạm điều quấy . Mạng sống của nó chỉ giá trị bằng cái công việc nó hoàn thành, do hữu dụng mà Grimal đánh giá. Vì vậy mà Grenouille theo răm rắp, thử phản kháng dù chỉ lần. Ngày qua ngày, nó nút chặt mọi năng lực tiềm tàng của thách thức và ương ngạnh vào trong người, chỉ dùng rất ít theo kiểu con bọ chét để sống qua cái giai đoạn giá băng sắp đến: dai, đòi hỏi gì, kín đáo và giữ kỹ cái ngọn lửa chiếu tia sáng hy vọng chỉ dám để le lói. Lúc này nó là mẫu mực về dễ bảo, thanh đạm và cần cù, tuyệt đối vâng lời, cho gì ăn nấy. Tối tối nó ngoan ngoãn chịu để bị nhốt trong cái kho cạnh xưởng, nơi cất những dụng cụ và treo da thô xát muối. Ở đây nó phải ngủ nền đất nện. Ngày ngày nó làm việc đến tối mịt, mùa đông tám tiếng, mùa hè mười bốn, mười lăm, mười sáu tiếng, nạo thịt những tấm da hôi kinh tởm, nhúng nước, cạo lông, rắc vôi, nhúng dung dịch kiềm, vò, đập, xát nước vỏ dà, bửa gỗ, lột vỏ gỗ phong và gỗ thuỷ tùng, leo xuống hố đun vỏ dà đầy hơi cay xé, theo lệnh bọn thợ phụ xếp da lên vỏ cây thành lớp, rải mụn cây đập nát lên , rồi phủ nhánh cây thủy tùng và đất lên cái giàn hoả thiêu kinh tởm này.
      Mấy năm sau nó phải đào và lôi những xác da ướp, bấy giờ thành da thuộc ấy lên.

      Nếu chôn da xuống và đào da lên phải lấy nước. Xách nước từ sông, mỗi lần hai thùng, mỗi ngày cả trăm thùng, hàng tháng dài như thế là vì cái nghề này cần biết bao nhiêu là nước để rửa, để làm mềm, để nấu dung dịch, để nhuộm. Hàng tháng trường người nó chỗ nào khô vì phải xách nước, đêm đêm nước ròng ròng từ quần áo nó, da nó lạnh ngắt, mềm và trương lên như thể miếng da dùng lau nước.

      Sau năm sống giống súc vật hơn là người, nó bị bệnh than, chứng bệnh đáng sợ trong nghề thuộc da và thường chỉ có chết. Grimal cầm bằng như mất nó, tìm người thay, tuy phải tiếc vì ông ta chưa từng có tay thợ cho gì nhận nấy và làm giỏi như Grenouille. Nhưng trái với mọi chờ đợi, Grenouille khỏi bệnh. Nó chỉ phải mang thẹo của những chùm nhọt to đen ở sau tai, ở cổ và má khiến nó bị biến dạng và trở nên xấu xí hơn dù vốn dĩ nó xấu rồi. Ngoài ra nó còn miễn dịch với bệnh than để từ nay có thể nạo các tấm da bẩn thỉu nhất với hai bàn tay trầy trụa và chảy máu mà sợ bị nhiễm trùng lại, quả là lợi vô giá. Do đó nó khác hẳn chỉ với đám học nghề và thợ phụ mà cả với đám có khả năng thay thế nó nữa. Và bởi vì bây giờ nó dễ thay như trước kia nên giá trị của việc nó làm, nghĩa là giá trị mạng sống của nó, cũng tăng theo. Bỗng dưng nó còn phải ngủ chỉ nền đất nữa mà được phép dựng trong kho cái bục gỗ, được rơm để trải lên và được cái chăn riêng. Khi ngủ nó còn bị nhốt nữa, bữa ăn cũng đầy đủ hơn. Grimal còn nuôi nó như bất kỳ con vật nào mà là gia súc có ích.

      Khi nó mười hai tuổi, Grimal cho nó nghỉ nửa ngày chủ nhật và vào tuổi mười ba nó còn được phép chơi tiếng, làm những gì nó thích vào buổi tối sau khi xong việc. Nó thắng bởi vì nó sống và bây giờ nó có được chút tự do đủ để nó tiếp tục sống. Giai đoạn ngủ đông qua. Con bọ chét Grenouille cựa quậy. Nó đánh hơi khí ban mai. Nó khao khát săn mồi. Cái vùng chứa mùi lớn nhất thế giới mở ra trước nó: thành phố Paris.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 7
      Như thể vườn địa đàng vậy. Chỉ hai riêng vùng phụ cận Saint-Jacques-de-la-Boucherie và Saint-Eustache cũng đà là vườn địa đàng rồi. Trong những ngõ hai bên Rue Saint-Denis và Rue Saint-Martin, người ở chen chúc, nhà sát nhà, năm, sáu tầng khiến thấy bầu trời và lớp khí sát nền đất như bị ứ lại trong những đường ống ẩm thấp và đặc sệt mùi. Cái mùi của người trộn lẫn với súc vật, hơi của thức ăn và bệnh tật, của nước và đá cuội, của tro và da thuộc, của xà bông và bánh mì mới nướng, của trứng luộc trong giấm, của mì sợi và đồng thau đánh bóng, của lá xô thơm, của bia và nước mắt, của mỡ và rơm rạ khô lẫn ướt. Hàng nghìn và hàng nghìn thứ mùi hoà thành thứ cháo đặc vô hình tràn ngập các ngõ hẻm, hoạ hoằn mới bay nếu ở tuốt các nóc nhà còn ở dưới đất bao giờ. Người dân ở đó chẳng còn ngửi thấy trong cái thứ cháo này cái gì đặc biệt bởi vì nó từ họ mà ra và ngớt thấm vào họ, nó chính là cái khí họ thở và nhờ đó họ sống, nó giống như bộ quần áo ấm mặc lâu khiến cho người ta còn ngửi thấy gì và còn cảm thấy da thịt. Còn Grenouille ngửi thấy tất cả như mới lần đầu. Nó chỉ ngửi cái toàn thể của hỗn hợp mùi kia mà chẻ ra, phân tích thành những phần, những mảnh khác biệt nhất. Cái mũi nhậy của nó gỡ cái mớ bòng bong gồm mùi thơm và mùi hôi nọ thành từng sợi riêng lẻ của những mùi cơ bản thể nào tách thêm được nữa. Nó sung sướng khôn tả khi tách những sợi ấy ra, se chúng lại.

      Nó thường đứng lại, tựa vào tường, hay nép mình trong góc tối, mắt nhắm lại, miệng hé ra, cánh mũi phập phồng, bất động như con cá rình mồi trong dòng nước lớn, đen sậm, chầm chậm trôi. Để rồi khi làn gió mỏng manh đưa tới nó đầu sợi hương thơm mềm mại, nó chụp ngay lấy, nhả ra nữa và nó ngửi thấy gì khác hơn cái mùi này, níu chặt, hút vào trong lòng và giữ lại mãi mãi. Cái mùi ấy có thể là nó biết rồi hay là biến thể, nhưng cũng có khi hoàn toàn mới, chỉ giống tí xíu hay giống gì hết với những mùi nó ngửi từ trước đến giờ, chưa tới thấy, chẳng hạn mùi lụa được ủi, mùi trà ướp bách lý hương, mùi tấm kim tuyến thêu chỉ bạc, mùi nút của chai vang hiếm, mùi cái lược đồi mồi. Nó chạy theo những mùi chưa biết này, nó săn đuổi chúng, và thu góp vào trong người với say mê và kiên nhẫn của người câu cá.

      Khi ngửi no nê cái cháo đặc ở các ngõ hẻm, nó tới những nơi thoáng khí, mùi ở đấy mỏng mảnh hơn, lẫn vào trong giỏ, toả ra, gần như là nước hoa. Ở chợ Les Halles chẳng hạn, tuy tối rồi nhưng ngày chưa hết mà vẫn tiếp tục tồn tại trong mùi, vô hình nhưng rất , như thể ở đó những nhà buôn còn hối hả trong đám đông, như thể ở đó vẫn còn những sọt đầy rau và trứng, những thùng đầy rượu và giấm, những bao bố đầy đồ gia vị, khoai tây và bột, những két gỗ với đinh và ốc, những sạp thịt, những bàn đầy vải và xoong chảo, đế giầy và trăm thứ linh tinh khác bày bán ở đó vào ban ngày…toàn bộ tấp nập vẫn còn đó cho đến từng chi tiết nhất trong cái khí mà nó để lại. Grenouille nhìn toàn bộ cái chợ qua khứu giác, nếu như có thể như thế được. Và nó ngửi còn hơn ít người nhìn vì nó cảm nhận cái chợ sau buổi chợ, do đó ở cấp cao hơn, đó là bản chất, là hồn của cái gì đó qua, tức là bị làm xáo trộn bởi những đặc điểm thông thường của tại như tiếng huyên náo, ánh sáng chói chang, va chạm gớm ghiếc của con người bằng xương bằng thịt…ở cái chợ này.

      Hoặc nó tới chỗ mẹ nó bị chặt đầu; Place de Grève trông khác cái lưỡi khổng lồ thè ra liếm dòng sông. Ở đây tàu được kéo lên bờ hay buộc vào cọc, chúng có mùi than, mùi ngũ cốc, mùi cỏ khô và mùi dây thừng ướt.

      Từ phía tây thổi lại qua cái hành lang duy nhất tạo bởi con sông cắt ngang thành phố này luồng gió mênh mông mang đến mùi của đồng quê, của những đồng cỏ ở vùng Neuilly, của những cánh rừng nằm giữa Saint-Germain và Versailles, của những thành phố rất xa xôi như Rouen hay Caen và đôi khi cả của biển. Biển có mùi như cánh buồm căng phồng hứng nước, muối và mặt trời lạnh. Mùi của biển mộc mạc nhưng đồng thời lại lớn lao và độc ác khiến cho Grenouille do dự, tách nó ra thành mùi cá, mùi muối, mùi nước, mùi rong, mùi tươi mát, v.v….Nó thích để chung cái mùi của biển, giữ như toàn thể trong trí nhớ và thưởng thức nó trọn vẹn. Nó thích đến nỗi ao ước lần có được nhiều mùi biển tinh khiết, pha trộn để có thể uống đến say mèm. Sau này, khi nghe kể biển mênh mông biết bao và người ta có thể tàu nhiều ngày ấy mà thấy đất liền thích gì hơn là hình dung được ngồi trong cái chòi cao tít cột buồm tuốt phía trước cái tàu như thế, bay trong cái mùi vô tận của biển, đúng ra phải là mùi mà là hơi thở, hơi thở ra, tột cùng của mọi mùi và vui sướng được tan biến trong hơi thở đó. Nhưng điều này bao giờ đến vì Grenouille đứng ở bờ sông nơi Place de Grève và nhiều lần hít thở mảnh của gió biển bay qua mũi nó, bao giờ thấy biển, cái biển , cái đại dương mênh mông ở phía tây và bao giờ được tan vào cái mùi ấy.

      Chẳng mấy chốc nó ngửi cái khu nằm giữa Saint Eustache và Hotel de Ville đến nỗi ngay trong đêm tối đen nó cũng lạc. Rồi nó mở rộng vùng săn, trước hết về phía tây Faubourg Saint-Honoré, rồi ngược Rue Saint-Antoine tới Bastille và cuối cùng qua bên kia sông, tới khu Sorbonne và Faubourg Saint-Germain, khu nhà giàu. Mùi da trong xe ngựa và mùi phấn trong tóc giả của đám thiếu niên quý tộc bay qua song sắt cổng thành, và từ trong vườn thoảng qua những bức tường thành cao mùi thơm kim tước chi, của hoa hồng và của cây thủy lạp vừa mới xén. Nơi đây, lần đầu tiên Grenouille ngửi mùi nước hoa theo đúng nghĩa của từ này, nước hoa giản dị mùi oải hương hay hoa hồng mà người ta vẫn trộn vào hồ phun nước ở trong vườn vào những dịp lễ, hay những mùi phức tạp, đắt tiền hơn như xạ hương pha với tinh dầu hoa cam, hoa huệ, hoa trường thọ, hoa nhài hay hoa quế, chiều chiều vẫn bềnh bồng sau những cỗ xe như giải lụa nặng trĩu. Nó ghi nhận những mùi thơm này như mọi mùi bình thường khác, tò mò nhưng hâm mộ đặc biệt. Dĩ nhiên nó ghi nhận rằng nước hoa có tác dụng làm say mê và lôi cuốn, nó cũng nhận ra cái hay của từng tinh chất nhưng là tống thể nó thấy thô thiển và chán ngắt, trộn ẩu hơn là sáng tạo và nó biết rằng nó có thể làm ra những mùi thơm khác hẳn nếu có được những nguyên vật liệu đó.

      số lớn những nguyên vật liệu này nó biết ở các quầy hoa và gia vị ở chợ, những thứ khác đều mới và nó lọc ra từ cái hỗn hợp mùi để giữ lại trong trí nhớ mà biết tên: long diên hương, xạ hương, hoắc hương, gỗ đàn hương, hương cam chanh, hương bài, độc hoạt điểu, an túc hương, hoa hublông, hương hải ly….

      kén chọn. Nó phân biệt những thứ mùi mà người ta cho rằng hay hoặc dở. Nó chỉ thèm khát. Mục đích chuyến săn tìm của nó chỉ để có được mọi thứ thế gian này, với điều kiện duy nhất: mùi đó phải mới. Mùi mồ hôi ngựa cũng quý như hương xanh mềm mại phảng phất từ nụ hoa hồng chớm nở, mùi cay xè của con rệp dở hơn mùi thịt bê quấn mỡ rán toả ra từ bếp nhà giàu.Nó uống tất, nó ngốn tất vào trong người. Và trong cái nhà bếp tưởng tượng để tổng hợp mùi vị của nó, nó thường xuyên tạo ra những hỗn hợp mùi mới, cũng chưa có nguyên tắc thẩm mỹ nào. Toàn những thứ kỳ quái nó tạo ra rồi phá như đứa trẻ chơi xây nhà, sáng tạo và phá hoại, theo nguyên tắc nào cả.

      Chương 8

      Vào ngày 1 tháng Chín 1783, thành phố Paris đốt pháo bông ở Pont Royal kỷ niệm ngày đăng quang của Đức Vua. Tuy ngoạn mục bằng lần mừng hôn lễ của Ngài Ngự hay cái lần đốt pháo bông đẹp như truyện cổ tích mừng sinh hạ thái tử nhưng dẫu sao cũng gây ấn tượng mạnh. Người ta gắn lên cột buồm tàu bè những bánh xe vẽ hình mặt trời màu vàng. Từ cầu, những cái gọi là con bò lửa phun lửa như sao sa xuống dòng sông. Trong khi khắp nơi pháo đại nổ inh tai và pháo chuột đì đẹt đường đá pháo bông vọt lên trời, vạch những bông huệ trắng nền trời đen thẫm. Cả mấy ngàn người, vừa cầu vừa hai bờ sông, thích thú theo dõi cảnh ngoạn mục với những tiếng “Ồ” “Chà” “hoan hô” thậm chí cả “vạn tuế” nữa, dù Đức Vua ở ngôi ba mươi tám năm và từ lâu còn được ưa thích như xưa. Pháo bông làm nổi cả những điều như thế đấy.

      Grenouille đứng lặng im bên bờ phải, trong bóng tối của Pavillon de Flore, ngang với Pont Royal. Nó chẳng thèm vỗ tay, cũng chẳng thèm nhìn pháo bông vọt lên trời. Nó đến đây vì nghĩ rằng có thể đánh hơi được cái gì mới nhưng rồi thấy ngay là chuyện bắn pháo bông đem lại mùi gì mới cả. Những thứ phung phí loé ra, phun lên, nổ và rít kia để lại hỗn hợp mùi hết sức đơn điệu của lưu huỳnh, dầu và hoả tiêu.

      định bỏ cái buổi trình diễn tẻ nhạt này để dọc theo Gallerie de Louvre về nhà, chợt gió mang đến nó cái gì đó, xíu, rất khó nhận ra, mẩu, phân tử mùi thơm, phải, ít hơn nữa, dự cảm về mùi thơm chứ chưa phải là mùi thơm , nhưng đồng thời lại là dự cảm chắc chắn về cái mà nó chưa từng ngửi bao giờ. Nó tựa vào tường, nhắm mắt lại, hinh hỉnh mũi. Cái mùi mỏng mảnh và thanh khác thường khiến nó giữ chặt nổi, cái mùi ấy ngừng vuột khỏi mọi cảm nhận của nó, bị khói pháo đại phủ mất, bị ngăn chặn bởi mùi của cái khối người, bị băm ra và bị nghiền nát bởi cả nghìn thứ mùi khác của thành phố. Nhưng rồi đột nhiên lại ra, mẩu thôi, giây thôi như báo hiệu tuyệt vời…rồi lại biến ngay. Grenouille quằn quại. Lần đầu tiên phải chỉ cái tính tham lam của nó bị tổn thương mà tim nó đau đớn. Nó linh cảm kỳ lạ rằng mùi thơm này là chìa khoá để định đoạt mọi mùi thơm khác, hiểu gì về mùi nếu hiểu chính cái mùi này và nó, Grenouille, phí cuộc đời nếu được cái mùi ấy. Nó phải có được mùi này, phải chỉ để mà có mà còn vì thanh thản của trái tim.

      Nó nôn nao phát sốt lên được. Nó còn chưa tìm ra được cái mùi thơm ấy đến từ hướng nào. Có khi mất đến mấy phút mới lại có mẩu bay đến và mỗi lần như thế nó kinh hoàng, sợ rằng mất luôn. Cuối cùng nó tự trấn an trong niềm tin tuyệt vọng rằng mùi thơm đến từ bên kia sông, đâu đó từ hướng đông nam.

      Nó rời khỏi tường của Pavillon de Flore, chui vào đám đông, chen lấy đường qua cầu. Cứ sau vài bước nó lại nhón chân để đánh hơi đầu đám đông, lúc đầu nó chẳng ngửi thấy gì cả vì quá nôn nao, rồi thấy chút ít, lần mò ra cái mùi thơm, mạnh hơn trước, vậy là đúng hướng rồi, nó lại ngụp vào đám đông, tiếp tục lấn qua đám hiếu kỳ và những người châm pháo cứ liên miên dí đuốc vào ngòi pháo bông, lại mất tông tích mùi thơm trong làn khói cay xè, nó hốt hoảng, tiếp tục đẩy, huých và lấn tới, sau biết bao nhiêu là phút nó mới tới được bờ bên kia. Hotel de Mailly, Quai Malaquest, cửa ngõ của Rue de Seine…

      Nó dừng lại đấy, lấy sức và đánh hơi. Nó gặp rồi. Nó giữ chặt lấy. Như giải lụa, cái mùi ấy kéo xuống Rue de Seine, rệt nhầm được, tuy nhiên vẫn còn rất mỏng mảnh và thanh. Grenouille thấy tim nó rộn làm sao và biết phải gắng sức chạy nên tim đập nhanh mà vì vừa hồi hộp vừa bối rối trước hữu của mùi này. Nó thử moi trong trí nhớ cái từa tựa như thế nhưng phải vất bỏ mọi so sánh. Mùi này tươi mát nhưng phải tươi mát của chanh, lá cam hay của lựu, phải tươi mát của mật nhi lạp hay vỏ quế, bạc hà hay vỏ cây phong, long não hay lá thông, cũng phải của mưa tháng Năm, hay gió bấc hay mưa nguồn…đồng thời lại ấm, nhưng phải cam chanh, cây bách hay xạ hương, như hoa nhài và thuỷ tiên, như gỗ hồng, cũng giống như cây khoa diên vỹ…Mùi này là hỗn hợp của hai thứ đó, của cái chóng phai và cái tồn tại, phải hỗn hợp mà là thống nhất, khiêm nhường và yếu đuối nhưng là chắc chắn và bền bỉ như dải lụa mỏng óng ánh…cũng giống lụa mà giống sữa hoà thêm với bánh bích quy, ngọt như mật ong.
      Sữa và lụa! Cố gắng đến đâu cũng thể hợp hai thứ này với nhau được. hiểu được cái mùi này, diễn tả được, cách gì xếp loại nó được, thể nào có cái mùi ấy được. Vậy mà rành rành đó như hiển nhiên tuyệt diệu. Grenouille lần theo với trái tim thấp thỏm vì nó ngờ rằng phải nó theo mùi thơm ấy mà mùi thơm bắt được nó và kéo nó tới gần, cưỡng lại được.

      Nó ngược lên Rue de Seine. Đường bóng người, nhà cửa vắng hoe, im lìm. Thiên hạ xem bắn pháo bông phía dưới sông. Ở đây mùi người hối hả làm bực mình, mùi thuốc pháo cay sè. Đường toả mùi thông thường của nước, phân, chuột và rau bỏ . Bên cái mùi ấy lơ lửng cái giải mùi dẫn Grenouille mỏng mảnh như rệt. Sau vài bước, bầu trời đêm mờ mờ bị những nhà cao tầng nuốt chửng và Grenouille tiếp tục trong bóng tối. Nó cần nhìn. có mùi dẫn nó . Chắc chắn.

      Sau năm mươi mét nó rẽ phải sang Rue desMarais, hẹp chỉ vừa sải tay và có vẻ tối hơn. Cái mùi đậm hơn mấy lạ . Chỉ tinh khiết hơn. Và càng tinh khiết hơn sức hút càng mãnh liệt hơn. Grenouille bước tự chủ. Đến nơi, cái mùi giật nó sang bên phải, có vẻ như đâm thẳng vào tường của ngôi nhà nào đó. lối thấp hơn, dẫn vào sân trong. Grenouille qua hết lối này, như kẻ mộng du, hết sân, rồi lại rẽ lần nữa sang cái sân thứ nhì, hơn, ở đấy có ánh sáng, đó là vuông đất chỉ độ vài bước chân. mái hiên gỗ nghiêng bên tường. Phía dưới là cái bàn có để nến. ngồi đấy rửa mơ vàng. nhặt những trái mơ từ cái giỏ bên trái, cắt cuống, tách hột rồi thả vào chậu. bé cỡ mười ba, mười bốn tuổi. Grenouille đứng yên. Nó biết ngay cái nguồn của mùi thơm mà nó ngửi thấy suốt hơn nửa dặm đường, tận bờ sông bên kia, phải cái sân bẩn thỉu này, phải những trái mơ vàng. Cái nguồn là .

      Trong lúc hoang mang, nó nghĩ rằng nó chưa từng gặp trong đời cái gì đẹp như bé. ra nó chỉ thấy bóng từ phía sau, ngược với ngọn nến nên dĩ nhiên là nó nghĩ rằng chưa từng ngửi thấy cái gì đẹp đến thế. Bởi vì nó từng biết mùi người, hàng ngàn ấy chứ, mùi đàn ông, đàn bà, trẻ con nên nó chịu tin rằng cái mùi tuyệt vời như thế lại có thể toả ra từ người. Vả chăng mùi người gớm chết và chả có gì đáng . Mùi trẻ con nhạt nhẽo, đàn ông khai khú như mồ hôi chua và phó mát, đàn bà có mùi mỡ ôi và cá ươn. Hoàn toàn chẳng hấp dẫn gì, ghê tởm nữa ..Và vì thế mà lần đầu tiên trong đời Grenouille tin vào mũi mình, phải cần thêm mắt để trợ giúp tin vào cái nóđã ngửi. Tất nhiên xáo trộn giác quan kéo dài lâu. nó chỉ cần có nháy mắt để được chắc chắn qua thị giác để rồi ngay sau đó miệt mài với những cảm nhận của khứu giác. Bây giờ nó ngửi ra là người, ngửi mồ hôi trong nách , chất nhờn của tóc, mùi của cả chỗ kín, ngửi với hả hê lớn nhất. Mồ hôi tươi mát như gió biển, dầu nhờn của tóc ngọt như dầu hồ đào, chỗ kín như bó hoa súng, da như thể hoa mơ..những thành phần này kết hợp với nhau cho thứ nước hoa thơm ngát, cân đối, thần diệu đến nỗi tất cả những thứ nước hoa Grenouille ngửi đến nay, tất cả những gì của cái toà nhà mùi mà nó tạo ra như đùa bên trong nó thoát chốc tàn lụi, chẳng còn chút ý nghĩa nào. Cả trăm nghìn mùi cũng bằng cái mùi này. Mùi này là nguyên lý để sắp xếp những mùi khác theo khuôn mẫu của nó. Nó là cái đẹp thuần tuý.

      Grenouille chắc chắn rằng có được mùi này đời nó có nghĩa gì nữa. Nó phải biết đến tận chi tiết nhất, biết đến chân tơ kẽ tóc mỏng mảnh cuối cùng, chỉ nhớ bao quát thôi đủ. Nó muốn in, như thể với dấu ấn, cái nước hoa toàn mỹ này, vào cái mớ hổ lốn trong tâm hồn đen tối của nó, rồi nghiên cứu tường tận để từ đó chỉ còn có nghĩ, sống và ngửi theo những cấu trúc nội tại của cái công thức kỳ diệu này.

      Nó chậm rãi tới gần bé, gần hơn nữa, đến sau lưng bước dừng lại dưới mái hiên. nghe thấy nó.

      bé tóc đỏ, mặc quần áo hở tay màu xám. Tay trắng muốt và hai bàn tay vàng nước trái mơ. Grenouille cúi xuống, uống cái mùi lúc này trộn lẫn toả lên từ gáy, từ tóc, từ cổ áo của , để cái mùi ấy trôi vào trong người như làn gió . Chưa bao giờ nó thoải mái như thế. Còn bé thấy lạnh.

      cứng đờ người vì sợ khi nhìn thấy nó, còn nó có thừa giờ để đặt hai tay quanh cổ . kêu, nhúc nhích, động tác chống cự. Nó nhìn khuôn mặt thanh tú đầy tàn nhang, cái miệng đỏ tươi, đôi mắt to xanh lóng lánh vì nó nhắm nghiền mắt khi bóp cổ bé. Nó chỉ lo lắng có điều: để mất, dù chỉ chút xíu, mùi thơm của .

      Khi chết, nó đặt nền đất giữa những hột trái mơ vàng, xé tung quần áo và cái dòng mùi thơm trở thành cơn lũ, tràn ngập nó. Nó úp mặt vào da , phồng to hai lỗ mũi, hít từ bụng đến ngực, lên cổ, tới mặt rồi lại từ tóc xuống bụng xuống chỗ kín, tới đùi rồi đôi chân trắng. Nó ngửi từ đầu tới ngón chân, nó thu nốt mùi thơm còn sót ở cằm, ở rốn và ở những nếp gấp của khuỷu tay.

      Sau khi rút hết hơi hướng của bé, nó còn ngồi xổm cạnh lúc để trấn tĩnh lại vì nó đầy ứ mùi . Nó muốn để rơi chút nào. Nó phải đóng kín những vách ngăn trong người nó . Rồi nó đứng dậy, thổi tắt nến.

      Giờ này những người trở về nhà đầu tiên lục tục ngược Rue de Seine, ca hát và “vạn tuế” om sòm. Trong bóng đêm Grenouille ngửi ra con hẻm rồi sang Rue des Petits Augustins dẫn xuống sông, song song với Rue de Seine. Chỉ lát sau người ta phát xác chết. Tiếng kêu la nổi lên. Đuốc được đốt lên. Lính canh đến. Grenouille sang bờ bên kia từ lâu rồi.

      Tối hôm ấy, nhà kho đôi với nó như thể cung điện và cái bệ gỗ chẳng khác giường có treo màn trướng. Nó chưa từng biết trong đời thế nào là hạnh phúc. Nhiều lắm nó cũng chỉ biết vài trạng thái rất hiếm hoi của vừa ý nét. Bây giờ nó run lên vì sung sướng và ngủ được vì chứa chan hạnh phúc. Như thể nó được sinh ra lần thứ hai, , phải lần thứ hai, lần đầu mới đúng vì cho tới ngày nay nó chỉ hữu như con vật trong hiểu biết vốn hết sức mù mờ của nó. Cùng với ngày hôm nay, rút cục có vẻ nó biết nó là ai: gì khác hơn là thiên tài, cũng như đời nó có ý nghĩa, mục đích và sứ mạng cao cả hơn, cách mạng mùi thơm của thế giới, thế giới này chỉ riêng nó mới có đủ phương tiện: đó là cái mũi độc đáo, cái bộ nhớ phi thường của nó, và quan trọng hơn cả, cái mùi thơm mãi mãi thể quên của ở Rue des Marais với cái công thức diệu kỳ chứa đựng tất cả những gì cần thiết để làm ra mùi thơm – nước hoa – tuyệt vời, đó là mỏng mảnh, sức mạnh, dẻo dai, đa dạng và vẻ đẹp kinh hoàng cưỡng nổi. Nó tìm thấy kim chỉ nam cho cuộc sống tương lai. Giống như thiên tài gớm ghiếc, như cái bọn người mà cố nào đó ngoài đời có thể vạch lối thẳng tắp trong cái đống hỗn độn xoắn xuýt của linh hồn họ. Grenouille bao giờ chệch cái phương hướng mà nó tin rằng phát ra cho số phận của nó. Bây giờ nó hiểu tại sao nó bám cuộc đời bền bỉ và kiên quyết như thế, nó phải trở thành kẻ sáng tạo ra mùi. phải như bất kỳ ai. Phải là người chế nước hoa vĩ đại nhất từ cổ chí kim.

      Ngay tối hôm ấy nó kiểm tra lại, mới đầu thức, sau trong mơ, cái bãi bộn bề mênh mông của ký ức. Nó xem lại triệu triệu những khối mùi và xếp chúng theo trật tự có hệ thống: tốt với tốt, dở với dở, thanh theo thanh, thô theo thô, hôi với hôi, thơm với thơm. Trong tuần tới cái thứ tự này càng được chia hơn, bảng liệt kê mùi càng phong phú và chi li hơn, thứ bậc ngày rệt hơn. Và nó sắp có thể bắt đầu dựng những công trình mùi đầu tiên được trù tính kỹ càng: nhà, tường, cầu thang, tháp, hầm, phòng ốc, phòng bí mật… thứ pháo đài của những thành phần mùi tuyệt vời nhất ngày ngày được mở rộng thêm, làm đẹp thêm và xây dựng hoàn hảo thêm trong người nó.

      vụ giết người mở đầu cho huy hoàng này đôi với nó là hoàn toàn đáng bận tâm, ngay cả nếu nó có ý thức. Nó còn có thể nhớ gì về hình ảnh như mặt, mũi, thân thể của ở Rue des Marais nữa cả. Nó giữ kỹ cái quý nhất của làm của riêng: cái nguyên lý mùi thơm của .

      Chương 9

      Thuở ấy ở Paris có khoảng tá nhà làm nước hoa giỏi. Sáu người ở bờ phải sông, sáu người ở bờ trái, người còn lại ở ngay chính giữa, Pont au Change nối bờ phải với khu Ile de la Cité. Hai bên cầu san sát những nhà bốn tầng khiến ai có ngang chẳng thấy sông ở chỗ nào mà ngỡ rằng mình đường bình thường, nền móng vững chắc, ngoài ra còn hết sức thanh lịch. Quả , Pont au Change được coi là trong những khu buôn bán đẹp nhất thành phố. Những cửa hàng có tiếng nhất nằm ở đây, những nhà kim hoàn, nhà làm đồ gỗ mỹ nghệ, làm tóc giả và túi xách tay giỏi nhất, may cắt quần áo lót và tất phụ nữ, làm khung ảnh, buôn giầy cưỡi ngựa, thêu ngù vai, đúc cúc áo bằng vàng và chủ ngân hàng. Cửa hàng đồng thời là nhà ở của nhà làm nước hoa và găng tay Giuseppe Baldini cũng ở đây. Phía tủ kính chưng bày hàng căng tấm trướng lộng lẫy màu xanh lá cây, bên cạnh treo huy hiệu của Baldini cũng bằng vàng: lọ con với bó hoa vươn ra khỏi lọ, thảm đỏ trải trước cửa cũng mang huy hiệu của Baldini thêu bằng chỉ vàng. Khi mở cửa chùm chuông Ba tư vang lên và hai con cò bằng bạc nhả từ mỏ chúng nước hoa đồng thảo vào cái đĩa mạ vàng làm theo hình cái lọ trong huy hiệu của Baldini.

      Baldini tự đứng sau cái quầy bằng gỗ hoàng dương màu sáng, già và cứng đơ như cái cột, đội tóc giả có rẩy bột bạc, áo khoác xanh da trời viền vàng.
      đám mây của nước hoa đại mà sáng nào ông cũng vẩy lên người bao phủ ông thấy như thể đẩy ông vào nơi xa xôi mờ ảo. Do đứng bất động, ông chẳng khác món đồ của cửa hàng. Hoạ hoằn khi tiếng chùm chuông vang lên và hai con cò nhả nước sống trong người ông mới trỗi dậy, ông gập người lại, thó nhưng nhanh nhẹn, khom mình chào nhiều lần, phóng ra từ sau quầy nhanh đến nỗi đám mây nước hoa đại thể theo kịp. Ông mời khách ngồi để giới thiệu những nước hoa và mỹ phẩm chọn lọc.Baldini có cả ngàn thứ. Từ Essences absolutes, dầu hoa, tanh-tuya, nước cốt, xạ, dầu thuốc, nhưa và đủ loại dược phẩm: khô có, lỏng có mà như sáp cũng có. Rồi đủ thứ po mát, bột nhồi, bột, xà bông, kem, túi bột thơm, keo tóc, sáp chải tóc, sáp giữ râu, thuốc tẩy mụn cóc, đá kì cho đến dầu tắm, nước thơm, thuốc hồi sinh, giấm toa lét và vô số nước hoa thứ . Nhưng Baldini chỉ thoả mãn với những sản phẩm này của cách săn sóc sắc đẹp cổ điển. Ông có tham vọng thu thập trong cửa hàng mình tất cả những gì thơm hay liên quan đến thơm. Cho nên ông còn có cả kẹo thơm, nến thơm, dây thơm và đủ thứ gia vị từ hạt giống hồi đến vỏ quế, xi rô, rượu trái cây, nước trái cây, rượu vang từ đảo Síp, Malaga và Korinth, mật ong và cà phê, trà, mứt, trái vả, kẹo sôcola, nụ bạch hoa, dưa leo và hành ngâm giấm cũng như cá thu muối. Rồi xi thơm, giấy viết thư tẩm nước hoa, mực để viết thư tình thơm mùi hoa hồng, cặp làm bằng da tốt, kẹp bút bằng gỗ đàn hương trắng, tráp và rương bằng gỗ tuyết tùng, bình và đĩa cho hoa ép khô, bình trầm bằng đồng thau, lọ con và hũ với nắp mài từ đá hổ phách, găng tay và mùi xoa tẩm nước hoa, hộp kim khâu với hoa đậu khấu, giấy gián tường tẩm xạ hương giữ mùi lâu cả trăm năm.

      Tất nhiên có đủ chỗ cho tất cả những thứ này trong cái cửa hàng tráng lệ trông ra đường (hay ra cầu) và vì có hầm cho nên chỉ dành nhà kho mà còn tất cả tầng , tầng hai và gần hết những phòng trông ra sông của tầng trệt làm kho. Hậu quả là trong nhà Baldini hỗn loạn mùi sao tả được.Mỗi món hàng đều có chất lượng cao vì Baldini chỉ mua những thứ hạng nhất nhưng hỗn hợp mùi của chúng như thể dàn nhạc cả nghìn người mà mỗi nhạc công chơi fortissimo (cực mạnh) điệu khác nhau. Những người giúp việc và ngay cả Baldini mất hết cảm giác trước cái hỗn loạn ấy hệt như các nhạc trưởng có tuổi đều bị lãng tai vậy. Cho đến vợ ông, ở tầng ba và vẫn kiên quyết chống lại việc nới kho lên đó, cũng chẳng còn thấy những mùi nọ làm phiền. Khách hàng mới tới đây lần đầu khác hẳn. Họ bị cái mùi hỗn tạp ấy hắt vào mặt chẳng khác bị đấm rồi tùy thể chất mà lâng lâng hay choáng váng và chắc chắn họ hoang mang đến nỗi thường nhớ đến đấy để làm gì. Thằng quên cái việc chủ giao, ông khách vạm vỡ chợt thấy mình yếu xìu. Nhiều bà mệnh phụ bỗng chợt lên cơn nửa động kinh, nửa sợ buồng kín, ngất và chỉ tỉnh lại sau khi được cho ngửi thứ thuốc hồi sinh hăng nhất gồm dầu đinh hương, amoniac và long não.

      Thành ra gì ngạc nhiên khi cái cụm chuông Ba Tư treo nơi cửa ra vào tiệm ông Baldini ngày càng ít reo hơn và hai con cò bằng bạc cũng ngày càng ít nhả nước ra hơn

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :