1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mùa hè - Edith Wharton

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 16

      Mưa tạnh và giờ sau, khi nàng bắt đầu ra ánh sáng mặt trời chan hòa những cánh đồng.

      Sau chuyến ra của Harney, nàng trả chiếc xe đạp về chủ của nó ở Creston, và nàng chắc có thể bộ suốt đường dài lên Núi. Ngôi nhà hoang nằm con đường đó, nhưng những ý tưởng trong đêm làm nàng thể chịu đựng nổi, và nàng nghĩ cố gắng đến Hamblin, nơi nàng có thể ngủ lại trong nhà gia súc bằng gỗ nếu sức mạnh giúp nàng đến đó. Những kế hoạch được vạch ra cách cẩn thận. Trước khi ra nàng bắt mình phải cố uống ly sữa và ăn miếng bánh mì, rồi nàng bỏ vào cái túi vải gói sô--la mà Harney luôn mang theo trong cái túi để ở xe đạp. Nàng nghĩ, tất cả mọi thứ là phải giữ gìn sức khỏe để nàng đến nơi mình mong muốn mà bị phát giác.

      Từng dặm từng dặm đường cũ bỏ lại phía sau, mà đó nàng rất thường khi bay tới người . Khi nàng đến ngã ba nơi con đường vào rừng phân nhánh từ quốc lộ, nàng nhớ lại căn lều của nhóm giảng dạy Phúc - giờ vẫn đứng trong chòm cây và nàng bắt đầu thấy lo sợ khi người truyền giáo mập mạp trước đây: “Chúa lòng lành biết tất cả mọi . Hãy đến và thú nhận tội lỗi.” Bây giờ trong nàng ý nghĩ tội lỗi nào, mà chỉ có mong muốn là bảo vệ bí mật của nàng khỏi những đôi mắt xoi mói, và bắt đầu lại cuộc sống giữa những người quê mùa trong cái làng mà ai biết đến. thôi thúc hình thành trong tâm trí nàng: nàng chỉ biết mình phải cứu lấy đứa bé và mình nơi nào đó mà ai có thể đến để quấy rầy mẹ con nàng.

      Nàng và tiếp tục , đôi chân càng lúc càng nặng nề khi ngày dần tan. Dường như có sức mạnh tàn bạo cưỡng bách nàng từng bước, từng bước chân trở lại con đường xưa đến ngôi nhà hoang. Rồi nàng bước vào vườn cây ăn quả, mái nhà nghiêng bóng qua những cành cây nặng trĩu, sức khỏe nàng đánh gục nàng và buộc phải ngồi lại bên vệ đường. Nàng ngồi đó lúc lâu, cố gắng thu hết can đảm để tiếp tục lên đường. Nàng qua cái cổng gãy và những bụi hồng gai cắt tỉa bung cánh màu đỏ thắm. vài giọt mưa rơi, và nàng nghĩ đến những buổi tối nồng nàn khi nàng và Harney ngồi ôm nhau trong phòng tôi, và thanh mùa hè râm ran mái nhà, xào xạc qua những nụ hôn của họ. hồi lâu nàng hiểu rằng nếu nàng còn nấn ná mưa có thể buộc nàng phải trú lại căn nhà qua đêm. Nàng tiến bước, ngoảnh mặt lại khi nàng đến gần cái cổng màu trắng và ngang qua khu vườn được chăm sóc.

      Thời gian trôi qua, nàng càng lúc càng chậm, dừng lại lúc này lúc khác rồi nghỉ ngơi, ăn chút bánh mì và quả táo hái bên lề đường. Cơ thể nàng dường như mỗi lúc nặng hơn theo từng tấc đường, và nàng tự hỏi làm sao nàng có thể mang con mình sau này chứ, nếu ta để lại gánh nặng như vậy cho nàng. luồng gió mát thổi qua bắn tung những giọt mưa rơi từ núi xuống. Chẳng mấy chốc những cụm mây hạ thấp và vài mũi tên trắng phóng vào mặt nàng: đó là đợt tuyết rơi đầu tiên vùng Hamblin. Những mái nhà ngôi làng đơn côi nằm phía trước chỉ nửa dặm đường, nàng quyết tâm đến đó và cố gắng đến Núi ngay trong đêm. Nàng có kế hoạch ràng để hành động, ngoại trừ việc định cư tại đó, nàng nghĩ mình tìm Liff Hyatt để ta đưa nàng đến với mẹ nàng. Nàng được sinh ra cũng như con nàng sắp được sinh ra như vậy. Và cho dù cuộc sống của mẹ nàng như thế nào, bà thể nhớ lại quá khứ và chấp nhận đứa con đối mặt với phiền phức như bà ngày xưa.

      Dường như kiệt sức, nàng ngồi lại bên bờ sông tựa đầu lên gốc cây cắt. Con đường xa tít và khung cảnh u ám biến mất trong đôi mắt nàng, và trong lúc nàng cảm thấy mình như bay lượn xung quanh bóng tối hãi hùng. Rồi nàng ngất .

      Khi mở mắt ra nàng thấy chiếc xe độc mã chạy lên gần nàng và người đàn ông nhảy xuống nhìn nàng với gương mặt bối rối. Dần dần nàng tỉnh lại và thấy đó là Liff Hyatt.

      Nàng lờ mờ hiểu ta hỏi nàng điều gì đó và nàng nhìn ta im lặng, cố gắng lấy hơi để . Hồi lâu giọng nàng lúng búng trong cổ họng, rồi thều thào : “Tôi về Núi.”

      “Lên Núi hả?” - ta lặp lại, lùi về sau tí; và khi ta chuyển động nàng thấy phía sau ta, trong chiếc xe độc mã, người trang phục nặng nề và gương mặt hồng hào quen thuộc mang cặp kính chiếc mũi giống người Hy Lạp.

      “Charity! Cái gì xảy ra làm cho con ở đây vậy?” - Ngài Miles vừa kêu lên vừa ném cây roi da lưng ngựa và leo xuống xe độc mã.

      Nàng nhướn cặp mắt nặng nề nhìn ngài: “Con gặp mẹ của con.”

      Hai người đàn ông liếc nhìn nhau, và trong lúc ai lời nào.

      Rồi ngài Miles : “Con có vẻ yếu lắm, cưng ạ, mà đường xa. Con nghĩ việc làm này thông minh sao?”

      Charity đứng lên: “Con phải đến với bà ấy.”

      nụ cười buồn rầu mơ hồ lên gương mặt của Liff Hyatt, và ngài Miles ngập ngừng : “Con biết rồi, chắc con nghe kể?”

      Nàng trừng mắt nhìn ngài: “Con biết ngài nghĩ gì. Con muốn về với mẹ của con.”

      Ngài Miles nhìn nàng cách dò xét. Nàng thấy thay dổi trong cách diễn đạt của ngài, và máu nóng phừng phừng lên trán: “Con chỉ muốn về với mẹ của con!” - nàng lặp lại.

      Ngài đặt bàn tay mình cánh tay nàng: “Ôi, con bé bỏng của ta, mẹ con hấp hối. Liff Hyatt xuống để rước ta lên. Vào xe và với chúng tôi.”

      Ngài giúp nàng lên xe và ngồi bên cạnh, Liff Hyatt leo lên phía sau, và họ chạy về hướng Hamblin. Lúc đầu Charity chưa nắm bắt được những gì ngài Miles nhưng khi đầu nàng hết nhức nàng bắt đầu hiểu. Nàng biết miền Núi hiếm khi giao thiệp với vùng thung lũng, nàng thường nghe người ta ai lên đó ngoại trừ mục sư, khi có ai đó hấp hối. Và bây giờ là mẹ nàng hấp hối. Như vậy nàng đơn ở miền Núi hay bất cứ nơi nào khác trong thế giới này. Ý nghĩ chia ly thể nào tránh khỏi là tất cả những gì nàng cảm thấy trong khoảnh khắc, rồi nàng bắt đầu lấy làm lạ tại sao ngài Miles đảm trách thi hành chuyện vặt vãnh này. Ngài có vẻ giống như loại người cần phải lên miền Núi. Nhưng ở đây ngài ngồi bên cạnh nàng, điều khiển con ngựa với bàn tay rắn chắc và cúi nhìn nàng với cái nhìn tử tế dưới cặp mắt kính, như thể có gì bất bình thường trong việc họ chung với nhau trong những trường hợp như thế này.

      Trong lúc nàng thấy thể gì, và ngài dường như hiểu điều này nên cũng hỏi nàng câu nào. Nhưng rồi nước mắt nàng trào dâng và tuôn rơi đôi má hốc hác của mình, ắt hẳn ngài Miles cũng thấy nên đặt bàn tay mình vào đôi tay nàng và : “Sao con với ta con gặp rắc rối gì?”

      Nàng lắc đầu, và ngài nài nỉ, nhưng sau lúc ngài cũng cùng điệu nhàng để những lời bị nghe lén: “Charity, con biết gì về tuổi thơ của con, trước khi con xuống North Dormer ?”

      Nàng tự kiềm chế và trả lời: “ nhiều, chỉ những gì con nghe ông Royall vào ngày. Ông ta ông mang con xuống vì cha con bị bắt vào tù.”

      “Và từ đó con chưa bao giờ lên Núi sao?”

      “Chưa bao giờ.”

      Ngài Miles lại yên lặng, rồi : “Ta vui vì bây giờ con với ta. Có lẽ chúng ta tìm thấy mẹ con còn sống, và có lẽ bà biết con đến.”

      Họ đến Hamblin, nơi trận mưa tuyết để lại những mảng trắng đám cỏ bờm xờm dọc theo vệ đường và trong những ngóc ngách những nóc nhà hướng mặt về phương bắc. Nó là ngôi làng nghèo hoang vắng dưới sườn núi đá gra nít, và ngay khi họ rời nơi đó họ bắt đầu leo lên. Con đường rất dôc và đầy những vết lún, ngựa bắt đầu từng bước khi họ lên cao và lên cao, thế giới tụt xa phía bên dưới họ trải dài qua rừng và cánh đồng trong khoảng trời xa xanh thẫm.

      Charity thường mơ thấy mình lên Núi nhưng nàng biết nó là xứ sở rộng lớn như vậy, và quang cảnh của những vùng đất lạ trải rộng bôn bề cho nàng cảm giác mới về cách biệt với Harney ở nơi xa xôi. Nàng biết ta ắt hẳn phải ở hàng ngàn dặm xa dưới những dãy đồi sau cuối mà dường như bên rìa của mọi thứ, và nàng tự hỏi làm thế nào nàng có thể tìm ta ở tận Nữu Ước được.

      Con đường về quê càng lên cao càng hoang vắng hơn. Họ lái xe băng qua cánh đồng cỏ úa trắng vì nằm lâu nhiều tháng dưới tuyết. Cây thanh lương trà từng chùm ánh lên màu đỏ đậm, nhưng có nhiều cây thông mọc bên rìa núi đá gra nít. Gió thổi dữ dội qua sườn núi trảng, con ngựa đối mặt với gió cúi đầu ” bám vào sườn núi, chiếc xe ngựa lắc lư làm cho Charity phải bấu vào khung xe.

      Ngài Miles gì, dường như ngài hiểu nàng muốn ở mình. Sau lúc, con đường họ theo có ngã rẽ và ngài ghì cương ngựa vì chưa biết phải con đường nào. Liff Hyatt nghểnh đầu từ phía sau, và hét to trong gió: “Bên trái!” và họ quẹo vào rừng thông rụng lá rồi bắt đầu chạy xuống bên kia sườn Núi.

      Ở đằng xa chừng vài dặm, có mây căn nhà thâp nằm cánh đồng đầy đá, chen mình trong những tảng đá lớn như thể tự ôm mình vào chúng để tránh gió. Chúng khó có thể coi là nhà ở. Chúng được cất lên bằng những khúc gỗ và những tấm ván thô ráp với những ống khói bằng thiếc gắn thò ra mái. Mặt trời lặn, và hoàng hôn dành sẵn cho thế giới bên dưới, nhưng những tia sáng vàng vọt vẫn còn đọng lại bên sườn đồi đơn và những căn nhà mình trong đá. Giây lát sau trời tối dần và khung cảnh chìm trong bóng tối mùa thu.

      “Đằng kia!” - Liff la lên, đưa cánh tay dài ngoằng của nó qua vai ngài Miles. Vị mục sư quay sang trái, băng ngang qua mảnh đất đầy cỏ chi chít và cây tầm ma, rồi dừng lại trước những căn nhà bị hư hại gần hết. ống khói cong thò ra từ cửa sổ, và những miếng cửa kiếng bể được dán chằng chịt bằng những mảnh giấy.

      So sánh với nơi ở như vậy căn nhà nâu dưới đầm lầy được coi là “nhà” cách đúng nghĩa hơn.

      Khi chiếc xe độc mã chạy tới, hai ba con chó lai phóng ra và sủa ầm vang, người đàn ông thò đầu ra cửa sổ nhìn. Trong tranh tối tranh sáng, Charity thấy gương mặt của ông ta toát lên vẻ u mê đần độn giống như gương mặt của Bash Hyatt vào cái ngày nàng thấy ngủ bên lò sưởi. Ông ta muốn làm cho những con chó im lặng, mà tựa vào cánh cửa như thể vừa tỉnh dậy sau cơn say khi ngài Miles bước ra khỏi xe ngựa.

      “Ở đây hả?” - vị mục sư hỏi và Liff gật đầu.

      Ngài Miles quay sang Charity, ngài : “Giữ con ngựa phút, con . Ta vào trước.” - ngài đặt hai dây cương vào trong tay nàng. Nàng cầm lấy chúng cách thờ ơ và ngồi nhìn chằm chằm vào phía trước trong bóng đêm khi ngài Miles và Liff Hyatt vào trong nhà. Họ ngồi trong nhà chuyện với người đàn ông trong ít phút, và ngài Miles trở ra. Khi ngài đến gần, Charity thấy gương mặt hồng hào của ngài mang vẻ sợ hãi nghiêm trọng.

      “Mẹ con chết, Charity! Con nên theo ta!” - ngài .

      Nàng xuống xe theo sau ngài, còn Liff dẫn ngựa ra chỗ khác. Khi đến cửa, nàng tự với mình: “Đây là nơi ta sinh ra, ta thuộc về nơi này”. Nàng thường tự với mình khi nàng nhìn về Núi qua những thung lũng chan hòa ánh nắng, nhưng rồi nó có ý nghĩa gì cả vậy mà giờ đây nó trở thành thực. Ngài Miles dẫn nàng bằng cánh tay dịu dàng, và họ vào cái nơi gọi là phòng trong căn nhà. Trời tối nhưng nàng có thể nhận thấy tá người ngồi hay nằm uờn ra xung quanh chiếc bàn bằng những miếng ván đặt ngang những thùng rượu. Họ bơ phờ nhìn ngài Miles và Charity bước vào, và giọng lè nhè của người đàn bà vang lên: “Đây là ông giáo sĩ.” Nhưng ai nhúc nhích.

      Ngài Miles dừng lại và nhìn xung quanh, rồi quay sang người đàn ông trẻ gặp ngài và Charity ở cửa.

      “Thi thể ở đây chứ?” - ngài hỏi.

      Người đàn ông trẻ thay vì trả lời quay đầu về phía có người ngồi. “Đèn cầy đâu? Tau bảu (bảo) mầy mang đèn cầy mà.” - ta thình lình nổi cáu với người đàn bà quanh quẩn bên chiếc bàn. Bà ta trả lời nhưng người đàn ông đứng lên và lấy ra cây nến trong góc nào đó rồi ấn vào chân nến.

      “Nằm sau để đốt ló nên? Nò tắt gồi.” (Làm sao để đốt nó lên? Nó tắt rồi) - Bà ta cằn nhằn.

      Ngài Miles mò trong chiếc áo choàng nặng nề của mình lấy ra hộp diêm. Ngài đốt nến, và trong phút chốc vùng ánh sáng yếu ớt rơi những gương mặt tái mét vừa ló ra từ bóng tối giống như những con vật thuộc về bóng đêm.

      “Mary ở đằng kia!” - ai đó , và ngài Miles cầm chân nến trong tay, qua phía sau chiếc bàn. Charity theo sau ngài, và họ đứng trước cái nệm để sàn nhà trong góc phòng. người đàn bà nằm đó, nhưng nhìn giống người đàn bà chết mà như bị ngã từ chiếc giường tả tơi trong giấc ngủ say xỉn, và được đặt nằm tại nơi bà ta té trong quần áo rách nát và luộm thuộm. cánh tay vung đầu, cái chân dựng lên trong chiếc váy rách để lộ cái chân trần tới đầu gối: cái chân sưng phồng với chiếc vớ rách tụt xuống tận mắt cá. Người đàn bà nằm ngửa, mắt nhìn lên trần chớp trong ánh nến ngài Miles cầm trong tay.

      “Bà ta té.” - người đàn bà qua vai những người khác; và người đàn ông trẻ thêm vào: “Tôi vừa vào và thấy bà ta như thế.”

      Người đàn ông có tuổi mái tóc lưa thưa với nụ cười méo mó chen vào. “Đúng vậy. Tôi “bảu” (bảo) với bả chỉ đêm trước thôi rằng nếu bả chừa bỏ, cũng có ngày.”

      ai đó kéo ông ta ra và ngồi vào băng ghế kê sát vách. Ông ta lầm bầm những điều mà ai thèm để ý.

      Im lặng bao trùm, rồi người đàn bà trẻ lẩn quẩn chỗ bàn hồi nãy tách ra khỏi nhóm và đứng trước Charity. Chị ta có vẻ khỏe mạnh và đẫy đà hơn những người khác, và gương mặt dãi dầu nắng gió có vẻ đẹp u buồn.

      này là ai? Ai mang ta đến đây?”

      Ngài Miles trả lời. “Tôi mang ấy đến đây. ấy là con của Mary Hyatt.”

      “Gì? Vậy sao?” cười nhạo báng, và người đàn ông trẻ quay sang nguyền rủa chị ta: “Câm cái mồm mày , đ. m., hoặc là mày xéo khỏi đây ngay.” Rồi ông ta trở lại trạng thái lạnh lùng như trước, ngồi phịch xuống băng ghế, đầu dựa vào vách nhà.

      Ngài Miles để cây nến xuống nền nhà, cởi áo choàng ra. Quay sang Charity, ngài : “Nào đến đây và giúp ta tay.”

      Ngài quỳ gối xuống nệm, vuốt mắt cho người chết. Charity run lên và thấy phát bệnh, nàng quỳ gối bên cạnh ngài Miles và cố gắng giúp ngài sửa lại tư thế cho mẹ mình. Nàng kéo vớ lên cái chân đáng sợ, kéo váy xuống tận đôi ủng mòn vẹt. Khi nàng làm việc này, nàng nhìn mặt mẹ mình: gầy, đôi môi há ra những chiếc răng gãy. dấu hiệu nào là dành cho con người cả: bà nằm đó như xác con chó trong cống rãnh làm cho đôi bàn tay của Charity lạnh cóng lên khi chạm vào thân thể của bà.

      Ngài Miles kéo hai cánh tay bà để khoanh ngực, và phủ chiếc áo khoác của ngài lên, rồi lấy chiếc khăn tay của ngài đắp lên mặt và đặt cây nến phía đầu thi thể. Sau khi làm xong mọi việc, ngài đứng lên.

      Ngài quay sang nhóm người đứng phía sau và hỏi: “ có quan tài sao?”

      khoảng im lặng đầy bôi rối; rồi giọng con đanh đá vang lên: “Ông phải mang theo hòm chứ. Tui tìm ở đâu “ga” “tong” cái “xó xỉng” này chứ?”

      Ngài Miles nhìn hết người này đến người khác, ngài lặp lại: “Các người thể tìm được cỗ quan tài sao?”

      “Tui “guồi”: họ chưa bao giờ có cái giường để ngủ” - người đàn bà thầm.

      “Và ống khói cũng hổng phải của bả.” - người đàn ông tóc lưa thưa như để chống chế.

      Ngài Miles quay ra khỏi đám người đó và bước xa ít bước. Ngài lấy từ trong túi ra quyển sách, và sau lúc ngài mở ra và bắt đầu đọc, ngài cầm quyển sách trong cánh tay dài và hạ thấp xuống để những trang sách có thể bắt lấy ánh nến yếu ớt.

      Charity vẫn còn quỳ bên chiếc nệm, bây giờ gương mặt mẹ nàng được phủ kín vì vậy nó dễ dàng có thể ở gần nàng hơn và tránh được bộ mặt kinh hoàng làm nàng sợ khiếp vía.

      “Ta là Sống Lại và là Sống,” - ngài Miles bắt đầu - “ai tin vào Ta, dù chết cũng sống. Dù thân thể có rã tan trong xác phàm cũng gặp được Thượng Đế.”

      Trong xác phàm cũng gặp được Thượng Đế! Charity nghĩ đến cái miệng mở ra và đôi mắt như hai hòn bi đá dưới cái khăn tay, và cái chân sưng bóng.

      “Chúng ta mang gì theo vào cái thế giới này và chúng ta ra bằng tay .”

      Bỗng có tiếng xì xào và cuộc xô đẩy nhau từ nhóm người phía sau. “Tau mang bếp nò (lò)” - ông già tóc thưa vẹt những người khác ra hai bên và . “Tau xuống Creston và mua nó, tau có quyền mang nó ra khỏi đây và tau đánh chết mẹ đứa nào dám tau thể.”

      Người đàn ông trẻ, cao ngủ gật cái băng ghế dựa bên vách nhà la lên: “Ngồi xuống, đ. m. mày!”

      “Cái thứ người dương dương tự đắc ấy mà, lúc nào cũng kiêu kỳ, ồn ào, ta coi ai cũng ga (ra) gì, loại người đó nàm sau (làm sao) mà bảu (bảo) ai hợp được với chứ...”

      “Ừ, ta chứ ai!” - người đàn bà ở phía sau chen vào trong tiếng thở dài e sợ.

      Người trẻ tuổi lê bước chân khập khiễng hét to với những lời nguyền rủa: “Nếu chúng mày im cái miệng chó chúng mày lại tao tống cổ hết bọn mày ga (ra) ngoài bi (bây) giờ. Ông mục sư, ông đừng để chúng nó quấy rầy ông.”

      “Bây giờ Chúa Cứu thế từ trong cõi chết sống lại và Người trở thành những hoa trái đầu mùa dành cho những người ngủ mê. Hãy chú ý, ta chỉ cho các người huyền nhiệm. Chúng ta ngủ, nhưng chúng ta được thay đổi, trong phút chốc, trong nháy mắt, trong tiếng kèn loa cuối cùng. dễ bị hư nát được đưa về tình trạng hư nát, chết chóc được đặt vào nơi bất tử, như câu viết rằng: Tử thần bị nuốt chửng trong niềm vinh quang...”

      Từng lời, từng lời lẽ phi thường đó rót vào đầu Charity cúi xuống, chúng xoa dịu nỗi kinh hoàng của nàng, chinh phục náo động của đám đông, kiềm chế nàng cũng như kiềm chế những sinh vật mê mụ trong cơn say phía sau lưng nàng. Ngài Miles đọc lời cuối cùng rồi xếp sách lại.

      “Có huyệt sẵn sàng rồi chứ?” - ngài hỏi.

      Liff Hyatt, vào nhà trong khi ngài đọc sách, gật đầu : “Rồi ạ!” và xốc tới bên chiếc nệm. Người đàn ông trẻ băng ghế có vẻ như có quan hệ họ hàng máu mủ với người chết, đứng lên và người sở hữu ống khói nhập bọn với ta. Ở chính giữa, họ nâng chiếc nệm lên, nhưng động tác của họ vững làm áo khoác của ngài Miles phủ xác chết rơi xuống sàn nhà, chường ra cái thi thể nghèo khổ đáng thương vô phương giúp đỡ. Charity nhặt cái áo rồi phủ lên mẹ mình lần nữa. Liff mang cây đèn bão, bà già cầm lấy nó, mở cửa để cho đám người qua. Bên ngoài gió thôi thổi nữa, trời đêm tối đen như mực và cực kỳ lạnh. Bà già dẫn đầu, cái đèn lắc lư trong tay và trải rộng trước bà ta là mảnh đất đầy cỏ chết và cây dại lá mọc um tùm xung quanh màu đen mênh mông.

      Ngài Miles nắm cánh tay Charity, họ sánh vai nhau trước tấm nệm. lúc lâu bà già cầm đèn dừng lại, và Charity nhìn thấy ánh sáng rọi vai những người khiêng cúi mình gò đất đó họ rẽ hướng. Ngài Miles thả tay nàng ra và đến bên phía kia của gò đất; và trong khi những người đàn ông cúi xuống thả tấm nệm vào huyệt, ngài lại bắt đầu :

      “Con người được sinh ra bởi người đàn bà nhưng cuộc sống ngắn ngủi đầy khổ cực. Người đến và cất gánh nặng . Ôi, lạy Chúa lòng lành, quyền năng, nhân hậu, xin ban ơn cho chúng con khỏi những điều cay đắng ở trần gian và khỏi chết đời đời.”

      “Được gồi (rồi), đặt bà ta xuống chưa?” - người đàn ông chủ quyền của ống khói hét như còi tàu; và người đàn ông trẻ gọi qua vai: “Liff, mang đèn lại đây, được ?”

      Thời gian như ngừng trôi trong khi đó ánh đèn chập chờn lỗ huyệt. Có ai đó cúi xuống và giật lấy áo choàng của ngài Miles (“! ! Để lại cái khăn tay.” - ta can thiệp vào) và Liff Hyatt tiến về phía trước tay cầm cái xẻng bắt đầu lấp đất.

      “Vì lòng lành của Chúa toàn năng, từ bi đến mang linh hồn người chị em của chúng con , chúng con trao gửi thân thể người chị em này về lòng đất; thân cát bụi trở về nơi cát bụi...” Đôi vai gầy còm của Liff nhô lên thụp xuống trong ánh sáng cây đèn bão khi nó lấp những cục đất vào huyệt. “Chúa ơi - trời lạnh thấu xương.” - nó thào, chà chà hai lòng bàn tay nhau và quệt tay áo sơ mi rách bươm lên gương mặt toát mồ hôi của mình.

      “Chúa Giê-su, Chúa chúng ta, Người thay đổi thân xác hèn mọn của chúng ta để trở thành thân xác vinh quang của Người, nhờ quyền lực toàn năng của Người. Người có thể chinh phục mọi thứ về với Người.”

      “Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta...”

      Ngài Miles lấy cây đèn từ tay bà già và quét vòng ánh sáng qua những gương mặt lờ mờ. “Bây giờ tất cả cùng quỳ xuống!” - ngài ra lệnh, trong điệu mà Charity chưa bao giờ nghe. Nàng quỳ xuống bên cạnh mộ, còn những người khác lúc đầu tuân lệnh hoặc chần chờ, rồi cũng quỳ theo bên cạnh nàng. Ngài Miles cũng quỳ xuống. “Và bây giờ hãy cầu nguyện cùng ta - tất cả chúng ta biết kinh cầu nguyện này.” - ngài và bắt đầu: Lạy cha chúng con ở trời “ vài người đàn bà ngập ngừng bắt cao giọng lên và khi ngài chấm dứt, người đàn ông tóc lưa thưa với người trẻ bằng cái giọng trong cổ họng: “Có ngày rồi cũng chết cái kiểu này, Tau bảu (bảo) nó đêm trước gồi (rồi), tau với nó.” - hồi tưởng của ông ta chấm dứt bằng tiếng nấc.

      Ngài Miles lấy lại chiếc áo choàng. Ngài đến bên Charity còn quỳ gối cách bất động bên núm đất vừa mới đắp.

      “Con , con phải , trễ lắm rồi.”

      Nàng nhướn con mắt lên nhìn ngài: dường như ngài từ thế giới khác.

      “Con thể : con ở lại nơi này.”

      “Đây hả? Ở đâu? Con nghĩ gì vậy?”

      “Đây là những người của con. Con ở lại với họ.”

      Ngài Miles hạ giọng: “Nhưng thể được, con biết con làm gì. Con thể ở giữa những người này: con phải với ta.”

      Nàng lắc đầu và đứng lên. Nhóm người tản trong màn đêm, nhưng bà già cầm cây đèn đứng chờ. Gương mặt bà buồn bã héo hắt nhưng gian ác, và Charity đến bên bà.

      “Bà có chỗ cho cháu nằm ngủ đêm nay ?” - nàng hỏi. Liff đến dẫn theo xe ngựa ra trong đêm tối. Nó nhìn người này rồi người kia với nụ cười yếu đuôi: “Bà là mẹ tui. Bà dẫn về nhà.” - nó và rướn gân cổ lên to với mẹ nó: “Đó là ở nhà ông luật sư Royall - con của bà Mary. Mẹ nhớ nhé”

      Người đàn bà gật đầu và nhướn đôi mắt buồn rầu nhìn vào đôi mắt của Charity. Khi ngài Miles và Liff leo lên xe, bà ta trước để chỉ cho họ đường mà họ phải , rồi im lặng quay trở lại cùng Charity qua bóng đêm.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 17

      Charity nằm cái nệm để sàn nhà giống như cái nệm mà xác mẹ mình được đặt đó. Căn phòng lạnh, tối và trần nhà thấp, nghèo hơn và trần trụi hơn cảnh nhà của Mary Hyatt trong cuộc lữ hành trần ai này. Bên cạnh bếp lò có lửa, mẹ của Liff Hyatt ngủ cái mền với hai đứa bé, bà chúng là hai đứa cháu của mình. Chúng nằm co rút tựa vào bà như hai chú chó con. Chúng nó chỉ có những miếng vải mỏng phủ lên vì nhường chiếc mền duy nhất cho khách.

      Qua cửa kính hình vuông bức tường đối diện, Charity ngồi phía dưới ống khói nhìn ra bầu trời, quá đen, quá xa xôi, quá hồi hộp với những ngôi sao lạnh giá mà chính linh hồn nàng bị nhấn chìm trong đó. cõi xa xôi kia, nàng nghĩ, Thượng Đế mà ngài Miles cầu khẩn chờ đợi Mary Hyatt.

      Chuyến dài bao lâu? biết mẹ nàng gì khi bà gặp Thượng Đế?

      Đầu óc rối bời của Charity cố gắng làm việc để hình dung dĩ vãng của mẹ mình và kết hợp nó trong cách nào đó để nhận được lòng khoan dung của Chúa, nhưng dễ gì tưởng tượng được những mối liên quan giữa hai việc. Tự bản thân nàng thấy rất xa lạ với sinh vật đáng thương nghèo khổ đó. Chính mẹ nàng được hạ xuống lỗ huyệt cách vội vã, và trời cao chia lìa hai mẹ con nàng. Nàng thấy cảnh nghèo khổ và bất hạnh về cuộc sống của mẹ mình, nhưng trong cộng đồng xã hội nơi bà Hawes tằn tiện đáng thương và Ally cần cù đại diện cho gần giống nhất cảnh thiếu thốn, nhưng cũng thể nào so sánh được với cảnh khốn cùng hoang dại của những người nông dân ở Núi này.

      Khi nằm đó, choáng váng vì khởi đầu đầy bi kịch của mình, nàng cố gắng nghĩ về cuộc sống xung quanh. Nhưng nàng thể hiểu mối quan hệ của mình ra sao với mỗi người ở đây và cũng biết liên hệ của họ với người mẹ vừa chết của mình. Dường như họ tụ tập sống thành đàn trong cái loại pha tạp thụ động, trong đó khốn cùng chung là mối dây liên kết mạnh nhất. Nàng cố gắng hình dung cuộc sống của mình nếu được lớn lên ở Núi: chắc là cũng chạy nhảy hoang dại những mảnh vải tả tơi người lúc ban ngày. Đêm đến ngủ chò co sàn nhà, đầu tựa vào mẹ mình giống như những đứa trẻ mặt mày tái mét nằm ngổn ngang cạnh bà già Hyatt, và quay mặt về phía dữ tợn buông ra những lời lẽ rất ư lạ lùng với mình. Nàng sợ mình có mối quan hệ thầm kín với này.

      Những vật xung quanh cho nàng tia sáng để quyết định những bước khởi đầu của riêng mình. Nàng nhớ lại những gì mà ông Royall với Harney buổi tối hôm nào: “Phải, nó có người mẹ, nhưng bà thích cho con mình . Bà ta phải cho nó với bất cứ người nào.”

      Ừ! Sau cùng mẹ mình có đáng bị phê phán nhỉ? Kể từ ngày đó Charity luôn nghĩ về tình cảm của con người sống trong cảnh bần hàn; bây giờ mẹ mình chỉ là kẻ đáng thương. Làm sao người mẹ có thể giữ con mình lại trong cuộc sống như thế này chứ? Charity nghĩ đến tương lai của đứa con mình, và lệ tuôn ra như suôi đôi má tê buốt. Nếu nàng quá kiệt sức và ít nặng nề cơ thể hơn ắt hẳn nàng lao ra và cao chạy xa bay khỏi nơi đó.

      Những giờ khắc ác nghiệt và bóng đêm chầm chậm trôi . Cuối cùng bầu rời cũng ló dạng ánh bình minh và chùm tia sáng xanh, lạnh rọi vào phòng. Nàng nằm trong góc, nhìn trân trân vào sàn nhà bẩn thỉu, những bộ quần áo tả tơi treo lủng lẳng.

      Bà già vứt bừa bãi các thứ vào lò, và dần dần ánh sáng bùng lên trong cái thế giới ảm đạm lạnh lẽo này. ngày mới bắt đầu mà trong đó nàng phải sống, lựa chọn, hoạt động và tạo cho mình nơi ở, hoặc giữa những người này hay là phải trở về cuộc sống mà nàng vừa rời bỏ.

      mệt mỏi chết người đè nặng nàng. Có những khoảnh khắc nàng cảm thấy tất cả những gì mình đòi hỏi là được tiếp tục nằm ở đó mà bị phát . Rồi trí óc nàng nổi dậy: mình phải rời khỏi nơi này để tránh cho đứa con khỏi số phận sống bầy đàn, khốn cùng. Vì vậy nàng cố gắng lấy lại sức mạnh để quãng đường xa dù là vạn dặm và dù có bất cứ gánh nặng nào đè xuống đôi vai mình.

      Những ý tưởng lờ mờ về Nettleton thoáng qua óc nàng. Nàng với mình rằng nàng tìm nơi nào đó yên tĩnh và có thể cưu mang đứa bé và nhờ người nào đứng đắn trông coi nó, rồi nàng tìm Julia Hawes và kiếm tiền để nuôi sống hai mẹ con. Nàng biết những loại này đôi khi chỉ kiếm đủ tiền để cho con cái họ được sống cách chu đáo: con nàng sạch , tóc tai gọn gàng, mặt mũi hồng hào, và trốn đâu đó khi nàng có thể chạy vào vào ôm hôn nó, và mang nhiều quần áo đẹp về cho nó mặc. Bất cứ điều gì, bất cứ điều gì tốt hơn là cuộc sống trong cái tổ bần cùng như Núi.

      Bà già và những đứa trẻ vẫn ngủ khi Charity nhổm dậy. Thân cứng đờ vì lạnh và mệt mỏi, nàng bước nhè để gây tiếng động làm họ thức giấc. Nàng lả vì đói, và cũng còn gì trong túi xách của mình, nhưng nàng thấy có nửa ổ bánh mì cũ, ôi thiu bàn. Chắc là bữa ăn sáng của bà già Hyatt và lũ trẻ, nhưng Charity cần biết, nàng có con trong bụng nên cần thứ thực phẩm này ngay bây giờ. Nàng xé miếng bánh mì cho vào miệng và nhai ngấu nghiến, rồi nàng nhìn xuống những gương mặt ôrn nhom của hai đứa bé ngủ, lòng đong đầy hôi hận, nàng lục trong túi xách tìm xem có thứ gì đó để trả cho cái mình lấy. Nàng lấy ra trong những chếc áo sơ mi mà Ally may cho nàng có dây ruy băng chạy viền mép áo. Nó là trong những chiếc áo thanh nhã mà nàng lãng phí món tiền dành dụm của mình, và khi nhìn nó máu nàng chạy dồn lên trán. Nàng đặt chiếc áo sơ mi lên bàn và rón rén đến bên cửa như kẻ trộm, nhấc then cài cửa và ra.

      Buổi sáng trời lạnh như băng và mặt trời mờ mờ mọc phía đông của Núi. Những mái nhà bốc khói, nằm lạnh lẽo, lẻ tẻ bên cạnh đồi dưới những cụm mây xen lẫn những đốm sáng mặt trời. sinh vật nào trong khung cảnh đó. Charity dừng lại ở ngưỡng cửa và cố tìm con đường mà nàng tối qua.

      Băng qua cánh đồng quanh căn chòi của bà Hyatt, nàng thấy căn nhà đổ nát, nàng cho đó là nơi dành để phục vụ tang lễ. Giữa hai căn nhà, đường mòn chạy băng qua dải đất biến mất trong rừng thông hông Núi. Có lối ăn thông bên phải phía dưới bụi gai bị gió thổi quần quật, có ụ đất còn mới tinh lởm chởm gốc rạ tạo thành những chấm nâu vàng thẫm.

      Charity băng qua cánh đồng đến dải đất. Khi đến gần, nàng nghe tiếng hót líu lo trong gian tĩnh mịch, khi nhìn lên nàng thấy chú chim sẻ đậu nhánh cây gai cao ngôi mộ. Nàng đứng yên phút để lắng nghe bài ca đơn của nó; rồi nàng tiếp bước đường mòn và bắt đầu leo lên ngọn đồi vào rừng thông.

      Tận đáy lòng, nàng bị thúc ép bởi bản năng mù quáng về chuyến . Nhưng mỗi bước chân dường như mang nàng đến gần hơn mà trong đêm vừa qua vì bồn chồn ngủ cho nàng những hình ảnh rệt. Bây giờ nàng lại bước trong thế giới đầy ánh sáng ban ngày, con đường trở lại những thứ quen thuộc, tưởng tượng của nàng trở nên chín chắn hơn. Cùng quan điểm, nàng vẫn còn quyết định là mình thể ở lại North Dormer, và càng sớm xa rời nó càng tốt hơn. Nhưng ở nơi nào đó vẫn còn mờ mịt tối tăm.

      Nàng tiếp tục leo lên trong bầu khí càng lúc càng trở nên lạnh thấu xương. Khi khỏi rặng thông, ngọn Núi đầy cỏ mở ra trong gió lạnh của đêm trước cách xa nàng. Nàng rụt đôi vai để chông cái lạnh trong lúc, nhưng chẳng mấy chốc hơi thở lụn tàn, nàng ngồi ghềnh đá có những cây bu-lô đong đưa bên dưới.

      Từ chỗ ngồi, nàng thấy đường mòn ngoằn ngoèo trong đám cỏ nhuộm trắng theo hướng đến Hamblin, và bức tường gra nit của Núi trải dài xa tít. Phía bên kia, dải thung lũng vẫn còn nằm trong bóng râm lộng gió, nhưng đồng bằng, mặt trời ve vuốt những mái nhà và các tháp chuông nhà thờ trong làng bằng những tia nắng vàng óng trong cõi mờ sương trải dài đến tận những thành phố xa xôi mà mắt thường nhìn .

      Charity cảm thấy mình chỉ là hạt bụi của vòng quay đơn độc trong bầu trời. Những kiện xảy ra trong hai ngày vừa qua dường như hoàn toàn chia cách nàng vĩnh viễn với giấc mộng hạnh phúc ngắn ngủi của mình. Ngay cả hình ảnh của Harney cũng bị lu mờ do những việc trải qua làm cho liểng xiểng: nàng nghĩ ta nơi quá xa xôi đến nỗi hình ảnh ta khó tồn tại trong ký ức. Trong trí óc mỏi mệt và bềnh bồng chỉ có cảm giác nặng nề là thực tế, đó là cơ thể mang nặng đứa con mình. Nhưng vì việc này nàng ước gì mình giống như nùi bông được gió mang . Con nàng là khối nặng kéo trì nàng xuống, và như có bàn tay nào đó kéo giữ bước chân nàng. Nàng tự với mình là phải đứng dậy và chiến đấu.

      Nàng ngoái lại nhìn con đường mòn băng ngang qua đỉnh Núi, từ đằng xa nàng thấy chiếc xe độc mã nổi bật nền trời. Nàng biết dáng bên ngoài đóng theo kiểu cổ của nó và con ngựa gầy gò đầu thấp cúi về phía trước. Sau lúc, nàng thấy người to xác, nặng nề cầm dây cương. Chiếc xe ngựa theo đường mòn và lao thẳng vào rừng thông mà nàng leo lên, nàng biết chắc người lái xe tìm nàng. Ý nghĩa đầu tiên là núp vào tảng đá bên dưới cho đến khi ông ta chạy ngang qua, nhưng bản năng trốn tránh bị chế ngự bởi cảm giác muốn có ai đó gần mình trong nơi hoang vắng kinh khủng này. Nàng đứng lên và thẳng về hướng xe ngựa.

      Ông Royall nhìn thấy nàng nên dừng ngựa. vài phút sau ông đến bên cạnh Charity; đôi mắt họ gặp nhau nhưng lời nào, ông nghiêng mình và giúp nàng lên xe.

      Nàng cố gắng nhưng cà lăm, giải thích nên lời. Ông Royall vừa kéo tấm vải che đôi gối nàng vừa cách đơn giản: “Mục sư với tôi: ngài để em ở đây nên tôi đến đón.”

      Ông quay đầu ngựa và họ bắt đầu chậm về hướng Hamblin. Charity ngồi lặng thinh, nhìn đăm đăm về phía trước, còn ông Royall thỉnh thoảng vài lời để khuyến khích con ngựa: “ dọc theo hướng đó, Dan. Tôi cho nó nghỉ lúc ở Hamblin, nhưng tôi cho nó chạy nhanh hơn chút để chống lại gió rít thổi lên đây.”

      Nàng nghĩ, để đến tận đỉnh Núi lúc này ắt hẳn ông Royall phải rời North Dormer rất sớm trong cái giờ lạnh nhất ban đêm, phải ngừng và chỉ tạm nghỉ ở Hamblin. Khi ông chuyện, lần đầu tiên nàng có lại cảm giác dịu dàng trong tim mà lâu rồi nó còn rung động dành cho ông, kể từ khi ông mang về cho nàng loại dây leo màu đỏ thẫm, sau ngày nàng nhập học ở trường nội trú mà ở lại với ông.

      Sau lúc, ông lại : “ ngày xa xưa giống như vầy, chỉ có tuyết lún phún rơi, khi tôi đến đón em lần đầu tiên ở đây.” Rồi như thể sợ rằng nàng có thể nhận ra lời bình luận của ông như là nhắc lại quá khứ nhằm lấy lòng nàng, ông nhanh nhẩu thêm: “Tôi biết em có nghĩ việc như vậy là tốt hay ?”

      “Vâng, có.” - nàng thầm, nhìn thẳng phía trước.

      “Ừ,” - ông - “tôi cố...”

      Ông hết câu, còn nàng cũng nghĩ được điều gì để .

      “Hô, đằng kia Dan, bước ra,” - ông càu nhàu, giật mạnh dây cương. “Chúng ta chưa đến nhà, em lạnh hả?” - ông thình lình hỏi.

      Nàng lắc đầu nhưng ông kéo miếng đắp cao hơn, và cúi xuống để ấn nó vào xung quanh hai mắt cá chân. Nàng tiếp tục nhìn thẳng về phía trước. Những giọt lệ ràn rụa và mệt rũ làm mờ đôi mắt, nhưng nàng dám lau chúng vì sợ ông phát ra cử chỉ của mình.

      Họ lái xe trong im lặng, theo sau những con đường vòng xuống Hamblin, và ông Royall chuyện cho đến khi họ đến tận vùng ngoại ô của ngôi làng. Rồi ông để dây cương cái chắn bùn phía trước và xem đồng hồ.

      “Charity!” - ông - “Em làm đúng. North Dormer là nơi đáng để lìa xa. Tôi thấy chúng ta nên dừng lại ở đây để em có đủ thời gian ăn bữa điểm tâm no nê rồi lái xuống Creston để đón xe lửa.”

      Nàng nhổm dậy từ mơ màng thờ ơ: “Xe lửa? Xe lửa nào?”

      Ông Royall trả lời và để ngựa chậm cho đến khi họ đến ngôi nhà đầu tiên trong làng: “Đây là nhà bà Hobart.” - ông - “Bà ấy cho chúng ta uống thức gì đó cho ấm lòng.”

      Charity nửa mê nửa tỉnh, tự mình xuống khỏi xe ngựa và theo sau ông vào cửa mở. Họ vào nhà bếp tươm tất có lửa cháy tí tách trong lò. bà già có khuôn mặt phúc hậu đặt những chiếc tách vào những chiếc đĩa bàn. Bà nhìn lên gật đầu chào khi họ bước vào, ông Royall tiến về phía lò sưởi, vỗ vỗ hai bàn tay lạnh cóng của mình lại với nhau.

      “Này, bà Hobart, bà có món điểm tâm nào cho trẻ này ? Bà xem, ấy vừa lạnh vừa đói.”

      Bà Hobart mỉm cười với Charity và lấy bình cà phê bếp lửa. “Ôi Chúa ơi, nom tiều tụy quá!” - bà ta cách xót thương.

      Charity đỏ mặt, ngồi vào bàn. cảm giác hoàn toàn thụ động lần nữa đến với nàng, giờ đây nàng hiểu những cảm giác vui vẻ của con người khi được ấm áp và nghỉ ngơi.

      Bà Hobart để bánh mì và sữa bàn, rồi ra khỏi nhà: Charity thấy bà dẫn ngựa ra vựa thóc ngang sân nhà. Bà trở lại, ông Royall và Charity ngồi trơ trọi ở bàn với khói cà phê nghi ngút giữa họ. Ông rót ra tách cà phê cho nàng, và để bánh mì vào đĩa . Nàng bắt đầu ăn.

      Khi hơi nóng cà phê lan dần trong mạch máu, ý nghĩ của nàng ràng hơn và nàng bắt đầu cảm thấy như mình là sinh vật được sống lại lần nữa; nhưng việc quay về cuộc sống quá đau đớn đến nỗi nàng nghẹn trong cổ họng và ngồi nhìn xuống bàn trong im lặng ê chề.

      Sau lúc ông Royall đẩy ghế ra phía sau. “Nào!” - ông - “Nếu em nghĩ mình phải lên đường ...” Nàng nhúc nhích và ông tiếp: “Chúng ta có thể đón chuyến xe trưa đến Nettleton nếu em muốn thế.”

      Những lời lẽ đó đưa máu dồn lên mặt nàng, nàng giật mình nhướn cặp mắt lên nhìn ông đứng phía bên kia bàn nhìn nàng say đắm và buồn buồn. Nàng hiểu ra những gì mà ông sắp sửa . Nàng vẫn ngồi bất động.

      “Em và tôi những điều khó chịu cùng nhau trong thời gian qua, Charity, và có gì tốt để thêm bây giờ. Nhưng tôi bao giờ cảm thấy có cách gì khác hơn là “vì em”. Nếu em muốn , chúng ta còn kịp giờ để đáp xe lửa rồi đến thẳng nhà vị mục sư, và khi em trở về nhà em có danh phận là bà Royall.”

      Giọng ông có điệu buồn, thuyết phục mà làm cảm động người nghe ở buổi lễ Trở về Mái Nhà Xưa, nàng cảm thấy có khoan dung cực kỳ thương đau dưới cái giọng dễ chịu đó. Toàn thân nàng bắt đầu run lên lầy bẩy trong nỗi lo sợ mềm yếu của riêng mình.

      “Ôi, tôi thể!” - nàng bật ra tiếng kêu thất vọng.

      thể gì chứ?”

      Bản thân nàng cũng biết: nàng chắc nàng nên nhận những gì ông sẵn sàng trao tặng hay là chiến đấu chống lại sức cám dỗ của việc nhận những gì mà nàng còn có quyền nhận. Nàng đứng lên, run rẩy, bối rối và bắt đầu :

      “Tôi biết tôi luôn luôn công bằng với ông, nhưng bây giờ tôi muốn được...Tôi muốn ông biết... Tôi muốn...” - giọng nàng trở nên yếu và dừng lại.

      Ông Royall tựa vào vách nhà. Ông tái xanh hơn bao giờ hết, nhưng gương mặt vẫn điềm tĩnh, tử tế và chông đối của nàng làm xáo trộn ông.

      “Tất cả những cái muốn đó là gì?” - ông khi nàng ngập ngừng - “Em có biết em muốn gì ? Tôi em nghe. Em muốn được đưa về nhà, được chăm sóc ân cần. Và tôi đoán đó là tất cả những gì em muốn.”

      ... đó phải tất cả...”

      phải sao?” - Ông nhìn đồng hồ - “Ừ để tôi cho em điều khác. Tất cả mọi điều tôi muốn là em lấy tôi. Nếu có việc gì khác tôi cho em biết, nhưng có. Ở vào tuổi tôi, người đàn ông biết việc gì nên làm và việc gì nên làm, đó là cách làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn.”

      Giọng của ông chắc nịch và cương quyết mà nó giống như cánh tay nâng đỡ quanh nàng. Nàng cảm thấy kháng cự của mình tan chảy, sức mạnh của nàng trôi xa khi ông .

      “Đừng khóc, Charity!” - ông giọng run run. Nàng nhìn lên, giật mình vì xúc cảm của ông, và đôi mắt họ gặp nhau.

      “Nhìn nè!” - ông cách dịu dàng - “Con Dan già nua những dặm dường dài, và chúng ta để cho nó nghỉ ngơi giữa chặng đường.”

      Ông ta lấy áo khoác của mình để ghế và choàng nó quanh vai nàng. Nàng theo sau ông ta ra khỏi nhà, và băng qua sân đến kho nơi con ngựa cột ở đó. Ông Royall ra đường mà áo choàng. Charity vào xe và ông kéo tấm vải choàng phủ quanh nàng rồi lắc lắc dây cương. Khi họ đến cuối làng, ông quay đầu ngựa về hướng Creston.


      Chương 18

      Họ bắt đầu chậm con đường lộng gió đến thung lũng với những bước chân nặng nề, mệt nhọc của con ngựa già. Charity cảm thấy mình chìm trong rã rời, và khi họ xuyên qua những cây cối xác xơ, có những khoảnh khắc nàng mất chính xác về các vật. Nàng thấy dường như mình ngồi bên cạnh người dưới vòm cây rậm lá cúi xuống họ giữa mùa hè. Nhưng ảo tưởng này yếu ớt và phù du. Hầu hết những gì nàng có, chỉ là những cảm xúc bối rối của trượt chân xuống dòng xoáy mà thể nào cưỡng lại được; và trong cảm giác vằn vặt đó, nàng quên mình là kẻ đào tẩu.

      Ông Royall trở nên ít . Lần đầu tiên ông cho nàng có cảm giác an toàn và bình yên vì diện lặng lẽ của ông. Nàng biết, nơi nào có ông nơi đó tràn đầy ấm áp, yên tâm, tĩnh lặng; và trong chốc lát nàng thấy đó là tất cả những gì nàng muốn. Nàng nhắm mắt lại và những điều này mờ mờ đến với nàng.

      xe lửa, suốt con đường ngắn từ Creston đến Nettleton, nàng cảm thấy ấm áp và tỉnh táo, được ngồi chung với những người xa lạ cho nàng chút sinh khí. Nàng ngồi thẳng, đối diện với ông Royall. Nàng nhìn vào vùng thôn dã trần trụi qua cửa sổ. Bốn mươi tám giờ trước đây, khi nàng ngang, nhiều cây vẫn còn đong đưa những chiếc lá vậy mà cơn gió mạnh hai đêm vừa qua tước sạch còn chiếc nào, phong cảnh hai bên đường ràng giống như cảnh của tháng Mười Hai.

      vài ngày lạnh lẽo của mùa thu xóa hết dấu vết trù phú những cánh đồng. Giờ chỉ còn lại những lùm cây đứng uể oải thiếu sinh khí mà trước đây nàng qua vào ngày Quốc khánh 4 tháng 7. Với khung cảnh ủ rũ như thế cũng làm cho con người mất sôi nổi mà u buồn lây theo nó. Nàng còn tin rằng mình là người từng sông qua những giờ phút đó, nàng là ai khác phạm phải sai lầm mà thể sửa sai được. Nàng cũng thể chông lại những gì xảy ra, nhưng rồi những dấu vết đó hầu như tan biến theo từng bước chân tiến về phía trước.

      Khi xe lửa đến Nettleton, nàng vào quảng trường bên cạnh ông Royall với cảm giác càng lúc càng tăng thể nào chế ngự được. căng thẳng thể xác của ngày, đêm nhường chỗ cho những cảm giác mới và nàng theo sau ông Royall cách thụ động như đứa trẻ mệt mỏi. Như giấc mơ lộn xộn, trong chốc lát nàng thấy mình ngồi cùng ông trong căn phòng dễ chịu, có thức ăn nóng và trà được đặt sẵn ở cái bàn có phủ tấm vải đỏ và trắng. Ông rót đầy cốc trà và cho thức ăn vào đĩa của nàng. Bất cứ khi nào nàng nhướn mắt lên nàng cũng thấy ông nhìn mình cách dịu dàng, kiên định giống như khi họ đối mặt nhau trong nhà bếp của bà Hobart.

      Đôi mắt đầy thất vọng, trong ý thức của nàng mọi vật càng lúc càng trở nên lộn xộn và vô hình giống như ánh sáng mờ ảo hòa tan vào trong thế giới. diện kiên quyết của ông Royall bắt đầu tháo gỡ mọi phiền phức cho nàng.

      Nàng luôn luôn nghĩ đến ông - khi nàng nghĩ tất cả về ông - ông là người đáng ghét và hay gây trở ngại. Ông là người mà nàng có thể đánh lừa và chiếm ưu thế khi nàng chọn kết quả. Duy nhất lần, vào ngày kỷ niệm “Trở về Mái Nhà Xưa”, những câu ông ta , tản mạn trôi bềnh bồng trong trí óc buồn phiền của nàng. Nàng cho đó là những lời lẽ thông minh của kẻ thù mà kẻ thù đó lại là người nuôi dưỡng, bảo bọc nàng trong cuộc sống. Qua những giấc mơ của riêng nàng, ông chỉ là người đứng ngoài với thái độ bàng quang đáng kinh ngạc. Rồi trong lúc, những gì ông - và điều gì đó trong cách của ông về nó - làm cho nàng thấy ông luôn luôn quật ngã nàng theo cách của người đàn ông đơn. Nhưng màn sương mù bao phủ những giấc mơ của nàng giờ đây lại phủ kín ông, và nàng quên cảm giác mình là người đào tẩu.

      Khi họ ngồi ở bàn, cảm giác đơn vô hạn trở lại với nàng, rồi nàng chợt cảm thấy có gần gũi giữa hai người. Tuy nhiên những cảm giác này chỉ là những vệt sáng lờ mờ phát ra từ yếu đuôi của cơ thể nàng mà thôi. Chẳng mấy chốc, nàng nhận thấy ông Royall để nàng ngồi lại mình bên cạnh bàn trong căn phòng ấm áp. lúc sau, ông trở lại với cỗ xe ngựa từ sân ga. Đó là chiếc xe ngựa cho thuê có những bức màn che bằng tơ xanh màu bạc. Họ lái xe đến ngôi nhà có giàn dây leo đứng cạnh bên ngôi giáo đường có thảm cỏ phía trước. Chiếc xe ngựa chờ ở ngoài, họ ra khỏi nhà này, theo lối vào hành lang có ván ốp ở chân tường rồi vào căn phòng có rất nhiều sách. Trong phòng này, vị tu sĩ mà Charity chưa hề gặp chào đón họ cách vui vẻ, và mời họ ngồi chờ vài phút trong khi những người làm chứng được triệu tập đến.

      Charity ngồi xuống cách ngoan ngoãn vâng lời, còn ông Royall hai bàn tay để ra sau lưng, chầm chậm nhịp lên nhịp xuống trong căn phòng. Khi ông quay lại và đối diện với Charity, nàng phát ra môi ông hơi run run: nhưng cái nhìn trong mắt của ông từ tốn và ngọt ngào. Rồi ông dừng lại trước nàng và cách nhút nhát: “Tóc em bị gió làm tuột”. Nàng nhấc đôi bàn tay lên, cố gắng vuốt cho nó suôn về phía sau và cột chặt bằng dây cột tóc. Có cái kính soi lồng trong khung chạm khắc tường, nhưng nàng mắc cỡ dám soi mình trong đó. Nàng ngồi hai tay khoanh gối cho đến khi vị giáo sĩ trở lại. Họ lại ra dọc theo hành lang có mái vòm rồi vào căn phòng cũng được xây theo hình vòm có cây thánh giá bàn thờ và nhiều dãy ghế. Vị giáo sĩ trong chốc lát lại xuất trước bàn thờ trong bộ áo tế, và phụ nữ có lẽ là vợ của ngài cùng người đàn ông mặc chiếc áo sơ mi xanh, người ấy gom những chiếc lá chết trong bãi cỏ, đến ngồi vào trong những hàng ghế.

      Vị giáo sĩ mở sách rồi ra dấu cho Charity và ông Royall đến gần. Ông Royall tiến về phía trước ít bước, và Charity theo sau như theo ông đến chiếc xe độc mã khi họ ra khỏi nhà bếp của bà Hobart; nàng cảm thấy rằng nếu nàng chần chừ tiến bước gần ông và làm theo những gì ông bảo thế giới sụp đổ dưới chân nàng.

      Vị giáo sĩ bắt đầu đọc, trong lúc đó đầu óc choáng váng của nàng nổi lên hình ảnh ngài Miles đứng trong đêm trước căn nhà quạnh hiu của Núi, và đọc trong cùng cuốn sách những lời mà nó có cùng giọng kinh khiếp sau cùng:

      “Tôi cần cho chị biết vào ngày phán xét cuối cùng kinh khiếp, mọi bí mật của con tim đều bị phơi trần mà mỗi người trong chị nếu có điều gì đó làm ngăn trở đăng ký giá thú việc kết hôn hợp pháp.”

      Charity nhướn mắt lên bắt gặp đôi mắt của ông Royall. Đôi mắt đó vẫn nhìn nàng tử tế và thiết tha. lúc sau, nàng nghe ông : “Tôi sẵn sàng!” nhưng rồi nàng thể nắm bắt được những lời tiếp theo vì nàng bận tâm để hiểu cử chỉ của vị giáo sĩ ra hiệu cho nàng phải theo những gì ngài đọc. Sau đó người phụ nữ đứng lên, lấy bàn tay nàng đặt vào tay ông Royall. Bàn tay nàng nằm gọn trong lòng bàn tay khỏe mạnh, và nàng thấy chiếc nhẫn rất lớn để nàng xỏ ngón tay thanh mảnh của mình vào. Rồi nàng hiểu mình kết hôn.

      Vào buổi chiều muộn, Charity ngồi mình trong phòng dâu của khách sạn sang trọng nơi nàng và Harney tự mãn tìm bàn vào ngày Quốc khánh. Trước đây nàng chưa bao giờ thấy căn phòng trang hoàng đồ đạc đẹp đến như vậy. Cái kiếng bàn phấn phản chiếu đầu giường bằng gỗ có đường vân với những chiếc gối cái giường đôi, và tấm trải giường trắng tinh chút tì ố đến nỗi nàng chần chừ dám để mũ và áo khoác của mình lên đó. Lò sưởi kêu o o tỏa ra bầu khí ấm áp làm người dễ buồn ngủ, và qua cái cửa khép hờ nàng thấy những cái vòi nước mạ kền lấp lánh hai cái bồn rửa bằng cẩm thạch.

      Trong lúc, xôn xao rối loạn của ngày và đêm tuột khỏi nàng và nàng ngồi nhắm mắt, phó mặc cho quyến rũ ấm áp và yên tĩnh. Nhưng chẳng mấy chốc nàng tỉnh giấc sau cơn say ngủ vì mệt mỏi. Khi mở mắt ra, nằng lừ đừ nhìn lên bức ảnh treo đầu giường. Nó là bức ảnh lớn chạm trổ với đường viền màu trắng, sáng chói bao quanh bởi khung ảnh rộng bằng gỗ thích, bên trong có chú chim. Bức chạm trổ miêu tả chàng trai trẻ trong chiếc thuyền mặt hồ mà phía có rất nhiều cây. ta cúi mình xuống nhặt những đóa hoa thủy tiên cho ăn mặc nhàng nằm giữa nệm trong tư thế lạnh lùng. Cảnh tượng đầy ánh sáng rực rỡ của thời điểm giữa hè, và Charity ngoảnh nhìn nó, nàng rời ghế và bắt đầu loanh quanh trong phòng.

      Phòng nàng ở tầng thứ năm, có cửa sổ rộng với kính dầy nhìn xuống những mái nhà trong thành phố. Phía bên kia, phong cảnh đầy cây cối trải rộng, trong đó những đóm lửa cuối cùng của hoàng hôn lập lòe chờ tắt. Charity nhìn chăm chăm vào chùm ánh sáng với đôi mắt ngạc nhiên. Trong buổi chiều tàn, nàng nhận ra đường viền nhè lượn quanh những ngọn đồi, và con đường trong đồng cỏ nghiêng dốc nó, đó là hồ Nettleton mà nàng nhìn ngắm.

      Nàng đứng hồi lâu bên cửa sổ nhìn ra mặt hồ. Trong khoảnh khắc thôi thúc cũ về “chuyến bay xa” quét ngang nàng, nhưng đó chỉ là nhấc lên của đôi cánh gãy. Nàng nghe cửa mở phía sau mình và ông Royall bước vào.

      Ông Royall đến tiệm hớt tóc để cạo râu, và mái tóc bạc rễ tre của ông được cắt tỉa và chải chuốt.

      Ông ta di chuyển mạnh bạo và nhanh, thẳng vai và đầu ngẩng cao như thể là ông ta muốn qua mà ai nhận thấy.

      “Em làm gì trong bóng tối vậy?” - ông Royall lớn với giọng vui vẻ. Charity trả lời. Ông đến bên cửa sổ kéo màn và đặt ngón tay bức tường, và rồi ánh sáng chiếu ra ngập tràn từ cái đèn chùm chính giữa phòng. Trong rực rỡ quen thuộc này, chồng và vợ mặt nhìn mặt cách lúng túng trong lúc; rồi ông Royall : “Chúng ta xuống và ăn tối nếu em muốn.”

      Nghe đến thức ăn nàng cảm thấy ghê sợ muốn ói nhưng dám thú nhận, nàng vuốt tóc mình và theo ông vào thang máy.

      giờ sau, ra khỏi phòng ăn sáng choang, nàng chờ trong hành lang đá hoa có kính trong khi ông Royall đứng trước hàng rào mắt cáo bằng đồng của góc quày để chọn xì gà và mua báo buổi tối. Những người đàn ông thơ thẩn trong những chiếc ghế đá dưới các ngọn đèn chùm chiếu sáng, kẻ đến người , chuông reo, những người khuân vác lê bước bên cạnh hành lý. Khi ông Royall đứng tựa vào quày, qua vai ông, tóc búi cao cười điệu với người đánh trông ăn mặc bảnh bao rồi lấy chìa khóa của ta ở bàn và ngang qua sảnh.

      Charity đứng giữa những dòng tư tưởng đối lập này của cuộc sống, bất động và trơ cứng như thể nàng là trong những chiếc bàn bị xoắn đinh ốc chặt vào sàn nhà đá hoa. Tất cả linh hồn nàng bị gom lại thành cảm giác yếu đau dần vào cõi chết. Nàng nhìn ông Royall trong dáng vẻ quyến rũ kinh hồn khi ông kẹp điếu xì gà và mở tờ báo buổi tối với bàn tay vững chắc.

      lúc sau, ông quay sang với nàng: “Em lên phòng ngủ nhé - ngồi dưới này lúc để hút xì gà.” Ông nghe dễ chịu và tự nhiên như thể họ là đôi vợ chồng già, mỗi người đều hiểu tánh ý của nhau lâu năm, và trái tim yếu đuối của nàng cảm thấy có khuây khỏa. Nàng theo ông đến thang máy, đưa nàng vào và bấm nút, rồi sau đó cậu con trai mặc trang phục có viền dẫn nàng đến phòng mình.

      Nàng mò mẫm tìm lối trong bóng đêm, quên mất nút bấm điện nằm ở đâu và cũng biết làm thế nào để thao tác nó. Nhưng trăng thu ló dạng, và bầu trời sáng trong rọi ánh sáng nhàn nhạt vào phòng. Nàng thay y phục và xếp lại những chiếc gối có viền ren rồi rụt rè bò lên chiếc khăn trải giường vết dơ. Nàng chưa bao giờ cảm thấy những tấm khăn mịn màng, trơn bóng và những chiếc mền , ấm áp như vậy, nhưng chiếc giường êm ái làm dịu cơn đau của nàng. Nàng nằm đó run rẩy với nỗi sợ chạy khắp cùng mạch máu giống như băng tuyết. “Mình làm gì vậy? Ôi, tôi làm gì?”- nàng thều thào, run bắn lên, vùi mặt vào gối để che khung cảnh mờ nhạt bên ngoài cửa sổ, nàng nằm trong bóng tối bịt hai tai và giũ bỏ mọi bước chân đến gần.

      Thình lình nàng ngồi dậy ấn hai bàn tay vào trái tim run sợ. tiếng động cho nàng biết có ai đó trong phòng, ắt hẳn là nàng ngủ trong lúc nên biết có người vào phòng. Mặt trăng chễm chệ ngồi ngoài kia những mái nhà, và trong bóng đêm, bên ô cửa sổ vuông màu xám nàng thấy dáng người ngồi chiếc ghế đá. Dáng dấp đó động đậy: ngồi sâu vào ghế, đầu cúi xuống và hai tay khoanh lại. Ông Royall ngồi đó. Ông cởi đồ, nhưng lấy cái mền ở chân giường và đắp nó hai đầu gối. Run rẩy và nén hơi thở nàng nhìn ông, sợ ông bị đánh thức bởi động tác của mình. Ông Royall nhúc nhích và nàng kết luận rằng ông muốn nàng nghĩ là ông ngủ.

      Tiếp tục nhìn ông, nàng thấy khuây khỏa thể tả được, những dây thần kinh căng thẳng và thể xác kiệt sức giờ được thư giãn. Ông biết, rồi ông biết, ông cưới nàng, và rằng ông ngồi đó trong bóng tối để cho nàng biết mình được an toàn khi ở cùng ông. Qua khối óc mệt mỏi của mình, nàng xao xuyến về ông. Thận trọng, tiếng động, nàng để đầu mình vùi sâu vào trong gối.

      Khi nàng thức dậy căn phòng chan hòa ánh sáng, và cái nhìn đầu tiên cho nàng biết chỉ có mình nàng trong đó. Nàng đứng lên và thay đồ, khi nàng cột dây áo cửa mở, và ông Royall bước vào. Ông có vẻ già và mệt mỏi trong ánh sáng ban ngày, nhưng gương mặt vẫn mang nét buồn buồn, thân thiện mà gây cảm giác an toàn cho nàng khi ở Núi.

      Họ xuống lầu vào phòng ăn để dùng điểm tâm, và sau bữa ăn ông Royall bảo nàng rằng ông có vài công việc bảo hiểm phải làm. “ nghĩ khi bận công việc em nên bước ra ngoài và tự mua sắm bất cứ thứ gì em cần.” Ông mỉm cười và thêm cách ngường ngượng: “ luôn muốn em đánh bại tất cả các khác.” Ông rút trong túi hai tờ giấy bạc hai mươi đô la, và đẩy nó ngang qua bàn cho nàng. “Nếu chưa đủ, đưa thêm - muốn em đánh bại họ ở mọi thung lũng.” - ông ta lặp lại.

      Nàng đỏ mặt và lắp bắp lời cám ơn, nhưng ông đẩy ghế ra sau và bước thẳng ra khỏi phòng ăn. Trong sảnh, ông dừng lại chút để rằng nếu nàng thấy thích họ đáp chuyến xe lửa ba giờ chiều để về lại North Dormer. Ông lấy mũ và áo khoác từ cái giá áo và ra.

      vài phút sau, Charity cũng ra. Nàng ngó xem ông Royall hướng nào, rồi hướng ngược lại và nhanh xuống con đường chính đến tòa nhà gạch góc đại lộ Lake. Ở đó nàng nhìn lên nhìn xuống cách cẩn thận con đường lớn, rồi leo lên cầu thang bọc đồng đến cửa phòng bác sĩ Merkle. Cũng cái đầu tổ quạ, da trắng lai đen ra tiếp nàng. Sau lúc ngồi chờ ở phòng khách có những ghế lông, nàng được triệu vào phòng của bác sĩ Merkle. Bác sĩ tiếp nàng chút ngạc nhiên, và dẫn nàng vào bên trong nơi “thiêng liêng” có phủ vải nhung đỏ.

      “Tôi nghĩ trở lại mà, nhưng đến quá sớm: Tôi bảo phải kiên nhẫn và được cáu kỉnh.” - bà ta quan sát bằng cái nhìn nhức nhối thấu xương.

      Charity rút tiền từ trong ngực ra: “Tôi đến để chuộc lại kim cài áo màu xanh của tôi.” - nàng và đỏ mặt.

      “Kim cài áo của ?” - bác sĩ Merkle làm như nhớ - “Tôi, ừ - tôi lấy rất nhiều loại đó. ừ, em cưng, chờ để tôi lấy nó ra khỏi tủ sắt. Tôi để những vật có giá như thế ở quanh đây như “tờ báu” này.”

      Bà ta biến trong chốc lát rồi trở ra với gói bọc giấy lụa và lấy kim cài áo ra.

      Charity, khi nhìn thấy nó, cảm thấy ấm lòng. Nàng hăm hở cầm nó trong bàn tay.

      “Bà có tiền lẻ ?” - nàng hỏi với chút hụt hơi khi để tờ hai mươi đô la bàn.

      “Tiền lẻ? Tại sao tôi phải có tiền lẻ chứ? Tôi chỉ thấy có hai mươi đô la thôi.” - bác sĩ Merkle cách rành rọt như thế.

      Charity ngập ngừng, bối rối: “Tôi nghĩ bà chỉ có năm đô la cho lần khám.”

      “Cho , như ân huệ - Tôi làm rồi đó. Nhưng trách nhiệm và bảo hiểm sao? Tôi cho là chưa bao giờ nghĩ đến điều đó. Kim cài áo này trị giá trăm đôla dễ như chơi. Nếu nó mất hay bị đánh cắp tôi biết tìm đâu ra khi trở lại hỏi nó chứ?”

      Charity vẫn im lặng, lúng túng, nửa tin nửa ngờ vào cuộc bàn luận, và bác sĩ nhanh chóng tiếp tục lợi thế của mình: “Tôi cầu để lại kim cài áo mà, em cưng. Tôi thích người ta trả cho tôi tiền theo cách bình thường hơn là họ đặt tôi vào tất cả phiền phức này.”

      Bà ta ngừng lại và Charity chộp lấy cơ hội để chuồn với vẻ thất vọng, nàng nhấc chân lên và lấy ra thêm tờ giấy bạc.

      “Bà lấy nó chứ?” - nàng hỏi.

      , tôi lấy nó, em cưng, nhưng tôi lấy nó với tờ kia, và tôi đưa cho biên lai có chữ ký nếu tin tôi.”

      “Ôi, tôi thể - đó là tất cả những gì tôi có.” - Charity tuyên bố.

      Từ ghế sô pha bác sĩ nhìn lên nàng cách vui sướng: “Hình như kết hôn hôm qua, tận nhà thờ Piscopal cơ đấy! Tôi nghe tất cả về lễ cưới này từ người làm việc nhà của vị mục sư. là đáng thương nếu để cho ông Royall biết chạy đến đây, phải vậy ? Tôi chỉ đưa nó cho như người mẹ ruột có thể làm như vậy.”

      Cơn giận bừng lên trong Charity, và trong chốc lát nàng nghĩ bỏ lại kim cài áo và cứ để cho bác sĩ Merkle làm việc tồi tệ nhứt của bà ta. Nhưng làm sao nàng có thể bỏ vật quý giá như vậy cho người đàn bà ma quỷ này? Nàng muốn để dành nó cho con nàng: nàng nghĩ trong cách huyền bí nào đó, nó là mối dây liên lạc giữa đứa con của Harney và người cha biết mặt. Run rẩy và căm ghét mình khi làm việc đó, nàng để tiền của ông Royall bàn, và chộp lấy cái kim cài áo chạy ra khỏi phòng và ra khỏi nhà.

      Ra tới đường, nàng đứng như trời trồng, bàng hoàng về chuyến phiêu lưu cuối cùng này. Nhưng kim cài áo nằm trong ngực nàng như lá bùa hộ mệnh, và nàng cảm thấy con tim nhàng cách bí . Nó cho nàng sức mạnh. lúc sau nàng chầm chậm về hướng bưu điện và thẳng vào cửa. Nàng mua tờ giấy viết thư, phong bì và con tem ở trong những cửa sổ, rồi ngồi xuống bàn và chấm ngòi viết rỉ sét của bưu điện vào lọ mực.

      Nàng đến đó trong nỗi sợ như có ma ám từ khi nàng mang chiếc nhẫn của ông Royall: nỗi lo sợ rằng Harney được tự do và tìm về với nàng. Đó là khả năng mà bao giờ xảy ra cho nàng suốt những giờ khắc đau buồn sau khi nàng nhận được lá thư của ta; chỉ khi có quyết định dứt khoát nàng trở lại mong muốn hiểu được kiện bất ngờ xảy ra. Nàng đề địa chỉ phong bì và tờ giấy nàng viết:

      Em lấy ông Royall. Em luôn nhớ .

      Những lời cuối trong thư chưa phải là lời cuối cùng nàng muốn viết, chúng tự theo ngòi bút của nàng mà thể nào cưỡng lại được. Nàng có sức mạnh để hoàn thành hy sinh của mình; nhưng cuối cùng, chuyện gì xảy ra? Bây giờ có cơ hội để gặp lại Harney tại sao nàng bảo cho ta biết ?

      Nàng bỏ lá thư vào thùng, bước ra con đường nhộn nhịp chan hòa ánh nắng và về khách sạn. Phía sau những cửa sổ kiếng của các cửa hàng, nàng thấy y phục phụ nữ trưng bày bắt mắt với những chất liệu đẹp làm nhen lên ngọn lửa tưởng tượng của nàng vào ngày nàng và Harney nhìn ngắm chúng. Rồi chúng cũng nhắc cho nàng nhớ huấn thị của ông Royall là nàng hãy ra ngoài và mua những gì nàng cần. Nàng nhìn xuống cái áo sờn mòn của mình và tự hỏi nàng phải gì khi ông nhìn thấy nàng trở về tay . Khi về đến gần khách sạn, nàng thấy ông đứng chờ ngưỡng cửa, và tim nàng bắt đầu đập với nỗi e sợ.

      Ông gật đầu và vẫy tay khi nàng đến gần, rồi họ qua sảnh và lên lầu để lấy đồ đạc của họ. Ông Royall có lẽ bỏ lại chìa khóa phòng khi họ lại xuống để dùng bữa ăn trưa.

      Trong phòng ngủ, khi nàng ném vào túi vài thứ linh tinh mà nàng mua cho “chuyến bay xa” của mình thình lình nàng thấy đôi mắt ông nhìn mình và sắp . Nàng đứng đờ ra, trong tay cầm cái áo ngủ gấp hờ, trong khi máu chạy dồn lên đôi má hốc hác.

      “Ồ, em ra ngoài mua sắm hào phóng chứ? Sao thấy gói đồ nào hết vậy?” - ông ta cách khôi hài.

      “Ồ, em thích để cho Ally Hawes may vài thứ mà em muốn.” - nàng trả lời.

      “Vậy sao?” - ông ta nhìn nàng cách nghĩ ngợi lúc, và đôi lông mày dựng lên trong cáu tiết. Nhưng rồi gương mặt trở lại thân thiện như cũ. “Ừ, muốn em trở về nom có vẻ hợp thời trang hơn bất cứ nào ở đó, nhưng nghĩ em đúng. Em là tốt, Charity.”

      Đôi mắt họ gặp nhau, và có điều gì đó nổi dậy trong ông mà nàng chưa bao giờ thấy: cái nhìn làm nàng cảm thấy thẹn thùng và có cảm giác an toàn.

      “Em cũng nghĩ tốt.” - nàng nhanh và có vẻ mắc cỡ. Ông mỉm cười trả lời, và họ cùng nhau rời phòng và xuống sảnh bằng thang máy sáng trưng.

      Trong đêm trăng thu lạnh muộn màng hôm đó, họ về đến cửa ngôi nhà màu đỏ.

      Dịch xong ngày 21/7/2010.

      20:25

      HẾT

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :