Máu Lạnh - Truman Capote(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Dạo đầu năm, Hideo Ashida, ông người Nhật hàng xóm của ông Clutter, bán đấu giá trang bị làm nông trại và chuyển đến Nebraska. Vụ mua bán này của nhà Ashida, được coi là thành công, thu hút chưa tới trăm khách hàng. Hơn năm ngàn người dự cuộc bán đấu giá các thứ của nhà Clutter. Cư dân Holcomb chờ đợi doanh thu khác thường - Câu lạc bộ Quý bà của Cộng đồng Nhà thờ Holcomb cải tạo trong các nhà kho của nhà Holcomb thành quán cà phê có trữ sẵn hai trăm bánh táo của nhà làm, hơn tạ hai thịt hamburger và ba chục ký giăm bông xắt lát - nhưng ai ngờ đám đông dữ đấu giá lớn nhất trong lịch sử miền Tây Kansas. Xe từ nửa các hạt của bang, cả từ Oklahoma, Colorado, Texas, Nebraska đổ đến. Chúng bám đuôi nhau xuôi con đường dẫn vào Trại Lũng Sông.

      Đây là lần đầu tiên công chúng được phép vào thăm cơ ngơi nhà Clutter từ khi phát ra vụ án mạng, lý do giải thích tại sao lại có tụ tập có lẽ cả phần ba cái giáo đoàn đông đảo này - họ đến là vì hiếu kỳ. Và dĩ nhiên thời tiết cũng góp phần vào chuyện này, vì tiết giữa tháng Ba, tuyết chất đống suốt mùa đông tan, đất bên dưới tuy rã băng nhưng lại toàn bùn ngập đến cổ chân; vùng mênh mông từ hécta này sang hécta kia đặc nghẹt toàn bùn; có nhà nào làm lụng gì được chừng nào đất chưa rắn lại. "Đất quá ướt và bẩn," bà Bill Ramsey, vợ chủ trại . " có cách nào làm đồng được. Chúng tôi nghĩ thôi lái xe ra đó xem người ta bán chác vậy." Đúng là ngày đẹp. Mùa xuân. Tuy bùn ngập ngụa dưới chân, mặt trời bấy lâu bị mây và tuyết liệm bọc, nay nom như vật thể vừa được làm ra mới tinh khôi, và bên dưới các cây - vườn cây táo, lê của ông Clutter, các cây du phủ bóng xuống con đường - được màu xanh trinh bạch như sương khói hiu hiu che phủ. Các thảm cỏ quanh nhà Clutter cũng nhuộm màu xanh mới mẻ, và khi qua đó, các bà lại lo âu ngó cái vào ngôi nhà người ở, khom mình qua cỏ nhòm vào cửa sổ tựa như vừa sợ vừa hy vọng nhận ra những bóng hình trông hung hiểm đằng sau các tấm rèm hoa vui mắt.

      Người chủ trì đấu giá hô to, ca tụng các món đồ được đem ra bán - máy kéo, xe tải, xe cút kít, thùng, búa tạ và gỗ dùng đến, xô vắt sữa, con dấu sắt dùng đánh dấu gia súc, ngựa, móng ngựa, mọi thứ cần thiết để trông nom trại chăn nuôi, từ thùng chão đến yên cương, cho đến chỗ tắm cho cừu và thừng giặt bằng tôn - chính cái triển vọng mua được mấy thứ này với giá hời dụ phần lớn đám đông đến. Nhưng đôi tay những người đấu giá giơ lên vẫn rụt rè - những bàn tay chai sần vì công việc, tần ngần muốn buông số tiền phải làm lụng nhọc nhằn mới có; thế nhưng chẳng có gì là được bán, thậm chí có vài người còn háo hức muốn mua chùm chìa khóa gỉ, và cậu cao bồi trẻ đeo đôi bốt màu vàng nhạt còn mua "toa xe chồn" của Kenyon Clutter, chiếc xe cà khổ mà cậu trai nay chết từng dùng để làm tình làm tội lũ chồn hoang, săn đuổi chúng vào những đêm trăng sáng.

      Tổ phụ việc, những người đàn ông mang các món đồ nho lên xuống sàn đấu giá, gồm Paul Helm, Vic Irsik và Alfred Stoecklein, ai cũng từng là nhân công già của Herbert W. Clutter và đến nay vẫn mực trung thành dù ông chết. Giúp tay vào buổi bán thanh lý các món sở hữu của ông là việc cuối cùng họ làm được cho ông, bởi hôm nay là ngày cuối cùng họ ở Trại Lũng Sông; cơ ngơi này được bán cho chủ trại ở Oklahoma, và từ nay trở những người lạ sống, làm ăn ở đó. Trong khi cuộc đấu giá diễn ra, khi mà các món đồ của ông Clutter mỗi lúc vơi dần, Paul Helm, nhớ lại lúc tang lễ gia đình bị ám sát, : "Cứ như là đám tang thứ hai vậy."

      Thứ được rao bán cuối cùng là bầy gia súc, ngựa chiếm phần lớn, kể cả con Babe to béo của Nancy, nay qua thời huy hoàng của nó. Chiều muộn, trường tan học, mấy bạn học của Nancy cũng ở trong đám người xem khi bắt đầu đấu giá con ngựa; Susan Kidwell cũng ở đó. nhận nuôi con thú cưng của Nancy nay mồ côi, là con mèo, mong muốn mình có thể cho cả Babe mái ấm vì con ngựa già và biết rằng Nancy từng nó biết bao nhiêu. Hai thường cưỡi tấm lưng rộng bản của nó rảo qua các đồng lúa mì vào những chiều hè nóng nực, xuống sông, vào hẳn trong nước, con ngựa cái lội ngược dòng cho tới khi, như Sue có lần tả, "cả ba đứa cánh ta đều lạnh như cá ấy." Nhưng Sue có chỗ nào cho con ngựa cả.

      "Tôi nghe năm mươi... sáu lăm... bảy mươi..." cuộc đấu giá diễn ra chậm rãi, chả ai có vẻ thực thích con Babe và người mua nó, chủ trại theo đạo Mennon, ông ta có thể dùng nó để cày, trả bảy lăm đô la. Khi ông ta dắt nó ra khỏi bãi, Sue Kidwell chạy tới, giơ tay lên như vẫy chào từ biệt, nhưng chả hiểu thế nào lại áp vội tay lên miệng mình.

      ° ° °

      Tờ Điện tín Garden City cho đăng vào hôm trước ngày mở phiên tòa bài xã luận sau đây: " vài người có thể nghĩ rằng cả nước để mắt tới Garden City trong phiên tòa xử vụ giết người rùng rợn này. Nhưng đâu phải. Ngay ở Colorado cách đây về phía Tây trăm dặm thôi mà cũng ít người biết đến vụ đó - những người khác chỉ nhớ là có mấy người của gia đình nổi tiếng bị giết hại. Đó là lời bình đáng buồn về tình hình phạm tội ở đất nước ta. Từ khi bốn người trong gia đình Clutter bị giết vào mùa thu năm ngoái, nhiều vụ án mạng khác tương tự xảy ra ở các nơi khác cả nước. Chỉ trong vài ngày trước phiên tòa này ít nhất ba vụ án mạng tập thể bùng lên đầu đề các báo. Kết quả là, tội ác và phiên tòa này chỉ là trong nhiều vụ tương tự mà người ta đọc xong rồi quên..."

      Tuy những cặp mắt của cả nước đặt vào họ, song cách cư xử của những người chủ chốt tham dự vào kiện, từ thư ký tòa tới bản thân ông thẩm phán, ràng là đều đầy tự giác vào buổi sáng mở đầu phiên tòa. Cả bốn vị luật sư đều mặc com lê mới; đôi giày mới của ông chưởng lý hạt có cặp chân to cứ mỗi bước lại cót két và rin rít kêu. Hickock cũng bảnh bao trong bộ áo quần bố mẹ cấp cho: quần vải xéc màu lơ, sơ mi trắng, cà vạt hẹp màu lơ sẫm. Chỉ riêng Perry Smith có cả áo vest lẫn cà vạt hình như bị lạc lõng trong cách ăn mặc. Mặc sơ mi hở cổ (mượn của ông Meier) và quần jean lam xắn lên tới cổ chân, trông đơn độc và lạc chỗ chẳng khác nào con hải âu giữa đồng lúa mì.

      Phòng xử, gian buồng bình thường ở tầng bốn của Tòa án hạt Finney, có những bức tường trắng xin xỉn và đồ đạc bàn ghế đánh véc ni tối màu. Ghế dành chỗ công chúng có khi phải chứa được đến trăm sáu chục người. Vào sáng thứ Ba, ngày 22 tháng Ba, các ghế dài này được dành hết cho công dân toàn là đàn ông của hạt Finney, bồi thẩm đoàn được bầu ra từ những người này. Nhiều người được triệu tập xem chừng thiết tha lắm ( bồi thẩm có triển vọng được cử với người khác trong cuộc chuyện trò: "Họ dùng tôi được đâu. Tai tôi nghe được tốt lắm." Người bạn, sau lúc nghĩ ngợi thầm, liền đáp lại, "Nếu vậy tôi đây, tai tôi nghe cũng có tốt mấy đâu"), và nhìn chung nguời ta thường hay nghĩ chọn ra bồi thẩm đoàn phải mất nhiều ngày. Nhưng rồi hóa ra việc chọn chỉ mất có bốn tiếng đồng hồ; vậy, bồi thẩm đoàn, gồm cả hai ủy viên luân phiên. Lại được lấy ra từ bốn mươi tư người được đề cử đầu tiên. Bảy người bị bên bị phản đối, ba người được miễn theo cầu của bên khởi tố, hai mươi người khác cũng bị bác nốt vì họ phản đối án tử hình hoặc vì họ thừa nhận mình mang sẵn thành kiến kiên định liên quan đến tội của các bị cáo rồi.

      Mười bốn người được chọn ra cuối cùng gồm sáu chủ trại, dược sĩ, giám đốc nhà trẻ, nhân viên sân bay, thợ đào giếng, hai nhân viên bán hàng, thợ cơ khí, và giám đốc của sân chơi Ray's Bowling Alley. Họ đều lập gia đình (nhiều người có năm con hay nhiều hơn), và đều có gắn bó nghiêm chỉnh với nhà thờ nào đó ở địa phương. Trong cuộc kiểm tra độ trung thực, bốn người trong họ với tòa rằng từng có quen biết cá nhân với ông Clutter, tuy thân thiết; nhưng khi hỏi sâu hơn người nào cũng cảm thấy tình huống này gây trở ngại tới khả năng đạt tới nghị án khách quan về phía mình. Nhân viên sân bay, người trung niên tên gọi N.L Dunnan, khi được hỏi ý kiến về án tử hình liền , "Bình thường ra tôi chống. Nhưng trong vụ này " - tuyên bố nghe ra có vẻ mang định kiến ràng. Tuy vậy Dunnan vẫn được nhận làm bồi thẩm.

      Các bị cáo tỏ ra thờ ơ với thủ tục voir dire - thủ tục kiểm tra lòng trung thực. Hôm trước, bác sĩ tâm thần tình nguyện khám cho họ, bác sĩ Jones, phỏng vấn riêng từng người trong vòng xấp xỉ hai giờ đồng hồ: phỏng vấn xong, ông gợi ý họ viết cho ông bản khai tiểu sử. Chính việc này khiến hai bị cáo bận suốt những giờ người ta dùng vào việc lập bồi thẩm đoàn. Ngồi ở hai đầu đối diện của bàn luật sư bào chữa, Hickock viết bằng bút mực còn Smith bằng bút chì.

      Smith viết:

      Tôi, Perry Edward Smith, sinh ngày 27 tháng Mười năm 1928 ở Huntington, hạt Elko, bang Nevada, nơi này nằm đường ra những bến cảng náo nhiệt. Tôi nhớ lại hồi năm 1929 gia đình tôi lên kiếm ăn tận Juneau, bang Alaska. Gia đình tôi có tôi Tex cùng tên với bố (sau này ấy đổi thành James vì cái tên Tex nó nghe buồn cười và tôi cũng tin rằng lúc còn trẻ ấy ghét bố tôi - là do mẹ tôi hết). Chị tôi, Fern (chị cũng đổi tên - thành Joy). Chị Barbara tôi. Và tôi... Ở Juneau, bố tôi làm rượu lậu. Tôi tin rằng mẹ tôi trở thành nghiện rượu chính là vào thời kỳ này. Mẹ và bố bắt đầu cãi nhau. Tôi nhớ mẹ tôi "giúp vui" cho vài người thủy thủ trong khi bố tôi vắng nhà. Khi bố về đánh nhau nổ ra và sau trận vật lộn dữ dội bố tôi ném những người thủy thủ ra ngoài và quay sang đánh mẹ tôi. Tôi sợ khiếp vía, ra tất cả trẻ con đều kinh hoàng. Khóc. Tôi sợ vì tôi nghĩ bố tôi sắp đập tôi và cũng vì bố tôi đánh mẹ. Tôi hiểu tại sao bố lại đánh mẹ nhưng tôi cảm thấy chắc mẹ làm cái gì sai ghê lắm... Việc sau đó tôi nhớ láng máng được là sống ở Fort Bragg, bang Calif. tôi được cho khẩu súng trẻ con. ấy bắn con chim ruồi và sau khi bắn ấy buồn. Tôi xin cho tôi bắn. tôi đẩy tôi , bảo tôi bé quá. Tôi giận điên lên đến nỗi òa khóc. Khóc xong lại càng giận, và buổi tối khi khẩu súng treo ở đằng sau cái ghế tôi ngồi, tôi nắm lấy và giữ nó ở sát tai tôi rồi hét to. Đoàng! Bố tôi (hay mẹ) đánh tôi và bắt tôi xin lỗi. tôi thường bắn vào con ngựa bạch to tướng mà người hàng xóm hay cưỡi qua nhà tôi đường ra thị trấn. Người hàng xóm bắt tôi và tôi nấp trong bụi cây liền đem chúng tôi đến gặp bố tôi thế là chúng tôi được trận rồi tôi bị bố lấy mất khẩu súng. Và tôi rất vui vì tôi bị lấy mất khẩu súng! Đó là gần như tất cả những cái tôi nhớ hồi chúng tôi sống ở Fort Bragg (Ôi! Bọn lỏi chúng tôi quen nhảy từ vựa cỏ xuống, cầm cái dù, rơi vào đống cỏ khô mặt đất)... Đoạn sau tôi nhớ là nhiều năm sau đó khi chúng tôi sống ở Calif? Nevada? Tôi nhớ chuyện rất bỉ ổi giữa mẹ tôi và thằng nhọ. Mùa hè, bọn trẻ con chúng tôi ngủ ở cái hiên cổng. trong mấy cái giường của chúng tôi kê ngay dưới buồng bố mẹ tôi. Bọn trẻ tụi tôi đứa nào cũng từng dòm qua tấm rèm chỉ che có nửa và thấy hết chuyện gì diễn ra trong ấy. Bố thuê thằng nhọ (tên là Sam) làm các việc lặt vặt quanh trại hay chăn nuôi khi mà bố làm ở đâu đó bên dưới đường cái. Bố thường về nhà muộn cái xe tải mô đen A. Tôi nhớ được chuỗi việc nhưng tôi cho rằng bố biết hay nghi ngờ có chuyện gì rồi. Cuối cùng nó tới việc bố mẹ ly thân nhau và mẹ đưa bọn lỏi chúng tôi đến San Francisco. Mẹ bằng chiếc xe tải của bố và nhiều thứ kỷ niệm bố mang từ Alaska về. Tôi tin rằng đó là vào năm 1935 (?)... Ở Frisco, tôi thường xuyên dính chuyện lôi thôi. Tôi bắt đầu tụ bạ với băng, tất cả chúng nó đều lớn hơn tôi. Mẹ tôi lúc nào cũng say, bao giờ tỉnh hẳn hoi để nuôi nấng trông nom chúng tôi được. Tôi tha hồ lêu lổng và man dại như con chồn hoang. Chẳng có quy tắc hay kỷ luật nào hoặc có ai bảo cho tôi phân biệt sai với đúng. Tôi tôi về tùy thích, cho tới lần đầu tiên tôi gặp rắc rối. Tôi ra ra vào vào Nhà trừng giới nhiều nhiều lần vì bỏ nhà và ăn cắp. Tôi nhớ nơi tôi được đưa đến. Tôi yếu thận đêm nào cũng đái dầm. Với tôi cái đó rất khổ nhục nhưng tôi tự kiềm chế được mình. Tôi bị phụ trách đánh rất ác, gọi tôi bằng đủ các thứ tên và đem tôi ra giễu trước đám trẻ khác. Đêm đêm ta cứ lảng vảng xem tôi có đái dầm ra giường . ta lột tung chăn đệm ra và đánh tôi hung tợn bằng cái thắt lưng da to bản màu đen - túm tóc tôi, lôi tôi ra khỏi giường, kéo tôi đến buồng tắm, ném tôi vào trong bồn tắm, mở nước lạnh vào, bảo tôi giặt lấy áo quần và tự tắm rửa. Đêm nào cũng lại cơn ác mộng. Sau đó ta nghĩ bây giờ bôi vài thứ dầu nào đó vào buồi tôi thú vị lắm đây. Cái này sao chịu nổi. Nó bỏng gì mà kinh khủng. Sau đó ta mất việc. Nhưng điều ấy khiến được tôi thay đổi ý nghĩ đối với ta và cái mà tôi mong giá như mình có thể làm với ta cũng như tất cả những người giễu nhục tôi.

      Rồi, do bác sĩ Jones bảo phải có ngay bản khai chiều hôm ấy, Smith bỏ cách quãng để kể luôn về thời niên thiếu và những năm hai bố con sống với nhau, cùng lang thang khắp miền Tây và Viễn Tây, thăm dò khảo sát, săn bẫy, làm đủ thứ việc linh tinh.

      Tôi bố nhưng có những lúc tình thương của tôi đối với bố rò chảy ra khỏi tim tôi chẳng khác nào nước đựng trong xô thùng bị thủng vậy. lúc nào bố tôi cố tìm hiểu các vấn đề của tôi sất. cho tôi lấy ít ý kiến, tiếng và trách nhiệm. Tôi phải lánh xa bố. Năm mười sáu tuổi tôi vào hạm tàu chở hàng. Năm 1948 tôi vào quân đội - viên sĩ quan tuyển lính cho tôi dịp may và nâng điểm cho tôi trong khi kiểm tra. Từ lúc đó, tôi bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của học vấn. Điều này chỉ làm nặng thêm mối thù ghét và niềm chua cay của tôi đối với người khác mà thôi. Tôi bắt đầu lao vào trò đánh đấm. Tôi ném tay cảnh sát Nhật từ cầu xuống sông. Tôi bị ra tòa án binh vì đập phá quán cà phê Nhật. Tôi lại phải ra tòa án binh nữa tại Kyoto, Nhật Bản vì ăn cắp chiếc taxi Nhật. Tôi ở quân đội được gần bốn năm. Tôi có những cơn giận bùng nổ dữ dội trong khi phục vụ tại Nhật và Triều Tiên. Tôi ở Triều Tiên 15 tháng, được đổi đơn vị, điều về nước và được đón nhận đặc biệt như là cựu chiến binh đầu tiên ở Triều Tiên trở về lãnh thổ Alaska. Bài viết bốc tướng lên, ảnh đăng báo, trả tiền máy bay tới Alaska, tất cả những màu mè hoa lá... Tôi kết thúc quân dịch ở Fort Lewis, Washington.

      Cây bút chì của Smith ngoáy tít gần như thể đọc ra nổi chữ nữa trong khi vội vã đến những chuyện mới gần đây: tai nạn xe máy làm thân tàn ma dại, vụ bẻ khóa ăn trộm ở Phillipsburg bang Kansas, nó dẫn tới án tù đầu tiên:

      ... Tôi bị khép án 5 đến 10 năm tù giam vì ăn cắp lớn, bẻ khóa vào nhà ăn trộm và vượt ngục. Tôi cảm thấy mình bị xử rất bất công. Tôi càng trở nên chua chát hơn trong thời gian ở tù. Lúc được tha, đáng lẽ lên Alaska với bố tôi lại - tôi làm việc ít lâu ở Nevada và Idaho - đến Las Vegas và tiếp tục ở Kansas rồi lâm vào tình cảnh như nay. giờ để thêm gì hơn nữa.

      ký tên và viết thêm tái bút:

      "Muốn được thêm với ông. Có nhiều điều tôi chưa song có thể làm cho ông quan tâm. Được ở với những người có mục đích và ý thức dâng hiến để hoàn thành mục đích đó tôi luôn luôn cảm thấy rất mực phấn chấn vui vẻ. Tôi cảm thấy điều đó khi có mặt ông."

      Hickock viết với mãnh liệt như người bạn đường của mình. thường dừng lại nghe người ta chất vấn bồi thẩm có khả năng được tuyển chọn, hoặc nhìn vào những bộ mặt chung quanh - đặc biệt và với mối ác cảm rệt là bộ mặt chắc nịch của ông chưởng lý hạt, Duane West, người cũng trạc tuổi , hai tám. Nhưng bản khai của , viết theo kiểu chữ bay bướm trông giống như làn nước mưa bay xiên, xong cả trước lúc tòa ngừng họp ngày hôm đó:

      Tôi với ông tất cả những gì tôi có thể về tôi, tuy phần lớn đoạn đời trước của tôi đối với tôi lờ mờ - cho tới khoảng tôi mười tuổi. Những năm học, tôi hoàn toàn giống phần lớn các đứa trẻ trạc tuổi tôi. Tôi có dự phần vào chuyện đánh nhau, trai và các thứ khác vẫn thường xảy ra với đứa con trai lớn. Đời sống gia đình cũng bình thường như tôi với ông trước đây, tôi rất khó được phép ra khỏi sân nhà mà đến chơi với các bạn. Bố tôi luôn luôn nghiêm với bọn con trai chúng tôi [em trai ] ở điểm này. Tôi cũng phải giúp bố tôi cả lốc những việc nhà... Tôi chỉ nhớ lần bố mẹ tôi cãi nhau song dẫn tới chuyện gì cả. Đó là cái gì ấy, tôi biết... lần, tôi nhớ bố mua cho tôi cái xe đạp và lúc ấy tôi là đứa trẻ kiêu hãnh nhất trong thị trấn. Nó là cái xe con , bố đem đổi lấy xe con trai. Bố đem sơn lại hết và trông nó như mới. Nhưng hồi bé, tôi có nhiều đồ chơi, nhiều so với điều kiện tài chính của bố mẹ tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi lúc nào cũng có thể thuộc loại mà ông gọi là nửa nghèo. bao giờ trắng túi nhưng nhiều phen cũng sát sạt chỗ ấy. Bố tôi là công nhân chịu khó, làm hết sức để nuôi nấng chúng tôi. Mẹ tôi cũng là người lao động chịu khó. Nhà bao giờ cũng gọn gàng và quần áo chúng tôi bao giờ cũng sạch . Tôi nhớ bố tôi quen đội mũ bằng may theo kiểu củ, bẹt, chùm đầu, ông hay bắt tôi đội nhưng tôi thích... Ở trường cấp III tôi học rất tốt, năm đầu hay năm thứ hai đều được điểm trung bình. Nhưng rồi bắt đầu sút ít. Tôi có đứa bạn . Nó xinh xinh và tôi chưa bao giờ thử sờ vào nó bất kể thế nào, chỉ có hôn hít thôi. trò chim chuột thực trong sạch... Lúc học tôi tham gia mọi môn thể thao và được thưởng chín huy hiệu tất cả. Bóng chày, bóng bầu dục, bóng rổ, và các môn chạy. Năm cuối cùng là giỏi nhất. Tôi chưa bao giờ gắn bó với , lúc nào cũng toàn chơi thể thao các thứ. Chính lúc đó tôi có quan hệ lần đầu tiên với . Dĩ nhiên tôi với tụi con trai là tôi có cả đống con ... Tôi được hai trường cao đẳng mời chơi bóng, nhưng tôi bao giờ tham gia. Sau khi tốt nghiệp tôi làm ở đường sắt Santa Fe, ở lại cho tới mùa đông năm sau tôi bỏ. Mùa xuân tiếp đó tôi làm việc ở Công ty Ô tô Roark. Tôi làm ở đấy bốn tháng bị tai nạn khi xe của công ty. Tôi nằm bệnh viện nhiều ngày, bị thương ở đầu khá nặng. Trong khi lâm tình cảnh đó, tôi thể tìm ra được việc làm khác, cho nên thất nghiệp gần hết mùa đông. Trong lúc đó, tôi gặp và phải lòng . Bố ấy là mục sư dòng Báp tít, rất là ghét thấy tôi với ấy. Chúng tôi lấy nhau vào tháng Bảy. Bố ấy lồng lên nhưng rồi khi biết tin con có mang đành dịu . Song ông vẫn bao giờ cầu cho tôi được may mắn và chuyện cưới xin của tụi tôi vẫn luôn là ngược lại ý ông. Sau khi chúng tôi lấy nhau, tôi làm ở trạm dịch vụ xe hơi gần Kansas City. Tôi làm từ tám giờ tối đến tám giờ sáng. Đôi khi vợ tôi ở lại trạm với tôi cả đêm - ấy sợ tôi dậy để vào làm được nên tới giúp gọi tôi. Rồi tôi được nhận vào làm ở Perry Pontiac, tôi liền vui vẻ nhận. Rất là mãn nguyện, tuy tôi kiếm được nhiều tiền - có 75 đô tuần. Tôi hòa thuận với mọi người, được ông chủ mến. Tôi làm ở đó năm năm... Trong thời gian làm này tôi bắt đầu phạm phải có số chuyện thấp hèn nhất.

      Ở đây Hickock tiết lộ ra xu hướng thích quan hệ bậy bạ với trẻ con, và sau khi tả nhiều việc làm chứng, viết:

      Tôi biết thế là sai. Nhưng lúc đó, tôi chẳng bỏ công nghĩ xem thế là đúng hay sai gì. Với ăn cắp cũng vậy. Hình như đó là dục lực ở trong ngưới. Có việc về vụ Clutter tôi chưa khi nào với ông, nó là thế này. Trước khi tới nhà ấy, tôi biết có ở đó. Tôi nghĩ lý do chính tôi đến đó phải để trấn lột mà để hiếp . Vì tôi nghĩ nhiều đến chuyện đó. Đó là lý do tại sao tôi khi nào muốn quay về khi đến đó. Ngay cả khi tôi thấy có két sắt. Tôi buông vài lời tán tỉnh con nhà Clutter. Nhưng Perry cho tôi có dịp. Tôi hy vọng ai biết chuyện đó trừ ông, cũng như tôi chưa khi nào kể cho luật sư của tôi. Có những việc khác tôi có thể với ông, nhưng tôi sợ người nhà tôi phát ra. Vì tôi xấu hổ với bố mẹ và em (mấy vụ này tôi có xấu hổ ) hơn cả bị treo cổ... Tôi bị bệnh. Tôi nghĩ vì cái tai nạn xe trước đây. Những cơn đau qua , song đôi khi tôi chảy máu cam và chảy máu tai trái. Tôi bị lần ở nhà người tên là Crist - họ sống ở phía Nam nhà bố mẹ tôi. lâu mới đây, tôi lấy ra được mảnh kính vỡ trong đầu. Lấy nó ra ở khóe mắt tôi. Bố tôi giúp lấy ra... Tôi nghĩ tôi nên kể với ông những chuyện dẫn tới việc ly hôn, và những việc khiến tôi phải vào tù. Vụ đó bắt đầu vào đầu năm 1957. Hai vợ chồng tôi sống ở căn hộ tại Kansas City. Tôi thôi làm ở công ty xe hơi mà mở gara xe riêng. Tôi thuê cái gara của người đàn bà có con dâu tên là Margaret. hôm khi làm việc tôi gặp , chúng tôi uống cà phê với nhau. Chồng ta ở thủy quân lục chiến, phải làm xa. cho gọn lại, tôi bắt đầu chơi với ta. Vợ tôi đòi ly hôn. Tôi bắt đầu nghĩ có khi mình chưa bao giờ vợ cả. Vì nếu chẳng làm những cái chuyện như thế. Cho nên tôi hề phản đối ly hôn. Tôi bắt đầu uống rượu và say xỉn gần như cả tháng. Tôi bỏ bê công việc, tiêu tiền nhiều hơn kiếm ra, viết séc giả và cuối cùng thành thằng ăn cắp. Vì ăn cắp tôi vào tù... Luật sư của tôi tôi nên thành với ông vì ông có thể giúp tôi. Mà tôi cần giúp, ông biết đấy.

      ° ° °

      Ngày hôm sau, thứ Tư, là ngày phiên tòa chính thức bắt đầu; đó cũng là lần đầu tiên công chúng bình thường được cho vào phòng xử, khoảnh quá khó lòng chứa được tỷ lệ phần trăm khiêm tốn của số người đứng đầy ở bên ngoài. Các chỗ tốt nhất được dành cho hai mươi nhà báo và những nhân vật đặc biệt như bố mẹ của Hickock và Donald Cullivan (theo cầu từ luật sư của Perry Smith, này, với tư cách bạn lính cũ, từ Massachusetts tới để ra mắt như nhân chứng về tính cách của Perry). Người ta đồn rằng hai con sống sót của Clutter có mặt; họ có mặt hôm đó, cả các phiên sau cũng . Đại diện gia đình Clutter là em trai ông - Arthur, ông hơn trăm dặm tới đây. Ông với các nhà báo, "Tôi chỉ muốn nhìn cho chúng nó [Smith và Hickock]. Tôi chỉ muốn xem chúng là cái thứ súc sinh nào. Tôi cảm thấy ra sao ấy hả, tôi có thể xé xác chúng ra được ấy." Ông ngồi ở ghế ngay sau các bị cáo và nhìn chúng trừng trừng rời giây, tựa hồ có kế hoạch khắc họa chân dung chúng bằng trí nhớ. Lúc này, hình như đúng là Arthur Clutter muốn như thế, Perry Smith quay lại nhìn ông - và nhận ra khuôn mặt giống hệt khuôn mặt của người mà giết: cũng cặp mắt dịu dàng, đôi môi mím lại, cái cằm kiên định. nhai kẹo cao su, Perry ngừng nhai; cúi nhìn xuống, phút trôi và quai hàm của lại bắt đầu động đậy. Trừ lúc đó ra, Smith, và cả Hickock nữa, ở tòa chúng đều mang thái độ vừa phải phớt lờ tất vừa vô tư; chúng nhai kẹo cao su và uể oải giậm chân sốt ruột khi người ta mời nhân chứng đầu tiên.

      Nancy Ewalt. Và sau Nancy là Susan Kidwell. Hai trẻ tả lại những gì mình nhìn thấy khi vào nhà Clutter hôm Chủ nhật 15 tháng Mười : những gian buồng vắng lặng, ví tiền rỗng giữa sàn bếp, ánh nắng trong buồng ngủ, và bạn học của mình, Nancy Clutter nằm giữa vũng máu. Bên bị từ chối đối chất, chính sách mà họ theo đuổi với ba nhân chứng sau nữa (bố Nancy Ewalt, Clarence, cảnh sát trưởng Earl Robinson và bác sĩ Robert Fenton, chuyên khám nghiệm tử thi những cái chết bất thường của hạt), mỗi người lại kể thêm vào cho dòng kiện hôm Chủ nhật tháng Mười rực nắng đó: cuối cùng là việc phát ra cả bốn nạn nhân, và lời thuật trông thấy họ thế nào, còn bác sĩ Fenton cho biết chẩn đoán lâm sàng về nguyên nhân tử vong - "Chấn thương nặng ở não và cấu trúc sọ trọng yếu do súng gây nên."

      Rồi Richard G. Rohleder lên bục.

      Richard G. Rohleder là Trưởng Ban Điều tra của sở Cảnh sát Garden City. Ông mê ảnh và ông chụp giỏi. Chính ông chụp những bức mà khi rửa ra cho thấy những dấu chân bụi bặm của Hickock trong nhà kho Clutter, những dấu chân chỉ máy ảnh mới phân biệt được chứ mắt thường . Và chính ông chụp các xác chết, những hình ảnh trường thảm khốc mà Alvin Dewey ngừng băn khoăn nghiền ngẫm khi án mạng còn chưa được phá. Điểm chính trong lời chứng của Rohleder là xác nhận mình chụp các ảnh kia, những bức mà bên khởi tố đề nghị đưa ra làm bằng chứng. Nhưng luật sư của Hickock phản đối: "Lý do duy nhất để đưa các bức ảnh ra là nhằm gây định kiến và hun nóng đầu các vị bồi thẩm lên mà thôi." Thẩm phán Tate bác lời phản đối và cho phép đưa các bức ảnh ra làm bằng chứng, có nghĩa là phải đưa ra cho bồi thẩm đoàn.

      Trong khi chuyện này diễn ra, bố Hickock với nhà báo ngồi gần, "Ông thẩm phán kia kìa! Tôi chưa thấy ai định kiến như ông ấy. Mở phiên tòa thế này chẳng ra làm sao. Gì chứ cái ông ngồi đó . Sao cơ, ông này là người khiêng áo quan ở đám tang đây mà!" (Đúng ra Tate chỉ quen sơ sơ các nạn nhân và có mặt hôm đưa ma, với bất cứ tư cách nào). Nhưng giọng ông Hickock là giọng duy nhất cất lên trong phòng xử án quá thừa lặng lẽ. Tổng cộng có mười bảy bức ảnh, và trong khi các bàn tay chuyền cho nhau xem vẻ mặt các vị bồi thẩm phản ánh tác động của chúng đối với các vị ra sao: má vị đỏ ran lên như bị tát, số ít, sau cái liếc nhìn đầu tiên đầy bối rối, ràng là còn bụng dạ nào tiếp tục nhiệm vụ được nữa; tựa hồ như mấy bức ảnh cạy con mắt trong đầu óc họ ra, buộc họ ít nhất cũng phải nhìn thấy cái thương tâm xảy ra cho người láng giềng cùng vợ và con cái ông ta. Chúng làm họ kinh hoàng, chúng làm họ phẫn nộ và nhiều người trong họ - ông dược sĩ, ông giám đốc sân chơi bóng lăn - nhìn xói vào hai bị cáo với nét thù ghét tột độ.

      Ông Hickock già yếu lắc đầu, lầm bầm lầm bầm lại: " ra làm sao cả. Mở phiên tòa thế này ra làm sao."

      Về nhân chứng cuối cùng của ngày hôm nay, bên công tố hứa đưa ra "người bí ". Đó là người cung cấp thông tin dẫn tới việc bắt được các bị cáo: Floyd Wells, bạn cùng xà lim trước đây của Hickock. Vì vẫn còn hạn tù ở Trại giam Bang Kansas và có nguy cơ bị những tù nhân khác trả thù, nên người ta chưa bao giờ để lộ rằng Wells là người cung cấp thông tin. Bây giờ, để có thể làm chứng an toàn ở tòa, được đưa ra khỏi trại giam và đem nhốt tại trại giam nho của hạt bên cạnh. Tuy thế, Wells vẫn qua phòng xử lên bục nhân chứng với vẻ lén lén lút lút lạ lùng - tựa hồ sợ gặp phải đường tên sát nhân vậy - và khi qua Hickock môi Hickock rung rung như thào câu độc địa. Wells làm như thấy; nhưng giống như con ngựa nghe thấy tiếng rung o o của con rắn đuôi chuông, né vội ra. tránh gần với con người bị phản bội. Lên bục, nhìn thẳng về đằng trước, gã lẹm cằm thó trông như cậu thiếu niên làm thuê nhăng nhít cho các nông trại, mặc bộ com lê rất tử tế màu lam sẫm do bang Kansas mua cho nhân dịp ra tòa - chính quyền bang muốn rằng nhân chứng quan trọng nhất phải có cái vẻ đáng trọng mới được người ta tin.

      Lời chứng của Wells, nhờ các cuộc ôn tập trước khi ra tòa mà rất chi hoàn hảo, cũng gọn sạch như dáng vẻ hôm nay. Đươc các lời nhắc đầy thiện cảm của Logan Green cổ vũ, nhân chứng này nhận rằng mình có dạo làm thuê ở Trại Lũng Sông, trong khoảng năm; tiếp rằng mười năm sau đó, do bị dính án vì tội bẻ khóa ăn trộm, thành bạn bè với tên bẻ khóa ăn trộm phải vào tù khác, Richard Hickock, rồi miêu tả nông trại và gia đình Clutter cho gã nghe.

      "Bây giờ," Green hỏi, "trong các cuộc trò chuyện giữa ông và ông Hickock, hai ông những gì về ông Clutter?"

      "À, chúng tôi về ông Clutter ít thôi. Hickock sắp được tha theo lời hứa, sang miền Tây tìm việc; có thể dừng lại gặp ông Clutter để hỏi xin việc làm. Tôi kể cho ông ấy nghe ông Clutter giàu có như thế nào."

      "Ông Hickock có chú ý tới cái đó ?"

      "A, ông ấy muốn biết liệu ông Clutter có cái két nào trong nhà ."

      "Ông Wells, lúc đó ông có nghĩ có cái két ở nhà ông Clutter ?"

      "À, tôi làm ở đó lâu lắm rồi, tôi nghĩ có cái két. Tôi biết có cái tủ nho loại ấy... Sau đó hiểu thế nào mà ông ấy [Hickock] lại đến chuyện cướp nhà Clutter."

      "Ông ấy có với ông thực vụ cướp như thế nào ?"

      "Ông ấy bảo tôi nếu ông ấy làm cái gì kiểu như thế để lại nhân chứng."

      "Ông ấy định làm gì với các nhân chứng ?"

      "Có. Ông ấy bảo tôi là chắc chắn trói lại, lấy tiền rồi thủ tiêu họ."

      có bằng chứng về mức độ mưu tính trước cặn kẽ đâu ra đấy như vậy rồi, Green nhường bục nhân chứng cho bên bị. Già Fleming, luật sư cổ điển vùng quê vốn thích chiến tích trong các vụ đất cất hơn là trong các vụ khó nhằn, mở đầu cuộc đối chất. Dụng ý chất vấn của ông, như ông nhanh chóng quyết định, là nêu ra vấn đề mà bên công tố cố tình tránh : vấn đề vai trò của chính Wells trong mưu giết người này cùng với trách nhiệm đạo đức của bản thân .

      "Ông," Fleming , vội ngay vào trung tâm vấn đề, "ông gì với ông Hickock để làm ông ấy nản lòng mà đừng đến đó ăn trộm và giết gia đình Clutter ư?"

      ". Nếu ở đó [Nhà tù bang Kansas] mà có ai với mình chuyện gì như thế, mình chả để ý làm gì vì mình nghĩ họ chỉ là chơi thôi."

      "Ông muốn là ông kể lại như thế mà có ngụ ý gì cả ư? Chẳng phải ông có chủ định gài cho ông ấy [Hickock] cái ý rằng Clutter có cái két sao? Ông muốn ông Hickock tin thế là , đúng ?"

      Bằng cung cách êm ả của mình Fleming làm cho nhân chứng lao đao; Wells dứt dứt cà vạt, tựa như cái nút thắt thình lình chặt quá.

      "Và ông ngụ ý cho ông Hickock tin rằng ông Clutter có nhiều tiền, có phải thế ?"

      "Tôi bảo ông ấy là ông Clutter có nhiều tiền, đúng."

      lần nữa Fleming moi cho Wells phải kể ra là Hickock kể cho ra đầy đủ về các kế hoạch tàn bạo đối với gia đình Clutter như thế nào. Rồi, như nén nỗi đau riêng, luật sư đăm chiêu , "Rồi ngay cả khi nghe hết thế rồi ông vẫn can ngăn ông ấy?"

      "Tôi tin là ông ấy làm chuyện đó mà."

      "Ông tin. Thế tại sao, khi nghe chuyện xảy ra ở đây, ông lại nghĩ ông ấy chính là thủ phạm?"

      Wells đáp lại, tự đắc, "Vì nó được làm đúng như ông ấy là định làm mà."

      Harrison Smith, người trẻ hơn trong đội ngũ bên bị ra đòn. Làm bộ hung hăng ngạo mạn song xem ra hơi gượng gạo, vì ông ta là người hiền lành hòa nhã, ông luật sư hỏi nhân chứng có biệt hiệu nào .

      ", tôi chỉ là 'Floyd' thôi."

      Luật sư khịt khịt mũi. "Họ gọi ông là 'Đứa mỏng môi' à? Hay họ có gọi ông là 'Gã mách lẻo' ?"

      "Tôi chỉ là 'Floyd' thôi," Wells nhắc lại, khá là ngượng.

      "Ông ở tù bao nhiêu lần rồi?"

      "Chừng ba lần."

      "Có lần vì dối, phải ?"

      Phủ nhận điều này, nhân chứng lần vào tù vì lái xe có bằng lái, bẻ khóa ăn trộm là lý do vào tù lần thứ hai, lần thứ ba bị giam chín mươi ngày trong trại giam lính, kết quả của vụ xảy ra khi còn tại ngũ: "Chúng tôi tuần đoàn tàu. Tôi bị ngạt thở ở tàu, có bắn hơi nhiều tí chút vào cửa sổ và bóng đèn."

      Mọi người cười ầm; trừ các bị cáo (Hickock nhổ lên sàn) và Harrison Smith lúc bấy giờ hỏi Wells tại sao sau khi biết tin tấn thảm kịch ở Holcomb lại còn lần lữa mấy tuần mới báo nhà chức trách điều mình biết. "Phải chăng ông chờ đến khi có cái gì đó phải ? giải thưởng chẳng hạn?"

      " phải.''

      "Ông nghe đến phần thưởng gì cả à?" Luật sư có ý đến món tiền nghìn đô la của báo Tin tức Hutchinson thưởng; cho thông tin nào dẫn tới việc bắt và xét xử được những tên giết người trong vụ Clutter.

      "Tôi có đọc thấy báo."

      "Trước khi ông báo cho nhà chức trách phải ?" Và khi nhân chứng thừa nhận Smith đắc thắng hỏi tiếp, "Hôm nay ông đến đây làm chứng ông chưởng lý hạt cho ông loại miễn giảm nào?"

      Nhưng Logan Green phản đối: "Chúng tôi phản đối hình thức của câu hỏi, thưa Quý tòa. hề có bằng chứng về miễn giảm cho ai." Lời phản đối được ủng hộ và nhân chứng được cho xuống; khi rời khỏi bục Hickock cho tất cả những ai ở trong tầm nghe chung quanh , "Thằng chó đẻ. Ai phải bị treo cổ chính là nó. Nhìn nó xem. Sắp ra khỏi đây lĩnh món tiền kia và lại được miễn thuế nữa cơ đấy."

      Lời tiên đoán tỏ ra là đúng, vì lâu sau đó Wells vừa được tiền thưởng lại vừa được tha theo lời hứa. Nhưng vận hội của chẳng được mấy hồi. lập tức lại dính phải lôi thôi và phải chịu nhiều nỗi truân chuyên trong nhiều năm ròng. Bây giờ có hộ khẩu ở Nhà tù Bang Mississippi tại Parchman, Mississippi, chịu án tù ba chục năm vì cướp có vũ khí.

      ° ° °

      Thứ Sáu, khi tòa nghỉ cuối tuần, chính quyền bang hoàn tất vụ án, gồm có cả việc ra mắt đặc vụ của Cục Điều tra Liên bang ở Washington. Những người này, các kỹ thuật viên thành thạo trong nhiều phạm trù thuộc lĩnh vực điều tra tội phạm bằng khoa học, nghiên cứu các bằng chứng vật lý khả dĩ liên hệ được những người bị kết án với vụ giết người (mẫu máu, dấu chân, vỏ đạn, dây thừng và băng dính), mỗi người đều chứng minh giá trị pháp lý của các bằng chứng trưng bày. Cuối cùng bốn nhân viên K.B.I cung cấp nội dung thẩm vấn các tù nhân cũng như lời thú tội cuối cùng chúng đưa ra. Khi đối chất với người bên K.B.I, các luật sư bên bị, cặp kết lại thành bè, lập luận rằng bên khởi tố dùng những cách thức chính đáng để đạt được lời thú nhận phạm tội của bị cáo - lấy cung thô bạo ở trong những buồng kín bưng, nóng như cái lò và chói ánh đèn. Cái cớ được viện ra này, vốn đúng, làm các thám tử nổi đóa lên. Họ đưa ra những lời giải thích rất thuyết phục phủ nhận lại. (Sau này, trả lời phòng viên hỏi ông tại sao ông cứ nhằng nhẵng bám lấy cái mùi giả tạo ấy làm gì lâu quá thế, luật sư của Hickock độp lại, "Thế tôi phải làm cái gì đây? Quỷ , tôi phải chơi mà chẳng có được lấy quân bài nào. Mà tôi lại thể ngồi ườn ra đấy như thằng bù nhìn được. Tôi phải gì đó chứ").

      Nhân chứng lợi hại nhất của bên khởi tố là Alvin Dewey, lời chứng của ông, đưa ra lần đầu tiên trước công chúng những việc được chi tiết hóa trong lời thú tội của Perry Smith, chiếm các đầu đề lớn báo chí (NỖI KINH HOÀNG CỦA VỤ ÁN MẠNG CÂM LẶNG CHƯA ĐƯỢC VÉN LỘ - Những việc lạnh băng, ghê rợn được kể lại) và làm cho người nghe choáng váng - ai choáng váng hơn Richard Hickock, bắt đầu chú ý cách kinh ngạc và tuyệt vọng khi mà trong quá trình bình luận của mình Dewey , "Có việc Smith kể lại cho tôi mà đến nay tôi chưa nêu ra. Đó là sau khi gia đình Clutter bị trói lại, Hickock bảo Smith rằng thấy thân hình Nancy Clutter nở nang đẹp đẽ thế nào và tính hiếp ấy. Smith bảo Hickock là làm cái trò đó được đâu. Smith bảo tôi ấy ghê tởm bất cứ ai kìm chế được ham muốn dục tình và Smith đánh nhau với Hickock chứ để Hickock hiếp con nhà Clutter." Từ trước đến nay Hickock hề biết rằng đồng bọn của báo cho cảnh sát rằng từng có ý định hiếp Nancy; cũng chẳng hề hay rằng, với tinh thần bằng hữu hơn, Perry sửa lại lời khai ban đầu của mình để nhận là mình bắn chết bốn người nhà Clutter - việc mà khi sắp kết thúc lời chứng Dewey mới lộ ra: "Perry Smith bảo tôi ấy muốn thay đổi hai điều trong lời khai ấy nộp cho chúng tôi. ấy mọi điều khác trong đó đều đúng cả. Trừ có hai điều kia thôi. Đó là ấy muốn ấy giết bà Clutter và Nancy chứ phải Hickock. ấy bảo tôi rằng Hickock... muốn chết khi mà mẹ ấy cứ phải nghĩ rằng con bà giết người nào đó trong gia đình Clutter. ấy nhà Hickock là người tốt. Vậy tại sao lại như vậy được chứ."

      Nghe tới đây bà Hickock khóc. Suốt thời gian tòa xử, bà yên lặng ngồi cạnh chồng, hai tay vò chiếc khăn tay nhàu nát. Bà cố sức tìm cặp mắt con trai, gật đầu với nó và gượng nụ cười tuy già héo nhưng khẳng định lòng kiên định của mình. Nhưng ràng người đàn bà kiệt sức; bà bắt đầu khóc. Vài người xem liếc nhìn bà rồi ngoảnh , bối rối; số còn lại hình như chú ý tới bài ca sầu não hề gia công gọt giũa đệm đối lại với lời kể thuộc lòng liên tục của Dewey; ngay đến chồng bà có lẽ vì tin rằng ghi nhận điều đó là đàn ông cho lắm nên cũng cứ để mặc bà khóc. Cuối cùng nữ phóng viên, người đàn bà duy nhất có mặt, đưa bà Hickock ra khỏi phòng xử vào riêng của buồng dành cho các bà.

      Khi nỗi buồn vợi, bà Hickock tỏ ra cần được tâm . "Chẳng có ai mà tôi có thể trò chuyện được nhiều," bà bảo nữ phóng viên. "Tôi có ý mọi người tốt đâu, hàng xóm và tất cả. Cả những người xa lạ nữa - nhiều người quen cũng viết thư họ biết chuyện này là gay go thế nào, chúng tôi buồn phiền ra sao. ai lời xấu xa, với Walter lẫn cả với tôi. Ngay cả ở đây cũng , chị có thể trông chờ ở đây là như vậy. Ai ở đây cũng vượt ra khỏi thói thường mà tỏ thái độ hòa hảo hết cả. Chị hầu bàn ở chỗ chúng tôi ăn đằng kia cho kem vào bánh nướng nhân ngọt mà tính tiền. Tôi bảo chị ấy đừng, tôi ăn được như thế. Tôi quen ăn bất cứ cái gì cũng phải an toàn, ăn những thứ gì hại tới tôi. Nhưng chị ấy cứ cho vào. Để tỏ ra tốt với chúng tôi. Sheila, chị ấy tên như thế, chị ấy , việc xảy ra phải lỗi của chúng tôi. Nhưng tôi thấy hình như ai cũng nhìn mình mà nghĩ ngợi. Chậc, muốn gì bà ấy cũng đáng trách. Cái cách tôi dạy dỗ thằng Dick. Có lẽ tôi làm điều gì đó phải. Có điều tôi biết cái phải ấy là cái gì; tôi cố nhớ lại phát nhức cả đầu. Chúng tôi là dân thường, đúng là dân quê, kiếm cách sinh nhai y như tất cả mọi người khác. Ở nhà chúng tôi cũng có những thời vui vẻ. Tôi dạy Dick nhảy foxtrot. Nhảy, tôi lúc nào cũng mê nhảy, hồi còn con nhảy là tất cả đời tôi; dạo ấy có , chà, ta nhảy giỏi vô cùng - chúng tôi nhảy vanxơ với nhau mà giành được cúp bạc. thời gian dài chúng tôi dự tính bỏ nhà lên sân khấu biểu diễn. Nhảy múa. Chỉ là mơ tưởng thôi. Giấc mơ của trẻ con. ta khỏi thị trấn, rồi ngày kia tôi lấy Walter, Walter Hickock chẳng nhảy được bước nào. Ông ấy bảo tôi mà muốn nhảy nên lấy con ngựa. ai nhảy với tôi nữa cho tới khi tôi dạy Dick, nó cũng ham lắm, nhưng nó chiều mẹ, Dick ngày xưa là thằng bé tốt tính nhất trần đời."

      Bà Hickock tháo cặp kính đeo xuống, lau hai mắt kính ố nhoèn rồi lại đeo lên khuôn mặt dễ chịu, đầy đặn của bà. "Về Dick còn có nhiều chuyện hơn là những thứ chị nghe ở đằng kia trong phòng xử án. Các ông luật sư cứ huyên thuyên lên là nó đáng sợ như thế nào... nó tốt tí nào. Tôi thể cáo lỗi được cho việc nó làm, cho cái phần của nó trong việc đó. Tôi quên được gia đình kia; đêm nào tôi cũng cầu nguyện cho họ. Nhưng tôi cũng cầu nguyện cho cả Dick nữa. Và thằng Perry. Tôi ghét nó là tôi sai rồi; bây giờ tôi chỉ có thương nó thôi, có gì khác cả. Và chị biết đấy - tôi tin rằng bà Clutter chắc cũng cảm thấy thương hại cơ. Bà ấy là kiểu đàn bà như người ta ấy mà."

      Tòa hoãn họp; tiếng ồn ào của công chúng ra khua vang trong hành lang; vẳng vào nhà vệ sinh nữ. Bà Hickock phải ra gặp chồng bà. "Ông ấy chết dần mòn. Tôi nghĩ ông ấy chẳng đoái hoài gì nữa đâu."

      ° ° °

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Nhiều người quan sát cảnh tòa xử sửng sốt bởi người khách từ Boston tới, Donald Cullivan. Họ thể hiểu được người thanh niên trầm tĩnh theo đạo Cơ đốc kia, kỹ sư thành đạt từng tốt nghiệp Harvard, người chồng và bố của ba đứa con, lại chọn kết bạn với đứa lại vô học và giết người này, người mà chỉ biết qua loa và chín năm rồi gặp gỡ.

      Chính Cullivan , "Vợ tôi cũng hiểu. Lặn lội đường xa tới đây thực tình tôi có khả năng - phải mất cả tuần xin nghỉ phép, rồi tiền nong còn phải chi cho cả đống việc khác nữa. Nhưng mặt khác, đây là việc mà tôi thể làm. Luật sư của Perry viết thư cho tôi hỏi liệu tôi có làm nhân chứng về tính cách được ; ngay lúc đọc thư tôi biết mình phải làm việc đó. Vì tôi tặng người ta tình bạn. Và vì - đúng, tôi tin ở cuộc đời vĩnh hằng. Mọi linh hồn đều có thể được cứu rỗi vì Chúa."

      Cứu rỗi linh hồn có tên Perry Smith là công việc mà ông phó cảnh sát trưởng và bà vợ vốn là người mộ đạo cách sâu xa ra sức góp phần mình - tuy bà Meier bị Perry từ chối khi bà gợi ý gặp Cha Goubeaux, cha cố địa phương để xin lời an ủi. (Perry , "Cha cố và nữ tu sĩ đều có cơ hội đối với tôi hết cả rồi. Tôi vẫn còn mang những cái sẹo để chứng tỏ điều đó đây.") Thế là, trong thời gian cuối tuần nghỉ họp, vợ chồng Meier mời Cullivan đến ăn tối Chủ nhật trong xà lim với Perry.

      Được dịp chiêu đãi bạn, đóng vai chủ nhà, Perry lấy làm vui thích, và thực đơn dự kiến - ngỗng trời nhồi nấm và quay, với khoai tây nghiền trộn nước thịt cùng đậu đũa, xa lát trứng, bích quy nóng, sữa lạnh, bánh ngọt đào mới ra lò, phó mát và cà phê - còn làm bận tâm hơn cả kết quả xét xử (điều mà chắc chắn là coi như vấn đề phải hồi hộp chờ đợi: "Những dân nhà quê ấy, họ bỏ phiếu để treo cổ nhanh như lợn ăn bỗng rượu ấy mà. Xem mắt họ xem. Sét đánh chết tôi nếu như trong phòng xử này chỉ có mỗi mình tôi là kẻ giết người"). Suốt sáng Chủ nhật chuẩn bị đón khách. Hôm đó trời ấm, gió , và những bóng lá, những cành cây mảnh quật vào cửa sổ chấn song của xà lim, nhè đung đưa ghẹo đùa con sóc thuần hóa của Perry. Con Đỏ đuổi những hình lay động trong khi chủ nó quét dọn, phủi bụi, cọ sàn nhà, góc vệ sinh và thu dọn đống sách báo bàn. Bàn này là bàn ăn, và khi Perry dọn dẹp gọn gàng xong rồi, trông nó có vẻ mời mọc hơn lên, vì bà Meier cho mượn khăn trải bàn bằng lụa mỏng, khăn ăn hồ bột, bát đĩa sứ Tàu và những cái nĩa thìa bạc đẹp nhất của bà.

      Cullivan sửng sốt - huýt sáo khi bữa tiệc được mang đến bằng khay đặt lên bàn - trước khi ngồi xuống hỏi ông chủ liệu có thể đọc kinh . Ông chủ, cúi đầu, bẻ bẻ ngón tay trong khi Cullivan cúi đầu, chắp hai tay lại cất lời đọc, "Lạy Chúa, xin Người ban phúc cho chúng con và những tặng vật mà chúng con sắp nhận lấy được từ tấm lòng bao dung của người đây, qua lòng thương xót của đáng Kitô. Chúa của chúng con, Amen." Perry lầm bầm nhận xét rằng theo ý bất cứ công trạng gì để có được như hôm nay đều thuộc về bà Meier. "Bà ấy làm tất cả mọi việc đấy. Nào," , múc đầy thức ăn vào đĩa của khách, "Don, gặp lại là vui. trông vẫn thế, thay đổi tí nào."

      Nom như thư ký ngân hàng thận trọng với mái tóc thưa và bộ mặt khá là khó nhớ, Cullivan đồng ý rằng bề ngoài mình thay đổi gì nhiều . Nhưng cái Tôi mà có ở bên trong, con người vô hình ấy lại là chuyện khác. "Tôi trượt xuống mãi. Đâu biết Chúa là thực duy nhất. khi hiểu ra cái đó mọi liền đâu vào đấy ngay. Cuộc sống có ý nghĩa - cái chết cũng vậy. Này , lúc nào cũng ăn như thế này đấy à?"

      Perry cười phá. "Bà Meier là đầu bếp tuyệt vời. phải nếm món cơm Tây Ban Nha của bà ấy mới được. Từ ngày vào đây tôi lên những bảy ký rưỡi. Dĩ nhiên tôi vẫn thuộc loại gầy. Tôi sụt cân nhiều hồi tôi và Dick còn chạy như ma đường - chả mấy khi ăn được bữa cho ra bữa, đói suốt như hồn. Thường thường chúng tôi sống như con vật. Dick vẫn thường xuyên ăn cắp đồ hộp ở mấy hàng tạp hóa. Đậu hộp và mì Ý hộp. Chúng tôi mở ở xe và cứ thế xực. là y con vật. Dick khoái ăn cắp. Nó như thứ bệnh hoạn. Tôi cũng là thằng ăn cắp, nhưng chỉ khi nào tôi có tiền để trả. Ngay cả khi mang trong người trăm đô, Dick vẫn cứ thó cho được thanh kẹo cao su."

      Đến lúc uống cà phê hút thuốc, Perry quay lại với chủ đề ăn cắp. " bạn Willie-Jay của tôi quen về chuyện này. ta tất cả mọi tội lỗi đều chỉ là 'những biến dạng của ăn cắp'. Kể cả giết người. Khi giết người là ăn cắp cái mạng của người ta. Xem đấy, Don - tôi giết họ. Dưới phòng xử kia, lão Dewey nghe như tôi toàn quanh co - về chuyện mẹ Hickock ấy. Chà, tôi có quanh co đâu. Dick giúp tôi, cầm đèn pin và nhặt các vỏ đạn. Và cái ý ban đầu là của . Nhưng Dick bắn họ, bao giờ có thể bắn - tuy nhanh ra trò khi cần phóng xe chẹt chết con chó già. Tôi tự hỏi tại sao tôi lại làm thế cơ chứ." cau mày, tựa như vấn đề này mới mẻ đối với , hòn đá mới được khai quật lên với màu sắc gây kinh ngạc và chưa được phân loại bao giờ. "Tôi biết tại sao," , tựa như giơ nó ra ánh sáng, lúc soi góc này, lúc soi góc nọ. "Lúc đó tôi cáu Dick lắm. Cái thằng vô liêm sỉ, ba láp. Nhưng Dick hay như thế. Hay là sợ bị người ta nhận diện. Tôi sẵn sàng chơi canh bạc đó. Và việc đó chẳng phải tại cái gì do nhà Clutter làm cả. Họ xúc phạm gì đến tôi. Như những kẻ khác làm. Những kẻ xúc phạm tôi suốt cả cuộc đời tôi. Có thể chính nhà Clutter là những người phải trả giá cho chuyện đó."

      Cullivan thăm dò, cố lường ra chiều sâu của cái mà theo có lẽ là nỗi ăn năn của Perry. Chắc chắn Perry phải trải qua nỗi hối hận đủ sâu sắc để với đến khát vọng vào tình thương và lượng khoan hồng của Chúa chứ? Perry , "Tôi có ân hận ư? Nếu như muốn tới điều đó tôi có. Tôi cảm thấy tí gì như vậy cả. Giá mà tôi có được. Nhưng giờ tôi chẳng màng gì nữa rồi. Nửa giờ sau khi việc đó xảy ra, Dick pha trò và tôi cười ngặt nghẽo. Có khi chúng tôi phải là người. Tôi đủ Người để cảm thấy buồn cho chính mình. Xin lỗi vì tôi được ra khỏi đây khi ra. Nhưng chỉ thế thôi." Cullivan khó lòng tin được ở thái độ dửng dưng đến như thế; Perry hẳn là bối rối, sai lầm, chứ thể nào có chuyện ai đó lại thiếu lương tâm và khả năng đồng cảm đến thế này được. Perry , "Sao? Lính họ có mất ngủ nhiều đâu. Họ giết người và được huân chương vì việc đó. Những người dân tử tế ở Kansas City muốn giết tôi, và vài tay đao phủ nào đó rất vui lòng làm chuyện ấy. Giết dễ mà - dễ hơn tiêu lọt séc giả nhiều đấy. Xin hãy nhớ cho: tôi chỉ mới biết nhà Clutter có tiếng đồng hồ thôi. Nếu như tôi biết họ có khi tôi cảm thấy khác . Chắc là tôi thể chịu đựng nổi chính bản thân mình. Nhưng nó là thế, chẳng khác nào lần lượt bắn gục mục tiêu ở trường bắn vậy."

      Cullivan im lặng, và im lặng của làm cho Perry bối rối, có vẻ coi đó là cách ngụ ý tán thành. "Khỉ chưa, Don, đừng làm cho tôi phải chơi trò đạo đức giả với . Quăng ra đống câu ấm ớ - nào là tôi ân hận làm sao, nào là bây giờ điều duy nhất tôi muốn làm là quỳ lết mà cầu nguyện. Trò ấy ra gì với tôi đâu. Tôi thể chỉ đêm mà lại chấp nhận ngay được cái tôi vẫn luôn luôn phủ nhận. là so với cái mà gọi là Chúa ấy làm được cho tôi nhiều hơn tất tật những gì ông ấy làm. Bằng việc viết thư cho tôi và ký là 'bạn'. Trong khi tôi chẳng có lấy bạn bè nào. Trừ Joe James." giải thích cho Cullivan, Joe James là thợ rừng người da đỏ trẻ tuổi, từng sống cùng khu rừng gần Bellingham, Washington. "Từ đó đến Garden City xa đấy. Hai nghìn dặm chứ ít đâu. Tôi biên thư cho Joe kể về cảnh khó khăn của tôi. Joe nghèo, những bảy đứa con phải nuôi, thế nhưng vẫn hứa đến đây dù cho có phải bộ. ấy chưa thấy ló mặt, và có thể , nhưng tôi vẫn nghĩ ấy đến. Joe lúc nào cũng mến tôi. có thế , Don?"

      "Có, tôi mến ."

      Câu trả lời dứt khoát mà nhàng của Cullivan làm Perry vui, đúng hơn là xáo động. mỉm cười , "Thế chắc phải là loại ngô nghê nào đó." Thình lình đứng lên, ngang qua xà lim nhặt cái chổi. "Tôi hiểu tại sao tôi lại phải chết ở giữa những kẻ xa lạ nhỉ. Để cho lũ nhà quê đứng chung quanh tôi mà xem tôi lè lưỡi ra. Cứt. Tôi phải tự giết tôi trước." giơ cây chổi lên dí vào cái bóng đèn thắp sáng ở trần. "Chỉ cần cho cái bóng tụt xuống, đập vỡ nó ra rồi cắt cổ tay. Tôi phải làm cái đó. Trong lúc còn ở đây. người còn quan tâm đến tôi chút xíu."

      ° ° °

      Tòa xử tiếp vào hồi mười giờ sáng thứ Hai. Chín mươi phút sau tòa hoãn, vì trong thời gian ngắn ngủi đó bên bị xong công việc. Các bị cáo từ chối tuyên thệ nhân danh mình, do vậy vấn đề liệu Hickock tay Smith là kẻ thực hành quyết cả nhà Clutter được nêu ra.

      Trong số năm nhân chứng ra mắt, người đầu tiên là ông Hickock mắt sâu hoắm. Mặc dù năng rành rọt ra dáng đường hoàng bi thiết, nhưng ông chỉ đóng góp được chi tiết liên quan tới chứng bệnh thần kinh tạm thời của con ông. Ông , con trai ông bị thương ở đầu trong tai nạn xe hơi hồi tháng Bảy năm 1950. Trước tai nạn đó, Dick là " con trai sống phây phây", học giỏi ở trường, bạn học đều biết, và kính bố mẹ... " gây rắc rối cho ai."

      Harrison Smith khéo léo lái nhân chứng, "Tôi xin hỏi là sau tháng Bảy 1950 ông có thấy thay đổi nào trong tính cách, thói quen và hành động của Richard, con trai ông ?"

      "Nó chỉ là hành động giống như trước."

      "Ông thấy những thay đổi như thế nào?"

      Ông Hickock vừa ngập ngừng suy nghĩ vừa kể ra: Dick sưng sưng sỉa sỉa và bồn chồn yên, tụ bạ với đám lớn tuổi hơn, uống rượu đánh bạc. "Đúng là còn giống trước nữa."

      Logan Green, đảm nhiệm phần đối chất, bèn bẻ luôn lời xác nhận cuối cùng này. "Ông Hickock này, ông sau năm 1950 bao giờ có chuyện rắc rối lôi thôi nào với con trai ông phải ?"

      "... Tôi nghĩ nó bị bắt năm 1949."

      Đôi môi mỏng của Green lượn ra thành nụ cười cay độc. "Có nhớ ấy bị bắt vì gì ?"

      "Bị kết tội phá cửa vào hiệu thuốc."

      "Bị kết tội? ấy nhận là có phá cửa vào à?"

      "Có chứ, nhận."

      "Đó là năm 1949. Nhưng bây giờ ông lại con trai ông sau 1950 có thay đổi trong thái độ và hạnh kiểm?"

      "Tôi như thế, vâng."

      "Ông muốn là sau năm 1950 ấy trở thành thanh niên tốt chứ gì?"

      Ông già ho rung cả người; ông nhổ vào chiếc khăn tay. "," ông , nhìn vào chỗ vừa nhổ, "tôi như vậy."

      "Vậy thay đổi xảy ra như thế nào?"

      "À, cái đó rất khó giải thích, chỉ là hành động như nó ngày trước nữa thôi."

      "Ông muốn ấy mất những xu hướng phạm tội?"

      Câu hỏi hóm hỉnh của luật sư làm mọi người cười ầm, bùng nổ của phòng xử mà con mắt nghiêm nghị của Thẩm phán Tate lập tức dập tắt ngay. Lúc này, ông Hickock được bác sĩ W. Mitchell Jones thay thế bục.

      Bác sĩ Jones tự giới thiệu trước tòa là "thầy thuốc chuyên điều trị trong lĩnh vực tâm thần", và để chứng minh cho tư cách chuyên môn của mình, ông thêm rằng từ năm 1956, năm ông vào làm ở Khoa Tâm thần Bệnh viện bang ở Topeka, Kansas, ông điều trị cho khoảng nghìn rưỡi bệnh nhân. Trong hai năm qua, ông phục vụ trong nhóm bác sĩ tại Bệnh viện Bang ở Larned, ở đây ông phụ trách Nhà Dillon, khu vực dành cho những người mất trí phạm tội.

      Harrison hỏi nhân chứng, "Ông điều trị cho bao nhiêu tên sát nhân?"

      "Khoảng hai mươi lăm."

      "Thưa bác sĩ, tôi muốn được hỏi ông là ông có biết thân chủ của tôi, Richard Eugene Hickock ?"

      "Tôi biết."

      "Ông có dịp nào chẩn đoán tâm thần cho ông ấy chưa?"

      "Thưa ngài có... Tôi bản đánh giá tâm thần của ông Hickock."

      "Dựa đánh giá của ông, ông có ý kiến gì về việc liệu Richard Eugene Hickock có biết phân biệt đúng sai vào thời điểm gây tội ác ?"

      Nhân chứng, người trạc hai tám tuổi, thô to vâm váp, mặt tròn xoe như mặr trăng nhưng nom thông minh tinh tế, hít hơi sâu, như để tự trang bị mình cho câu trả lời dài - khiến tòa liền cảnh báo ngay rằng ông được dài, "Ông có thể trả lời có hoặc , thưa bác sĩ. Trả lời có hay thôi."

      "Có."

      "Vậy ý kiến ông là gì?"

      "Tôi nghĩ là trong khuôn khổ định nghĩa thông thường ông Hickock biết phân biệt đúng sai."

      Bị câu thúc trong Điều luật M'Maughten ("Các định nghĩa thông thường"), công thức vốn dĩ mù màu có khả năng phân biệt bất cứ cấp độ nào ở giữa trắng và đen, bác sĩ Jones bất lực thể trả lời khác được. Nhưng dĩ nhiên câu trả lời này khiến cho luật sư của Hickock vỡ mộng; ông này thất vọng hỏi: "Ông có thể trình bày câu trả lời này hơn ?"

      Thất vọng là vì tuy bác sĩ Jones bằng lòng , nhưng bên khởi tố lại có tư cách phản đối - và phản đối, viện dẫn thực tế là luật của Kansas cho phép gì hơn ngoài có hoặc đối với câu hỏi thích đáng này. Phản đối có hiệu lực và nhân chứng rút lui. Nhưng nếu bác sĩ Jones được nhiều hơn ông chứng thực thế này: "Về trí thông minh, Richard Hickock ở mức trung bình, dễ dàng nắm bắt các ý mới và có vốn thông tin rộng. Ông ta nhanh nhạy với những gì xảy ra ở xung quanh mình, và tỏ ra có dấu hiệu hoang mang hay mất phương hướng. Tư duy của ông ta có tổ chức và logic, xem ra ông ta có liên hệ tốt với thực tế. Tuy tôi tìm thấy dấu hiệu thường gặp nào về tổn thương não - mất trí nhớ, hình thành khái niệm cụ thể, hư hỏng trí tuệ - nhưng cũng loại trừ điều này. Ông ta bị chấn thương nghiêm trọng; ở đầu và bị hôn mê nhiều giờ vào năm 1950 - điều này được tôi kiểm tra qua việc xem xét các biên bản của bệnh viện. Ông ta bị những cơn choáng, những thời kỳ lú lẫn, đau đầu từ đó trở phần lớn những hành vi chống phá xã hội của ông ta xảy ra từ thời gian ấy. Ông ta chưa từng được xét nghiệm y tế nhằm kết luận dứt khoát liệu ông ta có bị di chứng của tổn thương não hay . Điều quan trọng là cần phải tiến hành các bước xét nghiệm y tế mới có thể đánh giá toàn diện về tồn tại di chứng này... Hickock cho thấy có những dấu hiệu bất thường về cảm xúc. Việc ông ta biết điều mình làm song vẫn cứ làm có thể là minh chứng nét nhất cho điều này. Ông ta là người hay hành động bốc đồng, manh động, làm mà nghĩ đến hậu quả hay rắc rối mai sau cho bản thân hay người khác. Ông ta có vẻ có khả năng rút kinh nghiệm, ông ta cho thấy hình mẫu quen thuộc gồm những thời kỳ hành động có hiệu quả xen kẽ với những hành động ràng là vô trách nhiệm. Ông ta thể chịu được cảm xúc thất vọng như người bình thường, và ông ta rất ít khả năng tự mình rũ bỏ được các cảm xúc đó trừ khi thông qua những hành động chống phá xã hội... Lòng tự tôn của ông ta rất thấp, và trong thâm tâm ông ta luôn luôn cảm thấy mình ở dưới người khác và được thỏa mãn về tính dục. Các cảm giác này hình như được bù đắp cách cực đoan bằng những giấc mơ về chuyện mình trở nên giàu sang và có quyền lực, xu hướng ưa khoác lác về thành tích của mình, ăn tiêu như phá khi có tiền, chỉ đề bạt chậm trong công việc - điều vốn rất thường tình - cũng làm cho ông ta bất mãn... Ông ta thoải mái trong quan hệ với người khác và bất lực cách bệnh lý trong việc tạo lập và duy trì những gắn bó cá nhân. Tuy thừa nhận những tiêu chuẩn luân lý quen thuộc nhưng hình như ông ta ràng chịu để cho chúng ảnh hưởng đến hành động của mình. Tóm lại, ông ta cho thấy những đặc điểm khá điển hình về cái vẫn được tâm thần học gọi là rối loạn tính cách nghiêm trọng. Điều quan trọng là cần phải tiến hành những bước cần thiết để loại bỏ khả năng thương tổn hữu cơ não, bởi nếu thương tổn này có nó có thể thực ảnh hưởng đến cách hành xử của ông ta trong nhiều năm qua và trong lúc xảy ra án mạng."

      Ngoài bản bào chữa chính thức gửi bồi thẩm đoàn, mà ngày mai điều này mới diễn ra, lời chứng của bác sĩ tâm thần chấm dứt phần bào chữa cho Hickock. Sau đó đến lượt Arthur Fleming, ông luật sư cao tuổi bào chữa cho Smith. Ông giới thiệu bốn nhân chứng: Cha bề James E. Post, giáo sĩ Tin lành ở Nhà tù bang Kansas; Joe James, người bạn da đỏ của Perry, này, từ nhà ở vùng hoang vu Viễn Đông Bắc, xe buýt mất ngày hai đêm để đến cho bằng được sáng nay; Donald Cullivan, và, lần nữa, bác sĩ Jones. Trừ vị bác sĩ ra, ba người kia đều dược coi là "nhân chứng về tính cách" - những người được chờ đợi cung cấp cho bị cáo ít tính người. Họ làm việc đó được tốt lắm, tuy ai cũng thu xếp dăm ba nhận xét thuận lợi cỏn con trước bồi thẩm đoàn, trong khi đoàn này phản đối, cho rằng các bình luận cá nhân mang tính chất này đều là "yếu ớt, thích đáng, có thực" và gạt cho họ .

      Thí dụ, Joe James, tóc đen, da còn đen hơn Perry, nhân vật nhàng trong chiếc sơ mi bạc của người săn và đôi giày lười phẳng nom cứ như vừa bí mật ngoi ra từ trong bóng tối của xứ sở rừng cây, khai trước tòa rằng bị cáo sống với tổng cộng hai năm. "Perry là cậu bé đáng , hàng xóm láng giềng rất mến - theo như tôi biết cậu ta làm gì phải cả." Tòa cắt lời ngay ở chỗ này; và cũng ngăn Cullivan lại khi ta , "Trong thời gian tôi biết Perry trong quân ngũ, ấy là người bạn rất đáng ."

      Cha bề Post trụ được phần nào lâu hơn, vì ông có ý khen ngợi người tù, nhưng ông tả lại lần gặp ta ở Lansing mà thấy có thiện cảm. "Lần đầu tôi gặp Perry là khi ấy đến văn phòng tôi ở nhà nguyện trong nhà tù mang theo bức tranh Giê-su ấy vẽ bằng bút chì màu. ấy muốn tặng tôi bức vẽ để dùng trong nhà nguyện. Từ đây nó được treo tường văn phòng tôi."

      Fleming , "Cha có tấm ảnh nào chụp bức tranh đó ?" Cha có hẳn phong bì đầy nhòe ảnh chụp; nhưng khi cha mang nó ra, có ý phát cho các vị quan tòa Logan Green liền giận dữ nhảy dựng lên, "Nếu Cha cho phép, như thế này là quá xa rồi đấy..." Cha cũng thấy là thể xa hơn nữa.

      Bác sĩ Jones được nhắc nhở, và theo các giao ước đề ra khi ông xuất lần đầu tiên, Fleming đặt ra cho ông câu hỏi quan trọng: "Qua cuộc trò chuyện và chẩn đoán đối với Perry Smith, ông có ý kiến gì về việc liệu ta có biết đúng sai khi thực hành vi tấn công người khác kia ?" Và lần nữa tòa khiển trách nhân chứng, "Trả lời có hay , ông có ý kiến hay ?"

      "."

      Bản thân cũng sửng sốt, giữa những tiếng râm ran ngạc nhiên chung quanh, Fleming : "Ông có thể với tòa tại sao ông lại có ý kiến chứ."


      Green phản đối: "Ông bác sĩ có ý kiến, thế thôi!" Về mặt pháp lý mà đúng là như vậy.

      Nhưng giá như bác sĩ Jones được phép diễn thuyết về lý do lưỡng lự của mình hẳn ông cũng chứng rằng: "Perry Smith có những dấu hiệu dứt khoát về bệnh tâm thần nghiêm trọng. Tuổi thơ của ông ấy, được kể lại với tôi và được kiểm chứng bằng những mẩu ghi nhận trong tù, mang dấu ấn nổi bật của thô bạo và thiếu quan tâm của cả bố lẫn mẹ. Ông ấy có vẻ lớn lên phương hướng, có tình hấp thu bất cứ ý thức cố định nào về các giá trị luân lý... Ông ấy có định hướng, quá nhạy cảm với những cái diễn ra liên quan đến mình, và có dấu hiệu gì là hoang mang bối rối. Ông ta ở mức thông minh trung bình, có vốn thông tin tốt so với bối cảnh học vấn nghèo nàn của ông ta... Trong quá trình hình thành nhân cách của ông ta, có hai nét nổi bật đặc biệt mang tính bệnh hoạn. Nét thứ nhất là định hướng 'hoang tưởng' đối với thế giới. Ông ta đa nghi và mất lòng tin ở người khác, có xu hướng cảm thấy bị người khác phân biệt đối xử, hiểu mình và đối xử bất công với mình. Ông ta cực nhạy bén với những lời người khác phê bình mình, tha thứ được cho việc bị đem ra chế giễu. Ông ta dễ cảm thấy bị sỉ nhục lăng mạ trước những lời của người khác, thường diễn giải sai lệch những cuộc giao tiếp có ngụ ý tốt đẹp. Ông ta cảm thấy có nhu cầu to lớn về tình bạn và lòng thông cảm, nhưng lại do dự trong việc tâm với người khác và khi tâm lại nghĩ rằng sớm muộn gì cũng bị hiểu lầm hay thậm chí bị phản bội. Trong việc đánh giá mục đích và cảm xúc của người khác, ông ta có rất ít khả năng tách các phòng chiếu tâm thần của bản thân ra khỏi thực tế. Ông ta thường hay vơ đũa cả nắm coi ai cũng toàn là đạo đức giả, thù nghịch, và xứng đáng với bất cứ cái gì ông làm với họ. Na ná với nét thứ nhất là nét thứ hai, cơn giận thường trực, kém được kiềm chế - dễ dàng bung ra bởi bất cứ cảm giác nào rằng mình bị lừa bịp, làm nhục hoặc coi khinh. Trong quá khứ, phần lớn các cơn giận này đều hướng vào các nhân vật quyền uy - bố, , thượng sĩ quân đội, viên chức coi tù - và nhiều lần dẫn tới hành vi hung hãn dữ dội. Cả ông ta lẫn nhưng ai quen biết đều hiểu những cơn giận mà ông ta là 'dâng lên đùng đùng' trong ông ta, đều hiểu ông ta rất khó lòng kiềm chế được chúng. Khi hướng vào bản thân những cơn giận này lại phóng thả ra ý nghĩ tự sát. Cái lực thích hợp của cơn giận cùng bất lực trong việc kiểm soát hoặc chuyển dòng cơn giận sang chỗ khác cho thấy nhược điểm chính yếu trong cấu trúc nhân cách... Cùng với các nét đó, ông ta còn cho thấy những dấu hiệu về rối loạn trong quá trình tư duy. Ông ra rất kém trong khả năng sắp xếp tư duy của mình cho trật tự, ông ta hình như có khả năng quan sát hoặc tóm lược ý nghĩ của mình, mà trở nên sa vào và đôi khi vướng mắc vào tiểu tiết, vài ý nghĩ của ông ta có cho thấy tính chất 'ma thuật', lìa thoát thực... Ông ta ít có quan hệ tình cảm thân thiết với người khác, thế, những tình cảm ít ỏi này lại đủ sức chịu đựng những cơn khủng hoảng nho . Ngoài nhóm bạn bè, ông ta ít có cảm tình với người khác; ông ta gắn rất ít giá trị đích thực cho đời sống con người. thờ ơ cảm xúc và dịu dàng trong số lĩnh vực cũng lại là bằng chứng khác nữa về điều bất thường trong tâm lý ông ta. Để có được chẩn đoán tâm thần chính xác, cần phải đánh giá toàn diện hơn nữa, nhưng cấu trúc nhân cách thời của ông ra rất gần với cấu trúc của phản ứng tâm thần phân liệt hoang tưởng rồi."

      Điều khá có ý nghĩa là bậc kỳ cựu được giới tâm thần học pháp lý xa gần kính trọng, bác sĩ Joseph Satten ở bệnh viện Menninger tại Topeka, bang Kansas, tham khảo ý của bác sĩ Jones và tiến thành những đánh giá của ông này về Smith và Hickock. Sau đó, khi chú ý hơn đến vụ án, bác sĩ Satten gợi ý rằng tuy tội ác có thể xảy ra nếu kể tới những tương tác qua lại có tính xung đột giữa hai thủ phạm, song thực chất nó là hành vi của Perry Smith, ông cảm thấy Smith tiêu biểu cho típ sát nhân được ông miêu tả trong bài báo "Giết người có động cơ rệt - nghiên cứu về rối loạn nhân cách".

      Đăng Nhật báo tâm thần học Mỹ (tháng Bảy, 1960) và viết cùng với ba đồng nghiệp, Karl Menninger, Irwin Rosen và Martin Mayman, bài báo ngay từ đầu mục đích của nó: "Nỗ lực để quy mức trách nhiệm phạm tội của những kẻ giết người, pháp luật cố chia họ (như chia mọi tội phạm khác) thành hai nhóm, 'lành trí' và 'mất trí'. Kẻ sát nhân 'lành trí' được cho là hành động với động cơ hợp lý mà ta có thể hiểu được - tuy bị lên án - còn những kẻ mất trí được cho là bị thúc đẩy bởi những động cơ bất hợp lý, vô nghĩa. Khi động cơ hợp lý dễ được nhận thấy (chẳng hạn, giết người vì lợi ích cá nhân) hay khi các động cơ hợp lý lại có những ảo tưởng huyễn hoặc kèm theo chúng (chẳng hạn, bệnh nhân hoang tưởng giết người mà tưởng tượng là kẻ hành hạ ) các nhà khoa học ít gặp phải vấn đề. Nhưng khi kẻ giết người có vẻ lý trí, tỉnh táo và có kiểm soát song hành vi sát nhân lại có tính chất kỳ quái, bề ngoài nom như vô nghĩa, tình hình lại đặt ra bài toán khó, nếu như các bất đồng và các báo cáo trái nghịch nhau trước tòa về cùng kẻ hành hung đó là chỉ dẫn. Như vậy luận đề của chúng tôi là tâm bệnh của những kẻ sát nhân ít ra cũng hình thành nên ít nhất là hội chứng đặc thù mà chúng tôi miêu tả dưới đây. chung, những cá nhân này đều mang sẵn những khiếm khuyết nghiêm trọng trong việc tự kiểm soát bản thân, nó làm cho tính hung bạo nguyên sơ có thể bộc lộ công khai ra, nó nảy sinh từ những chấn thương tinh thần từ trước đó mà bây giờ nằm trong những trải nghiệm đau đớn, vô thức."

      Như phần của quá trình kháng án, các tác giả khám bốn người bị án tù vì những vụ giết người xem vẻ như có động cơ. Bốn người tù được khám trước khi mở tòa và đều " mắc bệnh tâm thần", đều "lành trí". Ba người bị kết án tử hình, người ngồi tù dài hạn. Ở mỗi trường hợp đều cầu mở cuộc điều tra tâm thần học sâu hơn bởi vì bằng lòng với những giải thích tâm thần học được đưa ra trước đó, ai đó - hoặc luật sư, người họ hàng hoặc người bạn - đặt câu hỏi: "Làm sao người lành trí như người này lại có thể phạm phải hành vi điên rồ như cái hành vi ta làm để rồi bị xử tội?" Sau khi mô tả bốn tội phạm và các tội ác của họ ( lính da đen băm vằm và chặt cụt chân tay điếm, nông dân bóp cổ chết cậu bé mười bốn tuổi vì cậu ta cự tuyệt lời gạ gẫm tình dục của , hạ sĩ quan đánh cậu thiếu niên khác đến chết bằng dùi cui vì tưởng rằng cậu giễu cợt mình, và nhân viên bệnh viện dìm đầu lên chín xuống nước cho chết ngạt), các tác giả xem xét các vùng tương đồng của họ. Các tác giả viết rằng những người này bản thân cũng hoang mang hiểu tại sao mình giết các nạn nhân kia, những người tương đối xa lạ với họ, trong mỗi trường hợp kẻ sát nhân đều cho thấy là bị sa vào cơn nhập đồng có tính chất tách biệt cái Tôi ra, giống như trong mơ, rồi sau đó tỉnh lại để "thình lình phát " thấy bản thân mình hành hung nạn nhân. "Phát về tiểu sử giống nhau nhất, và có lẽ có ý nghĩa nhất là tiền sử lâu ngày, có khi hết cả đời, về kiềm chế lúc có lúc đổi với các dục lực hung hãn gây gổ. Chẳng hạn, ba người trong số đó suốt đời thường bị dính vào những cuộc đánh nhau phải là những xích mích thông thường mà là những cuộc đánh nhau nếu được ngăn cản trở thành vụ giết người ."

      Ở đây, người ta trích số lời nhận xét khác nữa có nêu trong bài nghiên cứu: "Mặc dù tính chất hung bạo của cuộc đời họ, tất cả những người này đều có những hình ảnh về bản thân giống nhau, đó là thể chất kém cỏi, yếu đuối, thích nghi được với xã hội. Các bản tiểu sử cho thấy mức độ ức chế tính dục nghiêm trọng ở mỗi người. Với cả bốn người đó, đàn bà đứng tuổi là những kẻ uy hiếp đe dọa, và ở hai trường hợp có những dấu hiệu rệt về đồi bại tình dục. Tất cả họ đều bị khổ tâm suốt thời kỳ mới lớn bởi bị coi là '', bé về tầm vóc và ốm yếu... Trong cả bốn trường hợp, đều có bằng chứng tiền sử về những trạng thái hư tổn ý thức, trạng thái hư tổn ý thức này thường có quan hệ với các cơn hành hung bạo phát. Hai trong những người này báo cáo họ có những cơn nhập đồng thoát ly nghiêm trọng với thực tại, và khi lên cơn như vậy họ có cách ứng xử kỳ quái và hung bạo, còn hai người kia báo cáo có những thời kỳ quên lú kém nghiêm trọng hơn và có lẽ kém được tổ chức hơn. Trong những lúc hành hung , họ thường cảm thấy bị tách ra hoặc biệt lập với bản thân, tựa như họ đứng ngoài xem ai đó vậy... Cũng quan sát thấy trong tiền sử của cả bốn trường hợp rằng, khi các đối tượng này còn , thường xuyên xảy ra cảnh hung bạo cực độ giữa bố mẹ họ... người mỗi khi ta mà 'lảng vảng lại gần là bị quất roi'... người bị nhiều trận đòn rất ác chỉ cốt để triệt cái tật lắp và cả những cơn 'rồ' cũng như để uốn nắn cái hạnh kiểm được cho là 'xấu xa' của ta. Tiền sử liên quan đến bạo lực cực độ, dù là do tưởng tượng ra, quan sát trong thực tế, hoặc do đứa trẻ này thực nếm trải, đều phù hợp với giả thiết phân tâm học cho rằng việc đứa trẻ buộc phải tiếp xúc với những kích thích quá mạnh, trước khi nó có khả năng kiểm soát được chúng, có liên hệ mật thiết với những khuyết tật ban đầu trong quá trình hình thành bản ngã và với những nhiễu loạn nghiêm trọng trong việc kiểm soát dục lực của đứa trẻ sau này. Trong cả bốn trường hợp đều thấy bằng chứng về thiếu thốn tình cảm nghiêm trọng trong những năm đầu đời. thiếu thốn này có thể bao gồm việc vắng mặt kéo dài hay nay vắng mai của bố hoặc mẹ hoặc của cả bố và mẹ, cuộc sống gia đình hỗn loạn trong đó bố mẹ là xa lạ, đứa trẻ được người khác nuôi vì bị hoặc cả bố và mẹ cự tuyệt thẳng cánh... Cũng thấy có bằng chứng rối loạn trong tổ chức xúc cảm. Điển hình nhất là những người này cho thấy xu hướng thường giận dữ hay rồ dại cách tương hợp với hành vi hung bạo. thấy báo cáo có cảm giác thịnh nộ gắn liền với các vụ giết người này, họ cũng trải qua cơn giận dữ nào - dù là mãnh liệt hay lộ liễu - mặc dầu họ đều có thể làm chuyện gây gổ nghiêm trọng và thô bạo... Quan hệ của họ với người khác có tính chất nông cạn, lạnh nhạt, mang lại cho họ nỗi đơn và biệt lập. Với họ, người khác chẳng mấy khi là có , theo cái nghĩa là có thể cảm thấy được cách ấm áp và tích cực (hoặc thậm chí cách bực tức nữa)... Ba người bị án tử hình đều có những xúc cảm hời hợt đối với số phận của chính bản thân mình và số phận của nạn nhân. Thiếu đến mức kinh ngạc ý thức nhận tội, suy sụp và hối hận... Những cá nhân như vậy đều có thể được coi là mang sẵn thiên hướng sát nhân, theo cái nghĩa là hoặc mang quá tải năng lượng gây hấn hoặc hệ bảo vệ cái Tôi trong người đó bất ổn định, định kỳ cho phép cái năng lượng kia bộc lộ ra dưới dạng trần trụi và cổ lỗ. Tiềm năng giết người có thể chuyển thành hành động thực, nhất là nếu như có sẵn vài mất cân bằng, khi mà trong vô thức, kẻ giết người nhận thấy nạn-nhân-tiềm-tàng kia như là nhân vật chủ chốt trong kiện tổng thể gây tổn thương cho ta trong quá khứ. Hành vi - hay thậm chí chỉ có mặt của nhân vật đó thôi cũng đủ góp thêm sức ép vào cái tương quan lực lượng vốn ổn định này, và dẫn đến phóng nổ cực độ của bạo lực đột ngột, giống như khi kim hỏa làm tóe lửa khói thuốc súng mà gây nổ vậy... Giả thuyết về động cơ vô thức giải thích được tại sao kẻ người lại cảm nhận những nạn nhân tương đối xa lạ và vô hại như là những kẻ khiêu khích và do đó hóa thành mục tiêu thích hợp cho gây hấn. Nhưng tại sao lại giết? May sao, phần lớn con người lại thường hay đáp ứng lại những cơn bạo phát sát nhân cho dù phải chịu khiêu khích đến cùng cực. Trái lại, những trường hợp miêu tả đây đều mang sẵn những khiếm khuyết lớn trong tiếp xúc với thực tế, cùng với yếu kém cực độ trong việc kiểm soát dục lực, ở những thời kỳ căng thẳng hay phá hoại cao độ. Vào những lúc đó, chỗ quen biết tình cờ hoặc thậm chí cả người xa lạ nữa cũng dễ dàng bị mất ý nghĩa 'đích thực' của mình và dễ dàng bị gán cho căn cước vốn dĩ nằm sẵn bên trong cái cấu trúc chấn thương vô thức đó. Xung đột 'cố hữu' thế là được làm cho sống lại và óc gây hấn nhanh chóng leo thang lên tới những kích thước sát nhân... Khi những án mạng vô nghĩa như thế xảy ra, chúng được coi là kết quả cuối cùng của thời kỳ căng thẳng và phá hoại ngày tăng nơi kẻ sát nhân, thời kỳ này bắt đầu từ trước lúc tiếp xúc với nạn nhân và cứ tăng dần lên ngừng cho tới khi, do phù hợp với những xung đột vô thức của kẻ sát nhân, vô tình nạn nhân giúp cho tiềm năng sát nhân của chuyển sang thành hành động."

      Vì có nhiều điểm tương đồng giữa hoàn cảnh xuất thân và nhân cách của Perry Smith với những đề tài nghiên cứu của mình, bác sĩ Satten cảm thấy yên tâm khi giao cho vị trí trong hàng ngũ đối tượng nghiên cứu của ông. Hơn thế, đối với ông, bối cảnh của vụ án xem chừng là phù hợp chính xác với khái niệm "giết người có động cơ rệt" do ông đưa ra. ràng ba vụ án mạng mà Smith gây ra xét về logic là có động cơ - Nancy, Kenyon và bà mẹ sở dĩ bị giết là vì ông Clutrer bị giết. Nhưng quan điểm của bác sĩ Satten là chỉ vụ án mạng đầu tiên mới có vấn đề về mặt tâm lý, và lúc tấn công ông Clutter, Smith trải qua cơn trầm uất tâm thần, nằm sâu trong vùng tối tâm thần phân liệt, vì lúc đó phải "đột nhiên phát ra" mình hủy diệt người hoàn toàn bằng xương bằng thịt, mà là hủy diệt " nhân vật chủ chốt nằm trong hợp hình gây tổn thương từ quá khứ": bố ? các nữ tu sĩ viện trẻ mồ côi nhạo báng và đánh đập ? viên thượng sĩ quân đội mà căm thù? viên coi tù ra lệnh cho "phải ở ngoài Kansas"? người trong số họ, hoặc tất cả họ.

      Trong lời thú tội, Smith , "Tôi vốn định làm hại ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy là người lịch , rất tử tế. năng từ tốn. Tôi nghĩ như thế chính trong lúc tôi cắt cổ ông ấy." Trong khi trò chuyện với Donald Cullivan, Smith , "Họ (nhà Clutter) chưa từng xúc phạm đến tôi bao giờ. như những kẻ khác. Những kẻ xúc phạm suốt cả đời tôi. Có lẽ vì thế mà nhà Clutter lại là những người phải trả giá cho việc đó chăng."

      Thế là hóa ra bằng những lối độc lập khác nhau, cả hai nhà phân tích chuyên nghiệp và nghiệp dư đều cùng tới những kết luận phải là giống nhau.

      ° ° °

      Giới quý tộc của hạt Finney làm cụt vòi cuộc xét xử. Vợ chủ trại chăn nuôi giàu có tuyên bố: "Các ông bà ấy hình như tò mò gì về chuyện đó hết." Tuy vậy, đến phiên tòa cuối cũng thấy khá đầy đủ các vị tai to mặt lớn địa phương ngồi cùng với dân thường. có mặt của họ là cử chỉ xã giao đối với Thẩm phán Tate và Logan Green, hai thành viên được mến mộ ở chính thứ bậc của họ. Cũng thế, đoàn lớn những luật gia ngoài thị trấn, nhiều người những chặng đường rất xa đến, ngồi đầy các hàng ghế dài: đặc biệt, họ tới để nghe tại chỗ bài cuối cùng của Green trước tòa. Green, ông già bảy mươi bé, cứng rắn cách khéo léo, có tên tuổi áp đảo trong đám người bằng vai phải lứa, những kẻ hằng hâm mộ tài đóng kịch của ông - vốn liếng năng khiếu biểu diễn bao gồm cảm quan nhạy bén chớp thời cơ như diễn viên hộp đêm. luật sư giàu kinh nghiệm về tội phạm, vai trò thông thường của ông là ở bên bị, nhưng trong trường hợp này chính quyền bang giữ ông làm phụ tá đặc biệt cho Duane West, vì cảm thấy rằng viên chưởng lý hạt hãy còn trẻ tuổi quá, chưa đủ dạn dầy để xét xử vụ án mà ủng hộ của người lịch lãm.

      Nhưng giống như phần lớn các ngôi sao, màn của Green là màn cuối cùng của chương trình. Những ý kiến tỉnh táo công minh mà Thẩm phán Tate truyền đạt tới bồi thẩm đoàn, màn đó xong mới đến lượt ông, theo như lời tóm tắt của ông chưởng lý hạt: "Có mối nghi ngờ nào ở trong đầu các vị về tội của các bị cáo hay ? ! Dù ai bóp cò khẩu súng của Richard Eugene Hickock nữa cả hai cũng đều là thủ phạm cả. Chỉ có mỗi cách để bảo đảm cho những loại người đó bao giờ còn la cà ở các thị trấn và thành phố của vùng đất này nữa. Chúng tôi đề nghị hình phạt cao nhất - tử hình. Chúng tôi đưa ra đề nghị này phải vì muốn trả thù mà với tất cả khiêm nhường kém mọn..."

      Rồi tòa nghe lời bào chữa của các luật sư bên bị. Bài của Fleming, được nhà báo tả là "đạn mềm", rút cục lại là bài thuyết giáo nhàng có tính chất nhà thờ: "Con người phải là con vật. thân xác, và linh hồn sống đời đời. Tôi tin là con người lại có quyền hủy hoại ngôi nhà đó, ngôi đền có linh hồn trú ngụ ở trong..." Tuy kêu gọi bồi thẩm đoàn nhớ đến điều mà ông nghĩ là tinh thần Cơ đốc giáo, Harrison Smith lại lấy những cái xấu của án tử hình ra làm chủ đề chính: "Nó là di sản của con người thời mông muội. Pháp luật bảo chúng ta rằng lấy mạng người là sai, thế rồi nó lại vẫn cứ làm và nêu gương nó lên. Điều đó cũng tội lỗi chẳng kém gì cái tội ác mà chính nó trừng trị. Bang có quyền ban hành án đó. Nó có hiệu quả. Án đó răn đe được tội ác mà chỉ làm rẻ mạng người và làm nảy sinh nhiều án mạng mới hơn. Chúng tôi chỉ xin điều là khoan hồng. Chắc chắn án chung thân là khoan hồng có thể cầu xin được..." Chẳng ai quan tâm lời ông; vị bồi thẩm, hình như bị đầu độc bởi bầu khí bị đè nặng bởi hàng bao nhiêu cái ngáp, hậu quả của chứng cảm cúm mùa xuân, ngồi đó nhắm mắt lại, miệng há toang hoác đến nỗi lũ ong có thể vo ve ra vào như chơi được.

      Green đánh thức họ dậy. "Thưa quý ngài," ông vo, giấy, "các ngài vừa nghe hai lời bào chữa nồng nhiệt xin khoan hồng cho các bị cáo. Tôi thấy hai vị luật sư đáng ngưỡng mộ đấy, ông Fleming và ông Smith, hình như may mắn là có mặt tại nhà Clutter cái đêm định mệnh đó - rất may mắn cho hai ông có mặt tại đó để cầu xin khoan hồng cho gia đình bất hạnh ấy. Vì rằng nếu hai ông có mặt , à, là giả dụ thế, sáng hôm sau chúng ta phải đếm nhiều hơn chứ chỉ bốn xác thôi."

      Khi còn trẻ ở tại quê nhà, bang Kentucky, Green được gọi là Đốm Hồng, biệt hiệu cho những tàn nhang mặt ông; bây giờ, khi ngạo nghễ đứng trước bồi thẩm đoàn, cơn hăng đói với nhiệm vụ được giao phó sưởi nóng ran mặt ông lên và làm nổi những vệt hồng. "Tôi có ý nhảy vào cuộc tranh luận thần học. Nhưng tôi dè trước luật sư bên bị dùng Kinh Thánh làm luận cứ chống lại án tử hình. Các ngài nghe dẫn Kinh Thánh đó. Nhưng tôi, tôi cũng có thể đọc Kinh Thánh ra được chứ." Ông mớ bản Kinh Cựu ước ra. "Và đấy là vài điều trong cuốn Sách Hay về đề tài này. Chương Xuất hành Hai mươi, Khổ thơ Mười ba, chúng ta có trong Mười điều răn. 'Mi được giết người.' Ở đây là đến việc giết người phi pháp. Dĩ nhiên là thế, vì trong chương sau, Khổ thơ Mười hai, ta lại đọc thấy hình phạt về bất tuân lời răn đó: 'Kẻ nào giết người, khiến người đó chết, kẻ đó chắc chắn bị làm cho chết.' Bây giờ, thưa ông Fleming, ông có tin rằng tất cả những cái đó bị việc đức Ki-tô xuất thế làm cho thay đổi . , phải như vậy, vì đức Ki-tô , 'Đừng nghĩ ta đến để phá hủy pháp luật hay những nhà tiên tri, ta đến phải để phá hủy mà ta đến để hoàn tất.' Và cuối cùng..." Green lóng ngóng tìm từ, rồi hình như tình cờ mà gập quyển Kinh Thánh lại, làm cho các vị chức sắc khách mời hợp pháp mỉm cười và huých khẽ nhau, vì đó là thủ đoạn có tự lâu đời của tòa án - vị luật sư trong khi đọc Thánh thư giả vờ như mình để mất chỗ trích dẫn nhưng rồi lại , như Green lúc này , " sao cả. Tôi có thể dẫn thuộc lòng được mà. Sáng Thế Chín, Khổ Sáu: 'Kẻ nào làm đổ máu người máu nó phải đổ bởi người khác'."

      "Nhưng," Green tiếp tục, "tôi thấy tranh luận với nhau về Kinh Thánh chẳng được lợi ích gì. Bang chúng ta ban bố rằng hình phạt cho án mạng ở cấp là tù chung thân hay treo cổ. Đó là pháp luật. Thưa các ngài, các ngài tới đây là để thực thi pháp luật. Và nếu có vụ nào mà trong đó bản án cao nhất được chứng minh là thỏa đáng chính vụ này đây. Đây là những tên giết người kỳ quặc, tàn ác. Bốn người trong đám công dân của các ngài bị tàn sát như những con lợn trong chuồng. Và vì lý do gì? phải vì trả thù hay thù hận gì hết. Chỉ vì tiền. Tiền. Đây là cân đo đong đếm lạnh lùng và được tính toán xem bao nhiêu bạc đổi lấy bao nhiêu máu. Và những mạng người kia được mua mới rẻ làm sao! Cướp vì bốn chục đô la! Mười đô la mạng!" Ông rít lên, chỉ ngón tay lại lại giữa Hickock và Smith. "Họ có dao găm và súng. Họ đến trấn lột và giết..." Giọng ông run lên, thấp xuống và mất , tựa như bị nghẹn lại bởi sức mạnh lời nguyền rủa mãnh liệt của chính ông đối với hai bị cáo nhởn nhơ nhai kẹo cao su. Lại quay sang bồi thẩm đoàn, ông hỏi, "Các ngài làm gì đây? Các ngài làm gì với những kẻ trói chân tay người lại rồi cắt cổ và bắn vỡ đầu người ấy ra! Cho họ hình phạt tối thiểu ư? Vâng, mà đấy mới chỉ là trong bốn án mạng. Còn Kenyon Clutter, thiếu niên còn cả cuộc đời trước mặt, bị trói vô phương tự vệ mà chứng kiến bố mình vật lộn với cái chết sao đây? Hay thiếu nữ Nancy Clutter, nghe thấy tiếng súng và biết thời khắc của mình sắp điểm. Nancy cầu xin tha mạng: 'Đừng! Ôi, xin đừng. Xin. Xin.' Cơn hấp hối thê thảm làm sao! Cuộc tra tấn mới kinh khủng làm sao! Rồi còn lại đấy người mẹ, bị trói bị dán miệng; và phải nghe thấy chồng và hai đứa con dấu của mình lần lượt chết. Nghe cho tới cuối cùng khi những kẻ sát nhân, hai bị cáo ngồi trước mặt các ngài đây, bước vào trong buồng, chiếu đèn pin vào mặt bà và để cho phát súng kết liễu tồn tại của toàn bộ gia đình."

      Ngừng lại, Green đau đớn sờ vào cái nhọt ở sau gáy, chỗ viêm chín mọng có vẻ sắp vỡ toang ra như chính con người đèo bòng nó đây. "Vậy thưa các ngài, quý ngài làm gì đây? Cho họ mức án tối thiểu ư? Đưa họ trở lại trại giam, cho họ cơ hội vượt ngục hay được tha theo lời hứa ư? Lần sau họ giết người có thể là nhà của quý ngài đấy. Tôi với quý ngài," ông trịnh trọng , nhìn trừng trừng vào bồi thẩm đoàn cách vừa thách thức lại vừa làm cho tất cả họ mủi lòng, " vài vụ án ghê tởm ở chỗ chúng ta chỉ có thể xảy ra được vì có thời lũ các bồi thẩm non gan bé mật từ chối làm nghĩa vụ của họ. Bây giờ, thưa quý ngài, tôi xin nhường nghĩa vụ đó lại cho quý ngài và lương tâm của quý ngài."

      Ông ngồi xuống. West thầm với ông: "Đúng là bậc thầy, thưa ngài."

      Nhưng vài thính giả của Green lại nồng nhiệt cho lắm; sau khi bồi thẩm đoàn rút lui để nghị án, người trong số họ, phóng viên trẻ ở Oklahoma, trao đổi gay gắt với nhà báo khác, Richard Parr của tờ Ngôi sao ở Kansas City. Bài của Green theo ta có vẻ là "kích động, thô bạo".

      "Ông ta chỉ thôi mà," Parr . " có thể là thô bạo. Có thể là xếp đặt nó thành câu thành cú thôi."

      "Nhưng việc gì phải dữ dằn đến thế. công bằng."

      "Gì công bằng?"

      "Cả cuộc xét xử. Những tay kia có lấy cơ may nào."

      "Cơ may béo bở chúng cho Nancy Clutter đấy thôi."

      "Perry Smith. Trời cái thằng này, đời nó mới thối nát làm sao."

      Parr , "Nhiều người có thể gán những chuyện tang thương cho cái thằng chó má oắt ù đó. Kể cả tôi nữa. Có thể tôi hơi quá chén, nhưng tôi tin chắc là ai lại có thể tỉnh bơ mà giết nổi những bốn mạng người."

      "Ờ, thế bây giờ đem treo cổ thằng chó ấy lên sao? Thế cũng là tỉnh bơ chứ còn gì."

      Nghe lỏm được, Cha Post cũng tham gia. Ông , tay chuyền cho khắp chung quanh bức ảnh chụp lại bức tranh Giê-su mà Perry vẽ, "Người nào vẽ nổi bức tranh này thể nào xấu hết cả trăm phần trăm đâu. Dẫu sao cũng khó mà nghĩ ra cách. Án tử hình phải là câu trả lời: nó cho kẻ mắc tội có đủ thời gian lên được với Chúa. Đôi khi tôi thất vọng." Là người luôn vui vẻ với hai hàm răng bịt vàng và đội mũ lưỡi trai màu bạc của người góa vợ, ông vui vẻ tiếp, "Đôi khi tôi nghĩ ông Bác sĩ Man rợ kia lại có ý nghĩ đúng cơ đấy." Bác sĩ Man rợ mà ông nhắc tới là nhân vật hư cấu nổi tiếng trong giới độc giả thiếu niên của các tạp chí giật gân thế hệ trước đây. "Nếu mấy cậu thanh niên trẻ tuổi các còn nhớ Bác sĩ Man rợ là loại siêu nhân. Ông ta làm cho mình trở nên siêu phàm trong lĩnh vực y, khoa học, triết học, nghệ thuật. Gần như chẳng có gì là ông Bác sĩ già biết hoặc làm được. trong các mưu đồ của ông ta quyết định rũ sạch khỏi cõi trần gian này những bọn sát nhân. Trước tiên ông ta mua hòn đảo lớn đại dương. Rồi ông ta và các trợ lý - có đến cả đạo quân trợ lý được huấn luyện - bắt cóc tất cả bọn sát nhân ở cõi trần này đem đến hòn đảo nọ. Rồi Bác sĩ Man rợ mổ não bọn đó. Ông loại bỏ hết những phần tử mang những tư tưởng độc ác. Và khi chúng hồi phục chúng thành ra những công dân tử tế. Chúng thể gây tội nữa vì cái phần xấu trong não chúng bị lấy rồi. Bây giờ cái làm cho tôi ngạc nhiên là mổ xẻ kia khéo lại là câu trả lời đích thực cho..."

      Tiếng chuông rung, tín hiệu cho hay bồi thẩm đoàn trở lại, cắt lời ông. Cuộc thảo luận của bồi thẩm đoàn kéo dài bốn mươi phút. Nhiều người xem, đoán trước là quyết định mau lẹ, chẳng hề rời ghế phút nào. Tuy thế, người ta phải cho xe rước Thẩm phán Tate đến sau khi ông tranh thủ về nhà lúc cho ngựa nghẽo ăn. chiếc áo chùng đen mặc vội mặc vàng nhấp nhô gợn nếp quanh ông khi cuối cùng ông đến và hỏi, song khi ông hỏi lại với vẻ nhàn nhã và đạo mạo là gây ấn tượng: "Quý ngài bồi thẩm, quý ngài nghị án xong chưa?" Ông chủ tịch bồi thẩm đoàn đáp: "Thưa quý ngài, ạ." Viên tùy phái của tòa mang bản nghị án được niêm phong đến.

      Tiếng còi xe lửa rúc, tiếng ầm ầm náo động của chuyến tàu tốc hành Santa Fe lại gần, lọt vào phòng xử. Giọng thấp trầm của Tate quyện vào với những tiếng thét của đầu máy xe lửa khi ông đọc: "Điều . Chúng tôi, bồi thẩm đoàn, thấy rằng bị cáo Richard Eugene Hickock là thủ phạm vụ án mạng cấp và hình phạt là tử hình." Rồi, tựa như quan tâm đến phản ứng của tù nhân, ông ngó xuống, chúng đứng trước mặt ông, tay bị còng gắn chặt vào người gác; chúng điềm nhiên nhìn đăm đăm lại ông cho tới lúc ông đọc bảy điều tiếp theo: ba tội trạng nữa cho Hickock và bốn cho Smith.

      "... và hình phạt là tử hình"; mỗi lần Tate tới chỗ án quyết, ông lại đọc nó lên với cái giọng tối và rỗng, cái giọng tựa như vọng lại tiếng còi ai oán bây giờ nhạt nhòa của đoàn tàu. Rồi ông giải tán bồi thẩm đoàn ("Quý ngài làm xong công vụ dũng cảm"), và những người bị khép án được giải . Đến cửa, Smith bảo Hickock, "Bọn này phải là đám bồi thẩm non gan bé mật đâu hả!" Cả hai thằng cười rộ, và nhà nhiếp ảnh liền chụp ảnh chúng lúc đó. Tấm ảnh xuất tờ báo bang Kansas với dòng tít "Tiếng cười cuối cùng?"

      ° ° °

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      tuần sau bà Meier ngồi chuyện với người bạn trong phòng khách. "Vâng, bây giờ quanh đây yên tĩnh lại rồi," bà . "Tôi nghĩ chúng ta nên lấy làm biết ơn rằng mọi việc được thu xểp ổn thỏa. Nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn vì chuyện đó. Tôi chưa có chuyện trò gì nhiều với Dick nhưng tôi và Perry biết nhau khá . Chiều hôm ấy, sau khi ta nghe nghị án và được đưa trở lại về đây - tôi đóng cửa bếp lại để nhìn thấy ta, tôi cứ ngồi lì bên cửa sổ bếp nhìn đám đông ra khỏi tòa án. Ông Cullivan, ông ấy nhìn lên thấy tôi liền vẫy. Ông bà Hickock. Tất cả ra. Đúng sáng hôm ấy tôi nhận được lá thư dễ mến của bà Hickock; bà đến thăm tôi nhiều lần trong khi tòa còn tiếp tục xử, tôi ước gì mình giúp được bà ấy, có điều mình gì được với người ta trong tình cảnh thế này? Nhưng khi mọi người hết cả rồi, tôi vừa bắt tay rửa vài cái đĩa nghe thấy ta khóc. Tôi vặn rađiô lên. Để khỏi nghe thấy. Nhưng thể. Khóc y như đứa trẻ. Trước đây ta bị suy sụp bao giờ, chưa tỏ ra dấu hiệu nào như thế. Thế là tôi đến với ta. Đến cửa xà lim. ra thò tay ra. ta muốn tôi cầm tay ta, tôi liền cầm và ta chỉ , 'Tôi nhục muốn chết được.' Tôi muốn kiếm Cha Goubeaux - tôi ngày mai việc đầu tiên tôi làm là nấu cơm Tây Ban Nha cho ta - nhưng ta chỉ nắm lấy tay tôi chặt hơn.

      Và đêm hôm ấy, trong tất cả mọi đêm, chúng tôi để ta mình. Wendle và tôi gần như chẳng bao giờ đâu, nhưng chúng tôi cam kết từ lâu và Wendle muốn phá vỡ nó. Nhưng rồi tôi luôn luôn phải hối tiếc rằng chúng tôi để ta ở lại mình. Hôm sau tôi làm cơm Tây Ban Nha. ta đụng đến. Hoặc ít chuyện với tôi. ta thù tất cả mọi người. Nhưng buổi sáng người ta đến đưa ta về trại giam ta cảm ơn tôi và cho tôi bức ảnh của ta. bức ảnh Kodak nho chụp ta lúc mười sáu tuổi. ta muốn tôi nhớ về ta giống như đứa trẻ ở trong ảnh ấy.

      Gay go nhất là lúc chào từ biệt. Khi mình biết ta đâu, cái gì đến với ta. Con sóc của Perry, nó chắc là nhớ ta. Cứ vào trong xà lim tìm. Tôi có cho nó ăn nhưng nó chẳng bén mảng gì đến tôi. Nó chỉ thích Perry thôi."

      ° ° °

      Nhà tù rất quan trọng đối với nền kinh tế của hạt Leavenworth, bang Kansas. Hai nhà tù của bang, cho nam, cho nữ đều nằm ở đây; cả nhà tù Leavenworth nữa, nhà tù Liên bang lớn nhất, và, ở Fort Leavenworth, nhà tù quân chủ yếu của đất nước, Trại Kỷ luật ghê gớm của quân và lục quân Mỹ. Nếu tất cả những người tù trong các nơi đó được tự do họ có thể lập nên được thành phố nho .

      Nhà tù lâu đời nhất là Nhà tù Nam bang Kansas, có những tháp canh và quét màu đen trắng, có thể phân biệt được bằng mắt với thị trấn nông thôn vốn dĩ bình thường, Lansing. Xây từ thời Nội chiến, nó tiếp nhận nhân khẩu đầu tiên vào năm 1864. Từ đó đến nay dân số bình quân của nó quanh quẩn ở con số hai nghìn; viên quản ngục nay, Sherman H. Crouse, giữ bản khai liệt kê tổng số tù mỗi ngày phân theo chủng tộc (chẳng hạn, Trắng 1405, Da màu 360; Mexico 12, Da đỏ 6). Dù thuộc chủng tộc gì, mỗi người tù đều là công dân của cái làng bằng đá tồn tại bên trong những bức tường dựng đứng có súng máy canh giữ này - mười hai mẫu đường phố xi măng và những khối xà lim cùng xưởng thợ.

      Ở khu vực phía Nam của tổ hợp nhà tù dựng lên ngôi nhà nho kỳ lạ: tòa nhà hai tầng tối tăm hình thù như cỗ áo quan. Chỗ này, thường gọi chính thức là Nhà Phân biệt Đối xử và Biệt giam, là nhà tù nằm trong nhà tù. Đám tù với nhau gọi tầng dưới là Cái Hố - chỗ mà đám tù khó trị, đám gây rối "rắn đầu rắn mặt" thỉnh thoảng bị đem đày xuống. Tầng lên bằng cầu thang sắt xoáy tròn ốc; ở đỉnh của nó là Dãy Chết.

      Lần đầu tiên những kẻ giết nhà Clutter leo lên cầu thang này là buổi chiều mưa cuối tháng Tư. Đến Lansing sau chuyến bốn trăm dặm kéo dài tám giờ bằng xe hơi từ Garden City, những kẻ mới đến được lột bỏ quần áo, tắm vòi sen, cạo trọc đầu và cấp cho hai bộ đồng phục tù bằng vải bò cùng giày mỏng (trong hầu hết các nhà tù Mỹ, những đôi giày như thế này là thứ để chân quen thuộc của tù); rồi có lính gác mang vũ khí kèm bên đưa họ qua ngôi nhà kiểu áo quan trong ánh chiều tà ẩm ướt, đẩy họ chen nhau lên những bậc thang bằng sắt xoáy ốc rồi vào hai ngăn xà lim trong số mười hai ngăn liền sát nhau, tức là Dãy Chết của Lansing.

      Các xà lim đều giống nhau. Chúng rộng hơn hai mét và dài hơn ba mét, bày biện gì ngoài cái giường cá nhân, góc vệ sinh, bồn rửa mặt, và bóng đèn đỉnh đầu đêm ngày lúc nào tắt. Cửa sổ xà lim rất chật, những có chấn song mà còn được che bằng lưới dây thép tối như tấm chàng mạng người góa phụ; do vậy người qua đường chỉ nhìn thấy lờ mờ mặt mũi những người chịu án tử hình mà thôi. Nhưng tù có thể nhìn ra ngoài khá ; cái họ nhìn thấy là khu đất trông bẩn thỉu, mùa hè được dùng làm bãi đấu bóng chày, bên kia khu đất là mẩu tường nhà tù và tường nữa là mẩu trời.

      Tường xây bằng đá thô; bồ câu làm tổ trong các khe đá. cánh cửa bằng sắt gỉ, đặt ở phần tường mà người ở trong Dãy nhìn thấy được, mỗi khi mở là các bản lề lại kêu ken két rên rỉ làm đám chim bồ câu bay vù lên. Cánh cửa dẫn vào nhà kho như hang động, trong này ngay những ngày u khí cũng ẩm ướt và lạnh. số đồ vật được giữ ở đó: những đống kim loại mà tù dùng làm biển số xe hơi, gỗ xẻ, máy móc cũ, các thứ đồ linh tinh lang tang của bóng chày - và cả cái giá gỗ sơn phảng phất mùi là phòng xử án tử hình của bang; khi người được đưa đến đây để treo cổ, đám tù người đó " đến Cái Xó" hay cách khác là "đến tham quan nhà kho".

      Theo tuyên án của tòa, Smith và Hickock được ấn định là thăm nhà kho sáu tuần nữa kể từ nay: phút sau nửa đêm ngày thứ Sáu, 13 tháng Năm, năm 1960.

      ° ° °

      Kansas bỏ án tử hình năm 1907; năm 1935, do miền Trung Tây thình lình rộ lên những tên sát nhân chuyên nghiệp điên khùng (Alvin "Tổ Sư Ghê" Karpis, Charles "Bảnh Trai" Floyd, Clyde Barrow và ả tình nhân giết người của , Bonnie Parker), các nhà lập pháp của bang bỏ phiếu phục hồi nó. Tuy nhiên, phải đến tận năm 1944 "đao phủ" mới được dịp thi thố tay nghề; hơn mười năm sau đó, ông ta được trao thêm chín dịp. Nhưng trong sáu năm, hay từ 1954, người làm nhiệm vụ treo cổ ở Kansas hề nhận được tấm séc thù lao nào (chưa kể Trại Kỷ luật quân và Lục quân cũng có giá treo cổ ở đó). Ông George Docking quá cố, Thống đốc bang Kansas từ 1957 tới 1960 phải chịu trách nhiệm về thiếu sót này, vì ông thẳng thừng chống án tử hình ("Tôi chỉ là thích giết người thôi").

      Bây giờ, vào tháng Tư năm 1960 - ở các nhà tù Mỹ có trăm chín chục người chờ hành quyết dân ; năm người, trong đó bao gồm những kẻ giết nhà Clutter, là những người trọ tại Lansing. Thỉnh thoảng, những vị khách quan trọng đối với nhà tù được mời đến "nhòm chút vào Dãy Chết", như viên chức cao cấp gọi. Những người nhận lời mời được giao cho người bảo vệ, người này, trong khi dẫn du khách dọc hành lang sắt chạy trước các xà lim tử tù, hình như chỉ cốt nhận diện tử tù với cung cách mà ắt ông ta cho là thủ tục khôi hài. "Và đây," ông ta với vị khách năm 1960, "đây là ông Perry Edward Smith. Còn cạnh đây là bồ của ông Smith, ông Richard Eugene Hickock. Và ở đằng kia chúng ta có ông Earl Wilson. Và sau ông Wilson gặp ông Bobby Joe Spencer. Còn về vị cuối cùng kia tôi chắc ngài nhận ra ông Lowell Lee Andrews nổi tiếng của chúng ta."

      Earl Wilson, người da đen vạm vỡ, hát thánh ca ở nhà thờ, bị tuyên án tử hình vì bắt cóc, hiếp và hành hạ thiếu phụ da trắng; nạn nhân, tuy sống sót, phải mang nhiều di chứng nghiêm trọng. Bobby Joe Spencer, da trắng, thanh niên nhiều nữ tính, thú giết bà cụ ở Kansas City, chủ cái nhà trọ. Trước khi rời nhiệm sở vào tháng Giêng năm 1961, Thống đốc Docking, người thất bại trong cuộc tái cử (phần lớn do thái độ phản đối án tử hình của ông) giảm án của hai người này xuống thành tù chung thân, chung có nghĩa là sau bảy năm chúng có thể được tạm tha theo lời hứa danh dự. Nhưng Bobby Joe Spencer lại giết người ngay: dùng dao đâm chết tù nhân trẻ tuổi khác, địch thủ cùng tranh giành với trìu mến của bạn tù nhiều tuổi (như viên chức cảnh sát : "Đúng là hai thằng lưu manh đánh nhau tranh con đực "). Vụ này kiếm về cho Spencer án chung thân thứ hai. Nhưng công chúng chẳng biết nhiều đến Wilson hay Spencer; so với Smith và Hickock, hay với người thứ năm ở Dãy, Lowell Lee Andrews, báo chí có phần xem chúng.

      Hai năm trước đây, Lowell Lee Andrews, thanh niên mười tám tuổi tướng tá đồ sộ dềnh dàng, mắt kém, đeo kính gọng sừng và nặng gần tạ rưỡi, từng là sinh viên ưu tú chuyên ngành Sinh học ở Đại học Kansas. Tuy người đơn độc, khép kín và ít trò chuyện, những người quen biết cả ở đại học lẫn ở thị trấn quê Wolcott bang Kansas đều coi là kẻ có "bản chất lành mạnh" (sau này tờ báo Kansas đăng bài về với đầu đề "Chàng trai tốt nhất ở Wolcott"). Nhưng bên trong gã sinh viên điềm tĩnh đó lại tồn tại con người thứ hai ai ngờ tới, người với những xúc cảm bị thui chột và đầu óc ngoắt ngoéo qua đó những ý nghĩ lạnh băng cuồn cuộn chảy theo những hướng tàn bạo. Gia đình - bố mẹ và người chị hơi nhỉnh tuổi hơn, Jennie Marie - chắc sững sờ tin nổi nếu biết rằng Lowell Lee, đứa con trai xuất sắc, người em dấu, cái đứa mơ màng nhăng nhít suốt cả mùa hè và mùa thu năm 1958, nó toàn tính kế đầu độc họ.

      Ông già Andrews là chủ trại phát đạt; ông có nhiều tiền ở ngân hàng, nhưng đất đai ông sở hữu trị giá xấp xỉ hai trăm nghìn đô la. Dục vọng thừa hưởng cơ ngơi này ràng là động cơ ở đằng sau mưu muốn hủy diệt cả nhà mình của Lowell Lee. Bởi vì tên Lowell Lee bí , kẻ nấp ở bên trong sinh viên khoa Sinh năng nhà thờ và hay xấu hổ, lại tự coi mình là tên sát nhân bậc thầy có trái tim băng giá: muốn mặc những chiếc áo sơ mi lụa kiểu găng tơ, lái những xe hơi thể thao màu đỏ thẫm; muốn được nhìn nhận phải chỉ như học trò còn tân, béo phệ, mọt sách và đeo kính; và tuy ghét ai ở trong gia đình mình, ít nhất là ghét cách hữu thức, song ám sát họ xem ra lại là cái cách nhanh nhất, nhạy nhất để thực những điều kỳ quái ám . Thạch tín là vũ khí quyết định dùng; sau khi đầu độc các nạn nhân, tính đặt họ vào lại giường rồi đốt nhà, hy vọng những người điều tra tin rằng họ chết vì tai nạn. Nhưng chi tiết dày vò : giả dụ giải phẫu pháp y lại cho thấy thạch tín sao? Và giả dụ việc mua thạch tín để lại dấu vết dẫn đến ? Đến mùa hè dựng ra kế hoạch khác. bỏ ba tháng hoàn chỉnh nó. Cuối cùng đến đêm như tháng Mười gần như lạnh độ sẵn sàng hành động.

      Đó là tuần lễ Tạ ơn, và Lowell Lee nghỉ lễ ở nhà, cũng như Jennie Marie, khá mộc mạc nhưng thông minh theo học trường cao đẳng tại Oklahoma. Đêm 28 tháng Mười , đâu khoảng bảy giờ, Jennie Marie ngồi trong phòng khách với bố mẹ xem ti vi; Lowell Lee nằm trong buồng ngủ đọc chương cuối em nhà Karamazov. Nhiệm vụ đó làm xong, cạo râu, mặc bộ đồ đẹp nhất và bắt tay vào lắp đạn cho cả khẩu súng bán tự động cỡ nòng 22 ly lẫn khẩu súng lục Ruger cỡ nòng 22 ly. nhét súng lục vào bao da ở hông, khoác súng trường lên vai, rồi ung dung xuôi hành lang đến phòng khách; phòng khách lúc này tối om, chỉ còn ánh sáng nhoang nhoáng của ti vi. bật cái đèn lên, nhằm súng, bóp cò, bắn trúng vào giữa hai mắt chị, giết chết ngay lập tức. bắn mẹ ba lần và bố hai lần. Người mẹ, mắt mở trừng, tay giang rộng, loạng choạng đến phía ; bà , miệng mở rồi lại đóng nhưng Lowell Lee : "Câm." Để chắc chắn là bà mẹ tuân lệnh mình, bắn thêm bà ba phát nữa. Nhưng ông Andrews vẫn còn sống; nức nở, rên rỉ, ông lạch bạch nhoài lê sàn nhà xuống phía bếp, nhưng đến cửa bếp thằng con trai rút khẩu súng lục ở trong bao ra xả hết ổ đạn, rồi lại lắp đạn vào và bắn cho tới lúc hết ổ đạn; tổng cộng bố nhận mười bảy viên. Theo những lời khai người ta cho là của , Andrews " hề cảm thấy gì về việc đó. Đến lúc tôi làm cái tôi phải làm thôi, về cái đó chỉ có vậy." Sau khi bắn, nâng cửa sổ trong phòng ngủ mình lên, bỏ rèm che rồi lang thang khắp trong nhà lục lọi các ngăn kéo chạn ăn, vất tung các thứ đựng trong đó ra: ý là để đổ vụ án này cho kẻ trộm. Sau đó, lái chiếc xe của bố đường tuyết trơn đến Lawrence, thị trấn nơi có Đại học Kansas; đường, đỗ xe ở cây cầu, tháo rời những cỗ pháo giết người của ra và thủ tiêu nó bằng cách vất những bộ phận khác nhau xuống sông Kansas. Nhưng dĩ nhiên chuyến này là nhằm tạo ra bằng chứng vắng mặt lúc xảy ra vụ án. Trước hết dừng lại ở khu nội trú nơi sống; chuyện với bà chủ, bảo bà rằng phải đến lấy cái máy chữ, và vì thời tiết xấu cho nên từ Wolcott đến Lawrence phải mất những hai giờ. Lại , vào rạp chiếu phim, tại đây, khác với tính cách mình, trò chuyện với người xếp chỗ ngồi và người bán kẹo. Mười giờ, khi hết phim, quay trở về Wolcott. Con chó lai giống mongrel của gia đình chờ ở cổng trước; nó rên rỉ vì đói cho nên Lowell Lee vào nhà, bước qua xác bố, pha bát sữa nóng và cháo bột mì; rồi trong khi con chó ăn gọi điện cho cảnh sát, "Tên tôi là Lowell Lee Andrews. Tôi sống ở 6040 Wolcott Drive, tôi muốn khai báo vụ cướp..."

      Bốn sĩ quan cảnh sát của Đội Tuần tra hạt Wyandotte đáp lời. người trong nhóm, cảnh sát tuần tra Meyers, tả lại cảnh tượng như sau: "Chúng tôi đến nơi lúc giờ sáng. Tất cả đèn trong nhà sáng trưng. Và cậu con trai to béo tóc đen kia, Lowell Lee, ngồi cổng vỗ vỗ đầu nựng con chó. Thiếu úy Athey hỏi cậu ta cái gì xảy ra cậu ta chỉ về phía cửa, bình thản, , 'Xem trong kia kìa.' Xem rồi thất kinh, các sĩ quan cảnh sát bèn mời người chuyên xét nghiệm pháp y của hạt đến, là người lịch lãm, ông ta cũng ngạc nhiên bởi thái độ lửng khửng chai lì của cậu Andrews non trẻ, vì khi ông ta hỏi định làm ma như thế nào nhún vai đáp, "Các ông làm gì cho họ tôi cũng chả bận tâm."

      lâu sau, hai thám tử kỳ cựu hơn đến và bắt đầu thẩm vấn người sống sót duy nhất của gia đình. Tuy biết chắc dối, hai vị thám tử vẫn nghe cách cẩn trọng chuyện lái xe Lawrence lấy cái máy chữ rồi xem phim như thế nào và về nhà sau nửa đêm ra sao để thấy buồng ngủ của mình bị lục lọi và gia đình bị giết. cứ khư khư bám lấy câu chuyện này, và có thể chẳng bao giờ thay đổi nó nếu như, tiếp sau việc bắt và đưa đến nhà tù hạt, các nhà chức trách nhận được giúp đỡ của Đức cha Virto C. Dameron.

      Đức cha Dameron, nhân vật của Dickens, diễn giả chửi thề vui vẻ và năng ngọt xớt, là cha coi nhà thờ Báptít Grandview ở Kansas City, bang Kansas, nhà thờ mà gia đình Andrews lễ đều đặn. Bị bác sĩ pháp y gọi dậy gấp, Dameron có mặt ở nhà tù vào khoảng ba giờ sáng, chừng đó các thám tử liền rút sang buồng khác, để cho vị linh mục trao đổi ý kiến riêng với con chiên mà cha cai quản. cuộc phỏng vấn có tính quyết định, vì Lowell Lee mấy tháng sau thuật lại việc này với người bạn: "Ông Dameron , 'Nào giờ , Lee ạ, cha biết con suốt cả đời con. Từ lúc con chỉ mới bằng con nòng nọc tí tẹo thế này. Và cha biết cả đời bố con, cha và bố con cùng lớn lên với nhau, là bạn bè thời với nhau mà. Và vì thế cha đến đây - phải vì cha là linh mục của con, mà vì cha cảm thấy con y như là thành viên của chính gia đình cha. Và vì con cần người bạn mà con có thể trò chuyện và tin cậy. Và vì cha cảm thấy ghê sợ về cái vụ việc ghê sợ này, và cha cũng hoàn toàn giống như con, nóng lòng được thấy bọn thủ phạm bị bắt và trừng trị.'

      Ông ấy muốn biết tôi có khát , tôi bảo khát, thế là ông ấy lấy cho tôi chai Coca rồi sau đó tiếp tục chuyện về Lễ Tạ ơn và hỏi tôi có thích học hành , rồi thình lình ông ấy hỏi: 'Bây giờ Lee ạ, mấy người ở đây hình như có vài điều nghi ngờ về vô tội của con đấy. Cha tin rằng con bằng lòng chịu kiểm tra dối và thuyết phục những người này về vô tội của mình để họ có thể toàn tâm bắt bọn thủ phạm.' Rồi ông ấy , 'Lee, con làm cái điều ghê rợn này, có phải ? Nếu con làm đây là lúc cho con tẩy rửa linh hồn con đây.' Tôi chợt thoáng nghĩ, đằng nào cũng có khác gì nhau, thế là tôi ra với ông ấy, gần hết mọi chuyện. Ông ấy cứ lúc lắc đầu, trợn tròn mắt xoa xoa tay, rồi đây là việc ghê rợn, tôi phải trả lời Đấng Tối cao, phải tẩy rửa linh hồn bằng cách với các sĩ quan những gì tôi với ông ấy, và tôi có chịu làm như thế ?" Nhận được cái gật đầu tán thành, cố vấn tinh thần của người tù liền bước vào gian phòng bên cạnh đầy những sĩ quan cảnh sát chờ đợi, rồi tự hào đưa ra lời mời: " vào . Thằng sẵn sàng khai."

      Vụ Andrews trở thành cơ sở cho cuộc vận động lớn về pháp luật và y học. Trước khi tòa họp, tại đó Andrews được bào chữa là vô tội bởi lý do mất trí, khoa Tâm thần của bệnh viện Menninger tiến hành cuộc chẩn đoán triệt để kẻ bị kết tội; việc đó đưa ra chẩn đoán "tâm thần phân liệt, típ đặc biệt". Bằng chữ "đặc biệt", các bác sĩ muốn là Andrews bị cuồng tưởng, có cảm nhận sai lạc, có ảo giác, nhưng có bước khởi đầu của bệnh tách rời tư duy khỏi cảm giác. hiểu bản chất của các hành vi làm, hiểu rằng các hành vi đó bị cấm đoán, rằng đó là chủ thể của trừng phạt. "Nhưng," để dẫn lời bác sĩ Joseph Satten, trong những người chẩn đoán, "Lowell Lee có bất cứ cảm xúc nào hết. coi bản thân là người duy nhất quan trọng, duy nhất có ý nghĩa ở thế giới. Và bên trong cái thế giời lìa xa mọi cái của với hình như giết mẹ cũng giống như giết con vật hay con ruồi vậy thôi."

      Theo ý kiến bác sĩ Satten và các đồng nghiệp của ông, vụ Andrews là thí dụ thể bàn cãi được về tinh thần trách nhiệm giảm sút, đến mức vụ án mạng này cho cơ hội lý tưởng để bác lại Điều luật M'Naghten của tòa án bang Kansas. Điều luật M'Naghten, như trước đây, thừa nhận hình thái mất trí nào khi bị cáo có năng lực phân biệt đúng sai - về mặt pháp lý, chứ phải về mặt luân lý. Dẫu các nhà phân tâm học và luật học tự do thất vọng về điều này đến đâu nữa, điều luật này chiếm ưu thế ở các tòa án của Liên hiệp , và, ở Mỹ, nó được áp dụng ở tòa án tất cả các bang ngoại trừ chừng nửa tá bang và Đặc khu Columbia vẫn trung thành với Điều luật Durham vốn khoan dung hơn tuy số người nghĩ là thực tiễn, theo đó người bị kết tội phải chịu trách nhiệm hình về tội ấy nếu như hành vi phi pháp của người đó là sản phẩm của bệnh tâm thần hay khiếm khuyết tâm thần.

      Tóm lại, điều mà những người bảo vệ Andrews, ê kíp gồm có các nhà phân tâm học của bệnh viện Menninger và hai luật sư hàng đầu, hy vọng đạt được là chiến thắng mang tầm vóc cột mốc về pháp lý. Thực chất chủ yếu là thuyết phục tòa án lấy Điều luật Durham thay cho Điều luật M'Naghten. Nếu việc này xảy ra , do có nhiều bằng chứng liên quan đến tình trạng tâm thần phân liệt của Andrews, chắc chắn bị xử treo cổ hay thậm chí bị tù mà chỉ bị giữ lại tại Bệnh viện bang dành cho những Tội phạm Mất trí.

      Tuy nhiên, bên bị coi như hề có vị cố vấn tôn giáo của bị cáo, linh mục Dameron biết mệt mỏi, người xuất truớc tòa với tư cách nhân chứng chủ yếu cho bên khởi tố, trước tòa bằng cái phong cách cầu kỳ khoa trương của nhà phục sinh tôn giáo diễn thuyết giữa trời rằng ông vẫn thường cảnh cáo cái đứa nguyên là học trò Trường Lễ ngày Chủ nhật của ông về cơn thịnh nộ của Chúa treo lơ lửng đầu chúng ta: "Tôi , cõi thế gian này thứ gì đáng giá hơn linh hồn con, và trong số cuộc trò chuvện con nhiều lần nhận với ta rằng đức tin của con yếu, rằng con tín ngưỡng ở nơi Chúa. Con biết mọi tội lỗi đều là chống Chúa, Chúa là người xét xử cuối cùng của con và con phải trả lời Người. Tôi điều đó để làm cho ta cảm nhận được khủng khiếp của cái việc ta làm và như vậy ta phải trả lời trước Chúa về tội lỗi ấy."

      ràng Đức cha Dameron quyết định thanh niên Andrews nên trả lời phải chỉ trước Chúa mà còn cả với những quyền lực trần tục hơn, vì chính lời chứng của ông, cộng với lời thú của bị cáo, giải quyết được vụ án. Viên thẩm phán chủ trì duy trì Điều luật M'Naghten và bồi thẩm đoàn cho ra bản án tử hình như bang này đòi hỏi.

      ° ° °

      Thứ Sáu, 13 tháng Năm, hạn thứ nhất đặt ra cho việc hành hình Smith và Hickock trôi qua nhàng. Tòa án tối cao bang Kansas cho họ hoãn thi hành án trong lúc chờ đợi kết quả đơn cầu mở phiên tòa mới của luật sư. Lúc này, án của Andrews cũng được tòa án này xét xử lại.

      Xà lim Perry liền bên xà lim của Hickock; tuy nhìn thấy nhau chúng vẫn có thể trò chuyện được, nhưng Perry ít khi với Dick, phải vì tức tối rệt nào giữa chúng (sau ít lời trách móc lăng nhăng, quan hệ giữa chúng biến thành tha thứ cho nhau: chấp nhận lẫn nhau của hai kẻ cùng khí chất song gắn với nhau như bóng với hình), mà là bởi Perry, vốn dĩ cẩn thận, kín đáo, đa nghi, muốn cho các người gác và bạn tù khác nghe lỏm được "việc riêng" của , đặc biệt là Andrews hay Andy như người ta gọi ở Dãy. Cái giọng có ăn học và phẩm chất chính quy của trí tuệ được đại học rèn dạy ở Andrews là lời nguyền rủa với Perry, cứ nghĩ mặc dù mình chưa hết lớp Ba nhưng cũng vẫn được học hành hơn phần lớn những người quen biết, và lấy làm sướng mỗi khi uốn nắn cho họ, đặc biệt về ngữ pháp và cách phát . Thế là đây, đùng cái tòi ra cái thằng này - "chỉ là thằng lỏi" - thế mà nó lại thường xuyên chỉnh . Nào có lạ gì nếu mở miệng? Tốt hơn là câm mồm chứ đừng để cho cái thằng oắt đại học nó bảo ban, như "Đừng phi quan tâm, phải quan tâm." Andrews nó có ý tốt, nó có ác ý gì, nhưng Perry có thể cho nó vào chảo rán giòn - tuy vậy bao giờ thừa nhận thế, để ai đoán ra tại sao, sau trong những cố bị hạ nhục đó, lầm lì sưng sỉa ngồi thiết ăn cả ba bữa ngưòi ta mang cho hằng ngày. Đầu tháng Sáu gần như ngừng ăn - bảo Dick, "Cậu có thể nhẩn nha chờ cái dây thừng được, tớ ," và từ đấy cự tuyệt sờ đến miếng ăn giọt nước và lời với bất cứ ai.

      Cuộc tuyệt thực kéo dài năm ngày trước khi người quản ngục lấy đó làm nghiêm trọng. Ngày thứ sáu ông ta ra lệnh chuyển Perry sang trạm y tế nhà tù, nhưng cuộc xê dịch làm giảm quyết tâm của Perry; khi người ta định dùng cách cưỡng ép ăn chóng trả lại, hất đầu ra sau và nghiến chặt quai hàm cho tới khi hàm cứng đờ chẳng khác nào những cái đinh móng ngựa. Cuối cùng bị trói chặt lại và cho ăn bằng cách tiêm tĩnh mạch hay qua cái ống cắm vào đường mũi. Dù có như vậy, sau chín tuần tiếp theo trọng lượng của từ 84 ký tụt xuống còn 57 ký, và người quản giáo được báo cho hay rằng nuôi cưỡng chế thế này thôi dứt khoát thể giữ cho người tù sống sót được.

      Tuy cũng thấy chợn trước sức mạnh ý chí của Perry, Dick vẫn tin rằng mục đích của Perry là tự sát; ngay cả khi được báo rằng Perry mê man bất tỉnh, Dick cũng bảo Andrews, nay trở nên thân thiết với , rằng thằng bạn cùng phe với vờ vịt đấy thôi. "Chỉ là nó muốn cho họ nghĩ nó điên."

      Andrews, kẻ luôn tự bắt mình ăn ( dán đầy quyển vở toàn những tranh minh họa các thứ ăn được, từ bích quy dâu tây cho đến lợn quay), , "Khéo nó điên . Tự bắt mình đói đến thế cơ mà."

      "Chỉ là nó muốn ra khỏi đây. Đóng kịch. Để cho họ bảo nó điên và đưa nó vào nhà thương điên."

      Về sau Dick đâm ra thích dẫn những lời đối đáp của Andrews, vì thấy hình như đó là mẫu hay ho về "cách suy nghĩ ngộ" và đầu óc tự mãn "phiêu mây gió" của gã trai này. "Chà," Andrews , "tôi mà nhịn như thế chắc chắn là gay go lắm. Ai lại tự nhịn đói cơ chứ! Mà rồi sớm muộn gì chúng mình cũng đều ra khỏi đây thôi. Hoặc bộ ra hoặc cái quan tài nó chở . Tôi ấy à, tôi chẳng bận tâm quái gì mình bộ ra hay được chở ra. Ở đoạn kết tất cả như nhau hết."

      Dick , "Cái rắc rối với cậu, Andy à, là ở chỗ cậu chẳng coi trọng gì cái mạng người. Kể cả cái mạng cậu."

      Andrews tán thành. , "Tôi vài cái nữa cho nghe. Giả sử tôi ra khỏi đây mà sống nhăn răng, tôi muốn là ra khỏi các bức tường kia và hẳn ấy, có lẽ chẳng ai biết Andy đâu mà lần, nhưng chắc chắn họ biết là trước đây Andy ở đâu."

      Suốt mùa hè, Perry quằn quại giữa những cơn thiêm thiếp nửa tỉnh nửa mê và giấc ngủ bệnh hoạn, người đầm đìa mồ hôi. Những tiếng người gầm rú trong đầu ; tiếng người nheo nhéo hỏi : "Giê-su đâu? Đâu?" lần vùng tỉnh dậy hét, "Con chim là Giê-su! Con chim là Giê-su!" Giấc mơ sân khấu ưa chuộng lâu nay, giấc mơ trong đó tự thấy mình là "Perry O'Parsons, Dàn giao hưởng Người", giờ đây quay lại dưới dạng giấc mơ trở tới trở lui. Trung tâm địa lý của giấc mơ là hộp đêm ở Las Vegas, tại đó, đội cái mũ chóp cao trắng lốp, mặc áo choàng trắng lốp, lại khụng khiệng sân khấu sáng đèn, lần lượt chơi kèn ácmônica, chơi ghi ta, chơi băng giô, chơi trống rồi hát "Em là ánh nắng của ", và nhảy mấy bước cla-két lên mấy bậc tam cấp ngắn màu kim nhũ; đến cao điểm đứng lên cái bục, nghiêng mình cúi chào. có tiếng vỗ tay hoan hô, hề, tuy có hàng nghìn vị khách tai to mặt lớn ngồi chật kín cả phòng tráng lệ - cử tọa kỳ quặc, phần lớn là đàn ông và phần lớn da đen. Nhìn kỹ họ, người giúp vui nhễ nhại mồ hôi cuối cùng cũng hiểu ra im lặng của họ, vì thình lình biết rằng đó là những bóng ma, hồn những người bị thủ tiêu hợp pháp, những người bị cho hít hơi ngạt, bị treo cổ, bị điện giật - và đồng thời hiểu ra rằng ở đây là để gia nhập cùng với họ, rằng những bậc kim nhũ kia dẫn tới cái giá treo, và cái bục đứng mở ra dưới chân . Chiếc mũ chóp cao của rơi xuống; ỉa đái dầm dề, Perry O'Parsons bước vào cõi bất diệt.

      buổi chiều, thoát ra khỏi giấc mơ, tỉnh dậy thấy người quản ngục đứng bên giường. Người quản ngục , "Nghe như bị cơn ác mộng ?" Nhưng Perry trả lời, và người quản ngục, vốn nhiều lần vào viện thăm, cố thuyết phục người tù ngừng tuyệt thực , liền "Tôi có cái này ở đây. Của bố . Tôi nghĩ có thể muốn xem." Perry, đôi mắt long lanh mênh mông bộ mặt bây giờ gần như nhợt nhạt màu lân tinh, chăm chú ngắm trần nhà; Lúc đó, người khách bị cự tuyệt bèn quay , sau khi đặt lên bàn bên giường người bệnh tấm bưu ảnh.

      Đêm hôm đó, Perry nhìn bức bưu ảnh. Nó gửi cho người quản ngục và được đóng dấu bưu điện Hồ Xanh, California; phần thư viết bằng lối chữ ngắn ngủn quen thuộc rằng: "Thưa ngài, tôi hiểu là ngài coi giữ thằng Perry con trai tôi. Xin ngài viết cho tôi nó làm gì phải và liệu tôi đến đó có được gặp nó . Tôi mọi đều ổn và tôi tin mọi với ngài cũng thế. Tex J. Smith." Perry xé tấm bưu ảnh, nhưng tâm trí vẫn lưu giữ nó, vì mấy từ thô thiển ấy phục hồi về mặt cảm xúc, làm sống lại tình thương và lòng thù ghét, cho nhớ ra rằng vẫn cứ là cái mà cố để trở thành - kẻ sống. "Và đúng là tôi quyết định," sau này bảo người bạn, "tôi cứ phải theo kiểu cũ thôi. Những ai muốn lấy mạng tôi được giúp gì thêm từ tôi nữa đâu. Họ phải giành giật nó đấy."

      Sáng hôm sau xin cốc sữa, chất dinh dưỡng đầu tiên tự nguyện nhận lấy trong mười bốn tuần qua. Dần dần, nhờ chế độ ăn toàn rượu nóng đánh trứng và nước cam vắt, lấy lại trọng lượng; tháng Mười, bác sĩ nhà tù, Robert Moore, cho rằng đủ sức khỏe để quay về với Dãy. Khi tới đó. Dick cười lớn , "Bồ à, hoan nghênh bồ về nhà."

      ° ° °

      Hai năm trôi qua.

      Wilson và Spencer ra , để Smith, Hickock và Andrews ở lại mình với những bóng đèn thắp sáng và cửa sổ bịt bùng của Dãy. Những đặc quyền tù thường được hưởng đều bị cấm hết với chúng; rađiô hay bài bạc, cả giờ vận động - đúng vậy, chúng bao giờ được phép ra ngoài xà lim, trừ mỗi thứ Bảy được đưa đến buồng tắm để tắm táp rồi lĩnh quần áo cho cả tuần; các dịp duy nhất khác được ra ngoài chốc lát là những cuộc viếng thăm năm mười họa của luật sư hay họ hàng. Bà Hickock tháng đến lần; chồng bà chết, bà mất cái trại, và như bà với Dick, bây giờ bà sống nay với người họ hàng này mai với người họ hàng kia.

      Perry thấy hình như sống "ở sâu dưới nước" - có thể vì Dãy lúc nào cũng xam xám và yên tĩnh như đáy đại dương, thanh trừ tiếng ho, tiếng ngáy, tiếng chân lướt thở dài, tiếng chim bồ câu sột soạt làm tổ trong các bức vách nhà tù. Nhưng phải là luôn luôn. Dick viết trong bức thư gửi mẹ, "Đôi khi mình thể nghe được cả tiếng mình nghĩ nữa. Họ ném người vào trong những xà lim tầng dưới, nơi họ gọi là hố, và nhiều người đấu tranh đến phát điên phát rồ lên để được đưa ra. Chửi rủa, la hét suốt ngày đêm. thể chịu nổi, cho nên ai cũng quát câm . Con mong mẹ gửi cho con cái tai nghe. Có điều họ cho phép con được có. cho bọn tội đồ nghỉ ngơi, chắc họ nghĩ vậy."

      Ngôi nhà bé này sừng sững hơn thế kỷ, những thay đổi thời tiết gây nên những triệu chứng khác nhau cho cái tính cổ lão lâu đời của nó; cái rét mùa đông ngấm đẫm bão hòa vào những thứ cố định bằng sắt và đá, mùa hè, khi nhiệt độ thường lên tới hơn bốn mươi, các xà lim cũ kỹ thành ra những cái lò hôi hám. "Nóng đến nỗi da con nổi rôm hết cả lên," Dick viết trong lá thư đề ngày mồng 5 tháng Bảy năm 1961. "Con cố động đậy nhiều. Con chỉ ngồi sàn. Giường con đầy mồ hôi nằm được, cái mùi của nó làm con ốm vì chỉ tắm lần tuần và luôn luôn mặc có bộ quần áo. có chút thông thoáng nào hết, đèn sáng lại làm cho mọi cái càng nóng lên thêm. Rệp cứ nhảy ở tường."

      giống tù thường, tử tù phải làm việc; họ thích làm gì làm - ngủ suốt ngày, Perry thường thế ("Tôi làm bộ như tôi là đứa nhóc bé tí làm sao mở mắt ra cho được"); hoặc như thói quen của Andrews, đọc suốt đêm. Andrews đọc trung bình mỗi tuần mười lăm đến hai chục quyển sách; gu của bao gồm cả truyện lăng nhăng lẫn văn chương thứ thiệt, thích thơ, đặc biệt là của Robert Frost, nhưng cũng khâm phục Whitman, Emily Dickinson yà thơ hài hước của Ogden Nash. Tuy rằng cơn khát văn chương chữ nghĩa thể dập tắt của mau chóng làm rỗng các giá trong thư viện nhà tù, song cha cố nhà tù và những người khác có thiện cảm với Andrews vẫn cứ cung cấp từng gói từng gói từ thư viện công cộng Kansas City đến cho .

      Dick cũng khá là mọt sách; nhưng niềm thích thú của chỉ bó vào hai chủ đề - tình dục, như được trình bày ở tiểu thuyết của Harold Robbins và Irving Wallace (sau khi mượn quyển trong số này của Dick, Perry bèn gửi trả với lời phê bất bình: "Cứt đái sa đọa cho những đầu óc sa đọa cứt đái!") và cả luật nữa. ngốn hàng giờ vào việc giở hết từng trang sách luật, sưu tầm những công trình nghiên cứu mà hy vọng giúp đảo lật được bản án tuyên cho . Cũng vậy, trong việc theo đuổi mục đích đó, loạt đạn là những bức thư cho các tổ chức như Liên hiệp các Quyền Tự do Dân Mỹ và Hiệp hội Luật gia bang Kansas - những bức thư công kích việc xét xử " ngụy trang cho hợp thức", kêu gọi người nhận thư giúp cầu mở cuộc xét xử mới. Perry cũng xiêu lòng mà đưa ra cầu tương tự, nhưng khi Dick gợi ý Andy hãy làm theo bằng cách nhân danh mình viết thư phản đối Andrews đáp, "Tôi lo cho cái gáy của tôi, các lo cho cái gáy của các ." ( ra, gáy phải là bộ phận cơ thể làm cho Dick lo ngại trước mắt. "Tóc con cứ rụng ra từng nắm tay này," tâm với mẹ trong bức thư khác. "Con sợ, theo như con nhớ ai trong gia đình ta bị hói, cho nên ý nghĩ mình là già hói xấu xí làm cho con sợ.")

      Hai người gác đêm của Dãy, đến làm việc vào tối mùa thu năm 1961, có mẩu tin. "À," người trong họ cho hay, "hình như các có thể chờ có bạn đấy." Hàm ý của cái nhận xét này ràng với cử tọa của ông ta: nó có nghĩa là hai người lính trẻ, vốn phải hầu tòa về vụ giết công nhân đường sắt Kansas, nhận được lời tuyên án cuối cùng. "Vâng," người gác , xác nhận điều đó, "họ chịu án tử hình." Dick , "Chắc rồi. Cái đó rất phổ biến ở bang Kansas này. Các bồi thẩm đoàn chìa mòn này ra y như chìa kẹo cho trẻ con ấy mà."

      trong hai người lính, George Ronald York, mười tám tuổi; đồng của , James Douglas Latham, hơn tuổi. Cả hai đều đặc biệt đẹp trai, có lẽ điều này giải thích tại sao cả bầy con chưa tới hai mươi đổ đến dự phiên tòa xét xử chúng. Tuy bị bắt vì vụ giết người duy nhất, nhưng cả hai tuyên bố có tới bảy nạn nhân trong chuyến việt dã giết người thả dàn xuyên quốc gia.

      Ronnie York, tóc vàng mắt xanh, ra đời và lớn lên ở Florida, bố thợ lặn ngoài khơi nổi tiếng và được trả lương hậu. Nhà York có cuộc sống gia đình đầy đủ dễ chịu, và Ronnie, được bố mẹ và em quá chiều, là trung tâm được sủng ái tôn sùng của cuộc sống gia đình ấy. Lai lịch của Latham lại ở cực đối lập, về mọi mặt đều thê lương như của Perry Smith vậy. Ra đời ở Texas, là đứa út của ông bố bà mẹ mắn đẻ, nghèo kiết và sưng sỉa, rốt cuộc cũng bỏ nhau, để mặc lũ con tự xoay xở lấy, tan tác mỗi đứa nơi, lêu lổng chẳng ai đoái hoài như những cái bèo cái bọt. Mười bảy tuổi, cần chỗ trú, Latham vào lính; hai năm sau, tội đào ngũ bị phát , bị giam ở nhà kỷ luật ở Fort Hood, Texas. Ở đấy gặp Ronnie York, cũng bị giam vì tội đào ngũ. Tuy chúng rất khác nhau - cả về hình thể, York cao to, phớt lạnh, còn Latham thấp bé với đôi mắt cáo màu nâu làm khuôn mặt nhắn chắc nịch trở nên linh hoạt - song chúng thấy có chia sẻ với nhau ít nhất ý kiến vững bền: thế giới đáng ghét, mọi người thế giới tốt nhất là nên chết quách . "Đây là thế giới thối nát," Latham . "Với nó chẳng có lời đáp nào ngoại trừ hèn hạ, ti tiện. Đó là điều mọi người đều thấu hiểu cả: hèn hạ, ti tiện. Đốt sập nhà kho của người ta - người ta hiểu đấy. Đánh bả con chó của lão ta . Giết lão ." Ronnie với Latham là "Đúng trăm phần trăm," và thêm, " , cậu giết ai là cậu gia ân cho nó đấy."

      Người đầu tiên chúng chọn để gia ân cho là hai người đàn bà bang Georgia, những bà nội trợ đáng kính chẳng may gặp phải York và Latham lâu sau khi đôi này trốn khỏi trại giam Fort Hood, ăn cắp xe tải lái đến Jacksonville, bang Florida, thị trấn quê của York. Nơi gặp gỡ là trạm xăng Esso ở vùng ngoại vi tối tăm của Jacksonville; thời gian là đêm 29 tháng Năm 1961. Ban đầu, hai tên lính bỏ trốn đến thành phố Florida với ý định thăm gia đình York; nhưng khi đến đó, York quả quyết rằng tiếp xúc với bố mẹ khôn ngoan, bố lắm lúc lại nổi cơn cáu kỉnh. Hai đứa bàn lui bàn tới chuyện này, rồi New Orleans trở thành điểm đến mới khi chúng đỗ lại trạm xăng Esso để đổ xăng. Cạnh chúng, chiếc xe khác hút xăng; xe có hai người đàn bà là nạn nhân, sau ngày mua sắm và vui chơi ở Jacksonville, hai bà quay về nhà ở thị trấn gần biên giới Florida và Georgia. Than ôi, họ bị lạc đường. Được họ hỏi đường, York chỉ vẽ rất tận tình: "Các bà cứ theo tụi tôi. Cứ theo tụi tôi là ra tới đúng đường." Nhưng con đường chúng đưa họ vào ra là rất sai: lối chật hẹp rẽ sang bên dẫn tới đầm lầy. Tuy thế, hai người đàn bà vẫn tin cậy theo sau, cho tới khi chiếc xe dẫn đường dừng lại và, trong ánh đèn xe, hai thanh niên tốt bụng kia đến gần họ và họ thấy, mặc dù lúc đó mới thấy quá muộn, ràng mỗi thằng vũ trang cái roi chăn bò màu đen. Hai cái roi này là tài sản của người trông coi hợp pháp của chiếc xe bị ăn cắp, người chăn nuôi gia súc; chính Latham nảy ý dùng hai cái roi này làm dây thắt cổ họ - điều mà sau khi trấn lột, chúng làm. Hai đứa mua ở New Orleans khẩu súng lục và khắc hai cái gạch ở báng súng.

      Trong vòng mười ngày tiếp đó có những vạch mới được khía thêm cho Tullahoma bang Tennessee, nơi chúng chiếc Dodge khỏe, có thể bỏ mui, màu đỏ, bằng cách bắn chết người chủ, người bán hàng lưu động; và ở ngoại ô St. Louis bang Illinois, hai người nữa bị giết. Nạn nhân Kansas, tiếp theo năm người , là người đàn ông, Otto Ziegler, sáu mươi hai tuổi, lực lưỡng, dễ mến, kiểu người thể qua những ai hỏng xe mà lại lờ dừng lại giúp. Trong khi lượn vòng vèo dọc xa lộ Kansas vào sáng tươi đẹp tháng Sáu, ông Ziegler nhác thấy chiếc xe bỏ mui trần đỗ bên đường, nắp xe dựng lên, hai thanh niên bảnh bao loay hoay với cỗ máy. Làm sao ông Ziegler tốt bụng lại biết cỗ máy chẳng có hỏng hóc gì - làm sao ông biết được rằng đây là cái bẫy bày ra để trấn lột và giết những con người sẵn lòng từ thiện? Câu cuối cùng của ông là, "Tôi giúp được gì ?" Ở cách bảy mét, York cho viên đạn xuyên qua sọ ông già rồi quay sang bảo Latham, "Bắn giỏi chứ hả?"

      Nạn nhân cuối cùng của chúng mới là bi thảm nhất. Đó là , mới mười lăm tuổi; làm người phục vụ ở khách sạn ven xa lộ tại Colorado, nơi hai tên giở chứng điên khùng ngủ lại, và đêm đó để cho chúng làm tình sau đó chúng bảo chúng đường California và mời cùng. "," Latham giục , "có thể cả ba chúng ta cuối cùng là ngôi sao màn bạc hết đấy." và cái va li các tông xếp vội vàng rốt cuộc chỉ còn là đống giập nát đẫm máu dưới đáy vực gần Craig bang Colorado; nhưng sau khi bị bắn chết và vứt xuống đó đến nhiều giờ, những kẻ sát hại thực trình diễn trước máy quay.

      Các miêu tả về những người ngồi trong chiếc xe đỏ do các nhân chứng cung cấp - họ để ý thấy chúng lảng vảng trong khu vực tìm thấy xác Otto Ziegler - được tống đạt khắp tất cả bang Trung Tây và Tây. Rào ngăn đường được dựng lên, máy bay lên thẳng tuần tra các xa lộ; chính nhờ rào ngăn đường ở bang Utah mà người ta tóm được York và Latham. Sau đó, ở Sở Chỉ huy Cảnh sát Salt Lake City, công ty truyền hình sở tại được phép quay buổi hỏi cung hai tên. Kết quả, nếu như xem ti vi lời chẳng khác gì chương trình về hai vận động viên điền kinh được nuôi bằng sữa hớn hở thảo luận về bóng chày hay khúc côn cầu - bất cứ cái gì trừ giết người và trừ cái vai trò chúng sắm trong cái chết của bảy người, cái vai mà chúng thú cách dương dương tự đắc. "Tại sao," người lấy cung hỏi, "tại sao các làm thế?" York, với nụ cười tự tán thưởng, trả lời, "Chúng tôi ghét thế giới này."

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Cả năm bang tranh nhau quyền khởi tố York và Latham đều tán thành y án tử hình theo pháp luật: Florida (ghế điện), Tennessee (ghế điện), Illinois (ghế điện), Kansas (treo cổ) và Colorado (hơi ngạt). Nhưng vì có bằng chứng vững vàng nhất, Kansas thắng cuộc.

      Những kẻ Dãy gặp các bạn đường mới của chúng vào ngày mồng 2 tháng Mười năm 1961. Khi giải những kẻ mới đến vào xà lim của chúng, người gác giới thiệu như sau: "Ông York, ông Latham, tôi muốn mấy ông làm quen với ông Smith đây, và ông Lowell Lee Andrews - chàng trai hay nhất Wolcott!!!"

      Khi cuộc diễu hành xong, Hickock nghe thấy Andrews cười khùng khục bèn , "Có cái gì ngộ ngộ nơi thằng chó đẻ ấy thế?"

      "Chẳng gì cả," Andrews đáp. "Chỉ là tớ nghĩ, thử đếm xem tớ là ba đứa cậu bốn đứa còn tụi kia bảy đứa, thế là thành ra mười bốn đứa chết còn tụi mình năm. Như vậy tính bình quân năm mười bốn..."

      "Bốn mười bốn," Hickock chỉnh lại cộc lốc. "Có bốn đứa giết người ở này và người bị bỏ tù oan. Tôi phải là đứa giết người khốn kiếp. Tôi đụng đến sợi tóc ở đầu ai bao giờ."

      ° ° °

      Hickock tiếp tục viết thư phản đối việc kết án , và cuối cùng bức có kết quả. Người nhận, Everett Steerman, Chủ tịch ủy ban Trợ giúp: Pháp lý của Hiệp hội Luật gia Bang Kansas bị những lý của người gửi quấy rầy, ta khăng khăng rằng ta và bị cáo đồng phạm được hưởng cuộc xét xử công minh. Theo lời Hickock, " khí thù nghịch" ở Garden City làm cho bồi thẩm đoàn đầy thành kiến được đứng ra xét xử, do đó cần phải đổi địa điểm xử án cũng như đổi bồi thẩm đoàn, về các bồi thẩm được chọn ra ít nhất hai người ràng cho thấy là mang sẵn định kiến "có phạm tội" ngay trong buổi đầu thẩm vấn kiểm tra tư cách ("Khi được cầu tuyên bố ý kiến về hình phạt tử hình, người bình thường ông ta phản đối nhưng trong vụ này ông tán thành"), may là buổi thẩm vấn được ghi vì luật ở bang Kansas đòi hỏi như thế, trừ phi có cầu đặc biệt. Hơn nữa, nhiều bồi thẩm lại "là chỗ rất quen biết với người chết. Cả quan tòa cũng vậy. Thẩm phán Tate là bạn thân thiết của ông Clutter."

      Nhưng Hickock nhằm vào hai vị luật sư của bên bị, Arthur Fleming và Harrison Smith mà giáng đòn bẩn nặng cân nhất, " bất tài và xứng đáng" của hai người này là nguyên nhân chính cho tình thế gay go tại của người đứng đơn đây, vì ra hai người này hề chuẩn bị hay đưa ra lời bào chữa nào, thiếu cố gắng ấy có thể ngầm hiểu là có dụng ý - hành vi cấu kết giữa bên bị và bên khởi tố.

      Đây là những lời khẳng định nghiêm trọng, phản ánh tính trung thực của hai luật gia được kính trọng và vị thẩm phán địa phương có uy tín, nhưng cho dù chỉ đúng phần nào quyền lợi hợp hiến của các bị cáo cũng bị xâm phạm. Được ông Steerman giục giã, Hiệp hội Luật gia bắt tay vào công việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử pháp luật bang Kansas: họ đề bạt Russell Shultz, luật sư trẻ ở Wichita điều tra vụ xét xử này, và nếu có bằng chứng bảo đảm bác bỏ tính hiệu lực của bản án bằng cách đưa lên Tòa án Tối cao Bang Kansas theo nghi thức habeas corpus tức đình quyền giam giữ, chấp thuận giam giữ bị cáo.

      Rồi hóa ra cuộc điều tra của Shultz lại khá là phiến diện, vì ông này chỉ phỏng vấn Smith và Hickock mỗi lần, sau đó luật gia này xuất trước báo giới với những lời lẽ hùng hồn: "Vấn đề là thế này - liệu các bị cáo tội nghiệp ràng là phạm tội này có quyền được bào chữa hoàn toàn hay ? Tôi tin là cái chết của những người chống án này lại gây tổn hại lớn lao hoặc lâu dài đến bang Kansas. Nhưng tôi tin rằng cái chết của quy trình pháp lý hợp thức khiến bang Kansas thể nào hồi phục nổi đâu."

      Shultz nộp đơn kiến nghị chấp nhận án ban bố, và Tòa án Tối cao Bang Kansas trao cho luật gia về hưu của bang, ông Walter G. Thiele khả kính, quyền chủ trì phiên phúc thẩm. Thế là gần hai năm sau phiên xử, toàn thể bộ sậu lại tập hợp trong phòng xử án ở Garden City. Những người quan trọng duy nhất vắng mặt là hai bị cáo ban đầu; thay vào chỗ họ là Thẩm phán Tate, ông già Fleming và Harrison Smith mà nghiệp lâm nguy - phải vì tự thân lý lẽ của bị cáo mà vì tín nhiệm của Hiệp hội Luật gia dành cho họ.

      Phiên tòa phúc thẩm này có thời điểm được chuyển đến Lansing, ở đấy Thẩm phán Thiele nghe lời chứng của Smith và Hickock, kéo dài sáu ngày mới hết; cuối cùng, mọi điểm đều được xem xét tới nơi tới chốn. Tám bồi thẩm thề rằng họ quen ai trong cái gia đình bị sát hại ấy; bốn người thừa nhận có quen biết sơ sơ ông Clutter nhưng từng người, kể cả ông N. L. Dunnan, nhân viên điện đài sân bay từng trả lời mâu thuẫn trong lần thẩm vấn sơ bộ, đều chứng thực rằng mình vào bồi thẩm đoàn cách hoàn toàn vô tư thành kiến. Shultz kháy Dunnan: "Ông có cảm thấy muốn đến phiên tòa cùng với vị bồi thẩm mà tâm trạng giống như tâm trạng mình ?" Dunnan có, ông muốn; thế là Shultz bèn , "Ông có nhớ rằng ông được hỏi là tán thành hay phản đối án tử hình ?" Nhân chứng gật đầu trả lời, "Tôi có bảo là trong tình huống bình thường chắc tôi phản đối. Nhưng với tầm mức to lớn của vụ án này chắc tôi bỏ phiếu tán thành."

      Gây khó dễ với Tate khó hơn: Shultz sớm nhận ra mình nắm đuôi cọp. Trả lời các câu hỏi liên quan đến tình cảm được cho là thân mật của mình với ông Clutter, vị thẩm phán , "Ông ấy [Clutter] từng có lần kiện ở tòa này, vụ đó tôi chủ trì, hành động gây hại dính líu đến chiếc máy bay rơi vào điền thổ của ông ấy, ông ấy kiện vì bị tổn hại, đâu như vài cây ăn quả gì đấy... Ngoài chuyện ấy ra, tôi có dịp nào gần gũi hay liên hệ gì với ông ấy hết. Chẳng có bất cứ việc gì. Trong vòng năm tôi gặp ông ấy cỡ chừng hai lần..." Shultz lúng túng chuyển đề tài. "Ông có biết thái độ của dân chúng ở cộng đồng này là thế nào sau khi hai người kia bị bắt ?" ta hỏi.

      "Tôi tin là biết," vị thẩm phán với quả quyết đầy miệt thị. "Ý kiến của tôi là thái độ đối với họ là thái độ đối với bất cứ ai chịu trách nhiệm về cáo buộc hình - rằng họ phải được xét xử theo pháp luật; rằng nếu có tội họ phải bị kết án; rằng họ phải được xét xử công minh như bất cứ ai. có thành kiến gì với họ bởi vì họ bị khép tội."

      "Ý ông là," Shutlz ranh mãnh , "ông thấy có lý do nào để tòa tán thành việc thay đổi nơi xử án theo chính đề nghị của tòa?" Môi Tate bặm xuống, mắt quắc lên. "Ông Shultz," ông , cái tên nghe cứ như tiếng xì kéo dài, "tòa thể tự nó thay đổi nơi xét xử. Cái đó là trái với luật pháp bang Kansas, tôi thể thay đổi nếu như cầu hợp thức."

      Nhưng tại sao các luật sư bào chữa cho bị cáo lại đưa ra cầu đó? Giờ Shultz đeo đuổi câu hỏi này với chính các luật sư của bị cáo, hỏi vì, theo quan điểm của ông luật sư từ hạt Wichita đến, mục đích chính của phiên tòa phúc thẩm này là làm bẽ mặt các luật sư của bị cáo và chứng minh họ hề có bảo vệ nào dù tối thiểu cho thân chủ của họ. Fleming và Smith chịu đòn cách đường hoàng, nhất là Fleming, thắt cái cà vạt màu đỏ gắt gay và nở nụ cười muôn thuở, ông nghe Shultz công kích với vẻ nhẫn chịu của kẻ hào hoa phong nhã. Giải thích tại sao mình xin thay đổi nơi xử, ông : "Tôi cảm thấy từ khi Đức Cha Cowan, Cha chánh xứ Nhà thờ Giám lý, con người có phẩm chất tại đây, con người với địa vị cao quý, cũng như nhiều vị giáo sĩ khác ở đây, tự bày là phản đối án tử hình, rằng ít nhất chất gây men có ở trong khu vực này, và so với các nơi khác của bang xem ra dân chúng ở đây thiên về khoan dung trong vấn đề hình phạt. Vậy nên tôi tin vào tuyên bố của trai bà Clutter được đăng báo, cho hay rằng ông cảm thấy nên cho các bị cáo án tử hình."

      Shultz có nhiều chiêu công kích, nhưng nằm bên dưới tất cả là cái ngụ ý rằng Fleming và Smith cố tình bỏ lơ nghĩa vụ của họ do sức ép của cộng đồng. Cả hai người - Shultz kiên trì lặp lại ý kiến này - phản bội thân chủ của mình qua việc bàn bạc đầy đủ với họ (ông Fleming đáp lại, "Tôi làm hết sức mình trong vụ án này, bỏ vào nhiều thời gian hơn phần lớn các vụ khác"), qua việc từ chối phỏng vấn sơ bộ bị cáo (Smith trả lời, "Nhưng thưa ngài, vào lúc từ chối đó cả Fleming lẫn tôi đều chưa được chỉ định tham gia bào chữa"); qua việc có những nhận xét với báo chí bất lợi cho bị cáo (Shultz với Smith: "Ông có biết là phóng viên, Ron Kull ở tờ Topeka Daily Capital, vào hôm thứ hai của phiên tòa dẫn lời ông rằng ông nghi ngờ gì về tội của Hickock mà chỉ bận tâm tới việc giành án tù chung thân thay vì án tử hình ?" Smith đáp lời Shultz: ". Nếu người ta dẫn lời tôi như vậy là dẫn đúng đâu"); và qua việc chuẩn bị cuộc bào chữa thích đáng.

      Chiêu sau cùng được Shultz dồn cho nhiều công lực nhất; do đó tưởng cũng cần nêu lại ý kiến về chuyện đó, nó được ba thẩm phán liên bang viết như là kết quả của cuộc vận động chống án tiếp theo đó gửi lên Tòa Chống án Hoa Kỳ: "Nhưng chúng tôi nghĩ những ai nhìn nhận tình hình này theo cách hồi cố bỏ mất nhìn thấy những khó khăn mà các luật sư Smith và Fleming phải đối đầu khi họ nhận bào chữa cho hai người thỉnh nguyện này. Khi các ông nhận chỉ định, mỗi người thỉnh nguyện đều làm bản thú tội đầy đủ, và hề khẳng định rằng bản thú tội này là tự nguyện, lúc đó cũng thế mà suốt quá trình các phiên tòa cũng thế. chiếc rađiô bị những người thỉnh nguyện lấy ở nhà Clutter và mang bán ở Mexico City được thu hồi, và hai luật sư biết rằng lúc đó bên khởi tố nắm trong tay những bằng chứng phạm tội khác. Khi được cầu phúc đáp chính thức rằng mình vô tội trước tòa những người thỉnh nguyện đứng lặng thinh, nên tòa cảm thấy cần phải tiến hành thủ tục phúc đáp này cho họ. Lúc đó, cũng như suốt cả phiên tòa, có bằng chứng vững chắc nào để bào chữa rằng bị cáo phạm tội do mất trí. Khả năng bào chữa dựa chứng mất trí, cho rằng hành vi phạm tội là do những tổn thương nghiêm trọng vì tai nạn trước đó nhiều năm, và do những cơn nhức đầu cũng như những trận ngất xỉu thi thoảng của Hickock, nó cũng mong manh như là bám lấy cọng rơm trong tục ngữ vậy. Các luật sư bên bị đứng trước tình thế trong đó những án mạng ghê rợn gây ra cho những người vô tội được thú nhận. Trong hoàn cảnh đó, nếu khuyên các bị cáo gửi đơn thỉnh nguyện xin khoan dung rồi ném họ ra trước lòng nhân từ của tòa các luật sư được biện minh là làm tròn trách nhiệm. Hy vọng duy nhất của họ là, qua bước ngoặt nào đó của số phận, những kẻ bị lầm lạc này may ra giữ được cuộc đời mình."

      Trong báo cáo trình Tòa án Tối cao Bang Kansas, Thẩm phán Thiele thấy rằng những người đâm đơn thỉnh nguyện có được phiên tòa xét xử công bằng theo đúng Hiến pháp; do đó tòa khước từ lệnh hủy phán quyết và đặt ra thời hạn thi hành án mới - 25 tháng Mười năm 1962. Tình cờ sao, Lowell Lee Andrews, kẻ mà vụ án hết con đường đến tận Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đến những hai lần, lại được xếp lịch cho treo cổ sau đó đúng tháng.

      Nhờ có thẩm phán liên bang xin cho, những kẻ sát hại gia đình Clutter thoát được cái ngày lên lịch ấy. Andrews giữ nguvên ngày giờ định cho mình.

      ° ° °

      Trong việc xử lý các vụ án tử hình ở Mỹ, thời gian giữa khi tòa y án với khi thi hành án xấp xỉ chừng mười bảy tháng. Mới đây, ở Texas, tên trộm có vũ khí phải lên ngồi ghế điện sau khi xét xử có tháng; nhưng ở Louisiana, vào thời điểm viết câu này, hai tên hiếp dâm ngồi chờ chết suốt mười hai năm, con số kỷ lục. chênh lệch này chút là nhờ vào may mắn còn phần lớn là vào mức độ tranh chấp. Phần đông các luật sư đảm nhận các vụ án này đều do tòa chỉ định và có thù lao; nhưng thường thường, để tránh chống án trong tương lai dựa những lời ca thán về việc bị cáo được bảo vệ thích đáng, tòa hay chỉ định những người giàu năng lực nhất và các vị này thường bảo vệ thân chủ mình với hăng hái đáng khen. Nhưng ngay cả luật gia tài năng vừa vừa cũng có thể trì hoãn được năm này qua năm khác cái ngày thi hành án, vì hệ thống chống án bao trùm ngành Luật học Mỹ khiến cho pháp lý trở thành thứ bánh xe của số phận, trò chơi may rủi, phần nào đó có lợi cho tội phạm, trong đó những người chơi cứ thế chơi bất tận, trước hết ở tòa án bang rồi qua hệ thống tòa án liên bang cho tới khi vươn đến cấp cuối cùng là Tòa án Tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả thất bại ở cấp này cũng chẳng có nghĩa lý gì nếu như nhóm luật sư của bị cáo có thể phát hay sáng chế ra những cơ sở mới để chống án; thường họ làm được, và thế là bánh xe lần nữa lại quay, quay cho tới khi có lẽ vài năm sau người tù quay trở lại tòa án cao nhất của đất nước lần nữa, ắt là chỉ để bắt đầu lại cuộc thi đấu tàn nhẫn chậm re ré. Nhưng chốc chốc giữa chừng bánh xe lại ngừng để tuyên xưng kẻ thắng - hoặc là, tuy chuyện này ngày hiếm, kẻ thua: các luật sư của Andrews vật lộn đến giây phút cuối cùng, nhưng thân chủ của họ vẫn phải lên giá treo cổ vào ngày thứ Sáu, 30 tháng Mười năm 1962.

      "Đó là đêm rét buốt," Hickock , khi trò chuyện với nhà báo mà hay thư từ và đều đặn đến thăm . "Rét và ẩm ướt. Trời mưa chẳng ra cái chó gì, sân bãi bóng chày ngập bùn tới cojones tức là tới cổ chân ông. Cho nên khi họ đưa Andy ra để đến nhà kho, họ phải cho nó dọc theo con đường . Tất cả chúng tôi đều ở bên cửa sổ nhìn - Perry và tôi, Ronnie York, Jimmy Latham. Lúc đó đúng sau nửa đêm, nhà kho đèn sáng như đêm hội Halloween. Cửa giả mở toang. Chúng tôi trông thấy các nhân chứng, lô lính gác, bác sĩ và ông quản ngục - đủ các thứ ba láp trừ cái giá treo cổ. Nó khuất trong góc nhưng chúng tôi có thể trông thấy bóng nó. cái bóng tường giống như bóng của võ đài đấu quyền vậy.

      Cha cố và bốn lính gác chịu trách nhiệm giải Andy, khi tới cửa họ dừng lại tí. Andy nhìn cái giá treo - ông có thể cảm thấy như vậy. Tay nó bị trói ra đằng trước. Thình lình cha cố thò tay chụp lấy cái kính cận của Andy. Tội nghiệp, Andy mà lại có kính. Họ dẫn nó vào trong, và tôi tự hỏi liệu nó có thể nhìn để mà leo lên các bậc . Im ắng, trừ tiếng con chó nào sủa đằng xa. Con chó nào đấy trong thị trấn. Rồi chúng tôi nghe thấy cái đó, tiếng thình, và Jimmy Latham hỏi 'Cái gì thế hả?' tôi liền bảo nó là cái gì - cái cửa hầm dưới chân giá treo.

      Rồi im lặng hoàn toàn. Trừ con chó nọ. Thằng Andy, nó lủng lẳng lúc lâu. Họ phải bận ra trò mới dọn được chỗ ấy. Cứ vài phút bác sĩ lại ra cửa, bước ra ngoài đứng đó, cái ống nghe trong tay. Tôi thể là ông ta thích công việc mình làm - ông ta cứ hổn hà hổn hển như là sắp ngạt thở, và lại còn khóc nữa. Jimmy , ' lũ thối.' Tôi cái cớ ông ta ra ngoài là để người khác thấy ông ta khóc. Rồi ông ta vào ngồi nghe xem tim Andy liệu ngừng chưa. Hình như nó chẳng bao giờ ngừng. thực là tim Andy còn đập mãi trong mười chín phút."

      "Andy là thằng lỏi hay," Hickock , cười đến vẹo mồm trong khi tra điếu thuốc vào giữa hai môi. "Như là tôi bảo nó ấy: nó trọng mạng người, ngay cả mạng chính nó. Ngay trước lúc họ treo cổ nó, nó còn ngồi ăn hai con gà quay. Và buổi chiều cuối ấy nó hút xì gà, uống Coca và làm thơ. Khi họ đến đưa nó và chúng tôi gửi lời từ biệt, tôi , 'Mình gặp cậu sớm, Andy. Vì tớ tin chắc chúng mình sắp cùng đến chỗ thôi. Cho nên hãy thăm dò loanh quanh Dưới Đó xem liệu có tìm được chỗ nào râm mát cho chúng tớ xuống với.' Nó liền cười ầm, và bảo nó tin gì ở thiên đường lẫn địa ngục, chỉ là cát bụi về với cát bụi. Rồi nó kể là người người chú đến thăm nó, bảo rằng họ cỗ áo quan chờ chở nó đến cái nghĩa trang nho nào đó ở bắc Missouri. Cũng chính cái nơi chôn ba người mà nó chọn để kết liễu cuộc đời. Họ tính đưa Andy về nằm cạnh đấy. Nó kể là khi họ bảo thế nó khó lòng giữ được bản mặt ngay ngắn. Tôi bảo, 'Tốt, cậu may mắn lắm mới có được cái nấm mồ đấy. Nhiều phần chắc họ đưa Perry và tớ cho ông thầy mổ xác.' Chúng tôi đùa như thế cho đến lúc nó phải , và đúng lúc nó cho tôi tờ giấy đó có bài thơ. Tôi biết có phải nó viết . Hay là chép ở quyển sách nào ra. Tôi cảm tưởng là nó viết. Nếu ông thích, tôi gửi cho ông."

      Sau đó gửi , và thư vĩnh biệt của Andrews hóa ra là đoạn thứ chín trong tập thơ "Khúc hát đau thương viết trong sân nhà thờ đồng quê" của Gray:

      Niềm tự hào của các huy hiệu, ánh huy hoàng của quyền uy,

      Tất cả sắc đẹp đó, tất cả giàu sang từng được cấp cho ta,

      Đều như nhau, chờ giây phút thể nào tránh khỏi:

      Mọi con đường vinh quang dẫn đến nấm mồ.

      "Tôi mến Andy . Nó là thằng ngố - phải thằng ngố như họ vẫn la làng lên; nhưng, ông biết đấy, chỉ là ú ớ. Nó lúc nào cũng đến chuyện bùng ra khỏi đây và kiếm sống bằng nghề bắn mướn. Nó thích tưởng tượng ra mình lang thang khắp vùng Chicago hay Los Angeles với khẩu súng máy đựng trong hộp đàn violon. Cho thiên hạ ngoẻo. Nó tính mỗi thây cứng quèo nghìn đô."

      Hickock cười rộ, chắc là cười ngớ ngẩn trong các tham vọng của bạn , thở dài rồi lắc đầu. "Nhưng so với bọn cùng lứa tuổi nó là đứa thông minh nhất tôi từng giáp mặt. thư viện mang hình người. Khi đọc sách là nó đọc hẳn hoi. Dĩ nhiên nó chẳng hiểu tí nếp tẻ nào về cuộc đời. Còn tôi ấy, tôi là ngu sĩ trừ khi nào dính dáng tới những cái tôi biết về cuộc đời. Tôi bộ dọc lô những đường phố hèn hạ. Tôi nhìn thấy người da trắng bị vụt bằng roi. Tôi xem những đứa trẻ con lọt lòng. Tôi gặp đứa con , nó chưa quá mười bốn, nhận cùng lúc ba thằng và thằng nào cũng được hưởng đáng đồng tiền bát gạo. Có lần tôi rơi từ tàu thủy xuống cách bờ năm dặm. Bơi năm dặm, cứ mỗi sải tay là lần cái mạng tôi có thể tong. Có lần tôi bắt tay Tổng thống Truman ở đại sảnh khách sạn Muehlebach. Harry S. Truman ấy. Khi còn làm lái xe cứu thương ở bệnh viện quân y, tôi thấy hết mọi mặt của cuộc đời rồi - những cái đến chó cũng phải lộn mửa. Nhưng Andy. Nó chẳng biết cái cóc khô nào hết ngoài những cái nó đọc trong sách vở.

      Nó ngây thơ như đứa trẻ con, thằng chíp hôi với hộp bích quy mở ra phát là ăn. Nó chưa ở với đàn bà lấy lần. Chỉ với đàn ông hay với bạn đồng tuổi thôi. Chính nó bảo thế mà. Có lẽ đó là điều tôi thích hơn cả ở nó. Thích cái chỗ nó chả bao giờ loanh quanh. Bọn còn lại chúng tôi Dãy này, chúng tôi là lũ nghệ sĩ tầm bậy tầm bạ. Tôi là trong những đứa tồi nhất. Phun ra , ông phải cái gì chứ. Phét lác vào. ông chẳng là thằng nào, chẳng là cái gì hết, củ khoai tây vật vờ trong cái phủ hai ba mét này. Nhưng Andy góp phần đâu. Nó bảo là cho lắm về những chuyện chẳng bao giờ xảy ra có ích gì.

      Thằng cha Perry, chính lại kiềng nhất hạng thằng Andy đấy. Andy là cái thứ ở đời này mà Perry mong trở thành - có học. Perry thể tha thứ cho Andy chính vì cái đó. Ông biết tại sao Perry lại hay dùng những chữ đao to búa lớn mà chính chẳng hiểu nghĩa là gì ? Nghe cứ như thằng mọi sinh viên ấy hả? Hì, cứ hễ Andy chóp đúng chỗ sai, sửa cho cậu miếng là cậu cay lắm. Dĩ nhiên chỉ là Andy cố trao cho nó cái mà nó muốn thôi - học.

      ai chơi được với Perry. Nó có người bạn đặc biệt nào trong đây cả. Tôi muốn nó nghĩ nó là cái quỷ quái gì chứ? Miệt thị khắp mọi người. Gọi thiên hạ là bọn suy đồi với lại xuống cấp. Cứ moi móc chuyện thiên hạ chỉ số IQ thấp thế nào. Tất cả chúng ta mà có được linh hồn đa cảm như Perry Bé Bỏng là tồi quá. Thánh cơ đấy. Xời, nhưng mà tôi biết vài dân máu họ vui lòng khi đến Cái Xó nếu như họ có thể gặp được Perry mình trong buồng tắm, chỉ cần có phút cao điểm. Cái kiểu nó giở trò mũ áo nghiêm chỉnh ra với York và Latham kìa! Ronnie chắc chắn là nó ước gì có thể kiếm ra cái roi chăn bò. Nó muốn quất Perry trận. Tôi trách nó. Dẫu gì chúng tôi cũng cùng với nhau cả, còn chúng nó đều là những thằng tử tế."

      Hickock buồn rầu cười khục khục rồi nhún vai , "Ông biết là tôi muốn gì rồi. Tốt. Mẹ Ronnie York đến đây thăm con nhiều lần. hôm, ngoài chỗ phòng chờ bà ấy gặp mẹ tôi, nay hai bà trở thành bạn bè số dách của nhau. Bà York muốn mẹ tôi đến thăm nhà bà ấy ở Florida, có khi còn sống ở đó nữa. Ôi lạy Chúa, tôi mong mẹ tôi làm thế. Rồi bà cụ phải qua hết cái tội nợ này. Mỗi tháng lần ngồi xe buýt đến đây thăm tôi. Cười, cố tìm ra cái gì để , để làm cho tôi cảm thấy dễ chịu. Bà cụ tội nghiệp. Tôi hiểu sao bà cụ lại chịu được. Tôi nghĩ bà cụ điên đâu."

      Đôi mắt bên cao bên thấp của Hickock quay về phía cửa sổ phòng chờ; mặt phị ra, tái nhợt như bông huệ lễ tang, mờ mờ sáng lên trong ánh nắng mùa đông yếu ớt lọt vào qua lần kính che chắn song cửa sổ.

      "Bà cụ tội nghiệp. Bà viết thư cho quản ngục, hỏi liệu lần thăm tới bà có thể chuyện với Perry . Bà cụ muốn tự tai nghe Perry giết những người kia như thế nào, làm sao mà tôi lại bắn phát nào cả. Tất cả những điều tôi hy vọng là hôm nào đó chúng tôi được xử lại, và Perry chứng nhận, ra . Có điều chuyện đó tôi ngờ lắm. Nó quyết định dứt khoát là nếu nó tôi cũng . Lưng liền lưng. Cái đó đúng. Nhiều kẻ giết người mà có bao giờ trông thấy bên trong cái xà lim án tử nó ra sao đâu. Mà tôi chưa giết ai bao giờ cả. Nếu ông có năm chục ngàn đô để tiêu cho bằng hết, ông có thể mua nửa Kansas City mà chỉ cười ha ha thôi." nụ cười thình lình xóa sạch hết nỗi bất bình đau khổ của . "Ô ô. Tôi lại thế rồi. Khóc mếu như con nít. Ông nên nghĩ là tôi học được đó. Nhưng tình, thề có Chúa, tôi cố hết sức để được cùng với Perry. Có điều nó hay ỉ eo quá. Hai mặt. Quá đố kỵ về bất cứ chuyện lặt vặt nào. Mỗi bức thư tôi nhận được, mỗi người đến thăm. Chẳng có ai đến thăm nó, trừ ông," Hickock , hất đầu về phía nhà báo, ông này quen với Smith cũng ngang với quen Hickock. "Hay luật sư của nó. Ông nhớ lúc nó nằm viện chứ? Cái đoạn nhịn ăn có bài bản nhưng toàn là nhịn giả cầy đó? Rồi bố nó gửi đến tấm bưu ảnh ấy? À, quản ngục viết cho bố Perry báo là ông ta đến bất cứ lúc nào cũng được hoan nghênh hết. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông ta ló mặt. Tôi hiểu. Nhiều lúc ông cũng phải thấy tội cho Perry. Nó đúng là thằng độc chưa từng có. Nhưng. Ồ nhưng thôi, mặc xác nó. Phần lớn là do lỗi của nó thôi."

      Hickock rút thêm điếu Pall Mall nữa, cau mũi lại . "Tôi cố bỏ thuốc. Nhưng lại nghĩ tình cảnh này hay cũng có khác được cái gì. May mắn đôi chút tôi bị ung thư và thắng được ông nhà nước ngay sân nhà ổng. Ở đây tôi cũng được hút xì gà dạo. Của Andy. Buổi sáng sau cái hôm người ta treo cổ nó, tôi thức dậy gọi 'Andy' - kiểu như thường ngày vẫn gọi. Rồi tôi nhớ ra nó đường Missouri. Với bà và ông chú. Tôi nhìn ra ngoài hành lang. Xà lim được dọn sạch, tất cả đồ giẻ rách của nó được xếp ở ngoài. Đệm, đôi giày bệt của nó và quyển sổ có dán tất tật tranh ảnh đồ ăn này nọ - nó gọi là 'tủ lạnh' của nó. Và cái hộp xì gà 'Macbeth'. Tôi bảo người gác là Andy muốn tôi lấy chỗ đó, nó để lại cho tôi theo ý nó. Thực tình tôi có khi nào hút đâu. Có thể đấy là ý của Andy, nhưng biết sao chúng làm cho tôi khó tiêu.

      À được, có gì để về án tử hình hả? Tôi phản đối. Nó là trả thù, chỉ có thế, mà trả thù sai ở chỗ nào? Trả thù rất quan trọng. Nếu tôi là họ hàng thân thích của nhà Clutter hay trong những người bị Latham và York thủ tiêu tôi cũng thể chịu yên chừng nào những đứa chịu trách nhiệm về chuyện đó chưa lên Cái Lủng Lẳng Bự. Những người viết thư cho báo chí kia. Hôm nọ có hai bức thư tờ báo Topeka - bức là của ông linh mục. là cái trò hề pháp lý này là cái gì, tại sao những thằng chó đẻ Smith và Hickock lại chưa chìa gáy chúng nó ra, làm sao mà những thằng chó đẻ giết người ấy vẫn cứ ăn nhờ tiền thuế của dân? Tốt, tôi có thể nhìn thấy cái mặt đó. Họ phát điên lên vì họ chưa có được cái họ muốn - trả thù. Và chừng nào tôi còn chưa giúp tay họ còn chưa có được cái đó. Tôi tin ở án treo cổ. Vẫn tin chừng nào tôi phải là đứa sắp bị treo cổ."

      ° ° °

      Nhưng rồi bị. Ba năm nữa trôi qua, hai luật sư đặc biệt giỏi của Kansas City, Joseph P. Jenkins và Robert Bingham, thay cho ông Shultz sau cùng cũng rút ra khỏi vụ án này. Được thẩm phán liên bang chỉ định và làm có thù lao (nhưng được thúc đẩy bằng lập trường kiên định rằng các bị cáo là nạn nhân của "cuộc xét xử bất công đến mức ác mộng"), Jenkins và Bingham gửi nhiều đơn chống án khắp mạng hệ thống tòa án liên bang, do đó né được ba thời hạn hành quyết; 25 tháng Mười năm 1962, mồng 8 tháng Tám năm 1963, 18 tháng Hai năm 1965. Các luật sư tranh biện rằng thân chủ của họ bị buộc tội công bằng bởi vì chỉ sau khi bị cáo thú tội và từ chối điều tra sơ bộ mới được luật sư bào chữa cho; vì bị cáo có luật sư giỏi đại diện ở trước tòa, họ bị xét xử với những tang chứng bị tịch thu mà có giấy khám xét (khẩu súng và con dao lấy ở nhà Hickock), và được phép thay tòa xử cũng như nơi xử mặc dù các vùng lân cận nơi diễn ra phiên tòa "bị bão hòa" bởi tuyên truyền cổ động đầy thành kiến đối với bị cáo.

      Với những luận cứ này, Jenkins và Bingham đưa được vụ án lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ - Chàng Trai Bự, như nhiều tù nhân kiện kháng án gọi - được những ba lần nhưng lần nào Tòa cũng phủ nhận đơn chống án mà bình luận tại sao lại quyết định như vậy, phủ nhận bằng cách từ chối cho trát xử lại, mà phải có trát này người chống án mới có điều kiện hưởng phiên xử lại đầy đủ trước tòa. Tháng Ba năm 1965, sau khi Smith và Hickock bị giữ ở Dãy Chết gần hai nghìn ngày, Tòa án Tối cao Bang Kansas ban lệnh hành quyết hai người vào khoảng từ nửa đêm đến 2 giờ sáng thứ Tư, 14 tháng Tư 1965. Sau đó, đơn xin khoan hồng được trình lên vị Thống đốc mới trúng cử của bang Kansas, William Avery, nhưng Avery, chủ trại giàu có nhạy bén với công luận, từ chối can thiệp - quyết định ông cảm thấy là vì "lợi ích tốt nhất của nhân dân Kansas". (Hai tháng sau, Avery cũng bác bỏ đơn xin khoan hồng của York và Latham, hai người bị treo cổ vào ngày 22 tháng Sáu năm 1965).

      Và thế là, vào lúc sớm mai của buổi sáng thứ Tư đó, trong khi ăn sáng ở tiệm cà phê của khách sạn Topeka, Alvin Dewey đọc thấy trang nhất tờ Ngôi sao của Kansas City đầu đề ông hằng mong đợi: CHẾT TREO VÌ TỘI ÁC ĐẪM MÁU. Bài báo do phóng viên của hãng thông tấn Associated Press viết, mở đầu: "Richard Eugene Hickock và Perry Edward Smith, hai đồng phạm gây án, chết giá treo cổ ở nhà tù bang sớm hôm nay vì trong những tội ác đẫm máu nhất trong biên niên sử tội phạm học Kansas. Hickock, 33 tuổi, chết trước hồi 12 giờ 41 phút sáng; Smith, 36 tuổi, chết vào hồi 1 giờ 19 phút..."

      ° ° °

      Dewey chứng kiến hai người đó chết, vì ông là trong dưới hai chục người làm chứng được mời đến buổi thi hành án. Ông chưa bao giờ dự cuộc hành quyết, và khi quá nửa đêm ông bước vào trong nhà kho lạnh lẽo, cảnh tượng làm cho ông ngạc nhiên: ông tưởng tượng ra trước khung cảnh được bố trí trọng thể đúng kiểu, chứ phải cái động ảm đạm ngổn ngang những gỗ xẻ và đồ rác vụn này. Nhưng bản thân cái giá treo, với hai nút thòng lọng nhạt màu buộc vào xà ngang, khá là đầy uy lực; và, cũng đầy uy lực như thế, với cung cách ngờ tới, là người treo cổ tù đứng nghễu nghện cái bục, hắt bóng đen dài lên suốt mười ba bậc thang của cái công cụ bằng gỗ này. Người treo cổ, người lịch vô danh nom cứng queo mà lại mềm như da thuộc, được nhập từ Missouri đến vì việc này với món thù lao sáu trăm đô la, ông này mặc bộ đồ cổ lỗ có hai hàng lon và cúc chạy trước ngực, quá thùng thình so với cái hình người hẹp khổ ở bên trong - cái áo dài gần tới đầu gối ông ta; đầu ông ta đội cái mũ cao bồi mà lúc mới mua có lẽ là màu xanh lá cây sáng, song bây giờ lại là thứ màu quái lạ, cũ kỹ, ố mồ hôi.

      Dewey cũng thấy lạ về chuyện các nhân chứng cố ý làm ra vẻ tự nhiên trong khi đứng chờ thời khắc cái "hội lễ đình đám", theo lời trong số họ, mở màn.

      "Tôi nghe là người ta cho chúng xin rút thăm để xem đứa nào tụt hầm trước. Hoặc là tung đồng xu. Nhưng Smith sao lại theo thứ tự chữ cái chứ. Là vì H trước S. Ha!"

      "Đọc báo chưa, số buổi chiều ấy, biết chúng nó đặc thực đơn bữa ăn cuối cùng thế nào ? Đặt thực đơn giống nhau. Tôm. Thịt rán kiểu Pháp. Bánh tỏi. Kem dâu và kem đánh. Biết là Smith chẳng đụng đến phần của mấy."

      "Thằng Hickock này có đầu óc khôi hài. Họ bảo tôi là khoảng giờ trước đó, người gác với , 'Đây chắc là đêm dài nhất của đời ,' Hickock cười to , ', ngắn nhất mới đúng chứ'."

      "Ông có nghe đến mắt Hickock ? để mắt mình cho bác sĩ. Ngay khi người ta hạ xác xuống là ông bác sĩ ấy liền moi ngay mắt ra để đính vào đầu người khác. Tôi là tôi muốn mình là người đó đâu nhá. Mang mắt của đầu kinh quá."

      "Lạy Chúa! Mưa à? Hạ hết cửa xe xuống . Chúa ơi, chiếc Chevy mới của tôi đấy!"

      Cơn mưa đột ngột gõ lên mái các nhà kho. thanh này, giống tiếng tùng tà rà rùng của trống diễu hành, báo tin Hickock đến. Có sáu quản giáo kèm cùng cha cố lầm rầm đọc kinh, Hickock bước vào nơi chết, tay bị còng, mặc bộ khung xấu xí bằng dây da cột chặt hai tay vào người . Ở dưới chân giá treo cổ, quản ngục đọc cho nghe lệnh chính thức hành quyết, gồm hai trang; trong khi nghe đọc, mắt Hickock yếu vì gần nửa thập niên trong bóng tối xà lim, lướt đám người ít ỏi có mặt, cho đến khi, tìm thấy cái tìm, bèn thầm hỏi người quản giáo gần nhất xem có ai là nguời nhà Clutter ở đây . Khi nghe bảo là , có vẻ thất vọng, tựa như nghĩ người ta tôn trọng đúng đắn cái thủ tục liền với nghi thức trả thù.

      Như thông lệ, viên quản ngục, sau khi đọc xong, hỏi người bị kết án có cần tuyên bố gì lần cuối cùng . Hickock gật đầu. "Tôi chỉ muốn là tôi giữ cảm xúc hờn oán nào hết. Các người phái tôi đến thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới này nhiều"; rồi, như để nhấn mạnh ý này, bắt tay bốn người chịu trách nhiệm bắt và cầm tù , tất cả đều xin phép dự cuộc hành quyết: các đặc vụ K.B.I. Roy Church, Clarence Duntz, Harold Nye và chính cả Dewey. "Rất vui được gặp ông," Hickock với nụ cười quyến rũ nhất của mình, cứ như chào đám quan khách trong tang lễ của chính vậy.

      Nguời treo cổ ho khẽ - sốt ruột đẩy chiếc mũ cao bồi lên rồi lại chụp xuổng, cử chỉ phần nào gợi đến con kền kền cáu kỉnh xù lông cổ lên rồi lại vuốt phẳng - và Hickock, được trợ lý huých khuỷu tay cái, liền leo các bậc thang lên giá treo cổ. "Chúa cho, chúa lấy. Cầu cho Chúa mãi sáng danh," ông cha cố đọc trong khi tiếng mưa rơi nhặt dần, trong khi thòng lọng được tra vào khít cổ, và chiếc mặt nạ màu đen được buộc lên quanh mặt người tù. "Cầu xin Chúa cứu rỗi linh hồn con." Cửa hầm mở ra, và Hickock treo lủng lẳng đó cho tất cả nhìn vừa vặn hai mươi phút trước khi bác sĩ nhà tù cuối cùng cũng , "Tôi tuyên bố người này chết." chiếc xe tang, đèn pha lấm tấm nước mưa, vào trong nhà kho và cái xác, đặt cáng, phủ chăn, được khiêng ra xe tang rồi mất hút vào trong đêm tối.

      Nhìn theo, Roy Church lắc lắc đầu: "Tôi bao giờ tin gan như thế. Nhận cái chết như . Thế mà tôi đánh giá hèn."

      Người ông trò chuyện cùng, thám tử khác, liền . "Chậc, Roy. Thằng cha kia là đứa lưu manh. thằng chó chết đê tiện. Đáng đời."

      Mắt đăm chiêu, Church tiếp tục lắc lắc đầu.

      Trong khi chờ cuộc hành quyết thứ hai, phóng viên và người gác chuyện. Phóng viên , "Đây là lần treo cổ đầu tiên của ông?"

      "Tôi xem Lee Andrews."

      "Đây là lần đầu tiên của tôi."

      "Ồ. Sao ông lại thích xem?"

      Phóng viên chúm môi lại. " ai ở cơ quan tôi muốn cái nhiệm vụ này. Tôi cũng thế. Nhưng nó đến nỗi ghê như tôi nghĩ. Chỉ như người ta nhảy cầu thôi. Chỉ khác là có sợi dây thừng ở cổ."

      "Họ cảm thấy gì đâu. Rơi, sập, thế là hết, cảm thấy gì hết."

      "Ông có chắc ? Tôi đứng ngay ở sát cạnh. Tôi nghe được thở dốc."

      "Chậc, cảm thấy gì đâu mà. Nếu cảm thấy phải là người."

      "Hừm, tôi cho rằng người ta cho họ uống lô rồi. Thuốc an thần ấy."

      "Chết , mà. Trái với quy định. Kìa Smith đến kìa."

      "Chà, tôi biết là lại giống con tôm thế đâu đấy."

      "Ờ, con. Nhưng con nhện độc cũng bé đấy thôi."

      Và khi được đưa vào nhà kho, Smith nhận ra kẻ địch cũ của mình, Dewey; ngừng nhai tệp to kẹo cao su Doublemint trong miệng, mỉm cười nháy mắt với Dewey, thung dung, láu lỉnh. Nhưng khi người quản giáo hỏi cần vẻ mặt trở nên đúng mực hơn. Đôi mắt đa cảm của nhìn trang trọng vào những bộ mặt vây quanh, hất ngược lên phía người treo cổ hắt bóng lù lù xuống, rồi lại nhìn xuống hai bàn tay bị còng của mình. nhìn các ngón tay lấm đầy sơn và mực, vì suốt ba năm cuối cùng ở Dãy Chết suốt ngày tự vẽ chân dung mình và vẽ trẻ con, thường là con cái các bạn tù, họ cấp cho ảnh mấy đứa con mà họ chẳng mấy khi nhìn đến. "Tôi nghĩ," , "rằng lấy mạng sống kiểu này chẳng ra cái quái gì cả. Tôi tin ở án tử hình, cả về mặt luân thường lẫn về mặt pháp luật. Tôi lẽ ra có thể đóng góp cái gì - cái gì..." mất bình tĩnh; xấu hổ làm giọng nhòa , hạ thấp xuống chỉ còn vừa đủ nghe thấy. "Xin lỗi về những gì tôi làm vô nghĩa. Thậm chí vô duyên. Nhưng tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi."

      Các bậc thang thòng lọng, mặt nạ; nhưng trước khi quàng xong mặt nạ, người tù nhổ miếng kẹo cao su vào lòng bàn tay dang rộng của vị giáo sĩ. Dewey nhắm mắt lại; ông cứ nhắm mắt cho tới khi thấy tiếng cửa hầm mở đánh xình báo cho hay cái cổ bị dây thừng giật gãy. Giống như đa số viên chức làm việc trong ngành thực thi pháp luật của Hoa Kỳ, Dewey tin rằng án tử hình là răn đe đối với tội ác hung bạo, và ông cảm thấy nếu như có khi nào án đó đáng thi hành chính là trường hợp này đây. Lần hành quyết trước làm ông xao động, ông gần gũi gì nhiều với Hickock, ông thấy có vẻ như " thằng lừa bịp cò con mò được ra khỏi cái vũng của , rỗng tuếch và vô tích ". Nhưng Smith, tuy là tên giết người thực , lại khơi ra phản ứng khác, vì Perry có phẩm tính, cái hào quang của con vật bị lưu đày, sinh vật bộ hành đầy thương tích mà ông thể làm ngơ. Ông nhớ lại lần đầu tiên gặp Perry trong phòng lấy cung ở sở Chỉ huy Cảnh sát Las Vegas, cậu nhóc-đàn ông thấp bé ngồi chiếc ghế kim loại, đôi cẳng nhắn ủng chấm tới mặt sàn. Và bây giờ Dewey mở mắt ra, ông lại nhìn thấy cái đó: đôi chân như trẻ con, vẹo vệch, đung đưa.

      Dewey tưởng tượng rằng với cái chết của Smith và Hickock, ông được trải qua cảm giác cao trào, thư giãn, cảm giác mình thực được đúng đồ án. Thay vì vậy, ông lại thấy mình nhớ lại cố gần năm trước đây, cuộc gặp ngẫu nhiên tại nghĩa trang Garden City, điều mà, nhìn lại, ông thấy ít nhiều nó kết thúc vụ án Clutter.

      Những người tiên phong tìm ra Garden City chắc chắn phải là những con người khắc khổ, nhưng đến lúc cần lập ra nghĩa trang chính thức họ bất chấp đất đá cằn cỗi và những khó khăn trong việc lấy nước về, quyết tâm tạo ra cảnh trái nghịch phong phú với các đường phố lầm bụi, những bình nguyên mộc mạc. Kết quả này, được họ đặt tên là Cảnh Lũng, nằm quả đồi cao ở phía thị trấn. Ngày nay, đó là hòn đảo mờ tối được những đợt sóng nhấp nhô của các cánh đồng lúa mì bao quanh vỗ đập vào - nơi trú tốt khi trời nóng bức, vì ở đó có nhiều lối mát rượi rợp miên man bóng cây trồng hàng nhiều thế hệ trước đây.

      chiều tháng Năm năm ngoái, tháng khi các cánh đồng rực cháy ngọn lửa màu vàng xanh của lúa mì mọc được lưng chừng, Dewey bỏ nhiều giờ đến Cảnh Lũng rẫy cỏ cho ngôi mộ bố ông, bổn phận ông lơ là quá lâu. Dewey năm mươi mốt tuổi, già hơn bốn tuổi so với hồi ông giám sát cuộc điều tra vụ Clutter; nhưng ông vẫn gầy gò và nhanh nhẹn, vẫn là nhân viên chủ chốt của K.B.I ở miền Tây bang Kansas; mới chỉ cách đây tuần ông tóm được hai trộm ngựa. Giấc mơ an cư lạc nghiệp trang trại của mình thành thực, vì vợ ông vẫn chưa vợi được nỗi sợ sống ở nơi hẻo lánh như thế. Thay vì vậy, gia đình Dewey xây ngôi nhà trong thị trấn; họ tự hào về ngôi nhà, và tự hào về cả hai đứa con trai nữa, hai đứa này vỡ giọng và cao bằng bố. Mùa thu này thằng lớn vào đại học.

      Rẫy cỏ xong, Dewey quanh quẩn dọc các lối mòn vắng lặng. Ông dừng lại ở tấm bia với cái tên mới được khắc: Tate. Thẩm phán Tate qua đời vì viêm phổi tháng Mười vừa qua; những vòng hoa tang, những bông hồng màu nâu và những dải lụa ố mưa vẫn nằm đất mộc. Cạnh đó, những cánh hoa tươi tràn qua nấm đất mới hơn - mộ của Bonnie Jean Ashida, người con của nhà Ashida, chết trong vụ đâm xe khi đến thăm Garden City. Chết chóc, sinh nở, cưới xin - à, đúng hôm nọ ông vừa nghe bạn trai của Nancy Clutter, cậu thanh niên Bobby Rupp, rời và cưới vợ.

      Những nấm mộ của nhà Clutter, bốn nấm cùng tập hợp lại bên dưới tảng đá màu xám, nằm ở góc nghĩa trang, bên kia các cây cối, ngoài nắng mặt trời, gần như ở vào rìa sáng của cánh đồng lúa mì. Khi Dewey lại gần đó, ông thấy người khách viếng ở đó rồi: mảnh thanh như liễu với hai bàn tay găng trắng, mái tóc mềm màu mật sẫm và đôi chân dài, tao nhã. mỉm cười với ông và ông nghĩ thầm ai đó nhỉ.

      "Ông quên cháu rồi à, ông Dewey? Susan Kidwell đây mà."

      Ông cười phá; đến với ông. "Sue Kidwell. Tôi đáng bị quyền rủa." Từ dạo tòa xử ông chưa gặp ; lúc đó còn là đứa trẻ. " sao rồi? Mẹ khỏe ?"

      "Dạ khỏe, cảm ơn ông. Mẹ cháu vẫn dạy nhạc ở trường Holcomb."

      " còn như kiểu ngày xưa chứ? Thay đổi gì ?"

      "Ôi, có bàn ít đến việc lát đường phố. Nhưng ông biết Holcomb còn gì. ra, cháu cũng ở đó nhiều. Năm nay là năm thứ nhất của cháu ở K.U.," , ý chỉ Đại học Kansas. "Cháu mới về nhà mấy hôm nay."

      "Thế tuyệt, Sue à. học gì?"

      "Mọi thứ. Phần lớn là nghệ thuật. Cháu nghệ thuật. Cháu vui lắm." liếc qua đồng cỏ. "Nancy và cháu định vào cùng đại học với nhau. Chúng cháu là bạn cùng phòng. Đôi khi cháu lại nghĩ đến chuyện đó. Thình lình, vui cháu lại nghĩ đến tất cả những dự định chúng cháu bàn với nhau."

      Dewey nhìn tảng đá xám có ghi tên bốn người cùng ngày chết của họ: 15 tháng Mười , 1959. " có hay đến đây ?"

      "Thỉnh thoảng. Chà, nắng quá." đeo kính màu vào che mắt. "Nhớ Bobby Rupp bác? ấy lấy vợ đẹp lắm."

      "Tôi có nghe."

      "Colleen Whitehurst. ấy đẹp đấy. Và rất ngoan nữa."

      "Mừng cho Bobby." Và để trêu , Dewey hỏi thêm, "Còn thế nào, chắc phải có đến lô những chàng đẹp trai đấy nhỉ."

      ". có gì nghiêm túc hết đâu bác ạ. Nhưng bác làm cho cháu nhớ ra. Bác có đồng hồ ? Ôi," kêu lên khi ông bảo bốn giờ rồi. "Cháu phải chạy mất thôi! Nhưng gặp bác vui lắm bác ạ, bác Dewey."

      "Tôi cũng thế, gặp vui lắm, Sue. May mắn nhé," ông gọi với theo mất hút sau lối , xinh đẹp vội, mái tóc mềm mại lóa sáng, đung đưa - trẻ mà nếu còn sống Nancy cũng như thế. Rồi ông bắt đầu về nhà, vào giữa các hàng cây, và bên dưới chúng, ông để lại đằng sau mình vòm trời lớn rộng, tiếng rì rầm của gió những thân lúa mì gió uốn cong rạp xuống.

      END.

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :