Máu Lạnh - Truman Capote(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chiều lúc lâu rồi, người lái xe, người bán hàng rong cỡ trung tuần, tên là Bell, mệt. Ông muốn dừng lại ngủ chặp. Nhưng chỉ còn cách nơi định đến - Omaha, Nebraska, trụ sở của công ty đóng gói thịt lớn mà ông làm việc - có trăm dặm nữa thôi. Công ty này cấm người bán hàng của công ty cho người lạ nhờ xe, nhưng ông Bell thường tuân theo, đặc biệt là khi ông chán hoặc buồn ngủ, cho nên khi trông thấy hai người trẻ tuổi đứng bên đường, ông liền hãm ngay xe lại.

      Họ có vẻ như "những chàng trai O.K". Người cao hơn, kiểu lỏng khỏng với bộ tóc húi cua màu vàng bẩn và cử chỉ lễ độ, nhoẻn nụ cười kết thân; người cùng , loại "còi", cầm cái kèn harmonica trong tay phải, tay trái xách va li rơm căng phồng, nom cũng "khá tử tế", nhan nhát nhưng dễ mến. Muốn gì ông Bell cũng hoàn toàn biết ý đồ của hai vị khách nhờ xe, là siết họng ông bằng thắt lưng rồi lấy xe lấy tiền, lấy mạng ông xong giấu kín ông trong nấm mồ giữa đồng cỏ, ông mừng là có bạn đường, có người để trò chuyện, giữ ông tỉnh ngủ cho tới Omaha.

      Ông tự giới thiệu rồi hỏi tên hai người. thanh niên vồn vã cùng ngồi hàng ghế đầu với ông mình là Dick. "Và đây là Perry," , liếc về phía Perry ngồi ở ngay sau.

      "Tôi có thể đưa hai cậu đến tận Omaha."

      Dick , "Thưa ông. Xin cảm ơn. Omaha chính là nơi bọn tôi định đến. Hy vọng tìm ra được công việc gì."

      Họ tìm công việc gì nhỉ? Ông Bell nghĩ mình có thể giúp đỡ được.

      Dick , "Tôi là thợ sơn xe hạng nhất. Cả thợ cơ khí. Tôi quen làm ra tiền . Bồ tôi đây và tôi, chúng tôi định xuống vùng Mexico Cổ. Ý chúng tôi là đến sống ở đó. Nhưng khốn kiếp, họ chẳng trả lương gì hết. Người da trắng có gì để mà sống nổi."

      A, Mexico! Ông Bell giải thích rằng mình qua tuần trăng mật ở Cuernavaca. "Chúng tôi luôn muốn quay lại đó. Nhưng khó lòng đâu được khi mà mình có những năm đứa trẻ."

      Song như sau này kể lại, Perry nghĩ, năm đứa con - à, hỏng quá. Rồi nghe Dick ba hoa chích chòe khoe khoang, bắt đầu tả ra "những cuộc chinh phục trái tim" của ở Mexico, Perry nghĩ sao nó "quái đản" thế, "mắc chứng duy ngã độc tôn" vậy. Tưởng tượng mà xem, nó cứ ra sức trộ cái kẻ mình sắp giết, con người được sống thêm mười phút nữa kể từ giờ - nếu như cái kế hoạch và Dick dựng lên diễn ra êm thắm. Mà sao lại êm thắm được? bố trí là lý tưởng - đúng như điều chúng tìm kiếm suốt ba ngày phải bỏ ra để từ California tới Nevada và qua Nevada rồi Wyoming mà vào Nebraska bằng cách ké nhờ xe dọc đường. Nhưng cho tới lúc này, nạn nhân thích hợp lọt khỏi tay chúng. Ông Bell là người đầu tiên coi bộ giàu có, lái xe mình, nhận cho chúng nhờ xe. Các chủ xe khác đều hoặc tài xế xe tải hoặc lính tráng - và có lần, hai thằng da đen đấu quyền lấy giải lái chiếc Cadillac màu tím nhạt. Nhưng ông Bell hoàn hảo đây. Perry sờ vào trong túi của chiếc áo gió bằng da mặc. Cái túi ụ lên bởi bình thuốc aspirin Bayer và hòn đá nhọn hoắt, to bằng quả đấm bọc trong chiếc khăn tay sợi bông màu vàng của cao bồi. cởi thắt lưng, chiếc thắt lưng Navajo, khóa bạc và có khảm các hạt ngọc lam; lấy thắt lưng ra, uốn uốn thử, đặt lên ngang đầu gối. chờ. nhìn đồng cỏ Nebraska lướt qua, đùa với chiếc kèn harmonica - dạo lên điệu rồi chơi, chờ Dick ra câu báo hiệu hành động hẹn trước với nhau: "Kìa, Perry, đưa cho mình que diêm." Lúc đó, Dick được giả định nắm lấy tay lái, còn Perry vung chiếc mùi soa bọc hòn đá lên nện kịch vào đầu người bán hàng - "cho nó vỡ toác ra". Sau đó, dọc lề đường vắng lặng nào đó, chiếc thắt lưng có khảm hạt ngọc lam kia được dùng đến.

      Nhưng giờ Dick và con người bị khép án vẫn trao đổi những câu chuyện tục tĩu với nhau. Tiếng họ cười làm Perry cáu; đặc biệt ưa tiếng cười ha há của ông Bell - những tiếng sủa nồng nhiệt nghe rất giống với tiếng cười của Tex John Smith, bố Perry. Nhớ đến tiếng cuời của bố, càng căng cái đầu; đầu nhức, gối đau. nhai ba viên aspirin rồi nuốt chửng. Giê-su ơi! Có khi nôn ra hay ngất xỉu tới nơi; cảm thấy nếu như Dick cứ hoãn hoài buổi "liên hoan" nôn là cái chắc. Ánh trăng mờ đục, đường thẳng băng, chẳng có nóc nhà lẫn bóng người nào trước mắt - chẳng gì hết ngoài mặt đất bị mùa đông lột trơ lột trụi và sẫm màu như sắt miếng. Đến lúc rồi đây, ngay bây giờ. nhìn chằm chằm vào Dick, tựa hồ truyền cái ý nghĩ này, và vài dấu hiệu nho - mí mắt động đậy, mấy giọt mồ hôi ở ria mép - bảo là Dick cũng tới kết luận tương tự rồi.

      Nhưng khi Dick lên tiếng nữa gã chỉ lại tương ra câu đùa mà thôi. "Có câu đố thế này. Giữa chuyến vào buồng tắm với chuyến ra nghĩa địa giống nhau là ở đâu?" cười. "Chịu thua chưa?"

      "Chịu."

      "Khi ông phải là cứ phải thôi!"

      Ông Bell sủa.

      "Này, Perry, đưa cho mình que diêm."

      Nhưng đúng lúc Perry giơ tay lên, và hòn đá đà sắp giáng xuống cái dị thường xảy ra - cái sau này Perry gọi là " kỳ tích con mẹ nó". Kỳ tích đó là xuất thình lình của người nhờ xe thứ ba, người lính da đen mà ông bán hàng từ thiện đỗ lại cho lên. "Kìa, là duyên làm sao," ông trong khi người cứu mạng ông chạy tới chiếc xe. " là cứ phải thôi!"

      ° ° °

      Ngày 16 tháng Mười hai năm 1959, Las Vegas, Nevada. Năm tháng và thời tiết bỏ mất chữ đầu tiên và chữ cuối cùng - chữ R và chữ S - do đó tạo ra từ mới có phần nào mang điềm gở: OOM. Chữ này, lờ mờ lên cái bảng hiệu bị cong vênh vì nắng, xem chừng phù hợp với cái nơi mà nó quảng cáo, như Harold Nye viết trong báo cáo chính thức của K.B.I, nơi "điêu tàn xập xệ, thứ khách sạn hay nhà trọ tồi nhất trong các thứ tồi". Biên bản viết tiếp: "Cho tới vài năm trước đây (theo như thông tin cảnh sát Las Vegas cung cấp), nó là trong mấy ổ điếm lớn nhất ở miền Tây. Rồi hỏa hoạn thiêu hủy ngôi nhà chính, phần còn lại được đem làm thành cái nhà trọ rẻ tiền". "Tiền sảnh" bày biện thứ gì trừ cây xương rồng cao mét tám và quầy tiếp tân tạm bợ; nó cũng có người ở. Nhà thám tử vỗ tay.

      Cuối cùng, tiếng người, đàn bà, song nhiều nữ tính lắm, hét to, "Tôi đến đây," nhưng phải đến năm phút sau mới ra. Bà ta mặc cái áo lao động trong nhà ố bẩn, đôi xăng đan da cao gót băng hàng kim nhũ. Những cái lô túm chặt lấy mái tóc thưa màu vàng nhạt. Mặt bà ta rộng, nạc thịt, đánh phấn, bôi đỏ. Tay cầm lon bia Miller Hight Life; người sặc mùi bia và thuốc lá cùng sơn móng tay vừa mới bôi xong. Bà ta bảy mươi tư tuổi, nhưng theo ý Nye "nom trẻ hơn - có lẽ trẻ hơn mười phút". Bà nhìn chằm chằm Nye, bộ áo quần màu nâu lịch , chiếc mũ nâu bẻ gập vành của ông. Khi ông đưa chiếc huy hiệu ra, bà thích thú; đôi môi bà hé, và Nye thấy lấp lóa hai hàng răng giả. "Ái chà, ngờ đấy," bà , "O.K. nào ta hãy nghe xem nào." Ông đưa cho bà tấm ảnh của Richard Hickock. "Biết ?"

      tiếng làu bàu phủ định. "Hay ?"

      , "Ái chà. ta có ở đây ít ngày. Nhưng bây giờ thôi rồi. Trả phòng từ tháng trước rồi. Ông có muốn coi sổ đăng ký ?"

      Nye tì lên bàn làm việc nhìn những móng tay dài có sơn của bà ta dò tìm trang viết tháu bằng bút chì. Las Vegas là nơi đầu tiên trong ba nơi mà cấp của ông muốn ông đến. Cả ba đều được chọn ra vì chúng liên quan tới chuyện Perry Smith. Hai nơi kia là Reno, nơi được cho là bố Perry sống, và San Francisco, nhà của chị Perry, ở đây được biết đến với cái tên bà Frederic Johnson. Tuy Nye có kế hoạch phỏng vấn những người họ hàng này, và ai đó khác có thể biết được tung tích của kẻ tình nghi, song mục tiêu chính của ông vẫn là tranh thủ giúp đỡ của cơ quan pháp luật sở tại. Chẳng hạn, khi đến Las Vegas, ông thảo luận vụ Clutter với Trung úy B.J. Handlon, Trưởng ban Thám tử của sở Cảnh sát Las Vegas. Lúc đó, viên trung úy viết công văn ra lệnh cho toàn bộ nhân viên cảnh sát phải duy trì tình trạng báo động đối với Hickock và Smith: "Kansas truy nã về tội vi phạm lời hứa trước tòa; nghe đương lái chiếc xe Chevrolet 1949 với giấy phép của Kansas số JO - 58269. Những người này chắc chắc có vũ khí nên bị coi là nguy hiểm." Handlon cũng cử thám tử giúp Nye "vụ nhà cầm đồ", như ông , "luôn luôn có đám người này ở bất cứ thị trấn cờ bạc nào." Nye và người thám tử Las Vegas cùng nhau kiểm tra từng biên lai cầm đồ được xuất trong tháng trước. Đặc biệt, Nye hy vọng tìm ra rađiô xách tay nhãn Zenith mà người ta tin rằng bị lấy cắp ở nhà Clutter đêm án mạng, nhưng ông may mắn trong việc này. Tuy nhiên người cầm đồ nhớ ra Smith (" lại lại ở đây có đến mười năm rồi") và đưa ra tấm biên lai về cái chăn da gấu được cầm trong vòng tuần đầu tháng Mười . Chính nhờ biên lai này mà Nye nắm được địa chỉ cái nhà trọ.

      "Đăng ký ngày 13 tháng Mười," bà chủ trọ , 'trả ngày 11 tháng Mười ." Nye liếc nhìn chữ ký của Smith. bay bướm của nó, những uốn những móc kiểu cách làm ông ngạc nhiên - phản ứng mà bà chủ trọ ràng đoán ra, và bà . "Ái chà. Mà ông còn phải nghe ta nữa cơ. Toàn những từ to tát dài dòng lọt vào tai mình bằng cái giọng thầm, lào thào. Tính cách có hai đây. Ông lùng ta là vì cái gì - thằng ma nhãi xinh xẻo như thế?"

      "Vi phạm lời hứa phóng thích."

      "Ái chà. ngần ấy đường từ Kansas đến vì vụ vi phạm lời hứa. Được, tôi chỉ là mẹ tóc vàng ú ớ thôi mà. Tôi tin ông. Nhưng tôi kể lại chuyện này cho bất cứ con bé tóc đen nào nghe đâu." Bà giơ lon bia lên, uống cạn, rồi từ từ lăn cái lon rỗng giữa hai bàn tay nổi gân và lấm chấm đồi mồi. "Muốn làm gì làm, những thể là tay cầm đầu được. thể được. Tôi chưa từng gặp người nào mà tôi ước nổi cỡ giày đâu. Thằng cha này chỉ là gã ma . Đồ ma nhãi ranh cố dụ tôi đòi tiền trọ tuần cuối cùng nó ở đây." Bà chặc lưỡi, chắc là do nghĩ tới hoang đường của mưu mô như thế.

      Nye hỏi tiền phòng của Smith là bao nhiêu.

      "Giá quy định. Chín đô tuần. Thêm năm hào tiền gửi chìa. Dứt khoát trả ngay. Dứt khoát trả trước tháng."

      "Trong khi ở đây, ta làm gì? Có bạn bè gì ?"

      "Ông nghĩ tôi phải để mắt tới từng đứa mạt hạng đến ở đây hay sao?" bà chủ nhà trọ vặn lại. "Bọn cầu bơ cầu bất. Bọn ma . Tôi quan tâm. Tôi có đứa con lấy được tay cỡ bự." Rồi bà , ", chẳng có bạn nào. Ít nhất cũng thấy ta la cà với ai đặc biệt cả. Lần cuối cùng ở đây, ngày nào cũng mất gần hết giờ lỉnh kỉnh với cái xe. đỗ xe ngoài kia. chiếc Ford cũ. Nom như có từ thời ra đời. sơn lại. Phần mui sơn đen, phần còn lại sơn bạc. Rồi viết "Xe bán" lên kính chắn gió. hôm tôi nghe dân hấp dừng lại trả bốn chục đô - nghĩa là cao hơn giá trị của nó những bốn chục lần. Nhưng thể để được dưới chín chục. cần tiền để mua vé xe buýt. Trước khi rời , tôi nghe người da màu nào đó mua phải cái xe."

      " cần tiền mua vé xe buýt, bà có biết ta định đâu ?"

      Bà ta chúm môi lại, cho điếu thuốc lá vào mồm nhưng mắt vẫn dừng lại ở Nye. "Chơi đẹp đấy nhá. Có tiền lên bàn ? Thưởng chứ?" Bà ta chờ câu trả lời; khi có gì xảy ra, bà ta hình như cân nhắc thiệt hơn rồi quyết định tốt nhất là . "Vì tôi có cảm tưởng bất kỳ đến đâu ta cũng có ý ở lại lâu. Cảm tưởng là có ý bỏ bớt lại đồ đạc ở đây. Kiểu như chờ có ngày còn quay lại." Bà hất đầu về phía trong nhà. "Vào đây, tôi cho ông thấy là tại sao."

      Những bậc cầu thang. Những gian sảnh xám xịt. Nye ngửi các mùi, phân biệt chúng với nhau: cồn tẩy uế phòng vệ sinh, rượu, mẩu thuốc lá dụi tắt. Bên kia cánh cửa, tay nghiện rên rỉ hát, biết vui hay sầu. "Nguội , Dutch! Tắt máy là ông cuốn gói đấy!" người đàn bà thét. "Đây," bà bảo Nye, đưa ông vào nhà kho tối tăm. Bà bật đèn lên. "Đằng kia. Cái thùng đó. ta hỏi tôi có thể giữ cho đến khi quay lại ."

      Đó là cái thùng các tông, bọc nhưng buộc lại bằng dây thừng. lời tuyên bố, cảnh báo phần nào có ý nghĩa lời nguyền độc, được viết bằng bút chì ngang qua nắp thùng: "Cẩn thận! Tài sản của Perry E.Smith! Cẩn thận!" Nye cởi dây; cái nút thắt, ông vui khi thấy nó cùng kiểu với cái nút đơn bọn giết người dùng để trói nhà Clutter. Ông bật hai mép thùng. con gián vọt ra, bà chủ giẫm ngay lên, nghiền nát nó dưới gót chiếc dép bằng kim nhũ của bà. "Hầy!" bà trong khi Nye thận trọng lấy đồ đạc của Smith ra thong thả xem. "Thằng mất dạy. Đây là khăn tắm của tôi." Cùng với cái khăn tắm, ông Nye tỉ mỉ ghi thành khoản mục vào sổ tay mình: " cái gối bẩn 'kỷ niệm Honolulu'; chăn trẻ con màu hồng; quần kaki; chảo nhôm với cái đánh trứng. "Nhiều thứ bà giằn khác bao gồm cuốn dán dày đặc những tấm ảnh cắt ra từ tạp chí thể dục thể thao (hình các lực sĩ cử tạ bóng nhoáng mồ hôi) và, bên trong hộp giày, loạt các thứ thuốc: bàn chải và bột dùng để đỡ hôi mồm, và cả lượng aspirin đáng kinh ngạc - ít ra tới tá hộp, nhiều hộp dùng hết."

      "Toàn vứt ," bà chủ trọ . "Chẳng gì ngoài giẻ rách." Đúng thế, đây là thứ vô giá trị ngay cả với nhà thám tử khát đòi tung tích. Nhưng Nye vẫn thích; mỗi thứ - thuốc đau lợi, cái gối Honolulu nhẫy bóng - đều đem lại cho ông ấn tượng rệt hơn về người chủ của nó cùng cuộc sống đơn độc, khốn cùng của .

      Ngày hôm sau ở Reno, chuẩn bị cho bản báo cáo chính thức, Nye viết: "Hồi 9 giờ sáng, người viết báo cáo tiếp xúc với ông Bill Driscoll trưởng phòng Điều tra Án mạng, văn phòng cảnh sát trưởng Washoe County, Reno, Nevada. Sau khi thông báo vắn tắt tình huống vụ án, cung cấp cho ông Drishcoll ảnh, dấu tay và lệnh bắt Hickock và Smith. Những việc của cả hai người này và chiếc xe hơi được điền vào hồ sơ. Hồi 10 rưỡi sáng, người viết báo cáo còn tiếp xúc với Hạ sĩ cảnh sát Abe Feroah, Phòng Thám tử, sở Cảnh sát, Reno, Nevuda. Hạ sĩ cảnh sát Feroah và người viết báo cáo rà soát các hồ sơ cảnh sát. Cả tên Smith lẫn tên Hickock đều thấy trong hồ sơ ghi nhận tội phạm. Kiểm tra hồ sơ biên lai cầm đồ cũng cho được tin tức nào về cái rađiô bị mất. điền việc cái rađiô vào hồ sơ phòng trường hợp nó bị cầm ở Reno. Thám tử phụ trách các tiệm cầm đồ còn đưa ảnh của Smith và Hickock cho từng tiệm trong thị trấn và cũng đích thân kiểm tra từng tiệm cầm đồ về cái rađiô. Các tiệm này nhận dạng Smith là người quen thuộc nhưng thể cung cấp thêm thông tin gì hơn."

      Buổi sáng vậy. Chiều hôm ấy Nye lên đường tìm Tex John Smith. Nhưng ở chặng dừng đầu tiên, tại bưu điện, nhân viên ở quầy Gửi phát chung bảo ông chả cần phải tìm đâu xa cả - chả cần ở Nevada - vì "cá thể kia" rời đó từ hồi tháng Tám trước và sống ở lân cận Circle City, Alaska. Dẫu gì thư tín của cũng được gửi đến đó.

      "Chu cha! Cha này mới kinh đây," viên thư ký , đáp lại cầu của Nye là hãy tả cho nghe về Smith bố. "Lão này y như ở trong sách ra ấy. Tự nhận là Sói độc. Nhiều thư từ của lão được gửi đến với cái tên Sói độc ấy. Lão nhận nhiều thư, , nhưng mà hàng đống ca ta lô và tờ rơi quảng cáo có. Ông phải lấy làm lạ về cái số lượng những kẻ cứ gửi hoài mấy thứ này , chỉ là để mong nhận lại dăm ba hồi . Lão ấy già đến đâu hả? Chắc là sáu chục. Mặc kiểu miền Tây, ủng cao bồi, cái mũ tổ bố. Lão bảo tôi hồi xưa lão chơi trò rodeo, cưỡi bò cưỡi ngựa bất kham. Tôi chuyện với lão ít thôi. Ít năm gần đây hầu như ngày nào lão cũng ở đây. Thi thoảng, lão mất tăm ít lâu, xa đâu như tháng hay gì đó - lúc nào cũng bảo là khảo sát. Tháng Tám vừa rồi hôm có thanh niên đến quầy đây. tìm bố, Tex John Smith, và hỏi tôi có biết tìm ở đâu . trông khác bố nhiều; bố mỏng môi và người Ái Nhĩ Lan, con xem ra gần như da đỏ hẳn, tóc đen như xi đánh ủng, mắt cũng đọ được với tóc. Nhưng sáng hôm sau Sói vào khẳng định, bảo đây là con tôi, nó vừa mới phục viên và hai bố con Alaska. Lão là tay làm ăn ở Alaska. Đâu như có thời lão có cái khách sạn ở đó, hay kiểu nhà trọ cho dân săn. Lão lão tính chừng hai năm. , từ đấy bao giờ thấy lão nữa, cả lão lẫn thằng con."

      ° ° °

      Gia đình Johnson là dân mới đến trong cái cộng đồng ở San Francisco này - khu của tầng lớp trung lưu, dân thu nhập trung bình mới xây dựng nằm đồi cao phía Bắc thành phố. Chiều ngày 18 tháng Chạp năm 1959, bà Johnson trẻ tuổi đợi khách; ba bà hàng xóm sắp đến uống cà phê ăn bánh ngọt và có thể đánh bài. Bà chủ nhà căng thẳng; đây là lần đầu tiên bà chiêu đãi khách trong ngôi nhà mới của mình. Lúc này, trong khi chờ nghe tiếng chuông cửa, bà soát lại lần cuối cùng, dừng lại nhặt mẩu sợi vương hay sửa lại cách bày mấy bông hoa Poisettia ngày lễ Nôen. Giống như các ngôi nhà khác con phố sườn dốc này, ngôi nhà này là căn nhà trại thông dụng ở ngoại ô, dễ chịu và chẳng có gì đặc biệt. Bà Johnson nó; bà mê mệt các tấm ván ốp tường bằng gỗ đỏ, các tấm thảm trải dài từ vách này qua vách nọ, những cửa sổ cả sau lẫn trước mở ra cảnh đẹp như tranh vẽ, phong cảnh mà cửa sổ sau nhà đem lại cho mắt nhìn - đồi, thung lũng, rồi trời và đại dương. Bà tự hào về mảnh vườn nho sau nhà; chồng bà - nghề nghiệp là nhân viên bán bảo hiểm nhưng lại có xu hướng làm thợ mộc - dựng lên chung quanh nó hàng rào bằng cọc trắng, trong vườn là cái nhà cho gia đình chó, rồi thùng cát và những cái đu cho trẻ con. Lúc này, cả bốn - con chó, hai đứa bé trai, đứa bé - đùa ở trong vườn dưới bầu trời êm đềm; bà hy vọng chúng vui vầy trong vườn cho tới khi các bà khách ra về. Khi chuông cửa reo, bà Johnson ra, mặc bộ váy mà bà cho là có thể tôn mình lên nhiều nhất, hàng chun màu vàng ôm bó dáng người bà và làm nổi lên cái ánh ngăm ngăm của nước da Cherokee cũng như màu tóc đen nhánh ốp mượt của bà. Bà mở cửa, chuẩn bị đón khách vào; song thay vì vậy bà thấy hai người đàn ông lạ hoắc - họ chạm tay vào vành mũ và lật cái ví có huy hiệu cảnh sát ra. "Bà là bà Johnson?" người . "Tôi là Nye. Đây là thanh tra Guthrie. Chúng tôi trực thuộc cảnh sát San Francisco, vừa nhận được cầu của bang Kansas liên quan tới em trai bà, Perry Edward Smith. Hình như ta đến trình diện với ban quản lý tù theo lời hứa danh dự, liệu bà có thể cho chúng tôi biết những việc làm gần đây của ấy ?"

      Bà Johnson thất vọng - và dứt khoát là ngạc nhiên - khi biết cảnh sát lại lần nữa bận tâm đến hành tung của em trai bà. Điều làm bà lo ngại là cái viễn cảnh khách mời tới mà lại thấy bà bị cảnh sát phỏng vấn. Bà , ". có gì hết. Tôi gặp Perry bốn năm nay rồi."

      "Đây là vấn đề nghiêm trọng, thưa bà Johnson," Nye . "Tốt nhất chúng ta nên hết với nhau."

      Sau khi chịu thua, đưa họ vào và mời cà phê (họ uống), bà Johnson , "Tôi gặp Perry bốn năm nay. Cũng chẳng nghe tin gì từ ngày nó được tha theo lời hứa. Mùa hè vừa rồi, khi ra tù, nó có đến thăm bố tôi ở Reno. Trong thư, bố tôi kể là ông quay về Alaska và đem nó theo. Rồi bố tôi lại viết thư, tôi nghĩ là hồi tháng Chín, kể rằng ông rất giận. Ông với Perry xích mích với nhau và tách lẻ trước khi hai người đến biên giới. Perry quay lại; bố tôi Alaska mình."

      "Và từ đó ông cụ viết cho bà nữa?"

      "."

      "Vậy có thể em bà vừa mới lại đến với cụ xong. Tháng vừa rồi."

      "Tôi biết. Tôi quan tâm."

      "Quan hệ tốt?"

      "Với Perry ấy hả? Vâng. Tôi sợ nó."

      "Nhưng khi ta ở Lansing bà hay viết thư cho ta kia mà. Hay là các nhà chức trách ở Kansas như vậy với chúng tôi," Nye . Người thứ hai, thanh tra Guthrie hình như bằng lòng đứng ở ngoài lề.

      "Tôi muốn giúp nó. Tôi hy vọng có thể thay đổi được chút nào ý nghĩ của nó. Bây giờ tôi hiểu hơn. Quyền lợi của người khác chẳng có nghĩa gì với Perry cả. Nó chẳng biết kính trọng lấy ai."

      "Về bạn bè. Bà có biết người bạn nào mà ta có thể đến ở cùng được ?"

      "Joe James," bà , và giải thích rằng James là thanh niên da đỏ làm rừng và câu cá sống ở trong khu rừng gần Bellingham, Washington. , bà quen này nhưng bà biết rằng ta và gia đình rất hào hiệp, trước đây từng rất tốt với Perry. Người bạn duy nhất của Perry mà bà từng gặp là người đàn bà trẻ xuất ở bậc cửa nhà Johnson tháng Bảy năm 1955, mang theo bức thư của Perry trong đó giới thiệu ta là vợ nó.

      "Nó gặp khó khăn, nhờ tôi trông nom vợ nó cho tới khi nó nhờ được người đến đón về. nom chừng hai mươi tuổi, thế nào hóa ra chỉ mới mười bốn. Và dĩ nhiên ta chẳng phải là vợ của ai hết. Nhưng lúc đó tôi cũng thu nhận. Tôi thấy ái ngại cho ta, đề nghị ta ở với chúng tôi. ta ở lại, nhưng lâu. Chưa được tuần. Và khi bỏ , ta mang theo cả va li quần áo của chúng tôi và mọi thứ đựng trong đó - phần lớn quần áo của tôi và của chồng tôi, bộ đồ ăn bằng bạc và cả cái đồng hồ ở trong bếp nữa."

      "Khi việc đó xảy ra, bà sống ở đâu?"

      "Denver."

      "Bà từng sống ở Fort Scott, Kansas bao giờ chưa?"

      "Chưa bao giờ. Tôi chưa bao giờ đến bang Kansas."

      "Bà có người chị em nào ở Fort Scott ?"

      "Chị tôi chết rồi. Bà chị duy nhất."

      Nye mỉm cười. Ông , "Bà Johnson, bà hiểu cho, chúng tôi làm viêc theo giả định cho rằng em bà tiếp xúc với bà. Bằng cách viết thư hay gọi điện. Hay đến gặp bà."

      "Tôi hy vọng là . Vì là nó biết chúng tôi đổi chỗ ở. Nó cứ nghĩ chúng tôi vẫn còn ở Denver. Nếu ông tìm ra nó, xin ông đừng cho nó địa chỉ của tôi. Tôi sợ."

      "Bà thế có phải vì bà nghĩ ta có thể làm hại bà ? Làm bị thương về thân thể?"

      Bà ta suy nghĩ, và thể dứt khoát, rằng bà . "Nhưng tôi sợ nó. Tôi luôn luôn sợ nó. Nó có thể coi bộ rất giàu tình cảm, dễ mủi lòng. Hiền lành tử tế. Nó dễ khóc lắm. Đôi khi nhạc làm nó hào hứng lên, lúc còn bé nó quen khóc vì nó nghĩ rằng mặt trời lặn là đẹp. Hay mặt trăng. Ô, nó có thể lừa được ông đấy. Nó có thể làm cho ông cảm thấy ái ngại cho nó..."

      Chuông cửa reo, vẻ ngập ngừng của bà Johnson trước tiếng gọi cửa truyền đạt tâm trạng tiến thoái lưỡng nan của bà, và Nye (sau này viết về bà rằng, "Suốt cuộc phỏng vấn, bà luôn luôn giữ tư thế điềm tĩnh và tao nhã. người có cá tính khác thường") liền với lấy chiếc mũ nâu bẻ gập vành của mình. "Xin lỗi quấy quả bà, bà Johnson. Nhưng nếu bà nghe được gì về Perry chúng tôi mong bà có thiện chí mà gọi báo chúng tôi hay. Xin hỏi thanh tra Guthrie."

      Sau khi hai thám tử rồi, cái tư thế làm cho Nye mến mộ bị rơi vỡ tan tành: nỗi tuyệt vọng về gia đình mình treo lơ lửng. Bà vật lộn với nó, gạt đẩy đòn đánh toàn diện của nó cho tới khi bữa liên hoan vãn và khách khứa ra về, cho tới khi bà cho con cái ăn uống, tắm rửa và nghe chúng đọc kinh đêm xong. Rồi tâm trạng, như làn sương mù biển che mờ những cây đèn đường, đến bủa vây lấy bà. Bà bà sợ Perry, và bà sợ , nhưng có phải chỉ đơn giản là sợ Perry thôi, hay là sợ cảnh ngộ mà Perry là phần của nó - những số phận khủng khiếp hình như được hứa hẹn sẵn cho bốn đứa con của Florence Buckskin và Tex John Smith? Ông cả, người mà bà mến, tự bắn mình; Fern ngã hay nhảy từ cửa sổ xuống; và Perry phạm bạo hành, tên tội phạm. Cho nên, ở nghĩa nào đó, bà là kẻ sống sót duy nhất; và điều dằn vặt bà chính là cái ý nghĩ rằng đến lúc nào đó, bà cũng bị dập vùi, hóa điên, hay mắc phải căn bệnh nan y, hay mất hết những gì quý nhất đời bà - nhà cửa, chồng con - trong cơn hỏa hoạn.

      Chồng bà làm ăn xa, và khi chỉ có mình, bà cũng chưa nghĩ đến rượu bao giờ. Nhưng đêm nay bà làm ly mạnh, rồi nằm lên chiếc văng trong phòng khách, quyển an bum ảnh đặt đầu gối.

      Tấm ảnh chụp bố bà choán hết trang nhất - bức chân dung chụp năm 1922, năm ông lấy kỵ mã da đỏ, tiểu thư Florence Buckskin. Tấm ảnh đó cố định mãi ấn tượng của bà Johnson. Nhờ nó, bà có thể hiểu được tại sao mẹ bà lấy bố, tuy hai người thực chất hề hợp nhau.

      Người thanh niên trong ảnh toát ra phong thái đường đường đấng nam nhi. Mọi thứ - cái lọn vểnh lên của mái tóc đỏ nâu, mắt trái hơi nheo lại (tựa như nhắm bắn), chiếc khăn quàng con con kiểu cao bồi buộc thắt nút quanh cổ - hết sức là hấp đẫn. Nhìn chung, thái độ của bà Johnson với ông bố là mập mờ, nhưng có phương diện ở bố mà bà luôn luôn kính trọng - sức chịu đựng kiên cường. Bà biết bố có vẻ kỳ dị như thế nào trong con mắt người khác; về mặt này, hình như ông bố cũng kỳ dị với cả bà. Muốn gì ông bố vẫn là " con người chân chính". Ông cụ làm đủ việc, và làm dễ dàng. Ông cụ có thể quật đổ cái cây đúng vào nơi ông cụ muốn. Ông cụ có thể lột da gấu, chữa đồng hồ, xây nhà, làm bánh, mạng bít cất, hay bắt cá hồi bằng cái kim bẻ cong và đoạn dây. Có lần, ông cụ sống sót mình suốt cả mùa đông ở vùng đại hoang bang Alaska.

      mình: theo ý bà Johnson, đó là cách những người đàn ông như thế nên sống. Vợ con, đời sống e dè phải là để cho họ.

      Bà lật mở mấy trang ảnh chụp thời thơ ấu - những bức ảnh chụp tại các bang Utah, Nevada, Idaho, Oregon. nghiệp kỵ mã trị ngựa bất kham của "Tex và Flo" chấm dứt, cả gia đình sống xe tải cũ lang thang khắp cả nước săn lùng việc làm, thứ khó tìm vào năm 1933. "Gia đình Tex John Smith hái quả ở Oregon, năm 1933" là câu chú thích dưới bức chụp bốn đứa trẻ chân đất mặc quần yếm, nhất loạt đều có vẻ mặt hốc hác mỏi mệt. Quả dại hoặc bánh mì ăn cắp giầm vào sữa đặc thường là thứ duy nhất họ ăn. Barbara Johnson nhớ lại lần gia đình phải sống nhiều ngày bằng chuối nẫu, kết quả là Perry bị đau bụng; nó rên la suốt đêm, trong khi Bobo, tức là Barbara kêu khóc vì sợ em chết.

      Bobo hơn Perry ba tuổi và rất em; nó là đồ chơi duy nhất của , con búp bê mà tắm rửa, chải đầu, hôn hít và đôi khi đét đòn. Đây có bức ảnh hai đứa cùng tắm truồng trong vụng nước trong như kim cương ở Colorado, đứa em, thằng quỷ con bụng ỏng, rám nắng đen sì, nắm chặt tay chị mà cười rúc rích, tựa hồ dòng suối đổ xuống tung tóe có cả những ngón tay ma quái cù người. Trong bức khác (bà Johnson chắc, nhưng bà nghĩ có lẽ nó được chụp ở trại chăn nuôi hẻo lánh tại Nevada, nơi gia đình ở khi cuộc xung đột cuối cùng giữa bố mẹ, cuộc xích mích kinh khủng trong đó các thứ roi ngựa, nước sôi đèn dầu đều được sử dụng làm vũ khí, đưa cuộc hôn nhân đến bờ tan vỡ), bà và Perry ngồi con ngựa lùn, đầu sát đầu, má chạm má; sau lưng những quả núi khô nỏ bốc cháy.

      Sau khi đám trẻ con và mẹ chúng đến sống ở San Francisco, tình thương em của Bobo nhạt dần rồi khi nguội hẳn. Nó còn là bé cưng của mà là đồ man rợ, thằng ăn cắp, thằng trấn lột. Vụ đầu tiên nó bị bắt bị ghi tên vào sổ cảnh sát là vào ngày 27 tháng Mười năm 1936 - lần sinh nhật thứ tám của nó. Cuối cùng, sau nhiều lần bị giữ tại nhà cải tạo và trung tâm giáo dưỡng trẻ vị thành niên, nhờ bảo lãnh của bố nó lại được trở về, và nhiều năm sau Bobo mới lại gặp lại nó, trừ trong mấy bức ảnh mà thỉnh thoảng Tex John gửi cho các đứa con kia của mình - những bức ảnh được dán lên các chú thích viết bằng mực trắng là phần nội dung của quyển an bum. Có "Perry, bố và con chó Etkimô", "Perry và bố đãi vàng", "Perry săn gấu ở Alaska", Trong bức thư cuối cùng này, Perry là cậu trai mười lăm tuổi đội mũ lông giày trượt tuyết, đứng giữa hàng cây nặng trĩu tuyết, khẩu súng quàng dưới cánh tay; mặt mũi bơ phờ, con mắt buồn và rất mệt, nhìn tấm ảnh đó, bà Johnson lại nhớ đến "vụ" Perry gây ra khi tới thăm bà ở Denver. Quả thực, đó là lần cuối cùng bà gặp - mùa xuân năm 1955. Hai chị em bàn về tuổi thơ ấu của mình với Tex John thình lình Perry, vốn có quá nhiều rượu trong người rồi, liền đẩy bà sát vào tường rồi ghìm chặt bà ở đó. "Tôi là thằng mọi," Perry . "Có thể thôi. kẻ mà ông ta có thể sai làm mửa mật ra mà chẳng phải trả lấy đồng xu. , Bobo, tôi đây. Câm ngay, tôi ném bà xuống sông bây giờ. Như lần tôi qua cây cầu ở Nhật gã đứng đó, tôi chưa hề gặp gã ta trước đó bao giờ, nhưng tôi cứ nhấc gã lên mà ném xuống sông."

      "Làm ơn . Bobo. Nghe tôi này. Chị nghĩ là tôi thích tôi ư? Ôi! Đáng ra tôi có thể là người như thế nào ấy chứ! Nhưng cái lão chết giấp ấy lão có cho tôi cơ hội nào đâu. Lão cho tôi học. O.K. O.K. Tôi là đứa hư. Nhưng có lúc tôi xin học. Tôi là đứa có đầu óc sáng láng cơ mà. vậy để nhớ ra chị biết. Đầu óc sáng láng mà lại có tài nữa. Nhưng có học, vì lão muốn tôi học bất cứ cái gì, chỉ là cốt khuân vác như thế nào cho lão thôi. Đần độn. Ngu dốt. Lão muốn tôi như vậy cơ. Để cho tôi bao giờ thoát ra khỏi tay lão. Nhưng chị ấy, Bobo. Chị được học. Chị và Jimmy và Fern. Các người đứa khỉ nào cũng được học hành. Tất cả, trừ tôi. Tôi thù ghét các người, tất cả - ông già và tất cả các người."

      Làm như với các chị đời lót bằng hoa hồng bằng! Có lẽ là thế , nếu đó có nghĩa là dọn các đống nôn mửa của mẹ, là chẳng được mặc cái gì là đẹp, chẳng được ăn cái gì cho no. Nhưng cũng đúng là cả ba đều được học tới nơi tới chốn. Thực tế là Jimmy đỗ đầu lớp - vinh dự có được hoàn toàn nhờ vào nghị lực bản thân ấy. Chính điều ấy làm cho việc tự sát có vẻ như điềm gở đến thế, Barbara Johnson cảm thấy vậy. Tính cách mạnh, rất dũng cảm, hay lam hay làm - hình như những cái đó hề là yếu tố quyết định trong số phận của các đứa con nhà Tex John. Họ cùng chia sẻ số phận bất hạnh mà đức hạnh sao giúp họ cưỡng lại được. phải là Perry hay Fern có đức hạnh gì cho cam. Khi Fern mười bốn tuổi, chị đổi tên, và trong suốt những ngày còn lại của đời mình chị ấy có biện minh cho việc đổi tên đó là phải: Joy 1. Chị là thoải mái vô tư, "người tình của tất cả mọi người" - đúng hơn là của quá nhiều người, vì chị thiên vị với đàn ông, mặc dù vì lẽ gì đấy chị chẳng được may mắn lắm với họ. Vì lẽ gì đấy, loại người chị ưa chẳng biết sao cứ luôn bỏ rơi chị. Mẹ chết trong cơn say ngất lịm, thế nên chị sợ uống rượu - nhưng chị vẫn uống. Trước tuổi hai mươi, mỗi sáng chị chào ngày mới bằng chai bia. Rồi đêm hè, chị ngã từ cửa sổ phòng khách sạn xuống. Khi rơi xuống, chị đập vào mái cổng dẫn vào nhà hát, bắn tung lên rồi lăn vào bánh chiếc xe tắc xi. Ở kia, trong căn phòng trống , cảnh sát tìm thấy đôi giày của chị, ví tiền, chai uýt ki rỗng.

      Người ta có thể thông cảm và tha thứ cho Fern, nhưng Jimmy khác. Bà Johnson nhìn bức ảnh trong đó mặc quần áo lính thủy; hồi chiến tranh phục vụ cho hải quân. Mảnh khảnh, thủy thủ trẻ tuổi nước da tai tái có bộ mặt dài dài mang đôi chút thánh thiện khắc khổ, đứng quàng eo sau này cưới và theo đánh giá của bà Johnson đáng lẽ nên cưới, vì hai người này chẳng có gì hợp nhau sất - Jimmy nghiêm túc với San Diego mười mấy tuổi đầu quen bám các hạm tàu mà chuỗi hạt thủy tinh phản chiếu lại vầng mặt trời nay ố nhạt từ lâu. Nhưng cái mà Jimmy dành cho vượt quá tình thông thường; nó là đam mê - đam mê có phần nào bệnh lý. Còn , ắt phải , vô cùng, bằng chẳng làm như làm. Giá mà Jimmy tin như thế nhỉ! Hay là có khả năng tin được thế. Nhưng lòng ghen tuông cầm tù rồi. bị cắn xé bởi ý nghĩ về đám đàn ông mà từng ngủ cùng trước khi lấy ; hơn nữa, đinh ninh rằng vẫn còn tính ăn nằm bừa bãi - rằng mỗi khi biển hay thậm chí chỉ xa ngày thôi, liền phản bội ngay với cả lô cả lốc người tình, ngừng bắt phải nhận là có những người tình như vậy. Thế rồi chĩa khẩu súng vào điểm - giữa hai mắt mình và lấy ngón chân bấm cò. Khi tìm thấy , Jimmy báo cảnh sát. bế đặt lên giường rồi nằm xuống bên cạnh . Ngay hôm sau vào khoảng sắp rạng đông, lắp đạn lại vào súng và tự sát.

      Đối diện với bức ảnh Jimmy và vợ là bức ảnh chụp Perry mặc binh phục. Ảnh được cắt ra từ tờ báo, có dán kèm theo đoạn bài báo: "Sở Chỉ huy Quân đội Hoa Kỳ, Alaska. Binh nhì Perry E. Smith, 23 tuổi, cựu chiến binh đầu tiên của quân đội từng tham chiến ở Triều Tiên quay về Anchorage, Alaska, được Đại úy Mason, Sĩ quan Truyền thông đón tiếp khi đến Căn cứ quân Elmendorf. Smith phục vụ 15 tháng ở sư đoàn số 24 với tư cách lính kỹ thuật. Chuyến của từ Seattle đến Anchorage là quà tặng của Hãng Hàng Bắc Thái Bình Dương. Lynn Marquis, tiếp viên hàng , mỉm cười đón tiếp . (Ảnh chính thức của Quân đội Hoa Kỳ)." Đại úy Mason chìa tay ra, nhìn binh nhì Perry, nhưng binh nhì Perry lại nhìn vào máy quay. Trông vẻ mặt chú em, bà Johnson nhìn thấy, hay tưởng tượng thấy, phải lòng biết ơn mà là ngạo mạn, và thay vì tự hào lại là hết sức vênh vang tự phụ. thể nào tin rằng khi qua cây cầu gặp người và ném người đó khỏi cầu. Dĩ nhiên làm vậy. Điều đó bà bao giờ nghi ngờ.

      Bà gấp quyển an bum lại, mở ti vi, nhưng nó làm bà khuây khỏa được. Giả dụ đến sao? Các thám tử tìm bà; cớ gì Perry lại tìm? Nó chẳng cần mong bà giúp nó, thậm chí bà còn cho nó vào nữa kia. Cửa chính khóa, nhưng cửa ra vườn . Mảnh vườn trắng xóa sương mù của biển; nó có thể là cuộc tụ hội những hồn ma lắm. Mẹ, Jimmy và Fern. Khi bà John ra gài chốt cửa lại, trong đầu bà người chết lẫn người sống đều như hiển .

      ° ° °

      cơn giông đột ngột. Mưa. Trút như thác. Dick chạy. Perry cũng chạy, nhưng nhanh bằng; chân ngắn hơn, mà lại vướng cái va li quần áo. Dick đến được nơi trú - nhà kho cạnh xa lộ - trước khá lâu. Trong khi rời Omaha, sau đêm ngủ nhờ ở Nhà của Đội quân Cứu rỗi, chúng được tài xế xe tải cho nhờ qua biên giới bang Nebraska vào bang Iowa. Nhưng nhiều giờ trước đó chúng cuốc bộ. Trời đổ mưa khi chúng còn cách khu định cư Tenville Junction ở Iowa mười sáu dặm về phía Bắc.

      Nhà kho tối om.

      "Dick ơi," Perry gọi.

      "Lại đây!" Dick . nằm dài ổ cỏ khô.

      Ướt sũng, run lẩy bẩy, Perry buông người xuống cạnh . "Tớ rét quá," , và rúc vào trong cỏ khô. "Tớ rét quá, nếu cỏ này bốc lửa mà thiêu cháy tớ tớ cũng cóc cần." cũng đói nữa. Đói lả. Đêm qua chúng ăn cháo bố thí của Đội quân Cứu rỗi, còn hôm nay cái duy nhất nuôi sống chúng là mấy thanh sô la và kẹo cao su Dick thó được ở quầy kẹo bánh của tiệm thuốc. "Còn sô la Hershey nữa ?" Perry hỏi.

      , nhưng hãy còn gói kẹo cao su. Chúng chia nhau rồi nằm xuống nhai, mỗi đứa nhai hai thanh rưỡi kẹo cao su Doublemint, cái hương vị Dick thích (Perry thích vị quả hơn là bạc hà). Tiền trở thành vấn đề. thiếu tiền gay gắt khiến Dick tới quyết định rằng cú sau đây của chúng là cái mà Perry coi là "cú liều của gã điên rồ" - quay lại Kansas City. Khi Dick giục về đó lần đầu tiên, Perry , "Cậu phải khám đốc tờ ." Bây giờ, chen chúc bên nhau trong bóng đêm lạnh lẽo, lắng nghe mưa lạnh lẽo mịt mù, chúng lại bắt đầu bàn bạc, Perry lần nữa liệt kê ra các mối nguy hiểm của bước như vậy, vì lần này chắc chắn Dick bị truy nã về tội vi phạm lời hứa danh dự rồi - "nếu như có gì nghiêm trọng hơn thế nữa". Nhưng Dick dễ bị thuyết phục. nài lần nữa rằng Kansas City là cái nơi duy nhất tin dứt khoát mình "cho lọt thành công những tấm séc giả. Mẹ khỉ, tớ biết là ta phải cẩn thận. Tớ biết chúng nó phát trát bắt. Vì những tấm séc chúng ta tiêu trước đây. Nhưng chúng ta hành động lẹ. hôm thôi là xong liền. Nếu vớ được khá, chúng ta đến Florida thử xem sao. Qua Nôen ở Miami - nếu thấy hay hay ở hết mùa đông tại đó." Nhưng Perry nhai kẹo cao su, run lập cập và dằn dỗi. Dick , "Gì thế, bồ? Cái vụ kia ấy ư? Làm quái gì cậu cứ quên được thế nhỉ? Chúng nó tìm ra được mối liên hệ nào đâu. bao giờ."

      Perry , "Có thể cậu sai đấy. Và nếu cậu sai có nghĩa là Cái Xó." Cả hai đứa trước đây chưa bao giờ nhắc đến hình phạt nặng nhất ở bang Kansas - treo cổ, hay là chết trong Cái Xó, như dân tù trong trại giam bang Kansas gọi mấy cái lán có thiết bị cần thiết để treo cổ tử tù.

      Dick , " diễn viên hài ơi. Cậu giết tớ có đấy." đánh que diêm, định hút điếu thuốc nhưng nhờ ánh lửa nhìn thấy cái gì. đứng dậy, qua gian nhà kho đến cái chuồng bò. chiếc xe đỗ trong chuồng bò, chiếc Chevrolet hai cửa, đời 1956, hai màu đen trắng. Chìa khóa vẫn nằm trong ổ.

      ° ° °

      Dewey quyết định cho "dân thường" biết tí nào về đột phá quan trọng này trong vụ Clutter - ông quyết tâm đến độ lấy vào nhóm công tác tin cậy của mình hai mõ rao chuyên nghiệp của Garden City: Bill Brown, biên tập viên tờ Điện tín Garden City và người điều hành đài phát thanh địa phương, KIUL.

      Vẽ phác qua tình hình, ông nhấn mạnh đến các lý do khiến ông coi bí mật là quan trọng hàng đầu: "Hãy nhớ là có khả năng hai người này vô tội."

      Đây là khả năng dễ bác bỏ, Floyd Wells, người cung cấp thông tin, có thể dễ dàng đặt chuyện; ít tù nhân hy vọng giành được ân huệ hoặc thu hút được chú ý của nhà chức trách nên bịa ra các chuyện tương tự. Song dù cho mỗi lời của Wells đều là khuôn vàng thước ngọc Dewey và các đồng nghiệp ông vẫn chưa tìm được mẩu bằng chứng vững chắc - "bằng chứng pháp đình" nào. Cái gì họ phát ra mà lại thể bị diễn giải thành trùng hợp có thể tin được, tuy kỳ lạ? Cho dù Smith đến Kansas thăm Hickock bạn , cho dù Hickock sở hữu khẩu súng thuộc loại được dùng để gây án, và cho dù các nghi phạm bày ra chứng cứ ngoại phạm giả để kể về hành tung của chúng vào cái đêm 14 tháng Mười , song đâu phải nhất thiết vì vậy mà chúng là những kẻ sát nhân hàng loạt. "Nhưng chúng ta gần như chắc chắn là chúng. Chúng ta đều nghĩ như thế. Nếu chúng ta cho báo động khắp mười bảy bang, từ Arkansas đến Oregon làm gì? Nhưng trong đầu hãy cứ nhớ cho rằng: có thể phải hàng năm trời chúng ta mới tóm được chúng. Chúng có thể rời nhau rồi. Hay bỏ vùng đất này . Chúng có cơ tới tận Alaska - mất tăm ở đấy chả khó gì. Chúng còn xổng vụ này còn chưa xong. thẳng ra, công việc giẫm chân tại chỗ thế này muốn thế nào chúng ta cũng chẳng tiến được là bao cả. Chúng ta có thể chẹt cổ bọn chó đẻ này ngày mai mà thể chứng minh được cái quái gì."

      Dewey cường điệu. Ngoài hai dấu gót ủng, mang hình viên kim cương và nhãn Móng Mèo, bọn giết người để lại manh mối nào. Có vẻ chúng hết sức thận trọng cho nên chắc hẳn quăng mấy cái ủng kia từ lâu. Cả chiếc rađiô - cho dù chúng ăn cắp nó - điều mà Dewey vẫn có phần ngập ngừng muốn công nhận bởi vì theo ông việc này tỏ ra "trái ngược đến mức lố bịch" với mức độ ghê gớm của tội ác và xảo quyệt của bọn tội phạm, " thể quan niệm nổi" rằng những đứa này vào ngôi nhà với hy vọng tìm thấy két sắt bộn tiền, thế rồi tìm thấy lại cho rằng tàn sát cả gia đình vì dăm ba đô la và chiếc rađiô xách tay bé tẹo là chuyện thích đáng. " có lời thú tội, chúng ta bao giờ kết tội được," ông . "Ý kiến tôi là thế. Do đó chúng ta thận trọng mấy cũng thừa. Chúng nghĩ là chúng thoát được vụ này. Được, chúng ta lại muốn chúng nghĩ thế đấy. Chúng càng cảm thấy an toàn chúng ta càng sớm tóm được chúng."

      Nhưng bí mật là thứ hàng xa xỉ quen thuộc ở thị trấn cỡ Garden City. Bất cứ ai đến văn phòng cảnh sát trưởng - ba gian phòng lèo tèo đồ đạc và người quá đông ở tầng bốn của tòa án hạt - đều có thể phát khí kỳ lạ, gần như hung hiểm. Cảnh tíu tít, tiếng rầm rì cáu kỉnh của mấy tuần gần đấy biến mất; vẻ tĩnh lặng run rẩy thấm vào các ngóc ngách của chốn này. Bà Richardson, thư ký văn phòng, con người rất thực tế, qua đêm thủ đắc được loạt những thầm kiểu cách, những điệu bộ rón ra rón rén, và những người mà bà phục vụ đây, cảnh sát trưởng và bộ sậu của ông, Dewey và kíp đặc vụ K.B.I nhập cảng đều lui tới khẽ khàng, chuyện trò với cái giọng kín đáo bí . Tựa như những người săn nấp ở trong rừng, sợ bất kỳ tiếng động hay cử chỉ bất thường nào cũng làm cho các con thú đến gần bỏ chạy.

      Dân chúng bàn tán. Phòng Lối mòn của khách sạn Warren, tiệm cà phê mà giới doanh nhân ở Garden City coi như câu lạc bộ riêng của mình, là cái hang cứ xì xì xào xào những lời tiên đoán và tin đồn. công dân có máu mặt sắp bị bắt tới nơi rồi nhá, người ta nghe thế. Hay nghe vụ án mạng này là công việc của đám sát thủ mà những kẻ thù của Hội Các Nhà Trồng Lúa mì Bang Kansas thuê làm, hội này là tổ chức tiến bộ và ông Clutter đóng vai trò quan trọng trong đó. Trong nhiều câu chuyện được to này, chuyện gần như chính xác nhất là do nhà đại lý xe hơi (ông ta cho biết chính xác nguồn gốc chuyện) đóng góp: "Hình như có người làm việc cho Herb đâu như từ năm 47 hay 48. người làm công chăn nuôi bình thường. Hình như tù, nhà tù bang, và khi còn ở đây ta biết ông Herb là người giàu có lắm. Cho nên độ tháng trước, khi họ thả ra, việc đầu tiên làm là đến đây trói mấy người này lại cướp rồi giết."

      Nhưng bảy dặm về phía Tây, trong làng ở Holcomb, thấy có tẻo teo tin tức gây xúc động nào, lý do là vì ở cả hai nơi cung cấp tin đồn chính của cộng đồng này - bưu điện và quán cà phê Hartman - thảm kịch Clutter dạo trở thành đề tài bị cấm. "Bản thân tôi nay chả muốn nghe lời nào nữa," bà Hartman . "Tôi bảo họ, chúng ta thể tiếp tục sống thế này. Nghi ngờ ráo cả, toàn làm cho nhau sợ tưởng chết. Điều tôi là, nếu ông bà muốn chuyện đó xin tránh chỗ tôi đây ra." Myrt Clare giữ lập trường khá vững. "Dân đến đây mua con tem vài xu mà lại nghĩ có thể ở thêm ba giờ ba mươi ba phút để moi chuyện nhà Clutter. Vặt mất cánh của người khác . Đồ rắn đuôi chuông, rặt là thế cả thôi à. Tôi đâu có giờ mà nghe họ chứ. Tôi làm việc công - tôi là người đại diện cho chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Muốn gì đó cũng là bệnh hoạn. Al Dewey và những tay cảnh sát từ Topeka và Kansas City đến đều cỡ cốp, được coi là sắc như dao cả đấy chứ. Nhưng tôi chưa biết có ma nào lại nghĩ họ có cơ may bắt cái đứa làm chuyện kia. Nên tôi cho rằng im mồm là khôn. Ông bà sống cho tới khi chết, còn ông bà ra sao chuyện ấy quan trọng, chết là chết. Thế nên tại sao chỉ vì ông Clutter bị cắt cổ mà cứ lẵng nhẵng đeo lấy cả bị đầy những trò nghe thối tai đó làm gì? Kiểu gì cũng là bệnh hoạn. Polly Stringer nhà ở tít trường học ấy hả? Sáng nay Polly Stringer ở đây mà. Bà ấy bảo chỉ bây giờ, sau hơn tháng trẻ con chúng mới hoàn hồn lại được. Điều này khiến tôi nghĩ: nếu họ bắt được người sao? Nếu thế hẳn là ai đó mà mọi người đều biết mới phải chứ. Và thế chắc là lại quạt cho lửa bùng to lên đây, cái nồi sôi bắt đầu nguội lại bê nó ra. Tôi tôi là chúng ta quá thừa kích động rồi."

      ° ° °

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Còn sớm, chưa tới chín giờ, Perry là người khách đầu tiên của tiệm giặt Washateria, tiệm giặt tự phục vụ lấy. mở cái va li rơm căng phồng, lôi ra mớ quần đùi, bít tất, sơ mi ( ít là của , ít của Dick), ném vào chậu rồi giắt thanh chì - trong những thanh mua từ ở Mexico về - vào trong máy để cho máy chạy.

      Perry rất thạo cách làm ăn của những cửa tiệm thế này, thường hay đến đó và lấy làm sung sướng được "thư giãn" ngồi yên lặng chờ cho quần áo sạch khô. Nhưng hôm nay . quá lo sợ. Mặc dù cảnh cáo thế nào, Dick vẫn cứ thắng. Bây giờ chúng ở đây, quay lại Kansas City - mệt chết được, cuốc bộ, thêm vào đó nữa lại lái chiếc xe ăn cắp! Cả đêm chúng phóng chiếc Chevrolet Iowa trong mưa dày hạt, đỗ hai lần để hút xăng, cả hai lần đều hút từ các xe đỗ ở mấy đường phố vắng ngắt của các thị trấn ngủ yên lành. (Đây là việc của Perry, việc mà tự chấm điểm mình là "cao thủ vô đối. Chỉ cần đoạn ống cao su ngắn, thế là cùng khắp xứ này đâu đâu tao cũng có xăng chả phải trả tiền.") Hừng đông chúng đến Kansas City, đầu tiên là ra sân bay, vào phòng vệ sinh nam rửa ráy, cạo râu, đánh răng; hai giờ sau, khi làm giấc ở phòng chờ máy bay, chúng quay trở lại thành phố. Chính ở đây Dick thả Perry xuống tiệm giặt Washateria, hứa tiếng nữa quay lại đón.

      Quần áo sạch và khô, Perry nhét vào lại va li. hơn mười giờ. Cứ cho rằng đâu đó để "tiêu séc giả" Dick cũng quá hạn. chọn cái ghế dài, ngồi chờ. Chỉ cách có gang tay là cái ví phụ nữ. Cái ví giục bàn tay bò dần tới. Nhưng vóc dáng người chủ cái ví, vạm vỡ nhất trong đám đàn bà sử dụng máy giặt, làm cho nhụt chí. Có lần, khi còn là thằng bé ma ở San Francisco, "lỏi Tàu" (Tommy Chan à? Hay Tommy Lee?) cùng làm ăn với nhau như "nhóm giật ví". Perry nhớ lại - và việc đó làm vui lên, hào hứng lên. "Như lần tụi tôi lẻn đến bên bà cụ già, rất già, Tommy túm lấy cái ví nhưng bà lão, đúng là con cọp cái, chịu buông. Tommy càng giằng khỏe, bà lão càng giữ chặt. Rồi bà ta thấy tôi, bèn , "Cứu với! Cứu với!" tôi mới , "Này bà già, mẹ kiếp, tôi cứu nó có!" và thụi bà ta tới số. Bà ta ngã xuống đường. Hai đứa lấy được tất cả có chín mươi xu - tôi còn nhớ chính xác. Hai đứa tôi vào quán ăn ba tàu và ăn dưới gầm bàn."

      đời chẳng thay đổi mấy. Perry già hơn hai mươi tuổi và nặng hơn lên gần nửa tạ nhưng tình cảnh vật chất của chẳng khấm khá lên được chút nào. vẫn cứ là thằng ăn bám cầu bơ cầu bất, sống nhờ mấy đồng bạc ăn cắp của người ta (mà có tin nổi , đứa thông minh như , tài cán như !).

      Mắt vẫn sao rời được chiếc đồng hồ tường. Mười giờ rưỡi, bắt đầu lo lắng. Mười giờ chân nhức giật lên thon thót, dấu hiệu của cơn hoảng loạn đến, bao giờ cũng vậy, "máu tôi sủi bong bóng". nhai viên aspirin, và cố xóa sạch - ít nhất là làm mờ - những hình ảnh khủng khiếp như đám rước sáng lòa sống động trôi qua đầu : Dick ở trong tay cảnh sát, có lẽ bị bắt trong khi viết tấm séc giả hay mắc vào vụ phạm luật giao thông tẹp nhẹp nào đó (rồi bị phát là lái chiếc xe "chôm"). Rất có thể chính trong lúc này Dick bị sa lưới giữa vòng vây những thám tử hung hăng. Mà họ chẳng phải bàn ba cái chuyện ba láp như séc giả hay ăn cắp xe đâu. Án mạng kìa, đó mới là vấn đề, dù muốn thế nào cái mối liên hệ mà Dick cầm chắc là ai mò ra được bị mò ra. Và ngay bây giờ xe đầy cảnh sát đường phóng tới Washateria đây.

      Nhưng , tưởng tượng quá đấy thôi, Dick chẳng bao giờ làm thế. Nghĩ mà xem thường nghe Dick thế nào. "Chúng có đánh tớ mù nữa tớ cũng bao giờ cho nó biết cái gì hết á." Dĩ nhiên Dick là "cha phét lác", chỉ dữ dằn trong những trường hợp ràng là ở cơ, Perry biết quá . Thình lình, vừa hay, nghĩ đến lý do ít làm nản lòng hơn cho việc Dick vắng mặt lâu. Dick thăm bố mẹ . việc làm nguy hiểm nhưng Dick là thằng "dốc lòng hiếu tử", hay là tuyên bố mồm như thế, đêm qua trong chuyến dài dưới mưa bảo Perry, "Tớ muốn gặp ông bà già tớ. Các cụ ra đâu, tớ muốn là các cụ báo cho viên giám sát tù tạm tha đâu, làm việc gì khiến chúng ta rắc rối. Tớ chỉ xấu hổ. Tớ sợ cái điều mẹ tớ . Về các tờ séc. Rồi tuốt như chúng ta. Nhưng tớ mong có thể gọi cho các cụ, nghe xem các cụ ra sao." Nhưng việc đó là bất khả, vì nhà Hickock có điện thoại; nếu có Perry reng cái để xem Dick có đó hay .

      Ít phút sau, lại đinh ninh Dick bị bắt . Chỗ chân đau của rực nhói lên, lóe sáng khắp cơ thể , và mùi nước giặt giũ, mùi hôi nồng nặc khói, tất cả lập tức làm như phát ốm, kéo bật dậy, đẩy nhào ra cửa. đứng nơi vệ đường mà nôn như " thằng say quắc cần câu". Kansas City! chẳng biết Kansas City là vận đen và van Dick lánh cho xa đó sao? Bây giờ, có thể bây giờ, Dick hối hận là nghe . Và nghĩ: còn ta sao đây, "với hai hào lẻ và bó những thanh chì vụn trong túi?" đâu được đây? Ai giúp được chứ? Bobo? Ở đó mà mong! Nhưng chồng mụ có thể. Theo tính của Fred Johnson có thể bảo đảm cho Perry việc làm sau khi ra tù, vậy là giúp giữ lời hứa. Nhưng Bobo chịu; mụ như thế chỉ dẫn đến rắc rối, và có thể nguy hiểm nữa. Thế rồi mụ biên thư cho Perry ràng ra như thế. ngày nào đó trả đũa cho mụ biết tay, vui vẻ tí chơi, chuyện vãn với mụ - khoe khả năng của , nhả ra chi tiết những trò có thể làm với những người như mụ, những người đáng kính, an toàn và phè phỡn chính xác giống như Bobo. Đúng, cho mụ biết có thể nguy hiểm đến thế nào, cho mụ sáng mắt ra. Đó là điều làm - Denver thăm nhà Johnson. Fred Johnson đỡ đần để cho cuộc đời mới của bắt đầu khởi động; ông ta cần phải làm thế nếu ông ta muốn tống khứ cho khuất mắt.

      Lúc đó Dick lại gần ở chỗ vệ đường. "Kìa, Perry, , "cậu ốm à?"

      thanh tiếng của Dick như phát tiêm ma túy mạnh, chất ma túy, xâm chiếm các tĩnh mạch của , gây ra cơn mê sảng gồm những cảm giác chống chọi nhau: căng thẳng và thư giãn, phẫn nộ và âu yếm. Hai tay nắm lại thành quả đấm, tiến về phía Dick. "Mày, thằng chó," . Dick cười toe toét, , "Thôi nào. Chúng ta lại được ăn rồi đây."

      Nhưng theo lệ là phải có giải thích - và cả xin lỗi nữa - thế rồi khi hai đứa ngồi xơi bát thịt bò ớt đậu ở nhà hàng thịt băm Buýp Phê Đại Bàng mà Dick thích nhất ở Kansas City, Dick , "Tớ xin lỗi, bồ. Tớ biết cậu nổi cơn mà. Thử nghĩ xem, làm thế nào tớ lại đụng ngay tên cớm. Nhưng vận tớ cũng đỏ gớm, cho nên chắc là tớ thoát được rồi." giải thích rằng sau khi chia tay với Perry, đến công ty Markl Buick, là cái hãng xe hơi có lần thuê , hy vọng kiếm được cặp biển số xe để thay cho cặp biển số dễ bị phát của chiếc Chevrolet chúng cuỗm. "Tớ lẻn vào rồi ra mà chẳng ma nào thấy cả. Markl vốn là nơi nổi tiếng bán xe bẹp xe nát. Quả nhiên là ở đằng sau công ty có chiếc De Soto bẹp rúm với biển của bang Kansas." Còn thời chúng ở đâu nào? "Ở cỗ xe ngựa của chúng ta đây, bạn ơi."

      Thay biển số xong, Dick ném biển số của bang Iowa vào bể chứa nước của thành phố. Rồi đỗ lại ở trạm xăng mà thằng bạn học cùng lớp với trước kia tên là Steve làm việc, thuyết phục Steve nhận thanh toán bằng tấm séc năm chục đô, điều trước đây chưa từng làm bao giờ - "bịp thằng bạn hữu". Thôi được, chẳng bao giờ gặp lại Steve nữa đâu mà. Đêm nay "tách hộ khẩu" ra khỏi Kansas City, lần này là mãi mãi. Hà cớ gì mà xiết dăm thằng bạn cũ nào? Với ý nghĩ đó, tìm bạn học cùng lớp khác, làm nghề bán thuốc. Ở đây mua sắm đến bảy mươi đô. "Giờ , tối nay, chúng mình chơi cho tới hai trăm. Tớ lên danh sách những nơi đánh phá rồi. Sáu bảy chỗ, bắt đầu ngay từ đây," , ý bảo chính Buýp Phê Đại Bàng đây, nơi mà tất cả mọi người - từ tay đứng quầy cho đến các bồi - thảy đều biết và ưa , gọi là Dưa Chua (để vinh danh món khoái khẩu của ). "Rồi Florida, ta đến đó. Thấy sao hở bồ? Tớ chẳng hứa là chúng mình ăn Nôen ở Miami đó sao? Y hệt như mọi thằng triệu phú nhá."

      ° ° °

      Dewey và đồng , đặc vụ K.B.I Clarence Duntz đứng chờ bàn trống ở Phòng Lối mòn. Nhìn quanh các bộ mặt quen thuộc vào giờ ăn trưa - đám doanh nhân da thịt mềm nhẽo và cánh chủ trại rám nắng nước da thô - Dewey nhận ra những người quen đặc biệt: bác sĩ Fenton, chuyên viên pháp y địa phương; Tom Mahar, ông giám đốc Warren; Harrison Smith, người tranh cử chức chưởng lý tỉnh năm ngoái nhưng thua Duane West, cả Herbert W. Clutter, chủ Trại Lũng Sông và là thành viên dự học Trường Chủ nhật của Dewey. Khoan, khoan nào! Chẳng phải là Dewey dự đám tang ông ta hay sao? Thế mà ông ta lại ở đây, ngồi ở góc lượn tròn của Phòng Lối mòn, đôi mắt màu nâu linh hoạt, đôi quai hàm vuông góc, vẻ tốt lành chân chất hề bị cái chết làm khác chút nào. Nhưng Herb ngồi mình. Cùng bàn với ông có hai người trẻ tuổi và, nhận ra họ, Dewey bèn huých Duntz.

      "Nhìn kìa."

      "Đâu cơ?"

      "Quỷ tha ma bắt!"

      Hickock và Smith đó! Nhưng hai bên lúc này đều nhận ra nhau. Hai thằng kia ngửi thấy nguy hiểm. Chúng quăng mình, qua cửa kính Phòng Lối mòn, chân trước, Dewey và Duntz nhảy bổ theo sau, hộc tốc chạy dọc Phố Chính, qua Palmer Jewelry, Norris Drugs, quán cà phê Garden, vòng góc phố xuôi xuống nhà ga rồi chui vào, thụt ra, trốn tìm ú tim giữa lô những tòa tháp trắng cất giữ hạt ngũ cốc. Dewey rút súng, Duntz cũng vậy, nhưng khi họ nhắm bắn xảy ra điều kỳ dị. Thình lình, hết sức khó hiểu, (như trong giấc mơ vậy!) ai cũng đều bơi hết - kẻ đuổi, thằng chạy - đạp thòm thòm cái mặt nước rộng ghê gớm mà Phòng Thương mại Garden City rêu rao là "Bể bơi MẤT TIỀN lớn nhất thế giới". Khi hai vị thám tử chạy ngang hàng với hai con mồi kìa, thêm lần nữa cảnh tượng đó lại nhòa mờ , nhòa mờ thành cảnh tượng khác (Làm sao lại xảy ra cái trò này được nhỉ? Mình mê chăng?): nghĩa trang Cảnh Lũng, cái hòn đảo xám xanh của những nấm mồ, những thân cây những lối có trồng hoa, ốc đảo yên bình cành lá xum xuê khe khẽ rì rào tựa như mảng bóng mây râm mát những bình nguyên trồng lúa mì rờ rỡ ở phía Bắc thị trấn. Nhưng bây giờ Duntz biến mất, còn lại Dewey với hai kẻ bị săn đuổi. Mặc dù thấy chúng, ông biết chắc chúng trốn giữa những người chết, lom khom nấp sau tấm bia mộ, có khi là bia mộ của chính cha ông: "Alvin Adams Dewey, 06/09/1879-26/01/1948". Súng trong tay, ông bò dọc các lối mòn trang nghiêm, cho tới khi nghe tiếng cười và mò ra được hướng của nó, ông nhìn thấy Smith và Hickock nhưng chúng hề nấp gì hết mà đứng xoạc cẳng nấm mồ chung hãy còn chưa được khắc tên của Herb, Bonnie, Nancy và Kenyon, chúng đứng dạng chân, tay chống nạnh, đầu ngật ra đằng sau, cười sằng sặc. Dewey bắn... bắn nữa... bắn nữa... ai ngã, tuy đứa nào cũng bị bắn ba phát trúng tim; chúng chỉ từ từ biến thành trong suốt, từng tí từng tí hóa thành vô hình, bốc hơi, mặc dù tiếng cười vẫn cứ tràn ra cho tới lúc Dewey cúi xuống, chạy xa khỏi nó, lòng tràn ngập nỗi tuyệt vọng quá mênh mông và chính nó đánh thức ông.

      Khi tỉnh lại, ông tựa như là đứa mười tuổi ốm sốt và run lật bật; tóc ông ướt đầm, sơ mi sũng mồ hôi dính bết vào người. Căn phòng ở sở cảnh sát, nơi ông khóa trái tự nhốt mình trước khi ngủ vùi nơi bàn giấy, lờ mờ trong ánh chiều hôm. Lắng tai, ông nghe thấy điện thoại của bà Richardson réo trong buồng làm việc kế bên. Nhưng bà ở đấy để trả lời; văn phòng đóng cửa. đường ra, ông tính cứ mặc kệ chiếc điện thoại reo, nhưng rồi ông ngập ngừng. Có thể là Marie gọi hỏi xem ông có còn làm việc , bà có nên chờ ông về ăn tới .

      "Ông A. A. Dewey, xin hỏi. Kansas City gọi."

      "Tôi, Dewey đây."

      "Kìa, , Kansas City. Người của các ông ở đầu dây đó."

      "À? Nye đây."

      "À cậu đó hả."

      "Chuẩn bị mà đón mấy tin rất tuyệt đây."

      "Chuẩn bị xong."

      "Bọn bạn chúng mình ở đây. Ngay tại Kansas City này."

      "Sao cậu biết?"

      "À, chúng có giữ bí mật quái gì đâu. Hickock từ đầu này đến đầu kia thị trấn viết các tờ séc. Lấy ngay tên nó."

      "Chính tên nó. Vậy ắt có nghĩa là nó định nán lâu ở đây - hoặc là thế hoặc là nó vững tin ở nó ghê lắm. Thế Smith vẫn cứ ở với nó à?"

      "Ồ, vẫn rất O.K với nhau. Nhưng lái chiếc xe khác. chiếc Chevrolet 1956 - hai cửa, sơn trắng và đen."

      "Biển Kansas?"

      "Biển Kansas. À nghe này Al, cánh ta may đấy! Chúng nó mua cái ti vi, nghe ? Hickock đưa cho người bán tấm séc. Vừa lúc chúng lái người này lại nảy ý ghi lại luôn biển số xe chúng nó. Phê ngay vào lưng séc. Johnson County, biển số 16212."

      "Kiểm tra số đăng ký xe chưa?"

      "Đoán coi nào?"

      "Đó là xe ăn cắp."

      "Chứ còn gì nữa. Nhưng biển số dứt khoát được thay. Các ông bạn chúng ta lấy biển số từ chiếc De Soto bẹp ở ga ra tại Kansas City."

      "Được biết lúc nào?"

      "Sáng qua. Ông chủ (Logan Sanford) có trình báo khẩn về số xe mới và mô tả xe rồi."

      "Còn cái trại của Hickock sao? Nếu chúng nó còn ở trong khu này chắc hẳn sớm muộn gì cũng đến đó."

      "Chớ lo. Bọn mình theo dõi ở đó rồi. Al à..."

      "Đây."

      "Mình chỉ mong có thế. Cho lễ Nôen này. Chỉ mong có thế. Gói xong được vụ này. Gói xong là ngủ liền cho tới năm mới. Chẳng phải là quà tặng oách đó sao?"

      "Mình hy vọng cậu có được quà tặng đó."

      "Được, hy vọng cả hai chúng mình đều được."

      Sau đó, khi qua quảng trường tòa án tối dần, tư lự kéo lê chân trong đống lá khô rụng chưa vun lại, tự hỏi tại sao mình hề phấn khởi trước cái tin kia. Tại sao, khi lúc này ông biết những kẻ tình nghi phải mất hút mãi mãi vào Alaska hay Mexico hay Timbuctoo, khi chỉ giây nữa thôi có thể tiến hành bắt chúng - mà ông lại cảm thấy chút kích động nào như lẽ ra phải thế nhỉ? Cái lỗi là ở giấc mơ hồi nãy, vì tâm trạng buồn thảm của nó vẫn còn lởn vởn chưa tan, làm cho ông phải nghi vấn về những lời khẳng định của Nye - ở nghĩa nào đó là tin. Ông tin rằng Hickock và Smith bị bắt ở Kansas City. Chúng bất khả xâm phạm.

      ° ° °

      Bờ biển Miami, 355 Ocean Drive là địa chỉ của khách sạn Somerset, tòa nhà vuông vức, , sơn ít nhiều màu trắng, với nhiều vết chấm quệt màu oải hương, có tấm biển hiệu màu tím nhạt đề "Có chỗ - Giá hạ nhất - Tiện nghi dùng bãi biển - Luôn có gió biển mát mẻ." Đó là trong những khách sạn xây xi măng và vữa xếp hàng dọc khu phố trắng lóa, buồn thiu. Tháng Mười hai năm 1959, "tiện nghi dùng bãi biển" của Somerset gồm có hai cái dù cắm vào dải cát ở đằng sau khách sạn. cái dù, màu hồng, có chữ đề "Chúng tôi có bán kem Valentine." Ngày Nôen, vào buổi trưa, bộ bốn bà nằm lê la dưới và quanh cái dù, chiếc rađiô bán dẫn dâng hiến mấy bà các bản tình ca. Cái dù thứ hai, màu lam, mang mệnh lệnh "Hãy làm rám nắng bằng thuốc Coppertone" che cho Dick và Perry, hai thằng sống năm ngày tại Somerset, trong buồng đôi thuê mỗi tuần mười tám đô la.

      Perry . "Cậu chưa bao giờ chúc tớ Nôen vui vẻ."

      "Nào bồ, Nôen vui vẻ. Và chúc mừng năm mới."

      Dick mặc quần tắm nhưng Perry , như ở Acapulco, từ chối phơi chân cẳng tàn tật của mình ra - sợ cái hình ảnh ấy "xúc phạm" những người tắm biển khác - vậy nên ngồi đó quần áo y nguyên, cả giày và bít tất. Tuy nhiên vẫn tương đối hài lòng, và khi Dick đứng lên bắt đầu biểu diễn mấy động tác thể dục - trồng cây chuối, cố ý gây ấn tượng với mấy bà bên dưới cái dù hồng - đọc tờ Herald của Miami. bài ở trang trong lôi cuốn toàn bộ tâm trí . Nó về án mạng, vụ giết gia đình ở Florida, ông và bà Clifford Walker, đứa con trai lên bốn và đứa con lên hai của ông bà này. Mỗi nạn nhân, tuy bị trói và dán miệng, đều bị bắn xuyên đầu bằng súng nòng 22 ly. có dấu vết và có vẻ có động cơ gì, vụ án xảy ra đêm thứ Bảy, ngày 19 tháng Mười hai, tại nhà ông Walker, trại chăn nuôi gia súc xa Tallahassee là bao.

      Perry bảo Dick ngừng biểu diễn để đọc to bài báo lên rồi , "Đêm thứ Bảy trước chúng mình ở đâu nhỉ?"

      "Tallahassee à?"

      "Tớ hỏi cậu mà."

      Dick tập trung suy nghĩ. Đêm thứ Năm, thay nhau ngồi lái, chúng ra khỏi Kansas, qua bang Missouri vào Arkansas và đến tận Ozarks, "tít" mãi bang Louisiana, ở đó, máy phát điện bị cháy khiến chúng phải dừng lại vào sáng sớm thứ Sáu. (Ở Shreveport, chúng mua máy khác thay, đồ cũ dùng lại, giá hai mươi hai đô rưỡi.) Đêm đó chúng đỗ xe lại ngủ ở lề đường, nơi nào đó gần biên giới hai bang Alabama và Florida. Chuyến ngày hôm sau, chẳng vội vàng hấp tấp gì, gồm có nhiều đoạn vòng vèo để du lịch - đến thăm trại nuôi cá sấu châu Mỹ và trại nuôi rắn đuôi chuông, tàu đáy thủy tinh cái hồ ngập nước trong như bạc, bữa trưa, ra là lúc gần về chiều, kéo dài và đắt đỏ, toàn tôm hùm nướng, ở quán ăn hải sản bên đường. Ngày đẹp làm sao! Nhưng cả hai đều mệt phờ khi tới Tallahassee cho nên quyết định qua đêm ở đây. "Đúng, Taliahassee!" Dick .

      "Ngộ !" Perry đọc qua bài báo lần nữa. "Biết vì sao tớ ngạc nhiên ? Cái này mà lại phải do thằng điên nào đó làm à. Thằng ngu nào đó đọc được về những gì xảy ra ở đằng Kansas ấy."

      thiết nghe Perry "lại xoáy vào cái chuyện kia", Dick nhún vai mỉm cười rồi nhon nhón ra rìa nước, phơi cho ửng hồng da thịt lên lúc ở mặt cát bị sóng tấp vào đẫm nước, lom khom cúi chỗ này chỗ kia nhặt vỏ ốc. Lúc còn bé ganh vô cùng với thằng con nhà hàng xóm cứ ngày lễ là đến bờ biển Gulf Coast và quay về với những cái hộp đầy ốc - sao mà ghét thằng đó thế, cho nên mới ăn cắp hết mớ vỏ ốc đó và lấy búa đập cho nát từng con . Lòng đố kỵ luôn luôn tồn tại trong người ; kẻ thù là bất cứ ai, bất cứ kẻ nào mà muốn mình trở thành hoặc là kẻ có bất cứ thứ gì đấy muốn có.

      Chẳng hạn, người đàn ông trông thấy ở bên bể bơi Fontainebleau. Dù xa hàng dặm, vẫn có thể nhìn thấy, phủ dưới tấm màn mỏng do hơi nóng bốc lên và ánh biển mùa hè lấp lóa, những nóc tháp của các khách sạn mờ mờ xa xỉ - khách sạn Fontainebleau, khách sạn Eden Roc, khách sạn Roney Plaza. Ngày thứ hai đến Miami, gợi ý với Perry là chúng xâm nhập vào những nhà-vòm-lạc-thú đó. "May ra lại vớ được cặp mụ già giàu sụ sao," . Perry do dự lắm; cảm thấy người ta nhìn chằm chằm vào chúng vì những cái quần kaki và áo ba lô. ra, chuyến thăm viếng những gian nhà xa hoa tráng lệ của Fontainebleau chẳng hề bị ai để ý tới, chúng lẫn hòa trong đám người lại loanh quanh vận quần soóc Bermuda bằng lụa mộc kẻ sọc óng ánh, những người đàn bà mặc quần áo tắm đồng thời khoác áo choàng bằng lông chồn vidông. Hai kẻ đột nhập loanh quanh trong hành lang đại sảnh, la cà vào vườn, phất phơ bên bể bơi. Dick nhìn thấy người đàn ông ấy ở chỗ này, trạc tuổi Dick - hai tám ba mươi gì đó. có thể là "tay cờ bạc đỏ đen hay luật sư hay có lẽ là gã găng tơ Chicago chừng". Dù là gì nữa, nom như hiểu hết mọi vinh quang của đồng tiền và quyền lực. tóc vàng giống hệt Marilyn Monroe xoa dầu bắt nắng lên người , bàn tay đầy nhẫn, lười biếng của với ra lấy cốc nước cam ướp lạnh. Tất cả cái đó thuộc về , thằng Dick này, nhưng bao giờ có được. Tại sao thằng chó đẻ ấy lại có mọi thứ, trong khi mình ? Tại sao cái thằng cha "chó chết thối thây" ấy lại có mọi may như thế? Với con dao trong tay , Dick, cũng có quyền lực thôi. Bọn chó chết thối thây này tốt hơn hết là hãy liệu hồn có thể "phanh cái thây chúng toang hoang ra để cho cái vận đỏ của chúng phọt lên mặt sàn nhà". Nhưng ngày hôm nay của Dick lụn bại rồi. tóc vàng xinh đẹp xoa xoa mãi dầu bắt nắng kia làm cho nó bị lụn bại mất rồi. bảo Perry, "Chúng mình rút mẹ nó ra khỏi đây ." Bây giờ đứa con , chắc tầm mười hai tuổi, vẽ những hình thù lên cát, cầm mảnh gỗ trôi dạt tạc những mặt người thô kệch, to đùng. Lấy cớ chiêm ngưỡng nghệ thuật của nó, Dick cho nó những con ốc nhặt được. "Làm mặt cho bọn kia được đấy," . Đứa bé nhận món quà và nháy mắt với nó. cảm thấy ân hận khi làm như thế với đứa bé, vì thói quan tâm bậy bạ đến trẻ nhược điểm mà " lòng lấy làm xấu hổ" - bí mật tâm với ai và hy vọng ai ngờ (tuy biết Perry có để ý tới), vì người khác có thể nghĩ như thế là "bình thường". Mà chắc chắn là tự đinh ninh về mình như vậy - " người bình thường". Gạ gẫm dậy , như làm "tám chín bận" trong mấy năm vừa qua, hề chứng tỏ điều ngược lại, bởi vì rành rành ra đấy, phần lớn đàn ông thứ thiệt đều có ham muốn giống như thôi. nắm bàn tay đứa , "Cháu là cháu cưng của chú. Bồ thân bé bỏng của chú." Nhưng đứa phản đối. Bàn tay nó, bị nắm lấy, giẫy lên như con cá mắc câu, và nhận ra cái vẻ kinh ngạc trong mắt nó, nhớ những vụ xảy ra trước đây trong cái nghiệp này của . thả tay ra, khe khẽ cười và , "Đùa thôi. Bé thích đùa vui à?"

      Vẫn nằm dài dưới cái dù lam, Perry quan sát thấy cảnh này và lập tức hiểu ra mục đích của Dick, liền lập tức khinh bỉ; " chút kính trọng nào với những ai kiềm chế được bản thân về mặt tình dục", đặc biệt là thiếu kiềm chế này lại dính đến cái mà gọi là " lệch lạc bệnh hoạn" - "dụ trẻ", "pêđê", hiếp dâm. Và nghĩ tỏ thái độ ràng với Dick rồi; đúng vậy, chẳng phải chúng suýt nữa đấm đá nhau, mới đây thôi chả phải ngăn Dick được hiếp đứa con kinh hoảng đấy sao? Nhưng chẳng dám nhắc lại cuộc đọ sức đặc biệt như thế nữa. người thấy đứa ra xa khỏi Dick.

      Những bài hát Nôen đầy ắp trong khí; chúng ào ra từ chiếc rađiô của bốn người đàn bà và hòa trộn lạ lùng vào với ánh nắng của Miami, hòa với tiếng kêu của những con hải âu bao giờ ngừng cãi cọ, bao giờ im lặng hoàn toàn. "Ôi, chúng ta hãy đến thờ phụng kính Người. Ôi, chúng ta hãy đến thờ phụng kính Người": bài đồng ca nhà thờ, điệu nhạc cao quý khiến Perry tràn nước mắt - những giọt nước chịu ngừng tuôn dù tiếng nhạc tắt. Và như điều hiếm hoi gì vẫn xảy ra khi bị xúc động đến như thế, lại dấn sâu vào cái khả năng có "sức dụ dỗ ghê gớm" đối với : tự sát. Lúc bé thường nghĩ tới việc tự sát, nhưng đó là những mơ mộng sướt mướt đa cảm đẻ ra từ lòng mong muốn trừng phạt bố hay mẹ hay những kẻ thù khác mà thôi. Nhưng từ ngày trưởng thành làm người, cái viễn cảnh kết liễu cuộc đời ngày càng mất chất huyền ảo của nó. chắc phải nhớ rằng đó là "giải pháp" của Jimmy, và của Fern nữa. Sau này nó tới chỗ có vẻ như chỉ là lựa chọn nữa mà chính là cái chết cụ thể chờ đợi .

      Muốn gì cũng thấy là "chẳng có gì nhiều nhặn để vì nó mà sống". Những hòn đảo nóng bức, vàng bạc châu báu chôn dưới đất sâu, lặn sâu vào những vùng biển nước màu lửa xanh để tới các kho tàng đắm - những giấc mơ như thế tắt ngấm cả rồi. Tắt ngấm rồi, cả "Perry O'Parsons", cái tên đặt ra cho có chút du dương lúc hát sân khấu hay màn bạc, điều nghiêm túc hy vọng là có ngày nó thành thực. Chưa được sống, Perry O'Parsons chết ngóm. Có cái gì để nhằm tới cơ chứ? và Dick " chạy đường đua có đích - đó là điều làm cho bàng hoàng. Và bây giờ, sau chưa đến tuần ở Miami, cuộc xê dịch dài dằng dặc lại sắp sửa bắt đầu trở lại. Mới làm việc ngày ở công ty dịch vụ xe hơi ABC với mức lương sáu mươi lăm xen giờ, Dick bảo , "Miami đếch bằng Mexico. Sáu lăm xu! Tớ đâu nhé. Tớ là da trắng." Cho nên ngày mai, với hai mươi bảy đô la gây dựng ở Kansas City còn sót lại, chúng ta hướng về phía Tây mà lên đường nữa, tới Texas, tới Nevada - " đâu dứt khoát hết".

      Dick lội vào trong sóng xong giờ quay lại. vật mình xuống bờ cát dính nhớp, úp mặt, im lìm thở, người ướt đầm.

      "Nước thế nào?"

      "Tuyệt."

      ° ° °

      Sinh nhật của Nancy Clutter vào ngay sau Tết nên rất gần với Nôen, việc ấy gây ra bao nhiêu là khó cho Bobby Rupp bạn trai . Cậu căng hết óc cố nghĩ cho ra hai món quà thích hợp cho hai dịp gần nhau quá như thế. Nhưng hằng năm, với số tiền kiếm được trong dịp hè làm việc - trang trại củ cải đường của bố, cậu cố hết sức làm lụng, và rồi sáng Nôen hối hả đến nhà Clutter mang theo bọc mà các chị em cậu giúp gói ghém cho và cậu hy vọng làm cho Nancy ngạc nhiên vui thích. Năm ngoái cậu tặng trái tim nho bằng vàng có lồng ảnh. Năm nay, cũng lo trước như mọi lần, cậu phân vân giữa nước hoa ngoại nhập bán ở tiệm thuốc Norris và đôi ủng cưỡi ngựa. Nhưng rồi Nancy chết.

      Sáng Nôen, thay vì nhào đến Trại Lũng Sông, cậu ở nhà và đến tối cùng gia đình chia sẻ bữa ăn linh đình mà mẹ cậu để cả tuần ra lo liệu. Mọi người - bố mẹ và bảy chị em cậu - đều dịu dàng ân cần với cậu do câu chuyện bi thảm kia. ai hiểu cho rằng cậu ốm , rằng bi thương khiến cậu như thế, bi thương kéo đến quanh cậu vòng tròn mà cậu thể thoát ra, cũng như ai có thể bước vào - có lẽ trừ Sue. Trước khi Nancy chết cậu đánh giá đúng Sue, bao giờ thấy thoải mái khi ở bên . quá khác - coi là nghiêm túc những việc mà ngay cả các cũng cần coi nghiêm túc: vẽ, làm thơ, những bản nhạc chơi piano. Và dĩ nhiên cậu tị với : vị trí của trong thang đánh giá của Nancy ít nhất là cũng ngang với vị trí của cậu, tuy thuộc trật tự khác. Nhưng chính vì vậy mà hiểu được mất mát của cậu. có Sue, gần như ở thường xuyên bên cậu làm sao cậu chịu nổi loạt những chấn động đổ xuống mình như vậy - bản thân tội ác, những cuộc thẩm vấn của John Dewey, nực cười pha lẫn bi kịch của việc cậu từng dạo là nghi phạm?

      Rồi, sau khoảng chừng tháng, tình bạn lụi . Bobby ít đến ngồi ở gian phòng khách xinh xinh ấm cúng của nhà Kidwell hơn và nếu cậu có đến xem vẻ Sue cũng bớt đón mừng hơn. Rắc rối là ở chỗ cái điều họ muốn quên hai người lại cứ buộc nhau than khóc tưởng niệm đến nó. Đôi lúc, khi chơi bóng rổ hay lái xe tám chục dặm giờ các con đường quê, hay khi, như phần của chương trình rèn luyện tự đặt ra (tham vọng của Bobby là làm huấn luyện viên thể dục ở trường trưng học), cậu chạy bộ cự ly dài qua các cánh đồng bằng phẳng vàng óng cậu có thể quên. Còn bây giờ, sau khi giúp dọn hết đĩa thìa ở bàn ăn bữa tối ngày lễ, việc cậu quyết định làm là mặc áo len vào rồi vơ vẩn lát.

      Thời tiết khá đẹp. Ngay cả với miền Tây Kansas đây, vốn nổi tiếng bởi mùa hè da đỏ kéo dài của nó, mẫu thời tiết này cũng là tự nhiên - khí khô, mặt trời gắt, bầu trời xanh. Các nhà chăn nuôi lạc quan dự đoán "mùa đông mở" - mùa dìu dịu đến nỗi gia súc có thể gặm cỏ suốt cả mùa. Những mùa đông như thế hiếm xảy ra nhưng Bobby có thể nhớ được - cái năm cậu bắt đầu tán tỉnh Nancy. Cả hai lúc đó đều mười hai tuổi, sau giờ học cậu hay mang cặp sách của suốt dặm từ trường Holcomb về nông trại của bố mẹ . Nếu thời tiết nóng mặt trời rừng rực, hai đứa thường dừng lại đường, ngồi xuống bên sông, mẩu của con sông Arkansas uốn khúc, dòng nước nâu lờ đờ chảy.

      lần Nancy bảo cậu, "Có mùa hè, hồi nhà tớ ở Colorado, tớ thấy chỗ con sông Arkansas bắt đầu. Đúng chỗ ấy. Nhưng cậu tin nó là con sông của chúng ta đâu. Nó màu này. Mà trong như nước uống cơ. Chảy nhanh nữa. Và đầy những tảng đá. Những vực xoáy. Bố bắt được con cá hồi." Chuyện này, ký ức của Nancy về thượng nguồn của con sông, ở lại với Bobby, và từ khi Nancy chết... Chà, cậu giải thích được, nhưng bất cứ khi nào cậu nhìn con sông Arkansas trong chốc lát nó liền biến đổi, cái cậu nhìn thấy phải dải nước pha bùn quanh co lượn qua các bình nguyên bang Kansas mà là cái Nancy tả - con lũ Colorado lạnh buốt, trong như pha lê, có cá hồi và lao vút xuống thung lũng. Nancy từng là thế đó: như con nước trẻ trung - mãnh liệt, tươi vui.

      Nhưng mùa đông miền Tây Kansas thường làm đường sá tê liệt, làm băng đóng các cánh đồng và giờ như dao cạo khiến thời tiết trước Nôen biến đổi. Vài năm qua, tuyết luôn rơi vào đêm Nôen và vẫn tiếp tục rơi, và sáng hôm sau khi Bobby lên đường tới cơ ngơi nhà Clutter, cuốc bộ ba dặm, cậu phải vật lộn với những vạt tuyết cao ngất. Đáng như thế, vì tuy cậu bị cứng đơ ra và cả người đỏ tía nhưng đón tiếp mà cậu nhận được làm băng tuyết trong cậu tan hoàn toàn. Nancy bàng hoàng và tự hào, mẹ thường ngày vốn rụt rè xa cách ôm choàng lấy cậu mà hôn, nài cậu quấn tấm chăn rồi ngồi gần bên đống lửa trong phòng khách . Trong khi cánh phụ nữ làm lụng trong bếp, cậu và Kenyon cùng ông Clutter ngồi quanh lửa tách hạt dẻ và quả hồ đào; ông Clutter bảo ông nhớ lại Nôen khác, hồi ông bằng tuổi Kenyon, "Chúng tôi có bảy người, mẹ, bố tôi, hai con và ba cậu con trai bọn tôi. Chúng tôi ở nông trại xa thị trấn lắm... Vì lý do đó chúng tôi thành ra có thói quen mua sắm cho Nôen tất tật cùng lượt - làm chuyến và mua hết tất cả. Cái năm mà tôi nhớ lại đây, buổi sáng chúng tôi toan tuyết rơi cao như hôm nay này, cao hơn ấy, và cứ rơi hoài, những bông tuyết to như cái đĩa. Coi vẻ chúng tôi lâm vào cảnh Nôen bị tuyết trói chân và chẳng có quà cáp gì treo dưới cây thông. Mẹ tôi và đám con buồn thiu. Rồi tôi nảy ra ý." Ông đóng yên cương lên con ngựa cày khỏe nhất rồi cưỡi vào trong thành phố mua mọi thứ cho cả nhà. Mọi người tán thành. Tất cả đưa chỗ tiền để dành của mình ra cho ông cùng danh sách các thứ mình muốn mua: bốn mét vải bông, quả bóng, cái gối cắm kim khâu, đạn súng săn - loạt cầu mà mãi đến tối ông mới thực được đầy đủ. đường về nhà, các thứ đó được đựng trong cái xắc bằng vải dầu, ông biết ơn bố bắt ông phải mang theo cây đèn bão, và ông lại còn vui nữa là vì yên cương ngựa có gắn chuông, vì cả tiếng chuông leng keng lẫn ánh đèn bão lắc lư đều làm cho ông dễ chịu.

      "Bình thường dễ, ngon ơ. Nhưng nay chả còn đường, kể cả bất cứ cái gì làm mốc cũng chả thấy đâu nữa." Trời đất bốn bề tuyết trắng. Ngựa lún trong tuyết đến tận háng, trượt đổ sang bên. "Tôi đánh rơi mất đèn. Người ngựa lạc đường trong đêm. Cả hai đều ngủ mất rồi đông cứng, vấn đề chỉ là sớm hay muộn. Vâng, tôi sợ. Nhưng tôi đọc kinh. Và tôi cảm thấy Chúa hữu..." Chó tru. Họ theo tiếng chó tru cho đến khi trông thấy các cửa sổ của nông trại hàng xóm. "Tôi nên dừng lại ở đây. Nhưng tôi nghĩ đến gia đình - tưởng tượng là mẹ tôi khóc, bố và đám con trai làm thành kíp tìm, thế là tôi thúc ngựa lên. Cho nên, cuối cùng, khi tôi về được tới nhà và thấy nhà tôi om lẽ tự nhiên là tôi vui lắm. Cửa khóa. ra mọi người đều ngủ cả, quên béng mất tôi ai trong nhà hiểu được làm sao tôi lại bí xị thế. Bố , "Cả nhà cứ đinh ninh là con nghỉ lại ở thị trấn đêm nay. Lạy Chúa, con ơi! Ai mà lại nghĩ được là con cảm thấy về nhà trong khi bão tuyết thế này là tốt hơn cơ chứ?"

      ° ° °

      Mùi chua thơm thơm của táo ủng. Những cây táo, cây lê, đào và đào; vườn cây ăn quả của ông Clutter, nơi tập hợp các cây ăn quả quý ông trồng. Cứ bâng quơ mà chạy, Bobby đâu có ý định đến đây hay đến chỗ nào khác trong vùng Trại Lũng Sông. thể giải thích được, cậu toan bỏ , nhưng rồi quay lại và lang thang đến ngôi nhà - trắng xóa, bề thế, chắc chắn. Cậu luôn ngợp trước ngôi nhà này, và thấy thú vị khi nghĩ rằng bạn của mình sống ở đây. Nhưng nay còn được hưởng chăm sóc của người chủ quá cố trước đây nữa rồi, những sợi đầu tiên của mạng lưới suy tàn được dệt chăng lên. cái cào sỏi vất lăn lóc đường cho xe chạy vào nhà; bãi cỏ nham nhở và cằn cỗi. Hôm Chủ nhật tang thương ấy, khi ông cảnh sát trưởng gọi xe cứu thương tới để chở gia đình bị giết , các xe cứu thương chạy ngang qua bãi cỏ tới thẳng cổng chính vào nhà, bây giờ vết bánh xe hãy còn trông thấy .

      Căn nhà của người làm mướn cũng trống ; ông tìm được chỗ mới cho nhà mình gần Holcomb hơn; điều ấy chẳng làm mọi người ngạc nhiên, vì hôm nay tuy thời tiết lấp lánh sáng sủa, song vùng đất nhà Clutter dường như vẫn u, im lìm, bất động. Nhưng khi Bobby ngang qua nhà kho và quá đó là bãi thả gia súc, cậu nghe thấy tiếng ngựa hất đuôi. Đó là con Babe của Nancy, con ngựa cái già ngoan ngoãn mình đốm có bờm nâu và hai con mắt màu tía sẫm giống như hai bông hoa păng xê nở đẹp vậy. Túm lấy bờm con Babe, Bobby cọ cọ má vào nó, như Nancy hay làm. Và Babe hí lên. Chủ nhật trước, lần cuối cậu đến chơi nhà Kidwell, mẹ Sue có tới con Babe này. Bà Kidwell, bà tính tình đồng bóng, đứng bên cửa sổ nhìn hoàng hôn nhuộm tối dần quang cảnh ngoài kia, cánh đồng cỏ dài tít tắp. Và hoàn toàn ngờ tới, bà , "Susan à, con biết mẹ mải nhìn cái gì đấy ? Nancy. Cưỡi con Babe. lại đằng mình."

      ° ° °

      Perry nhận ra họ trước - thằng ông già xin nhờ xe, cả hai đều đeo ba lô tự làm lấy, và mặc dù trời gió, thứ gió thổi đùng đùng rét buốt của Texas, họ vẫn chỉ mặc độc bộ quần áo lao động có yếm và quần jean. "Cho họ nhờ quãng," Perry . Dick ngập ngừng, phản đối việc cho người ta nhờ xe, nhưng với điều kiện là xem ra họ có thể trả được chút tiền, ít nhất cũng là "tí xiền còm bù vào hai ga lông xăng." Nhưng Perry, lão Perry người mà rộng bụng, lại luôn luôn kèo nài Dick phải cho những người nom tồi tàn nhất, đau khổ nhất nhờ. Cuối cùng Dick bằng lòng đỗ xe lại.

      Thằng - đứa tóc hoe hoe chừng mười hai tuổi, lủn củn, mắt nhanh như chớp, liến thoắng - cứ cảm ơn tíu tít cả lên còn ông già, mặt vàng vọt và sẹo chằng sẹo chịt, yếu ớt bò vào hàng ghế sau ngồi phịch xuống lặng thinh. Thằng bé , " mừng quá. Ông Johnny sắp lăn kềnh tới nơi rồi. Từ Galveston chúng tôi toàn bộ."

      Perry và Dick rời thành phố cảng ấy giờ trước, sau khi lang thang ở đó cả buổi sáng, khắp các hãng tàu xin làm chân thủy thủ. hãng bảo họ có thể vào làm ngay tàu chở dầu sắp Brazil, và quả tình hai đứa lẽ ra giờ này lênh đênh biển rồi nếu như chủ tương lai của họ phát ra là cả hai chẳng ai có thẻ công đoàn thay cho hộ chiếu. Cũng lạ, nỗi thất vọng của Dick vượt xa nỗi thất vọng của Perry: "Brazil! Ở xứ ấy người ta xây cả thủ đô mới đấy. Xây từ con số . Tưởng tượng mà coi, được đặt chân lên chỗ mới toanh như thế! Bất cứ thằng ngu nào cũng có thể làm cả đống tiền."

      "Ông cháu mày đâu?" Perry hỏi thằng bé.

      "Nước Ngọt."

      "Nước Ngọt là ở đâu?"

      "À, ở chỗ nào đó dọc theo hướng này. Đâu như ở Texas. Ông Johnny đây là ông nội tôi. Ông cụ có người em sống ở Nước Ngọt. Ít ra tôi cũng cầu Chúa là bà ta ở đấy . Chúng tôi nghĩ em cụ sống ở Jasper, Texas cơ. Nhưng tới Jasper rồi người ta bảo là bà ấy với cả nhà bà ấy chuyển tới Galveston rồi. Tới Galveston lại cũng chả gặp, cái bà ở đó là bà cụ Nước Ngọt rồi. Tôi cầu Giê-su sao cho chúng tôi tìm ra được bà cụ."

      "Johnny à," thằng , xoa xoa hai bàn tay ông già, như để làm cho nó khỏi cóng buốt, "Ông Johnny, nghe cháu đấy? Ông cháu mình ngồi cái xe ấm áp đẹp lắm, cái Chevrolet đời 56 đấy." Ông già ho, đầu ông lảo đảo, mở rồi lại nhắm ngay mắt, rồi lại ho.

      Dick . "Này. Ông già làm sao thế!"

      "Thời tiết thay đổi," thằng . " bộ miết. Chúng tôi bộ từ trước Nôen còn gì. Tôi thấy có khi phải đến gần hết cả bang Texas ấy chứ." Bằng cái giọng thoải mái tự nhiên như , và trong khi tiếp tục xoa bóp tay cho ông già, thằng kể cho chúng rằng trước khi lên đường nó và ông già sống với bà tại cái trại gần Shreveport, Louisiana. Bà chết cách đây ít lâu. "Johnny ốm yếu khoảng năm nay rồi, phải làm tất cả mọi thứ. Chỉ có tôi đỡ đần cho thôi. Chúng tôi bổ củi. Bổ bật cái gốc cây lên. giữa chừng bảo mệt quá. thấy con ngựa ngã kềnh ra rồi bao giờ dậy được nữa chưa? Tôi thấy rồi đấy. Y như thế. Ít ngày trước Nôen, người cho ông thuê lại nông trại "đuổi hai ông cháu khỏi đó," thằng tiếp. "Hai ông cháu bắt đầu ra khỏi Texas như thế. Tìm bà Jackson. Tôi chưa gặp bà cụ nhưng bà cụ là em ruột của Johnny. Mà phải có ai đó nhận lấy chúng tôi chứ. Ít ra cũng nhận ông nội. Ông cụ thể hơn được nữa rồi. Đêm qua chúng tôi còn bị mưa nữa."

      Chiếc xe đỗ lại. Perry hỏi Dick sao lại đỗ.

      "Người này ốm lắm rồi," Dick .

      " sao? Cậu định làm gì? Cho ông ta ra à?"

      "Dùng cái đầu của cậu . Chỉ lần thôi."

      "Cậu đúng là đồ chó chết ti tiện."

      "Lão mà chết sao?"

      Thằng , "Ông tôi chết đâu. Chúng tôi xa đến thế này ông tôi chờ được."

      Dick khăng khăng, "Lão chết thế nào đây? Nghĩ cái gì xảy ra nào? Vặn vẹo hạch hỏi."

      " tình là tớ đếch quan tâm. Cậu muốn cho họ xuống xe hả? Bằng bất cứ giá nào chứ gì, được." Perry nhìn vào ông già tàn tật vẫn ngủ gà ngủ vịt, ngớ ngẩn, điếc lác, rồi lại nhìn thằng , nó nhìn lại điềm đạm, xin xỏ, "đề nghị bất cứ cái gì", và Perry chợt nhớ mình thuở bằng tuổi này, những cuộc lang thang của chính mình với ông già. "Cứ làm . Cho họ xuống xe . Nhưng tớ cũng xuống luôn."

      ° ° °

      "OK, OK, OK. Chỉ cần đừng có mà quên thôi," Dick . "Đây là lỗi của cậu, mẹ kiếp."

      Dick sang số xe. Thình lình, khi xe bắt đầu chuyển bánh lại, thằng hét lên, "Gượm tí!" Nhảy bổ ra ngoài xe, nó chạy vội dọc rìa đường, dừng lại, cúi xuống, nhặt lên , hai, ba, bốn chai Coca Cola rỗng, chạy trở lại, nhảy bổ vào trong xe thích chí cười. "Mấy cái chai này khối tiền đấy," nó với Dick. "Thưa ông, nếu mà ông lái xe kiểu từ từ thế này tôi bảo đảm chúng ta có thể nhặt lên khoản tiền lẻ khơ khớ đấy. Tôi và Johnny có cái ăn là nhờ những của này mà. Gây lại quỹ."

      Dick buồn cười, nhưng cũng thấy thu thú, cho nên lần kế tiếp khi thằng kêu đỗ, lập tức tuân lời. Lệnh của thằng ban ra thường xuyên quá đến nỗi có năm dặm đường mà mất giờ, nhưng cũng bõ. Thằng có cái biệt tài trong việc dò trúng chỗ những chai bia màu nâu loang loáng, lớp sơn màu ngọc thạch bôi bác từng có thời đựng bia 7 up và Canada Dry lăn lóc cạnh những hòn đá hay đống rác um tùm cỏ ven đường. Perry cũng mau chóng phát triển được năng khiếu riêng của về việc "tia" ra những cái chai đó. Ban đầu chỉ báo cho thằng biết những chỗ mà cho là có thể xuống đấy tìm; thấy bản thân mình mà láo nháo chạy xuống nhặt trông mất thể diện quá. Làm thế là "ngớ ngẩn", chỉ là "trò con nít". Thế nhưng, cuôc chơi gây ra niềm hưng phấn kiểu săn lùng kho báu, và chả mấy chốc, cả nữa, cũng cưỡng lại được trò vui, cơn hăng tìm kiếm những thứ rỗng mà lại có sức bù vào vốn liếng. Dick cũng thế, nhưng Dick hăng hái ra trò. Nom có vẻ dở hơi, song cách này đúng là làm ra được ít tiền - bét nhất cũng dăm ba đô. Ai mà biết, và Perry có thể dùng đến khoản đó lắm chứ; lúc này tài chính của cả hai thằng cộng lại còn chưa tới năm đô.

      Bây giờ cả ba - Dick, thằng bé và Perry - đều tụt cả ra ngoài xe và ngượng ngùng xấu hổ chút nào, đua nhau nhặt, tuy vẫn thân mật vui vẻ. Có lúc Dick tìm ra chỗ giấu những chai vang và uýt ki dưới cái rãnh, ỉu xìu khi biết phát này chẳng có giá trị gì. "Họ mua những chai rượu manh như thế này đâu," thằng bảo , "Kể cả số chai đựng bia cũng được giá. Tôi thường dây vào những cái chai này. Chỉ nhặt những của chắc ăn thôi. Dr. Pepper này. Pepsi này. Coca này. White Rock này. Nehi này."

      Dick hỏi, "Tên mày là gì?"

      "Bill," thằng .

      "Được đấy, Bill. Mày được học hành chính quy đấy." Đêm xuống, những nhà săn chai buộc phải thôi - trời tối và thiếu chỗ, vì họ nhặt được nhiều đến mức cái xe còn chỗ chứa thêm nữa. Thân xe đầy phè chai, ghế sau trông như cả đống ú hụ những rác rưởi lóng lánh; ông già đau yếu, chẳng hề được thằng cháu đoái hoài, hoàn toàn bị lấp dưới cái khoang chứa hàng lanh canh và rùng rình cách nguy hiểm ấy.

      Dick , "Giờ mà bị đâm xe mới thú đời đây." cụm đèn sáng quảng cáo cho New Motel, khách sạn bên đường cho xe hơi trú trọ, khi người đường tiến lại gần nó hóa ra là tổ hợp đồ sộ gồm những nhà nghỉ riêng biệt, gara xe hơi, nhà hàng và phòng uống cốc tai. Nhận lấy trách nhiệm, thằng bảo Dick, "Rẽ vào đó . Có thể ta làm ăn được đấy. Nhưng để tôi thương lượng. Tôi có kinh nghiệm rồi. Đôi khi họ tìm cách lừa mình đấy." Perry thể tưởng tượng ra được "có ai đủ thông minh để lừa nổi thằng này," về sau . "Nó chẳng lấy gì làm xấu hổ với những chai lọ lỉnh kỉnh bên người, cứ thế vào. Nếu là tôi tôi chịu, chắc tôi xấu hổ lắm. Nhưng người ở khách sạn xe hơi này cũng tử tế, họ chỉ cười ầm. Thế nào mà đống chai kia lại được những hai mươi đô sáu chục xen."

      Thằng kia đếm tiền, lấy nửa, nửa đưa cho hai bạn nghề và , "Biết gì ? Tôi ních cho tôi với Johnny bữa no nê. Các ông bạn có đổi ?" Dick đói, như thường lệ. Và sau bao nhiêu là hoạt động vừa rồi, cả Perry cũng đói. Như sau này kể lại: "Chúng tôi đem ông lão lên xe lăn đưa vào trong nhà hàng rồi rinh cụ đến cái bàn. Cụ trông vẫn đúng như vậy - như chết rồi. Chẳng lấy lời. Nhưng vẫn thấy cụ ngốn hết các thứ. Thằng gọi bánh kếp cho ông cụ; nó bảo Johnny thích nhất món bánh kếp này. Tôi thề là cụ xơi có đến ba chục cái. Với có lẽ ký bơ hoặc ca xi rô. Thằng cũng ăn ít. Khoai tây rán và kem, nó chỉ thích mấy cái đó thôi, nhưng quả là nó ăn nhiều lắm. biết nó có bị làm sao ."

      Trong bữa tiệc tối, Dick xem bản đồ, cho biết là Nước Ngọt cách con đường họ chừng trăm dặm hay hơn chút về phía Tây - con đường này đưa qua New Mexico và Arizona đến Nevada rồi đến Las Vegas. Tuy đúng là vậy nhưng ràng Perry thấy Dick chỉ là muốn buông thằng và ông già ra thôi. Thằng cũng nhìn ý Dick nhưng nó lịch , "Ồ, các ông đừng lo cho ông cháu tôi. Vô khối xe đỗ lại ở đây. Chúng tôi nhờ mà."

      Thằng với chúng ra xe, để mặc ông lão nhồi thêm đống bánh kếp vừa mang đến nữa. Nó bắt tay Perry và Dick, chúc hai người năm mới vui vẻ và vẫy theo hai người cho đến khi họ khuất vào trong đêm tối.

      ° ° °

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chiều thứ tư, 30 tháng Chạp, có chiều đáng ghi nhớ trong gia đình đặc vụ A.A. Dewey. Sau này nhớ lại, vợ ông , "Alvin vừa tắm vừa hát bài 'Bông hồng vàng của Texas'. Bọn trẻ xem ti vi. Tôi dọn bữa tối. bữa buýp phê, thích ăn gì tự lấy. Tôi là người New Orleans; tôi thích làm bếp và chiêu đãi cả nhà, mà mẹ tôi lại vừa mới gửi đến cho cả nhà giỏ mơ và đậu mắt đen, và, ồ, cả đống những thứ ngon lành lắm. Cho nên tôi quyết định: tổ chức bữa buýp phê ăn gì tự lấy, mời mấy người khách - nhà Murray, nhà Cliff và nhà Dodie Hope. Alvin muốn, nhưng tôi cứ đòi làm. Trời đất! Cái vụ án này có thể còn kéo dài hoài, mà ông ấy sao dứt được lấy phút. Đấy, tôi dọn bàn ăn nghe có điện thoại, tôi mới bảo thằng Paul ra nghe. Nó nghe rồi bảo người ta gọi cho bố, tôi bảo 'Con với họ là bố tắm,' nhưng Paul nó biết liệu có nên bảo thế , vì đây là ông Sanford gọi bố từ Topeka. Ông này là cấp của Alvin mà. Alvin quấn có mỗi cái khăn tắm ra chuyện. Làm tôi cáu mới ghê chứ - nước rỏ tong tong thành từng vũng khắp cả nhà. Nhưng khi tôi lấy cái chổi thấm lại thấy điều còn tệ hại hơn - con mèo Pete lếu láo chễm chệ bàn bếp chén xà lách trộn cua bể. Món nộm quả bơ của tôi.
      Thế rồi thình lình Alvin ôm chầm lấy tôi, ông ấy lắc lắc tôi. Tôi hỏi, 'Alvin, điên rồi đấy à?' Hay có hay nhưng ông ấy ướt như ma, làm hỏng hết bộ váy của tôi, mà tôi đóng bộ tử tế để tiếp khách. Dĩ nhiên khi hiểu ra tại sao ông ôm lấy tôi mà lắc lắc tôi cũng ôm lấy mà lắc lại. Ông có thể tưởng tượng được với Alvin việc biết hai tên kia bị bắt có ý nghĩa như thế nào . Bắt chúng ở ngoài Las Vegas. Ông ấy phải Las Vegas ngay tắp lự, tôi bèn hỏi trước hết ông có nên mặc ít quần áo vào cái hay , nhưng Alvin, ông ấy phấn khởi quá, ông ấy , 'Thôi chết, cưng à, e là làm cho bữa tiệc tối của em mất vui rồi.' Tôi nghĩ ra được cách nào làm hỏng bữa tiệc mà lại vui hơn thế này cả - làm gì còn cách nào vui hơn nếu như nó có nghĩa là chẳng bao lâu nữa rồi chúng tôi lại được quay về với cuộc sống bình thường trước đây. Alvin cười ran - ông ấy cười thế nghe hay lắm. Tôi muốn , hai tuần vừa qua là hai tuần tệ nhất. Bởi vì tuần ngay trước Nôen mấy tên kia quay trở lại Kansas City - đến rồi mà chẳng hề bị bắt - tôi chưa từng thấy Alvin suy sụp như thế bao giờ, trừ lần hồi trẻ phải nằm bệnh viện vì viêm não, chúng tôi cứ nghĩ là sắp mất ông ấy rồi. Nhưng tôi chẳng muốn lại chuyện đó đâu.
      Dẫu sao tôi cũng pha cà phê cho ông ấy rồi đem vào phòng ngủ, đinh ninh rằng ông ấy mặc quần áo ở trong đó. Nhưng ông ấy nào có mặc. Ông ấy lại ngồi ở cuối giường ôm lấy đầu như bị nhức đầu vậy. Chưa được lấy chiếc bít tất. Tôi liền , ' làm sao, bị viêm phổi à?' Ông ấy nhìn tôi , 'Nghe này Marie, chắc đúng là mấy tên đó, chắc phải là chúng rồi, đó là giải pháp lôgic duy nhất.' Alvin ngộ lắm. Y như lần đầu tiên ông ấy tranh cử cảnh sát trưởng của hạt Finney vậy. Bỏ phiếu đêm, khi thực tế là người ta đếm hết cả phiếu bầu và rành rành là ông ấy trúng rồi nhưng mà ông ấy vẫn cứ - lúc ấy tôi nghe mà chỉ muốn bóp cổ ông ấy cho chết - lại mãi, 'Chà, chừng nào chưa có thông báo cuối cùng chưa thể biết được đâu.'
      Tôi bảo ông ấy, 'Alvin à, đừng có giở kiểu đó ra nữa . Dĩ nhiên là họ bắt được chúng rồi.' Ông ấy , 'Bằng chứng của chúng ta đâu? Chúng ta thể chứng minh được là cả hai đứa đặt chân vào trong nhà Clutter cơ mà!' Nhưng tôi thấy đó đúng là điều ông ấy có thể chứng minh: những dấu chân kia - chẳng phải mấy dấu chân kia chính là thứ mà lũ thú vật đó để lại hay sao? Alvin , 'Đúng, những dấu chân đó là bằng chứng rất tốt - với điều kiện là mấy thằng đó vẫn còn những đôi ủng để lại mấy cái dấu ấy. Tự thân các vết chân đó đáng giá đồng mười xen.' 'Thôi cưng à, uống cà phê , em sắp quần áo cho mà mang .' Đôi khi ông thể lý được với Alvin đâu. Cứ cái kiểu ông ấy khăng khăng thế này ông ấy gần như thuyết phục được tôi rằng Hickock và Smith vô tội, còn nếu như chúng vô tội chúng bao giờ thú tội và nếu chúng thú tội có thể chúng bao giờ bị xét xử - vì bằng chứng quá mong manh, toàn là suy diễn mà. Tuy vậy điều ông ấy lo nhất là - ông ấy sợ rằng chuyện lộ ra, những tên kia biết được trước khi K.B.I hỏi cung chúng. Làm thế chúng nghĩ mình bị bắt vì vi phạm lời hứa danh dự. Tiêu séc giả. Alvin cảm thấy quan trọng là cứ để cho chúng nghĩ như thế. Ông ấy , 'Cái tên Clutter rồi phải giáng vào chúng như nhát búa, đòn mà chúng bao giờ biết được là sắp xảy ra.'
      Paul - tôi bảo nó ra dây phơi lấy vài đôi tất cho Alvin - Paul quay vào đứng cạnh xem tôi cho quần áo vào va li. Nó muốn biết bố đâu. Alvin nhấc bổng nó lên. Ông ấy , 'Pauly, con có giữ bí mật được ?' Ông ấy chẳng cần phải hỏi. Cả hai đứa đều biết chúng được đến công việc của bố - những mẩu này câu nọ mà chúng nghe được trong cái nhà này. Cho nên ông ấy , 'Pauly, con có nhớ hai cái tên mà chúng ta tìm kiếm ? Giờ chúng ta biết được là chúng ở đâu rồi, bố sắp áp giải chúng về Garden City đây.' Nhưng Paul lại van nài bố, 'Đừng, đừng bố, đừng đem chúng đến đây.' Nó sợ, đứa trẻ lên chín nào cũng sợ cả. Alvin hôn con. Ông ấy . 'Bây giờ OK rồi, con, chúng ta để cho chúng làm hại ai nữa. Chúng làm hại cho ai được nữa đâu, con'."
      ° ° °
      Năm giờ chiều hôm đó, khoảng hai chục phút sau khi chiếc Chevrolet ăn cắp lăn bánh ra khỏi sa mạc Nevada vào Las Vegas, cuộc dạo dài đến đoạn kết. Nhưng phải là trước lúc Perry đến bưu điện Las Vegas nhận bọc gửi cho qua công ty General Delivery - cái thùng các tông to mà gửi từ Mexico, được bảo đảm bằng trăm đô la, món tiền vượt xa giá trị những thứ nó đựng ở trong, gồm dầu bắt nắng, quần vải bò, sơ mi rách, quần áo lót và hai đôi ủng khóa sắt. Chờ Perry ở ngoài cửa bưu điện, Dick phởn lắm; tới được quyết định mà tin chắc xóa bỏ được tình thế khó khăn nay, mở ra trước mắt con đường mới mẻ, chân trời mới mẻ. Quyết định này bao hàm việc phải hóa trang thành sĩ quan quân. Đây là dự án từ lâu hấp dẫn Dick, và Las Vegas là cái chỗ lý tưởng để thi thố trò này. chọn xong tên và cấp bậc của sĩ quan, tên mượn của người quen biết trước đây, quản giáo nhà tù Bang Kansas: Tracy Hand. Với tư cách Đại úy Tracy Hand, ăn mặc lịch trong bộ binh phục may đo, Dick định "bò dải đất này", đường phố của những sòng bạc bao giờ đóng cửa ở Las Vegas. Lúc ăn , lúc ăn to, hoặc mảnh vụn hoặc miếng bự - có ý đánh vào tất cả các sòng bạc, đường tiến quân phân phát "hàng bồ hoa giấy". Bằng cách viết các séc giả vô giá trị, trông chờ hót được ba, và có thể bốn nghìn đô la trong vòng hai mươi tư giờ. Đó là nửa phi vụ; nửa thứ hai là: Chào từ biệt, Perry. Dick phát ốm với ta rồi - cái harmonica của , những đau ốm bệnh tật, các trò mê tín dị đoan, đôi mắt ướt át giống mắt đàn bà và cái giọng thào, ca cẩm của . Đa nghi, chủ quan, chỉ thấy mình đúng, tàn nhẫn, như mụ vợ cần phải dứt bỏ. Và chỉ còn có mỗi cách để làm thôi: chẳng gì hết, cứ thế chuồn.
      Mải mê với dự tính của mình, Dick để ý tới chiếc xe cảnh sát tuần chạy qua, chậm dần lại, vẻ như thăm thú. Perry cũng giống Dick, để ý tới, từ bậc tam cấp bưu điện xuống, cái thùng Mexico đung đưa vai, nhìn chiếc xe lảng vảng quanh đó và người cảnh sát ngồi ở bên trong.
      Hai sĩ quan cảnh sát Ocie Pigford và Francis Macauley còn mang hằn ở trong đầu những trang dữ liệu được ghi nhớ kỹ, bao gồm miêu tả chiếc xe Chcvroler 1956 sơn trắng đen mang biển số Kansas Jo 16212. Cả Perry lẫn Dick đều hay rằng chiếc xe cảnh sát bám theo khi chúng ra khỏi bưu điện. Dick lái và Perry chỉ đường, chúng qua năm khối nhà ở phía bắc, quẹo trái, quẹo phải, thêm phần tư dặm nữa dừng lại trước cây cọ chết khô và bảng hiệu xơ xác vì mưa nắng chữ viết phai mờ hết cả, chỉ còn lại cái từ "OOM".
      "Đây hả," Dick .
      Perry gật đầu trong khi chiếc xe tuần tra sát vào bên.
      ° ° °
      Ban Thám tử của Nhà tù Thành phố Las Vegas có hai phòng hỏi cung - những cái buồng sáng ánh nê ông rộng mười mét dài mười hai mét, tường và trần bằng chất dẻo celotex. Cộng với chiếc quạt điện, bàn kim loại, ghế xếp kim loại, trong mỗi phòng còn có các micro ngụy trang, các máy ghi giấu kỹ, và trong cửa lắp cái lỗ chỉ nhìn được chiều. Thứ Bảy, ngày thứ hai của năm 1960, cả hai phòng đều được đặt trước cho 2 giờ chiều - giờ mà bốn thám tử Kansas chọn để bắt đầu cuộc đối mặt đầu tiên với Hickock và Smith.
      Trườc giờ hẹn đó ít lâu, bộ tứ đặc vụ K.B.I. - Harold Nye, Roy Church, Alvin Dewey và Clarence Sunzt - gặp nhau - hành lang bên ngoài hai phòng hỏi cung. Nye sốt nóng. " phần vì cúm. Nhưng chủ yếu là vì kích động quá," sau đó ông với nhà báo như vậy. "Cho tới lúc đó tôi chờ ở Las Vegas hai ngày - đáp ngay chuyến máy bay sau đó khi tin về vụ bắt hai thằng đó đến sở chỉ huy ở Topeka. Những em còn lại trong đội, Al, Roy và Clarence đến bằng xe hơi - chuyến cũng khốn khổ. Thời tiết khốn khổ. Qua giao thừa đón năm mới tuyết kẹt đường kẹt sá, nằm chết dí ở khách sạn cho ô tô tại Albuquerque. Thế nên cuối cùng khi tới được Las Vegas là họ cần có uýt ki ngon và tin tức hay. Tôi sẵn sàng cho cả hai thứ. Các bạn trẻ của chúng tôi ký trát dẫn độ rồi. Còn tốt hơn thế nữa: chúng tôi có ủng rồi, cả hai đôi, đủ đế - hình cái chân mèo và hình kim cương - khớp hoàn toàn với các bức ảnh chụp cỡ những vết chân tìm thấy ở nhà Clutter. Các đôi ủng ở trong cái thùng đựng đồ lặt vặt bọn chúng vừa lấy ở bưu điện ngay trước khi sân khấu hạ màn. Giống như tôi bảo Dewey, giả như chúng tôi chẹt chúng nó sớm hơn năm phút thôi đấy, tong.
      Cứ cho là thế nữa, vụ của chúng tôi vẫn chưa chắc ăn lắm - cái gì cũng có thể bị chỉ trích được cả. Nhưng tôi nhớ, trong khi chờ ở hành lang - tôi nhớ là bị sốt và hồi hộp quá trời, nhưng tự tin. Chúng tôi đều thế cả; chúng tôi cảm thấy mình đến được bên mép lề của . Việc của tôi, của tôi và của Church là ép cho Hickock phải nhè ra. Smith là phần của Al và già Duntz. Đến lúc đó tôi vẫn chưa nhìn thấy bọn nghi phạm - chỉ mới xem đồ đạc của chúng và bố trí trát dẫn độ thôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Hickock cho tới khi được đưa xuống phòng hỏi cung. Tôi hình dung gã cao lớn hơn kia. Lực lưỡng hơn. phải thằng gầy gò như vậy. hai mươi tám, nhưng trông chẳng khác gì thằng lỏi con. Đói - giơ xương ra. rám nắng, mặc áo sơ mi lam và bít tất trắng, giày đen. Chúng tôi bắt tay; tay khô hơn tay tôi. Sạch , lịch , giọng hay hay, phát ràng, gã nom tử tế ưa nhìn, có nụ cười rất được lòng người khác - và lúc đầu mỉm cười như thế nhiều lắm.
      Tôi , 'Ông Hickock, tôi là Harold Nye, còn ông này là Roy Church. Chúng tôi là đặc vụ của Cục Điều tra Bang Kansas, chúng tôi đến để bàn về việc ông vi phạm lời hứa danh dự. Dĩ nhiên, ông bắt buộc phải trả lời chúng tôi, nhưng bất cứ điều gì ông ra đều có thể được dùng làm bằng chứng để chống lại ông. Bất cứ lúc nào ông cũng có quyền nhờ đến luật sư. Chúng tôi dùng bạo lực, đe dọa, và tôi hứa hẹn gì với ông cả.' ta bình tĩnh lắm."
      ° ° °
      "Tôi biết thủ tục," Dick . "Tôi từng bị hỏi cung trước đây rồi."
      "Giờ , ông Hickock..."
      "Gọi là Dick thôi."
      "Dick này, chúng tôi muốn về việc làm gì từ ngày hứa danh dự để được tha ra. Theo chúng tôi biết, ít nhất hai phen xài xả láng séc giả trong vùng Kansas City."
      "À ừm. Chỉ xíu thôi mà."
      " có thể cho chúng tôi danh sách những nơi tiêu séc giả chứ?"
      Gã tù, ràng tự hào về cái năng khiếu đích thực của mình, trí nhớ xuất chúng, bèn kể ra tên và địa chỉ của hai chục nhà hàng, quán cà phê, ga ra xe hơi và nhắc lại chính xác các khoản "mua sắm" ở mỗi chỗ đó cùng số lượng séc tiêu trót lọt.
      "Tôi thấy lạ đấy, Dick. Tại sao người ta nhận séc của được nhỉ? Tôi muốn biết bí quyết."
      "Bí quyết thế này: Thiên hạ toàn là lũ lừa."
      Roy Church , "Hay đấy, Dick. Rất ngộ. Nhưng lúc này chúng ta hãy quên cái chuyện séc ấy ." Tuy ông mà nghe như cổ họng bị lót lớp lông lợn, còn hai bàn tay rắn lên đến nỗi ngỡ chừng ông có thể đấm đổ tường được (thực ra đó chính là trò mà ông vẫn thường ưa biểu diễn), có những kẻ từng tưởng lầm Church là tay nhắn hiền lành, ông chú nhà ai đầu hói má hồng hồng. "Dick này," Church , "giá như với chúng tôi đôi chút về hoàn cảnh gia đình ."
      Gã tù ôn lại. lần, khi lên chín hay mười tuổi bố ốm. "Sốt thỏ," bệnh kéo dài mấy tháng, trong thời gian đó gia đình sống nhờ vào cứu trợ của nhà thờ và lòng từ thiện của hàng xóm - "nếu chúng tôi chết đói rồi." Ngoài chuyện này ra, tuổi thơ của là O.K. "Chúng tôi bao giờ có nhiều tiền, nhưng cũng bao giờ là túng quẫn," Hickock . "Chúng tôi luôn có quần áo sạch và có cái ăn. Tuy bố tôi nghiêm lắm. Ông chỉ vui khi nào bắt tôi làm đủ thứ tạp dịch. Nhưng bố con tôi vẫn O.K với nhau, có cãi cọ nghiêm trọng. Bố mẹ tôi cũng khi nào cãi nhau. Tôi nhớ có trận đấu khẩu nào . Bà cụ tuyệt vời, mẹ tôi ấy. Bố tôi cũng là người tốt. Tôi có thể là bố mẹ tôi làm hết sức mình cho tôi." học? À, cảm thấy có thể hơn học sinh trung bình nếu như bớt phần thời gian "phí phạm" cho thể thao vào sách vở. "Bóng chày. Bóng đá. Tôi chơi trong mọi đội bóng. Sau trung học, tôi lẽ ra có thể vào cao đẳng nhờ học bổng bóng đá. Tôi muốn học kỹ sư, nhưng dù có học bổng học mấy thứ ấy cũng tốn kém lắm. Tôi biết, có lẽ kiếm được việc làm an toàn hơn." Trước sinh nhật lần thứ hai mươi mốt, Hickock làm người tuần đường cho bên đường sắt, lái xe cứu thương, thợ sơn xe, thợ cơ khí ở gara; cũng cưới mười sáu tuổi. "Carol. Bố ấy là mục sư. Ông ta phản đối tôi kịch liệt. Bảo tôi là đồ vô dụng toàn phần. Làm được cái gì rắc rối là ông ta làm hết. Nhưng tôi trồng cây si vì Carol. Bây giờ vẫn vậy. công chúa . Có điều, xem đấy, chúng tôi có ba đứa con. Con trai cả. Mà chúng tôi quá trẻ để có ba đứa con. Có thể cũng được nếu như chúng tôi đừng bị ngập sâu vào nợ nần. Giá như tôi kiếm ra thêm được tiền. Tôi cố."
      thử đánh bạc, bắt đầu tiêu séc giả và thử nghiệm nhiều hình thức ăn cắp khác. Năm 1958, bị xử ở tòa án Johnson vì tội đột nhập nhà người ta ăn cắp và bị kết án năm năm tù ở Nhà tù Bang Kansas. Nhưng vào lúc đó Carol ra lấy khác làm vợ, mười sáu tuổi. "Đểu cáng ghê gớm. Nó và cả nhà nó. Trong khi tôi nó ly hôn. Tôi phàn nàn. Tháng Tám rồi, khi tôi ra khám, tôi nghĩ mình có mọi cơ may để bắt đầu lại. Tôi có việc làm ở Olathe, sống với gia đình, đêm đêm ngủ ở nhà. Tôi làm ăn rất tốt..."
      "Cho tới ngày 20 tháng Mười ," Nye và Hickock có vẻ như hiểu gì. "Cái ngày thôi làm việc tốt mà bắt đầu tiêu séc giả. Tại sao?"
      Hickock thở dài , "Chuyện này viết thành sách được." Rồi hút điếu thuốc vay của Nye và được Church lịch châm cho, , "Perry, thằng bạn thiết Perry Smith của tôi, được tha theo lời hứa danh dự hồi mùa xuân. Sau đó, khi tôi ra tù, viết cho tôi bức thư. Dấu bưu điện ở Idaho. nhắc tôi cái việc chúng tôi hay bàn với nhau. Về Mexico. Ý đấy là chúng tôi tới Acapulo, trong những nơi như thế, mua tàu đánh cá và tự trông nom lấy - chở khách du lịch ra câu cá ở ngoài khơi."
      Nye . "Cái tàu đó, các định lấy gì trả?"
      "Tôi đến đoạn đó đây," Hickock . "Thế này, Perry bảo tôi bà chị sống ở Fort Scott. Bà ta cầm hộ Perry món tiền cũng khá nặng tay. Mấy nghìn đô la. Tiền bố nợ từ khi bán cơ ngơi điền sản đâu như tận Alaska. đến Kansas để lấy món tiền."
      "Và hai dùng tiền đó để mua cái tàu."
      "Chính xác."
      "Nhưng hóa ra lại như thế."
      "Tình hình là Perry ra tù chậm phải đến tháng. Tôi gặp trạm xe buýt ở Kansas City."
      "Khi nào?" Church hỏi. "Thứ mấy trong tuần?"
      "Thứ Năm."
      "Và khi nào các Fort Scott?"
      "Thứ Bảy."
      "14 tháng Mười ."
      Mắt Hickock lóe lên ngạc nhiên. Người ta có thể thấy là thầm hỏi tại sao Church lại có thể ra ngày giờ chắc nịch đến như vậy; và Church - do thấy mình trót khuấy lên ngờ vực sớm quá, thế là hay - liền vội , "Các rời Fort Scott lúc nào?"
      "Chiều hôm đó. Chúng tôi sửa cái xe của tôi lát, ăn chầu ớt cay ở quán cà phê West Side. Phải vào khoảng ba giờ."
      "Khoảng ba giờ. Chị của Perry Smith có chờ các ?"
      ". Vì, ông hiểu , Perry đánh mất địa chỉ bà ta. Mà bà ta lại có điện thoại."
      "Vậy các tính gặp bà ta như thế nào?"
      "Bằng cách hỏi bưu điện vậy."
      "Có hỏi ?"
      "Perry hỏi. Họ bà ấy dọn chỗ khác rồi. Đến Oregon, chắc vậy. Nhưng bà ấy chẳng để lại địa chỉ nào để tìm theo được."
      "Chắc phải là đòn choáng nhỉ. Khi mà các cứ trông mong vào khoản tiền lớn đến thế."
      Hickock tán thành. "Vì là... chúng tôi quyết định dứt khoát Mexico. thế chúng tôi chẳng bao giờ thanh toán được séc giả. Nhưng tôi hy vọng... Bây giờ xin nghe tôi; tôi . Tôi nghĩ khi đến Mexico và bắt đầu làm ra tiền rồi, lúc đó tôi có khả năng thanh toán cho họ. Các séc ấy."
      Nye xen vào, "Khoan , Dick." Nye là người thấp bé, nóng tính, ông khó kìm được cái tính hăng đốp chát cũng như cái tài vừa đau vừa thẳng của mình. "Tôi muốn nghe ít về chuyến Fort Scott," ông , cố gượng . "Khi gặp được chị của Smith ở đó nữa các làm gì?"
      " bộ loanh quanh. Uống chầu bia. Lái xe về."
      "Ý ông là về nhà?"
      ", về Kansas City. Chúng tôi dừng lại ở Zesto, tiệm ăn lẹ cho xe hơi vào ăn rồi ra ngay. Ăn bánh mì kẹp pa tê. Rồi thử chút hàng đào Cherry Row."
      Cả Nye và Church đều hiểu Cherry Row là gì.
      Hickock , "Các ông đùa à? Cảnh sát nào ở Kansas City mà chẳng biết." Khi hai ông nhắc lại là mình biết , Hickock giải thích rằng đó là rẻo công viên nơi người ta gặp "phần lớn là phò chuyên nghiệp", nhưng thêm rằng "có cả đám nghiệp dư nữa. Y tá, nữ thư ký. Tôi hay vớ bở với bọn họ lắm."
      "Thế tối ấy có vớ bở ?"
      "Tệ. Cuối cùng vớ phải hai con đểu."
      "Tên gì?"
      "Milfred. Đứa kia, con của Perry là Joan, tôi nghĩ vậy."
      "Tả xem nào."
      "Có lẽ là chị em. Đều tóc vàng. Bụ bẫm. Tôi lắm về chuyện đó. Xem nào, hai đứa mua chai pha sẵn Orange Blossoms - tức là cam và vodka ấy mà - và tôi có phần xỉn. Chúng tôi cho bọn uống ít rồi lái chúng nó đến Bến Nhộn. Tôi nghĩ các vị đàng hoàng lịch thế này chắc chưa nghe đến bao giờ nhỉ?"
      Họ chưa nghe .
      "Nó ở đường Blue Ridge. Tám dặm phía nam Kansas City. thứ phối hợp hộp đêm với khách sạn mini. Ông trả mười đô la để có chìa khóa vào ca bin." Hickock nhe răng ra cười cợt nhả.
      Tiếp tục, tả cái ca bin mà cả bốn đứa qua đêm; giường đôi, tấm lịch Coca Cola cũ, cái rađiô chỉ chạy khi khách hàng bỏ vào đồng tiền. Cung cách điềm tĩnh, mạch lạc và kiểu trình bày tỉ mỉ các chi tiết có thể kiểm chứng được của làm Nye ngạc nhiên - tuy dĩ nhiên là cha này dối. Chậc, mà dối đấy? Hoặc vì cơn cúm sốt hoặc vì lòng tự tin đột ngột bị nguội , Nye vã mồ hôi lạnh ra.
      "Sáng ra chúng tôi thức dậy thấy là mình bị hai con đó lừa, cuỗm sạch tiền rồi," Hickock . "Tôi mất nhiều. Nhưng Perry mất cái ví có bốn năm chục đô la."
      "Các làm gì với chuyện đó?"
      "Có cái gì mà làm chứ."
      "Các có thể báo cảnh sát."
      "Á, à, thôi. Cho nghỉ. Báo cảnh sát. thằng được tha theo lời hứa được phép nhậu nhẹt chơi bời mà lại báo tin cho các ông à. Hoặc là hợp tác với cha cũng ở Old Grad..."
      "Được rồi, Dick. Hôm ấy Chủ nhật. 15 tháng Mười . Hãy xem hôm đó từ lúc ra khỏi Bến Nhộn các làm gì."
      "À, chúng tôi ăn điểm tâm ở bến xe tải đỗ gần Happy Hill. Rồi chúng tôi tới Olathe, tôi thả Perry xuống đó, ở cái khách sạn trọ. Chắc lúc đó khoảng mười giờ. Sau đó, tôi về nhà ăn tối với gia đình. Chủ nhật nào cũng vậy. Xem ti vi - trận đấu bóng rổ hoặc có khi là bóng bầu dục. Tôi khá là mệt."
      " gặp lại Perry Smith lúc nào?"
      "Thứ Hai. đến chỗ tôi làm việc. Tiệm sửa xe Bob Sands."
      "Và các đến chuyện gì? Mexico?"
      "À, chúng tôi vẫn thích cái ý ấy, ngay cả khi có tiền để làm những chuyện chúng tôi trù tính - làm ăn kiếm tiền ở đấy. Nhưng chúng tôi muốn , và hình như cũng là đáng để mạo hiểm đây."
      "Đáng để lần nữa vào nằm khàn ở Lansing chứ?"
      "Cái đó nghĩ đến đâu. Chậc, chúng tôi chẳng bao giờ có ý lại để nhà nước nuôi báo nữa đâu mà."
      ghi ghi chép chép vào sổ tay, Nye , "Sau ngày tiêu xả láng séc giả - hôm đó là ngày 21 - và bạn , Smith đều biến mất. Dick này, giờ hãy phác qua những đứng của các từ lúc đó cho tới lúc các bị bắt ở Las Vegas đây xem. khái quát thôi."
      Hickock huýt sáo miệng rồi trợn mắt lơ láo. "Chu cha!" và rồi, vận hết cái thứ khả năng giống như là khả năng ôn nhớ lại toàn bộ quá khứ, bắt đầu bản tường trình cả chuyến dài - khoảng mười nghìn dặm mà và Smith trong sáu tuần qua. liền giờ hai mươi lăm phút - từ hai giờ năm mươi tới bốn giờ mười lăm phút - và kể ra, trong khi Nye có ghi lại, tên các xa lộ và khách sạn, motel ven đường, sông, thị trấn, thành phố, dàn hợp xướng những cái tên quyện lấy nhau; Apache, El Paso, Corpus Christi, Santillo, San Luis Porosí, Acapulco, San Diego, Dallas, Omaha, Sweetwater hay Nước Ngọt, Stillwater hay Nước Tĩnh, Tenville Junction, Tallahassee, Needles, Miami, khách sạn Nuevo Waaldorf, khách sạn Somerset, khách sạn Simone, khách sạn Arrowheand, khách sạn Cherokee, và nhiều, nhiều tên khác nữa. cho cả tên người ở Mexico mà bán chiếc Chevrolet cũ đời 1949 của , thú ăn cắp chiếc mới hơn ở Iowa. tả lại những người và Perry gặp: bà già người Mexico, giàu và dâm; Orco, "triệu phú" Đức; cặp võ sĩ quyền người da đen "diện ngất" lái chiếc Cadillac màu tím nhạt "diện ngất"; ông chủ mù của trại nuôi rắn đuôi chuông ở Florida; lão già ngắc ngoải với thằng cháu nội; và nhiều người khác nữa. Khi kể xong khoanh tay lại ngồi với nụ cười hài lòng, tựa hồ chờ nghe lời bình về cái hài hước, ràng minh bạch và vẻ hồn nhiên con nít của câu chuyện đường của mình.
      Nhưng Nye lia vội ngòi bút đuổi theo lời kể, và Church, uể oải, bàn tay nắm lại gí vào lòng bàn tay mở, chẳng gì - rồi thình lình ông , "Tôi đoán là các biết tại sao chúng tôi lại ở đây chứ."
      Miệng Hickcock thẳng ngay lại - dáng ngồi cũng vậy.
      "Tôi đoán các cũng hiểu là chúng tôi chẳng khi nào lại bỏ công từng ấy đường đất đến Nevada chỉ để tán chuyện với hai kẻ lừa đảo dăm ba tấm séc giả mà thôi."
      Nye gấp sổ tay lại. Ông cũng nhìn chằm chằm gã tù, quan sát thấy mạch máu nổi lên ở thái dương bên trái .
      "Chúng tôi có làm cái việc như thế , Dick?"
      "Gì cơ?"
      " xa đến như thế để chỉ về có dúm séc thôi."
      "Tôi chẳng nghĩ ra được lý do nào khác cả."
      Nye vẽ con dao găm lên bìa sổ tay. Trong khi vẽ, ông , "Dick, tôi nghe nào. có nghe đến vụ án mạng Clutter bao giờ chưa?" Việc này, sau đó ông viết trong báo cáo chính thức về cuộc hỏi cung, "Nghi phạm có phản ứng mãnh liệt nhìn thấy . trở nên xám ngoét. Mắt giật lia lịa."
      Hickock , "Chà, giờ thôi nhé. Dừng lại đây . Tôi phải kẻ giết người chó chết nào hết á."
      "Câu hỏi là," Church nhắc , " có nghe thấy các vụ giết người nhà Clutter ?"
      "Chắc là tôi có đọc được chuyện kiểu kiểu như thế," Hickcock .
      " vụ án mạng xấu xa. Xấu xa. Hèn nhát."
      "Và gần như là hoàn hảo," Nye . "Nhưng các phạm hai sai lầm, Dick. để lại nhân chứng. Nhân chứng sống. làm chứng trước tòa. đứng ở bục nhân chứng mà với ông chánh án rằng Richard Hickock và Perry Smith trói, dán miệng và tàn sát bốn người có thứ gì tự vệ trong tay."
      Mặt Hickock lấy lại màu đỏ bình thường. "Nhân chứng sống. thể có được!"
      "Vì tưởng các thanh toán được hết tất cả mọi người rồi chứ gì?"
      "Tôi thế bao giờ! ai có thể gán cho tôi vụ án mạng chó chết nào hết. Séc giả. Ăn cắp vặt tí ti có. Nhưng tôi phải là quân giết người khốn nạn."
      "Thế tại sao," Nye hỏi đánh độp, "tại sao phải dối chúng tôi?"
      "Tôi mười mươi với các ông."
      "Thỉnh thoảng thôi. phải lúc nào cũng . Chẳng hạn về chiều thứ Bảy, ngày 17 tháng Mười ấy. bảo là xe đến Fort Scott."
      "Đúng."
      "Và tới đó rồi các đến bưu điện."
      "Đúng."
      "Để lấy địa chỉ của chị Perry Smith."
      "Phải."
      Nye đứng dậy. Ông vòng ra sau lưng Hickock, đặt tay lên lưng ghế ngồi, cúi xuống tựa như thào vào tai người tù. "Perry Smith có bà chị nào sống ở Fort Scott," ông . " có chị ở đó bao giờ. Và chiều thứ Bảy bưu điện Fort Scott đóng cửa." Rồi ông , "Dick, nghĩ kỹ . Hôm nay thế thôi. còn với nữa."
      Sau khi Dick được giải rồi, Nye và Church băng qua hành lang, nhìn vào lỗ quan sát chiều lắp cánh cửa phòng hỏi cung, theo dõi cuộc thẩm vấn Perry Smith - cảnh tượng nhìn chứ nghe thấy được. Lần đầu tiên trông thấy Perry Smith, Nye ngạc nhiên về đôi chân ta - chân ngắn quá đến nỗi bàn chân bé như chân trẻ con, thể chạm được tới sàn. Đầu Smith - mái tóc da đỏ cứng queo, nước da tối pha trộn màu Ailen với màu da đỏ cùng những nét tinh quái, ngỗ ngược - làm cho ông nhớ lại người chị xinh đẹp của nghi phạm, bà Johnson tử tế. Nhưng cái thằng trẻ con-đàn ông bất thành nhân dạng, lùn tì mập chắc này chẳng có gì đẹp; đầu lưỡi đỏ hồng nhọn hoắt của thòi ra, lật phật như lưỡi con thằn lằn. hút thuốc, và từ những hơi khói thở ra đều đều của , Nye có thể suy ra rằng vẫn còn "trinh" - tức là vẫn chưa được thông báo về mục đích của cuộc thẩm vấn.
      ° ° °
      Nye đúng. Vì Dewey và Duntz, những tay nhà nghề kiên trì, dần dần bó hẹp chuyện đời gã tù vào những kiện của bảy tuần vừa qua, rồi rút lại chỉ còn tập trung vào cái cuối tuần chủ chốt - trưa thứ Bảy tới trưa Chủ nhật, ngày 14 tới ngày 15 tháng Mười . Bây giờ, sau khi bỏ ba giờ đồng hồ ra dọn đường cho đòn đánh, họ còn cách thời điểm tung đòn bao xa nữa.
      Dewey , "Perry, chúng ta hãy xem lại vị trí của chúng ta. được tha theo lời hứa, với điều kiện là bao giờ được quay trở lại bang Kansas."
      "Cái bang của Hoa hướng dương ấy mà. Tôi ngấy tận cổ với nó rồi."
      " cảm thấy như vậy sao còn quay về đó? Chắc lý do nào mạnh lắm."
      "Tôi với ông rồi. Để gặp chị tôi. Để lấy tiền chị ấy giữ cho tôi."
      "À, đúng. Bà chị mà và Hickock cố tìm ra ở Fort Scott, Perry, từ Fort Scott đến Kansas City bao xa?"
      Smith lắc đầu. biết.
      "Được, phải mất bao nhiêu giờ để lái xe đến đó?"
      trả lời.
      " giờ? Hai? Ba? Bốn?"
      Người tù mình nhớ.
      "Dĩ nhiên thể nhớ được. Vì cả đời bao giờ đến Fort Scott đâu."
      Cho đến lúc đó, chưa có nhà thám tử nào cật vấn vào bất cứ chỗ nào trong lời khai của Smith. cựa quậy ghế; lè đầu lưỡi ra liếm môi.
      " là các chẳng ai với chúng tôi hết. Các hề đặt chân đến Fort Scott. Các hề gọi con điếm nào cũng chẳng đưa chúng đến khách sạn nào."
      "Chúng tôi có. Đừng đùa."
      "Tên họ là gì?"
      "Tôi hỏi."
      " và Hickock ngủ đêm với các điếm ấy mà lại hỏi tên ư?"
      "Toàn tụi điếm ấy mà."
      " tên cái khách sạn ra cho chúng tôi nào."
      "Hỏi Dick ấy. biết. Tôi bao giờ nhớ những cái tào lao như vậy."
      Dewey bảo người đồng . "Clarence, tôi nghĩ đến lúc chúng ta chỉnh cho Perry thẳng ra rồi đấy nhỉ?"
      Duntz nhoài ra đằng trước. Ông là người nặng cân với lanh lẹ bất thần của võ sĩ quyền hạng trung, nhưng mắt ông lộ và lờ đờ lững khững. Ông ề à; mỗi từ ra đều ngập ngừng và mang giọng vùng nuôi bò ngựa, kéo dài cả hồi. "Vâng, thưa ngài," ông ,
      "Về khoản giờ."
      "Nghe này, Perry. Vì ông Duntz sắp ra ở đâu cái đêm thứ Bảy ấy đấy. Các ở đâu và các làm gì."
      Duntz , "Các giết nhà Clutter."
      Smith nuốt khan. bắt đầu co gập đầu gối.
      "Các ở ngoài Holcomb, bang Kansas. Ở nhà ông Herbert W. Clutter. Trước khi rời , các giết tất cả những người ở trong ngôi nhà đó."
      " bao giờ. Tôi bao giờ."
      " bao giờ gì?"
      "Biết người nào tên là Clutter."
      Dewey gọi là đứa dối, thế rồi chơi lá bài mà khi hội ý trước đó cả bốn thám tử nhất trí là chơi úp kín, ông bảo , "Chúng tôi có nhân chứng sống, Perry. người mà các chú mày nhìn thấy."
      phút hẳn hoi trôi qua, và cái im lặng của Smith làm Dewey sướng rơn, vì người vô tội hỏi ai là nhân chứng đó, nhà Clutter là những người nào và tại sao họ lại nghĩ là giết - dù gì cũng ra cái gì. Nhưng Smith ngồi im, khép chặt hai đầu gối lại.
      "Sao nào, Perry?"
      "Ông có aspirin ? Họ lấy mất aspirin của tôi rồi."
      "Khó chịu à?"
      "Chân tôi khó chịu."
      Lúc đó là năm giờ rưỡi, cố ý để cho đột ngột, Dewey kết thúc cuộc hỏi cung. "Mai chúng ta bắt đầu từ chỗ này," ông . "Nhân đây, có biết ngày mai là thế nào ? Sinh nhật của Nancy Clutter. Nếu chưa chết ngày mai ấy tròn mười bảy tuổi."
      ° ° °
      "Nếu chưa chết ngày mai ấy tròn mười bảy tuổi." Tỉnh dậy vào lúc rạng sáng, Perry tự hỏi (về sau kể lại vậy) có đúng hôm nay là sinh nhật của , và quả quyết là phải, đây chỉ là cách để họ moi ruột gan ra, cũng như chuyện có nhân chứng - "nhân chứng sống" kia đấy. thể có được. Hay là họ muốn ... Giá mà chuyện được với Dick nhỉ! Nhưng và Dick bị giam riêng; Dick bị nhốt trong xà lim tầng khác, "Nghe cho kỹ, Perry, vì ông Duntz đây sắp ra chuyện thực ở đâu..." Giữa chừng cuộc hỏi đáp, sau khi để ý thấy nhiều lần người ta bóng gió tới dịp cuối màn đặc biệt của tháng Mười vừa qua nơm nớp sợ cái mà biết là đến, nhưng khi nó đến, khi gã cao bồi to lớn có cái giọng ngái ngủ , " giết gia đình Clutter" , ôi, gần như chết đứng. chắc phải sụt mất năm ký trong vòng hai tích tắc ấy. Nhờ trời để cho họ thấy. Hay hy vọng là thế. Còn Dick? Họ chắc cũng lại chơi trò đe dứ này với Dick. Dick khôn ranh láu cá, thằng cha giỏi làm bộ, nhưng cái "gan góc" của nó cũng thể tin cậy, nó quá dễ hốt hoảng. Cứ cho là thế nữa, Perry vẫn tin là Dick vững dù có bị họ o ép thế nào. Trừ phi nó muốn bị treo cổ. "Và trước khi rời nhà ấy giết tất cả những người ở đó." ngạc nhiên nếu như tất cả cựu Ấp viên ở Kansas đều được nghe câu chuyện này. Họ thẩm vấn đến hàng trăm người và chắc chắn là khép tội tới cả chục mống, và Dick chỉ là hai đứa thêm vào số đó mà thôi. Mặt khác, ừ, liệu Kansas có phái bốn đặc vụ hàng nghìn dặm chỉ để nhốt lấy cặp tù nhép vi phạm lời hứa cơ chứ? Có lẽ như thế nào đó họ tình cờ vớ phải cái gì đó hay ai đó - "nhân chứng sống". Nhưng chuyện ấy là thể có được. Trừ phi... sẵn sàng cho cả cánh tay hay cẳng chân để được chuyện với Dick năm phút.
      Và lúc đó Dick thức giấc trong xà lim tầng dưới, cũng (về sau nhớ lại) đầy khao khát được trò chuyện với Perry - tìm hiểu xem thằng ma kia gì với họ. Lạy Chúa, ta đâu thể tin tưởng rằng nó nhớ nổi dù chỉ chút lờ mờ về cái bằng cớ ngoại phạm là chúng có mặt tại Bến Nhộn lúc xảy ra án - tuy chúng bàn với nhau khá nhiều lần. Và khi bọn chó chết kia lại dọa về nhân chứng nữa! Cá mười ăn là thằng quỷ lỏi nghĩ họ có ý tới người chứng kiến tận mắt đây. Trái lại , Dick, lập tức biết ngay cái gọi là nhân chứng ấy chắc chỉ là Floyd Wells thôi, thằng bạn cũ và chung xà lim với trước đây. Thời gian mấy tuần cuối hạn tù, Dick định đâm chết Floyd - đâm nó chết, đâm thẳng vào tim bằng cây "dao lá liễu" tự chế - thế mà lại giết, ngu thế biết. Ngoài Perry ra, Floyd Wells là người duy nhất có thể gắn liền tên của Hickock với Clutter. Cái thằng Floyd vai xuôi cằm lẹm ấy - Dick tưởng là nó sợ quá kia chứ. Thằng chó ấy chắc là trông đợi món thưởng khớ đây - được tha theo lời hứa hoặc được tiền, hoặc cả hai. Nhưng trước khi nó được trời sụp rồi. Vì lời mách lẻo của thằng tù đâu thể là tang chứng được. Tang chứng phải là dấu chân, dấu tay, nhân chứng, lời tự thú. Mẹ kiếp, nếu cái lũ cao bồi kia cứ phải tiếp tục vin vào chuyện Floyd Wells kể chẳng có gì phải lo lắng nhiều. Xét đến cùng, Floyd nguy hiểm bằng nửa Perry. Nếu Perry chùng gân mà nhè mọi chuyện ra cho cả hai thằng vào Cái Xó. Và đột nhiên nhìn thấy : chính Perry mới là người mà đáng lẽ phải làm cho im miệng. đoạn đường núi ở Mexico. Hoặc trong lúc bộ qua sa mạc Mojave. Tại sao đến bây giờ cái ý đó mới đến với chứ? Vì bây giờ, bây giờ quá muộn rồi.
      ° ° °
      Cuối cùng, vào lúc ba giờ năm phút chiều hôm đó, Smith thú nhận chuyện Fort Scott là giả. "Đó chỉ là cái cớ Dick với gia đình . Để cho có thể vắng cả đêm ở ngoài. Nhậu tí chút. Chẳng là bố Dick theo dõi con sát sao lắm - sợ vi phạm lời hứa. Cho nên chúng tôi tìm cái cớ bà chị. Chỉ là để cho ông Hickock yên tâm." Ngoài ra, nhắc nhắc lại hoài câu chuyện đó, bất chấp bao nhiêu lần uốn nắn và cáo buộc dối, Duntz cùng Dewey vẫn thể làm cho thay đổi được - có chăng chỉ khiến thêm vào vài chi tiết mới mẻ. Tên của hai điếm, hôm nay nhớ ra là Milfred và Jane (hay Joan). "Chúng lừa chúng tôi," bây giờ nhớ lại. "Chuồn đem theo tất tật món tiền còm của chúng tôi trong khi chúng tôi ngủ." Cho dù Duntz làm mất cái vẻ bình tĩnh của - lột bỏ, cùng với áo ngoài và cà vạt, cái dáng đường hoàng uể oải bí của - Smith vẫn còn cái vẻ hài lòng và thanh thản; chịu suy suyển. chưa bao giờ nghe đến nhà Clutter hay Holcomb, thậm chí đến Garden City nữa.
      Bên kia gian sảnh, trong gian phòng sặc khói thuốc lá, nơi Hickock qua lần hỏi cung thứ hai, Church và Nye áp dụng chiến lược vòng vo vu hồi. Trong cuộc thẩm vấn mà đến lúc này gần như kéo dài những ba tiếng đồng hồ, ai trong hai người nhắc đến vụ án mạng dù chỉ lần - bỏ lơ này làm cho gã tù luôn luôn hồi hộp và cáu kỉnh. Họ đến đủ thứ khác: triết học tôn giáo của Hickock ("Tôi biết địa ngục. Tôi từng ở đó. Có lẽ cũng có thiên đường . Nhiều người giàu có nghĩ như vậy."); tiền sử tính dục của ("Tôi lúc nào cũng ứng xử như người bình thường trăm phần trăm"); và lần nữa, câu chuyện về cuộc lẩn trốn việt dã mới đây của ("Tại sao chúng tôi cứ mãi như thế, lý do duy nhất là chúng tôi tìm việc làm. Tuy chẳng tìm được việc gì tử tế. Tôi đào mương ngày trời...") Nhưng những điều ra mới là trung tâm của chú ý - cái nguyên nhân của việc Dick ngày càng thất vọng, các nhà thám tử chắc chắn như vậy. Lúc này nhắm mắt, day mí bằng những ngón tay run rẩy. Và Church , "Có trục trặc gì ?"
      "Nhức đầu. Tôi hay bị những cái chó chết này."
      Nye liền , "Dick, nhìn tôi đây." Hickock nghe lời, với cái vẻ mà nhà thám tử hiểu ra như là cầu xin hãy , hãy kết tội và để cho trốn thoát vào trong chánh cung của phủ nhận trước sau như thay đổi. "Hôm qua khi chúng ta bàn đến chuyện này, có thể nhớ lại lời tôi rằng các vụ giết người ở nhà Clutter là vụ án gần như hoàn hảo. Bọn giết người chỉ phạm có hai sai lầm. Thứ nhất, chúng để lại nhân chứng. Thứ hai, ừm, tôi cho xem." Đứng dậy, ông lấy từ trong góc phòng ra cái hộp và cái cặp, cả hai vật này ông mang vào phòng hỏi cung từ đầu. Ông lấy trong cặp ra tấm ảnh lớn. "Cái này," ông , để tấm ảnh lên bàn, "là bản phóng nguyên khổ vài vết chân tìm thấy gần xác ông Clutter. Còn đây," ông mở cái hộp ra, "là những đôi ủng để lại những dấu đó. Đôi ủng của , Dick." Hickock nhìn rồi quay . ngồi hai khuỷu tay tì lên đầu gối, mặt vùi vào hai bàn tay. "Smith," Nye , "lại còn ít thận trọng hơn. Chúng tôi cũng có đôi ủng của , chúng hoàn toàn khớp với bộ dấu chân khác. Những dấu chân có dính máu." Church đánh áp sát. "Đây là cái điều sắp xảy đến với , Hickock," ông . " bị đưa lại về Kansas. bị kết án bốn vụ giết người ở cấp . Vụ thứ nhất: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười năm 1959, người tên Richard Eugene Hickock, cách phi pháp, cố ý và cố tình, có tính toán trước, và trong khi dính vào việc gây ra tội ác, giết và lấy sinh mạng của Herbert W. Clutter. Vụ thứ hai: vào ngày hoặc vào khoảng ngày 15 tháng Mười năm 1959, cũng Richard Eugene Hickock, cách phi pháp..."
      Hickock , "Perry Smith giết nhà Clutter." ngẩng đầu, từ từ ngồi thẳng ghế, như người vật nhau loạng choạng đứng dậy. "Perry đấy. Tôi ngăn lại được. giết tất cả."
      ° ° °
      nhâm nhi cà phê nhân giờ nghỉ ở quán cà phê Hartman, bà Clare chánh bưu điện phàn nàn lượng rađiô mở bé. "Cho nó to lên nào," bà .
      Rađiô mở kênh phát thanh KIUL của Garden City. Bà nghe được mấy lời, "... sau khi nức nở đau đớn thú tội, Hickock nhô ra khỏi phòng thẩm vấn và té xỉu ở hành lang. Các nhân viên K.B.I. giữ lấy khi ngã xuống sàn. Các nhân viên dẫn lời Hickock và Smith xâm nhập nhà Clutter mong tìm thấy két sắt đựng ít nhất mười nghìn đô la. Nhưng có két nào, cho nên chúng trói gia đình lại và lần lượt bắn từng người . Smith nhận cũng chối là tham gia vụ án mạng.
      Khi nghe Hickock ký vào bản thú tội, Smith , "Tôi muốn xem bản của bồ tôi khai," nhưng đề nghị này bị bác. Các cảnh sát từ chối cho hay Hickock hay Smith là người thực bắn các thành viên gia đình Clutter. Họ nhấn mạnh bản khai này chỉ là của Hickock. Nhân viên K.B.I. đưa hai gã này quay về Kansas, họ rời Las Vegas bằng xe hơi. Dự kiến họ về đến Garden City vào sẩm tối thứ Tư. Trong khi đó, ông chưởng lý hạt West..."
      "Lần lượt từng người," bà Hartman . "Cứ tưởng tượng xem. Tôi tin là cái đồ lưu manh đó mà lại ngất được."
      Những người khác trong quán - bà Clare, bà Mabel Helm và chủ trại trẻ tuổi lực lưỡng vừa ghé lại mua bìa thuốc lá nhai hiệu Con lừa - cứ lầm bà lầm bầm. Bà Helm đắp lên mắt mảnh khăn ăn. "Tôi chả nghe đâu," bà . "Tôi được phép nghe, tôi chả nghe đâu."
      "... tin về vụ phá án nhận được rất ít phản ứng ở thị trấn Holcomb, cách nhà Clutter chừng nửa dặm... chung, dân thị trấn ở cái cộng đồng hai trăm bảy chục người này tỏ ra nguôi dịu..."
      Người chủ trại trẻ huýt gió. "Nguôi dịu! Có biết là đêm qua vợ tôi sau khi nghe tin ti vi làm sao ? Khóc ầm lên như đứa bé vậy."
      "Suỵt," bà Clare . "Tôi đây này."
      "... và bà chánh bưu điện ở Holcomb, bà Myrtle Clare dân chúng ở đây rất vui là vụ án được phá, nhưng số bà con vẫn cảm thấy rằng còn có những người khác dính líu nữa. Bà giờ nhiều người vẫn cứ khóa chặt cửa và súng ống kè kè..."
      Bà Hartman cười to. "Ôi Myrt ơi!" bà . "Bà với ai vậy?"
      " phòng viên của tờ Điện tín."
      Những ông có quen biết bà Clare, nhiều người trong số đó xưa nay vẫn đối xử với bà như với đàn ông. Người chủ trại phát vào lưng bà cái mà , "Chà Myrt, bà bạn ơi. phải bà vẫn nghĩ là người trong chúng tôi - ai đó quanh đây - có liên quan đến vụ đó chứ?"
      Nhưng dĩ nhiên đó là điều bà Clare nghĩ, và tuy trước nay bà thường bị đơn độc trong ý kiến của mình song lần này có ai ủng hộ bà, vì phần lớn dân Holcomb, sống suốt bảy tuần giữa những tin đồn vô bổ, trong mất lòng tin và nghi ngại lẫn nhau, tỏ ra thất vọng khi nghe kẻ giết người phải là dân ở đây. Quả thế, phần lớn chịu chấp nhận việc hai kẻ lạ mặt, hai đứa ăn cắp ở đâu đâu lại là thủ phạm duy nhất. Như bà Clare nhận xét, "Có thể mấy thằng đó có làm . Nhưng còn kẻ khác nữa đấy. Chờ xem. Hôm nào đấy họ khoắng tới đây, và chừng đó họ khui ra cái đứa đứng ở đằng sau. Cái đứa nào muốn gạt ông Clutter khỏi đường của nó. Cái đứa đầu não ấy."
      Bà Hartman thở dài. Bà hy vọng bà Clare sai. Rồi bà Helm , "Tôi chỉ mong họ giam chặt chúng nó lại. Biết chúng nó ở gần đây là tôi cảm thấy chả yên tâm thoải mái tí nào."
      "Ồ thưa bà, tôi nghĩ bà phải lo lắng đâu," người chủ trại trẻ tuổi . "Bây giờ mấy đứa kia chúng nó sợ ta nhiều hơn là ta sợ chúng nó ấy chứ."
      ° ° °

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      xa lộ bang Arizona, đoàn hai xe phóng vun vút qua vùng đất ngải đắng - các quả đồi đĩnh phẳng như mặt bàn đầy chim ó, rắn đuôi chuông và những tảng đá đỏ dựng cao chất ngất. Dewey lái xe trước, Perry Smith ngồi cạnh ông, Duntz ở ghế sau. Smith bị còng tay, còng số tám buộc vào thắt lưng an toàn bằng đoạn xích ngắn - kiểu bố trí này hạn chế cử động của quá đến mức thể hút thuốc được nếu có người giúp. Khi muốn hút thuốc, Dewey phải châm cho rồi đặt vào giữa hai môi , nhiệm vụ mà ông cảm thấy "kinh tởm", vì nó có vẻ như hành vi thân thiết - loại hành vi mà ông từng làm khi tán tỉnh vợ ông.

      chung, người tù để ý đến những người canh giữ cũng như ý định thường trực của họ là khiêu khích bằng cách nhắc lại lời thú tội được ghi dài cả giờ của Hickock: " muốn ngăn lại đấy, Perry. Nhưng được. sợ còn bắn cả nữa," và "Vâng, thưa ông Perry. Tội vạ là ở ông hết. Chính Hickock , đến con rận chó còn có khả năng làm hại nữa cơ." Chẳng có cách nào làm cho Smith bị kích động cả - bề ngoài vậy. tiếp tục ngắm cảnh, đọc những bài thơ dở ẹc của Burma-Shave, đếm xác những con chồn hôi bị bắn, vắt lên hàng rào trại chăn nuôi như đồ trang điểm.

      tính trước tới bất cứ câu trả lời nào đặc biệt, Dewey , "Hickock bảo chúng tôi kẻ sát nhân bẩm sinh. Bảo là giết người chẳng làm thấy băn khoăn gì hết. Bảo là có lần ở Las Vegas ấy, cho đời người da màu bằng dây xích xe đạp. Quật đến chết người ta. Cho vui thôi."

      Dewey ngạc nhiên thấy người tù thở hổn hển. vặn vẹo ghế cho đến khi nhìn thấy chiếc xe thứ hai qua khung kính sau xe, nhìn thấy bên trong nó: "Cái thằng mất dạy!" Quay lại, nhìn đăm đăm vào vạt đường xa lộ tối xuyên qua sa mạc. "Tôi cứ nghĩ đấy là mánh của các ông cơ. Tôi tin các ông. Rằng thằng Dick phun ra. Thằng mất dạy! Ồ, đúng là thằng vô liêm sỉ. chẳng làm hại đến cả con rận chó. Chỉ chẹt chết chó thôi." nhổ. "Tôi chưa giết thằng mọi nào bao giờ." Duntz tán thành với ; nghiên cứu hồ sơ về những vụ giết người chưa được phá ở Las Vegas, ông biết Smith vô tội trong cái vụ đặc biệt này. "Tôi chưa giết thằng mọi nào bao giờ. Nhưng nó nghĩ ra như thế. Tôi vẫn biết giả sử chúng tôi bị bắt, giả sử Dick phun ra, bao nhiêu ruột gan cho rơi xuống sàn nhà hát tôi biết là thế nào nó cũng đến chuyện thằng mọi." lại nhổ. "Vậy là thằng Dick sợ tôi hả? Buồn cười đấy. Buồn cười quá. Điều nó biết là tôi suýt nữa bắn nó rồi!"

      Dewey châm hai điếu thuốc, cho mình, cho người tù. " về chuyện đó cho chúng tôi nghe , Perry." Smith nhắm mắt lại hút, và giải thích. "Tôi nghĩ đây. Tôi muốn nhớ lại xem đúng ra nó vốn dĩ thế nào." dừng lát. "Ừ, tất cả bắt đầu từ bức thư tôi nhận được khi ở ngoài kia, tại Buhl, Idaho. Tháng Chín hay tháng Mười gì đó. Thư của Dick, nó món hời. Vào cầu lắm. Tôi trả lời, nhưng nó lại viết nữa, giục tôi về Kansas cùng với nó. Nó loại cầu gì. Chỉ là ' món hời ăn chắc'. Giờ chuyện đến thế này tôi quách, tôi có lý do khác nữa để muốn trở lại Kansas cùng thời gian đó. chuyện cá nhân từ lâu mình tôi biết - chẳng dính dáng gì đến cái khác. Nếu như thế tôi trở lại đấy. Nhưng tôi trở lại. Và Dick gặp tôi tại trạm xe buýt ở Kansas City. Chúng tôi lái xe tới trại bố mẹ nó ở. Nhưng họ muốn cho tôi ở đó. Tôi rất nhạy, tôi thường biết được người ta cảm thấy thế nào."

      "Giống ông," ý muốn chỉ Dewey, nhưng nhìn vào ông. "Ông ghét phải đưa tôi thuốc lá. Đó là việc của ông. Tôi trách ông. Tôi cũng trách gì mẹ của Dick. bà ta là người đáng mến lắm. Nhưng bà ta biết tôi là cái gì - thằng mới ở khám ra - nên bà ta muốn tôi ở trong nhà bà ta. Lạy Chúa, được ra ngoài khách sạn sướng quá. Dick đưa tôi đến khách sạn Olathe. Chúng tôi mua ít bia đem lên buồng, và lúc đó Dick mới phứt ra cái nó nghĩ trong đầu. Nó sau khi tôi rời Lansing, nó ở chung xà lim với người từng làm việc cho nhà trồng lúa mì giàu có ở tận miền Tây Kansas, ông Clutter. Dick vẽ sơ đồ nhà Clutter cho tôi xem. Nó biết hết cái gì ở đâu - cửa, sảnh, phòng ngủ. Nó bảo trong các phòng tầng trệt được dùng làm văn phòng và trong văn phòng có cái két - cái két trong tường. Nó bảo ông Clutter cần két vì ông ấy luôn luôn giữ những khoản tiền mặt lớn. bao giờ dưới nghìn đô la. Kế hoạch là ăn cắp cái két, và nếu như chúng tôi bị phát , chà, bất cứ ai phát ra chúng tôi đều phải cho cả. Dick phải đến hàng triệu lần: ' để sót nhân chứng'."

      Dewey , " nghĩ có thể có bao nhiêu nhân chứng? Tôi muốn tính tìm thấy bao nhiêu người ở trong nhà Clutter?"

      "Đó là điều lúc đó tôi muốn biết. Nhưng nó nắm chắc. Ít nhất bốn người. Có thể sáu. Và có thể gia đình lại mời khách nữa. Nó nghĩ chúng tôi nên chuẩn bị đối phó với mười hai người."

      Dewey ừ hữ, Duntz huýt sáo và Smith mỉm cười nhợt nhạt thêm. "Tôi cũng nghĩ thế. Hình như thế hơi khó chơi. Mười hai người. Nhưng Dick bảo đây là cú ăn chắc. Nó , "Chúng ta vào đó và hất tung tóe tóc lên tường phen!" Với tâm trạng tôi lúc đó, tôi cứ để cho mình buông theo. Nhưng tôi cũng - thà mà - tin cậy Dick; nó làm tôi phục nó về đầu óc rất thực tế, kiểu đàn ông cứng rắn và tôi cũng cần tiền như nó. Tôi muốn có tiền rồi Mexico. Nhưng tôi hy vọng có thể làm mà phải dùng đến bạo lực. Tôi thấy nếu như chúng tôi đeo mặt nạ vào chắc là được. Chúng tôi cãi nhau về chuyện này. đường tới đó, tới Holcomb, tôi muốn đứng lại mua ít bít tất dài bằng lụa đen để chụp lên mặt. Nhưng Dick cảm thấy đeo mặt nạ vẫn cứ có thể bị nhận ra. Vì mắt nó kém. Rốt cuộc chúng tôi cũng vào thương xá Emporia..."

      Duntz , "Perry, từ từ. nhảy bỏ quãng rồi. Hãy lùi lại Olathe. Các rời đó lúc nào?"

      " giờ. rưỡi. Chúng tôi rời đúng ngay sau bữa trưa và lái tới thương xá Emporia. Chúng tôi mua ở đấy ít găng tay cao su và cuộn thừng. Dao và súng, đạn - Dick đem tất cả từ nhà nó theo. Nhưng nó lại muốn tìm bít tất dài đen. Thành ra gần như tranh cãi. Ở đâu đó cạnh thương xá Emporia, chúng tôi qua bệnh viện Cơ đốc giáo, tôi thuyết phục nó đỗ lại vào trong đó thử mua của các bà nữ tu vài đôi bít tất dài đen. Tôi biết đám nữ tu sĩ thứ đó. Nhưng nó chỉ vào cho có thôi. Nó ra rồi bảo họ bán. Tôi chắc chắc nó hỏi và nó cũng thú hỏi; nó bảo cái ý đó thối lắm - các nữ tu sĩ có thể bảo nó điên. Thế là chúng tôi dừng lại nữa cho tới Quẹo Lớn. Chúng tôi mua băng dính ở đó. Ăn tối ở đó, bữa tú ụ. Khiến tôi buồn ngủ. Khi tôi thức dậy vừa tới Garden City. Trông y như thị trấn chết cứng rồi ấy. Chúng tôi mua xăng ở trạm xăng..."

      Dewey hỏi liệu có nhớ là trạm nào .

      "Chắc là trạm Philips 66."

      "Lúc đó mấy giờ?"

      "Khoảng nửa đêm, Dick bảo còn cách Holcomb hơn bảy dặm. Suốt đoạn đường còn lại, nó cứ mình, chắc là ở đây, chắc là ở kia - theo những chỉ dẫn mà nó còn nhớ được. Tôi khó nhận ra khi chúng tôi ngang qua Holcomb, nó chỉ là khu định cư bé tí thôi mà. Chúng tôi băng qua đường xe lửa. Thình lình Dick , "Đây rồi, nhất định là đây rồi." Đó là lối vào con đường riêng, cây trồng hai bên. Chúng tôi giảm tốc độ và tắt hết đèn xe. cần đèn. Vì có trăng, trời chẳng có thứ gì hết - sợi mây, chẳng gì cả. Chỉ trăng tròn vành vạnh. Y như giữa ban ngày, và khi chúng tôi bắt đầu vào con đường Dick , 'Nhìn xem cái dinh cơ bề thế kìa! Các nhà kho! Ngôi nhà! Đừng bảo tớ là thằng cha đó có gì chất ở trong nhà đấy nhá.' Nhưng tôi thích cái phi vụ này, cái khí này, kiểu như là nó quá nguy nga vậy. Chúng tôi đỗ xe ở dưới bóng cây. Trong khi chúng tôi ngồi ở đó ánh đèn pin bật lên - phải ở trong tòa nhà chính mà là cái nhà có lẽ ở cách đó trăm mét về tay trái. Dick đó là nhà của người làm thuê, nó biết nhờ các sơ đồ. Nhưng nó cái nhà chết tiệt này lại gần nhà Clutter hơn nó tưởng. Rồi ánh sáng ấy tắt. Ông Dewey ạ, nhân chứng mà ông nhắc đến. Có phải cái người ông muốn đấy - người làm thuê ấy?"

      ". Ông ta nghe thấy gì hết. Nhưng vợ ông ấy phải trông trẻ ốm. Bà ấy bảo nhà kia cứ lịch kịch cả đêm."

      "Trẻ ốm. À, tôi nghĩ ra rồi. Trong khi chúng tôi còn ngồi ở đó, nó lại xảy ra lần nữa - ánh đèn lóe lên rồi tắt. Và cái đó làm tôi khó chịu. Tôi bảo Dick đừng tính cả tôi nữa. Nếu nó quyết cứ làm tới nó làm lấy mình. Nó mở máy xe, chúng tôi rời tôi nghĩ, lạy Chúa, tôi luôn luôn tin ở linh cảm của mình; nó cứu mạng tôi nhiều lần rồi. Nhưng ra được nửa đường Dick dừng xe lại. Nó đau như hoạn. Tôi có thể thấy nó nghĩ gì, Đây, mình dựng nên cú vào cầu lớn đến thế này, đây ta ngần ấy bước này, thế mà thằng ma này lại cáy muốn chuồn. Nó , "Mày nghĩ tao có gan làm chuyện đó mình. Nhưng thề có Chúa, tao cho mày xem thằng nào gan thằng nào ." Có ít rượu mạnh ở trong xe. Chúng tôi mỗi đứa uống ngụm và tôi bảo nó, "O.K, Dick. Tớ với cậu." Thế là quay lại. Đỗ xe ở chỗ lúc nãy. Dưới bóng cái cây. Dick găng tay vào, tôi xong rồi. Nó mang con dao và cái đèn pin. Tôi cầm khẩu súng. Ngôi nhà nom có vẻ ghê gớm trong ánh trăng. Nom trống , tôi nhớ mình hy vọng đừng có ai ở trong đó cả..."

      Dewey hỏi, "Nhưng có thấy con chó?"

      "."

      "Gia đình ấy có chó già sợ súng. Chúng tôi hiểu tại sao nó lại sủa. Trừ phi nó trông thấy khẩu súng mà chạy biệt."

      "À, tôi thấy cái gì hay ai sất. Cho nên tôi mới tin như thế. Về người chứng kiến."

      " phải chứng kiến. Nhân chứng. người mà lời khai gộp được và Hickock vào với vụ án này."

      "Ô, u hu. U hu. ta. Thế mà Dick cứ bảo rằng nó quá sợ rồi đấy. Ha ha!"

      Duntz bị đánh lạc hướng, nhắc lại, "Hickock có con dao. súng. Các vào nhà bằng cách nào?"

      "Cửa khóa. cái cửa bên. Nó dẫn chúng tôi vào văn phòng ông Clutter. Chúng tôi chờ trong bóng tối. Nghe ngóng. Nhưng chỉ có tiếng gió. Có cơn gió thổi bên ngoài. Nó làm cây cối lay động, ta nghe được tiếng lá xào xạc. Cửa sổ duy nhất được che bằng cửa chớp đóng mở bằng dây kéo, nhưng ánh trăng lọt vào. Tôi hạ chớp cửa xuống, và Dick bật đèn pin lên. Chúng tôi thấy cái bàn giấy. Cái két được cho là ở trong tường ngay đằng sau bàn giấy, nhưng chúng tôi tìm thấy. Tường lát ván gỗ, có những bản đồ đóng khung và sách, cái giá tôi để ý thấy cái ống nhòm rất oách. Tôi quyết định lấy nó khi chúng tôi rời khỏi đấy."

      "Có lấy ?" Dewey hỏi vì ai báo mất ống nhòm.

      Smith gật đầu. "Chúng tôi bán nó ở Mexico."

      "Rồi. tiếp ."

      "À, khi chúng tôi tìm ra cái két, Dick bèn tắt đèn pin và chúng tôi trong tối ra khỏi văn phòng qua phòng khách , phòng khách to. Dick thầm bảo tôi khẽ hơn được à. Nhưng nó cũng ầm như thế. Mỗi bước bước lo. Chúng tôi đến gian sảnh và cái cửa rồi, nhớ lại bản sơ đồ, Dick đấy là phòng ngủ. Nó bấm đèn và mở cửa. người đàn ông , 'Cưng hả?' Ông ta ngái ngủ, và ông ta chớp mắt , 'Em đấy phải cưng?' Dick hỏi, 'Ông là ông Clutter?' Giờ ông ta tỉnh hẳn rồi, bèn ngồi dậy . 'Ai đấy? muốn gì?' Dick bảo, rất lịch , tựa như chúng tôi là hai rao hàng tận nhà. 'Chúng tôi muốn chuyện với ông. Trong phòng làm việc của ông, xin mời.' Và ông Clutter, chân , mặc mỗi bộ pijama liền với chúng tôi sang phòng làm việc, chúng tôi bật đèn ở đó lên.

      Cho đến lúc đó, ông vẫn chưa nhìn được chúng tôi lắm. Tôi nghĩ khi nhìn thấy ắt là ông choáng lắm. Dick , 'Bây giờ, thưa ngài, chúng tôi chỉ muốn ngài chỉ cho chúng tôi cái két ngài giữ ở đâu.' Nhưng ông Clutter , 'Két nào?' Ông ta có két nào sất. Ông ta có cái kiểu bộ mặt như thế. Tôi biết ngay bất cứ cái gì ông ta đều là mười mươi cả. Nhưng Dick quát ông ta, 'Đừng dối, đồ chó đẻ! Tôi biết tỏng là ông có cái két.' Cảm tưởng của tôi là chưa ai với ông Clutter như thế bao giờ. Nhưng ông nhìn thẳng vào mặt Dick và bảo nó, rất nhàng - , chà, ông ta rất tiếc nhưng tình là ông có két nào cả. Dick đập đập con dao vào ngực ông ta . 'Chỉ cho bọn tôi chỗ cái két bị rầu hơn đấy.' Nhưng ông Clutter... ồ, ông có thể thấy ông ta sợ như thế nào, nhưng giọng ông vẫn ôn tồn, ông vẫn cứ chối là có két.

      Vào trong đấy được đâu chừng lát tôi thấy cái điện thoại. Cái ở trong văn phòng. Tôi giật đứt dây . Và tôi hỏi ông Clutter có còn cái điện thoại nào trong nhà . Ông ta bảo có cái ở trong bếp. Thế là tôi cầm đèn pin vào trong bếp - từ văn phòng đến đó cũng xa đấy. Khi tìm thấy điện thoại, tôi nhấc ống nghe ra và cắt dây bằng cái kìm. Rồi quay lại, tôi nghe thấy tiếng động. tiếng kẹt ở đầu. Tôi dừng lại ở chân cầu thang lên tầng hai. Tối om, mà tôi lại dám dùng đèn pin. Nhưng tôi biết là có người ở đó. cầu thang, bóng lên nền cửa sổ. hình người. Rồi nó khuất."

      Dewey nghĩ đó chắc là Nancy. cơ sở chiếc đồng hồ vàng nhét vào trong mũi giày để trong tủ con của , ông vẫn lập luận rằng Nancy thức giấc, nghe thấy có người ở trong nhà, nghĩ có thể là kẻ trộm, bèn giấu chiếc đồng hồ, món tài sản quý giá nhất của .

      "Tôi đoán có thể đây là người nào đó có súng. Nhưng Dick chẳng thiết nghe tôi. Nó bận đóng vai thằng lưu manh dữ dằn. Đẩy ông ta khắp. Bây giờ nó điệu ông ta về phòng ngủ. Nó đếm tiền trong ví ông ta. Có khoảng ba chục đô la. Nó vất cái ví lên giường rồi bảo ông Clutter, 'Ông phải có nhiều tiền hơn thế này ở trong nhà chứ. Giàu như ông cơ mà. Sống trong dinh cơ rộng như thế này cơ mà.' Ông Clutter đó là tất cả tiền mặt ông có, giải thích rằng ông luôn luôn chỉ dùng séc thanh toán các món. Ông bảo viết khoản tiền vào séc cho chúng tôi. Dick nổi cáu lên ngay - 'Ông nghĩ chúng tôi là những thằng ngu hay sao hả?' - và tôi nghĩ chắc Dick sẵn sàng đập ông ta rồi nên tôi bèn , 'Dick, nghe tớ. Có ai đó thức ở gác đấy.' Ông Clutter bảo chúng tôi người ở gác chỉ có vợ ông ta, cậu con trai và con . Dick muốn biết liệu vợ ông ta có tiền và ông ta nếu có cũng ít lắm, vài đô la, rồi ông ta đề nghị chúng tôi - đúng là kiểu như suy sụp - xin đừng làm phiền bà ta vì bà ta là người tàn phế bị ốm nặng lâu nay rồi. Nhưng Dick cứ đòi lên gác. Nó bắt ông Clutter dẫn .

      Đến chân cầu thang ông Clutter bật đèn thắp sáng gian sảnh bên và trong khi chúng tôi lên gác ông ta , 'Tôi hiểu tại sao các lại muốn làm như thế. Tôi chưa bao giờ làm hại gì các . Tôi chưa bao giờ biết các .' Dick bèn bảo ông, 'Câm! Khi chúng tao cần mày , chúng tao bảo.' có ai ở trong gian sảnh gác, tất cả các cửa đều đóng. Ông Clutter chỉ hai phòng mà ông nghĩ là con trai với con ông ngủ rồi mở cửa buồng vợ ra. Ông bật đèn bên cạnh giường lên và bảo bà, ' sao cả, cưng. Đừng sợ. Những người này, họ muốn ít tiền.' Bà vợ là phụ nữ yếu ớt, mảnh khảnh mặc bộ váy ngủ dài màu trắng. Ngay khi mở mắt, bà liền khóc. Bà ta bảo chồng. ', em chẳng có tiền đâu.' Ông ta nắm bàn tay vợ, khe khẽ vỗ. 'Thôi nào, đừng khóc, cưng. Chẳng có gì phải sợ mà. đưa những người này tất cả số tiền có. Nhưng họ muốn nhiều hơn thế. Họ tin là chúng ta có cái két sắt ở trong nhà. bảo họ là có.' Dick giơ tay lên, tựa như sắp đánh ngang miệng ông ta. Nó , 'Tao chẳng bảo là câm à?' Bà Clutter , 'Nhưng chồng tôi với các ông của Chúa đấy. có cái két nào đâu.' Và Dick trả lời, 'Tao biết chắc chắn chúng mày có cái két. Tao tìm ra nó trước khi khỏi đây. Đừng có lo là tao tìm thấy.' Rồi nó hỏi bà ta giữ ví tiền ở đâu. Cái ví tiền ở trong ngăn kéo bàn giấy. Dick lật ngược cái ví ra. Chỉ tìm thấy ít tiền lẻ và hai đô la. Tôi ra hiệu bảo nó vào hành lang. Tôi muốn thảo luận về tình hình này. Cho nên chúng tôi ra ngoài và tôi ..."

      Duntz ngắt lời để hỏi ông bà Clutter liệu có nghe được chúng .

      ". Chúng tôi ở ngay bên ngoài cửa cho nên vẫn trông chừng được họ. Nhưng chúng tôi thầm. Tôi bảo Dick, 'Họ đấy. Người dối là thằng Floyd Wells bạn cậu. có cái két nào đâu. Thôi, phới mẹ nó khỏi đây cho rồi.' Nhưng Dick xấu hổ quá dám đối mặt với này. Nó bảo thể tin được họ chừng nào chưa lục khám cả nhà. Nó bảo việc cần làm bây giờ là trói họ lại rồi bỏ giờ tìm. cãi nhau được với nó đâu, nó hăng lắm. Cái vinh quang được định đoạt số phận mọi người, chính cái đó kích động nó. Ừ, có cái buồng tắm ở gần cửa buồng bà Clutter. Ý chúng tôi lúc đó là khóa nhốt họ lại ở trong đó rồi đánh thức bọn con dậy cho vào đó, xong đưa lần lượt từng người ra trói ở những nơi khác nhau trong nhà. Và khi ấy, Dick , khi nào tìm ra cái két rồi chúng ta cắt cổ họ. bắn được đâu, nó - bắn ầm lắm."

      Perry nhăn mặt, xoa xoa đầu gối bằng hai bàn tay bị còng. "Cho tôi nghỉ tí. Vì việc đến đây trở nên hơi rắc rối chút. Tôi nhớ. Phải, phải. Tôi lấy cái ghế tựa ra khỏi gian sảnh đem nhét vào trong buồng tắm. Để cho bà Clutter có thể ngồi được. Vì thấy bà ta là người tàn phế mà. Khi chúng tôi nhốt họ lại, bà Clutter khóc bảo chúng tôi. 'Xin đừng làm cho ai bị làm sao cả. Xin đừng làm gì bọn trẻ.' Chồng bà quàng tay vào bà, đại khái như là, 'Em ơi, những bạn này làm ai bị làm sao cả đâu. Họ chỉ cần lấy tiền thôi mà.'

      Chúng tôi vào phòng thằng con trai. Nó dậy. Nằm đờ như sợ quá động đậy nổi. Dick bảo nó dậy nhưng nó dậy, hoặc là dậy đủ nhanh, thế là Dick đấm nó cái, lôi nó ra khỏi giường, tôi liền , 'Dick, cần phải đánh nó.' Rồi tôi bảo thằng - nó mặc có mỗi cái áo ba lỗ - mặc quần vào. Nó mặc quần jeans màu xanh vào, và chúng tôi vừa nhốt nó vào buồng tắm đứa con ló ra - ra khỏi buồng nó. Nó mặc quần áo đâu ra đó, như dậy được lúc rồi. Nó mang tất dép, mặc kimono, lại còn đeo băng đô tóc. Nó cố mỉm cười. , 'Trời đất, cái gì thế này? Đùa gì thế?' Tuy nhiên tôi cho rằng nó chẳng nghĩ đây là đùa đâu. Đâu có nghĩ thế được sau khi Dick mở cửa buồng tắm xô nó vào..."

      Dewey hình dung ra gia đình Clutter lúc đó: cả nhà bị nhốt giữ, dễ bảo và sợ hãi nhưng chưa hề có linh cảm gì về số phận của mình. Herb thể ngờ, vì nếu ngờ ông chống lại. Ông hiền nhưng khỏe và hèn. Người bạn Alvin Dewey của ông tin chắc chắn rằng ông chiến đấu đến chết để bảo vệ mạng sống của Bonnie và hai đứa con mình.

      "Dick đứng canh ở ngoài buồng tắm trong khi tôi lục lọi. Tôi lần mò trong phòng của đứa con , tìm thấy ví tiền - giống như cái ví của búp bê. Bên trong có đồng đô la bạc. biết sao nó lại rơi ra và lăn qua sàn. Lăn xuống gầm cái ghế. Tôi phải bò bằng đầu gối. Và chính lúc đó tôi còn bình tĩnh nữa. Như là nhìn thấy mình trong bộ phim ngu xuẩn nào. Tôi thấy tởm. Thằng Dick toàn chuyện cái két sắt của nhà giàu sụ trong khi tôi đây bò ẹp bụng để lấy cắp đồng đô la của đứa nhãi. đô la. Mà tôi bò sát bụng xuống để lấy cho được."

      Perry ôm hai đầu gối, hỏi xin aspirin, cảm ơn Duntz cho viên, nhai viên thuốc và lại bắt đầu . "Nhưng tại mình thôi. Lực mình thế nào mình được thế ấy. Tôi cũng lần cả buồng thằng con trai. xen. Nhưng có cái rađiô xách tay ở đó, tôi quyết định lấy nó. Rồi tôi nhớ đến cái ống nhòm nhìn thấy trong phòng làm việc của ông Clutter. Tôi xuống gác để lấy. Tôi mang ống nhòm và cái rađiô ra ngoài xe. Trời lạnh, khí lạnh cùng với gió rất dễ chịu. Trăng sáng đến mức có thể nhìn xa tới hàng dặm được. Và tôi nghĩ: Tại sao mình lại phới nhỉ? bộ lên xa lộ, nhờ chuyến xe. Tôi thề có Giê-su là còn muốn quay về cái nhà đó nữa. Thế nhưng - giải thích làm sao được nhỉ? Cứ như tôi dính gì đến cái chuyện này. Như là tôi đọc quyển sách vậy. Tôi phải biết cái gì sắp xảy tới. Cái kết thúc. Cho nên tôi quay lên gác. Và bây giờ, ừm, đấy là lúc chúng tôi trói họ lại. Ông Clutter trước, chúng tôi gọi ông ấy ra ngoài buồng tắm và tôi trói tay ông lại. Rồi tôi áp giải ông xuống dưới tầng hầm..."

      Dewey , " mình và vũ khí?"

      "Tôi có con dao."

      Dewey , "Nhưng Dick ở lại gác để canh à?"

      "Để giữ cho họ yên. Muốn gì tôi cũng chẳng cần giúp. Tôi cả đời làm việc với dây thừng rồi."

      Dewey , " có dùng đèn pin hay là bật đèn ở tầng hầm lên?"

      "Bật đèn. Tầng hầm chia ra làm hai phần. phần hình như là phòng chơi. Tôi mang ông ấy sang phần kia, phòng sưởi. Tôi thấy có cái thùng các tông to dựa vào tường. Thùng đựng đệm giường. Ừm, tôi thấy cần phải bảo ông ấy nằm sàn nhà lạnh làm gì cho nên tôi kéo cái thùng đựng đệm lại, trải ra cho phẳng và bảo ông ấy nằm lên."

      Người lái xe, qua kính chiếu hậu, liếc đồng nghiệp, bắt được mắt ông và mắt Duntz liền khẽ gật, tựa như góp chuyện. Từ trước tới nay Dewey vẫn lập luận rằng cái thùng đựng đệm được đặt sàn để cho ông Clutter thoải mái dễ chịu, và, để ý tới những cái lặt vặt tương tự, các mẩu vụn vặt của những gì cho thấy có tình thương nực cười và bất thường, Dewey suy đoán rằng ít nhất trong những tên sát nhân đứa phải là hoàn toàn táng tận lương tâm.

      "Tôi trói chân ông ấy rồi buộc vào với tay. Tôi hỏi thít quá , ông ấy bảo , nhưng xin chúng tôi để bà vợ yên. cần phải trói bà ấy - bà ấy chẳng còn kêu la hay cố chạy ra khỏi nhà đâu. Ông ấy bà ấy ốm hàng năm nay, vừa mới khá lên được tí chút, nhưng cái vụ như thế này làm cho bà ấy ốm lại mất. Tôi biết đây chẳng phải chuyện đáng buồn cười gì nhưng tôi thể nhịn được. Ông ta 'ốm lại', thế cơ chứ.

      Sau đó, tôi đưa thằng con trai xuống. Thoạt đầu tôi để nó ở cùng với bố. Trói tay nó vào cái ống dẫn hơi nước nóng đầu. Rồi tôi thấy như thế được chắc lắm. Biết đâu nó gỡ ra được và cởi trói cho ông già, hoặc ngược lại. Cho nên tôi cắt dây hạ nó xuống, đưa nó sang phòng chơi, có cái văng nom chắc chắn. Tôi trói chân nó vào chân văng, trói tay nó lại rồi vòng thừng lên làm cái nút thòng lọng quanh gáy nó, để nếu nó giằng bị thắt lại. lần, trong khi tôi trói, tôi để con dao lên cái - ừm, cái tủ bằng gỗ sồi mới đánh véc ni xong; cả gian hầm sặc mùi véc ni - nó bảo tôi đừng để dao ở đó. Cái tủ là món quà cưới nó tự làm lấy cho người nào đó. người chị, tôi nhớ là nó thế. Ngay lúc tôi ra, nó bị ho nên tôi nhét luôn cái gối xuống dưới đầu nó. Rồi tôi tắt đèn..."

      Dewey , " dán băng miệng ư?"

      ". Dán sau, sau khi tôi trói cả hai người đàn bà ở trong buồng ngủ của họ. Bà Clutter vẫn cứ khóc, đồng thời lại hỏi tôi về Dick. Bà ấy tin nó, nhưng lại cảm thấy tôi là thanh niên tử tế. 'Tôi tin chắc là người tử tế,' bà ấy . Tôi nghĩ điều bà ấy lo trong đầu là con bà ấy. Bản thân tôi cũng lo chuyện đó. Tôi ngờ Dick mưu cái gì, cái gì mà tôi ủng hộ được. Khi tôi trói bà Clutter xong, khá là chắc chắn, tôi thấy nó đưa đứa con về buồng ngủ con bé. Con bé nằm giường, còn nó ngồi ở bên giường chuyện. Tôi ngăn ngay; tôi bảo nó tìm cái két trong khi tôi trói đứa con . Khi nó rồi, tôi trói hai chân con bé lại và quặt hai tay ra đằng sau. Rồi tôi kéo chăn lên, đắp chăn kín cả người con bé chỉ chừa cái đầu ra thôi. Có cái ghế gần giường, tôi nghĩ hay mình nghỉ chút ; hai cẳng chân tôi như có lửa đốt, nãy giờ toàn leo gác rồi quỳ gối nhiều mà. Tôi hỏi Nancy có bạn trai chưa. Nó rồi. Nó cố tỏ thái độ tự nhiên và thân mật. Tôi quả thực mến nó. Nó là hay. con bé rất xinh, lại hư đốn hay gì gì. Nó nhiều về bản thân, về nhà trường, về chuyện nó sắp sửa vào đại học để học nhạc và nghệ thuật. đến ngựa. là sau khiêu vũ cái nó thích nhất là phi ngựa, thế là tôi kể mẹ tôi từng là nhà vô địch trị ngựa bất kham.

      Và chúng tôi về Dick; tôi tò mò muốn xem thằng cha này gì với nó. Hình như con bé hỏi tại sao thằng này lại làm như vậy. Ăn cướp của người ta. Và, hừ, giỏi, thằng ấy còn quẳng ra cho con bé câu chuyện lâm ly ướt át - rằng nó bị nuôi trong viện mồ côi, rằng chẳng có ai thương nó, họ hàng duy nhất là bà chị sống với nhiều người mà chẳng cưới chẳng lấy ai. Trong suốt thời gian chuyện, chúng tôi nghe thấy tiếng dò dẫm mê mụ tìm cái két - khắp quanh quẩn bên dưới. Xem sau các bức tranh. Gõ tường. Cạch cạch cạch. Chẳng khác gì con chim gõ kiến ngu ngốc nào. Khi Dick quay lại, tôi hỏi nó như thằng rồ - là nó có tìm thấy . Dĩ nhiên , nhưng nó ngang qua cái ví nữa ở trong bếp. Với bảy đô la."

      Duntz , "Đến lúc đấy các ở trong ngôi nhà bao lâu rồi?"

      "Có lẽ giờ."

      Duntz , "Và khi nào dán băng miệng?"

      "Ngay khi đó. Bắt đầu từ bà Clutter. Tôi nhờ Dick giúp - vì tôi muốn để nó ở lại mình với . Tôi cắt băng dính ra thành nhiều mảnh dài, và Dick quấn chung quanh đầu bà Clutter như là quấn cái xác ướp ấy. Nó hỏi bà ấy, 'Sao bà cứ khóc hoài vậy? Có ai làm gì bà đâu.' Rồi nó tắt đèn giường và , 'Chúc ngủ ngon, bà Clutter. Ngủ .' Rồi nó bảo tôi, trong khi chúng tôi theo gian sảnh đến buồng Nancy. 'Tớ sắp xơi con bé này.' Tôi liền , 'Ờ. Thế cậu phải giết tớ trước.' Nó nhìn vẻ như tin là nghe thấy đúng như thế. Nó , 'Cậu ngại cái gì? Mẹ kiếp, cậu cũng có thể xơi nó kia mà.' Đó là thứ tôi khinh bỉ. Bất cứ ai kiềm chế được ham muốn xác thịt của mình. Lạy Chúa, tôi ghét mấy cái trò đó. Tôi bảo nó thẳng thừng, 'Để cho nó yên. cậu phải đánh nhau với cái cưa điện đấy.' Nó cáu , nhưng nó hiểu ra là phải lúc thả dàn làm cái việc kia được. Cho nên nó , 'OK, bồ. Nếu cậu thấy nên như thế.' Kết quả là chúng tôi dán băng miệng . Chúng tôi tắt đèn gian sảnh và xuống tầng hầm."

      Perry ngập ngừng. câu muốn hỏi nhưng lại ra thành lời xác nhận: "Tôi đánh cuộc là nó bao giờ tí gì về việc muốn hiếp ."

      Dewey thừa nhận, nhưng ông thêm rằng ngoài lời khai bị cắt bỏ phần nào có liên quan đến hạnh kiểm của bản thân , còn câu chuyện Hickock kể cũng hỗ trợ câu chuyện của Smith. Chi tiết có khác, lời thoại giống nhau, nhưng thực chất - ít nhất cho đến giờ - hai lời thuật ăn khớp với nhau.

      "Có thể. Nhưng tôi biết nó tới . Tôi cược cái sơ mi đây."

      Duntz , "Perry, tôi để ý tới vấn đề ánh đèn. Theo cách tôi tính khi các tắt đèn gác , dưới nhà hoàn toàn tối chứ."

      "Tối. Và chúng tôi bật lại đèn nữa. Trừ đèn pin. Dick cầm theo cái đèn pin khi chúng tôi dán băng miệng miệng ông Clutter và thằng con trai. Ngay trước chúng tôi khi dán ông ấy, ông ấy hỏi tôi - và đấy là những lời ông ấy cuối cùng - muốn biết vợ ông ra sao, bà ấy có ổn , tôi bà ấy ổn, bà ấy sắp ngủ, tôi bảo ông ấy sắp sáng rồi, có người tìm thấy họ thế là rồi tất cả vụ này, tôi và Dick và tất cả, đều cứ như là họ nằm mơ thấy mà thôi. Tôi trêu ông ấy. Tôi muốn hại ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy là người rất hiền lành tử tế. năng nhàng. Tôi nghĩ như thế cho tới lúc tôi cắt cổ ông ấy."

      "Khoan. Tôi sai thứ tự." Perry cau mày. xoa xoa chân, còng kêu lách cách. "Sau đó, xem nào, sau khi dán băng miệng họ rồi, tôi và Dick lại góc nhà. về chuyện ấy. Bây giờ nhớ lại giữa hai chúng tôi có những cảm giác khó chịu. Ngay lúc đó cái làm tôi muốn lộn mửa lên là chuyện tôi từng hâm mộ nó, tin hết lời cái thằng khoác lác ấy. Tôi , 'Này Dick. Có day dứt ?' Nó trả lời tôi. Tôi , 'Để họ sống , thế chẳng ai kết tội nặng cho chúng mình. Quá lắm là mười năm.' Nó vẫn năng gì. Nó cầm con dao. Tôi đòi, nó cho tôi, và tôi , 'Được lắm, Dick. Nào .' Nhưng tôi có ý ấy. Tôi muốn chọc nó, làm cho nó cãi với tôi, làm cho nó phải nhận nó là thằng khoác và thằng hèn. Đó, có chuyện giữa tôi và Dick như vậy đó. Tôi quỳ xuống cạnh ông Clutter, và cái đau khi quỳ khiến tôi nghĩ đến đồng đô la khốn khiếp kia. Đồng đô la bạc. Nhục. Tởm. Mà họ lại bảo tôi đừng có bao giờ quay lại Kansas. Nhưng tôi nhận ra việc mình làm cho tới khi nghe thấy tiếng kêu. Như ai đó chết đuối. kêu thét dưới nước vậy. Tôi đưa dao cho Dick. Tôi , 'Kết liễu lão . Cậu cảm thấy khá hơn.' Dick cố - hay làm bộ thế. Nhưng ông ấy khỏe bằng mười người - giật ra được nửa rồi, tay tuột trói. Dick hoảng. Dick muốn ù té chạy ra ngoài. Nhưng tôi cho nó . Ông ấy đằng nào cũng chết, tôi biết thế, nhưng tôi thể để ông ấy như thế này. Tôi bảo Dick cầm đèn pin, chiếu cho tôi. Rồi tôi nhắm. Gian phòng nổ vang lên. Xanh lè cả. Lòe lửa thế này. Giê-su ơi, tôi bao giờ hiểu được tại sao trong vòng hai mươi dặm mà họ nghe được cơ chứ."

      Tai Dewey đúng lúc này kêu lên o o - tiếng o o gần như che lấp tiếng nhè thào của Smith. Nhưng tiếng cứ đâm sâu mãi, làm bật tóe ra loạt nổ vang như loạt súng những thanh và hình ảnh: Hickock lùng nhặt vỏ đạn; hối hả, hối hả và đầu của Kenyon ở trong vòng tròn sáng, tiếng van xin thầm, nghèn nghẹn, rồi khi viên đạn nữa được dùng, Hickock lại lập cập bò theo tìm vỏ đạn; phòng của Nancy, Nancy nghe tiếng ủng những bậc thang bằng gỗ cứng, tiếng bậc thang cót két khi chúng leo lên chỗ , đôi mắt của Nancy, Nancy nhìn cái ánh đèn pin chiếu tìm mục tiêu (" , 'Ôi, ! Ôi, xin đừng! ! ! ! ! Đừng! Ôi, xin đừng! Làm ơn!' Tôi đưa súng cho Dick. Tôi bảo nó tôi làm hết sức rồi. Nó nhắm, bé quay mặt vào tường"); gian sảnh tối, bọn giết người vội vàng đến cái cửa cuối cùng.

      Có lẽ Bonnie nghe thấy tất cả rồi, bà mong chúng đến mau mau.

      "Vỏ đạn cuối cùng khó tìm thấy như ma. Dick rúc vào gầm giường để lấy nó. Rồi chúng tôi đóng cửa buồng bà Clutter lại và xuống phòng làm việc. Chúng tôi chờ ở đó, như khi chúng tôi mới đến. Nhìn qua cửa chớp xem người làm thuê có thăm dò gì quanh đấy , hoặc liệu có ai nghe thấy tiếng súng . Nhưng vẫn như cũ - tiếng động. Chỉ có gió - và Dick hổn ha hổn hển như có cả đàn sói đuổi sau nó. Ngay ở đó, trong vài tích tắc trước khi chúng tôi chạy ra xe phóng , chính lúc đó tôi quyết định tốt hơn cả là bắn Dick. Nó cứ lại mãi, như đánh trống vào tai tôi: để lại nhân chứng. Và tôi nghĩ, Nó chính là nhân chứng đây. Tôi hiểu cái gì ngăn tôi. Chúa biết lẽ ra tôi làm thế. Bắn chết nó. Lên xe và cứ thế cho tới khi mất tăm ở Mexico."

      Im lặng. Suốt hơn mười dặm đường, ba người lời.

      Buồn và mệt mỏi ghê gớm là cốt lõi lặng thinh của Dewey. Biết "chính xác cái gì xảy ra đêm hôm đó trong ngôi nhà ấy" là tham vọng của ông. Bây giờ ông nghe kể những hai lần, hai lần kể đều giống nhau, điều thống nhất quan trọng duy nhất là Hickock gán tất cả bốn lần giết cho mình Perry, trong khi Smith khẳng định Hickock giết hai người đàn bà. Nhưng những lời thú tội, tuy trả lời được câu hỏi về chuyện tại sao và như thế nào rồi, vẫn thỏa mãn được cảm quan của ông về ý đồ có ý nghĩa. Vụ án là cố tâm lý, gần như hành vi bâng quơ vô cảm; cũng bằng như các nạn nhân bị sét đánh chết. Trừ điều: họ phải trải qua nỗi kinh hoàng kéo dài, họ đau khổ. Và Dewey thể nào tha thứ được cho những đau khổ như thế của họ. Tuy vậy ông lại có thể nhìn vào cái con người ngồi cạnh mình đây mà giận dữ - đúng hơn với chút thiện cảm nào đấy - vì cuộc đời của Perry Smith cũng chẳng phải là cái giường trải đầy hoa hồng mà là đáng thương, tiến lên độc và xấu xí, hết ảo ảnh này sang ảo ảnh khác. Nhưng cảm tình của Dewey đủ sâu sắc để chấp nhận tha thứ hay tình thương. Ông hy vọng thấy Perry và Dick bị treo cổ - hai đứa treo lưng áp vào lưng.

      Duntz hỏi Smith, "Cộng hết lại, các lấy được bao nhiêu tiền ở nhà Clutter?"

      "Khoảng bốn năm chục đô la."

      ° ° °

      Trong các con vật ở Garden City có hai con mèo đực màu xám luôn bên nhau - những con mèo hoang bẩn thỉu, gầy gò với những thói quen kỳ quặc và thông minh. Lễ hội chính trong ngày của chúng được tiến hành vào lúc tranh tối tranh sáng. Trước tiên chúng chạy suốt dọc Phố Chính, dừng lại xem xét những tấm lưới mắt cáo che động cơ của các xe hơi đỗ, đặc biệt là những xe dừng ở trước hai khách sạn Windsor và Warren, vì các xe này thường là của những khách du lịch phương xa, thường mang lại món mà các con vật xương xẩu và theo nề nếp này vẫn săn lùng: chim chóc bị giết hại - lũ quạ, chích chòe và chim sẻ đủ điên rồ để bay vào luồng xe tới. Dùng móng của mình như dụng cụ giải phẫu, lũ mèo moi ra từ các tấm lưới mắt cáo từng mảnh vụn có lông đó. hết Phố Chính, thể nào chúng cũng rẽ ở góc giữa Phố Chính và Phố Grant, đoạn nhẩn nha xuống tới Quảng trường Tòa án, vùng đất săn mồi khác nữa của chúng - và là vùng đất săn mồi nhiều hứa hẹn vào cái buổi chiều thứ Tư ngày mồng 6 tháng Giêng này, vì ở đây chen chúc bên nhau những chiếc xe của hạt Finney đưa đến thị trấn phần cái đám đông đầy chật tại quảng trường.

      Đám đông bắt đầu hình thành vào lúc bốn giờ, lúc mà ông chưởng lý hạt cho hay là có thể giải Smith và Hickock đến. Từ lúc công bố lời thú tội của Hickock vào tối Chủ nhật, nhà báo đủ loại tụ tập ở Garden City: đại diện của các hãng tin lớn, nhiếp ảnh viên, nhà quay phim thời và truyền hình, phóng viên ở Missouri, Nebraska, Oklahoma, Texas và dĩ nhiên tất cả các tờ báo chính của bang Kansas - xấp xỉ hai mươi hăm lăm người. Nhiều người phải chờ ba ngày ở đây chẳng có gì để mà làm, trừ phỏng vấn người trợ lý của trạm xăng, James Spor, này, sau khi xem ảnh hai sát nhân bị buộc tội đăng báo, nhận ra chúng là những người bán cho ba đô la sáu xu xăng vào cái đêm xảy ra tấn thảm kịch ở Holcomb.

      Những khán giả chuyên nghiệp này xăn tay sửa soạn tường thuật chính cái việc Hickock và Smith trở lại đây, và Đại úy Gerald Murray của Đội Tuần tra Xa lộ, dành cho họ khoảng gian rộng rãi ở hè đường đối diện các bậc tam cấp của tòa án - những bậc mà hai gã tù phải leo lên con đường tới nhà tù hạt, cơ quan chiếm hết tầng cùng của tòa kiến trúc năm tầng bằng đá vôi. phóng viên, Richard Parr của tờ Ngôi sao thuộc Kansas City, tờ Mặt trời của Las Vegas ra ngày thứ Hai. Đầu đề bài báo làm dậy lên những tràng cười phá: E ĐÁM ĐÔNG MUỐN HÀNH HÌNH KIỂU LYNCH CHỜ NGHI PHẠM SÁT NHÂN QUAY VỀ. Đại úy Murray nhận xét, "Xem ra có vẻ là cuộc hành hình kiểu lynch cho lắm đâu."

      Đúng vậy, đám đông quảng trường cũng có thể là chờ đón cuộc duyệt binh hay dự cuộc mít tinh chính trị. Học sinh cấp III, trong đó có những bạn cùng lớp của Nancy và Kenyon Clutter, đều giọng hát những bài ca cổ vũ, thổi bong bóng kẹo cao su, nốc xúc xích luộc và xô đa chai. Các bà mẹ dỗ trẻ còn ẵm ngửa. Các ông hiên ngang tới lui với trẻ con vắt vẻo vai. Hướng đạo sinh có mặt - cả đội. Và các thành viên trung niên của câu lạc bộ chơi bài bridge phụ nữ kéo đến hàng đoàn. Ông J. P. (Jap) Adams, phụ trách Văn phòng Ủy ban Cựu chiến binh Địa phương xuất , đóng bộ bằng hàng tuýt may rất kỳ cục đến nỗi mỗi người bạn phải gọi to lên, "Ê, Jap! Sao lại mặc quần áo các bà thế?" - là vì, trong lúc vội ra trường, ông Adams vô tình mặc phải áo của thư ký. phóng viên đài phát thanh lưu động phỏng vấn vặt những người thị trấn khác, hỏi theo ý họ án xử thích hợp đối với "những kẻ gây ra cái vụ đê hèn đó" nên là thế nào, và trong khi phần lớn những người được hỏi à học sinh đáp, "Tôi nghĩ chúng nên bị nhốt hết đời trong cùng xà lim với nhau. cho ai thăm nuôi gì hết. Cứ ngồi đấy nhìn nhau cho tới ngày chúng chết." Và người nhắn, cứng rắn, dáng khệnh khạng , "Tôi tin ở án tử hình. Cái đó giống như trong Kinh Thánh đấy - mắt trả mắt. Và dù có vậy chúng ta vẫn còn thiếu cặp cách nào trả được!"

      Chừng nào còn mặt trời, ngày còn khô và nóng, thời tiết tháng Mười giữa lúc đương tháng Giêng. Nhưng khi mặt trời lặn, khi những bóng cây khổng lồ của quảng trường gặp và hòa lẫn vào nhau cái lạnh cũng như bóng tối làm cho đám đông tê cứng lại. Tê cứng và tỉa bớt họ ; vào khoảng sáu giờ còn lại chưa tới ba trăm người. Các nhà báo giậm giậm chân, vỗ vỗ những cái tai lạnh cứng bằng những bàn tay găng buốt dại. Thình lình, ở phía Nam quảng trường tiếng rì rầm nổi lên. Xe tới.

      Tuy có nhà báo nào dự đoán xảy ra bạo lực, nhiều người cũng báo trước có những lời hò hét chửi rủa. Nhưng khi đám đông nhìn thấy mặt những kẻ giết người, với cảnh sát tuần tra xa lộ mặc áo lam kèm bên, chợt lặng ngắt hết, tựa như kinh ngạc thấy chúng lại mang hình dáng con người. Những người bị còng tay, mặt trắng nhợt, mắt nhấp nháy mù mờ, loang loáng lên trong ánh flash máy ảnh và ánh đèn pha. Các nhà quay phim đuổi theo hai người tù và cảnh sát vào trong tòa án rồi lên ba tầng bậc thang, chụp ảnh cánh cửa nhà tù hạt đóng lại đánh sầm.

      ai nấn ná lại, cả nhà báo lẫn người thị trấn. Những gian phòng ấm cúng, những bữa tối nóng sốt vẫy gọi họ, và trong khi họ hấp tấp ra , nhường quảng trường giá lạnh lại cho hai con mèo xám cái mùa thu kỳ lạ cũng ra nốt; đợt tuyết đầu mùa trong năm bắt đầu rơi.

      --------------------------------

      1 Có nghĩa là vui.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PHẦN 4

      Cái Xó

      Vẻ trang nghiêm nhà nước và nét gia đình xởi lởi cùng tồn tại tầng năm của Tòa án hạt Finney. Trại giam của hạt ở đây cho ra chất lượng hàng đầu, còn Dinh Cảnh sát trưởng, tòa nhà trông thích mắt nằm tách biệt với nhà tù bởi những cánh cổng sắt và hành lang ngắn cho chất lượng thứ nhì.

      Tháng Giêng năm 1960, người cư ngụ trong Dinh Cảnh sát trưởng thực tế lại phải cảnh sát trưởng, Earl Robinson, mà là phó cảnh sát trưởng cùng vợ, Wendle và Josephine ("Josie") Meier. Vợ chồng Meier lấy nhau hơn hai chục năm, rất giống nhau: vóc người cao lớn, dư thừa cân nặng và sức lực, bàn tay rộng bè, khuôn mặt hiền lành, vuông vức và bình tĩnh - điều sau này đúng với bà Meier hơn, phụ nữ trực tính và thực tế tuy vậy hình như lại được niềm thanh thoát bí nào đó thắp sáng ở bên trong. Với tư cách bạn đời của phó cảnh sát trưởng giờ giấc của bà rất là dài; giữa khoảng từ năm giờ sáng, khi bà bắt đầu ngày bằng việc đọc chương Kinh Thánh cho đến mười giờ tối, giờ ngủ, bà nấu ăn, khâu vá cho tù, mạng, giặt giũ quần áo cho tù, chăm sóc ông chồng hết mức, và dọn dẹp căn hộ năm phòng đầy những cái đệm tú ụ xen lẫn với những cái ghế xếp cùng những tấm rèm cửa sổ bằng đăng ten màu kem. Nhà Meier có con , con , lấy chồng và sống ở Kansas City cho nên hai vợ chồng sống mình hoặc, như bà Meier sửa lại cách chính xác, " mình, trừ phi có ai vào ngồi ở trong xà lim phụ nữ."

      Trại giam có sáu buồng: buồng thứ sáu dành cho nữ tù, thực tế là đơn vị riêng biệt nằm ở trong Dinh Cảnh sát trưởng - thực tế là nó áp sát với bếp nhà Meier. "Nhưng," bà Josie Meir " hề gì với tôi. Tôi lại thích có người ở bên. Có người để mà trò chuyện trong khi làm bếp. Hầu hết các bà các ở đấy, mình rồi cũng đến lúc thấy tiếc cho họ. Dĩ nhiên Hickock và Smith khác. Như tôi biết đến nay Perry Smith là người đàn ông đầu tiên đến ở trong xà lim nữ tù. Lý do là họ muốn giữ và Hickock cách ly nhau cho tới khi xét xử. Buổi chiều họ đưa tới, tôi làm sáu cái bánh táo, nướng mấy ổ bánh mì và suốt thời gian đó cứ theo dõi mọi diễn ra quảng trường dưới kia. Cửa sổ bếp tôi mở nhìn xuống quảng trường, đâu ông có thể nhìn được hơn đấy. Tôi đánh giá được lượng đám đông nhưng tôi đồ phải đến mấy trăm con người chờ xem những đứa giết cả nhà Clutter. Bản thân tôi chưa gặp người nào của nhà này, nhưng nghe chuyện về họ họ chắc phải là người tử tế lắm. Việc xảy ra với họ khó lòng mà tha thứ được, tôi biết nhà tôi lo đám đông có thể làm gì khi trông thấy mặt mấy tên kia. Ông ấy sợ có ai đó lại có sức len vào chỗ chúng. Cho nên tôi hết cả hồn vía khi thấy xe hơi đến, thấy các phóng viên, cả đám nhà báo vừa chạy vừa xô đẩy, nhưng lúc đó tối, quá sáu giờ, rét căm căm - quá nửa đám đông chịu thua mà bỏ về nhà. Những ai còn lại chẳng la ó gì đâu. Chỉ xem thôi.

      Sau đó, khi họ đưa đám kia lên gác rồi, người đầu tiên tôi trông thấy là Hickock. mặc quần mỏng và chỉ có cái sơ mi vải cũ kỹ. ngạc nhiên là sao lại bị viêm phổi, trời lạnh thế kia. Nhưng nom ốm đau ra mặt. Nhợt như con ma. Chà, phải trải qua điều kinh khủng còn gì - bị cả đám người lạ mặt nhìn ngó, phải lẫn vào trong người ta, mà người ta lại biết mình là ai, mình làm gì. Rồi họ đưa Smith lên. Tôi chuẩn bị bữa tối sẵn sàng cho họ ăn trong xà lim rồi, xúp nóng, cà phê và bánh kẹp thịt, bánh táo. Bình thường chúng tôi cho ăn đúng có hai bữa ngày. Điểm tâm lúc bảy rưỡi, bốn rưỡi chiều bữa chính. Nhưng tôi muốn những tay này ngủ bụng lép kẹp; có chuyện đó hình như họ cũng kiệt quệ lắm rồi. Nhưng khi tôi đem bữa tối lên cho Smith, lại bảo đói. nhìn qua cửa sổ xà lim nữ. Đứng quay lưng vào tôi. Cửa sổ ấy nhìn ra cũng quang cảnh như nhìn từ cửa sổ bếp nhà tôi: cây cối, quảng trường và các mái nhà. Tôi bảo , 'Hãy ăn lấy ít xúp, nấu với rau mà, phải đồ hộp đâu. Tôi nấu đấy. Cả bánh táo cũng vậy.' Khoảng giờ sau, tôi trở lại khay chẳng đụng đến tí tẹo nào. Vẫn đứng bên cửa sổ. Từ ban nãy tới giờ. Trời tuyết và tôi nhớ là tuyết đầu mùa đấy, mãi mới đây thôi ta hãy còn có mùa thu đẹp dài. Và giờ tuyết đến. Rồi tôi hỏi có món nào thích ăn ; nếu thích hôm sau tôi làm cho . quay lại nhìn tôi. Ngờ vực, tuồng như tôi giễu bằng. Rồi gì đến bộ phim - có cái lối nhàng, gần như thào vậy. Muốn biết tôi xem bộ phim chưa. Tôi quên tên nhưng đằng nào tôi cũng chưa xem: thích xi nê lắm. bộ phim ấy kể chuyện thời Kinh Thánh, trong đó có cảnh người đàn ông bị ném từ ban công xuống, quẳng cho đám đàn ông đàn bà xé ta ra từng mảnh. khi thấy đám đông quảng trường nhớ lại chuyện đó. Người đàn ông bị xé ra từng mảnh. Và cái ý nghĩ là họ có thể làm như thế với . sợ đến nỗi bụng bây giờ vẫn còn đau, cho nên ăn được. Dĩ nhiên sai, tôi bảo như vậy - ai định hành hạ đâu, bất kể làm cái gì; người ở quanh đây giống như ở trong phim.

      Chúng tôi chuyện qua loa, rất ngượng nghịu, nhưng lúc sau , 'Có thứ tôi thích là cơm Tây Ban Nha.' Thế là tôi hứa làm cho ít và cười, kiểu như là cười, và tôi dám chắc rằng phải là người xấu xa nhất mà tôi từng gặp. Đêm đó, khi ngủ, tôi như thế với nhà tôi. Nhưng Wendle cười hô hố. Nhà tôi là trong những người đầu tiên có mặt ở trường sau khi phát ra vụ án mạng. Ông ấy giá mà tôi có ở đấy lúc họ tìm thấy mấy cái xác nhà Clutter. Chừng đó có thể tôi tự đánh giá lấy là ông Smith nhàng lịch thiệp như thế nào. ta và bạn , Hickock ấy. Nhà tôi bọn có thể moi cả tim của bà ra mà hề chớp mắt tí nào đâu. Cái ấy chẳng phủ nhận được rồi - làm sao phủ nhận được, bốn người bị chết cơ mà. Và tôi nằm đó trằn trọc, nghĩ liệu có đứa nào trong bọn day dứt về việc đó nhỉ - khi họ nghĩ đến bốn nấm mồ ấy."

      ° ° °

      tháng trôi qua, và tháng nữa, gần như ngày nào cũng có tuyết rơi vào lúc nào đó. Tuyết phủ trắng xóa cánh đồng lúa mì hung hung đỏ, chất đống đường phố và làm cho chúng im lìm.

      Những cành cao nhất của cây du nặng trĩu tuyết quệt vào cửa sổ xà lim nữ. Sóc sống ở cây du này, và sau nhiều tuần mua chuộc chúng bằng những thứ thừa của bữa điểm tâm, Perry dụ được con ra khỏi cành cây mà lên bậu cửa sổ, vào lọt qua chấn song. Đó là con sóc đực có bộ lông màu nâu pha chút tim tím. Perry gọi nó là Đỏ, và Đỏ mau chóng an cư, ràng bằng lòng chia sẻ cảnh bị giam cầm với người bạn. Perry dạy nó nhiều trò: chơi với quả bóng bằng giấy vo tròn, đứng hai chân sau xin ăn, vắt vẻo vai Perry. Tất cả những cái đó giúp qua ngày, nhưng vẫn còn nhiều giờ dài dằng dặc người tù cần phải cho tiêu . được phép đọc báo còn những tạp chí bà Meier cho mượn, những tờ cũ rích, Làm nội trợ tốt và McCall's ngán. Nhưng tìm ra việc để làm: giũa móng tay bằng miếng giấy ráp, đánh móng tay thành màu hồng bóng có ánh bạc; chải chải lại bộ tóc rảy nước hoa thơm lừng; đánh răng ba bốn lần ngày; cạo râu và tắm vòi sen gần như thường xuyên. giữ cho căn xà lim - gồm góc vệ sinh, chỗ tắm vòi sen, cái giường nho , cái ghế, cái bàn cũng sạch gọn gàng như người . tự hào về câu bà Meier khen . "Xem này!" bà , tay chỉ vào giường ngủ của . "Xem cái chăn này! có thể đánh đáo được đấy." Nhưng phần lớn những lúc thức toàn ngồi ở bàn; ăn ở đó, chính ở đó ngồi ký họa bức chân dung con Đỏ, vẽ những bông hoa, mặt Giê-su và mặt, thân những người đàn bà tưởng tượng; và chính ở đó, những tờ giấy kẻ ngang rẻ tiền, ghi, như ghi nhật ký, những việc xảy ra hằng ngày.

      Thứ Năm, mồng 7 tháng Giêng. Dewey ở đây. Mang tút thuốc lá đến. Cả những bản sao đánh máy lời khai của tôi để cho tôi ký. Tôi từ chối.

      "Lời khai," tài liệu bảy mươi tám trang mà đọc cho nhân viên tốc ký của Tòa án hạt Finney ghi, thuật lại những lời tự thú của với Alwin Dewey và Clarence Duntz. về việc gặp Perry Smith vào cái ngày đặc biệt ấy, Dewey nhớ lại rằng ông rất ngạc nhiên thấy Perry từ chối ký vào lời khai. "Cái đó quan trọng: tôi vẫn có thể chứng thực với tòa về lời thú tội bằng miệng của với Duntz và tôi. Dĩ nhiên Hickock cho chúng tôi bản thú tội có ký tên khi chúng tôi còn ở Las Vegas - bản khai trong đó lên án Smith giết cả bốn người. Nhưng tôi thắc mắc. Tôi hỏi Perry tại sao lại đổi ý. , 'Mọi điều trong lời khai của tôi đều chính xác, trừ hai chi tiết. Nếu ông cho tôi chữa lại hai chỗ đó tôi ký.' Được, tôi có thể đoán được hai chỗ mà . Vì chỗ khác nhau nghiêm trọng giữa lời khai của và của Hickock là phủ nhận chuyện mình hạ sát cả nhà Clutter. Cho tới nay vẫn thề rằng Hickock giết Nancy và mẹ .

      Và tôi đoán đúng - muốn sửa chính là sửa chỗ đó: thừa nhận rằng Hickock , Perry Smith, chính là kẻ bắn và giết cả nhà Clutter. bảo dối chuyện đó là vì, theo lời , 'Tôi muốn trả đũa Dick vì nó là đứa nhát gan đến thế. Nôn tóe hết ruột gan lên cái sàn nhà khốn khiếp.' Còn lý do để bây giờ quyết định chữa lại cho đúng lời khai phải là vì thình lình cảm thấy tử tế với Dick hơn. làm thế là vì cái tình của đối với bố mẹ Dick - buồn cho mẹ Dick. bảo 'Bà ấy thực là người hiền hậu dịu dàng. Bà ấy dễ chịu hơn nếu biết Dick hề bóp cò súng. toàn bộ vụ này xảy ra, theo nghĩa nào đó phần lớn là lỗi của nhưng vẫn cứ là chính tôi giết họ.' Nhưng tôi chắc là mình lại tin điều này. tin đến độ cho sửa lời khai. Như tôi , chúng ta thể chỉ lệ thuộc vào lời khai chính thức của Smith để chứng minh cho bất cứ phần nào của vụ án này. Có hay có lời khai ấy, những gì chúng tôi có trong tay cũng đủ cho hai đứa nó bị treo cổ mười lần rồi."

      Việc thu hồi cái rađiô và cặp ống nhòm mà hai kẻ giết người ăn cắp ở nhà Clutter sau đó đem cầm ở Mexico City (ở đó, nhân viên K.B.I là Harold Nye, bay đến chỉ nhằm mục đích này, dò ra được chúng tại hiệu cầm đồ) là hai trong các yếu tố góp phần vào niềm tin của Dewey. Hơn nữa, trong khi đọc lời khai cho người ta tốc ký, Smith để lộ ra về các bằng chứng có hiệu lực khác. "Chúng tôi lên xa lộ và về phía Tây," , trong quá trình tả lại những việc Hickock và làm sau khi tẩu thoát khỏi nơi diễn ra vụ án. "Lái xe như điên, Dick lái. Tôi nghĩ cả hai đứa lúc đó đều rất bốc. Tôi bốc. Cực bốc. Mà đồng thời cũng rất thư thái. Cười hoài mãi thôi, cả hai thằng; thình lình mọi chuyện xem ra lại rất vui - tôi chẳng hiểu tại sao, vui là vui thế thôi. Nhưng khẩu súng rỏ máu, áo quần tôi vấy máu, có cả máu tóc tôi. Cho nên chúng tôi quẹo vào con đường quê, lái chừng trăm dặm cho đến khi ra đến đồng cỏ. Có thể nghe thấy tiếng chồn hoang. Chúng tôi hút thuốc, và Dick pha trò về mấy chuyện xảy ra ở chỗ kia. Tôi xuống xe, bơm ít nước ở trong phuy nước ra để rửa sạch máu nòng súng. Rồi tôi đào cái hố ở dưới đất bằng con dao săn của Dick, con dao tôi dùng với ông Clutter, rồi chôn mấy vỏ đạn rỗng vào trong đó cùng với chỗ băng dính và dây ni lông còn lại. Sau đó chúng tôi lái đến quốc lộ 83, về phía Đông tới Kansas City và Olathe. Khoảng rạng sáng Dick dừng lại ở nơi dành cho người ta picnic: cái mà họ gọi là chỗ nghỉ ngơi - ở đó có chỗ cho mình đốt lửa. Chúng tôi gầy đống lửa rồi đốt các thứ. Mấy đôi găng tay và áo sơ mi của tôi. Dick ước gì có con bò để quay ăn, chưa bao giờ đói thế này. Chúng tôi đến Olathe trời gần trưa. Dick thả tôi xuống khách sạn rồi về nhà ăn bữa tối với gia đình. Vâng, mang con dao theo. Cả khẩu súng nữa."

      Các nhân viên K.B.I. được tung đến nhà Hickock tìm thấy con dao trong hộp đựng đồ nghề câu cá còn khẩu súng săn vẫn dựa thoải mái lên tường bếp. (Bố Hickock, ông chịu tin rằng "thằng bé" nhà ông lại dính vào "vụ giết người khủng khiếp" như thế, nhấn mạnh rằng khẩu súng chưa từng ra khỏi nhà từ tuần đầu tháng Mười , do đó thể là vũ khí gây án), về các vỏ đạn rỗng, dây thừng và băng dán đều lấy lại được nhờ giúp đỡ của Virgil Pietz, nhân viên của sở Giao thông Công chánh hạt, tại khu vực mà Perry Smith chỉ ra này dùng máy san đường chuyên dụng để rà cạo mặt đất từng ly cho tới khi moi ra được các món bị chôn vùi kia. Vậy là tấm lưới hoàn toàn khép kín; nay K.B.I. thu thập được bằng chứng về vụ án như ban ngày, vì các xét nghiệm xác định rằng vỏ đạn đều được bắn ra từ khẩu súng săn của Hickock, chỗ dây thừng và băng dính là cùng gốc với vật liệu dùng để trói và làm im miệng các nạn nhân.

      Thứ Hai, 11 tháng Giêng. Có luật sư. Ông Fleming. Ông già thắt cà vạt đỏ.

      Được các bị cáo cho hay họ có tiền thuê luật sư theo luật định cho nên tòa án, do Thẩm phán Roland H. Tate làm đại diện, chỉ định hai luật sư sở tại, ông Arthur Fleming và ông Harrison Smith bào chữa cho hai gã. Fleming bảy mươi mốt tuổi, nguyên thị trưởng Garden City, người thấp lùn đeo những cái cà vạt khá lạ mắt làm cho bề ngoài vô vị của ông trở nên sinh động hẳn lên, cưỡng lại việc chỉ định này. "Tôi muốn cãi cho tụi đó," ông với thẩm phán. "Nhưng nếu tòa thấy tôi hợp với việc đó dĩ nhiên tôi còn lựa chọn nào." Luật sư đại diện cho Hickock, Harrison Smith, bốn mươi lăm, cao thước tám, chơi golf, nhận nhiệm vụ với thái độ cam chịu: "Đằng nào cũng phải có người làm việc đó, tôi cố hết sức mình. Nhưng tôi e việc này khiến cho dân quanh đây chẳng ưa gì tôi đâu."

      Thứ Sáu, 15 tháng Giêng. Bà Meier chơi piano trong bếp nhà bà và tôi nghe chưởng lý của hạt cố vận động án tử hình. "Người giàu với người giàu. Thằng nghèo cứ thằng nghèo mà chơi."

      Khi trả lời báo giới, chưởng lý của hạt, Duane West, thanh niên hai tám tuổi nhưng nom như bốn mấy hay thậm chí ngoài năm chục, đẫy đà và tham vọng, , "Nếu đưa vụ án ra trước bồi thẩm đoàn mà tìm ra được chúng là thủ phạm, tôi cầu tuyên án tử hình. Nếu bên bị khước từ thẳng bồi thẩm đoàn mà tự thú nhận mình có tội trước chánh án, tôi cầu chánh án ban phán quyết tử hình. Đây là vấn đề mà tôi biết mình có nghĩa vụ quyết định, và tôi hề khinh suất khi quyết định. Tôi cảm thấy, xét tính chất tàn bạo của vụ án và độc ác hoàn toàn có chút lòng nhân, cho các bị cáo này hưởng án tử hình chính là cách duy nhất để bảo vệ dân chúng cách trọn vẹn, tuyệt đối. Điều này đặc biệt đúng vì ở Kansas những kẻ nào có khả năng giữ lời hứa tái phạm có tư cách hưởng cái món tù chung thân. Những người bị kết án tù chung thân thực tế thảy đều chịu án bình quân chưa tới mười lăm năm."

      Thứ Tư, 20 tháng Giêng. Được cầu giám định qua máy dò dối liên quan đến cái vụ Walker.

      vụ án như vụ Clutter, tội ác ở tầm cỡ to lớn như thế, khơi dậy quan tâm của giới pháp luật ở khắp mọi nơi, đặc biệt là các điều tra viên từng gánh vác các vụ án tương tự mà chưa được phá, bởi vì luôn có khả năng là giải được bí mật cũng giải luôn được bí mật khác. Trong số nhiều sĩ quan thắc mắc về các kiện ở Garden City có cảnh sát trưởng của hạt Sarasota, Florida, Osprey thuộc hạt này, cơ ngơi đánh cá xa Tampa, nơi mà cảnh bốn người ở trại chăn nuôi hẻo lánh bị tàn sát được Smith đọc thấy tờ báo của Miami vào ngày lễ Nôen, sau tấn thảm kịch nhà Clutter hơn tháng chút ít. Các nạn nhân cũng lại là bốn thành viên của gia đình: cặp vợ chồng trẻ, ông bà Clifford Walker cùng hai đứa con, trai , tất cả đều bị bắn vào đầu bằng súng. Mặc dù vào đêm 19 tháng Mười hai năm ấy hai tên giết nhà Clutter qua đêm ở khách sạn Tallahassee, song do có bất kỳ đầu mối nào nên cũng dễ hiểu là cảnh sát trưởng Osprey đành phải thẩm vấn hai gã và cho tiến hành kiểm tra bằng máy dò dối. Hickock bằng lòng cho kiểm tra và Smith cũng vậy, Smith bảo nhà chức trách ở Kansas, "Lúc đấy tôi để ý và bảo Dick, tớ đánh cuộc là cái làm trò này chắc hẳn đọc báo về chuyện Kansas. Đúng là đồ ngu." Kết quả kiểm tra là phủ định hoàn toàn, này làm nhụt chí cảnh sát trưởng Osprey cũng như Al Dewey, người vốn tin vào những trùng hợp đặc biệt. Kẻ giết gia đình Walker cho đến nay vẫn thể biết là ai.

      Chủ nhật, 31 tháng Giêng. Bố Dick ở đây thăm nom Dick. Chào khi thấy ông qua [cửa xà lim] nhưng ông cứ . Có thể ông nghe thấy tôi. Qua bà [Meier] biết rằng bà [Hickock] đến vì bà thấy khổ quá. Tuyết rơi giống như con nhà thổ. Đêm qua mơ thấy lên Alaska với bố - tỉnh dậy trong vũng nước đái lạnh ngắt.

      Ông Hickock ở lại ba tiếng với con trai. Sau đó ông băng qua tuyết bộ thẳng đến ga Garden City, ông già mòn mỏi vì làm lụng, gù còng xuống và gầy quắt lại vì bệnh ung thư giết ông trong vài tháng nữa. Ở ga, trong khi chờ chuyến tàu hồi hương, ông với phóng viên: "Ừ tôi gặp Dick. Hai bố con chuyện nhiều. Và tôi có thể bảo đảm với ông là chuyện như thiên hạ đâu. Hay như là đem bày lên mặt báo, chả có gì giống như vậy hết. Mấy đứa này đến cái nhà đó với ý định làm càn. Con trai tôi . Nó có thể có vài ba mặt xấu nhưng thể nào tồi tệ đến thế cả. Smitty mới là đứa như thế. Dick bảo là khi Smitty đánh người đó [ông Clutter] và cắt cổ ông ta nó còn biết cơ mà. Dick lúc ấy thậm chí phải ở cùng buồng với Smitty. Nó chỉ chạy vào khi nghe thấy tiếng họ vật lộn. Dick cầm súng săn và nó tả cho tôi nghe thế này: 'Smitty giằng súng của con mà bắn bể đầu ông đó.' Rồi nó bảo, 'Bố ạ, lẽ ra con phải giằng lấy súng mà bắn chết thằng Smitty cơ. Giết nó trước khi nó giết mấy người còn lại. Nếu con làm thế con ở vào thế tốt hơn bây giờ.' Tôi cũng nghĩ vậy. Cứ như thế này, cứ cái kiểu người ta cảm thấy như thế này nó chẳng có cơ may nào. Ho treo cổ cả hai thôi. Và," ông già thêm, mệt mỏi và tuyệt vọng lóe lên trong mắt, "có đứa con trai bị treo cổ, biết nó sắp bị tới nơi rồi, chẳng có gì tồi tệ hơn có thể xảy ra với con người."

      Cả bố lẫn chị Perry Smith đều thư từ hay thăm nom gì . Tex John Smith viện cớ bận tìm vàng đâu đó ở Alaska! Tuy các nhà chức trách mặc dù rất cố gắng nhưng làm sao biết được nơi ông ta ở. Bà chị với các điều tra viên rằng bà sợ đứa em trai, và xin họ chớ cho nó biết địa chỉ tại của bà. (Khi được báo tin này, Smith nhếch mép cười , 'Tôi ước gì bà ấy có mặt ở cái nhà đó ngày hôm ấy. Cảnh tượng ngọt ngào phải biết!')

      Trừ con sóc, trừ ông bà Meier và Fleming, ông luật sư thảng hoặc đến gặp để tư vấn cho , Perry rất đơn. nhớ Dick. Hay nghĩ đến Dick, hôm viết trong quyển nhật ký tự làm lấy như vậy. Từ khi chúng bị bắt, chúng được phép giao lưu với nhau, và ngoài tự do ra điều khao khát nhất là chuyện với Dick, lại ở với Dick. Dick phải là "tảng đá rắn câng" như từng có dạo nghĩ về bạn : "thực tế", "nam tính", " chàng trai gan lì thực "; nay Dick tự chứng tỏ là "khá yếu đuối và nông cạn", " thằng nhát cáy". Nhưng lúc này, trong tất cả mọi người ở thế gian này, đó là người thân nhất của , vì ít ra chúng cùng thuộc về kiểu, những em cùng nòi nhà Cain; tách khỏi Dick, Perry cảm thấy mình "hoàn toàn độc. Giống như ai đó tràn ngập đau buồn. ai đó mà chỉ thằng nào ngu lắm nó mới dính vào."

      Nhưng rồi buổi sáng giữa tháng Hai, Perry nhận được bức thư. Đóng dấu bưu điện bang Massachusetts. Thư viết:

      "Perry thân mến, tôi rất buồn khi nghe về tình cảnh rắc rối lâm phải nên tôi quyết định viết thư để cho biết rằng tôi nhớ và muốn giúp bằng bất cứ cách nào có thể. Phòng khi nhớ tên tôi, Don Cullivan, tôi kèm theo đây bức ảnh chụp từ hồi chúng ta mới gặp nhau. Khi thoạt nghe tin về báo mới đây, tôi sửng sốt lắm nhưng rồi tôi bắt đầu ngồi nghĩ lại những ngày tôi biết . Tuy chúng ta chưa bao giờ là bạn riêng gần gũi, song tôi vẫn nhớ hơn nhiều so với phần lớn các bạn tôi gặp trong quân đội. Chắc là vào khoảng mùa thu năm 1951 khi được đưa về Đại đội Thiết bị Công binh số 761 ở Fort Lewis, Washington. thấp (tôi cũng chẳng cao hơn mấy), vạm vỡ, nước da ngăm ngăm với mớ tóc đen dày nặng và nụ cười gần như suốt ngày ở mặt. Do sống ở Alaska, số ít bạn bè quen gọi là "Etxkimô". trong những điều đầu tiên tôi nhớ lại về là ở buổi kiểm tra của đại đội trong đó tất cả tủ cá nhân ở chân giường đều phải mở cho kiểm tra. Như tôi nhớ tất cả các tủ này đều ngăn nắp, kể cả của , trừ có chuyện tủ dán đầy những ảnh con hở hang ở mặt trong. Bọn tôi yên trí là bị khiển trách rồi. Nhưng sĩ quan kiểm tra lại lơ mà rảo bước qua và khi tất cả xong xuôi rồi, ông sĩ quan nhắc tới chuyện đó tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều cảm thấy cha lì lợm. Tôi nhớ tay chơi đánh pun giỏi và tôi có thể hình dung hoàn toàn ràng tại bàn đánh pun ở trong phòng sinh hoạt chung của đại đội. trong những lái xe tài giỏi nhất trong bọn. có nhớ các chuyến hành quân dã ngoại của đại đội mà chúng ta vẫn hay được giao đó ? Trong chuyến vào mùa đông tôi nhớ là mỗi chúng ta được giao xe trong suốt cuộc hành quân. Ở đại đội chúng ta, xe quân đội có lò sưởi nên trong ca bin thường bị rét. Tôi nhớ khoét dưới sàn xe cái lỗ để cho hơi nóng của động cơ vào được trong ca bin. Lý do khiến tôi nhớ kỹ như thế là cái ấn tượng mà chuyện đó gây ra cho tôi, bởi vì "làm tổn hại" tài sản của quân đội là tội khiến có thể bị nghiêm trị. Dĩ nhiên tôi chỉ là lính mới tò te trong quân đội nên rất sợ đụng chạm đến các quy định dù chỉ tí thôi nhưng tôi nhớ là ngoạc miệng cười về chuyện đó (nên giữ được ấm) trong khi tôi lo sợ (thế là bị cóng đơ). Tôi nhớ mua chiếc xe máy, và nhớ láng máng là có gặp rắc rối gì đấy với nó - bị cảnh sát đuổi? Hỏng? Muốn gì đấy cũng là lần đầu tôi thấy ra cái nét bạt đời ở . vài điều nhớ lại của tôi có thể là sai; hơn tám năm về trước rồi mà tôi chỉ biết trong thời gian khoảng tám tháng. Nhưng qua những gì nhớ được tôi ở với rất vui vẻ và tôi khá là mến . hình như lúc nào cũng hào hứng và coi mọi cái là thường, làm tốt việc binh và tôi nhớ là bị quản chặt nhiều. Dĩ nhiên, ràng là rất bạt đời nhưng về cái đó tôi chưa thấy nó quá đáng bao giờ. Thế mà bây giờ lại gặp rắc rối . Tôi cố tưởng tượng ra bây giờ như thế nào. nghĩ sao về chuyện đó. Lần đầu tiên khi đọc về , tôi bàng hoàng. bàng hoàng. Tôi bèn đặt tờ báo xuống và quay sang chuyện khác. Nhưng ý nghĩ về cứ trở lại. Tôi nguôi yên mà quên được. Tôi trước nay vẫn là, hoặc thường cố được là người sùng đạo (Cơ đốc giáo). Nhưng phải là tôi luôn luôn tin được thế. Tôi quen buông trôi theo cái ý nghĩ mơ hồ về điều duy nhất quan trọng đời. Tôi bao giờ nghĩ tới cái chết hay khả năng về kiếp sau. Tôi sống lù lù đây: xe, đại học, bạn v.v... Nhưng em trai tôi nó chết vì bệnh máu trắng khi vừa tròn 17 tuổi. Nó biết mình chết và sau này tôi hay đoán xem nó nghĩ gì lúc đó. Bây giờ tôi nghĩ đến , đoán xem nghĩ về chuyện đó thế nào. Tôi biết gì với em tôi trong những tuần cuối cùng trước khi nó chết. Nhưng bây giờ tôi biết gì rồi. Và do đó tôi viết thư cho , vì Chúa tạo ra cũng như tạo ra tôi và Chúa cũng như Chúa tôi, và theo cái chỗ ít ỏi mà chúng ta biết về ý của Chúa điều xảy ra với cũng có thể xảy ra với tôi. Bạn , Don Cullivan."

      Cái tên được gì, nhưng Perry lập tức nhận ra ngay trong ảnh bộ mặt của lính trẻ với mái tóc húi gần trọc và đôi mắt tròn đầy nhiệt huyết. đọc bức thư nhiều lần; tuy thấy những gợi ý tôn giáo có sức thuyết phục ("Tôi cố tin nhưng được, tôi thể tin, mà có vờ là tin cũng chẳng được tích gì") nhưng run lên vì nó. Đây là người chìa tay ra giúp đỡ, người lành mạnh và đáng trọng từng có lúc biết đến và mến , người tự ký tên là bạn. Dào dạt biết ơn, vội vội vàng vàng viết bức thư trả lời:

      "Don thân mến. Trời đất ơi, đúng, tôi nhớ Don Cullivan..."

      ° ° °

      Xà lim của Hickock có cửa sổ; đối mặt với hành lang trống và mặt tiền của các xà lim khác. Nhưng độc, có người trò chuyện, đống những dân say, làm của giả, oánh vợ và dân Mễ thất thểu lang bạt quay vòng ra tù vào khám; và , với mồm mép liến thoắng tênh tênh "lừa người" bằng những tâm tình, những chuyện chơi và cờ bạc bịp, thành ra nổi tiếng trong đám bạn tù (nhưng có người lợi dụng được dù có thế nào - ông già cứ la ó : "Thằng giết người! Thằng giết người!" và từng có lần hắt vào cả xô nước rửa ráy bẩn thỉu).

      Bề ngoài trước mặt mọi người, Dick nom như gã thanh niên ung dung điềm tĩnh khác thường. Khi chuyện trò bù khú với ai hay ngủ, nằm dài đệm hút thuốc, nhai kẹo cao su hay đọc tạp chí thể thao, sách trinh thám bìa mềm. thường nằm khoèo huýt sáo các bài ưa thích ngày xưa ("Em lẽ ra phải là cưng xinh đẹp", "Hãy lê gót tới Buffalo") và nhìn đăm đăm vào cái bóng đèn chao ở trần xà lim bật sáng suốt đêm ngày. ghét giám sát đơn điệu của cái bóng đèn; nó phá rối giấc ngủ của và, cho hơn, gây nguy hại đến kết quả dự đồ riêng tư - vượt ngục. Vì gã tù này chẳng phải là dửng dưng hay nhẫn nhịn như tỏ ra, mà có ý thực từng bước sao cho thoát được "chuyến tới cái Lủng Lẳng Lớn". Đinh ninh rằng lễ hội đó là kết quả của bất cứ phán quyết nào của tòa - chắc chắn là của bất kỳ phiên tòa nào tiến hành ở bang Kansas - quyết định "phá tung nhà tù. Tóm lấy chiếc xe và cho tung bụi." Nhưng trước hết phải có vũ khí; thế là trong hàng mấy tuần tự làm lấy con "lá liễu", dụng cụ rất giống với cái dùi chọc băng đá - cái gì đó hợp với việc gây mê nhàng vào chỗ hõm giữa hai xương bả vai của phó cảnh sát trưởng Meier. Các bộ phận làm nên món vũ khí này, miếng gỗ và đoạn dây thép dài, vốn là phần của cái bàn chải cọ toa lét mà nẫng được, tháo ra rồi giấu dưới đệm nằm. Đêm khuya, khi thanh chỉ còn là tiếng ngáy, tiếng ho và tiếng rú còi ai oán của các đoàn tàu Santa Fe rầm rầm chạy qua cái thị trấn tối tăm, giũa dây thép vào nền xi măng xà lim. Và trong khi giũa, lên kế hoạch.

      Có lần, mùa đông sau khi học xong trung học phổ thông, Hickock nhờ xe qua Kansas và Colorado: "Lúc đó tôi tìm việc làm. Thế là, tôi xe tải, tài xế và tôi cãi nhau, là chả có lý do gì, thế mà nện ngay tôi. Ném tôi ra ngoài, vất ở đấy. Tít tận dãy Rockies. Tuyết rơi như gì ấy, và tôi cuốc bộ hàng dặm, máu mũi chảy như mười lăm con lợn bị chọc tiết vậy. Rồi tôi đến khóm mấy túp lều gỗ ở sườn dốc đầy cây. mùa hè, các lều đều khóa và chả có ai. Tôi phá cửa vào lều. Có củi có đồ hộp, cả tí uýt ki nữa. Tôi nằm khoèo ở đó cả tuần, đó là khoảng thời gian đẹp nhất đời tôi. Mặc dù thực là mặt mũi tôi bị thương như thế và mắt tôi xanh xanh vàng vàng. Khi trời ngừng tuyết mặt trời ra. Trời xanh như thể ông chưa thấy bao giờ đâu. Y như Mexico ấy chứ. Nếu Mexico ở miền hàn đới. Tôi lục khắp các lều khác và tìm thấy ít giăm bông hun khói, rađiô và khẩu súng. Nhất rồi nhá. Cả ngày cầm súng lang thang ngoài trời. Và nắng chiếu vào mặt. Tôi thấy dễ chịu. Tôi thấy mình như Tarzan. Đêm đêm tôi ăn đậu, giăm bông rán rồi cuốn mình vào trong chăn gần đống lửa, nghe nhạc rađiô rồi ngủ. Chả ai bén mảng đến đây. Cá là tôi ở lại đấy đến mùa xuân cũng được." Nếu vượt ngục mà thoát, đó là con đường mà Dick định - đến dãy núi ở Colorado, tìm túp lều nơi có thể náu cho tới mùa xuân ( mình, dĩ nhiên; tương lai của Perry màng đến.) Triển vọng về chuyển tiếp mê ly như thế, cộng với lén lút đầy hưng phấn của việc giũa sợi dây thép, khiến cho giũa được thành con dao lá liễu khá là đẹp đẽ.

      ° ° °

      Thứ Ba, mồng 10 tháng Ba. Cảnh sát trưởng lục soát. Tìm kỹ khắp các xà lim và tìm thấy con dao nhét ở dưới đệm của D. Mình tự hỏi biết nó nghĩ gì ở trong đầu (mỉm cười).

      phải Perry coi đó là chuyện đáng cười , vì Dick làm ra loại vũ khí nguy hiểm có thể đóng vai trò quyết định trong các kế hoạch mà cho hình thành. Tuần này sang tuần khác, quen với cuộc sống ở Quảng trường Tòa án, với các cư dân quen thuộc và những thói quen của họ. Chẳng hạn, những con mèo, hai con đực màu xám, cứ chiều chiều lại ló ra quẩn quanh quảng trường, dừng lại xem xét các chiếc xe đỗ ở rìa ngoài - cái kiểu này của hai con mèo làm thấy khó hiểu cho đến khi bà Meier giải thích rằng chúng tìm những con chim chết giắt vào lưới che động cơ ở mũi xe. Sau đó, hễ thấy cảnh mèo tìm chim, lại đau lòng. "Vì cả đời tôi phần lớn cũng đều làm như các con mèo ấy. Như nhau cả."

      Và có người mà Perry đặc biệt biết , người đàn ông lịch khỏe mạnh, tóc giống như cái mũ bịt kín đầu màu muối tiêu; mặt ông ta bạnh, quai hàm kiên nghị, có phần nào nghiệt ngã khi thư giãn, miệng chảy trễ, mắt sụp xuống tựa như âu sầu mơ màng - bức tranh về lạnh lùng tàn nhẫn. Nhưng ít ra đó cũng là ấn tượng thiên vị chính xác, là bởi đôi hồi gã tù lại liếc ông ta trong khi ông ta ngừng lại để chuyện trò với những người khác, cười đùa với họ và có vẻ thoải mái, vui vẻ, rộng lượng: "Loại người có thể nhìn thấy cái khía cạnh con người," thái độ quan trọng, bởi con người này là Roland H. Tate, thẩm phán của Khu vực pháp lý thứ 32, luật gia chủ trì phiên tòa của Kansas chống lại Smith và Hickock. Như Smith mau chóng được biết, Tate là cái họ lâu đời và đáng sợ ở miền Tây Kansas. Ông thẩm phán giàu, nuôi ngựa, sở hữu nhiều đất và vợ ông ta nghe rất đẹp. Ông ta là bố của hai đứa con trai nhưng đứa em chết, tấn bi kịch ảnh hưởng to lớn đến bố mẹ và dẫn tới chỗ họ nhận nuôi thằng bé bị người ta vứt bỏ nhà cửa. "Ông ta dường như có mềm lòng với tôi," Perry có lần bảo bà Meier, "có khi ông ấy lại cho chúng tôi trắng án."

      Nhưng đó phải là chuyện Perry tin tình; tin cái điều viết cho Don Sullivan, người mà nay thư từ đều đặn: tội ác của là " thể tha thứ" và thiết tha mong chờ được "leo lên mười ba bậc thang kia". Nhưng phải có chút ít nào hy vọng, vì lập mưu trốn thoát kia mà. Chuyện đó cậy vào hai thanh niên mà thấy thường hay quan sát . người tóc đỏ, người tóc đen. Đôi khi, đứng quảng trường dưới cái cây chạm vào cửa sổ xà lim, hai mỉm cười và ra hiệu với - hay là tưởng tượng ra thế. Chưa năng gì cả, và sau chừng phút là hai người lại dạt .

      Nhưng gã tù tự thuyết phục mình rằng hai thanh niên kia có lẽ bị thúc đẩy bởi ham muốn mạo hiểm, nghĩa là giúp vượt ngục. Theo đấy, vẽ bản đồ quảng trường, chỉ các điểm mà " xe hơi phải chạy" có thể đỗ sao cho có lợi thế nhất. Dưới bản đồ viết: 'Tôi cần lưỡi cưa sắt. Chỉ thế thôi. Nhưng các có nhận ra rằng nếu bị bắt hậu quả thế nào (nếu nhận ra các gật đầu cho cái)? nằm khám lâu đấy. Hay là mất mạng. Chỉ vì người mà các quen biết. Tốt hơn là các nên nghĩ kỹ. Nghĩ nghiêm chỉnh! Ngoài ra, làm sao tôi biết là có thể tin các chứ? Làm sao tôi biết đây phải là mánh lừa tôi ra rồi bắn chết tôi? Hickock sao? Mọi chuẩn bị đều phải tính cả đấy nhá.'

      Perry để tài liệu này bàn của , gói lại bằng vải rồi định khi nào hai thanh niên kia có mặt ném ra ngoài cửa sổ. Nhưng bao giờ ném; bao giờ còn thấy lại họ. Cuối cùng, nghĩ có thể là tưởng tượng ra họ (khái niệm này gợi ý rằng "có khi chập cheng, có khi quẫn trí", vì "ngay từ khi tôi còn bé các chị tôi hay cười chế tôi vì tôi thích ánh trăng. Thích nấp trong bóng tối chờ trăng sáng.") Họ có phải là ma hay cũng thôi nghĩ đến họ nữa. cách trốn khác, tự sát, thay thế họ trong những lúc trầm tưởng của ; và mặc dù đám coi tù rất thận trọng (trong xà lim có gương soi, thắt lưng, cà vạt, dây giày), nhưng vẫn bày ra được cách để làm chuyện đó. Vì vẫn được cung cấp cái bóng đèn cứ thế chiếu sáng vĩnh cửu, nhưng như Hickock, cái chổi trong xà lim, ấn chổi vào bóng đèn là có thể làm cho cái bóng đèn trật ra. đêm mơ mình tháo được cái bóng đèn, đập vỡ nó rồi lấy mảnh bóng đèn cắt cổ tay cổ chân. "Tôi cảm thấy hơi thở mình yếu ớt và ánh sáng lìa bỏ tôi," , trong lời giải thích sau đó về cảm tưởng của . "Các bức tường xà lim sụp đổ tan tành, bầu trời sà xuống và tôi trông thấy con chim lớn màu vàng."

      Suốt đời mình - hồi , nghèo túng, bị đối xử bạc bẽo, thời thanh niên lêu lổng, rồi gã trưởng thành nằm trong ngục - con chim vàng đó, lớn, có bộ mặt như vẹt, thường xuyên vút bay qua những giấc mơ của Perry, thiên thần báo hận từng cứu những kẻ thù của , hoặc là, như bây giờ, cứu trong thời điểm cực khốn cho sinh mạng : "Con chim nhấc tôi lên, tôi thấy mình như con chuột, chim và tôi cứ lên cao, cao mãi, tôi thấy quảng trường bên dưới, người ta chạy tới chạy lui la hét, cảnh sát trưởng quát gọi chúng tôi, ai cũng tức tối khủng khiếp vì tôi tự do, tôi bay, tôi tốt hơn bất cứ ai trong bọn họ."

      ° ° °

      Phiên tòa được định mở vào ngày 27 tháng Ba năm 1960. Trước ngày này mấy tuần, các luật sư của bên bị thường tham khảo ý kiến của các bị cáo. Họ thảo luận về lời khuyên cầu thay đổi chỗ xử và tòa án, nhưng ông Fleming cao tuổi nhắc nhở thân chủ của mình rằng. "Tòa xử bất cứ ở đâu tại Kansas cũng đều quan trọng. Khắp bang này, tình cảm người ta đâu cũng như nhau thôi. Chúng ta ở Garden City có khi còn tốt hơn. Đấy là cộng đồng tôn giáo. Mười nghìn dân, hai mươi hai nhà thờ. Phần lớn các vị linh mục đều phản đối án tử hình, là nó phi luân lý, phi Cơ đốc giáo; ngay cả Đức Cha Cowan, linh mục của chính nhà Clutter và người bạn gần gũi thân thiết của gia đình, ngài cũng kêu gọi chống lại án tử trong chính vụ này. Nên nhớ, mọi chúng ta hy vọng là làm sao cứu lấy cái mạng các . Tôi nghĩ ở đấy chúng ta có cơ may tốt hơn ở bất cứ đâu."

      Ngay sau việc buộc tội ban đầu Smith và Hickock, các luật sư của chúng ra mắt trước Thẩm phán Tate để tranh luận về đề nghị xin cho các bị cáo được giám định tâm thần toàn diện. Đặc biệt là kiến nghị tòa án cho phép bệnh viện của bang ở Larned, Kansas, cơ sở tâm thần có các thiết bị an toàn tối đa, được canh giữ các người tù nhằm mục đích xác nhận xem liệu trong hai hay cả hai người có "mất trí, đần hay trì độn, có khả năng hiểu được tình thế của họ và việc người ta giúp bào chữa cho họ ."

      Larned ở về phía Đông cách Garden City trăm dặm; Harrison Smith, luật sư của Hickock báo với tòa rằng hôm trước ông lái xe tới đó và bàn với số người của ban lãnh đạo bệnh viện: "Chúng ta có các bác sĩ tâm thần đủ tiêu chuẩn trong cộng đồng của mình. Đúng vậy, Larned là nơi duy nhất trong vòng bán kính hai trăm hăm lăm dặm có thể tìm ra những người như thế - những bác sĩ được đào tạo để thực những đánh giá nghiêm túc về tâm thần. Như vậy mất giờ. Bốn đến tám tuần. Song những người mà tôi cùng thảo luận rằng họ sẵn sàng vào việc ngay lập tức; và dĩ nhiên vì đó là cơ quan nhà nước cho nên chẳng mất xu nào."

      Kế hoạch này bị trợ lý đặc biệt của ủy viên công có là Logan Green phản đối; ông tin chắc rằng "chứng mất trí tạm thời" là lý do bào chữa mà các đối thủ của ông viện tới trong phiên tòa tới đây, ông sợ rằng kết quả cuối cùng của đề xuất này là, như ông tiên đoán khi trò chuyện riêng tư, ghế nhân chứng xuất cả lũ "những chữa đầu chữa óc" có thiện cảm với các bị cáo ("Những cái tay này họ luôn luôn than khóc cho các tên sát nhân. bao giờ nghĩ đến nạn nhân cả"). Vóc thấp, thích cà khịa, là dân Kentucky chính cống, Green bèn bắt đầu chỉ ra với tòa rằng, về vấn đề trí óc lành mạnh, luật của Kansas trung thành với điều luật M'Naghten, điều luật xa xưa của nước du nhập vào Mỹ có nội dung là nếu bị cáo biết được bản chất hành vi của mình và biết nó là sai, đương là lành mạnh về tâm thần và phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Hơn thế nữa, Green , trong các đạo luật của bang Kansas có gì cho thấy rằng các bác sĩ được chọn ra để xác định tình trạng tâm thần của bị cáo lại bắt buộc phải có bất cứ tư cách đặc biệt nào: "Cứ bác sĩ là được. Bác sĩ đa khoa hành nghề chung. Luật đời có thế thôi. Ở hạt đây năm nào chúng tôi cũng có nghe đến xét nghiệm tâm thần chỉ vì mục đích chuyển giao người đến bệnh viện này. Chúng tôi bao giờ gọi ai ở Larned hay ở các cơ sở tâm thần khác đến sất cả. Các bác sĩ sở tại chúng tôi đảm nhận vụ việc. Tìm xem người có mất trí hay trì độn hay đần , đó nào phải công việc to tát gì cơ chứ... Hoàn toàn cần thiết phải đưa các bị cáo tới Larned, làm thế chỉ mất giờ mà thôi."

      Để phản pháo, luật sư của Smith gợi ý rằng tình trạng nay "nghiêm trọng hơn nhiều so với cuộc xét nghiệm tâm thần ở trong phiên tòa xác chứng. Hai mạng người bị đe dọa. Bất kể tội của họ là gì, những người này vẫn có tư cách được xét nghiệm bởi những người được đào tạo và có kinh nghiệm. Tâm thần học," ông thêm, cãi thẳng thừng với ông thẩm phán, " trưởng thành nhanh chóng trong hai chục năm qua. Các tòa án liên bang bắt đầu phối hợp với ngành khoa học này khi vụ việc liên quan tới những người bị kết tội gây án mạng. Tôi thấy hình như chính chúng ta có cơ hội bằng vàng để nghênh đón những khái niệm mới trong lĩnh vực này."

      Đó là cơ hội mà ông thẩm phán thích cự tuyệt hơn, là vì, như luật gia có lần nhận xét, "Tate là loại mà ta có thể gọi là luật sư sách vở, ông ta bao giờ thực nghiệm, ông ta cứ theo y như văn bài"; nhưng cũng chính người phê bình đó lại , "Nếu tôi vô tội ông ta là người đầu tiên tôi muốn thấy ngồi ghế quan tòa, còn nếu tôi có tội tôi hoàn toàn muốn ông ngồi ghế quan tòa." Thẩm phán Tate hoàn toàn phủ nhận lời đề nghị; đúng hơn, ông làm đúng theo pháp luật cầu bằng việc chỉ định ra ủy ban ba bác sĩ Garden City và chỉ thị cho họ đưa ra biên bản kết luận năng lực tâm thần của các tù nhân. (Đúng như quy trình, bộ ba bác sĩ gặp hai bị cáo và, sau giờ hay hơn giờ dò xét bằng cách chuyện trò, tuyên bố ai bị rối loạn về tâm thần. Khi được cho biết về chẩn đoán của họ, Perry Smith , "Làm sao họ biết được? Họ chỉ muốn tiêu khiển thôi. Nghe tất cả các chi tiết bệnh hoạn từ chính đôi môi kinh khủng của kẻ giết người. Ôi, mắt họ nó mới sáng lên làm sao chứ." Luật sư của Hickock cũng bực; ông đến bệnh viện Larned hơn lần, tại đây ông kêu gọi được bác sĩ tâm thần tự nguyện đến Garden City phỏng vấn lấy thù lao hai bị cáo. Người tình nguyện này, bác sĩ W. Mitchell Jones, là người đặc biệt giỏi; chưa đến ba mươi tuổi, chuyên gia xuất sắc về tâm lý tội phạm và về những kẻ tâm thần gây tội ác, từng làm việc và nghiên cứu ở châu Âu và Mỹ, ông bằng lòng khám cho Smith và Hickock, và nếu những phát của ông bảo đảm được cho vụ này ông làm chứng cho hai người).

      Sáng ngày 14 tháng Ba các luật sư của bên bị lại ra đứng trước Thẩm phán Tate, lần này biện hộ cho đề nghị hoãn phiên tòa tới, trong khi lẽ ra chỉ còn có tám ngày nữa thôi là xử. Hai lý do được viện ra, thứ nhất là "bằng chứng xác đáng nhất", bố Hickock, ốm quá ra làm chứng được. Lý do thứ hai là vấn đề tế nhị hơn. Trong tuần qua quảng cáo viết rất đậm bắt đầu xuất ở cửa kính các tiệm, ngân hàng, nhà ăn và nhà ga xe lửa của thị trấn; quảng cáo ghi: BÁN ĐẤU GIÁ ĐẤT ĐAI DINH CƠ H.W. CLUTTER - 21 THÁNG BA 1960 - TẠI NHÀ CLUTTER. "Bây giờ," Harrison Smith với tòa, "tôi hiểu là gần như thể chứng minh được thành kiến. Nhưng việc bán này, đấu giá đất đai tài sản của nạn nhân, tuần nữa tiến hành rồi - cách khác vào đúng trước hôm mở tòa. Liệu điều đó có làm thiệt cho các bị cáo , tôi đủ sức khẳng định. Nhưng những quảng cáo đó, cộng với các quảng cáo báo đài, thường xuyên nhắc nhở mọi công dân của cộng đồng này nhớ đến vụ án, và trong số công dân đó trăm năm chục người có triển vọng được gọi làm bồi thẩm."

      Thẩm phán Tate nao núng. Ông bác lời đề nghị mà chẳng bình luận lời nào.

      ° ° °

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :