Máu Lạnh - Truman Capote(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PHẦN 2

      Những người chưa ló mặt

      Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười năm 1959 ấy vẫn là tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas - ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica. Những năm trước đây, vào những ngày này, Andy Erhart thường dành suốt nhiều buổi chiều dài săn trĩ ở Trại Lũng Sông, nhà của Herb Clutter, người bạn tốt của ông, và trong các buổi thể thao dã ngoại đó ông hay với ba người bạn thân nhất của Clutter: J. E. Dale, bác sĩ thú y, Carl Myers, chủ xưởng chế biến sữa, và Everett Ogburn, doanh nhân. Giống như Erhart, người phụ trách Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp của Đại học Kansas, tất cả đều là những công dân nổi tiếng của Garden City.

      Hôm nay, bộ tứ bạn săn lâu đời lại tụ tập làm chuyến dã ngoại quen thuộc nhưng với tinh thần chẳng hề quen thuộc, với những thiết bị kỳ quặc phi thể thao - tải lau sàn, xô thùng, bàn chải cọ rửa và giỏ chất đầy những giẻ lẫn chất tẩy mạnh. Họ đều mặc những bộ quần áo cũ kỹ nhất. Vì cảm thấy đây là nghĩa vụ của mình, bổn phận của người theo đạo Cơ đốc, những người này tình nguyện dọn dẹp sạch số phòng trong số mười bốn phòng của ngôi nhà chính ở Trại Lũng Sông: những phòng có bốn người trong gia đình Clutter bị giết bởi " hay nhiều kẻ chưa được nhận diện" như biên bản về cái chết của họ chứng thực.

      Erhart và các bạn lái xe trong im lặng. người về sau nhận xét, "Chuyến làm cho cả bọn câm nín hết. kỳ lạ của chuyến này. ra ngoài đó, nơi chúng tôi xưa nay luôn được đón chào như thế." Lúc này người cảnh sát tuần tra xa lộ đón chào họ. Người tuần đường, người trông coi cái rào chắn nhà chức trách dựng lên ở lối vào khu trại, vẫy tay cho họ vào, và họ thêm nửa dặm nữa, xuống con đường trồng du Tàu dẫn vào nhà Clutter.

      Alfred Stoecklein, người làm mướn duy nhất sống ở đất nhà ông Clutter, chờ để nhận họ vào.

      Trước tiên họ vào phòng lò sưởi ở tầng hầm, nơi người ta tìm thấy ông Clutter mặc pijama nằm còng queo cái thùng các tông đựng đệm. Từ đây, họ vào phòng giải trí trong đó Kenyon bị bắn chết. Chiếc văng, kỷ vật Kenyon cứu lấy và vá víu lại, còn Nancy phủ vải và chồng chất lên nó những chiếc gối có đề chữ, nó bây giờ là tàn tích vấy đầy máu; giống như cái thùng đựng đệm, cũng cần phải đem đốt. Dần dần, khi đám người dọn dẹp từ dưới tầng hầm tiến đến các phòng ngủ ở tầng ba nơi Nancy và mẹ bị giết ngay giường, họ có được thêm chất đốt cho cuộc hỏa thiêu sắp tới - chăn đệm giường ố máu, tấm thảm cạnh giường, con gấu bông búp bê.

      Tuy thường ít , Alfred Stoecklein hôm đó phải nhiều khi ông lấy nước nóng, giúp việc dọn dẹp. Ông mong "họ hàng ông Clutter thôi cằn nhằn và cố hiểu cho" tại sao ông và vợ ông tuy sống chỉ cách nhà Clutter có trăm mét mà lại " nghe thấy tí ti gì" - cả đến tiếng vọng khẽ nhất của súng nổ cũng - về thảm khốc diễn ra. "Cảnh sát trưởng và tất cả các ông ấy lấy dấu tay ở ngoài kia, cào bới khắp chung quanh, các ông ấy có nghề, họ họ hiểu chuyện đó thế nào. Như thế nào mà chúng tôi lại nghe thấy ấy à! Vì lẽ là gió. Gió Tây thổi, như lúc này đây, mang tiếng động tới chỗ khác. cái nữa, giữa nhà ông ấy và nhà chúng tôi có cái kho chứa cao lương. Cái kho cũ ấy nó chắn mất nhiều thứ trước khi vọng đến chúng tôi. Với lại các ông có nghĩ tí nào tới chỗ này ? Là cái đứa làm cái đó, nó hẳn phải biết chúng tôi nghe thấy được. nó chẳng có dại - bắn những bốn phát súng vào giữa đêm hôm khuya khoắt! Họa có mà điên. Dĩ nhiên, các ông có thể rằng chắc nó điên. Mới làm cái trò đó chứ. Nhưng ý tôi đứa làm cái đó chắc phải tính hoàn hảo đến cùng mọi cả rồi. Nó biết. Và có điều tôi cũng biết. Tôi và bà nhà tôi, chúng tôi ngủ đêm cuối cùng ở đây. Chúng tôi dọn đến cái nhà ở dọc xa lộ."

      Đám người làm việc từ trưa tới chiều tối. Đến lúc đốt các thứ nhặt nhạnh được, họ chất chúng lên chiếc xe tải , rồi với Stoecklein cầm lái, họ sâu vào dải đồng ở phía Bắc khu trại, chỗ bằng phẳng đầy màu sắc, tuy chỉ thuần màu vàng hung hơi óng ánh của những cuống rạ lúa mì vào chập tháng Mười . Đến đấy, họ dỡ xuống những gối của Nancy, đệm, khăn trải giường, văng ở phòng giải trí, làm thành cái tháp; Stoecklein rảy xăng vào rồi đánh diêm.

      Trong những người có mặt, ai thân với nhà Clutter bằng Andy Erhart. Dịu dàng, quyền cao chức trọng song ân cần, người thông thái với đôi tay lao động đầy chai và cái cổ sạm nắng, ông là bạn cùng lớp với Herb ở Đại học Bang Kansas. "Chúng tôi là bạn của nhau ba chục năm," sau đó ít lâu ông , và trong những thập niên đó Erhart chứng kiến người bạn mình từ kỹ sư nông nghiệp ăn lương còm ở hạt tiến lên thành trong những chủ trại được kính trọng khắp xa gần và được biết tiếng nhất ở vùng này: "Mọi cái Herb có là do tự kiếm ra và nhờ Chúa giúp đỡ. Herb là người khiêm tốn nhưng kiêu hãnh, và ông ấy có quyền kiêu hãnh như thế. Ông ấy gây dựng được gia đình tốt đẹp. Ông ấy làm được cho đời mình số điều." Nhưng cuộc đời ấy, và những cái ông ấy làm nên cho cuộc đời ấy - làm sao mà lại hóa ra như thế, Erhart thầm nghĩ trong khi nhìn đống lửa cháy lem lém. Làm sao mà nghĩ được rằng chỉ trong đêm, cố gắng kia, đức hạnh chân chất kia bị rút gọn thành làn khói này, làn khói cứ mảnh dần khi nó cất lên cao rồi được bầu trời lớn rộng làm tiêu tán mọi đón nhận lấy?

      ° ° °

      Cục Điều tra bang Kansas, tổ chức cấp bang, sở chỉ huy đóng ở Topeka, có biên chế mười chín thám tử giàu kinh nghiệm phân bố rải rác khắp bang; khi nào có vụ gì xem vẻ vượt khỏi thẩm quyền của nhà chức trách sở tại người ta cậy đến những con người này. Người đại diện của Cục tại Garden City, chịu trách nhiệm về phần đáng kể vùng Tây Kansas, là người ở bang Kansas thuộc thê hệ thứ tư, bốn mươi bảy tuổi, người dong dỏng đẹp trai, tên gọi là Alvin Adams Dewey. thể tránh được việc Earl Robinson, cảnh sát trưởng hạt Finney, cầu Al Dewey gánh lấy vụ án Clutter. tránh được và thích đáng. Vì Dewey, bản thân nguyên là cảnh sát trưởng hạt Finney (từ năm 1947 đến 1955) và, trước đó là đặc vụ của F.B.I. (giữa năm 1940 và 1945, ông phục vụ ở New Orleans, San Antonio, Denver, Miami và San Francisco), về nghiệp vụ là đủ tư cách đối phó với vụ án nom ngoài có động cơ và có đầu mối, lắm rắc rối như vụ giết nhà Clutter. Hơn nữa, thái độ của ông với vụ án làm cho nó thành ra, như sau này ông , " kiến nghị của cá nhân". Ông luôn ông và vợ ông " mến Herb và Bonnie", "gặp nhau mỗi Chủ nhật ở nhà thờ, năng lui tới thăm nhau", và thêm, "Nhưng cho dù tôi biết gia đình đó và mến họ đến thế, tôi cũng cảm thấy có gì khác cả. Vì tôi thấy số việc xấu xa, tôi chắc chắn là thấy. Nhưng có cái nào táng tận lương tâm như vụ này. Dù vụ này có kéo dài đến mấy, có thể là suốt những năm tháng cuối đời tôi, tôi vẫn biết chuyện gì xảy ra ở nhà này: kẻ nào làm và tại sao."

      Cuối cùng, tổng cộng mười tám người được giao chuyên trách vụ này, trong đó ba điều tra viên có năng lực nhất của K.B.I. (tức Cục Điều tra bang Kansas) - các đặc vụ Harold Nye, Roy Church và Clarence Duntz. Với bộ ba này đến Garden City, Dewey thỏa mãn là tập hợp được " ê kíp mạnh". "Tốt hơn hết, ai đó hãy coi chừng!" ông .

      Văn phòng cảnh sát trưởng ở tầng bốn của tòa án hạt Finney, tòa nhà bằng đá và xi măng tọa lạc tại trung tâm quảng trường đầy cây mà giá có tòa nhà có khi lại hấp dẫn. Garden City xưa vốn là thị trấn biên giới khá ầm ĩ song nay khá tĩnh lặng. Nhìn chung, cảnh sát trưởng có mấy việc để làm, văn phòng của ông, ba gian phòng bày biện thưa thớt, thông thường là nơi im ắng chỉ có dân rảnh việc la cà mới biết đến; bà Edna Richardson, thư ký đon đả của ông, thường có bình cà phê nhâm nhi suốt và nhiều giờ để "buôn dưa lê". Cho đến khi, như bà phàn nàn, "xảy vụ Clutter" đem tới "tất cả các dân tứ chiếng, tất cả đám báo chí nhặng xị ồn ào kia". Vụ án lúc đó khiến các tít bài bay xa đến Chicago ở đằng Tây, tận Denver đằng Đông, đúng là dụ đến Garden City cả đoàn báo chí đáng nể.

      Trưa thứ Hai, Dewey tổ chức họp báo ở văn phòng cảnh sát trưởng. "Tôi việc chứ giả thuyết," ông thông báo với các nhà báo tụ tập ở đó."Bây giờ, việc lớn ở đây, cái phải nhớ là, chúng ta phải giải quyết chỉ vụ án mạng mà là bốn. Và chúng ta biết ai trong bốn người là mục tiêu chính. Nạn nhân số . Đó có thể là Nancy hoặc Kenyon, hoặc ông bố hay bà mẹ. vài người , đúng, chắc phải là ông Clutter, vì ông ấy bị cắt cổ; ông ấy bị hành hạ nhiều nhất. Nhưng đó là giả thuyết, phải việc. Nếu chúng ta biết gia đình này bị giết theo trật tự gì cũng giúp được cho chúng ta nhưng người giám định pháp y lại thể điều đó; ông ấy chỉ biết các vụ giết người xảy ra vào lúc nào đó giữa mười giờ đêm thứ Bảy và hai giờ sáng Chủ nhật." Rồi, trả lời câu hỏi, Dewey có, người đàn bà nào bị "làm nhục về xác thịt" và, , như tình chúng tôi được biết có gì bị lấy trộm, vâng, ông nghĩ, trong vòng tám tiếng trước khi chết, ông Clutter nộp bốn chục nghìn đô la tiền bảo hiểm với mức bồi thường gấp đôi, đấy chỉ là việc "thuần túy ngẫu nhiên". Nhưng Dewey "chắc như đinh đóng cột" rằng việc này với vụ án liên quan; làm sao có liên quan được khi mà những người duy nhất hưởng lợi về tài chính là hai người con còn sống của Clutter, người con cả, bà Donald Jarchow và Berverly Clutter? Vâng, ông bảo các phóng viên, ông cũng có ý kiến của ông về chuyện vụ án mạng này là do hay nhiều người làm, nhưng lúc này ông muốn lộ ra.

      Đúng là lúc này, về vấn đề này, Dewey còn lưỡng lự. Ông vẫn giữ hai ý - hay để dùng từ của ông, hai "quan niệm" - và trong khi tái dựng vụ án, ông phát triển cả "quan niệm sát nhân đơn" lẫn "quan niệm sát nhân kép". Trong quan niệm thứ nhất, kẻ sát nhân được coi là người bạn của gia đình, hoặc dù thế nào cũng là người có hiểu biết nhiều hơn mức qua loa về ngôi nhà và những người sống trong đó - người biết rằng các cửa rất ít khi khóa, rằng ông Clutter ngủ mình trong phòng ngủ ở tầng trệt, rằng bà Clutter và các con ngủ ở các phòng riêng tầng ba. Kẻ này, Dewey tưởng tượng như thế, bộ đến ngôi nhà, chắc vào khoảng nửa đêm. Cửa sổ tối om, nhà Clutter ngủ yên, còn về con Teddy, con chó giữ nhà , đúng, Teddy nổi tiếng là sợ súng mà. Trông thấy vũ khí của bọn đột nhập, chắc nó co rúm lại, rên rỉ bỏ . Vào trong nhà, tên sát nhân sờ trước tiên đến điện thoại - ở trong phòng làm việc của ông Clutter, ở trong bếp - rồi sau khi cắt đứt dây điện, vào phòng ngủ ông Clutter đánh thức ông dậy. Trong tay người khách lạ có súng, ông Clutter buộc phải nghe theo - buộc phải với lên tầng ba, tại đó họ đánh thức cả nhà dậy. Rồi, bằng dây thừng và băng dính do tên sát nhân đưa cho, ông Clutter trói và dán miệng vợ mình lại, trói con lại ( bị dán miệng, điều thể giải thích được) rồi trói họ vào giường của họ. Sau đó, bố và con trai bị giải xuống tầng hầm, ở đấy ông Clutter bị buộc phải dán miệng rồi trói Kenyon vào văng ở phòng giải trí. Rồi ông Clutter bị dẫn đến phòng lò sưởi, bị đánh vào đầu, dán miệng rồi bị trói gô cả chân lẫn tay. Bây giờ thả cửa làm gì tùy thích, tên sát nhân giết họ lần lượt từng người, lần nào cũng cẩn thận nhặt lại vỏ đạn. Khi làm xong việc, tắt hết đèn rồi bỏ .

      Có thể chuyện xảy ra theo cách đó; chỉ là có thể. Nhưng Dewey có những ngờ vực: "Nếu Herb nghĩ gia đình mình lâm nguy, nguy đến tính mạng, ông ấy chiến đấu như con cọp rồi. Và Herb yếu - người khỏe vào loại hàng đầu. Kenyon cũng vậy - cao lớn như bố, cậu trai vai to bè. Khó lòng hiểu làm thế nào mà người, có vũ khí hay , lại khống chế nổi được hai bố con nhà ấy." Hơn nữa, có lý do để giả định rằng cả bốn đều bị người trói: trong cả bốn ca đều kiểu nút buộc như nhau, nút đơn.

      Dewey - và đa số đồng nghiệp của ông cũng thế - thiên về giả thiết thứ hai, giả thiết này, ở nhiều mặt chủ yếu theo giả thiết thứ nhất, điểm khác quan trọng là tên sát nhân chỉ hành động mình mà có tên tòng phạm giúp khống chế gia đình này, dán băng miệng và trói họ lại. Nhưng, là giả thuyết, nó cũng có khiếm khuyết. Chẳng hạn, Dewey thấy khó mà hiểu "Làm thế nào hai cá nhân lại có thể cùng đạt tới trình độ điên rồ như nhau, loại điên rồ tâm thần bệnh hoạn cần phải có để gây ra được tội ác như thế này." Ông tiếp tục giải thích: "Cứ cho rằng tên sát nhân là người biết gia đình này, thành viên của cộng đồng này; cứ cho rằng là người bình thường, bình thường trừ phi cái gì đặc biệt, mối ác cảm điên rồ chống lại nhà Clutter hay với người nhà Clutter - nhưng tìm đâu ra người cùng làm, ai đó đủ điên rồ để giúp ? Giả thiết này vững. Nó vô lý. Nhưng tiếp cận tắp lự vào vấn đề cũng lại chẳng cái gì là có lý cả."

      Sau cuộc họp báo, Dewey về văn phòng, gian buồng mà ông cảnh sát trưởng cho ông mượn tạm. bàn giấy và hai ghế dựa thẳng. Bàn giấy ngổn ngang những thư mà Dewey hy vọng ngày nào đó được đem ra làm tang vật ở tòa án: băng dính cùng những thước dây cởi ở người các nạn nhân ra lúc này đựng trong những túi bằng chất dẻo niêm phong (là tang vật chẳng thứ nào có vẻ hứa hẹn vì tất cả đều là những mặt hàng phổ biến, ở Mỹ mua đâu cũng có), và các tấm ảnh nhiếp ảnh viên cảnh sát chụp trường vụ án - hai mươi tư tấm phóng to, nước ảnh láng bóng chụp cái đầu vỡ toác của ông Clutter, khuôn mặt bị hủy hoại của con trai ông, đôi tay bị trói của Nancy, đôi mắt vẫn mở trừng trừng, dại vì cái chết của mẹ , vân vân. Những ngày tới đây, Dewey phải xem xét những tấm ảnh này hàng giờ, hy vọng mình có thể "thình lình nhòm ra được cái gì", từ đó chi tiết có ý nghĩa tự nó cung khai ra: "Giống như các trò ghép hình kia thôi. Những loại câu hỏi, 'Bạn tìm ra được bao nhiêu giống vật trong bức vẽ này?' Theo cách nào đó, chính đấy là điều tôi cố làm đây. Tìm ra những con vật núp. Tôi cảm thấy chúng ở đấy - giá như mà tôi nhìn ra chúng." Như hiển nhiên, trong những tấm ảnh, bức chụp cận cảnh ông Clutter và cái thùng đựng đệm mà ông nằm đè lên, hé ra điều ngạc nhiên có giá trị: những vết chân, những vết giày bụi bặm đế có khía hình kim cương. Những vết này, để ý thấy được bằng mắt thường, được ghi lại lên phim nhựa; quả , ánh chớp của đèn chụp để làm nổi bật đường nét làm lộ ra chính xác tuyệt vời có mặt của chúng. Những vết chân đó, cùng với vết chân khác tìm thấy cũng ở nắp hộp các tông - dấu hằn ràng, thấm máu của nửa đế giày Móng Mèo - là những "đầu mối quan trọng" duy nhất mà các điều tra viên có thể công bố. phải họ công bố; Dewey và đội của ông quyết định giữ bí mật bằng chứng này.

      Trong nhiều thứ khác bàn làm việc của Dewey có cuốn nhật ký của Nancy Clutter. Ông liếc qua, nhiều hơn, và nay ông ngồi xuống để đọc kỹ từng ghi chép hằng ngày, bắt đầu từ sinh nhật lần thứ mười ba của và chấm dứt hai tháng sớm hơn sinh nhật thứ mười bảy; những dòng tâm giật gân gì cả của thông minh loài vật, thích đọc sách, nấu nướng, khâu vá, khiêu vũ, cưỡi ngựa - trinh bạch, xinh đẹp, được nhiều người mến, từng nghĩ "con trai con tán tỉnh nhau ngộ đấy" nhưng dù sao cũng "chỉ lòng có Bobby thôi". Dewey đọc dòng ghi cuối cùng trước. Gồm ba dòng, viết trước khi chết hay hai giờ: "Jolene K. đến và tôi chỉ em cách làm bánh đào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây, chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười giờ."

      Cậu Rupp non trẻ, được biết là người cuối cùng nhìn thấy cả gia đình họ còn sống, phải qua cuộc thẩm vấn dài lê thê, và tuy cậu thẳng thắn kể lại là mình qua "đúng buổi tối bình thường" với nhà Clutter, cậu được báo trước có cuộc hỏi cung thứ hai, lần này người ta cho kiểm tra cậu bằng máy dò dối. ràng là cảnh sát chưa sẵn sàng loại cậu ra khỏi danh sách những người bị tình nghi. Bản thân Dewey tin cậu con trai này "có dính dáng tí nào vào đó"; nhưng ở bước đầu cuộc điều tra Bobby đúng là người duy nhất có thể bị gán cho động cơ, dù nhặt. Đây đó trong nhật ký, Nancy nhắc tới tình hình mà người ta giả định là tạo nên động cơ: ông bố đòi và Bobby "cắt đứt", đừng "gặp nhau quá nhiều", ông phản đối vì nhà Clutter theo dòng đạo Giám lý còn nhà Rupp Cơ đốc giáo - hoàn cảnh mà theo con mắt ông loại bỏ bất cứ hy vọng nào về chuyện cưới xin của cặp trai . Nhưng ghi chép trong nhật ký làm cho Dewey phân vân nhất lại liên quan đến cái ngõ cụt Clutter-Rupp, Giám lý - Cơ đốc. Đúng hơn là nó liên quan tới con mèo, cái chết bí của Boobs, con mèo Nancy cưng, con mèo mà, theo như ghi chép trước khi chết hai tuần, tìm thấy "nằm trong nhà kho", nạn nhân, hay là nghĩ thế (mà lý do) của kẻ đánh bả: "Boobs tội nghiệp, Tôi chôn nó tại nơi đặc biệt." Đọc tới đây, Dewey cảm thấy đây có thể là "rất quan trọng". Nếu con mèo dính bả, cái việc đánh bả đó có thể là dạo đầu nho , ma quái cho các vụ án mạng hay ? Ông quyết định phải tìm ra "cái chỗ đặc biệt" Nancy chôn con mèo , cho dù có phải cày xới cả cái vùng Trại Lũng Sông rộng rãi này lên.

      Trong khi Dewey bận bịu với cuốn nhật ký, những trợ lý chính của ông, các đặc vụ Church, Dunzt, Nye lại đảo dọc đảo ngang cả vùng quê, chuyện, như Dunzt , "với bất cứ ai có thể cho chúng tôi bất cứ cái gì": bộ phận giáo viên của Trường Holcomb, nơi cả Nancy lẫn Kenyon đều là học sinh hạng A, được bằng khen danh dự; những người làm mướn cho Trại Lũng Sông (vào mùa xuân và mùa hè đôi khi lên tới mười tám người nhưng trong lúc nông nhàn nay chỉ có Gerald Van Vleet và ba người nữa, trong đó có bà Helm); bạn bè của các nạn nhân, hàng xóm láng giềng; và, rất đặc biệt, họ hàng của họ. Xa gần khắp nơi khoảng hai chục người họ hàng đến dự tang lễ tổ chức và sáng ngày thứ Tư có mặt.

      Người trẻ nhất trong nhóm K.B.I., Harold Nye, người ba mươi tư tuổi, bé, hăng hái, với đôi mắt ngờ vực lúc nào yên và cái mũi, cái cằm, đầu óc sắc nhọn, được giao cho cái việc ông gọi là "tế nhị chết rấp" - phỏng vấn họ hàng nhà Clutter: "Việc đó khổ tâm cho ta và khổ tâm cho cả họ. Khi là chuyện án mạng ta thể kính trọng nỗi đau buồn. Hay riêng tư thầm kín. Hay tình cảm cá nhân. Ta phải đặt ra những câu hỏi. Và số câu bập vào tới ruột gan." Nhưng người nào thẩm vấn, câu hỏi nào đặt ra ("Tôi khám phá bối cảnh tình cảm. Tôi nghĩ câu trả lời có thể là người phụ nữ khác - cuộc tình tay ba. Vâng, hãy xem: ông Clutter vẫn còn khá trẻ, rất khỏe mạnh, nhưng vợ ông lại bị nửa tàn phế, bà ngủ riêng...") cho ra thông tin có ích; ngay hai con sống sót cũng thể gợi ra lý do cho vụ án. Tóm lại, Nye chỉ biết thế này: "Trong số mọi người ở khắp thế giới này, gia đình Clutter xem ra là ít có khả năng bị giết nhất."

      Cuối ngày, khi ba nhân viên được triệu tập tới văn phòng của Dewey, tình hình hóa ra là Dunzt và Church may mắn hơn Nye - chú Nye, như người khác gọi . (Người của K.B.I. thịnh dùng biệt hiệu; Dunzt được gọi là Ông Già - công bằng, vì ông chưa đầy năm chục tuổi, người lực lưỡng mau chân lẹ tay với bộ mặt to bản của mèo đực, và Church, trạc sáu chục hay hơn, da hồng đỏ nom dáng chuyên nghiệp nhưng "dữ dằn" theo như lời các đồng nghiệp, và "người rút súng nhanh nhất bang Kansas", được gọi là Quăn, bởi lẽ đầu ông bị hói phần). Cả hai trong quá trình thẩm vấn nhặt được "những đầu mối hứa hẹn".

      Chuyện của Dunzt liên quan đến người bố và người con trai, những người được biết đến ở đây với tên John Già và John Trẻ. Mấy năm trước John Già vụ làm ăn với ông Clutter, kết quả là John Già phát bực vì cảm thấy Clutter vứt "tiền giả" cho mình. Bây giờ cả John Già lẫn John Trẻ đều "nhậu nhẹt túy lúy"; quả , John Trẻ là gã bợm nhậu hay bị bắt giam. ngày may nọ, bố con nhà John, đầy dũng khí whiskey, xuất ở nhà Clutter với ý định "thanh toán cái nợ đó với Herb". Dịp may của hai người này bị khước từ vì ông Clutter, người kiêng khem chống lại gay gắt việc uống rượu và những kẻ say bét nhè, cầm lấy khẩu súng mà điệu hai bố con ra khỏi địa phận nhà mình. bất nhã này bố con John tha thứ được; mới tháng trước đây, John Già bảo người quen: "Mỗi lần nghĩ tới thằng chó đẻ ấy, bàn tay tôi lại bắt đầu giật lên đùng đùng. Tôi muốn choảng nó đây."

      Đầu mối của Church về bản chất cũng tương tự. Cũng thế, ông nghe đến người được thừa nhận là thù địch với ông Clutter: ông Smith nào đấy (tuy đây phải là tên của ông ta), tin rằng chủ nhân của Trại Lũng Sông bắn chết con chó săn của mình. Church kiểm tra trại của Smith và tìm thấy ở đấy, treo cái rui nhà kho, đoạn dây thừng có kiểu nút giống như nút được dùng để trói bốn người nhà Clutter.

      Dewey , " trong những người đó có thể là đầu mối của chúng ta đấy. chuyện cá nhân - mối ác cảm kiềm chế nổi."

      "Trừ phi đây là vụ cướp," Nye , tuy động cơ cướp của được thảo luận kha khá và ít nhiều bị gạt . Các luận điểm chống lại nó đều hợp lý, cái mạnh nhất là việc ông Clutter ghét trả tiền mặt thành chuyện đầu lưỡi ở tỉnh này; ông ấy có két sắt và bao giờ mang những khoản tiền lớn theo mình. Cũng thế, nếu giải thích là cướp của tại sao kẻ cướp lại tháo nữ trang bà Clutter đeo người - lắc cưới và nhẫn kim cương? Nhưng Nye chưa chịu khuất phục: "Kiểu bố trí này sặc mùi ăn trộm, về cái ví của Clutter thế nào? người nào đó để nó mở phanh rỗng giường Clutter - tôi nghĩ phải người chủ cái ví. Và cái túi tay của Nancy nữa? Cái túi đó nằm sàn nhà. Sao nó lại ở đấy? Đúng, và chẳng còn lấy đồng chữ nào ở trong nhà. À - hai đô la, được. Chúng ta tìm thấy hai đô la trong cái phong bì đặt bàn học của Nancy. Và chúng ta biết Clutter trả tấm séc sáu chục đô la trước đó hôm. Chúng ta tính có lẽ còn ít nhất năm chục nữa trong nhà. Cho nên vài người mới , 'Chẳng ai lại giết bốn nhân mạng vì năm chục đô la.' Và , 'Đúng thôi, có thể tên giết người lấy tiền - nhưng chính là để cố đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ lý do là ăn cướp,' tôi nghĩ như vậy."

      Trời tối, Dewey ngừng cuộc hội ý để gọi điện về nhà cho vợ ông, Marie, báo rằng ông về ăn tối. Bà , "Vâng. Được thôi, Alvin," nhưng ông để ý thấy trong giọng bà có vẻ lo lắng quen thuộc. Vợ chồng Dewey, bố mẹ của hai đứa con trai, cưới nhau mười bảy năm nay, và Marie người quê bang Louisiana, nguyên tốc ký viên của F.B.I., người mà ông gặp khi đóng ở New Orleans, đồng cảm với những gian nan của nghề nghiệp ông - giờ giấc quái gở, những cú điện thoại triệu tập ông thình lình đến những vùng xa xôi của bang.

      Ông , "Có sao ?"

      " sao cả," bà làm ông yên lòng. "Có điều, đêm nay khi về, phải bấm chuông đấy nhé. Em cho thay hết khóa rồi đấy."

      Bấy giờ ông hiểu, liền , "Chớ lo, em cưng. Cứ khóa hết cửa nẻo lại và bật đèn cổng."

      Sau khi ông đặt máy xuống, đồng nghiệp hỏi, "Có gì lôi thôi ? Marie sợ à?"

      "Con khỉ, ừ," Dewey . " ấy, và tất cả mọi người."

      ° ° °

      phải tất cả. Chắc chắn phải bà quả phụ chánh bưu điện Holcomb, bà Myrtle Clare gan dạ từng chế giễu đám dân cùng thị trấn với bà là " lũ thỏ đế run rẩy trong đôi ủng, sợ đến nhắm cả mắt mũi lại", và về bản thân, "Còn già này, nó vẫn cứ ngủ nghê tốt như thường. Ai muốn giở trò bịp với tôi cứ thử xem." (Mười tháng sau, chiếu theo đúng tuyên bố của bà, toán cướp cầm súng đeo mặt nạ ập vào văn phòng bưu điện, nẫng mất của bà chín trăm năm chục đô la). Như thường lệ, khái niệm của bà Clare trùng với khái niệm của rất ít người. Theo ông chủ cửa hàng ngũ kim ở Garden City , "Quanh đây, khóa và chốt cài là mặt hàng chạy nhất. Người ta mua bất cần nhãn hiệu; chỉ cốt sao chắc là được." Dĩ nhiên, óc tưởng tượng có thể mở được bất cứ cửa nào - vặn khóa và để cho nỗi kinh hoàng bước thẳng vào nhà. Thứ Ba, lúc sáng sớm, xe đầy nhóc dân săn trĩ từ Colorado đến - những dân lạ lẫm, biết đến tai họa của địa phương - sửng sốt bởi điều họ trông thấy khi băng ngang các đồng cỏ hay qua Holcomb: cửa sổ chói chang, gần như mọi cửa sổ của mọi nhà, và trong các gian phòng đèn sáng quăng quắc đầy những người, thậm chí toàn gia, ăn mặc đủ lệ áo quần, ngồi suốt đêm thức trắng, theo dõi, nghe ngóng. Họ sợ cái gì thế? Nó "có thể lại xảy ra." Đó là câu trả lời quen thuộc, với đôi chút khác nhau. Nhưng phụ nữ, giáo, nhận xét, "Cảm giác ấy lẽ ra lên cao bằng được nửa thế này nếu chuyện kia xảy ra với bất kỳ ai, trừ nhà Clutter. Ai đó ít được ngưỡng mộ hơn. Giàu có. An toàn. Nhưng nhà đó tiêu biểu cho cái gì mà người quanh đây đánh giá cao và kính trọng, và điều như thế rất có thể cũng xảy ra với họ - chậc, chả khác gì nghe có Chúa vậy. Nó làm cho cuộc đời có vẻ như vô vị. Tôi nghĩ cái chính phải là người ta sợ quá mà cái chính là suy sụp quá."

      lý do khác, lý do đơn giản nhất, lý do xấu nhất, là kết đoàn yên bình của những hàng xóm láng giềng và bầu bạn lâu ngày từ xưa đến nay bất thình lình phải chịu đựng cái chuyện chưa từng có này: mất tin tưởng ở nhau, âu cũng có thể hiểu được, họ tin rằng kẻ giết người là ai đó trong số họ và ai ai cũng tán thành ý kiến do Arthur Clutter, người em của người quá cố đưa ra trong khi chuyện trò với cánh báo chí ở gian sảnh của khách sạn Garden City hôm 17 tháng Mười , "Cứ để chuyện này sáng tỏ rồi xem, tôi xin cược rằng bất kỳ ai mà làm chuyện đó hẳn phải là người sống ở cách chỗ chúng ta đứng đây có mười dặm."

      ° ° °

      Khoảng bốn trăm dặm về phía Đông nơi Arthur Clutter đứng lúc đó, hai gã trẻ tuổi ngồi chung trong cái khoang của Nhà Chim Ó, quán ăn rẻ tiền tại Kansas City. gã - mặt hẹp, tay phải xăm con mèo màu lam - ngốn sạch nhiều chiếc bánh kẹp gà quay xà lách và bây giờ liếc vào phần của bạn đường: bánh tròn kẹp pa tê còn nguyên vẹn và cốc bia cồn có khuấy ba viên aspirin.

      "Perry, cưng," Dick , "cậu muốn cái bánh này chứ gì. Tớ ăn nha."

      Perry đẩy cái đĩa sang. "Chúa ơi! Cậu để tớ tập trung nghĩ ngợi được à?"

      "Cậu chẳng việc gì phải đọc đến những năm chục lượt như thế."

      bài báo in trang nhất tờ Ngôi sao ở Kansas City ra ngày 17 tháng Mười . Đầu đề: Ít manh mối trong vụ thảm sát bốn người, bài báo là bài tiếp theo mẩu tin sơ bộ hôm trước về vụ giết bốn người, kết thúc bằng đoạn tóm lược như sau:

      Đội điều tra phải đối mặt với cuộc tìm kiếm tên sát nhân hay những tên sát nhân mà khéo léo là ràng trong khi động cơ của (hay của chúng) lại . Vì tên giết người này hay những tên giết người: * cẩn thận cắt dây hai chiếc điện thoại trong nhà. * Thành thạo trói và dán miệng các nạn nhân, với bằng chứng hiển nhiên là hề có vật lộn giữa hai bên. * để lại cái gì ở trong nhà, để lại dấu vết là chúng tìm kiếm cái gì, ngoại trừ có thể là cái ví [của ông Clutter]. * Bắn bốn người tại bốn nơi khác nhau trong nhà, bình thản thu nhặt vỏ đạn. * Đến và , chắc có mang theo vũ khí, mà hề bị trông thấy. * Hành động động cơ nào, nếu như ta tính đến mưu toan ăn trộm bị thất bại, điều mà các điều tra viên vốn dĩ quen.

      "Sai rồi đây này. Ngữ pháp ấy. Phải là 'Vì tên giết người hay những tên giết người này' mới đúng." Perry đọc to lên. Nhâm nhi chỗ bia pha aspirin, tiếp, "Dù gì tớ cũng tin. Cả cậu cũng . Thú , Dick. Hãy thà. Cậu tin cái trò có dấu vết này chứ?"

      Hôm qua, sau khi nghiên cứu báo chí, Perry cũng đặt ra câu hỏi này, và Dick nghĩ là quả quyết như thế ("Kìa. Nếu bọn cao bồi ấy tìm ra tí ti liên quan nào chúng ta nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa cả trăm dặm rồi!"), nên nghe phát ngán. Quá ngán đến độ chẳng buồn phản đối khi Perry lại theo đuổi vấn đề này: "Tớ luôn luôn đặt cược vào linh cảm," Dick . "Vì thế tớ còn sống đến hôm nay. Cậu biết Willie-Jay chứ? tớ là 'thầy đồng trời cho', hiểu những chuyện như vậy, quan tâm. tớ có trình độ 'ngoại cảm' cao. Kiểu như có máy ra đa lắp trong người vậy - mắt chưa nhìn thấy, cậu thấy trước rồi. Thấy đường nét những kiện tới. Thí dụ như tớ và vợ . Jimmy và mụ vợ. Mê nhau như điếu đổ ấy, nhưng lại ghen quá xá, làm mụ vợ hết chịu nổi, ghen rồi luôn luôn nghĩ là vợ lăng nhăng sau lưng mình đến nỗi mụ vợ tự bắn mình tự sát, hôm sau Jimmy cũng tự cho viên đạn xuyên qua đầu. Khi chuyện đó xảy ra - năm 1949, tớ ở Alaska với bố tớ tận vùng Circle City - tớ bảo ông già, 'Jimmy chết rồi.' Tuần sau nhận được tin. Chúa báo cho mà. lần khác nữa, ở Nhật Bản, tớ giúp chất hàng xuống con tàu và ngồi nghỉ tay. Thình lình trong người tớ có tiếng : 'Nhảy!' Tớ nhảy liền, từ cao chắc phải ba mét, vừa đúng lúc tấn hàng rơi đánh sầm xuống ngay tại chỗ tớ ngồi. Tớ có thể cho cậu hàng trăm thí dụ như thế. Tớ chẳng cần biết cậu tin hay . Chẳng hạn, ngay trước khi bị tai nạn xe máy, tớ thấy toàn bộ cái vở đó diễn ra: nhìn thấy ở trong đầu tớ - trời mưa, trượt bánh, tớ nằm đó máu me, chân gãy rời. Như bây giờ tớ vẫn như thế ấy. Điềm báo trước. cái gì đó bảo tớ rằng đây là cái bẫy." đập tay vào tờ báo." lô những lời lảng quanh co."

      Dick gọi bánh kẹp pa tê nữa. Trong ít ngày qua, bị cơn đói mà chẳng cái gì - ba bít tết liền tù tì, tá bánh đũa, nửa ký kẹo hồng - cắt nối được cơn. Về phần mình, Perry lại chẳng thiết ăn; sống bằng bia, aspirin và thuốc lá. "Thảo nào cậu tính khí thất thường," Dick bảo . "Ồ, nào cưng. Đừng có sôi máu lên làm gì. Chúng ta vào cầu. Hoàn hảo mà."

      "Tớ ngạc nhiên thấy cậu mà lại như thế," Perry . Giọng bình thản làm nổi lên nét ác ý ở câu trả lời của . Nhưng Dick chịu, thậm chí còn mỉm cười - và nụ cười của đề nghị khôn khéo. Nó rằng tớ đây, nở nụ cười con trẻ đây, là nhân vật rất có cá tính, đứa rất đáng , niềm nở, minh bạch mà ai cũng có thể tin cẩn. "O.K.," Dick . "Có lẽ tớ có vài thông tin sai."

      "Đội ơn Chúa."

      "Nhưng nhìn chung hoàn hảo. Chúng ta đánh quả banh ra ngoài bãi. Nó mất tăm. Và nó cứ mất tăm như vậy thôi. có lấy liên quan gì đặc biệt cả."

      "Tớ nghĩ có thể có ."

      Perry quá xa. còn xa hơn: "Floyd - có phải tên thế nhỉ?" cú chơi xỏ, nhưng lúc này Dick đáng bị thế, tâm của cứ như cái diều cần phải cuộn dây lại. Dẫu sao, Perry cũng hơi sờ sợ khi thấy những triệu chứng thịnh nộ bày biện lại vẻ mặt Dick: quai hàm, môi, cả khuôn mặt chùng lại; nước bọt ra ở khóe miệng. Được, nếu chuyện đó xảy ra Perry có thể tự vệ được. thấp, thấp hơn Dick bảy tám phân và đôi cẳng khẳng khiu tàn tật của thể trông cậy vào được, nhưng nặng cân hơn bạn , dày mình hơn, có hai cánh tay đủ sức ghì nghẹt thở con gấu. Tuy nhiên, chứng minh chuyện đó - phải có đánh nhau, trận ngã ngũ - nên tí nào. Dù thích Dick hay (và ghét Dick, tuy có lúc thích gã nhiều hơn, kính trọng gã nhiều hơn), song nay ràng là chúng thể chia lìa nhau mà an toàn được. Chúng giống nhau ở điểm này, vì Dick từng , "Nếu chúng ta bị tóm nên là bị tóm cả hai. Lúc đó chúng ta có thể nâng đỡ nhau lên. Khi mà chúng bắt đầu giở trò thú nhận linh tinh, bảo là cậu thế này tớ thế kia." Hơn nữa, nếu cắt đứt với Dick có nghĩa là mục tiêu của các dự án vẫn cứ hấp dẫn Perry, và mặc dù những thận trọng ý tứ giữ gìn gần đây, nó vẫn được cả hai cho là khả thi - cuộc đời trần truồng, lặn tìm kho báu sống với nhau ở giữa những hòn đảo hay dọc các bờ biển phía Nam biên giới.

      Dick , "Ông Wells!" nhặt cái nĩa lên. "Nó lẽ ra đáng cái này. Tựa như là tớ bị tóm về tội chống lại việc kiểm tra ấy. Nó lẽ ra đáng cái này. Chỉ là để quay lại vào đây." Chiếc nĩa vút xuống đâm phập vào bàn. "Xuyên thấu hết tim, cưng ơi."

      "Tớ là lão ta nên bị thế," Perry , bây giờ muốn nhân nhượng khi mà cơn thịnh nộ của Dick dâng cao ở sát cạnh và đánh vào chỗ khác. "Lão hãi quá."

      "Chắc rồi," Dick . "Chắc chứ. Sợ quá chứ." kỳ diệu, đúng thế, cái dễ dàng đến lạ lùng khi Dick chuyển từ tính khí này sang tính khí kia; trong nháy mắt mọi dấu vết độc ác, bộ dạng sưng sỉa liền tan biến hết. , "Về cái món điềm báo trước kia. tớ nghe cái này: nếu cậu cầm chắc bị gãy giò sao cầu hòa với nó ? Nếu cậu dính vào cái xe máy xảy chuyên gãy giò, đúng ?"

      Đó là bài đố mà Perry cứ loay hoay nghĩ. cảm thấy giải được, nhưng tuy đơn giản, lời giải vẫn cứ mù mờ thế nào đó: ". Vì khi mà cái gì được định là xảy ra cho cậu rồi cậu chỉ còn mỗi cách là hy vọng nó đừng xảy ra. Hoặc tùy trời. Ngày nào cậu còn sống luôn có cái rình rập cậu, mà dù nó xấu , và cậu biết nó xấu nữa cậu làm được gì? Cậu có ngừng sống được đâu? Giống như giấc mơ của tớ. Từ lúc còn chíp hôi, tớ vẫn chỉ có giấc mơ ấy. Tại cái chỗ tớ sống ở châu Phi. khu rừng. Tớ len giữa các cây cối đến cái cây đứng trơ trọi mình. Chúa ơi, mùi nó mới thối chứ, cái cây ấy; nó thối kiểu gì mà làm cho tớ phát ốm lên được. Có điều, nhìn nó đẹp, lá xanh và đầy kim cương treo lủng liểng. Kim cương cứ như cam vậy. Vì thế tớ ở đó - nhặt mấy thúng kim cương. Nhưng tớ biết là ngay lúc tớ thử nhặt, lúc tớ vươn tay tới là con rắn rơi vào tớ. Con rắn canh cái cây mà. Cái con chó đẻ béo quay ấy nó sống các cành. Tớ thấy trước cái đó chứ, thấy ? Và Chúa ơi, tớ biết cách đánh nhau với rắn. Nhưng tớ hình dung ra được, tớ thử vận may của tớ. Cái rắc rối là tớ lại muốn kim cương hơn cả sợ rắn. Thế nên tớ nhặt lấy viên, tớ có kim cương ở trong tay rồi, tớ kéo nó con rắn sà ngay vào đỉnh đầu tớ. Chúng tớ vật nhau nhưng nó là con chó đẻ trơn nhẫy, tớ sao túm được, nó quấn tớ lại, nó siết, cậu nghe được thấy cả chân tớ kêu răng rắc. Bây giờ đến cái đoạn mà nghĩ lại tớ còn toát hết mồ hôi. Xem xem, nó bắt đầu nuốt tớ. Nuốt chân trước. Như tụt vào chỗ cát lún vậy." Perry ngập ngừng. thể thấy Dick bận nạy móng tay bằng cái răng nĩa, để ý gì tới giấc mơ của .

      Dick , "Rồi sao? Con rắn nuốt cậu? Hay cái gì?"

      "Chẳng sao. quan trọng." (Nhưng nó quan trọng chứ! Cái kết rất là quan trọng, nguồn vui riêng. có lần với gã bạn Willie-Jay của ; tả cho gã bạn về con chim dữ tợn, "cái giống vẹt" màu vàng ấy. Dĩ nhiên, Willie-Jay khác - đầu óc tế nhị, " bậc thánh." Gã hiểu. Còn Dick? Gã lại có thể cười. Và điều đó Perry cho phép: chế giễu con vẹt, con vẹt bay đầu tiên vào những giấc mơ của khi mới lên bảy, đứa trẻ lai bị ghét bỏ và ghét bỏ mọi thứ, sống trong trại trẻ mồ côi tại California do các nữ tu cai quản - những viên quản giáo giấu mặt quất roi vào người đái dầm. Chính là sau trận đòn như thế, trận bao giờ quên được ("Mẹ ấy đánh thức tớ dậy. Mẹ ấy có chiếc đèn pin, mẹ ấy đánh tớ bằng cái đèn ấy. Đánh, đánh hoài. Khi cái đèn vỡ, mẹ ấy vẫn cứ đánh tớ tiếp trong bóng tối"), chính sau trận đó con vẹt xuất , đến trong lúc ngủ, con chim "cao hơn Giê-su, vàng như hoa hướng dương", thiên thần-chiến binh mổ mù mắt đám tu sĩ, moi mắt chúng, giết chết chúng trong khi chúng lạy van "xin tha tội", rồi rất nhàng con chim nâng lên, ủ bọc , vỗ cánh đưa lên "thiên đường".

      Năm tháng trôi , những cực hình mà con chim cứu thoát ra kia thay đổi; những kẻ khác - đám trẻ con lớn hơn, bố , chẳng chút lòng tin, sĩ quan biết trong quân đội - thay vào chỗ các nữ tu sĩ, nhưng con vẹt vẫn nguyên vẹn, người phục thù luôn bay quanh bên . Thế là con rắn, kẻ canh giữ cây kim cương, chẳng bao giờ thôi nuốt nhưng chính con rắn cũng lại luôn luôn bị nuốt. Rồi sau đó là cuộc lên trời đầy ân sủng! Cuộc lên thiên đường mà trong dị bản này của Kinh Thánh chỉ là " cảm giác", cảm thức về quyền uy, về ưu việt gì công phá nổi mà trong dị bản khác chúng lại được chuyển dịch tới " nơi đích thực. Như từ trong cuốn phim mà ra vậy. Vì có lẽ đó chính là nơi tớ thấy nó - nhớ lại nó từ cuốn phim. Bởi tớ còn có thể thấy ở đâu khác cái vườn như thế chứ? Với những bậc tam cấp cẩm thạch trắng toát? Những vòi phun nước? Và tít bên dưới cùng kia, nếu cậu tới cuối khu vườn, cậu có thể nhìn thấy đại dương. Tuyệt vời! Hệt như ở quanh vùng Carmel, California vậy. Tuy cái hay nhất - đúng, là cái bàn ăn dài, dài ơi là dài. Cậu tưởng tượng được lắm thức ăn đến thế đâu. Sò huyết. Gà tây. Bánh kẹp xúc xích. Hoa quả cậu có thể đựng được vào hàng triệu cái đĩa bồn ấy chứ. Và nghe này - cái gì cũng tha hồ. Ý tớ là tớ có thể đụng vào đấy mà chẳng phải sợ cái gì. Ăn được bao nhiêu tùy thích mà chẳng tốn xu. Cái đó cho tớ biết là tớ ở đâu.")

      Dick , "Tớ là người bình thường. Chỉ mê thấy tóc vàng. Ấy, đến chuyện này, cậu có nghe đến cơn ác mộng của thằng dê già bao giờ chưa?" Dick là như thế đấy - về bất cứ vấn đề gì luôn luôn có sẵn câu chuyện tục. Nhưng món ấy kể hay, và Perry, tuy là người trong chừng mực nào đó nghiêm túc, vẫn nín được cười, như thường lệ.

      ° ° °

      Nhắc đến tình bạn với Nancy Clutter, Susan Kidwell , "Chúng cháu như chị em. Ít nhất là cháu cảm thấy như thế với bạn ấy - tựa như bạn ấy là chị cháu. Cháu thể học được - phải mấy ngày ban đầu kia đâu. Cháu đến trường mãi cho đến sau tang lễ. Bobby Rupp cũng thế. dạo Bobby và cháu luôn ở bên nhau. Cậu ấy hay lắm - cậu ấy tốt bụng - nhưng trước đó chưa hề có cái gì ghê gớm như thế xảy đến với cậu ấy. Như mất người cậu ấy quý. Rồi hết nữa, lại còn bị kiểm tra bằng máy dò dối. Cháu là cậu ấy cay đắng về chuyện ấy, cậu ấy hiểu là cảnh sát làm những cái họ cần làm. vài điều gay go, hai hay ba gì đó xảy ra với cháu, nhưng với cậu ấy , cho nên khi nhận ra cuộc đời có lẽ phải là cuộc chơi bóng rổ dài dài cậu ấy bị choáng. Phần lớn thời gian chúng cháu lái chiếc Ford cũ của cậu ấy loanh quanh. Lên rồi xuống xa lộ. Ra sân bay rồi quay về. Hay chúng cháu tới Cree-Mee - quán ăn phục vụ tận xe - ngồi trong xe, gọi lon Coke, nghe rađiô. Rađiô cứ mở miết, chúng cháu chả có gì để về mình. Trừ mọi lần Bobby cậu ấy Nancy biết bao và vì sao cậu ấy thể chú ý đến những đứa con khác. Vâng, cháu chắc là Nancy muốn như thế và cháu bảo cậu ấy như thế. Cháu nhớ - cháu nghĩ hôm đấy thứ Hai - chúng cháu lái xe ra sông. Chúng cháu đỗ xe cầu. Ở đấy có thể nhìn thấy căn nhà - nhà Clutter. Và phần đất - vườn cây của ông Clutter và đồng lúa mì trải dài ra. Ở thửa đồng có đống lửa cháy; họ đốt đồ dùng của nhà Nancy. Nhìn vào đâu cũng gợi cho ta nhớ lại cái gì đó. Những người mang sào và lưới câu dọc bờ sông, nhưng phải để lấy cá. Bobby họ tìm vũ khí. Con dao. Khẩu súng.

      Nancy con sông. Những đêm hè, chúng cháu quen cưỡi chung con ngựa của Nancy - Babe - con ngựa già và béo ấy. thẳng ra sông rồi thẳng luôn xuống nước. Rồi Babe lội đến chỗ nông trong khi chúng cháu thổi sáo và hát. Bị cảm lạnh. Cháu vẫn nhớ, trời, bạn ấy, con Babe ấy, nay ra sao? bà ở Garden City lấy con chó của Kenyon. Lấy con Teddy. Nó bỏ chạy - tìm được đường về Holcomb. Nhưng bà ta lại đến đem nó . Và cháu có con mèo của Nancy - Evinrude. Nhưng còn Babe. Cháu cho là họ bán nó rồi. Liệu Nancy có ghét thế ? Liệu Nancy có giận điên lên với việc ấy ? hôm khác, hôm trước tang lễ, Bobby và cháu ngồi bên đường sắt xe lửa. Nhìn các chuyến tàu qua. Ngốc . Như con cừu trong bão tuyết. Thình lình Bobby sực tỉnh , 'Chúng ta phải ở với bạn ấy. Chúng ta phải ở bên Nancy.' Thế là chúng cháu lại đến Garden City - đến Nhà Tang lễ Phillip, ở Phố Chính. Hình như có cậu em của Bobby cùng với chúng cháu. Đúng, chắc chắn là có cậu ta. Vì cháu nhớ chúng cháu vẫn đến trường đón cậu ta mà. Và cháu nhớ cậu ta mai trường cho trẻ con ở Holcomb nghỉ học dự tang lễ. Và cậu ta ngừng đám trẻ con nghĩ gì. Cậu ta chúng tin chắc việc này là do 'kẻ giết mướn' làm. Cháu muốn nghe mấy thứ ấy. Toàn đồn đại và chuyện phiếm - những thứ mà Nancy ghét. Dù gì cháu cũng quan tâm kẻ nào làm chuyện đó. hiểu sao cháu thấy chuyện đó chẳng có ích lợi gì. Bạn cháu chết. Biết kẻ giết bạn ấy cũng đem được bạn ấy trở về. Có gì khác quan trọng hơn nữa? Họ để chúng cháu vào. Cháu muốn là ở phòng chờ tang lễ ấy. Họ ai được 'nhìn gia đình'. Trừ họ hàng. Bobby năn nỉ và cuối cùng ông làm dịch vụ tang lễ - ông ta biết Bobby, và cháu đoán ông ấy thấy thương hại cho cậu ấy - được, hãy giữ im lặng, cứ vào . Bây giờ cháu lại mong giá chúng cháu đừng vào."

      Bốn cỗ áo quan, để chật phòng tang lễ nho đầy những vòng hoa, được đóng kín để tiến hành nghi lễ - rất dễ hiểu, vì dù người ta bỏ công sửa sang cho bề ngoài các nạn nhân, song hiệu quả khi thực xong vẫn làm ta ngao ngán. Nancy mặc bộ váy nhung màu đỏ đào, Kenyon sơ mi vải Ê-cốt; bố mẹ ăn mặc đơn giản hơn, ông Clutter với bộ bằng len flanen xanh dương, vợ ông trong bộ váy bằng crép xanh dương; và - và đặc biệt, chính điều này đem lại cho quang cảnh khí đáng sợ - đầu cả hai đều bọc kín bông gòn, con kén sưng phồng to gấp hai lần quả bóng hơi, và do được phun chất bóng thành thử bông gòn lấp lánh y như tuyết cây Nôen.

      Susan lập tức lui lại. "Cháu ra chờ ở ngoài xe," nhớ lại. "Bên kia đường người quét lá. Cháu cứ nhìn ông ấy. Vì cháu muốn nhắm mắt. Cháu nghĩ, nếu nhắm mắt là cháu ngất. Cho nên cháu cứ nhìn người ấy quét và đốt lá. Nhìn nhưng ra thấy ông ta. Vì tất cả những gì cháu thấy chỉ là bộ váy. Cháu biết nó quá . Cháu giúp Nancy chọn chất liệu mà. Nancy tự thiết kế và may nó. Cháu nhớ bạn ấy hoan hỉ như thế nào khi lần đầu mặc nó. Ở buổi liên hoan. Cháu chỉ còn nhìn thấy bộ nhung đỏ thắm của Nancy. khiêu vũ."

      ° ° °

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Tờ Ngôi sao ở Kansas City đăng bài tường thuật dài về đám tang nhà Clutter, nhưng khi Perry, nằm ườn giường trong phòng khách sạn đọc tới tờ báo cũ mất hai ngày. Cho dù thế cũng chỉ lướt qua, nhảy cóc các đoạn như: " nghìn người, đám đông lớn nhất trong lịch sử năm năm của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất, dự lễ tang bốn nạn nhân ngày hôm nay... Nhiều bạn của Nancy ở Trường cấp III Holcomb khóc khi Đức Cha Leonard Cowan : 'Chúa ban cho chúng ta lòng dũng cảm, tình và hy vọng cho dù chúng ta xuyên qua bóng tối u của thung lũng chết chóc. Tôi tin rằng Chúa ở bên họ trong những giờ phút cuối cùng. Giê-su bao giờ hứa hẹn với chúng ta là chúng ta phải đau đớn và buồn phiền nhưng Chúa luôn luôn Chúa ở đó giúp chúng ta mang nỗi buồn và nỗi đau... Vào cái ngày ấm áp trái mùa, khoảng sáu trăm con người đến nghĩa trang Cảnh Lũng ở đầu phía Bắc thành phố này. Ở đó, tại buổi lễ bên những nấm mồ, họ đọc kinh câu nguyện Đức Chúa cha. Giọng họ hợp lại thành tiếng thầm trầm thấp đâu cũng nghe thấy được ở trong khắp nghĩa trang."

      nghìn người! Perry ngạc nhiên. tự hỏi biết đám tang tốn mất bao nhiêu tiền. Tiền choán chỗ lớn trong đầu óc , tuy còn riết ròng như ngày trước - cái ngày bắt đầu " phải trả giá cho tiếng meo meo của con mèo". Tình hình được cải thiện từ đây; nhờ Dick, và Dick bây giờ có " khoản vốn kha khá" - đủ để đưa chúng tới Mexico.

      Dick! Êm ru. Lắm mánh. Đúng, vụ này phải giao cho . Lạy Chúa, thể tin được làm sao lại "úm được gã đực rựa" như thế chứ. Như gã bán hàng ở cửa hàng may mặc tại Kansas City, Missouri, chỗ đầu tiên Dick quyết định "ra đòn". Còn như Perry, bao giờ thử "để qua kiểm tra" cả. hay bồn chồn, nhưng Dick bảo , "Tớ chỉ cần cậu đứng đó. Cấm cười, cấm ngạc nhiên với bất cứ điều gì tớ ra. Cậu phải chơi các cái trò này bằng tai." Hình như với cái nhiệm vụ đề ra này, Dick ở hàng tổ sư. vào như gió, giới thiệu Perry đến là tênh với người bán hàng, "bạn tôi đây sắp cưới vợ," rồi tiếp tục, "Tôi là người thân nhất của ấy. Giúp ấy đại khái mua sắm loanh quanh các thứ áo quần. Ha ha, cái thứ ha ha - ông có thể là bộ mồi của chú rể ấy mà." Người bán hàng "cắn câu ngay", và Perry lập tức tụt chiếc quần jeans ra, thử bộ sáng bóng mà người bán hàng coi là thứ "lý tưởng cho lễ hội nghi thức". Sau khi bình luận cái thân hình có tỷ lệ kỳ dị của ông khách - phần quá cỡ, phần dưới hụt cỡ - ông ta thêm, "Tôi sợ rằng chúng tôi có thứ gì thích hợp mà cần phải sửa." "Ồ," Dick , "Cứ O.K. , chúng tôi nhiều giờ - đám cưới mãi 'tuần sau cơ mà'." Thỏa thuận xong, chúng liền chọn bộ lòe loẹt được xem là thích hợp với cái Dick gọi là tuần trăng mật ở Florida. "Ông biết Hòn Địa đàng ?" Dick với người bán hàng. "Ở bãi biển Miami ấy? chị ấy đặt trước phòng ở đó rồi. Quà bố mẹ vợ tặng - hai tuần, mỗi ngày bốn chục đô. bảo sao đây hả? gã cà nhắc xấu xí như ta, chả hiểu tán ngon tán ngọt thế nào chị chàng chỉ chịu đổ mà còn sẵn lòng cống đủ thứ đồ cho nữa. Trong khi như ông và tôi, ngon lành tốt mã thế này..." Người bán hàng đưa hóa đơn. Dick cho tay vào túi sau, cau mày, búng ngón tay đánh tách cái , "Chui cha! Quên ví mất rồi." Điều này với Perry xem ra là mánh quá yếu "lừa nổi thằng mọi mới ngày tuổi". Nhưng ràng người bán hàng tán thành ý kiến này vì ta chìa ra ngân phiếu khống, rồi khi Dick ghi vào đó dôi ra đến tám chục đô so với tiền hóa đơn cộng lại ta bèn lập tức trả chỗ chênh bằng tiền mặt.

      Ra ngoài Dick , "Vậy là tuần sau cậu lấy vợ hả? Được, cậu cần cái nhẫn." Ít lâu sau, ngồi trong chiếc Chevrolet cũ kỹ của Dick, chúng đến cửa hàng tên gọi Kim hoàn Thượng hạng. Sau khi mua ở đây chiếc nhẫn đính hôn và dây kim cương cổ tay dùng cho đám cưới, chúng đến nhà cầm đồ dể cho mấy khoản này. Perry buồn vì phải thấy chúng ra . bắt đầu tin nửa vào dâu vờ, tuy hình dung của về ta có trái với quan niệm của Dick, ta giàu đẹp, nhưng mà ta biết trang điểm xinh xắn, năng dịu dàng, được coi là "tốt nghiệp cao đẳng", muốn gì cũng là " nàng rất trí thức" - loại luôn mong gặp gỡ nhưng thực tế chưa bao giờ.

      Trừ phi nếu tính đến Cookie, y tá quen khi bị tai nạn xe máy phải nằm bệnh viện. bé dịu dàng, Cookie ấy, và thích , thương , cưng , gợi hứng cho đọc "văn chương nghiêm chỉnh" - Cuốn theo chiều gió, Đây là người dấu của em. Những chương hồi ăn nằm mang tính kỳ lạ và vụng trộm xảy ra, tình được nhắc đến, cả hôn nhân nữa, nhưng cuối cùng, khi các vết thương lành, chào từ biệt và tặng , thay cho lời giải thích, bài thơ là tự sáng tác:

      giống người hợp với đời,

      giống người thể ngồi yên;

      Cho nên họ làm cho bè bạn

      Và họ hàng tan nát con tim;

      Họ phỉ chí dọc ngang trần thế

      khắp các cánh đồng, lang thang

      Khắp các triền sông

      Và leo lên đỉnh núi cao;

      Lời nguyền của họ là lời nguyền của dòng máu Gipxi 1

      Và họ biết thế nào là nghỉ.

      Nếu cứ thẳng tắp có thể họ xa;

      Họ khỏe, họ can trường và họ ;

      Nhưng họ luôn mệt với những cái là thực tại,

      Và họ mong cái mới cùng cái lạ.

      gặp lại nữa, nghe hay người khác đến , nhưng nhiều năm sau xăm tên lên cánh tay mình, và lần, khi Dick hỏi là "Cookie" ai, , " ai cả. tớ gần như lấy." (Việc Dick hai lần lấy vợ và làm bố của ba đứa con là điều thèm muốn. người vợ, những đứa con - đó là kinh lịch mà " người đàn ông phải trải", dẫu là, với Dick, nó hề "làm cho được hạnh phúc hay lợi lộc gì").

      Mấy cái nhẫn cầm được trăm năm chục đô la. Chúng lại vào tiệm kim hoàn khác, tiệm Goldman, và lừng khừng ra khỏi đó với chiếc đồng hồ vàng của đàn ông. Lần đỗ lại sau, ở cửa hàng Camera Elko, nơi chúng "mua" camera quay phim đại. "Camera là khoản đầu tư tốt nhất của cậu đấy," Dick bảo với Perry. "Món dễ cầm dễ bán nhất. Camera hay ti vi." Chúng quyết định lấy nhiều ti vi, và khi hoàn thành sứ mạng, chúng liền tiếp, đánh tiếp vào số thương xá bán quần áo nữa - Sheperd & Fosters, Rothschild's, Thiên đường của Người mua sắm. Vào khoảng mặt trời lặn, khi các cửa hàng đóng cửa, túi chúng đầy ắp tiền mặt và xe chất đầy các mặt hàng cầm được bán được. Đưa mắt duyệt qua vụ thu hoạch những áo sơ mi và bật lửa, những máy móc đắt tiền và những khuy măng sét rẻ tiền, Perry cảm thấy mình cao lớn cách vung vinh - giờ , nào, Mexico, cơ may mới, cuộc sống " là sống". Nhưng Dick hình như lại suy sụp. rũ phắt những lời ca tụng của Perry ("Ý tớ là thế này, Dick. Cậu đáng kinh ngạc. nửa thời gian là tớ tin cậu.") - Perry bối rối; thể hiểu tại làm sao Dick, bình thường tự mãn là thế, song khi có có hay ho để phét lác tự dưng lại đâm ra nhu mì, nom ỉu xìu và buồn xo vậy. Perry , "Tớ bao cậu chầu uống."

      Chúng dừng ở quán bar. Dick uống ba Mùa Cam Rộ. Sau cốc thứ ba, hỏi độp, "Về ông bố tớ cậu nghĩ sao? Ôi Giê-su, tớ cảm thấy ông ấy là ông già tốt ơi là tốt. Và mẹ tớ - chà, cậu gặp bà ấy rồi đấy. Cậu nghĩ gì về hai người? Tớ ấy à, tớ phới Mexico. Hay bất cứ đâu. Nhưng hai cụ vẫn cứ ở đây khi những tấm séc kia bắt đầu bị trả về. Tớ hiểu bố tớ. Ông muốn mọi thứ đều tốt cả. Như ông từng cố trước nay. Cố mà được - ông già, ông ốm, ông chẳng được cái gì."

      "Tớ thông cảm chuyện đó," Perry lòng. Dù tử tế nhưng đa sầu đa cảm, và tình của Dick với bố mẹ, mối lo lắng cho bố mẹ mà Dick thổ lộ quả làm cho Perry xúc động. "Nhưng mà, mẹ kiếp, Dick. Rất đơn giản," Perry . "Chúng ta có thể làm cho mấy tấm séc kia phải hóa ra tiền. khi chúng ta tới Mexico, khi chúng ta bắt tay ở đó hái ra tiền. Nhiều nhiều tiền."

      "Bằng cách nào?"

      "Bằng cách nào ấy à?" - Dick muốn gì thế nhỉ? Câu hỏi làm cho Perry sửng sốt. Muốn gì cũng thảo luận với nhau về các khoản làm ăn phong phú đến thế rồi mà! Tìm vàng, lặn tìm kho vàng đắm - đó mới là hai dự án Perry hăng hái đề nghị. Còn những cái khác nữa. Chẳng hạn con tàu. Chúng thường đến con tàu đánh cá ngoài khơi, cái tàu chúng mua, tự mình làm thủy thủ cho mình và cho bọn người nghỉ hè thuê - khoản này vẫn có, mặc dù cả hai chưa từng chèo xuồng hay câu nổi con cá ranh. Rồi còn vụ kiếm tiền nhanh bằng cách lái xe ăn cắp qua các biên giới Nam Mỹ nữa. ("Cậu được trả mỗi chuyến trăm đô" hay đại khái thế, Perry đọc ở đâu đó). Nhưng trong nhiều câu trả lời mà có thể đưa ra, chọn nhắc Dick nhớ đến cái kho báu chờ chúng ở đảo Cocos, doi đất ngoài bờ biển Costa Rica. " đùa đâu, Dick," Perry . "Đích thực thế đấy. Tớ xoay được tấm bản đồ. Tớ biết hết tất cả câu chuyện. Nó được chôn ở đó từ năm 1821 - vàng thoi, tư trang Pêru. Sáu chục triệu đô la - họ giá trị của nó là như vậy đó. Dù ta tìm ra được tất cả, dù ta tìm ra chỉ phần , nào Dick, cậu có với tớ đây?" Cho tới hôm nay, Dick vẫn luôn cổ vũ khuyến khích , chăm chú nghe đến các bản đồ, các chuyện kho vàng, nhưng bây giờ - và điều này trước đây chưa hề xảy ra - nghĩ có phải thời gian qua Dick chỉ toàn giả bộ , đùa hay .

      Ý nghĩ này đau nhói nhưng chỉ lướt qua, bởi vì, nháy mắt và tát cái xong, Dick , "Chắc chắn chứ bồ. Tớ với cậu. cho đến hết đường."

      ° ° °

      Ba giờ sáng, chuông điện thoại lại réo. Nào có quan trọng gì cái giờ gọi. Muốn gì Al Dewey cũng tỉnh hẳn, cả Marie lẫn hai đứa con trai của họ, Paul chín tuổi và Alvin Adams Dewey, Jr., mười hai tuổi. Ai mà ngủ nổi trong ngôi nhà mà đêm nào cũng cứ vài phút lại có chuông điện thoại réo kia chứ? Khi xuống giường Dewey hứa với vợ, "Lần này để ống nghe ra ngoài giá." Nhưng đây phải là lời hứa ông dám giữ. thế, nhiều cuộc gọi là của các nhà báo săn tin, của những người sẵn bụng đùa hay của những nhà giả thuyết học. ("Al hả? Nghe này, bạn. Tôi hình dung ra vụ này. Đây là tự sát và án mạng. Tình cờ tôi biết Herb trong cảnh gay go về tài chính. Tiền dàn ra khá nhiều. Vậy ông ta làm gì? Ông ta lấy ra món bảo hiểm lớn này, bắn vợ và bọn trẻ rồi tự sát bằng bom. quả lựu đạn nhồi đạn ghém.") hay những người vô danh có đầu óc tống tiền ("Có biết bọn họ ? Người nước ngoài à? ăn thua ư? Làm liên hoan? Tiệc cốc tai? Tiền ở đâu ra? Nếu tiền là gốc của vụ rắc rối Clutter tớ chẳng có ngạc nhiên tí nào đâu nhá."), hoặc các bà hay căng thẳng bị những lời đồn đại lan truyền làm cho hốt hoảng, những đồn đại biết đâu là gốc ngọn nữa ("Alvin này, tôi biết từ lúc còn bé. Tôi muốn bảo thẳng tôi liệu có phải là thế . Tôi và kính trọng, ông Clutter và tôi tin rằng con người ấy, người Cơ đốc ấy - tôi tin ông ta lại lùng đàn bà...").

      Nhưng phần lớn người gọi đến là những công dân có tinh thần trách nhiệm muốn được giúp gì đó (" biết ông hỏi Susan Kidwell, bạn của Nancy chưa? Tôi chuyện với bé, ấy điều làm tôi giật mình. ấy lần cuối cùng trò chuyện với Nancy, Nancy bảo ông Clutter vui. thế suốt ba tuần qua rồi. Rằng ấy nghĩ ông Clutter rất lo phiền chuyện gì đó, lo phiền đến nỗi đâm ra hút thuốc lá đấy..."). Hoặc người gọi là những người chính thức có liên quan - viên chức pháp luật và cảnh sát trưởng ở các nơi khác trong bang ("Đây có thể là cái gì mà cũng có thể , nhưng chủ quán bar ở đây ông ta nghe lỏm được hai người bàn đến vụ kia mà nghe như là bọn họ rất có liên quan..."). Và tuy câu chuyện nào điện thoại làm được gì hơn ngoài chuyện tăng thêm việc làm ngoài giờ của các điều tra viên, song vẫn luôn có khả năng là câu chuyện kế tiếp làm được cái gì, như Dewey , "Giờ giải lao, màn hạ."

      Lần gọi này Dewey lập tức nghe đầu kia , "Tôi muốn thú tội."

      Ông , "Tôi với ai đấy, xin cho hay?"

      Người gọi, người đàn ông, nhắc lại lời thú nhận độc đáo của mình và thêm, "Tôi làm. Tôi giết tất cả họ."

      "Vâng," Dewey . "Bây giờ nếu tôi được biết tên và địa chỉ của ông..."

      , ông đừng," người đàn ông , giọng lè nhè đầy những bực dọc có hơi rượu. "Tôi với ông cái gì hết. , tới khi nào tôi nhận được tiền thưởng ông gửi đến tôi mới bảo ông tôi là ai. Xong."

      Dewey quay về giường. "Cưng à, ," ông . " có gì quan trọng. Lại thằng say."

      " muốn gì vậy ."

      "Muốn thú tội. Đòi ta đưa tiền thưởng trước ." ( tờ báo ở Kansas, tờ Tin tức Hutchinson, hứa biếu nghìn đô la cho thông tin nào dẫn đến lời giải cho vụ án).

      "Alvin, lại châm điếu khác đấy phải ? , Alvin, thể cố mà ngủ được ư?"

      Ông căng đầu quá ngủ được, cho dù có thể để cho điện thoại im - quá bực bội và quá thất vọng. Chả có "manh mối" nào dẫn đến đâu, trừ có lẽ xuống lối mù tới những bức tường đen ngòm nhất. Bobby Rupp ư? máy dò dối loại cậu ta ra rồi. Và ông Smith, người chủ trại buộc nút dây thừng giống với những cái nút tên giết người buộc - ông ta cũng là người tình nghi được loại ra, có bằng chứng rằng đêm án mạng ông ta ở "tít tận Oklahoma". Như vậy còn lại hai bố con nhà John, nhưng họ cũng đưa ra bằng chứng vắng mặt hôm đó, có thể xác minh được. "Vậy là, tất cả cộng lại thành con số tuyệt đẹp. Zero," trích lời Harold Nye. Cả việc săn tìm cái mộ con mèo của Nancy cũng đưa đến đâu.

      Nhưng hai phát có ý nghĩa. Thứ nhất, trong khi xếp lại quần áo Nancy, bà Elaine Selsor, dì , tìm thấy trong mũi chiếc giày có nhét chiếc đồng hồ đeo tay bằng vàng. Thứ hai, có nhân viên K.B.I. cùng, bà Helm lục soát tất cả các gian phòng trong Trại Lũng Sông, đảo khắp ngôi nhà, hy vọng có thể nhận thấy cái gì trái khoáy hay vắng thiếu; và bà tìm ra. Cái đó xảy ra ở phòng Kenyon. Bà Helm xem xem lại, ngang dọc gian phòng, môi mím lại, sờ cái này, mó cái kia - chiếc găng chơi bóng chày của Kenyon, đôi ủng lao động lấm bùn của Kenyon, đôi kính gợi buồn của cậu bị bỏ lại. Suốt thời gian đó bà cứ thầm, "Chỗ này có cái gì phải, tôi cảm thấy nó, tôi biết nó, nhưng tôi biết nó là cái gì." Và rồi bà biết. "Đó là chiếc rađiô! Chiếc rađiô tí tẹo của Kenyon đâu?"

      Gộp lại với nhau, các phát này buộc Dewey phải xét lại khả năng "ăn trộm đơn thuần" là động cơ. Chắc chắn chiếc đồng hồ kia phải tình cờ mà lại rúc vào trong giày của Nancy? phải nghe thấy những tiếng động - những bước chân, có lẽ cả những giọng - khiến cho rằng kẻ trộm ở trong nhà, và tin như vậy mới phải vội vàng giấu chiếc đồng hồ, tặng vật của bố mà nâng niu. Còn chiếc rađiô, chiếc xách tay màu xám của hãng Zenith - đúng hẳn hoi rồi, nó bị lấy . Nhưng, Dewey vẫn thể chấp nhận cái lý thuyết cho rằng gia đình này bị thảm sát là vì món lợi bèo - " ít đô la với cái rađiô". Chấp nhận nó xóa sạch hình ảnh của ông về tên giết người - hay đúng hơn, những tên giết người. Ông và những người cộng quyết định dứt khoát dùng cái từ này ở số nhiều. Trình độ gây án thành thạo đủ là bằng chứng rằng ít nhất trong hai kẻ giết người hành động với mức độ lì lợm quá đỗi - và chắc nó phải là đại cao thủ mới có thể làm việc như thế mà chẳng có động có suy tính trước. Dewey cũng bắt đầu nhận ra nhiều điểm đặc biệt củng cố niềm tin của ông là ít nhất tên trong đám giết người có vướng gợn về cảm xúc với các nạn nhân, cảm thấy đôi chút trìu mến leo lét nào đó đối với họ, thậm chí dù hủy diệt họ. Cái thùng đựng đệm kia giải thích khác thế nào được đây?

      Cái thùng đựng đệm là điểm làm cho Dewey bối rối nhất. Tại sao bọn giết người lại bỏ công dịch cái thùng từ đằng cuối tầng hầm vào trước cái lò sàn nhà, nếu phải là định làm cho ông Clutter được dễ chịu hơn - tạo ra cho ông chỗ nằm đỡ cứng hơn nền xi măng trong khi ông nhìn lưỡi dao đến gần? Và nghiên cứu các tấm ảnh chụp các cảnh chết chóc, Dewey phân biệt ra những chi tiết khác xem chừng ủng hộ cho quan điểm của ông về tên giết người thỉnh thoảng lại bị thúc đẩy bởi những xung động bảo hãy ý tứ với nạn nhân. "Hay" - ông bao giờ tìm ra cái chữ ông mong có - " cái gì cầu kỳ. Và mềm dịu. Những tấm vải phủ giường kia. Chậc, loại người nào lại làm như vậy - trói gô hai người đàn bà lại, kiểu Bonnie và bị trói, rồi kéo chăn lên, bọc họ vào trong, giống như chúc cho mộng đẹp và ngủ ngon? Hay cái gối kê dưới đầu Kenyon. Thoạt tiên tôi tưởng cái gối được đặt ở đó làm cho đầu của cậu ta thành cái đích nổi hơn. Bây giờ tôi nghĩ là , lý do tên sát nhân làm việc đó cũng giống như lý do nó trải cái thùng đựng đệm lên sàn - để nạn nhân dễ chịu hơn."

      Nhưng đây chỉ là những suy đoán; tuy cuốn hút tâm trí Dewey, chúng vẫn làm cho ông hài lòng hay cho ông cảm tưởng "đạt được cái gì". vụ án ít khi được giải quyết bằng những "giả thuyết tưởng tượng"; ông đặt niềm tin vào việc cụ thể - "đổ mồ hôi vì chúng và quyết lấy được chúng", số lượng việc cần tìm và sàng lọc, lịch đặt ra để có được chúng hứa hẹn phải đổ rất nhiều mồ hôi, đòi hỏi phải dõi lùng, "tìm hiểu" hàng trăm con người, gồm tất cả những người làm mướn trước đây cho Trại Lũng Sông, bạn bè và gia đình, bất cứ ai mà ông Clutter hoặc ít hoặc nhiều làm ăn cùng - con rùa bò ngược vào quá khứ. Vì như Dewey báo với kíp của ông, "Chúng ta cứ cho tới khi nào chúng ta hiểu nhà Clutter hơn cả chính bản thân họ. Cho tới khi chúng ta nhìn ra chỗ giằng níu nhau giữa cái mà chúng, ta tìm thấy sáng Chủ nhật trước và cái gì có thể xảy ra từ năm năm rồi. Sợi dây liên hệ. Phải có sợi dây liên hệ. Phải có."

      Bà vợ Dewey chập chờn, nhưng liền thức hẳn khi cảm thấy ông rời khỏi giường, nghe ông trả lời điện thoại lần nữa, và nghe thấy trong buồng bên cạnh, nơi ba con bà ngủ, tiếng nức nở. đứa bé trai khóc. "Paul?" Thông thường Paul hay bị quấy - cũng chẳng hay quấy. Nó mải đào hầm ở sân sau nhà hay tập để trở thành "người chạy nhanh nhất hạt Finncy". Nhưng sáng nay lúc ăn điểm tâm, nó òa khóc. Người mẹ cần hỏi tại sao, bà cũng hiểu rằng dù sao nó cũng biết tuy chỉ lờ mờ những lý do gây nên xáo động quanh nó, nó cũng cảm thấy bị đe dọa - bởi những cú điện thoại mệt người, những người lạ mặt ở cửa, đôi mắt ngơ ngác và lý do ưu phiền của bố. Bà sang an ủi con. nó, lớn hơn nó ba tuổi, giúp bà. "Paul," thằng , "em nín , rồi ngày mai dạy em đánh poker."

      Dewey ở trong bếp; Marie tìm và thấy ông ở đó, chờ cà phê pha, những tấm ảnh trường vụ án la liệt trước mặt ông - bàn bếp - những vệt mờ nhạt làm ố mất mặt vải dầu vẽ hình hoa quả đẹp đẽ của cái bàn. (Có lần ông bảo bà xem tấm ảnh. Bà từ chối. Bà , "Em muốn nhớ về Bonnie như Bonnie vốn dĩ là thế - cả họ cũng vậy.") Ông , "Có lẽ bọn phải đến ở với mẹ." Mẹ ông, cụ góa, song xa lắm, trong ngôi nhà cụ cho là quá rộng và quá im lìm; các cháu nội cụ luôn luôn được hoan nghênh.

      "Chỉ ít ngày thôi. Cho tới khi - được, cho tới..."

      "Alvin này, có nghĩ là rồi chúng ta trở lại với cuộc sống bình thường được ?" bà Dewey hỏi.

      Cuộc sống bình thường của họ là như thế này: cả hai làm, bà Dewey là thư ký văn phòng và họ chia nhau công chuyện nội trợ, luân phiên làm bếp và rửa bát. ("Khi Alvin là cảnh sát trưởng, tôi biết có vài đứa trẻ trêu đùa ấy. Hay , 'Xem kìa chuyện hay! Cảnh sát trưởng Dewey đến! Người đàn ông dữ dằn! Đeo khẩu sáu viên! Nhưng khi ông ấy về nhà, khẩu súng liền rời và thượng tạp dề lên'!") Lúc đó, họ dành dụm để xây nhà ở cái trại Dewey mua năm 1951 - hai trăm bốn chục mẫu cách Garden City vài dặm về phía Bắc. Nếu thời tiết tốt, đặc biệt những ngày nóng và lúa mì mọc cao chín, ông thích lái xe ra đây tập rút súng nhanh - bắn quạ, hộp thiếc - hay tưởng tượng ra mình loăng quăng trong ngôi nhà ông hy vọng có, qua khu vườn ông có ý trồng trọt, và dưới các cây vẫn chưa tra hạt. Ông rất tin là ngày nào đó, ốc đảo sồi và du của ông sừng sững ở những bình nguyên bóng cây này: " ngày nào đó. Chúa muốn."

      Đức tin ở Chúa và những nghi thức bao quanh đức tin đó - lễ nhà thờ mọi Chủ nhật, tạ ơn trước bữa ăn, đọc kinh trước khi ngủ - là phần quan trọng trong đời sống nhà Dewey. "Tôi hiểu làm sao lại có người ngồi xuống ăn mà tạ ơn Chúa," bà Dewey có lần . "Đôi khi, lúc làm về, khá là mệt mỏi. Nhưng bao giờ cũng có cà phê lò và đôi khi miếng bít tết trong ngăn đá. Bọn trẻ châm bếp rán bít tết và chúng tôi trò chuyện, kể cho nhau ngày làm việc của mình, và lúc bữa tối làm xong, tôi biết chúng tôi có lý do chính đáng để vui mừng và biết ơn. Cho nên tôi , "Tạ ơn Chúa. chỉ vì con nên tạ ơn mà là con muốn tạ ơn."

      Bây giờ bà Dewey , "Alvin, trả lời em nào. có nghĩ là chúng ta lại có cuộc sống bình thường như trước hay đấy?"

      Ông định trả lời, nhưng chuông điện thoại làm cho ông ngừng lại.

      ° ° °

      Chiếc Chevrolet cũ rời Kansas City đêm thứ Bảy, 21 tháng Mười . Hành lý được buộc ở cái chắn bùn và cột mui xe; cái rương bị nhét đầy phè đậy lại được; bên trong xe, ở hàng ghế sau, hai chiếc ti vi đặt chồng lên nhau. Người xe chịu ngồi chật: Dick lái, còn Perry ôm cây ghi ta Gibson cũ của , vật sở hữu nhất. Còn các đồ dùng khác của Perry - va li các tông, rađiô xách tay Zenith màu xám, can bia cồn làm bằng rễ cây ( sợ thứ nước uống thích này có ở Mexico) và hai thùng lớn đựng sách, bản thảo, quyển sổ ghi các kiện dấu đáng ghi nhớ (và Dick chả nổi cơn điên sao! Chửi rủa, đá hộp đá thùng, gọi chúng là "đồ lợn hai tạ rưỡi cứt!") - mấy cái này cũng là phần trong mớ nội thất bề bộn của chiếc xe.

      Khoảng nửa đêm, chúng vượt biên giới vào bang Oklahoma. Vui vì ra khỏi bang Kansas, Perry cuối cùng cũng người. Bây giờ đúng rồi - chúng bon bon con đường của chúng. Con đường của chúng, và bao giờ còn quay lại - hề luyến tiếc, về phần vì chẳng để cái gì lại ở đằng sau, và chẳng ai có thể nghĩ sâu xa đến việc bị cuốn quay cuồng vào trong bầu khí mỏng manh nào. Với Dick thể thế. Có những cái Dick tuyên bố là : ba đứa con trai, bà mẹ, ông bố, người - những người dám thổ lộ các dự án của hay chào từ biệt, tuy bao giờ chờ mong gặp lại họ - trong cuộc đời này của .

      ° ° °

      LỄ KẾT HÔN CỦA CLUTTER VÀ ENGLISH ĐƯỢC TỔ CHỨC VÀO THỨ BẢY: tiêu đề này xuất trang xã hội của tờ Điện tín Garden City ngày 23 tháng Mười làm nhiều người đọc ngạc nhiên. Hình như Beverly, con thứ hai sống sót của ông Clutter cưới Vere Edward English, cậu sinh viên khoa Sinh học mà đính ước từ lâu. Clutter mặc đồ trắng và đám cưới đầy đủ nghi thức ("Bà Leonard Cowan đơn ca và bà Howard Blanchard chơi đàn organ") được "tiến hành trọng thể tại Nhà thờ Giám lý Thứ nhất" - nhà thờ mà, tại đó ba hôm trước, dâu chính thức đưa tang bố mẹ, em trai và em mình. Tuy vậy, theo tường thuật của tờ Điện tín "Vere và Beverly lẽ ra dự định cưới nhau vào dịp lễ Giáng sinh. Giấy mời in, bố đặt trước ngày giờ với nhà thờ. Do tấn thảm kịch ngờ tới và vì nhiều họ hàng từ các nơi xa ở đây, nên cặp trẻ tuổi quyết định làm lễ cưới vào thứ Bảy này."

      Lễ cưới kết thúc, họ hàng Clutter tản mát . Ngày thứ Hai, người cuối cùng trong đám họ rời Garden City, tờ Điện tín đăng ở trang nhất bức thư do ông Howard Fox ở Oregon, bang Illinois, trai của bà Bonnie Clutter viết. Sau khi ngỏ lời cảm tạ dân thị trấn rộng mở "trái tim và mái nhà" cho gia đình bị tổn thất, bức thư thành lời xin khoan dung. "Có nhiều oán giận trong cộng đồng này (tức là Garden City)," ông Fox viết. "Tôi hơn lần nghe rằng kẻ đó, khi bị tìm ra, bị treo lên cái cây gần nhất. Xin đừng nghĩ như vậy. Việc kia làm rồi, lấy mạng sống khác cũng chẳng thay đổi được gì. Thay vì vậy, chúng ta hãy tha thứ như Chúa bảo chúng ta. Giữ trong tim chúng ta mối oán thù là phải. Kẻ làm việc kia thấy khó lòng mà sống với bản thân. chỉ được bình tâm tĩnh trí chừng nào đến cầu xin lượng khoan hồng tha thứ của Chúa. Chúng ta chớ cản đường, thay vì vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho tìm được bằng an."

      ° ° °

      Chiếc xe đỗ ở mô đất cao, nơi Perry và Dick dừng lại ăn picnic. trưa. Dick đưa ống nhòm nhìn quét vùng xung quanh. Núi. Những con ó lượn trền vòm trời trắng. con đường bụi bặm uốn khúc vào rồi ra khỏi ngôi làng trắng và bụi bặm. Hôm nay là ngày thứ hai ở Mexico, và cho đến nay xứ này - kể cả thức ăn. (Lúc này ăn cái bánh ngô lạnh nhờn dầu). Chúng qua biên giới ở Laredo, Texas, sáng 23 tháng Mười , qua đêm đầu tiên ở nhà thổ tại San Luis Potosí. Chúng cách Mexico City, nơi sắp tới của chúng, hai trăm dặm về phía Bắc.

      "Biết tớ nghĩ gì ?" Perry . "Tớ nghĩ cái gì đó hay với chúng ta. Làm cái việc chúng ta làm."

      "Làm cái gì?"

      " ra đây."

      Dick ném ống nhòm vào trong túi da, cái hộp sang trọng mang mấy chữ đầu tên H. W.C. bực. Bực lắm. Cái chó gì mà Perry nó câm mồm chứ nhỉ? Lạy Chúa, cứ kéo rê cái của nợ ấy theo được cái chó gì? đáng bực. Đặc biệt từ khi nhất trí tới cái của nợ đó nữa. Quên nó .

      " xảy chuyện hay với những ai làm việc như thế," Perry .

      "Loại tớ ra đấy nhé, bồ," Dick . "Tớ là người bình thường." Dick vậy, và quả thực ý muốn vậy. nghĩ kẻ đầu óc cân bằng, lành mạnh như bất kỳ ai - có thể thông minh hơn lũ trung bình chút, đấy, thế thôi. Nhưng còn Perry - theo Dick có, có " cái gì hay" ở Perry Bé Bỏng. Ít nhất là thế. Mùa xuân năm ngoái, khi hai đứa chung xà lim ở Nhà tù Bang Kansas, biết được phần lớn những cái quái đản ít tệ hại hơn của Perry. Perry có thể là " thằng như thế", luôn đái ướt cả giường và kêu khóc khi ngủ ("Bố ơi, con tìm khắp nơi, bố ở đâu, bố ơi?"), và Dick thường thấy "ngồi hàng giờ mút ngón tay cái ngâm cứu mấy quyển sách hướng dẫn chết bầm về các kho báu rởm". Đó là mặt; còn các mặt khác nữa. Ở vài chỗ nào đó thằng cha Perry lại "kinh bỏ bố". Lấy thí dụ, tính khí của . có thể chợt trở nên cuồng điên "nhanh hơn cả mười thằng da đỏ say rượu". Nhưng bạn còn chưa biết cái này. " có thể sẵn sàng giết bạn, nhưng bạn chẳng bao giờ biết đâu nhá, chớ nhìn chớ nghe," Dick có lần thế. Bởi tuy cơn khùng ở bên trong có cực kỳ đến thế nào ở bên ngoài Perry vẫn cứ là tay dữ dằn trẻ tuổi, lì lì, với con mắt bình thản và ngái ngủ. có thời Dick nghĩ có thể kiểm soát, có thể điều chỉnh được nhiệt độ các cơn sốt lạnh bất thần hun đốt và làm run rẩy thằng bạn . lầm, và kết quả của phát này là ngày càng thấy thể đặt niềm tin vào Perry, thể nắm chắc được hoàn toàn điều Perry nghĩ - trừ việc cảm thấy nên sợ Perry, và thầm nghĩ tại sao mình lại chưa sợ.

      "Sâu ở bên trong tớ," Perry tiếp, "sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm được như thế. cái việc như thế."

      "Về thằng mọi sao?" Dick hỏi. Im lặng. Dick nhận ra Perry nhìn mình chằm chằm. Tuần trước, ở Kansas City, Perry mua cặp kính đen - cặp kính ngổ ngáo với hai cái gọng mạ bạc và tròng mắt phản chiếu như gương. Dick ghét cái cặp kính đó; bảo Perry là xấu hổ khi để người ta thấy cùng với " người đeo cái loại cổ quái này". ra, cái làm khó chịu là đôi tròng kính; chả thú vị chút nào khi đôi mắt Perry giấu đằng sau cái khoảnh kín bưng mấy bề mặt nhuộm màu chiếu ngược lại mặt mình kia.

      "Nhưng thằng mọi," Perry . "Thằng mọi khác."

      Lời bình đó, cái giọng miễn cưỡng dùng để thốt lời bình đó, khiến Dick hỏi, "Hay cậu giết theo kiểu đó? Giết theo kiểu cậu ấy?" Đây là câu hỏi có ý nghĩa, vì mối quan tâm lúc đầu dành cho Perry và đánh giá của về tính cách cùng bản lĩnh ngầm của Perry là dựa câu chuyện Perry đánh người da màu đến chết mà Perry có lần kể nghe.

      " đúng thế. Có điều đấy là thằng mọi. giống người khác." Rồi Perry , "Cái gì làm tớ quạu, cậu biết ? Về chuyện kia á? Chỉ là vì tớ tin chuyện đó - rằng bất cứ ai cũng có thể làm việc ấy mà rồi thoát được. Vì tớ hiểu làm sao lại có thể vậy được. Làm cái việc chúng ta làm ấy. Rồi thoát êm trong khi cửa cho mình chỉ là phần trăm. Tớ muốn điều đó làm cho tớ quạu - tớ tài nào xua được khỏi đầu cái ý nghĩ là có chuyện gì đó sắp xảy ra."

      Tuy hồi bé có lễ nhà thờ, Dick vẫn bao giờ "gần" được với đức tin nơi Chúa; cũng chẳng bị phiền nhiễu vì những thứ mê tín dị đoan. Khác Perry, tin rằng gương vỡ có nghĩa là bảy năm bất hạnh, hay trăng non thoáng thấy kính cửa sổ là điềm báo có cái gì hung hiểm bên trong. Nhưng với linh giác sắc nhạy và ba vạ của mình, Perry đánh vào mối ngờ vực lâu bền của Dick. Cũng thế, Dick chịu đựng những lúc mà câu hỏi kia cứ quay đảo trong đầu : liệu hai đứa chúng nó, "trung thực với Chúa, có thể thoát được sau khi làm những việc như thế ?" Thình lình, bảo Perry, "Thôi, bây giờ nín nhá." Đoạn rồ máy lui xe ra khỏi mô đất. Đằng trước , con đường ngập bụi, nhìn thấy con chó chạy thủng thẳng trong ánh mặt trời nóng ấm.

      ° ° °

      Núi non. Những con ó lượn tròn vòm trời trắng.

      Khi Perry hỏi Dick, "Biết tớ nghĩ gì ?" biết mình bắt đầu cuộc trò chuyện làm Dick khó chịu, cuộc trò chuyện mà vì lẽ đó cũng nên tránh sớm. đồng ý với Dick. Sao cứ hoài chuyện đó? Nhưng thể lúc nào cũng chặn bản thân mình được. Những cơn suy sụp bại hoại vì tuyệt vọng xảy ra, những lúc "nhớ lại mọi thứ" - cái ánh sáng màu xanh lơ nổ lòe trong gian phòng tối, hai con mắt thủy tinh của con gấu đồ chơi to tướng - và khi những tiếng , ít lời lẽ đặc biệt bắt đầu giày vò tâm trí : "Ôi, ! Ôi, làm ơn! ! ! ! ! Đừng! Ôi, xin đừng, làm ơn!" Cùng vài thanh cứ vẳng trở lại - đồng đô la bằng bạc lăn sàn nhà, bước chân ủng các bậc thang bằng gỗ rắn, và tiếng thở, tiếng hổn hển, tiếng hít vào điên rồ của người bị cắt mất cuống họng.

      Khi "Tớ nghĩ ắt hay với bọn mình," Perry phải thừa nhận điều mà "ghét". Dẫu gì cũng "đau đớn" khi nghĩ rằng mình có thể " hẳn đúng" - nhất là nếu như dù có gì trục trặc chăng nữa cũng phải lỗi tại mình mà do "mình sinh ra như thế rồi". Nhìn gia đình xem! Nhìn xem xảy ra những gì ở đó! Mẹ , bà nát rượu, bị chết ngạt trong đống nôn mửa của chính mình. Trong các con của bà, hai trai, hai , chỉ có đứa em , Barbara, là bước vào bình thường, lấy chồng, bắt tay gây dựng gia đình. Fern, đứa chị, nhảy lầu từ cửa sổ khách sạn ở San Francisco. (Perry từ đó cứ "cố tin là chị ấy trượt chân" vì Fern. Fern, " người đáng như thế," "nghệ sĩ" như thế, dân nhảy giỏi "kinh khủng" mà lại biết cả hát nữa. "Nếu chị ấy được chút may mắn với cái mẽ người và mọi thứ của mình, chị ấy có thể đến nơi nào đó, làm ai đó." Cứ nghĩ tới chuyện chị ấy leo lên thành cửa sổ rồi từ mười lăm tầng gác buông mình xuống là buồn.) Lại còn Jimmy, thằng con trai cả - hôm khiến vợ phải đến nước tự sát rồi sau đó cũng tự giết mình luôn.

      Rồi nghe thấy Dick , "Loại tớ ra ngoài nhá, bồ. Tớ là thằng bình thường." Có phải nghe cứ như đấm vào tai ? Nhưng chấp, cho qua. "Sâu ở bên trong tớ," Perry tiếp, "sâu tới tận củ tỉ tớ, tớ bao giờ nghĩ tớ lại có thể làm nổi như thế. cái việc như thế." Và ngay lập tức biết mình hố: dĩ nhiên là Dick có thể trả lời bằng cách hỏi, "Còn thằng mọi sao?" Khi kể cho Dick nghe chuyện này, đấy là vì muốn kết bạn với Dick, muốn Dick "kính trọng" mình, nghĩ "tay cừ", cũng "đàn ông ra trò" như kiểu coi Dick là thế. Cho nên hôm sau khi xem và tán bài báo của Reader's Digest có đầu đề "Bạn là thám tử tính cách giỏi đến bậc nào?" ("Trong khi chờ trong phòng của nha sĩ hay nhà ga, bạn hãy thử nghiên cứu các dấu hiệu mà những người xung quanh để lộ ra. Chẳng hạn, xem cách họ . Kiểu chân cứng đờ có thể cho thấy bản ngã cứng nhắc, thỏa hiệp; kiểu lệt xệt là của người thiếu quyết tâm"). Perry , "Tớ luôn luôn là thám tử dò tính cách thuộc hàng xuất sắc đấy, thế hôm nay tớ chẳng còn đây. Giống như tớ sao biết chắc khi nào mình có thể tin ai đó vậy. Cậu nên tin nhiều. Nhưng tớ tớ đến chỗ tin cậu rồi đấy, Dick. Cậu thấy là tớ tin, vì tớ sắp trao cái thân tớ cho cậu chỉ huy. Tớ kể cho cậu những cái tớ chưa với ai bao giờ. Với Willie-Jay cũng . Chuyện cái ngày tớ sửa thằng." Trong khi , Perry nhận thấy Dick chú ý; lắng nghe . "Vụ đó cách đây hai mùa hè. Ở ngoài Vegas. Dạo đó tớ sống ở nhà trọ cũ rích - nó vốn là ổ điếm cho người ta vui vầy tí tỉnh. Nhưng tất cả những vui vầy nhộn nhạo biến mất. Nơi này lẽ ra họ phải phá sập từ cả chục năm rồi; kiểu gì nó cũng sắp tự sụp xuống rồi. Những phòng rẻ nhất - sát mái, tớ sống ở đó. Thằng mọi cũng vậy. Tên nó là King; nó ở ngắn hạn thôi. Ở tít đó chỉ hai đứa tớ - hai chúng tớ và triệu con cucaracha tức là gián ấy. King, thằng mọi trẻ lắm, nhưng nó từng làm cầu đường và các thứ việc ở ngoài trời - nó đô con. Nó đeo kính và đọc nhiều. bao giờ nó đóng cửa. Lần nào qua, tớ cũng thấy nó nằm ngửa, trần như nhộng. Nó có việc, bảo là nhờ làm ở cái chỗ sau cùng nó dành dụm được ít đô, bây giờ muốn nằm nghỉ ngơi ít bữa, đọc sách, tự quạt mát và uống bia. Các thứ nó đọc đều là đồ nhảm - truyện tranh và truyện cao bồi ba xu. Nó O.K. lắm. Thỉnh thoảng bọn tớ uống bia với nhau và có lần nó cho tớ vay mười đô la. Tớ chẳng có cớ gì để phạm đến nó. Nhưng đêm, chúng tớ ngồi gác mái, trời nóng quá cóc ngủ được cho nên tớ mới , ' nào King, lên xe dông lúc nào.' Tớ có cái xe lột bỏ hết mọi thứ, doa lại píttông cho chạy nhanh hơn rồi đem sơn màu bạc - Bóng Ma Bạc mà lại, tớ gọi nó vậy. Chúng tớ đoạn dài. Ra tận ngoài sa mạc. Ngoài đó mát. Chúng tớ đỗ xe lại và uống thêm ít bia. King xuống xe và tớ cũng xuống theo nó. Nó trông thấy tớ nhặt sợi dây xích lên. Chiếc xích xe đạp tớ vẫn cất ở dưới gầm ghế. Đến lúc đó, cho đến khi tớ làm, tớ thực chẳng hề nghĩ là tớ làm thế. Tớ quật ngang giữa mặt nó thế này. Kính nó vỡ tan, và cứ thế tớ đánh. Sau đó tớ chẳng cảm thấy gì nữa. Tớ để nó ở lại đó, và chẳng còn bao giờ nghe lời nào đến nó. Có lẽ người ta tìm ra nó. Chim cắt chúng nó ăn mất rồi cũng nên."

      vài điều trong câu chuyện này. Như Perry , trong hoàn cảnh đúng như kể, quả là có biết gã da đen tên King. Nhưng nếu gã ấy bây giờ mà chết đâu có phải do Perry; chẳng hề giơ tay lên đánh cái nào hết. Tất cả những điều biết có lẽ là King vẫn còn nằm giường tại nơi nào đó, vừa tự quạt mát vừa uống bia.

      "Hay là cậu giết? Giết như kiểu cậu với tớ ấy?" Dick hỏi.

      Perry phải là thằng dối có khiếu hay thằng bẻm mép; nhưng khi kể ra chuyện gì hư cấu rồi thường lại hay bị mắc vào đó. "Tớ giết là cái chắc. Nhưng có điều đấy là thằng mọi. giống nhau." Và bây giờ , "Cái gì làm tớ quạu biết ? , cái chuyện kia cơ? Chính là tớ tin điều đó - tin rằng mình lại có thể thoát được sau khi làm cái trò kia." Và ngờ rằng cả Dick cũng chẳng tin. Vì ít nhất Dick phần nào cũng bị những lo âu thần bí về luân lý của Perry ám mất rồi. Vây nên mới : "Bây giờ thôi nha, bặt cái miệng ."

      Cỗ xe lại . Ba chục mét ở đằng trước, con chó chạy thủng thẳng dọc đường. Dick lạng vút xe tới. Đó là con chó lai, già, dở chết, xương xẩu ọp ẹp và cóc cáy. Cú đập, khi con chó va vào xe, còn hơn cánh chim gây nên. Nhưng Dick hể hả. "Ôi cha cu cậu!" đó là câu mỗi lần cho xe chẹt chết con chó, việc hễ có dịp nhất định làm. "Ôi cha cu cậu! Chắc chắn là bọn mình cho nó nát bét rồi!"

      ° ° °

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Lễ Tạ ơn qua, mùa trĩ đến kỳ ngừng bắn, nhưng mùa hè da đỏ tươi đẹp với dòng lũ những ngày quang đãng, trong veo của nó chẳng ngừng. Nhà báo cuối cùng phải dân thị trấn rời Garden City, tin chắc vụ án chẳng bao giờ giải được. Nhưng với người hạt Finney có lẽ nào vụ án lại kết thúc, ít ra đó là ý nghĩ của những người làm chủ cái nơi tụ hội được ưa thích ở Holcomb, quán cà phê Hartman.

      "Từ ngày xảy ra cơ kia, chúng tôi làm hết thảy những gì làm được," bà Hartman , liếc nhìn quanh cái lãnh địa gọn gàng xinh xắn của bà, mỗi mẩu của nó đều có các chủ trại, thợ làm mướn ở trại và người chăn gia súc sặc mùi thuốc lá, đứng hay ngồi hay dựa vào tường mà uống cà phê. "Đúng là lũ mụ già," người chị em họ với bà Hartman, bà chánh bưu điện Clare lúc đó tình cờ có mặt, . "Nếu là mùa xuân và thời vụ xong họ chẳng còn ở đây đâu. Nhưng mùa đông, mùa của lúa mì đến, họ chẳng có việc gì làm ngoài việc tụm lại ở đây mà dọa dẫm nhau. Bà biết Bill Brown , ở tờ Điện tín tận dưới ấy đấy? Xem xã luận ta viết chưa? Cái bài gọi là ' tội ác khác nữa' ấy? Viết, ' đến lúc mọi người nên cuốn cái lưỡi dài thòng lại, ngừng đồn nhảm .' Bởi vì dối cũng là tội ác. Nhưng bà trông chờ cái gì nào? Nhìn xung quanh xem. Rặt rắn đuôi chuông. Toàn đầu gấu. Những dân đồn thổi. Có thấy cái gì khác nào? Ha! Chỉ được cái ra vẻ."

      Bắt nguồn từ quán cà phê Hartman, lời đồn đại dính tới Taylor Jones, chủ trại chăn nuôi mà cơ ngơi liền kề với Trại Lũng Sông. Theo ý phần lớn đám khách của quán, ông Jones và gia đình mới là nạn nhân bọn giết người nhằm vào, chứ phải nhà Clutter. "Thế mới khó cãi hơn chứ," người giữ quan điểm này lập luận. "Taylor Jones, ông ta là người giàu hơn Herb Clutter xưa nay. Cứ coi như kẻ làm cái việc kia phải là người ở quanh đây. Cứ coi như nó được thuê giết, tất cả những gì nó cần chỉ là mách lối cho nó vào nhà như thế nào. Chà, nhầm dễ như chơi ấy chứ - rẽ sai cái là xong - và kết cục lại là Herb thay vì Taylor." "Giả thuyết Jones" này được nhắc đến nhiều - đặc biệt là nhắc cho nhà Taylor, gia đình được kính trọng và nhạy cảm nhưng họ chịu để cho ai làm mình xáo xác vì chuyện đó.

      quầy ăn trưa, mấy cái bàn, gian "chuôi vồ" chứa lò quay thịt, tủ lạnh và chiếc rađiô - quán cà phê Hartman có ngần ấy thứ thôi. "Nhưng khách của chúng tôi thích như thế," bà Hartman . "Thích đến đây. Còn chỗ nào khác nữa mà ." Trừ phi phải lái xe đằng bảy dặm và đằng khác mười lăm dặm. Muốn gì, chúng tôi cũng mở ra được chỗ hữu nghị thân tình mà cà phê ngon, từ khi Mabel đến làm ở đây." - Mabel tức là bà Helm. "Sau thảm kịch kia, tôi , 'Mabel à, bây giờ bà có việc, tại sao đến đỡ tôi tay ở quán cà phê nhỉ. Trông nom tí bếp nước. Phục vụ ở ngoài quầy.' Mới thành ra như giờ đây - cái duy nhất hay là ai đến cũng hỏi dồn hỏi dập bà ấy. Về cái thảm kịch kia. Nhưng Mabel đâu có như bà chị họ Myrt. Hay như tôi. Bà ấy nhát. Rồi lại chẳng biết cái gì đặc biệt cả. Chả hơn gì người khác đâu." Nhưng dần dà cái hội Hartman kia cứ nghi tiếp rằng Mabel Helm có biết hai điều nhưng bà giữ kín. Và đúng, quả có thế . Dewey trò chuyện với bà vài lần, cầu giữ bí mật tất cả những gì hai người với nhau. Đặc biệt là được hé răng về chiếc rađiô bị mất hay chiếc đồng hồ tìm thấy trong giày của Nancy. Cho nên bà với bà Archibald William Warren-Browne, "Ai đọc báo biết cũng như tôi thế thôi. Còn hơn ấy chứ. Vì tôi đọc báo mà."

      Vuông phè, béo lùn, mới ngoài bốn chục, người đàn bà này được trời phú cho giọng gần như là của tầng lớp , bà Archibald William Warren-Browne giống chút nào với đám khách quen của quán cà phê, và, trong khung cảnh ấy, bà có vẻ như con công bị kẹt vào giữa bãi thả gà tây. lần, giải thích với người quen tại sao bà và chồng bà lại bỏ "nhà cửa đất đai của gia đình ở miền Bắc nước ," đổi ngôi nhà thừa kế - "cái tu viện xinh nhất, ôi, xinh nhất" - lấy nhà trại cũ rích chẳng đẹp đẽ gì ở bình nguyên miền Tây Kansas, bà Warren-Browne : "Thuế mà, bà bạn thân ơi. Thuế chuyển vốn . Những khoản thuế đánh vào vốn chuyển là ghê gớm, giết người. Đó là điều đưa chúng tôi ra khỏi nước . Vâng, chúng tôi ra năm ngoái. Chẳng hối tiếc gì. hề. Chúng tôi nơi đây. Say mê mảnh đất này. Dĩ nhiên là rất khác với cuộc sống kia của chúng tôi. Cái cuộc sống mà chúng tôi quen thuộc ấy. Paris. Rome. Monte. London. Tôi có - thỉnh thoảng - nghĩ tới London. Ô, , tôi hẳn là nhớ đâu mà - cái nơi điên rồ ấy, bao giờ có được chiếc taxi, chỉ luôn lo xem mình nom mẽ thế nào. về mặt tích cực có đâu. Chúng tôi nơi đây. Tôi cho là có vài người - những ai biết quá khứ chúng tôi, cuộc sống chúng tôi có trước đây - nghĩ rằng chúng tôi phải chăng chút chút nào đơn, lẻ loi ở ngoài kia trong vùng đồng lúa mì. Tít ngoài miền Tây là nơi chúng tôi có ý đến an cư lạc nghiệp. Wyoming hay Nevada - la vraie chose, đích thị cái chỗ ấy. Chúng tôi hy vọng là khi đến đó chúng tôi có thể dò ra được ít dầu lửa. Nhưng đường chúng tôi dừng lại thăm viếng bạn bè ở Garden City - bạn của bạn tôi, đúng ra là thế. Nhưng họ tốt quá, ai đời có thể tốt hơn. Nài chúng tôi nấn ná lại. Và chúng tôi nghĩ, chà, tại sao lại nhỉ? Tại sao thuê ít đất và bắt tay vào chăn nuôi? Hay làm trại canh tác. quyết định chúng tôi vẫn chưa ngã ngũ - chăn nuôi hay trồng trọt. Bác sĩ Austin hỏi liệu chúng tôi có thấy nó yên tĩnh quá . . Chúng tôi chưa biết cảnh hỗn loạn nào như thế bao giờ. Nó ầm hơn trận máy bay ném bom. Còi xe lửa. Sói đồng cỏ. Những con quái vật cứ rền hú ghê rợn suốt đêm. Cảnh tượng hỗn độn khủng khiếp. Và từ sau vụ án kia, cái đó hình như lại càng làm tôi ưu phiền hơn. Nhiều việc cũng làm mình ưu phiền như vậy. Nhà chúng tôi - sao mà ngôi nhà cũ kỹ này nó lại kêu răng rắc như thế chứ! Bà lưu ý cho, tôi ca cẩm phàn nàn đâu nhé. mà, đó là ngôi nhà hoàn toàn được việc - có đủ cả cái đại lẫn cái chắc chắn - nhưng, ôi, sao mà nó ho hen và cẳn nhẳn thế cơ chứ! Và khi trời tối, khi gió bắt đầu thổi, cái gió đồng cỏ đáng ghét ấy, người ta nghe thấy những tiếng rên rỉ rợn người. Tôi muốn là nếu như yếu thần kinh chút người ta thể tưởng tượng ra những điều vớ vẩn đâu. Chúa lòng lành! Cái gia đình đáng thương ấy! ạ, chúng tôi chưa gặp họ bao giờ. Tôi có lần nhìn thấy ông Clutter. Ở Tòa nhà Liên bang."

      Đầu tháng Mười hai, chỉ trong buổi chiều, hai người khách kiên định nhất của quán cà phê thông báo dự án cuốn gói rời bỏ chỉ hạt Finney mà cả bang Kansas nữa. Người thứ nhất là nông dân thuê đất làm việc cho Lester McCoy, chủ đất Tây Kansas và là nhà kinh doanh nổi tiếng. Ông ta , "Bản thân tôi cuộc chuyện trò với ông McCoy. Cố làm cho ông ấy hiểu cái gì diễn ra ở ngoài kia tại Holcomb và quanh đây. Người ta thể ngủ được ra sao. Vợ tôi ngủ được và bà ấy cho tôi ngủ. Cho nên tôi bảo ông McCoy là tôi thích chỗ của ông ấy lắm chứ chả phải , nhưng tốt hơn ông ấy nên tìm người khác. Tôi tính chuyển . Xuống mạn Đông Colorado. Có lẽ chừng đó tôi mới có được chút nào yên tĩnh."

      Lời tuyên bố thứ hai là của bà Hideo Ashida, bà dừng chân ở quán cà phê cùng với ba trong bốn đứa con má đỏ của bà. Bà bảo chúng xếp hàng ở quầy rồi với bà Hartman, "Cho Bruce hộp bích quy Jack. Bobby muốn lon Coca. Thế nào Bonnie Jean? Cả nhà biết con cảm thấy thế nào rồi, Bonnie Jean, nhưng thôi nào, ăn uống gì ." Bonnie Jean lắc đầu, và bà Ashida , "Con bé này kiểu như là nó chán đây mà. Nó muốn rời khỏi đây. Trường học ở đây. Tất cả bạn bè ở đây."

      "Nào, cháu," bà Hartman , mỉm cười với Bonnie Jean. "Chẳng việc gì phải buồn. Chuyển từ Holcomb đến Trường Cao đẳng Garden City. Bọn con trai nhiều hơn..."

      Bonnie Jean , "Bà hiểu. Bố đem chúng cháu tuột. Đến Nebraska cơ."

      Bess Hartman nhìn mẹ nó, vẻ như chờ bà cải chính cái lý con bé viện ra.

      "Đúng đấy Bess à," bà Ashida .

      "Tôi chẳng biết thế nào nữa," bà Hartman , giọng sửng sốt có lẫn bất bình và ngán ngẩm. Nhà Ashida là phần của cộng đồng Holcomb mà ai cũng mến - gia đình dũng cảm, dễ thương, hay lam hay làm, thân thiện với láng giềng hàng xóm và hào hiệp, tuy họ chẳng có gì nhiều để mà hào hiệp.

      Bà Asida , "Chúng tôi bàn chuyện đó lâu rồi. Hideo, ông ấy nghĩ là ở chỗ nào khác chúng tôi khá hơn."

      "Ông bà định bao giờ ?"

      "Bán xong các thứ là luôn. Nhưng muốn gì cũng thể trước Nôen. Vì chúng tôi còn phải làm việc với ông nha sĩ. Về món quà Nôen của Hideo ấy mà. Tôi và lũ trẻ, chúng tôi biếu ông ấy ba cái răng vàng. Cho Nôen."

      Bà Hartman thở dài. "Tôi chẳng biết thế nào cả. Trừ việc bảo bà đừng. Cứ ra mà bỏ chúng tôi sao." Lại thở dài. "Vẻ như chúng tôi mất hết mọi người. Mỗi người nẻo."

      "Chậc, bà nghĩ tôi muốn bỏ sao?" bà Ashida . " bao nơi rồi, đây là chỗ đẹp nhất chúng tôi từng sống. Song Hideo, ông ấy là người quyết tất, ông ấy chúng tôi có thể có cái trại tốt hơn ở Nebraska. Để tôi với bà cái này, Bess. Bà Ashida toan nhăn mặt, nhưng bộ mặt nhẵn mịn, béo tròn, phúng phính của bà sao xoay xở để nhăn nổi được. "Chúng tôi đâm quen cãi nhau về việc ấy. Rồi đêm tôi bảo, 'O.K., ông là chủ, được, chúng ta .' Sau cái vụ xảy ra với Herb và gia đình ông ấy, tôi cảm thấy cái gì quanh đấy tới khúc kết. Tôi muốn cá nhân tôi. Cho tôi. Thế là tôi thôi bàn cãi. Tôi bảo O.K." Bà vọc tay vào hộp bích quy Jack của Bruce. "Trời, tôi ngờ được. Tôi dứt được diều đó ra khỏi đầu. Tôi ưa Herb. Bà có biết tôi là người cuối cùng trông thấy ông ấy còn sống ? Tôi và lũ trẻ. Mẹ con tôi đến họp 4-H ở Garden City và ông ấy chở mẹ con tôi về nhà. Điều cuối cùng tôi với Herb, tôi bảo ông ấy là tôi làm sao tưởng tượng ra được ông ấy lại biết sợ. Tình hình bất kể thế nào, ông ấy chỉ cần thôi là cứ thế thoát ra." Đăm chiêu, bà nhấm nhấm cái nhân bích quy Jack, tợp ngụm Coca của Bobby rồi , "Lạ, nhưng bà biết đấy, Bess, tôi dám đánh cuộc là lúc ấy ông ấy sợ. Ý tôi là, tuy nó xảy ra rồi, nhưng tôi vẫn cứ vét túi đánh cuộc rằng lúc ấy ông ấy tin là nó xảy ra. Vì thể xảy ra. thể xảy ra được với ông ấy."

      ° ° °

      Mặt trời chói lọi. chiếc tàu nho thả neo bập bềnh mặt biển êm: chiếc Estrellita, với bốn người ở - Dick, Perry, thanh niên Mexico, và Otto, người Đức trung niên giàu có.

      "Xin hát lại nào," Otto , và Perry búng cây ghi ta, hát bài Nước non hoa khói, bằng giọng khàn, dịu:

      Trong cái thế gian ta sống hôm nay

      Đời người có thể những điều tồi tệ nhất về ta,

      Nhưng khi ta qua đời nằm trong cỗ áo quan,

      Họ lại luôn lùa vào tay ta vài bông huệ.

      Khi chúng tôi sống hoa sao các người lại chẳng cho...

      tuần ở Mexico City, rồi và Dick lại xuống phía Nam - Cuernavaca, Taxco, Acapulco. Và chính ở Acapulco, trong "quán nhậu có máy hát ầm ầm", chúng gặp gã Otto chân đầy lông và tấm lòng nồng nhiệt. Dick "chài được ". Nhưng con người lịch hào hoa này, luật sư người Hamburg nghỉ hè " có bạn rồi" - người Acapulco bản địa trẻ tuổi tự xưng là Cao bồi. "Nó xem ra tin được đấy," Perry có lần về Cao bồi như vậy. "Bỉ ổi như Judas, ở số mặt nào đó, nhưng ồ, bạn à, thằng trẻ ngộ đấy, thằng nài ngựa là lanh lẹ. Dick cũng thích gã. Chúng ta tiến bộ lớn đây."

      Cao bồi tìm cho những người lang thang xăm mình này gian phòng trong ngôi nhà của ông chú, bỏ công nâng cao tiếng Tây Ban Nha cho Perry, chia sẻ những món lời từ mối quan hệ với gã người Hamburg hưởng kỳ nghỉ hè, kẻ chi tiền để cho chúng ăn nhậu và chơi . Lão chủ xem bộ nghĩ rằng những đồng peso của gã được tiêu đúng chỗ đúng nơi, dù chỉ vì lão khoái những chuyện đùa của Dick. Ngày ngày Otto thuê chiếc Estrellita, tàu đánh cá xa khơi, rồi bốn người bạn loanh quanh dọc bờ biển. Cao bồi chèo; Otto ký họa và câu; Perry móc mồi câu nghĩ vẩn nghĩ vơ, hát rồi thỉnh thoảng cũng câu; Dick làm gì - chỉ rên rỉ, phàn nàn cái cuộc lênh phênh, nằm uống rượu phơi nắng, uể oải như con thằn lằn ngủ trưa vậy. Nhưng Perry lại bảo, "Cuối cùng là như thế này đây. Phải là cái kiểu thế này đây." vẫn biết thể cứ để việc này tiếp tục mãi - biết rằng chính hôm nay đây cái trò này phải chấm dứt. Ngay sau hôm Otto về Đức là và Dick lái xe về lại Mexico City - theo lời Dick van nài. "Chắc chắn rồi, bồ à," Dick khi chúng bàn đến việc này. "Cứ vui chơi thỏa thích vân vân nhé. Có mặt trời chiếu vào lưng. Nhưng xin đội nón theo nhau , , . Nào, sau khi bán cái xe rồi chúng ta còn lại những gì?"

      Còn rất ít, câu trả lời là như vậy, vì đến nay chúng xài hết phần lớn những thứ chúng lấy được cái hôm tiêu séc giả thả giàn ở Kansas City - camera, khuy măng sét, ti vi. Chúng cũng bán cho tay cảnh sát mà Dick làm quen ở Mexico City cả cái ống nhòm lẫn chiếc rađiô xách tay Zenith màu xám. "Chúng ta về Mexico City, bán cái xe rồi có thể tớ kiếm được việc làm ở gara ô tô nào đó. Muốn gì ấy vẫn tốt hơn đây. Có nhiều cơ hội hơn. Lạy Chúa, tớ lại có thể dùng con Inez kia nhiều nữa rồi đấy." Inez là điếm gạ gẫm Dick các bậc tam cấp Lâu đài Mỹ thuật ở Mexico City (chuyến tham quan là phần của tua quanh xem thành phố cho vui lòng Perry). Ả điếm mười tám tuổi và Dick hứa lấy ả. Nhưng cũng hứa lấy Maria, mụ năm mươi tuổi, vợ góa của "chủ ngân hàng nổi tiếng người Mexico". Hai người gặp nhau trong quán bar và sáng hôm sau mụ trả cho Dick tương đương bảy đô la. "Vậy việc đó mày nghĩ sao?" Dick hỏi Perry. " bán cái xe. Tìm việc làm. Dành dụm xiền. Rồi xem cái gì tới." Làm như Perry thể dự báo chính xác được cái gì xảy tới ấy. Giả sử chúng kiếm được hai ba trăm nhờ bán cái xe Chevrolet. Dick, nếu như biết Dick, mà đúng là có biết - nay biết rồi - Dick lập tức tiêu hết ngay vào Vodka và cả thôi.

      Trong khi Perry hát, Otto ký họa . Khá giống, người nghệ sĩ nhận ra được nét lộ lắm của bản chất cái người ngồi cho mình vẽ - ác hiểm, nét tinh quái con nít, ngộ nghĩnh gợi đến thần Cupid tốt lành gì giương ngắm những mũi tên tẩm độc. để trần thân . (Perry "xấu hổ" phải cởi quần, "xấu hổ" phải mặc quần bơi, vì sợ hình ảnh đôi chân tàn tật của "làm người ta kinh", cho nên, bất chấp những điều mơ tưởng dưới nước, tất cả những chuyện về bơi lặn, chưa hề lần nào xuống nước). Otto ghi lại số hình xăm trang điểm bộ ngực, đôi cánh tay quá cỡ cơ bắp và đôi bàn tay nhắn nom như con nhưng lại đầy chai của Perry. Quyển ký họa mà Otto cho Perry như món quà chia tay gồm có nhiều bức vẽ Dick - "bài tập vẽ khỏa thân".

      Otto gập quyển ký họa lại, Perry đặt cây ghi ta xuống, và Cao bồi kéo neo, nổ máy. đến giờ phải . Chúng ở ngoài biển mười dặm và mặt nước tối lại.

      Perry giục Dick câu. "Chúng ta có thể chẳng còn dịp may nào khác nữa đâu," .

      "Dịp may nào?"

      "Vớ được con cá bự."

      "Giê-su, tớ bị phải cái đồ chó chết đây," Dick . "Tớ bệnh." Dick thường hay bị đau nửa đầu rất dữ - "cái đồ chó chết." nghĩ đó là hậu quả lần đâm xe hơi. "Cưng à, xin hãy yên tĩnh, yên tĩnh nào."

      Lát sau, Dick quên hết cơn đau. đứng lên, hét hò phấn khích. Otto và Cao bồi cũng hò hét. Perry "câu được con bự". con mét vọt lên rồi chìm nghỉm xuống, nó nhảy, uốn cong lại như cánh cung, lặn, ngụp sâu xuống, kéo dây căng tưởng đứt được, nhô lên, tung cao, rơi, nhô lên. giờ trôi , rồi phần của giờ khác nữa, trước khi những nhà thể thao mồ hôi đầm đìa cuộn dây câu kéo con cá vào.

      ông già với máy ảnh cổ lỗ bằng gỗ bám quanh bến cảng Acapulco; khi chiếc Estrellita cập bến, Otto bảo ông lão làm cho sáu bức chân dung Perry đứng cạnh con cá. về mặt kỹ thuật, công việc của ông lão hóa ra xoàng - ảnh nâu và nham nhở bẩn. Nhưng chúng vẫn là những bức ảnh đáng kể, cái làm cho chúng đáng kể là vẻ mặt Perry, cái thần thái của khi làm tròn cái gì sai sót, xuất thần tựa như, cuối cùng, con chim lớn màu vàng cắp bay bổng vào trời xanh, như ở trong giấc mơ của .

      ° ° °

      buổi chiều tháng Mười hai, Paul Helm sửa lại luống hoa mọc so le cho đều, luống hoa cho Bonnie Clutter có tư cách làm thành viên của Câu lạc bộ Vườn Garden City. Đây là việc buồn, vì nó khiến ông nhớ lại buổi chiều khác nữa ông cũng làm cái việc lặt vặt này. Hôm ấy Kenyon đỡ ông tay, và đó là lần cuối cùng ông nhìn thấy Kenyon, hay Nancy, hay bất cứ người nào trong gia đình nhà Clutter còn sống. Các tuần sau đó nặng nề với ông. Ông sức khỏe tồi (tồi hơn trước nay; ông chỉ còn sống chưa đến bốn tháng nữa), và ông lo nhiều thứ. Công việc, là chuyện. Ông ngờ rằng ông chẳng còn ở lại đây lâu. Hình như chẳng ai biết, nhưng ông hiểu rằng "hai ", Beverly và Eveanna, có ý bán dinh cơ này - tuy rằng, như ông nghe người phục vụ ở quán cà phê nhận xét, "chẳng ai mua cái vùng đất dài như câu chuyện đầy bí ấy đâu". Cứ nghĩ đến chuyện những người lạ đến thu hoạch đất "nhà ta" là ông cứ thấy "làm sao đó". Ông Helm quan tâm - quan tâm vì lợi ích của Herb. Ông , đây là nơi "cần được giữ trọn trong gia đình của người". lần Herb với ông, "Tôi hy vọng luôn luôn có Clutter ở đây, và cả Helm nữa." Herb câu đó mới chỉ năm trước. Trời, ông làm gì nếu khu trại bị bán? Ông cảm thấy mình "quá già rồi khó mà thích nghi được với chỗ nào khác ngoài chỗ này".

      Nhưng ông vẫn phải làm việc, và ông muốn thế. Ông ông phải loại người đá tung giày để vào ngồi bên lò sưởi. Nhưng đúng là giờ đây khu trại làm ông khổ sở: ngôi nhà khóa kín, con ngựa của Nancy vò võ chờ mình ở giữa cánh đồng, mùi táo rụng chua loét dưới các gốc táo, và vắng những tiếng Kenyon gọi Nancy là có điện thoại, Herb huýt sáo, giọng vui vẻ "Chào buổi sáng, Paul." Ông và Herb "cùng lớn lên với nhau" - lời qua tiếng lại giữa hai người. Vậy tại sao những người ở văn phòng cảnh sát trưởng lại cứ tiếp tục hạch hỏi ông? Trừ phi họ nghĩ ông có cái gì giấu giếm chăng? Có lẽ lúc ấy ông nên đến những người Mexico. Ông báo với Al Dewey rằng khoảng bốn giờ ngày thứ Bảy, 14 tháng Mười , ngày xảy ra vụ án, cặp người Mexico, để ria và rỗ hoa, xuất ở Trại Lũng Sông. Ông Helm trông thấy họ gõ cửa "bàn giấy", thấy Herb ra ngoài chuyện với họ bãi cỏ và có thể là mười phút sau hai người lạ mặt "nom hờn dỗi" bỏ . Ông Helm cho là họ đến xin việc và được trả lời là . may, tuy ông được gọi lên nhiều lần để kể lại những kiện trong ngày hôm đó, ông đến chuyện này cho mãi tới hai tuần sau vụ án, bởi vì, như ông giải thích với Dewey, "Tôi thình lình nhớ ra." Nhưng Dewey và vài điều tra viên khác hình như tin chuyện ông kể, họ cho là ông đặt ra để đánh lạc hướng họ. Họ tin Bob Johnson hơn, nhân viên Sở Bảo hiểm, người ngồi cả buổi chiều thứ Bảy với ông Clutter bên bàn giấy, người "khẳng định tuyệt đối" rằng từ hai đến sáu giờ mười ông ta là người khách duy nhất của Herb. Ông Helm cũng quả quyết: là người Mexico, có ria, rỗ hoa, bốn giờ. Giá là Herb ông ấy bảo họ rằng Paul Helm , thuyết phục họ rằng ông, Paul Helm, là người "đọc kinh và tự kiếm lấy miếng ăn" chứ có phải như ai đâu. Nhưng Herb chết rồi.

      Chết rồi. Cả Bonnie nữa. Cửa sổ phòng ngủ của bà nhìn xuống mảnh vườn và thỉnh thoảng, thường thường lúc bà "lên cơn cớ," ông Helm vẫn thấy bà đứng hàng giờ nhìn trừng trừng xuống vườn, tựa hồ, cái mà bà trông thấy, nó làm cho bà sung sướng vô cùng vậy. ("Khi tôi còn là con ," có lần bà với người bạn, "tôi tin ghê gớm rằng cây và hoa chúng cũng y như chim và người vậy. Chúng nghĩ cái này cái nọ và chuyện với nhau. Và chúng ta có thể nghe được chúng nếu chúng ta cố gắng . Chỉ cần làm cho đầu óc chúng ta sạch mọi thanh khác mà thôi. Phải rất yên lặng và nghe cho kỹ. Đôi khi tôi vẫn còn tin như vậy đấy. Nhưng ta bao giờ có thể đủ yên tĩnh được...")

      Nhớ đến cảnh Bonnie đứng bên cửa sổ, ông Helm nhìn lên, tựa hồ chờ đợi trông thấy bà, bóng ma sau lần kính. Nếu ông có nhìn thấy, nó cũng làm ông kinh ngạc hơn cái mà lúc này ông nhận ra - bàn tay kéo tấm rèm lại và hai con mắt. "Nhưng," như sau này ông tả lại, "mặt trời rọi vào phía ấy của ngôi nhà" - nó làm cho mặt kính cửa sổ rung rinh, cái vật treo ở đằng sau đó khẽ đung đưa - và trong thời gian ông Helm che mắt rồi nhìn lại tấm rèm buông kín, cửa sổ chẳng còn gì. "Mắt tôi còn tốt lắm, nên tôi nghĩ hay là nó cho tôi cú lừa," ông nhớ lại. "Nhưng tôi chắc chắn mười mươi rằng mắt tôi lừa tôi. Và cũng chắc chắn mười mươi là phải ma miếc gì hết. Vì tôi tin là có ma. Vậy đó có thể là ai đây? Ai mà lén vào trong đó, nơi chẳng ai được phép vào, trừ những người nắm pháp luật. Và vào bằng cách nào? Khi mọi cái đều khóa chặt vì rađiô báo trước có lốc xoáy. Tôi tự hỏi vậy. Nhưng tôi mong tìm ra - ai chứ tôi . Tôi bỏ việc làm dở, tắt cánh đồng đến Holcomb. Vừa đến, tôi gọi điện cho cảnh sát trưởng Robinson ngay. Giải thích rằng có ai đó lẩn quẩn bên trong nhà Clutter. Chà, hiếm khi họ đến ngay như thế nhá. Cảnh vệ bang. Cảnh sát quận, cả lũ. Người của K.B.I. Al Dewey. Vừa lúc họ dàn hàng ngang vây quanh, kiểu như sẵn sàng hành động ấy, cửa chính mở." người chưa ai từng nhìn thấy - người khoảng giữa tam tuần, mắt đờ đẫn, tóc bù xù, đeo ngang hông cái bao đựng khẩu súng lục cỡ 38 - bước ra. "Tôi nghĩ tất cả bọn tôi có mặt lúc đó đều có ý nghĩ giống nhau - đây là , cái kẻ đến giết nhà Clutter," ông Helm kể tiếp. " ta chẳng nhúc chẳng nhích. Cứ đứng trơ ra, kiểu như ngây như dại. Họ lấy khẩu súng và bắt đầu thẩm vấn ." Tên người đàn ông là Adrian - Jonathan Daniel Adrian. ta đường tới New Mexico và có địa chỉ thường trú. Vì mục đích gì người này đột nhập vào nhà Clutter, và thế nào mà tình cờ ta lại vào được trong nhà? ta diễn cho họ xem. ( ta nhấc cái nắp giếng nước lên rồi bò trườn theo đường ống dẫn vào trong tầng hầm). Còn tại sao ư, ta đọc báo về vụ này, tò mò chỉ muốn xem cái địa điểm gây án nó ra thế nào. "Lúc đó," theo như ông Helm nhớ lại đoạn này, " ai đó hỏi ta có phải là nhờ xe dọc đường ? nhờ xe dọc đường đến New Mexico ấy à? , ta , ta lái xe riêng. Đỗ xe dưới con đường vào nhà, cách đây quãng. Thế là mọi người ra xem cái xe. Khi họ tìm ra cái thứ để ở trong xe, người trong đám họ - có lẽ là Al Dewey - bảo kia, cái tay Jonathan Daniel Adrian ấy. 'Được, thưa ông, hình như chúng ta có được cái gì để bàn rồi đây.' Vì bên trong xe, cái họ tìm ra là khẩu súng cỡ nòng 12 ly. Và con dao săn."

      ° ° °

      phòng trong khách sạn tại Mexico City. Trong phòng là bàn giấy kiểu mới xấu xí với tấm gương màu tím nhạt, gài ở trước tấm gương là tờ giấy in của Ban Giám đốc nhắc nhở:

      SU DÍA TERMINA A LAS 2 P.M.

      NGÀY THUÊ CHẤM DỨT LÚC 2 GIỜ CHIỀU

      cách khác, khách phải ra khỏi phòng vào giờ định bị tính thêm ngày trọ nữa - xa xỉ mà những kẻ trọ đây dự tính đến. Chúng chỉ băn khoăn biết liệu có thể thanh toán nổi cái khoản tiền nợ mà thôi. Vì mọi tiến triển đúng như Perry tiên báo: Dick bán cái xe và ba ngày sau, món tiền, dưới hai trăm đô la chút ít, liền bốc hơi luôn. Ngày thứ tư Dick tìm việc làm lương thiện, và đêm ấy bảo với Perry, "Bọn nghệt! Cậu biết chúng nó trả thế nào ? Lương là bao nhiêu? Cho chuyên viên cơ khí? Hai đô ngày. Mexico đấy! Cưng à, tớ ngán quá rồi. Chúng ta phải chuồn thôi. Quay trở về Mỹ. , bây giờ . Tớ nghe đâu. Kim cương này. Kho tàng chôn này. Tỉnh , cậu bé. Chẳng có hòm vàng nào hết. Chẳng tàu đắm tàu chìm gì hết. Mà cho dù có nữa - chó , cậu cũng biết bơi cơ mà." Và hôm sau, vay tiền của vợ chưa cưới giàu hơn trong hai , tức mụ vợ góa ông chủ ngân hàng, Dick mua luôn hai vé xe buýt đưa chúng đến tít tận Barstow, California, qua ngả San Diego. "Sau đó ta bộ," .

      Dĩ nhiên, Perry có thể làm theo cách riêng của mình, ở lại Mexico, mặc cho Dick tới chỗ quái quỷ nào thích. Tại sao lại ? Perry chẳng phải luôn là tên "ăn mảnh", hề có "bạn đích thực" nào (trừ gã Willie-Jay tóc muối tiêu, mắt xám và "siêu") đó ư? Nhưng sợ bỏ Dick; chỉ nghĩ đến việc đó cảm thấy "kiểu như muốn bệnh", tựa hồ cố quyết "nhảy khỏi đoàn tàu phóng chín chục dặm giờ" vậy. Nền tảng nỗi sợ này, hay tự hình như tin thế, là niềm tin chắc mới nảy nòi gần đây mang tính dị đoan rằng chừng nào Dick và còn "gắn bó với nhau" "bất cứ cái gì phải xảy ra xảy ra". Rồi, bài lên lớp "thức tỉnh" nghiêm khắc của Dick, việc Dick hung hãn tuyên bố ra cái ý kiến xưa nay Dick vẫn giấu về những ước mơ hy vọng của Perry - tất cả, dù có quá quắt thế nào, vẫn hấp dẫn Perry, làm đau và sốc nhưng mê hoặc , gần như làm sống lại trong cái lòng tin trước đây đối với tên Dick " đàn ông", cứng rắn, thực tiễn, dứt khoát mà có thời cho phép làm chủ . Cho nên, từ cái lúc tang tảng buổi sáng giá lạnh đầu tháng Mười hai ở Mexico City, Perry mò mẫm khắp gian phòng khách sạn được sưởi, nhặt nhạnh gói ghém đồ dùng của lại - len lén, sợ đánh thức hai cái thân người ngủ dài cái giường con của gian phòng: Dick và Inez, người vợ chưa cưới trẻ hơn của .

      đồ vật còn cần bận tâm đến nữa. Trong cái đêm cuối cùng ở Acapulco, thằng trộm thó mất cây đàn ghi ta Gibson, rồi trốn từ quán cà phê ven sông, nơi , Otto, Dick và Cao bồi gửi cho nhau lời chào từ biệt sặc mùi rượu. Perry cay đắng về việc đó. cảm thấy, như sau này , " khốn khổ, thấp kém", và giải thích, " cây ghi ta đủ lâu ngày, nhu tôi có cây này đây, đánh xi, lau bóng, lồng khớp tiếng của vào nó, coi nó như đứa con dùng qua - đúng, nó thành ra như thứ thiêng liêng vậy." Nhưng trong khi cây ghi ta bị mất cắp được coi là vấn đề sở hữu, các thứ còn lại của lại là như vậy. Do và Dick từ nay bằng chân hay ngón tay cái xin nhờ xe, ràng là chúng thể mang theo nhiều hơn mấy cái sơ mi và bít tất. Số quần áo còn lại phải bằng tàu thủy - và đúng thế, Perry nhét vào thùng các tông (đặt vào trong đó - cùng với ít áo quần chưa giặt - hai đôi ủng, đôi có đế để lại dấu Chân Mèo, đôi kia có đế hình kim cương) và gửi tới địa chỉ của chính , qua Công ty Giao hàng Tổng hợp ở Las Vegas, Nevada.

      Nhưng vấn đề lớn và là nguồn gây ra nhức nhối con tim là làm gì với đống kỷ niệm rất mực dấu của đây - hai thùng bự nặng trịch những sách, những bản đồ, những bức thư vàng ố, những cuốn lời bài hát, thơ cùng các vật lưu niệm khác thường (nịt đeo quần và thắt lưng làm bằng da những con rắn đuôi chuông tự tay giết ở Nevada; cái tượng netsuke đầy gợi dục mua ở Kyoto; cây cảnh quắt lại hóa đá, cũng mua ở Nhật Bản; chân con gấu Alaska). Chắc giải pháp tốt nhất - ít ra là giải pháp tốt nhất Perry tìm thấy được - là để chúng lại với "Giê-su". "Giê-su" mà nghĩ tới ở đây là cái tay trông coi quán bar đối diện bên kia đường với khách sạn và muy simpatico - rất dễ mến, Perry nghĩ như vậy, dứt khoát là người có thể tin rằng trả lại những cái thùng nọ cho khi cầu. ( định khi có "địa chỉ thường trú" đòi lại).

      Vẫn còn vài thứ quá quý giá thể để có nguy cơ bị mất , cho nên trong khi cặp tình nhân ngủ lờ phờ và thời gian cà rịch cà tang lê dịch tới hai giờ chiều Perry xem lại các bức thư, các tấm ảnh, các mẩu báo cắt cũ, lựa ra từ đấy những món kỷ vật mà định mang theo. Trong đó có bài viết mang đề "Tự thuật về đời trai trẻ của tôi" đánh máy lèm nhèm. Tác giả của bản thảo này là bố của Perry, cố giúp thằng con trai mình được tha khỏi Nhà tù Bang Kansas với lời hứa tái phạm, cho nên ông viết nó vào tháng Mười hai trước rồi gửi tới Tòa án Tạm tha Bang Kansas. Perry đọc tư liệu này ít nhất trăm lần, lần nào đọc mà lại bàng quan:

      THIẾU THỜI - Vui mừng được với ông, theo như con mắt tôi nhìn có cả tốt lẫn xấu. Vâng, Perry ra đời bình thường. Khỏe mạnh - vâng. Vâng, tôi có thể tự trông nom cháu tử tế cho tới khi bà vợ tôi quay ra nghiện ngập khốn khổ khốn nạn vào lúc mà các con tôi đến tuổi học. Tính tình vui vẻ - vừa có vừa , rất nghiêm túc, nếu bị ngược đãi cháu bao giờ quên được. Tôi cũng giữ lời hứa và làm cho cháu nó học theo. Vợ tôi lại khác. Chúng tôi sống ở nông thôn. là dân sống ngoài trời. Tôi dạy cho bọn trẻ Quy tắc Vàng. Sống và để người ta sống, trong nhiều trường hợp các con tôi kể với nhau khi làm chuyện gì sai và đứa nào làm sai đều nhận lỗi, tiến lên phía trước, tự nguyện nhận lấy cái đét vào mông. Và đều hứa hẹn ngoan, luôn luôn làm bài vở mau lẹ, sẵn sàng làm thế là để được tự do vui chơi. Luôn luôn tự rửa ráy lấy trước tiên mỗi buổi sáng, mặc quần áo sạch , tôi rất nghiêm về chuyện này, về cả chuyện làm bậy với người khác nữa, nếu những trẻ khác làm bậy với chúng tôi bảo chúng thôi chơi với bọn kia. Khi còn sống chung các con tôi gây ra rắc rối gì cho bố mẹ cả. Tất cả bắt đầu khi vợ tôi muốn đến City sống cuộc đời phóng túng - và bỏ để sống như thế . Tôi để bà ấy và chào từ biệt bà ấy khi bà ấy lên xe bỏ tôi lại (chuyện này xảy ra hồi khủng hoảng kinh tế). Các con tôi khóc hết cả hơi. Bà ấy chỉ chửi rủa chúng, là chúng cứ hẵng cái nhưng rồi sau này lại có thể đến với tôi. Bà ấy nổi điên lên, bảo làm cho bọn trẻ ghét tôi, và bà ấy làm thế , trừ có Perry. Vì con, nhiều tháng sau tôi tìm chúng, tìm ra chúng ở San Francisco, vợ tôi biết là tôi đến. Tôi thử đến trường tìm chúng. Vợ tôi cầu thầy giáo được để chúng gặp tôi. Nhưng tôi xoay xở gặp được chúng chơi ở sân trường và tôi giật mình khi chúng với tôi, "Mẹ bảo được chuyện với bố." Trừ Perry như vậy. Cháu nó khác. Cháu ôm lấy tôi và muốn bỏ lập tức với tôi. Tôi bảo cháu: . Nhưng ngay khi tan học, cháu nó chạy đến văn phòng luật sư của tôi, ông Rinso Turco. Tôi đem thằng bé về lại với mẹ nó rồi rời City. Sau này Perry bảo tôi là mẹ nó bảo nó tìm nhà mới. Khi các con tôi ở với mẹ, chúng tha hồ được lêu lổng, tôi hiểu là Perry gặp lôi thôi. Tôi muốn ly dị bà ấy, phải đâu như năm sau bà ấy mới chịu. Bà ấy nghiện ngập, bà ấy phóng đãng, bà ấy sống với gã trẻ tuổi. Tôi nêu tội bà ấy và giành được quyền chăm nom con cái. Tôi đem Perry về sống với tôi. Những đứa khác đưa vào nhà trẻ vô thừa nhận vì tôi thể thu xếp cho chúng về ở cả với tôi được và vì chúng phần nào lai da đỏ, được trợ cấp nuôi như tôi cầu.

      Chuyện này xảy ra hồi kinh tế khủng hoảng. Dạo ấy tôi làm ở Sở Dự án Lao động với đồng lương còm cõi. Tôi có ít của cải và căn nhà . Perry và tôi sống với nhau hòa thuận. Tôi đau lòng lắm vì tôi cũng những đứa con kia nữa. Thành thử tôi mới nghĩ đến chuyện lang thang để cho quên tất. Tôi kiếm sống. Tôi bán nhà và chúng tôi sống trong cái "nhà xe hơi". Perry học được đến bao nhiêu . Cháu nó thích học lắm. Cháu học nhanh và bao giờ xảy chuyện rắc rối gì với trẻ con khác. Chỉ cho đến khi thằng Bully Kid chọc ghẹo nó. Perry là đứa mới đến trường, thấp và vuông bè, cho nên bọn trẻ định bắt nạt nó. Chúng thấy cháu thích đấu tranh cho quyền lợi của cháu. Tôi dạy các cháu theo cách đó mà. Tôi luôn bảo các con gây lộn trước, nếu chúng mày như thế, tao mà biết tao cho nhừ đòn. Nhưng nếu là bọn trẻ khác gây ra chúng mày phải hết sức mình mà chống lại. lần, thằng tuổi nhiều gấp đôi nó chạy đến đánh nó, thằng này ngạc nhiên thấy Perry quật ngã mình rồi cho trận nên thân. Tôi có mách cháu vài mẹo vật. Vì có dạo tôi quen chơi Quyền & Vật mà. Bà hiệu trưởng và tất cả đám trẻ đều xem trận đánh nhau. Bà hiệu trưởng thằng lớn. Thấy nó bị thằng Perry nhóc tì của tôi nện, bà ấy còn đau hơn cả chính bà bị vậy. Sau đó Perry thành Vua Nhóc ở trường. Nếu có đứa lớn nào định bắt nạt đứa bé, Perry dàn xếp xong lập tức. Bây giờ ngay thằng Bully Kid cũng sợ thằng Perry và phải tử tế. Nhưng cái đó xúc phạm bà hiệu trưởng thế là bà tìm tôi phàn nàn rằng Perry đánh nhau ở trường. Tôi bảo bà là tôi biết hết tất cả và tôi có ý định để con tôi bị đứa lớn gấp hai nó đánh. Tôi cũng hỏi bà ấy tại sao lại để thằng Bully Kid đánh các trẻ khác. Tôi bảo bà ấy là Perry có quyền tự vệ. Perry gây chuyện bao giờ và tôi chịu trách nhiệm về chuyện này. Tôi bảo bà ấy con trai tôi được hàng xóm và con cái họ mến lắm. Tôi cũng bảo bà ấy tôi sớm đưa Perry ra khỏi trường bà ấy , tới bang khác. Và tôi làm. Perry phải là thiên thần, cháu nó làm quấy nhiễu như rất nhiều trẻ khác làm. Đúng là đúng và sai là sai. Tôi bao giờ bao che cho cái sai của cháu. Nó phải trả giá đắt khi nó làm sai; Ông chủ mà bây giờ nó biết đến chính là pháp luật.

      THỜI THANH NIÊN - Perry gia nhập đội tàu buôn trong Đại chiến thứ hai. Tôi đến Alaska, nó đến sau rồi gặp tôi ở đó. Tôi bẫy thú lấy lông còn Perry mùa đông đầu tiên làm cho sở cầu đường Alaska, rồi nó làm ở đường sắt trong thời gian. Nó tìm được việc nó thích. Vâng - nó thảng hoặc cho tôi đô, khi có. Nó cũng gửi cho tôi 30 đô tháng trong thời gian chiến tranh ở Triều Tiên, nó ở đó suốt từ đầu cho tới cuối cuộc chiến và được phục viên ở Seattle, bang Washington. Như tôi biết đáng vinh dự đấy. Nó có thiên hướng về cơ khí. Máy ủi, máy đào rãnh, máy xới, xe tải làm việc nặng các kiểu là những cái nó mong muốn. Với những kinh nghiệm có, nó là tốt. Có phần hiếu động và mê tốc độ, mê xe máy và xe hơi . Nhưng bởi nó nắm mùi những gì tốc độ gây ra cho mình, và từ khi cả hai chân bị gãy cùng thương tật ở hông bây giờ nó tà tà lại rồi, tôi tin chắc như vậy.

      GIẢI TRÍ - SỞ THÍCH. Vâng, nó có nhiều bạn , vừa bị nào xử tệ hay coi thường là nó thôi đánh rụp liền. Như tôi được biết nó chưa lấy vợ bao giờ. Những chuyện rắc rối của tôi với mẹ nó phần nào làm nó sợ cưới vợ. Tôi là người tỉnh táo và như tôi được biết Perry cũng là người thích rượu. Perry giống tôi nhiều. Nó thích kết bồ với những người tử tế - dân sống ở ngoài trời, giống tôi, nó thích tự lập và cũng thích nhất là được làm việc cho mình. Như tôi vậy. Tôi nghề gì cũng đều làm ít, có thể vậy, tức là nắm được ít và Perry cũng vậy. Tôi chỉ cho nó cách kiếm sống cho bản thân như thế nào, đại khái như săn bắn thú, thăm dò địa chất, thợ mộc, thợ rừng, ngựa nghẽo, vân vân. Tôi biết nấu nướng và nó cũng biết, phải đầu bếp chuyên nghiệp mà chỉ là ở trình độ nấu cho bản thân thôi. Làm bánh mì... săn, câu cá, bẫy thú, làm được phần lớn bất cứ việc nào khác. Như tôi đây, Perry thích làm ông chủ của mình & nếu nó có cơ may làm cái việc nó thích, ông cứ bảo nó ông muốn làm thế nào rồi mặc nó là nó rất tự hào làm việc đó cho ông. Nếu nó thấy Ông chủ tán thưởng, nó hết mình với ông chủ. Nhưng đừng có rắng với nó. Cứ vui vẻ bảo nó làm cái mình muốn làm. Nó rất hay độn lòng, dễ tự ái, tôi cũng vậy. Tôi bỏ nhiều việc làm & Perry cũng thế vì những Ông chủ Ba bị. Perry được học hành nhiều, tôi cũng chỉ đến lớp Hai. Nhưng đừng vì thế mà nghĩ rằng chúng tôi sắc. Tôi là người tự học & Perry cũng vậy. Việc Bàn Giấy phải là để cho Perry hay tôi. Nhưng việc ngoài trời chúng tôi thạo - nếu có thể cứ bảo nó hay tôi cách làm & chỉ vài ngày là chúng tôi nắm được việc hay cái máy đó liền. Sách loại. Kinh nghiệm thực tế mà chúng tôi bắt được liềng, nếu chúng tôi thích làm. Trước hết là chúng tôi phải thích việc ấy cái . Nhưng bây giờ nó là dân Tàn tật và gần như trung niên rồi. Perry biết bây giờ các Nhà thầu thích thuê nó nữa, người tàn tật rất khó được nhận việc dùng máy móc nặng các thứ trừ phi nó phải là chỗ rất quen biết của Nhà thầu. Nó bắt đầu hiểu ra điều này, nó bắt đầu nghĩ đến cách nào dễ hơn đặng lo cho bản thân và hợp với cuộc sống của tôi. Tôi chắc chắn là tôi đúng. Tôi cũng nghĩ tốc độ còn là niềm ham muốn của nó nữa rồi. Tôi ghi nhận được tất cả các cái này qua những bức thư nó viết cho tôi. Nó "Cẩn thận nhá bố. Chớ lái khi thấy buồn ngủ, tốt hơn là dừng lại nghỉ ở rìa đường." Đó là những câu tôi quen với nó. Bây giờ nó lại với tôi. Nó học được bài học.

      Như tôi thấy - Perry học được bài học nó chẳng bao giờ quên. Tự do có nghĩa là tất cả với nó thành thử ông bao giờ còn đưa nó trở lại vào sau chấn song nhà tù được nữa đâu. Tôi hoàn toàn tin rằng tôi đún. Tôi nhận thấy trong cách năng của nó có thay đổi lớn. Nó hối hận sâu sắc về lỗi lầm của mình, nó bảo tôi thế. Tôi cũng biết nó xấu hổ khi gặp những ai nó biết thành thử nó bảo với họ là nó ở tù. Nó nhờ tôi đừng báo cho bạn bè nó là nó ở đâu. Khi nó viết & bảo tôi nó ở tù, tôi bảo nó hãy xem đó là bài học - bảo rằng tôi mừng là chuyện lại xảy ra theo cách đó chứ lẽ ra còn tệ hại hơn kia. ai đó có thể bắn nó chết. Tôi cũng bảo nó hãy ở hết hạn tù với nụ cười mình làm mình chịu, kêu ai. Mình lẽ ra phải biết điều hơn. Tao dạy mày ăn cắp của người cho nên chớ phàn nàn với tao ở trong tù cựt thế nào. Hãy là thằng tử tế trong tù & nó hứa là thằng tử tế. Tôi hy vọng nó là phạm nhân tử tế. Tôi chắc chắn rằng ai còn bảo nó ăn cắp được nữa. Pháp luật là ông chủ, nó biết như vậy. Nó Tự do của nó.

      Tôi biết rằng nếu ông xử tốt với Perry có thiện tâm. Xử tệ với nó là ông có ngay cái cưa máy mà ông phải chống. Ông có thể tin cậy nó với bất cứ khoản tiền nào nếu ông là bạn nó. Khi ông bảo nó đừng ăn cắp xu của người bạn hay người nào khác ăn cắp. Trước khi chuyện kia xảy ra. Và tôi lòng hy vọng nó sống phần đời còn lại của nó như con người lương thiện. Nó có ăn cắp cái gì đó cùng với những đứa khác khi nó còn . Cứ hỏi Perry xem tôi có là ông bố tốt với nó , hỏi nó xem mẹ nó có tốt với nó hồi còn ở Frisco . Perry biết cái gì tốt với nó. Ông cho nó trận nhớ đời. Nó biết khi nào nó bị đánh. Nó phải là thằng ngu. Nó biết cuộc đời là quá ngắn để mà hưởng vị ngon ngọt, tội gì lại đem bỏ đời vào đằng sau chấn song nhà tù lần nữa.

      HỌ HÀNG. chị , Bobo có chồng, và tôi, bố nó là tất cả những gì còn sống đối với Perry. Bobo & chồng tự lo lấy cuộc sống. Có nhà riêng của chúng nó & tôi cũng có khả năng & tự làm được để trông nom lấy bản thân tôi. Tôi bán cái lều của tôi ở Alaska hai năm trước. Tôi có ý tìm nơi nho khác của riêng mình năm tới đây. Tôi mò ra được nhiều chỗ có quặng & hy vọng kiếm được cái gì ở đấy. Ngoài ra, tôi chưa bỏ việc thăm dò. Người ta cũng bảo tôi viết quyển sách về khắc gỗ nghệ thuật và cái Lều Người săn thú tôi dựng lên ở Alaska mà có thời là cơ ngơi của tôi và được tất cả những người du lịch tới Anchorage bằng xe hơi biết đến và có lẽ tôi viết. Tôi chia sẻ với Perry tất cả những gì tôi có. Lúc nào tôi có cái ăn nó có cái ăn. Chừng nào tôi còn sống đó & khi tôi chết tôi có bảo hiểm nhân thọ trả cho nó để nó có thể bắt đầu cuộc SỐNG Mới toanh khi nó được trở lại với tự do. Phòng trường hợp tôi còn sống lúc đó.

      Bản tự thuật này luôn luôn thả cho cả bầy những cảm xúc tha hồ tung vó - dẫn đầu là thương thân, và ghét lúc đầu cùng chạy ngang bằng, nhưng cuối cùng thế nào rồi cái sau cũng bứt vượt lên. Và phần lớn kỷ niệm mà nó cho tháo cũi sổ lồng đều là ngoài mong muốn, tuy phải là tất cả. ra, đoạn đầu của đời mình mà Perry còn nhớ lại được là quý báu lắm - mẩu được tạo nên bởi tiếng hoan hô và ánh sáng huy hoàng. Có lẽ hồi ấy lên ba, ngồi với các chị và thằng lớn khán đài chính của bãi biểu diễn cưỡi ngựa lộ thiên; trong bãi, da đỏ Cherokee mảnh dẻ cưỡi con ngựa hoang, "con quỷ nhảy hất tung cả bốn vó", mớ tóc buông xõa của quất quất lại, bay phấp phới tựa như tóc vũ công Aamenco vậy. Tên là Flo Buckskin, diễn viên nhà nghề biểu diễn tài kỵ mã, "nhà vô địch cưỡi ngựa bất kham". Chồng , Tex John Smith cũng vậy; da đỏ xinh đẹp và chàng cao bồi người Ái Nhĩ Lan đẹp trai thô kệch trong chuyến lưu diễn miền Tây biểu diễn cưỡi ngựa gặp, lấy nhau và có bốn đứa con ngồi ở khán đài chính. (Và Perry có thể nhớ lại nhiều tiết mục cưỡi ngựa ngoạn mục khác nữa - vẫn còn thấy lại bố nhảy chồm chồm trong những vòng dây thòng lọng quay tít quanh người, hoặc mẹ , với các vòng bạc và lam ngọc tuyết nhảy nhót cổ tay, cưỡi ngựa như thần với tốc độ cảm tử khiến đứa con út của mình sợ bắn lên còn đám đông ở các thị trấn từ Texas tới Oregon đến "thảy đều đứng dậy vỗ tay").

      Cho tới khi Perry lên năm, ê kíp "Tex & Flo" vẫn tiếp tục làm trò kỵ mã. cách sống phải " thứ ngon xơi", Perry có lần kể lại: "Sáu chúng tôi ngồi chiếc xe tải cũ kỹ, đôi khi ngủ cả ở đó nữa, sống bằng cháo ngô, kẹo bi Hershey và sữa đặc. Sữa nhãn Con Ó, sữa đặc được gọi như vậy, vì vậy nó làm cho tôi bị suy thận - trong đó có đường - đó là lý do tại sao tôi cứ đái đầm." Nhưng đó cũng phải là cuộc sống hạnh phúc, đặc biệt đối với thằng tự hào về bố mẹ, ngưỡng mộ tài biểu diễn và lòng dũng cảm của họ - cuộc sống chắc chắn hạnh phúc hơn cái cuộc sống sau này. Vì Tex và Flo, cả hai buộc phải thôi nghề do ốm đau, đến định cư ở gần Reno, Nevada. Họ đánh lộn, và Flo "xài whiskey", rồi , khi Perry lên sáu, bà San Francisco, mang lũ trẻ theo. Đúng như ông già viết: "Tôi để bà ấy và chào từ biệt bà ấy khi bà ấy lên xe để tôi lại (chuyện này xảy ra trong thời kinh tế khủng hoảng). Các con tôi khóc khản cả giọng. Bà ấy chỉ chửi rủa chúng, là chúng cứ hẵng nhưng rồi sau này lại có thể đến với tôi." Đúng thế , trong vòng ba năm sau Perry nhiều lần bỏ trốn, lên đường tìm người bố mất tăm, vì nó cũng mất luôn cả người mẹ, nó học được cách "xem thường" mẹ; rượu làm nhòe nhoẹt diện mạo, sưng húp thân hình Cherokee từng có thời gian gân guốc, mềm mại, rượu "làm chua loét tâm hồn bà", rèn cái lưỡi của bà đến mức độc địa nhất trần đời, hủy hoại lòng tự trọng của bà quá đến nỗi bà chẳng thiết hỏi cả tên đám công nhân bốc dỡ, đám tài xế xe buýt điện và những người đại loại thế, họ nhận lấy cái bà cho họ mà chẳng phải chi trả cái gì (trừ việc bà đòi họ phải uống với bà trước và nhảy theo điệu nhạc của chiếc máy hát lỏng dây cót).

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Hậu quả là, như Perry nhớ lại, "Tôi luôn nghĩ tới bố, hy vọng ông đến đem tôi và tôi nhớ, y như vừa mới đây thôi, cái lúc tôi lại nhìn thấy bố. Đứng trong sân trường. Giống hệt như khi quả bóng quăng đánh ịch cái vào chày, chắc nịch. Kiểu Di Maggio 2. Có điều bố cứu tôi. Bảo tôi ngoan và ôm tôi, rồi . Sau đó lâu mẹ tôi đem tôi đến nhà trẻ mồ côi của nhà thờ Cơ đốc. Cái nơi mà lũ Góa Đen luôn luôn hành hạ tôi. Đánh tôi. Vì đái dầm ra giường. Đó là lý do khiến tôi ác cảm với nữ tu sĩ. Và Chúa. Và tôn giáo. Nhưng sau đó tôi thấy còn có những người ác độc hơn. Vì sau hai tháng họ quăng tôi ra khỏi nhà trẻ mồ côi, và bà ấy [mẹ ] cho tôi vào vài nơi còn tệ hại hơn nữa. nhà nuôi trẻ do Quân đoàn Cứu rỗi trông nom. Họ cũng thù ghét tôi. Vì đái dầm ra giường. Và vì lai da đỏ. Có nữ tu nọ, ta quen gọi tôi là 'thằng mọi' và giữa mọi với da đỏ chẳng có gì khác nhau. Ôi, Giê-su, nữ tu này là con Chó đẻ Ma quỷ! Đồ Chó đẻ hóa thân ra. Cái mụ ta quen làm là đổ đầy nước lạnh buốt vào trong cái chậu to, bỏ tôi vào trong đó rồi dìm cho tới khi tôi tím ngắt cả người lại. ly nữa thôi là chết ngạt. Thế nhưng cái con đĩ ấy, mụ bị lộ. Vì tôi bị viêm phổi. Tôi suýt nữa toi. Tôi nằm nhà thương hai tháng. Chính trong lúc tôi ốm này bố tôi trở lại. Khi tôi khỏi, bố đưa tôi ."

      Trong gần năm hai bố con sống với nhau ở căn nhà gần Reno, và Perry học. "Tôi học hết lớp Ba" Perry kể lại. "Là lớp cuối cùng. Tôi bao giờ quay lại nhà trường nữa. Vì mùa hè đó bố tôi làm thứ xe moóc thô sơ, ông gọi nó là 'nhà xe'. Nó có hai cái giường và cái bếp nấu . Lò rất tốt. Có thể nấu nướng gì cũng được. Hai bố con tự nướng lấy bánh mì. Tôi thường hay làm lấy đồ hộp - táo dầm, mứt táo dại. Dẫu sao trong sáu năm sau đó chúng tôi khắp. ở lại đâu quá lâu. Khi chúng tôi ở lại đâu quá lâu, người ta bắt đầu nhìn bố, cư xử tựa như bố là con người quái dị và tôi ghét như thế, nó xúc phạm tôi. Vì lúc đó tôi bố. Cho dù bố có thể dữ với tôi. Áp chế kinh khủng khiếp. Nhưng lúc đó tôi bố. Cho nên tôi luôn luôn vui khi chúng tôi di chuyển." Di chuyển - tới Wyoming, Idaho, Oregon, cuối cùng là Alaska. Ở Alaska, Tex dạy con mơ tưởng đến vàng, săn tìm vàng ở trong lòng cát những con suối có nước tuyết tan, và cũng ở đó, Perry học dùng súng, lột da gấu, lùng vết sói và hươu sừng tấm.

      "Lạy Chúa, rét," Perry nhớ lại. "Bố và tôi ôm nhau mà ngủ, rúc vào trong mấy cái chăn và da gấu. Buổi sáng, trước khi tỏ mặt người, tôi lật đật làm bữa ăn sáng, bánh bích quy và xi rô, thịt rán, rồi chúng tôi ra ngoài kiếm cái sinh nhai. là OK đấy giá như tôi đừng có lớn lên; càng lớn lên tôi càng thể thích bố được. Ông ấy biết mọi thứ theo cách này nhưng theo cách khác lại chẳng biết cái gì hết. Toàn bộ các ngóc ngách của tôi, bố chẳng biết gì. Chẳng hiểu lấy ly. Như tôi có thể chơi được kèn harmonica ngay từ lúc đầu tiên nhặt được cái ghi ta cũng vậy. Tôi có khiếu nhạc. Mà bố thừa nhận. chú ý tới. Tôi cũng thích đọc. Cứ nâng cao dần vốn từ của tôi lên. Làm bài hát. Và tôi vẽ được. Nhưng chẳng bao giờ tôi được lời khuyến khích - của bố hay của bất cứ ai. Đêm đêm tôi quen nằm thức - phần là cố khống chế cái thận, phần vì tôi sao ngừng suy nghĩ được. Khi trời lạnh, quá khó thở, tôi luôn luôn nghĩ đến Hawaii. Đến cuốn phim tôi xem. Dorothy Lamour 3 đóng. Tôi muốn đến đó. Nơi có mặt trời. Và tất cả những gì ta mặc người toàn là cỏ là hoa."

      Mặc nhiều hơn thế rất nhiều, Perry, buổi tối thơm ngát trong thời gian chiến tranh 1945, thấy mình ngồi trong tiệm xăm mình ở Honolulu với hình mẫu con rắn và con dao găm dán bắp tay trái. đến đây bằng đường sau: cuộc cãi cọ với bố, chuyến từ Anchorage, đến Seattle bằng cách nhờ xe, cuộc đến thăm văn phòng tuyển quân của hạm tàu chở hàng. "Nhưng tôi chẳng bao giờ vào đó nếu như tôi biết tôi chống lại cái gì," có lần Perry thế. "Tôi chẳng bận tâm đến công việc bao giờ, tôi thích làm thủy thủ - thích hải cảng và mọi thứ tương tự. Nhưng các bà hoàng tàu để tôi yên. thằng mười sáu tuổi, bé con. Tôi có thể tự mình lo cái thân mình, chắc chắn vậy. Nhưng có nhiều bà hoàng chả liễu yếu đào tơ tí nào. Chó chết, tôi biết có những bà hoàng có thể quăng cái bàn bi da ra ngoài cửa sổ. Sau đó là tới đàn piano. Loại con này chúng có thể làm ông khốn khổ khốn nạn, đặc biệt khi có cặp những con mẹ ấy về bè với nhau đè mình ra, mà ông lại chỉ là thằng . Cái đó có thể làm cho ông muốn tự sát quách cho xong. Những năm sau, khi tôi vào quân đội - khi tôi đóng ở Triều Tiên - vấn đề như thế lại diễn ra. Tôi có thành tích trong quân đội, tốt như mọi người thôi; họ cho tôi huân chương Sao Đồng. Nhưng tôi chẳng bao giờ được đề bạt. Sau bốn năm, đánh nhau suốt trong tất cả cuộc chiến tranh Triều Tiên mẹ kiếp ấy, cuối cùng tôi được cho làm cai, tiểu đội trưởng. Nhưng còn lâu tôi mới làm. Biết sao ? Vì cái thằng trung sĩ chỗ bọn tôi nó hắc lắm. Vì tôi muốn đăng lính lại nữa. Giê-su ơi, tôi ghét cái trò này. Tôi chịu được. Mặc dù - tôi biết. Tôi có thích vài đứa đồng tính. Chừng nào chúng chưa thử giở trò gì. Người bạn đáng tin cậy nhất mà tôi có được, đa cảm và thông minh, thế nào lại quay ra là thằng đồng tính."

      Trong khoảng thời gian giữa lúc bỏ hạm tàu chở hàng và vào quân đội, Perry làm lành với bố, khi đứa con trai chia tay ông, ông dọn xuống Nevada rồi quay về lại Alaska. Năm 1952, năm Perry mãn hạn lính, ông già đương khi thực dở chừng các dự án nhằm chấm dứt hẳn xê dịch của mình. "Bố ốm," Perry kể lại. "Viết thư cho tôi mua được ít đất xa lộ ngoài Anchorage. Bảo là sắp có cái lều cho người săn, địa điểm phục vụ khách du lịch. 'Lều người bẫy thú' - tên nó là vậy. Và cầu tôi lên gấp đó giúp ông xây dựng. Ông chắc chắn chúng tôi trúng to. Được, trong khi còn ở quân đội, đóng tại Fort Lewis, Washington, tôi mua chiếc mô tô (mô tô giết người, phải gọi chúng nó như vậy cơ đấy) 4, và ngay sau khi phục viên tôi lên thẳng Alaska. Xa tới tận Bellingham. Lên phía biên giới. Trời mưa. Mô tô tôi bị trượt."

      Chuyện xe đổ làm gặp bố chậm mất năm. Mổ và nằm bệnh viện mất sáu tháng trong năm đó; sáu tháng kia nằm dưỡng bệnh trong căn nhà gần Bellingham, của thanh niên da đỏ đốn gỗ và câu cá. "Joe James. ta và vợ kết bạn với tôi. Chúng tôi chênh nhau có hai ba tuổi gì đấy, nhưng họ mang tôi về nhà đối xử tựa như tôi là trong mấy đứa con của họ vậy. O.K. thôi. Vì họ bận túi bụi với đám trẻ và họ chúng nó. Lúc đó họ có bốn đứa; con số cuối cùng lên tới bảy. Họ rất tốt với tôi, Joe và gia đình ta ấy. Tôi nạng, tôi chẳng đỡ đần được họ cái gì. Chỉ ngồi quanh. Cho nên tôi kiếm cái gì để làm, cố làm cho mình có ích, tôi mở cái sau này thành cái kiểu như trường học. Học trò là đám con Joe, cùng vài đứa bạn của chúng, và chúng tôi học trong phòng khách. Tôi dạy harmonica và ghi ta. Vẽ. Viết. Ai cũng nhận thấy tôi viết chữ đẹp. Tôi viết đẹp , là vì có dạo tôi mua quyển sách dạy viết chữ đẹp rồi tập cho tới khi tới viết đúng y như trong sách. Chúng tôi cũng hay đọc truyện - bọn trẻ con kể lần lượt, từng đứa , chúng kể đến đâu tôi chữa cho chúng đến đấy. Vui. Tôi thích trẻ con. Những đứa nhóc. Quãng thời gian đấy hay. Nhưng rồi mùa xuân tới. bộ còn đau nhưng tôi được. Mà bố vẫn chờ tôi."

      Chờ, nhưng phải ngồi . Lúc Perry đến được địa điểm túp lều săn tương lai bố , chỉ mình, làm xong những việc nặng nhọc nhất - dọn quang đất, đốn chặt các cây gỗ cần dùng, chuyển hàng toa sỏi đá. "Nhưng tới lúc tôi đến ông mới bắt đầu xây dựng. Chúng tôi tự làm lấy từng bộ phận khốn kiếp của nó. Thi thoảng mới có người da đỏ phụ tay. Bố như người tâm thần. Bất kể trời đất làm sao - bão tuyết, bão nước, gió chẻ đôi cây - chúng tôi vẫn cứ ôm lấy việc. Hôm lợp xong mái, bố nhảy lên đó, hét và cười, làm hẳn điệu jig chính cống. Chà, nó hóa ra là chỗ đỉnh thế cơ chứ. Chứa được hai chục người ngủ. Có lò sưởi củi lớn trong phòng ăn. Và có phòng uống cốc tai. Tên là Phòng Cốc tai Vật tổ Vùng cực. Nơi tôi phải cho khách hàng tiêu khiển. Hát hỏng vân vân. Chúng tôi bắt đầu kinh doanh vào cuối năm 1953."

      Nhưng những người săn mà họ trông đợi ra thành xương thịt, và tuy những người du lịch bình thường - số ít người giọt dọc xa lộ - thỉnh thoảng có dừng lại để chụp ảnh cái vẻ thô sơ khó lòng tin nổi của Trapper's Den Lodge, song họ hiếm khi ngủ qua đêm. "Chúng tôi huyễn nhau trong thời gian. Cứ nghĩ là nó bắt được khách. Bố cố trổ thêm mánh mung cho cái địa điểm này. Làm Vườn Ký ức. Với Giếng cầu mong. Đặt biển quảng cáo dưới xa lộ. Nhưng chẳng cái nào đem lại thêm đồng xu. Khi bố nhận ra điều đó - thấy nó vô dụng, chỉ là tự lãng phí mình cùng tất cả tiền bạc - ông bắt đầu trút cả lên đầu tôi. Sai tôi chạy khắp. Hằn học. Bảo tôi góp phần vào công việc. Đó phải là lỗi của ông, đó còn là lỗi của tôi. tình cảnh như thế, tiền bạc , ăn uống ngày kém dần, chúng tôi thể cà khịa lẫn nhau. Đỉnh điểm đến khi chúng tôi đói . Đó là điều khiến hai bố con xung đột. Cớ bề ngoài thôi. cái bánh bích quy. Bố giằng cái bánh bích quy ở tay tôi ra, tôi ăn quá nhiều, tôi là thằng chó chết ích kỷ, tham lam, tại sao tôi cút , ông muốn tôi ở lại thêm nữa. Ông cứ rủa mãi cho tới khi tôi nhịn được nữa. Tay tôi chộp lấy cổ ông ấy. Tay của tôi - nhưng tôi kiểm soát được chúng nữa. Chúng muốn bóp ông cho chết. Tuy thế, bố tôi, ông lại rứt ra được, đô vật khôn ngoan đấy. Ông gỡ được ra và chạy lấy súng. Trở lại chĩa vào tôi. Ông , 'Perry, mày nhìn tao đây. Tao là cái đứa sống sót cuối cùng mày thấy đời.' Tôi chỉ đứng đực ra. Nhưng rồi ông thấy súng nạp đạn, thế là ông bắt đầu khóc. Ngồi xuống gào tu tu như đứa bé con. Lúc đó tôi nghĩ tôi giận ông ấy làm gì nữa. Tôi buồn cho ông ấy. Cho cả hai bố con. Nhưng nó cũng chẳng được cái tích gì - tôi chẳng được gì hết. Tôi ra ngoài. tháng Tư, nhưng rừng cây còn ngập sâu trong tuyết. Tôi cho tới lúc gần tối mịt. Khi tôi trở về, túp lều tối om, tất cả cửa nẻo đều khóa. Và mọi thứ của tôi nằm ở ngoài tuyết. Nơi bố vất chúng ra. Sách vở. Quần áo. Mọi thứ. Tôi cứ để nằm cả đấy. Trừ cây ghi ta của tôi. Tôi nhặt cây ghi ta lên và bắt đầu xuôi xuống xa lộ. đô la trong túi. Khoảng nửa đêm xe tải đỗ lại cho tôi nhờ. Người lái hỏi tôi đâu. Tôi bảo, 'Ông tới đâu tôi tới đó'."

      Nhiều tuần sau, sau khi lại đến náu ở nhà James, Perry quyết định chỗ đến cuối cùng - Worcester, Massachusetts, thị trấn quê hương của "bằng hữu trong quân đội" mà nghĩ vui vẻ chào đón và giúp tìm ra " việc lương kha khá". Nhiều chuyện vòng vèo kéo dài chuyến sang miền Đông; rửa bát trong quán ăn ở Omaha, bơm xăng ở gara tại Oklahoma, làm tháng trong trại chăn nuôi ở Texas. Tháng Bảy năm 1955, đường tới Worcester, đến Phillipsburg, thị trấn thuộc Kansas, và ở đó, "số phận" dưới dạng "tên bạn đường xấu xa" tự khẳng định mình. "Tên là Smith," Perry . "Giống như tôi. Ngay đến tên riêng của tôi còn nhớ. chẳng qua là kẻ tôi nhặt được ở chỗ nào đó, chiếc xe và cho tôi cuốc xa tới tận Chicago. Dẫu sao qua Kansas chúng tôi tới cái chỗ Phillipsburg bé này và đỗ lại xem bản đồ. Hình như hôm đó là Chủ nhật. Cửa hàng đóng. Phố xá im lìm. Bạn tôi đó, cầu phúc cho lòng dạ nó, nhìn quanh rồi gợi ý." Gợi ý đó là cướp ngôi nhà cao tầng gần đấy, Công ty Tiêu thụ Chandler. Perry tán thành, và chúng đột nhập vào những gian nhà vắng quạnh, lấy số thiết bị văn phòng (máy chữ, máy tính). Chuyện lẽ ra là ổn, giá như vài ngày sau hai tên ăn cắp bỏ qua cột đèn giao thông ở thành phố Saint Joseph, Missouri. "Các của đồng nát còn ở cả trong xe. Viên cảnh sát ngăn xe chúng tôi lại muốn biết chúng tôi lấy các cái đó ở đâu. Họ kiểm tra chút và rồi, như họ , chúng tôi 'được trả về lại' Phillipsburg, Kansas. Chỗ này họ có nhà giam đẹp. Nếu như ông thích nhà giam." Trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, Perry và tên bạn đường phát ra cửa sổ để ngỏ, bèn leo ra khỏi đó, ăn cắp chiếc xe rồi lái lên Tây Bắc, tới McCook, Nebraska. "Rất nhanh sau đó hai đứa rời nhau, tôi và ông Smith. Tôi biết rồi ra sao. Cả hai đều trong danh sách truy nã của F.B.I. Nhưng như tôi biết họ vẫn chưa tóm được bao giờ."

      buổi chiều tháng Mười tiếp đó, chiếc xe buýt Greyhound đặt Perry xuống Worcester, thị trấn toàn cơ xưởng của Massachusetts đầy những đường phố dốc lên dốc xuống dựng đứng đến nỗi ngay lúc thời tiết đẹp nhất hình như cũng chẳng vui tươi gì và lại còn thù nghịch. "Tôi tìm được nhà của người bạn. Bạn lính ở Triều Tiên. Nhưng người ta khỏi đây sáu tháng rồi và họ hiểu đâu. Tệ hại quá, thất vọng lớn, tận cùng của thế gian, tất cả. Thế là tôi tìm tiệm rượu, mua nửa gallon rượu vang đỏ của Ý đem ra trạm xe buýt ngồi đó uống và sưởi cho ấm lên tí chút. Tôi khoan khoái người đến bắt tôi vì tôi lang thang cầu bơ cầu bất." Cảnh sát đăng ký tên là "Bob Turner" - cái tên tự đặt ra vì tên có trong danh sách của F.B.I. ở trong nhà giam mười bốn ngày, bị phạt mười đô la, và từ Worcester lên đường vào buổi chiều ấm ướt khác nữa của tháng Mười . "Tôi xuống New York và thuê phòng ở khách sạn tại Đại lộ số Tám," Perry . "Gần đường Bốn mươi Hai. Cuối cùng tôi tìm được việc làm đêm. Làm những trò kỳ cục quanh đoạn đường có mái vòm mạt hạng. Thẳng từ đó ra đường Bốn mươi Hai, gần trạm bán hàng tự động. Đây là nơi tôi ăn - khi mà tôi ăn. Trong hơn ba tháng tôi đúng là bao giờ rời khỏi vùng Broadway. Vì lẽ, tôi có quần áo phù hợp. Toàn quần áo miền Tây - jeans với ủng. Nhưng ở đây, đường Bốn mươi Hai chẳng ai bận tâm, mặc thế nào cũng được - bất kỳ cái gì luôn. Cả đời tôi chưa bao giờ gặp nhiều cảnh dị thường đến thế."

      sống qua mùa đông trong cái môi trường xấu tệ thắp đèn neon, với cái khí sặc mùi ngô rang, xúc xích luộc liu riu và rượu cam. Nhưng rồi, buổi sáng tháng Ba tươi tắn đầu xuân, như nhớ được, "Hai tên chó chết F.B.I đánh thức tôi dậy. Bắt tôi tại khách sạn. Xình! - Tôi bị trục xuất về Kansas. Tới Phillipsburg. Vẫn cái nhà tù xinh xẻo ấy. Họ đóng đinh câu rút tôi - ăn cắp, vượt ngục, trộm xe. Tôi bị tù năm đến mười năm. Ở Lansing. Vào đó được ít lâu, tôi viết cho bố. Cho ông biết tin. Và viết cho Barbara, chị tôi. Qua bao năm tháng, lúc đó họ là tất cả những gì còn lại với tôi. Jimmy tự sát. Fern nhảy cửa sổ. Mẹ tôi chết. Chết tám năm. Mọi người ra cả, trừ bố và Barbara." bức thư của Barbara nằm trong mớ đồ chọn lọc mà Perry thích để lại đằng sau tại phòng khách sạn ở Mexico City. Viết bằng kiểu chữ vui vui dễ đọc, bức thư đề ngày 28 tháng Tư năm 1958, vào lúc đó người nhận ở tù được khoảng hai năm.

      Em Perry thân ,

      chị nhận được bức thư thứ hai của em hôm nay & tha lỗi cho chị viết được sớm hơn. Thời tiết ở đây ấm lên, chỗ em cũng thế nhỉ, & có lẽ chị bị cúm xuân nhưng chị gắng cho khỏi. Bức thư thứ nhất của em làm chị xáo động, chị chắc em ngờ là nó như thế nhưng đó phải là lý do khiến chị chưa viết - quả là đám trẻ con làm chị bận & khó lòng mà tìm ra được giờ ngồi tập trung vào lá thư như chị mong viết cho em bấy lâu nay. Donnie học mở được cửa và trèo lên ghế & các đồ đạc khác & nó khiến chị lúc nào cũng lo nó ngã.

      Thỉnh thoảng chị cũng để cho trẻ con chúng nó chơi quanh sân, nhưng phải luôn luôn ở bên vì chúng có thể bị thương nếu như chị chú ý tới. Nhưng chẳng cái gì mãi mãi được & chị biết chị buồn khi chúng bắt đầu chạy lung tung khắp khối nhà này mà chị chẳng biết là chúng ở đâu. Đây là vài con số thống kê nếu như em quan tâm:

      Chiều cao Cân nặng Cỡ giày

      Freddie 91 cm 2 13 ký 2 Số 7-1/2 hẹp

      Baby 92 cm 5 19 ký Số 8 hẹp

      Donnie 85 cm 13 ký Số 6-1/2 rộng

      Em có thể thấy Donnie là thằng cu xinh xắn mới có 15 tháng mà khá to với 16 cái răng và tính cách chan hòa của nó người ta thể nào mà nó được. Nó mặc cùng cỡ áo quần với Baby và Freddie có điều quần quá dài thôi.

      Chị cố viết cho cái thư này dài nên có lẽ nhiều khi bị ngắt ngang ví dụ như bây giờ là phải cho Donnie tắm - Baby & Freddie tắm hồi sáng rồi tại vì hôm nay khá lạnh nên chị cho chúng ở trong nhà. quay lại ngay...

      Về việc đánh máy chữ của chị - trước nhất - chị thể dối! Chị phải là dân đánh máy chữ. Chị dùng từ đến năm ngón & mặc dù chị có thể xoay xở giúp Fred Bự làm công việc buôn bán của ấy, nhưng mà việc chị phải mất giờ để đánh, nếu là người có kỹ thuật chỉ mất - chừng mười lăm phút. nghiêm túc ra, chị giờ lẫn ý chí để học thành nghề. Nhưng chị nghĩ em mà lại duyên nợ với nó rồi trở thành người đánh máy chữ giỏi như thế là tuyệt vời. Chị tin rằng tất cả chúng ta (Jimmy, Fern, chị và em) đều rất dễ thích nghi & nhờ trời chúng ta đều được phú cho nhạy là cái cơ bản đối với người nghệ sĩ - cùng với những cái khác nữa. Ngay mẹ và bố cũng đều là nghệ sĩ kia mà.

      Chị thành cảm thấy chẳng ai trong chúng ta có thể quở trách bất cứ ai về bất cứ cái gì chúng ta làm với cuộc đời của riêng mình. Người ta chứng minh rằng ở tuổi lên bảy phần lớn chúng ta đạt tới cái tuổi lý trí - nghĩa là ở tuổi đó chúng ta thực hiểu & biết chỗ khác nhau giữa đúng & sai. Dĩ nhiên - môi trường đóng vai trò quan trọng ghê gớm trong cuộc đời ta như Nhà tu trong trường hợp chị & trong trường hợp chị, chị biết ơn cái ảnh hưởng đó. Về trường hợp Jimmy - ấy là người mạnh mẽ nhất trong tất cả chúng ta. Chị nhớ ấy làm việc & học như thế nào khi chẳng còn ai bảo ban ấy & đó là Ý CHÍ của chính ấy muốn làm cho ấy trở thành cái gì đó. Chúng ta chẳng bao giờ biết được tại sao việc kia lại xảy ra, tại sao ấy làm cái mà ấy làm, nhưng nghĩ đến chị vẫn cứ đau lòng. uổng phí quá chừng. Nhưng chúng ta kiểm soát được rất ít những điểm yếu về mặt con người của chúng ta, & điều đó cũng áp dụng vào Fern & hàng trăm nghìn những người khác bao gồm cả bản thân chúng ta - vì tất cả chúng ta đều có những điểm yếu hết. Trong trường hợp của em - chị biết chỗ yếu của em là gì nhưng chị cảm thấy - ĐÓ LÀ CÓ CÁI MẶT BẨN MÀ BIẾT XẤU HỔ - NẾU MẶT BẨN MÀ CỨ ĐỂ THẾ XẤU HỔ TỰ NÓ ĐẾN.

      Với tất cả lòng thành & tình đối với em, Perry, vì em là đứa em trai duy nhất còn sống của chị là cậu của các con chị, chị thể hay cảm thấy thái độ của em với bố chúng ta, hay việc em bị tù là ĐÚNG hay lành mạnh được. Nếu em cáu tốt nhất là em nén nó vì chị nhận thấy chúng ta chẳng có ai lại vui vẻ nghe lời phê bình cả & cảm thấy chút ít khó chịu với cái người phê mình âu cũng là điều tự nhiên thôi cho nên chị chuẩn bị sẵn hai cái sau đây - a) còn nghe được tin tức gì của em nữa, hay b) bức thư em nghĩ về chị như thế nào.

      Chị mong là chị sai & chị chân thành mong em suy nghĩ nhiều về bức thư này & cố xem xem - người khác cảm thấy như thế nào về mình. Xin hiểu cho là chị biết chị phải là người có thẩm quyền & chị cũng chẳng khoe khoang thông minh nhiều hay học lắm nhưng chị tin chị là con người bình thường có năng lực suy xét cơ bản & ý chí sống cuộc đời của mình theo như các luật lệ của Chúa & Con người. Đúng là chị đôi khi "ngã", thường tình thôi - vì như chị chị là người & do đó chị cũng có những chỗ yếu của con người; nhưng lại lần nữa, vấn đề là ở chỗ xấu hổ khi mặt bẩn - mình xấu hổ nếu như mình cứ để cho mặt mình bẩn. ai hiểu các thiếu sót và lầm lỗi của chị bằng chính chị cho nên chị chẳng làm em bực mình nữa làm gì.

      Bây giờ, trước hết & quan trọng nhất - bố chịu trách nhiệm về những việc làm sai hay những việc làm tốt của em. Cái em làm, dù đúng dù sai, là việc riêng của em. Theo như bản thân chị biết em sống cuộc đời của em đúng như em thích, hề tính đến hoàn cảnh hay những người mến em - những người có thể bị đau đớn. Hoặc em nhận thấy hoặc là - việc em bị tù làm chị cũng như bố bận lòng - phải vì việc em làm mà vì là em cho chị thấy bất cứ dấu hiệu nào về ân hận THÀNH KHẨN và hình như còn cho thấy chẳng hề kính trọng đối với pháp luật, con người hay cái gì sất cả. Thư em ngụ ý lỗi của tất cả các vấn đề của em là lỗi của ai khác, chứ bao giờ là của em hết. Chị thừa nhận là em thông minh và vốn từ của em rất khá & chị cảm thấy em có thể làm bất cứ cái gì em quyết tâm làm & làm tốt nhưng chính xác ra em muốn làm cái gì đây & em có muốn lao động & có cố gắng trung thực để đạt tới cái gì mà em chọn làm ? cái tốt nào mà lại dễ cả và chị chắc em nghe điều này nhiều lần rồi nhưng thêm lần nữa cũng chẳng hại gì.

      Còn nếu em muốn biết về bố - lòng bố tan nát vì em đấy. Cụ hiến bất cứ cái gì để đưa được em ra, để cho con trai cụ lại về với cụ - nhưng chị e rằng nếu như em có thể em lại làm cho cụ đau đớn dữ hơn nữa mà thôi. Bố khỏe và già &, như người ta vẫn đấy, bố chẳng thể "Có sức nặng" như thời xưa nữa. Bố có những phen sai lầm & bố nhận ra nhưng bất cứ cái gì bố có và bất cứ chỗ nào bố đến ông đều chia sẻ cuộc đời & của cải của ông với em trong khi chẳng làm với ai khác như thế cả. Chị là em phải chịu ơn bố vĩnh viễn hay nợ bố cuộc đời em mà chị chỉ em còn nợ bố LÒNG KÍNH TRỌNG và ĐẠO LÝ THÔNG THƯỜNG. Bản thân chị, chị tự hào về bố. Chị bố, kính trọng bố & chị chỉ buồn vì bố chọn làm Con Sói Độc với đứa con trai của mình, trong khi lẽ ra bố có thể sống với chị, hưởng tình thương của chị thay vì cứ lủi thủi trong cái xe moóc tí tẹo & mong mỏi, đợi chờ & quạnh vì em, thằng con trai của bố. Chị lo cho bố & khi chị chị là muốn cho cả ấy vì chồng chị kính trọng bố. Vì bố là CON NGƯỜI. Đúng là bố được học nhiều nhưng khi học chúng ta chỉ học biết nhận mặt chữ rồi đánh vần nhưng còn vận dụng chúng vào đời thực lại là việc khác, cái đó chỉ CUỘC ĐỜI & SỐNG mới có thể ban cho chúng ta được. Bố sống & em tỏ ra ngu dốt khi gọi bố là vô học & có khả năng hiểu được "ý nghĩa khoa học vân vân" của các vấn đề trong cuộc đời. người mẹ vẫn cứ là người duy nhất có thể hôn thằng con quậy phá và làm cho nó hoàn toàn sung sướng - em giải thích thế nào cho khoa học cái đó .

      Chị xin lỗi là để em đọc cái thư viết nặng nề thế này nhưng chị cảm thấy chị phải hết ý mình. Chị ân hận là bức thư này chắc bị kiểm duyệt [bởi những vị quản ngục], & chị thành hy vọng lá thư này có hại cho khả năng thả em nhưng chị cảm thấy em nên biết & nhận ra nỗi đau kinh khủng mà em gây nên. Bố là người quan trọng nhất bởi chị là người hiến trọn mình cho gia đình nhưng em mới là người duy nhất bố - tóm lại, em là "gia đình" của bố. Bố biết chị bố, dĩ nhiên, nhưng thân thiết lại ở đấy, em biết mà.

      Việc em ở tù chẳng có gì đáng tự hào & em phải sống với nó, cố sống cho trọn nó & có thể sống tới khi mãn hạn nhưng phải với thái độ như kiểu em cứ có cảm tưởng ai cũng ngu, cũng vô học & có khả năng thông cảm. Em là con người có ý chí tự do. Nó làm cho em ở bên hàng con vật. Nhưng nếu em sống cuộc đời em mà cảm xúc và thương xót cho đồng loại em chẳng khác gì con vật - "ăn miếng trả miếng" nhau - sống như vậy có được hạnh phúc & bằng an trong tim đâu.

      Đến chừng dính đến trách nhiệm chẳng ai muốn cả - nhưng tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cái cộng đồng chúng ta sống ở trong đó & với pháp luật của nó. Khi nào đến lúc gánh lấy trách nhiệm của ngôi nhà và con cái hay công việc làm ăn, đó là gieo trồng những đứa trẻ từ Con người - vì chắc em có thể nhận thấy rằng thế giới hỗn loạn như thế nào nếu như ai trong đó cũng , "Tôi muốn là cá nhân, trách nhiệm, & có thể thả cửa ý tôi & làm những cái mình tôi muốn." Chúng ta tất cả đều tự do & làm như cá nhân mình muốn - với điều kiện là cái "tự do" & Làm này gây thiệt hại cho đồng loại của mình.

      Nghĩ về cái đó , Perry. Về độ thông minh, em ở mức trung bình, nhưng lập luận của em cứ có phần nào sai lệch. Có thể do ở tù căng thẳng. Muốn là cái gì chăng nữa - cũng hãy nhớ lấy - em & chỉ có em chịu trách nhiệm và đó là việc của em, chỉ riêng có mình em vượt qua cái tao đoạn này của đời em. Hy vọng sớm được tin em.

      & cầu nguyện,

      Chị em & A. rể

      Barbara & Frederic & gia đình

      Giữ cái thư này, lưu nó lại trong bộ sưu tập những vật báu đặc biệt của , chẳng phải Perry làm vậy là theo tình cảm. Còn khuya. "thù ghét" Barbara, mới hôm nọ bảo Dick, "Nỗi ân hận duy nhất và mà tớ có là tớ từng mong mụ chị chó chết này sống trong cái nhà đó." (Dick cười lớn, và thú ra nguyện vọng tương tự: "Tớ cứ nghĩ giá như mụ vợ hai của tớ ở đây ngộ đến thế nào. Mụ, và cả cái gia đình khốn kiếp của mụ.") , coi trọng bức thư chỉ là vì người bạn tù, tay Willie-Jay "siêu thông minh", viết cho bài phân tích "rất sắc sảo" về bức thư đó, kín hai trang đánh máy với hàng cách , đầu đề ở cùng là "Những cảm tưởng tôi tâm đắc từ Bức thư":

      NHỮNG CẢM TƯỞNG TÔI TÂM ĐẮC TỪ BỨC THƯ

      1. Khi bà ta bắt đầu viết lá thư này, bà ta có ý làm cho nó thành biểu thị thương cảm của các nguyên tắc Cơ đốc giáo. Nghĩa là đáp lại bức thư của gửi bà ta, bức thư mà ràng làm cho bà ta bực dọc, đến lượt bà ta trả miếng, hy vọng bằng cách này khích phải hối hận về cái thư trước của đồng thời đặt vào thế tự vệ trong bức thư sắp tới của .

      Nhưng ít ai có thể diễn đạt thành công nguyên tắc trong đạo đức học thông thường khi mà suy tính của người ấy lại đầy rẫy chủ nghĩa xúc cảm. Bà chị chứng minh thất bại đó vì bức thư bà ấy càng viết nhiều phán xét của bà ấy lại càng nhường đường cho cảm tính - ý nghĩ của bà ấy tốt, sắc sảo, sản phẩm của trí thông minh, nhưng giờ nó phải là trí thông minh vô ngã, phi khuynh hướng. Nó là tâm trí bị thúc đẩy bởi đáp ứng cảm xúc đối với hồi ức và thất vọng; do đó, dù những lời quở trách của bà ấy có thông thái đến thế nào chăng nữa, chúng cũng thể khêu dậy được cách giải, trừ phi cách giải đó là trả đũa lại bằng cách làm đau bà ấy trong lá thư sau của . Như vậy bắt đầu chu trình chỉ có thể đẩy xa nữa lòng giận dữ và nỗi đau đớn.

      2. Đây là lá thư rồ dại, nhưng được đẻ ra từ thất bại của con người.

      Thư của cho bà ta, và thư bà ta trả lời , đều thất bại với mục tiêu của chúng. Thư của mưu toan giải thích quan điểm của đối với cuộc đời, như bị nó tất yếu tác động. Phận của nó là phải bị hiểu sai , hay hiểu quá nông cạn theo mặt chữ vì rằng ý tưởng của là đối lập với chả nghĩa công thức. Cái gì có thể công thức hơn được bà nội trợ với ba mụn con, người "hiến trọn mình" cho gia đình???? Bà ta có ác cảm với người công thức, điều này còn có gì tự nhiên hơn được cơ chứ.

      Trong chủ nghĩa công thức có đạo đức giả ghê gớm. Bất cứ người nào có suy nghĩ cũng đều nhận thấy cái nghịch lý này; nhưng trong giao thiệp với người công thức mà ta đối xử với họ làm như họ hề đạo đức giả ta có lợi. Đây phải là vấn đề lòng tin đối với các quan niệm của chính ; đây là vấn đề thỏa hiệp để vẫn được là cá nhân mà phải chịu những sức ép thường trực của chủ nghĩa công thức. Thư của bà ta thất bại vì bà ta thể quan niệm được chiều sâu vấn đề của - bà ta thể lường được sâu sắc trong vấn đề của , thể dò hiểu được những sức ép mà phải gánh chịu bởi môi trường, nỗi thất vọng trí tuệ và xu hướng ngày càng phát triển hướng tới chủ nghĩa biệt lập.

      3. Bà ta thấy rằng:

      a) ngả quá nhiều sang tự thương thân.

      b) quá tính toán.

      c) xứng đáng với bức thư tám trang giấy viết giữa những vụ của người mẹ.

      4. Ở trang ba bà ta viết: "Chị cảm thấy chẳng ai trong chúng ta có thể trách móc bất cứ ai, v.v..." Thế là bào chữa cho những người phát huy ảnh hưởng trong những năm khôn lớn của bà ta. Nhưng đó có phải toàn bộ ? Bà ta là người vợ và người mẹ. Đáng kính và ít nhiều yên ổn. Chẳng khó để tâm đến mưa nếu như ta có áo mưa. Nhưng bà ta cảm thấy ra sao nếu như bà ta bị buộc phải tất tả kiếm ăn đường phố? Bà ta liệu có còn tha thứ hoàn toàn cho những người - trong quá khứ của bà ta ? Tuyệt đối là rồi. gì bình thường hơn chuyện cảm thấy người khác có phần dính líu của họ trong thất bại của ta, chẳng khác nào quên những người từng dự phần vào thành công của ta là phản ứng bình thường vậy.

      5. Bà chị kính trọng ông bố. Bà ta cũng khó chịu việc được bố thích hơn. Lòng ghen tị của bà ta mang hình thức tinh vi trong bức thư này. Xen vào giữa các dòng bà ta gài vào câu hỏi: "Chị bố và cố sống để bố tự hào về chị với tư cách là con bố. Nhưng chị phải tự bằng lòng với những mẩu lụn vụn của tình thương của bố. Vì rằng bố em, và tại sao lại như thế?"

      ràng qua nhiều năm tháng bố lợi dụng được bản chất đa cảm của bà chị qua thư từ. Vẽ ra bức tranh biện bạch cho ý nghĩ của bà ta về ông bố - kẻ thua thiệt bị đứa con vô ơn làm nhục, đứa con mà ông ta tỏ tình và mối quan hoài, chỉ để rồi đối lại việc bị đứa con ấy đầy đọa cách bỉ ổi.

      Ở trang bảy, bà ta bà ta buồn vì lá thư của mình chắc bị kiểm duyệt. Nhưng ra bà ta chẳng buồn tí nào đâu. Bà ta mừng là nó được qua kiểm duyệt. Trong vô thức bà ta viết nó với kiểm duyệt viên ở trong đầu, mong muốn cho toát lên được cái - rằng gia đình nhà Smith đơn vị rất có trật tự: "Xin chớ lấy Perry ra mà phán xét tất cả chúng tôi."

      Về người mẹ hôn cho đứa con thôi quậy. Đây là hình thức châm biếm của đàn bà.

      6. viết cho bà chị vì:

      a) bà ta tàm tạm.

      b) cảm thấy cần có tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

      c) có thể lợi dụng được bà ta.

      Dự đoán: Thư từ giữa và bà chị chẳng giúp được cái tích gì ngoài chức năng xã hội thuần túy. Hãy giới hạn chủ đề các bức thư của trong phạm vi hiểu của bà ta. Chớ vứt bỏ các kết luận riêng tư của . Đừng đặt bà ta vào thế tự vệ và đừng cho bà ta đặt vào thế tự vệ. Kính trọng những hạn chế của bà ta trong việc hiểu các mục tiêu của , và nhớ rằng bà ta dễ bị động chạm trước những lời phê bình ông bố. Hãy nhất quán trong thái độ đối với bà ta và chớ đưa thêm cái gì vào cảm tưởng bà ta có về rằng yếu đuối, cái này phải vì cần đến thiện cảm của bà ta mà vì có thể chờ đợi nhiều thư còn hơn thế này nữa, và chúng chỉ có thể dùng để làm tăng lên thêm nữa bản năng chống xã hội vốn nguy hiểm của mà thôi.

      HẾT

      Trong khi Perry tiếp tục sắp xếp và chọn lọc, cái chồng tài liệu nghĩ là quá thân khó thể nào chia tay với , dù chỉ tạm thời thôi, cao lên ngất ngưởng. Nhưng phải làm sao đây? thể liều để mất tấm huân chương Sao Đồng kiếm được trong chiến tranh Triều Tiên, hay tấm bằng tốt nghiệp trung học (do sở Giáo dục hạt Leavenworth cấp, kết quả của việc bắt đầu lại ở trong tù học hành từng bị bỏ lâu ngày của ). cũng chẳng dám phó thác cho may rủi cái phong bì ních căng những ảnh là ảnh - chủ yếu của , xếp theo thời gian, từ chân dung chàng trai bé xinh xắn chụp lúc vào làm ở hạm tàu chở hàng (đằng sau bức ảnh viết, "16 tuổi. Trẻ, tin tưởng vào vận may & Ngây thơ") đến những bức mới chụp ở Acapulco. Và có đến năm chục thứ khác quyết định phải mang theo, trong đó có những tấm bản đồ về các kho tàng, quyển ký họa của Otto, hai tập sổ tay dày, tập dày nhất là cuốn từ điển của riêng , mục từ xếp theo thứ tự chữ cái mà là mớ các chữ tin là "đẹp" hay "có ích", hay ít nhất là "đáng ghi nhớ". (Chẳng hạn: "Thanatoid = như chết; Omnilingual = có khiếu ngôn ngữ; Amerce = trừng phạt, do tòa định; Nescient = ngu dốt; Facinorous = tinh ma đến tàn nhẫn; Hagiophobia = sợ có tính bệnh hoạn những nơi hay vật thiêng liêng; Lapidicolous = sống ở dưới đá, như số người mù hẳn; Dyspathy = thiếu cảm tình, thiếu cảm giác bè bạn; Psilopher = kẻ muốn được coi như triết gia; Omophagia = tiệc ăn thịt sống, ở số bộ lạc; Depredate = cướp, trộm, rình mò; Aphrodisiac = thuốc hay đại loại kích thích ham muốn tính dục; Megalodactylous = có ngón tay to dị thường; Myrtophobia = sợ đêm và bóng tối.")

      Bìa quyển sổ tay thứ hai, chữ viết trong ấy khiến lấy làm tự hào lắm, thứ chữ đầy những nét hoa mỹ quăn tít giống như của đàn bà, tuyên bố nội dung là "Nhật ký riêng tư của Perry Edward Smith" - miêu tả thế là sai, vì ít ra nó phải nhật ký mà đúng hơn là dạng hợp tuyển gồm các việc tối tăm ("Cứ mười lăm năm sao Hỏa lại đến gần hơn. Năm 1958 là năm gần"), các bài thơ và trích dẫn văn học (" ai là hòn đảo cả", "Toàn vẹn với bản thân"), và những đoạn trích dẫn hoặc diễn ý lại từ báo chí hay sách vở. Thí dụ:

      Chỗ quen biết của tôi nhiều, bạn bè của tôi ít; những người hiểu tôi lại còn ít hơn.

      Nghe đến loại bả chuột mới ở thị trường. Rất mạnh, mùi vị, hấp thụ hoàn toàn đến nỗi sau khi nuốt vào thể tìm ra dấu vết cơ thể chết.

      Nếu được mời lên diễn thuyết: "Tôi thể nhớ mình sắp điều gì đây vì cuộc đời tôi - tôi nghĩ rằng trước đây trong đời có khi nào tôi có quá nhiều người đến thế từng góp phần trực tiếp vào việc tôi vui, rất là vui đến thế này. Đây là giây phút tuyệt vời, giây phút hiếm hoi và tôi chắc chắn là hàm ơn. Cảm ơn các vị!"

      Đọc bài báo lý thú số tháng Hai về Người với Người: "Tôi đâm chém để mở đường đến Hố Kim Cương."

      " người được hưởng tự do với tất cả các đặc quyền đặc lợi của nó gần như thể nào nhận thức nổi tự do đó mà bị tước đoạt mất thế nào." - Erle Stanley Gardner 5 .

      "Cuộc đời là gì? Nó là ánh sáng của con đom đóm trong đêm. Nó là hơi thở của con trâu rừng trong tiết trời đông giá. Nó như là cái bóng râm nho chạy mặt cỏ rồi mất tiêu trong ánh chiều tà." - Crowfoot, thủ lĩnh da đỏ Blackfoot .

      Đoạn ghi cuối cùng này bằng mực đỏ và được tô điểm bằng đường viền những ngôi sao bằng mực xanh lá cây; nhà làm hợp tuyển muốn nhấn mạnh "ý nghĩa riêng tư" của nó lên. "Hơi thở của con trâu rừng trong tiết trời đông giá" - cái đó gợi lên chính xác nhân sinh quan của . Lo phiền làm gì? Có cái gì để mà "đổ mồ hôi sôi nước mắt"? Con người chẳng là cái gì hết, làn sương mù, bóng tối bị những bóng tối khác nuốt mất .

      Nhưng mẹ kiếp, mày phải lo phiền đấy, phải tìm mánh, gặm cụt hết móng tay mày ra và lời nhắc nhở của ban giám đốc khách sạn: "SU DÍA TERMINA A LAS 2 P.M." ("Ngày thuê kết thúc vào hai giờ chiều.")

      "Dick? Nghe tiếng tớ ?" Perry . "Sắp giờ rồi."

      Dick tỉnh ngủ. Còn hơn cả tỉnh nữa; và Inez làm tình. Tựa như tụng bài kinh, Dick thào luôn mồm: "Có thích , cưng? Có thích ?" Nhưng Inez, hút điếu thuốc, cứ im lặng. Nửa đêm hôm trước, khi Dick đưa ả đến phòng và bảo Perry rằng ả ngủ ở đây, tuy tán thành song cũng bằng lòng nhưng nếu bọn họ tưởng rằng việc họ làm kích thích hoặc hình như việc ấy chẳng hề "phiền toái" cho bọn họ lầm to. thế thôi, Perry cũng cảm thấy ái ngại cho Inez. Ả là "con ranh ngu ngốc" - ả tin là Dick muốn lấy ả , hề mảy may ngờ rằng dự định rời Mexico ngay chiều hôm đó.

      "Có thích , cưng? Có thích ?"

      Perry : "Nhân danh Chúa, Dick. Lẹ lẹ mà xong chứ, có nghe đấy? Ngày của chúng ta hết vào lúc hai giờ chiều đấy."

      ° ° °

      Thứ Bảy, Nôen đến gần, xe cộ lưu thông bò dọc theo Phố Chính. Kẹt trong dòng xe, nhìn lên những tràng hoa giấy mừng lễ giăng đường phố - các búi cây hội hè được trang hoàng bằng những quả chuông giấy màu đỏ tía - Dewey chợt nhớ là chưa mua món quà nào cho vợ hay đứa con trai. Đầu óc ông tự động gạt những vấn đề liên quan tới vụ án Clutter. Marie và nhiều bạn bè của họ bắt đầu nghĩ ngợi về tình trạng bị dính vào hoàn toàn này của ông.

      người bạn thân, luật sư trẻ tuổi Clifford R. Hope, Jr., thẳng ra: "Al, có biết cái gì xảy ra với đấy? có nhận thấy còn tới cái gì khác nữa ?" Dewey đáp, "À, nó là tất cả những gì tôi nghĩ tới bây giờ. Và biết đâu may ra chính trong lúc đến nó mà tôi bập được vào cái gì trước đó tôi chưa nghĩ ra. góc độ mới nào đó. Hay có thể là nữa, nghĩ ra. Khốn nạn, Cliff à, thử tưởng tượng xem đời tôi nó ra sao nếu như việc này cứ nằm trong Hồ sơ Mở mãi? Nhiều năm nữa sau này tôi vẫn cứ lùng tìm các đầu mối, và mỗi khi có vụ án mạng, vụ ở bất cứ đâu trong nước dù là hẻo lánh như đây, tôi cũng vẫn can thiệp, lùng kiếm, xem xem liệu có thể có liên quan gì đó . Nhưng chỉ có thế. Thực chất là tôi tới chỗ cảm thấy mình hiểu Herb và gia đình ông ấy hơn cả nhà ấy hiểu chính họ. Tôi bị họ ám. E là tôi cứ bị ám như thế mãi. Cho tới khi nào tôi biết cái gì xảy ra."

      Việc Dewey vắt kiệt mình vào bài đố hóc búa này dẫn tới trạng thái lú lẫn vốn xưa nay có. Mới chỉ sáng hôm ấy Marie cầu ông, xin, xin , xin đừng quên nhé... Nhưng ông lại thể nhớ, hay nhớ, cho tới khi ra khỏi được dòng xe ngày mua sắm Nôen, phóng nhanh dọc đường số Năm mươi đến Holcomb ông qua cơ sở thú y của bác sĩ I. E. Dale. Dĩ nhiên. Vợ ông dặn ông nhớ chắc chắn phải đem Tòa án Pete, con mèo của gia đình về. Pete là con mèo đực vằn hổ nặng bảy tám ký, nhân vật được nhiều người biết ở Garden City, nổi tiếng vì cái tính gây gổ hiếu chiến, và đó chính là nguyên nhân của việc nó phải nằm bệnh viện mới đây; trận đánh nhau với con chó ngao khiến nó thua đau và bị những vết thương phải khâu nhiều mũi lẫn phải uống thuốc kháng sinh. Được bác sĩ Dale thả cho về, Pete an tọa hàng ghế trước xe ông chủ và khẽ gừ gừ suốt đường về Holcomb.

      Nhà thám tử định đến Trại Lũng Sông, nhưng lại muốn cái gì ấm - tách cà phê nóng - nên liền đỗ lại ở quán cà phê Hartman.

      "Hello, chào ông điển trai," bà Hartman . "Tôi làm gì được cho ông đây?"

      "Thưa bà, cà phê thôi."

      Bà rót tách. "Tôi có lầm nhỉ? Hay là ông sút mất nhiều cân?"

      "Vài cân." Đúng thế, trong ba tuần qua Dewey sụt mất sáu ký. Bộ áo quần của chính ông mà trông cứ như mượn của người bạn vạm vỡ hơn, khuôn mặt của ông, vốn hiếm khi để lộ chút gì về nghề nghiệp của ông, bây giờ còn kín đáo được như thế nữa; nó có thể là khuôn mặt của người khắc khổ bị hút vào những cuộc đeo đuổi tăm tối.

      "Ông cảm thấy sao?"

      "Rất tốt."

      "Trông ông dễ sợ quá."

      thể chối được. Nhưng cũng tồi tệ hơn các thành viên khác của K.B.I cùng làm việc với ông - các đặc vụ Duntz, Church và Nye. Chắc chắn là ông còn hơn Harold Nye tuy cúm và sốt nóng rề rề vẫn cứ làm đều đặn. Bốn con người mỏi mệt trong đám họ "kiểm tra" khoảng bảy trăm đầu mối và tin đồn. Chẳng hạn, Dewey bỏ hai ngày mệt nhoài và công cốc cố tìm ra dấu vết của cặp bóng ma kia, hai người Mexico mà ông Paul Helm thề là thấy đến thăm ông Clutter vào hồi chiều trước khi xảy ra các vụ giết người.

      " tách nữa nhá, Alvin?"

      "Cảm ơn bà, tôi uống nữa."

      Nhưng bà cầm bình lên. "Đây là của nhà hàng mời, sếp ạ. Trông ông thế kia ông cần uống đấy."

      bàn trong góc, hai chủ trại chăn nuôi xài rượu uýtky chơi cờ vua. người đứng lên đến cái quầy Dewey ngồi. Ông ta , "Những gì chúng tôi nghe thấy có đúng ?"

      "Còn tùy."

      "Vê cái gã ông bắt ấy? Lén vào nhà Clutter ấy? ta là kẻ chịu trách nhiệm duy nhất. Chúng tôi nghe thế."

      "Ông già ơi, tôi nghĩ là ông nghe lầm. Vâng, thưa ông, tôi nghĩ như thế đấy."

      Tuy trước đây Jonathan Daniel Adrian, từng bị giam ở nhà tù của hạt vì tội mang vũ khí đăng ký, thời kỳ bị giữ biệt lập với tư cách bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện Topeka của bang, nhưng dữ kiện mà các điều tra viên tập hợp được cho thấy trong vụ Clutter ông ta chỉ mắc mỗi cái lỗi là tò mò đen đủi mà thôi.

      "Chà, nếu phải ta tại cái quái gì ông thể tìm ra đúng cái đứa ấy? Tôi có cả nhà toàn đàn bà sợ dám vào buồng tắm mình nữa đây này."

      Dewey quen với kiểu xúc phạm này; đó là phần cũ xì trong cuộc sống của ông. Ông uống hết tách cà phê thứ hai, thở dài, mỉm cười.

      "Mẹ kiếp, tôi tán vui đâu. Tôi đấy. Tại sao ông bắt ai đó ? Ông ăn lương để làm cái đó cơ mà."

      "Thôi cái kiểu hèn hạ của ông ," bà Hartman . "Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả. Alvin làm hết sức rồi.

      Dewey nháy bà. "Thưa bà, bà bảo ông ấy cho. Và rất cảm ơn tách cà phê của bà."

      Người chủ trại chăn nuôi chờ cho con mồi của mình ra đến cổng mới bắn theo loạt đạn giã từ: "Nếu ông lại ứng cử làm cảnh sát trưởng nữa xin cứ quên lá phiếu của tôi . Vì ông có được nó đâu."

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      "Thôi cái kiểu hèn hạ của ông được rồi đấy," bà Hartman .

      Trại Lũng Sông cách quán cà phê Hartman dặm. Dewey quyết định bộ tới đó. Ông thích tắt qua cánh đồng lúa mì. Thường thường, ông vẫn tuần hai lần dài dài miếng đất của ông, mảnh đồng cỏ ông rất và luôn hy vọng xây ngôi nhà, trồng cây trồng cối, để cuối cùng vui đùa với cháu chắt mình ở đó. Đó là giấc mơ, song là giấc mơ mà vợ ông, giờ đây cảnh báo rằng bà chẳng còn mơ cùng ông nữa; bà bảo là chẳng bao giờ tính đến chuyện "ra ở tít ngoài đồng quê ấy" sống trơ mình. Dewey biết ngay rằng dù cho ngày mai mình có bẫy được những kẻ giết người Marie cũng chẳng đổi ý - bởi từng có lúc số phận ghê rợn rơi vào những người bạn sống trong ngôi nhà lẻ loi giữa đồng như thế kia rồi.

      Dĩ nhiên, gia đình Clutter phải là những người đầu tiên bị giết ở hạt Finney, hay ngay cả ở Holcomb. Những thành viên lâu đời của cái cộng đồng bé này có thể nhớ lại " chuyện man rợ" của hơn bốn chục năm trước - vụ Thảm sát Hefner. Bà Sadie Truitt, người bảy chục tuổi đầu giữ chân thư tín viên của làng, mẹ của bà chánh bưu điện Clare, là chuyên gia về cái vụ có tính truyền thuyết này: "Tháng Tám, đúng, hồi năm 1920. Nóng sao mà nóng. tay tên là Tunif làm công ở trại chăn nuôi Finnup. , Walter Tunif, có cái xe, thế nào hóa ra lại là của ăn cắp. Thế nào hóa ra lại là thằng lính ĐÀO NGŨ ở Fort Bliss, tít ngoài Texas kia. thằng đểu, quả nhiên là vậy, nhiều người nghi . Thế là tối, cảnh sát trưởng - ngày ấy là Orlie Hefner, ca sĩ cừ như thế, các ông bà có biết ông ta ở trong dàn hợp xướng Heavenly ? Thế là tối ông ấy mới đến trại Finnup để hỏi Tunif vài ba câu thẳng thừng. Ngày mồng 3 tháng Tám. Nóng sao mà nóng. Kết quả là Walter Tunif bắn xuyên tim ông cảnh sát trưởng. Ông Orlie tội nghiệp chết trước khi ngã xuống đất. Con quỷ làm cái việc đó liền tháo luôn con ngựa của nhà Finnup chạy về phía Đông dọc theo sông. Tin lan , người ở hàng dặm quanh vùng liền lập ngay đội dân vệ. Vào khoảng sáng hôm sau, họ bắt gặp được thằng kia; thằng Walter Tunif già. Nó kịp có cả cơ may để chào các vị khỏe . Vì đám dân vệ trai trẻ gần như điên hết. Họ cứ thế mà nhả đạn."

      Cuộc tiếp xúc đầu tiên của Dewey với trò quái ở hạt Finney xảy ra vào năm 1947. Câu chuyện được ghi trong hồ sơ của ông như sau: "John Carlyle Polk, người da đỏ Creek 32 tuổi, sống ở Muskogee, bang Oklahoma, giết Mary Kay Finley, phụ nữ da trắng, 40 tuổi, làm nghề hầu bàn sống ở Garden City. Polk đâm bà bằng cổ chai bia đập vỡ trong gian phòng ở khách sạn Copeland, Garden City, bang Kansas, 9-5-47." miêu tả ngắn gọn về vụ án mở rồi đóng lại ngay. Trong ba vụ giết người khác mà Dewey điều tra từ ngày đó, hai vụ cũng đều dễ tìm ra như vậy ( đôi thợ hỏa xa ăn cắp và giết chủ trại già, 1-11-52; người chồng say rượu đánh và đá vợ đến chết, 17-6-56), nhưng vụ thứ ba, như có lần trong câu chuyện Dewey kể lại, phải là có nhiều nét đặc sắc: "Tất cả bắt đầu từ Stevens Park. Nơi có sân khấu biểu diễn nhạc, dưới sân khấu là phòng vệ sinh của đàn ông. Ừ, người đàn ông tên là Mooney ấy dạo quanh công viên. Ông ta ở đâu đó Bắc Carolina, chỉ là người lạ mặt qua đường tạt vào thị trấn thế thôi. Đại khái ông ta vào nhà vệ sinh và ai đó theo - thằng thanh niên gần đó, Wilmer Lee Stebbins, hai mươi tuổi. Sau đó Wilmer Lee cứ khai là ông Mooney lời gợi ý trái tự nhiên với . Và vì thế ăn cắp tiền của ông Mooney, đánh ông ngã ra, đập đầu ông vào nền xi măng và rồi, còn sao nữa, khi đập đến như thế mà vẫn kết liễu được mạng ông, bèn ấn đầu ông vào chậu rửa mặt và giữ nước ngập cho đến khi ông chết ngạt. Có thể là thế. Nhưng gì giải thích được phần sau của cách thức Wilmer Lee làm. Trước tiên, chôn cái xác chết cách Garden City hai dặm về phía Đông Bắc. Hôm sau đào lên rồi đem xuôi xuống phía ấy mười bốn dặm. À hà, nó cứ làm mãi như thế, chôn xuống lại đào lên đem chôn chỗ khác, cứ thế chôn chôn lại. Wilmer Lee hệt như con chó tha cục xương của nó - để ông Mooney chết yên thân. Cuối cùng, đào thêm cái mộ nữa, thế là quá nhiều; có người trông thấy." Xảy ra từ trước vụ bí mật nhà Clutter, bốn vụ đây là tổng số kinh nghiệm của Dewey về án mạng, và đem so chúng với cái vụ Dewey đối đầu bây giờ chúng là những đợt gió trước cơn giông tố.

      ° ° °

      Dewey tra chìa khóa vào cửa chính của nhà Clutter. Trong nhà ấm, vì lò sưởi chưa vặn tắt và những gian phòng sàn đánh xi bóng nhoáng, thơm mùi chanh của xi, nom hình như chỉ là tạm thời có người ở; tựa hồ hôm nay Chủ nhật và có thể bất chợt lúc nào đó gia đình xong lễ ở nhà thờ lại về thôi. Hai người kế thừa, bà English và bà Jarchow, đem xe áo quần và đồ đạc, nhưng vẫn làm bớt cái khí vẫn có người ở của ngôi nhà. Trong phòng khách, bản nhạc, "Đến qua vùng Rye", để dựng mở nắp đàn piano. Trong gian sảnh, chiếc mũ cao bồi màu xám ố mồ hôi - mũ của Herb - treo cái mắc. gác trong phòng Kenyon, cái giá đầu giường, tròng kính của cậu trai chết phản chiếu ánh sáng lóe lên.

      Nhà thám tử từ phòng này sang phòng khác. Ông thăm thú khắp ngôi nhà nhiều lần; quả thực ông đến đây hầu như hằng ngày, và, theo nghĩa nào đó, có thể là ông thấy những dịp viếng thăm này có phần thú vị, vì giống như nhà ông, hay văn phòng với cái ồn ào nhốn nháo của nó, chỗ này êm ả. Điện thoại, dây còn đứt kia, im lặng. Bầu tĩnh mịch rộng lớn của đồng cỏ xung quanh vây lấy ông. Ông có thể ngồi lên ghế xích đu của Herb ở trong phòng khách, vừa đung đưa rập rình vừa nghĩ. ít kết luận của ông sao mà rũ bỏ được: ông tin rằng cái chết của Herb Clutter là mục tiêu chính của bọn sát nhân, động cơ là lòng căm thù bệnh hoạn có tính tâm thần hay có thể là kết hợp giữa căm thù và ăn cướp, và ông cho rằng việc giết mấy người vụ làm ăn nhàn hạ của bọn sát nhân, với có lẽ khoảng hai đến bốn giờ trôi qua giữa mở đầu, vào nhà, kết thúc và ra. (Người khám nghiệm tử thi, bác sĩ Robert Fenton, báo cáo chỗ khác nhau đáng chú ý về thân nhiệt của các nạn nhân, và cơ sở đó lập luận rằng trật tự giết là như sau: bà Clutter, Nancy, Kenyon, rồi ông Clutter). Dựa vào những điều tin tưởng này, ông quả quyết là gia đình phải biết lắm những kẻ hủy diệt họ.

      Trong lần thăm này, Dewey đứng nghỉ lúc ở bên cửa sổ gác, chú ý của ông bị hút vào vật ông nhìn thấy gần đó - con bù nhìn ở giữa những cuống rạ lúa mì. Con bù nhìn đội cái mũ săn của đàn ông và cái váy băng vải calico in hoa bạc vì sương gió. (Chắc là cái váy cũ của bà Bonnie Clutter?) Gió cuốn chiếc váy lên làm cho con bù nhìn lúc lắc, khiến nó trông có vẻ người múa nhảy đơn giữa cánh đồng lạnh lẽo tháng Chạp. Và biết sao, Dewey nhớ đến giấc mơ của Marie. sáng gần đây bà cho ông món điểm tâm lạ lùng với trứng tráng đường và cà phê pha muối, rồi đổ lỗi cho " giấc mơ dớ dẩn" - giấc mơ mà sáng trời rồi bà vẫn chưa thể xua tan được. "Nó y như ấy, Alvin," bà . " như cái bếp này. Em đứng ở đây. Ở trong bếp đây. Em làm bữa tối thình lình Bonnie qua cửa vào. Bà ấy mặc cái áo ba lỗ bằng lông cừu angora màu lam, trông bà ấy dịu dàng và đẹp. Em , 'Ô, kìa Bonnie... Bonnie thân ... Từ khi xảy ra cái chuyện kinh khủng kia đến giờ tôi chưa được gặp bà.' Nhưng bà ấy đáp lại, chỉ nhìn em bằng cái kiểu e dè của bà ấy thôi, và em chẳng biết nên làm thế nào nữa. Trong hoàn cảnh đó. Cho nên em , 'Cưng à, lại xem tôi làm bữa tối cho Alvin sao nhé. bình xúp mướp tây. Nấu với tôm và cua biển tươi, sắp được rồi. Nào lại đây cưng, nếm thử xem.' Nhưng bà ấy , bà ấy đứng ở cửa nhìn em. Rồi - em biết với thế nào cho đúng được nữa - bà ấy nhắm mắt lại, bắt đầu khe khẽ lắc đầu, rất chậm, xoắn hai tay vào nhau, rất chậm, rồi thầm hay khóc thút thít, cũng nữa. Em hiểu bà ấy gì. Nhưng nó làm cho em xé lòng, em chưa cảm thấy buồn cho ai như thế bao giờ nên em liền ôm lấy bà ấy. Em , 'Xin nào, Bonnie! Ô kìa, đừng, bạn thân , đừng mà! Nếu như có ai đó được sẵn sàng đến với Chúa đó chính là bà, Bonnie.' Nhưng em an ủi được bà ấy. Bà ấy lắc đầu, vò siết hai tay lại và lúc đó em mới nghe thấy cái bà ấy . Bà ấy , 'Bị giết. Bị giết. . . gì ghê gớm hơn được đâu. có gì ghê gớm hơn thế đâu. cái gì ghê gớm hơn thế đâu'."

      ° ° °

      Giữa trưa và sâu trong sa mạc Mojave. Perry ngồi chiếc va li rơm mà thổi kèn mồm. Dick đứng bên xa lộ mặt đường đen nhánh, đường 66, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng trống sạch tì vết tựa hồ sức nhìn thành khẩn của có thể bắt những người lái xe hơi phải ra thành xương thành thịt vậy. ít ra song chẳng ai dừng lại với những kẻ xin nhờ. lái xe tải chạy hướng Needles, California, cho nhưng Dick từ chối. Đó phải là loại "quả ngon xơi" mà và Dick muốn. Chúng chờ người đường đơn nào đó ngồi trong chiếc xe tươm tươm và có tiền ở trong ví - người lạ mặt để trấn, bóp cổ rồi quẳng vào trong sa mạc.

      Trong sa mạc, tiếng động thường đến trước hình ảnh. Dick nghe thấy tiếng rung ầm ầm của chiếc xe lại gần nhưng chưa nhìn thấy. Perry cũng nghe thấy; cho kèn vào túi, xách chiếc va li lên (cái này, hành lý duy nhất của chúng, căng phồng lên bởi sức nặng những kỷ niệm của Perry, cộng thêm ba cái sơ mi, năm đôi tất trắng, hộp aspirin, chai rượu tequila, kéo, dao cạo râu an toàn và bộ đồ lề sửa cắt móng tay; tất cả các của cải khác của hoặc bị cầm cố hoặc để lại cho người chủ quán bar Mexico hoặc cho tàu thủy chở đến Las Vegas), rồi ra với Dick ở rìa đường. Chúng quan sát. Bây giờ chiếc xe ra, to dần thành xe du lịch Dodge màu lam với người lái, người gầy khẳng khiu, hói đầu. Tuyệt. Dick giơ tay lên vẫy. Chiếc Dodge chậm lại, và Dick đãi người lái xe nụ cười hết cỡ. Chiếc xe gần như đỗ lại, nhưng hẳn, người lái thò đầu ra ngoài cửa, nhìn chúng từ đầu đến chân. Cái ấn tượng chúng tạo ra cũng đủ làm người ta hết vía, (sau năm chục giờ ngồi xe buýt từ Mexico City tới Barstow, California, rồi nửa ngày trời lăn lóc qua sa mạc Mojave, cả hai gã boóng xe đều râu ria, bẩn thỉu và trơ trụi). Chiếc xe lồng lên và phóng vội. Dick khum hai tay lại quanh mồm gọi to, "Mày là thằng chó đẻ, may cho mày đấy!" Rồi phá lên cười, hất chiếc va li lên vai. Chẳng cái gì làm tức tối được thực bởi vì, như sau này kể lại, "về lại với cái hay ho của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là vui quá." Dẫu sao, người khác trong chiếc xe khác cũng đến thôi.

      Perry lấy kèn trong túi ra (cái mới có hôm qua, lấy cắp của tiệm tạp hóa ở Barstow) thổi mấy nốt nhạc mở đầu của cái trở thành "nhạc hành khúc" của chúng; trong những bài hát Perry thích nhất và dạy cho Dick hát được cả năm đoạn. Đều bước, vai sát vai, chúng dọc xa lộ, hát, "Mắt tôi nhìn thấy ánh hào quang của Chúa giáng lâm; Chúa giẫm bước lên cái vùng tàng trữ những chùm nho phẫn nộ." Trong bầu im lặng của sa mạc, giọng trẻ khỏe của chúng ngân vang lên: "Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa! Quang vinh! Quang vinh! Lạy Chúa!"

      --------------------------------

      1 Người Digan.

      2 Tên cầu thủ bóng chày nổi tiếng của Mỹ.

      3 Nữ diễn viên Mỹ nổi tiếng những năm 1940.

      4 Chơi chữ: mô tô (motorcycle) và giết người (murdercycle) phát gần giống nhau.

      5 Nhà văn Mỹ nổi tiếng chuyên viết truyện hình .


      PHẦN 3

      Câu trả lời

      Người trẻ tuổi tên là Floyd Wells, ta thấp và gần như có cằm. toan thử nhiều nghề, làm lính, chăn nuôi, thợ cơ khí, ăn trộm, cái nghề cuối này kiếm về cho bản án từ ba đến năm năm ở nhà tù Bang Kansas. Tối thứ Ba, 17 tháng Mười năm 1959, nằm dài trong xà lim với cặp tai nghe rađiô quàng qua đầu. nghe bản tin, nhưng tiếng của phát thanh viên và tẻ nhạt của các kiện trong ngày ("Thủ tướng Konrad Adenauer đến Luân Đôn hôm nay để hội đàm với Thủ tướng Harold Macmillan... Tổng thống Eisenhower dành bảy mươi phút chuyện với Tiến sĩ T. Keith Glennan về những vấn đề vũ trụ và ngân sách thăm dò vũ trụ") ru thiu thiu. Cơn chập chờn lập tức biến tan khi nghe, "Các viên chức điều tra vụ thảm sát ghê gớm bốn người của gia đình Herbert W. Clutter kêu gọi dân chúng cung cấp bất cứ thông tin nào có thể giúp giải quyết được vụ án mò ra phương hướng này. Người ta phát ra Clutter, vợ ông và hai đứa con dưới mười chín tuổi của họ bị giết trong trang trại gần Garden City sớm Chủ nhật vừa qua. Tất cả đều bị trói, dán miệng và bị bắn xuyên qua đầu bằng khẩu súng ngắn nòng 12 ly. Các viên chức điều tra thừa nhận họ tìm ra được động cơ của vụ án, vụ được Logan Sanford, Giám đốc Cục Điều tra Bang Kansas, là tàn ác nhất trong lịch sử của Kansas. Clutter, nhà trồng lúa mì nổi tiếng, trước đây từng được Eisenhower đề bạt vào Sở Tín dụng Nông thôn Liên bang..."

      Wells bàng hoàng. Như sau này cuối cùng mô tả phản ứng của mình, "khó lòng tin nổi". Nhưng có đủ lý do để tin như thế, vì những biết gia đình bị giết mà còn biết rất ai giết họ nữa.

      Chuyện bắt đầu từ trước đây lâu - mười năm rồi, vào mùa thu năm 1948, khi Wells mười chín tuổi. "kiểu như lang thang khắp nơi, gặp gì làm nấy", như kể lại. "Rồi thế nào đó, tôi lại thấy mình ở đấy, miền Tây Kansas. Gần biên giới Colorado. Tôi săn việc làm, hỏi tứ tung được biết có lẽ người ta cần thuê nhân công ở Trại Lũng Sông ngoài kia - ông ta, ông Clutter ấy, gọi cái chỗ đó của ông ta như vậy. Quả nhiên, ông ta nhận tôi. Tôi ở đó đâu chừng năm - đại khái là hết cả mùa đông đó - và tôi ra chỉ là vì tôi cảm thấy bị bó chân bó cẳng, kiểu như vậy thôi. Muốn xê dịch. phải vì cãi cọ gì với ông Clutter. Ông ta đối xử với tôi tốt, giống như với mọi người làm việc cho ông ta; chẳng hạn, nếu như mình có cạn tiền chút ít trước kỳ lương ông ấy cũng luôn luôn chìa ra cho mình năm mười đồng. Lương ông ấy trả hậu, và nếu mình xứng đáng, ông ấy nhanh nhảu thưởng cho mình ngay. là tôi thích ông Clutter hơn bất cứ ai tôi gặp. Cả gia đình ấy nữa. Bà Clutter và bốn đứa con. Khi tôi biết họ, hai đứa trẻ nhất, hai đứa bị giết ấy - Nancy và thằng con trai đeo kính - hãy còn bé tẹo, năm sáu tuổi gì đó. Hai đứa kia - là Beverly, đứa nữa tôi nhớ tên - học cấp III. gia đình tốt đẹp, tốt đẹp. Tôi bao giờ quên họ. Khi tôi rời đó là vào khoảng năm 1949. Tôi lấy vợ, tôi ly dị, quân đội thuê tôi, việc khác xảy đến, thời gian trôi , ông có thể vậy, và năm 1959 - tháng Sáu, 1959, mười năm từ khi tôi gặp ông Clutter lần cuối - tôi bị đưa đến Lansing. Vì phá cửa vào nhà kho thiết bị dụng cụ. Thiết bị điện. Lúc đó tôi nghĩ trong đầu, mình muốn sở hữu mấy cái máy xén cỏ bằng điện. phải để bán. Tôi định mở dịch vụ cho thuê máy xén cỏ. Bằng cách đó, ngẫm mà xem, tôi có công việc nho thường xuyên của riêng tôi. Dĩ nhiên chẳng đến đâu hết - trừ việc xơi hạn tù ba đến năm năm. Nếu bị vậy tôi chẳng gặp Dick bao giờ, và có lẽ ông Clutter cũng chẳng phải ở trong mồ. Nhưng tôi lại ở đó. Ở nhà tù đó đấy. Rồi thành ra gặp Dick.

      là đứa đầu tiên tôi ở cùng xà lim. Chúng tôi chung xà lim có đến tháng. Tháng Sáu và phần tháng Bảy. sắp hết cái án ba đến năm năm - vào tháng Tám, là nhờ có lời hứa danh dự tái phạm. lô về những cái định làm khi ra. Bảo là có khi Nevada chừng, đến trong những thị trấn căn cứ tên lửa ở đấy, mua lấy bộ lính cho thành ra sĩ quan quân. Như vậy có thể xài được trót lọt những tấm séc giả mạo nom ngoài cứ y như vậy. với tôi cái ý như vậy. (Nhưng bản thân tôi nghĩ đến cái đó nhiều. thông minh, tôi phủ nhận, nhưng trông giống. Chả giống sĩ quan quân tí nào cả.) Nhiều lần khác, đến Perry, người bạn kia của . thằng cha lai da đỏ mà từng chung xà lim. Và những vụ lớn và Perry có chể chơi khi hai đứa lại với nhau. Tôi chưa bao giờ gặp cha Perry ấy. Chưa bao giờ thấy mặt. ra ra khỏi Lansing, được thả vì hứa đanh dự. Nhưng Dick luôn , nếu có dịp vào cầu lớn có thể trông cậy Perry Smith cùng làm với .

      Tôi nhớ chính xác ông Clutter được nhắc đến lần đầu tiên như thế nào. Chắc là trong khi chúng tôi bàn công việc với nhau, các loại việc khác nhau mà chúng tôi làm. Dick, là thợ cơ khí xe hơi được đào tạo, phần lớn là toàn làm việc đó. Chỉ có lần nhận lái xe cứu thương của bệnh viện. phét lác dữ về việc đó lắm. Về các hộ lý, về tất cả các trò làm với các ấy ở đằng sau xe. Chẳng biết sao tôi lại bảo tôi làm năm ở đồn điền lúa mì to lắm tại miền Tây Kansas. Cho ông Clutter. muốn biết ông Clutter có giàu . Có, tôi . Có, ông ta giàu. Tôi , thực tế là có lần ông Clutter bảo tôi ông ấy từng tống khứ mười nghìn đô la trong có tuần. Ý là đôi khi ông phải tốn tới mười nghìn đô la tuần để cho công việc chạy. Sau đó, Dick ngừng hỏi han về gia đình ấy. Họ có bao nhiêu người? Bây giờ mấy đứa con bao nhiêu tuổi? đến nhà ấy chính xác như thế nào? Nhà cửa được bố trí ra sao? Ông Clutter có cái két sắt nào ? Tói chối việc này - tôi bảo là ông ấy có két. Vì hình như tôi nhớ có cái đại loại như cái phòng con con, hay két sắt, hay cái gì đó ở ngay đằng sau bàn giấy trong gian ông Clutter dùng làm văn phòng. Điều sau đó tôi biết là Dick đến chuyện giết ông Clutter. và Perry đến đấy và ăn trộm ở chỗ đấy, và chúng giết hết mọi nhân chứng - cả gia đình nhà Clutter và bất cứ ai có mặt quanh đó. tả đến chục lần với tôi làm chuyện đó như thế nào, và Perry trói họ lại và bắn họ chết như thế nào. Tôi bảo , 'Dick, cậu mà làm chuyện ấy chẳng bao giờ thoát đâu.' Nhưng tôi thể trung thực mà rằng tôi cố thuyết phục thôi . Vì tôi chẳng hề tin lấy phút là làm . Tôi nghĩ mồm thế thôi. Như hàng bao nhiêu thứ như vậy mà ông có thể nghe ở Lansing. Ta toàn nghe cái thứ như vậy thôi: thằng cha nào đấy làm gì khi nó ra tù - trấn lột, trộm cắp, vân vân. Chẳng là gì cả, phần lớn chỉ là huênh hoang thôi. ai lấy làm cả. Chính vì vậy mà khi nghe qua đài tôi khó lòng tin được. Dù thế nào nó vẫn xảy ra. Đúng hệt như Dick làm như thế."

      Đó là chuyện của Floyd Wells, tuy rằng còn phải lâu nữa mới ra. sợ, vì nếu những tên tù khác nghe thấy hớt lẻo với người gác tù đời , như , " đáng giá bằng con sói đồng cỏ chết." tuần trôi qua. mở rađiô, theo dõi các bài tường thuật báo chí - và trong bài đọc thấy rằng, tờ báo ở Kansas, tờ Tin tức Hutchinson, treo thưởng nghìn đô cho bất cứ tin nào đưa tới việc bắt và xử án thủ phạm hoặc các thủ phạm vụ án mạng nhà Clutter. món lý thú đó; nó gần như gợi hứng cho Wells . Nhưng vẫn quá sợ, và cái sợ của chỉ là vì những tù nhân khác. Biết đâu các nhà chức trách lại kết tội dính líu đến vụ án. Muốn gì cũng là người dẫn Dick đến cửa nhà Clutter; chắc chắn người ta tuyên bố là biết trước ý đồ của Dick. Dù người ta nhìn việc này như thế nào tình cảnh của cũng là quái lạ, các lý do của đều là đáng ngờ. Cho nên chẳng gì hết, và hơn mười ngày nữa trôi . Tháng Chạp thay thế tháng Mười , và những người điều tra vụ án, theo như những bài tường thuật báo chí ngày càng ngắn gọn (đài phát thanh thôi nhắc đến đề tài này nữa), vẫn còn ngơ ngác, rốt cuộc vẫn có đầu mối gì, giống như vào buổi sáng phát ra vụ án mà thôi.

      Nhưng biết. giờ, bị dằn vặt bởi nhu cầu "phải với ai", tâm với người tù khác. " người bạn đặc biệt. người theo đạo Cơ đốc. Loại người rất sùng đạo. hỏi tôi, 'Được, cậu định làm gì nào, Floyd?' Tôi , 'À, tớ chẳng phải làm gì hết - cậu nghĩ tớ nên thế nào?' Đúng, hết lòng muốn tôi trở thành người tử tế. Rằng nghĩ tôi lại có thể sống với cái chuyện như thế - trong đầu. Và bảo tôi có thể sợ ai - trong này nghĩ rằng tôi là người . Bảo là giúp cho. Thế là hôm sau báo cáo với phó quản giáo - bảo rằng tôi muốn được 'gọi ra'. Bảo người này là nếu ông ta gọi tôi lên văn phòng ông ta vì cớ này cớ nọ, có thể tôi bảo với ông ta kẻ giết nhà Clutter là ai. Quả nhiên, ông phó quản giáo cho gọi tôi. Tôi hoảng, nhưng tôi liền nhớ đến ông Clutter, ông bao giờ xử tệ với tôi, lễ Nôen ông cho tôi cái ví con trong đó có với năm chục đô la. Tôi với ông phó quản giáo. Rồi tôi cả với ông quản giáo. Và trong khi tôi còn ngồi ở đấy, ngồi chính ở ngay trong văn phòng quản giáo, ông ta nhấc điện thoại lên..."

      ° ° °

      Người mà văn phòng quản giáo gọi điện đến là Logan Sanford. Sanford nghe, gác máy, ra mấy cái lệnh rồi tự mình gọi điện cho Alvin Dewey. Tối đó, khi Dewey rời văn phòng ở Tòa án tại Garden City, ông mang theo về nhà chiếc phong bì.

      Khi Dewey về đến nhà, Marie ở trong bếp chuẩn bị bữa tối. Ông vừa ló mặt, bà kể thôi hồi các chuyện gớm ghê xảy ra trong nhà. Con mèo Pete đánh con chó Tây Ban Nha tai quạt lông xù sống ở bên kia đường, bây giờ hình như mắt của con chó bị thương nặng. Và Paul, thằng con lên chín, trèo cây bị ngã. Nó còn sống được là nhờ có phép màu. Rồi thằng mười hai tuổi, trùng tên với Dewey, vào sân đốt rác cháy đùng đùng khiến hàng xóm hết hồn. ai đó - bà tên - gọi sở Cứu hỏa.

      Trong khi bà vợ tả lại những câu chuyện vui đó, Dewey rót hai tách cà phê. , thình lình Marie ngừng lại nhìn ông đăm đăm. Mặt ông đỏ bừng, bà có thể rằng ông phấn khích. Bà , "Alvin. Ôi cưng. Có tin tốt phải ?" đáp, ông đưa cho bà cái phong bì. Tay bà ướt; bà lau khô, ngồi vào bàn ăn, uống cà phê, mở phong bì lấy ra những tấm ảnh chụp người trẻ tuổi tóc vàng và người trẻ tuổi tóc đen da ngăm - những tấm ảnh cảnh sát chụp làm "căn cước". kèm các tấm ảnh là hai bộ hồ sơ viết theo kiểu nửa mã hóa. Hồ sơ của người tóc vàng viết:

      HICKOCK, RICHARD EUGENE (WM) 28. KBI 97 093; FBI 859 273A. Địa chỉ: Edgerton, Kansas. Ngày sinh 6-6-31. Nơi sinh: K.C., Kans. Chiều cao: 1m78. Cân nặng: 85 kg. Tóc: vàng. Mắt: lam. Tạng người: vạm vỡ. Đồng phạm: Ruddy. Nghề: thợ sơn xe. Tội phạm: lừa đảo & chiếm đoạt tài sản, séc giả. Thả theo lời hứa danh dự: 13-8-59. Do: K.C.K Nam.

      Hồ sơ thứ hai viết:

      SMITH, PERRY EDWARD (WM) 27-59. Nơi sinh: Nevada. Chiều cao: 1m63. Cân nặng: 70 kg. Tóc: nâu sẫm. Tội phạm: Đột nhập bất hợp pháp. Bị bắt: (để trống). Bởi: (để trống). Quyết định: Gửi đến Nhà tù Bang Kansas từ Phillips Co., 13-3-56, 5-10 năm. Tiếp nhận: 14-3-56. Tha theo lời hứa danh dự: 6-7-1959.

      Marie xem các ảnh chụp thẳng và nghiêng của Smith: bộ mặt ngạo nghễ, dữ dằn, nhưng hoàn toàn, hẳn vì nó còn có nét tế nhị đặc biệt; môi và mũi có vẻ thanh, và bà nghĩ đôi mắt, với cái vẻ mơ màng, ươn ướt của chúng, nom khá là đẹp - đúng hơn là đẹp theo lối diễn viên, truyền cảm. Truyền cảm, và cái gì hơn thế: "hèn hạ". Tuy hèn hạ, "tội ác" cách gớm ghiếc như mắt của Hickock, Richard Eugene. Bị đôi mắt của Hickock nhìn trừng trừng, Marie chợt nhớ lại cố thời bé - về con linh miêu bà có lần trông thấy bị mắc bẫy, và tuy bà muốn thả nó ra nhưng đôi mắt mèo, rực lên vì đau và bởi hằn thù, hút mất hết tình thương của bà mà trút đầy kinh hoàng vào người bà như thế nào. "Họ là ai đấy?" Marie hỏi.

      Dewey kể lại cho bà câu chuyện Floyd Wells, và cuối chuyện ông , "Ngộ . Ba tuần qua, đây là cái góc độ chúng ta tập trung vào. Dò tìm bất cứ ai làm việc ở nhà Clutter. Bây giờ hóa ra thành như thế này đúng mình gặp may . Nhưng ít ngày nữa chúng ta sờ được đến cái tay Wells này. ra ở trong tù. Lúc đó chúng ta nắm được . Trời đất, đúng thế đấy."

      "Có thể phải là ," Marie . Dewey và mười tám người phụ tá theo đuổi hàng trăm đầu mối dẫn tới những chỗ trời ơi đất hỡi, bà muốn nhắc ông cẩn thận đừng để bị thêm lần thất vọng nữa, vì bà lo cho sức khỏe của ông. Tình hình đầu óc ông ổn; ông xanh xao, ông hút những sáu chục điếu thuốc ngày.

      "Đúng. Có thể ," Dewey . "Nhưng linh cảm."

      Giọng ông làm bà chú ý; bà lại nhìn vào những bộ mặt ở bàn ăn. "Nghĩ đến xem," bà , đặt ngón tay vào tấm ảnh chụp thẳng của người trẻ tuổi tóc vàng. Nghĩ đến đôi mắt này xem. xói vào này." Đoạn bà đẩy các tấm ảnh vào lại trong phong bì. "Giá đừng để em xem có phải tốt ."

      ° ° °

      Cũng tối hôm đó, muộn hơn, người đàn bà khác, trong căn bếp khác, đặt chiếc bít tất bà mang sang bên, gỡ cặp kính gọng dẻo ra, đưa nó lên ngang tầm người khách, , "Ông Nye, tôi mong ông tìm ra nó. Vì chính nó. Chúng tôi có hai đứa con trai, nó là thằng cả. Chúng tôi nó. Nhưng... Ôi, tôi hiểu ra. Tôi hiểu ra là nó lại cuốn gói. Bỏ . Chẳng lời với bố và em. Trừ phi nó lại mắc míu lần nữa. Cái gì khiến nó làm như vậy? Tại sao chứ?" Bà liếc qua gian phòng bé sưởi bằng lò than, nhìn vào người gầy hốc hác nằm co ro chiếc ghế bập bềnh - Walter Hickock, chồng bà và bố của Richard Eugene. Ông có đôi mắt lờ đờ đầy vẻ thất bại và hai bàn tay thô ráp; khi ông , giọng ông nghe như có vẻ ít được dùng đến.

      "Chẳng có gì ổn xảy ra với con trai tôi chứ, ông Nye," ông Hickock . " vận động viên xuất sắc - luôn ở trong đội bóng của trường. Bóng rổ! Bòng chày! Bóng bầu dục! Dick luôn là cầu thủ ngôi sao. Học cũng khá giỏi nữa, luôn đạt điểm A ở nhiều môn. Sử. Vẽ kỹ thuật. Sau khi tốt nghiệp trung học - tháng Sáu 1949 - nó muốn vào cao đẳng. Học làm kỹ sư. Nhưng chúng tôi đủ khả năng. trắng ra là có tiền. Chẳng bao giờ có nổi đồng tiền. Trại chúng tôi đây, chỉ có bốn mươi tư mẫu - chúng tôi chật vật mới kiếm được cái sinh nhai. Tôi ngờ là Dick bực, được học cao đẳng mà. Việc đầu tiên nó làm là tại đường sắt Santa Fe, ở Kansas City. tuần bảy mươi lăm đô. Nó cho thế là đủ để lấy vợ; vậy là nó cưới Carol. Con này chưa đủ mười sáu; bản thân nó chưa đủ mười chín. Tôi nghĩ chẳng bao giờ lại có được tốt lành trong việc cưới vợ cưới chồng như vậy. , cho cả hai."

      Bà Hickock, người đàn bà mập mạp, với khuôn mặt tròn, dịu dàng, bị cảnh quần quật tối ngày làm tiều tụy , trách ông. "Ba thằng bé quý hóa, cháu nội ta đấy thôi - từ cái vụ cưới nhau ấy mà có từ cái gì. Mà Carol là đứa con đáng . Nó chẳng có gì phải trách cả."

      Ông Hickock tiếp, "Nó và con Carol thuê căn nhà kha khá rộng, mua cái xe khá oách - chúng suốt đời nợ. Ngay cả khi Dick kiếm được nhiều tiền hơn nhờ lái xe cứu thương. Sau đó Công ty Markl Buick, công ty lớn ở Kansas City thuê nó. Làm thợ cơ khí và thợ sơn xe. Nhưng nó và Carol sống cao quá, cứ sắm những thứ chúng đáng lẽ chẳng kiếm đâu ra tiền sắm, thế nên Dick đâm ra làm séc giả. Tôi vẫn nghĩ lý do để nó bắt đầu làm mấy trò quái ấy là có liên quan đến vụ đâm xe. Chấn động cả đầu óc nó. Sau đó, nó còn là thằng con trai ngày trước nữa. Cờ bạc, viết séc giả. Trước đó tôi chưa thấy nó làm những chuyện như thế bao giờ. Và cùng lúc nó bập phải đứa con kia. Cái đứa làm cho nó ly dị Carol để lấy làm vợ thứ hai ấy."

      Bà Hickock , "Dick thể làm thế. Ông cứ nhớ lại xem con Margaret Edna làm nó mê mệt thế nào."

      " người đàn bà thích tức là phải mắc câu sao?" ông Hickock . "Chậc, ông Nye ạ, tôi hy vọng ông hiểu nó cũng nhiều như chúng tôi. Tại sao thằng con chúng tôi lại phải vào tù. Bị giam mười bảy tháng, mà chung quy cũng chỉ vì nó mượn khẩu súng săn. Của nhà người hàng xóm ở đây. Nó có ý ăn cắp, cái điều mà ai tôi chẳng coi ra gì cả. Và chuyện đó tàn hại nó. Khi ra khỏi nhà tù Lansing, nó là người xa lạ hoàn toàn với tôi. Mình thể trò chuyện với nó. Tất cả thế giới này đều chống lại Dick Hickock - nó hình dung vậy đó, Ngay cả đến cọn vợ thứ hai cũng bỏ nó - làm đơn ly dị lúc nó còn trong tù. Sau này, nó có vẻ ổn định. Làm việc cho tiệm sửa xe Bob Sands, ở mạn Olathe. Sống ở đây với chúng tôi, ngủ sớm, làm gì vi phạm lời hứa. Ông Nye à, tôi ông nghe, tôi chẳng sống được bao lâu nữa đâu, với cái bệnh ung thư này, thằng Dick nó biết đấy - ít nhất, nó cũng biết là tôi bệnh - chưa đến tháng trước đây, ngay trước khi nó bỏ , nó bảo tôi, 'Bố, bố là ông già rất tốt với con. Con chẳng làm cái gì cho bố khổ nữa đâu.' Nó có ý như vậy . Thằng này có nhiều cái tốt ở trong người nó. Nếu như ông từng thấy nó ở sân bóng bầu dục, nếu như ông thấy nó đùa với đám con nó ông chẳng nghi tôi đâu. Trời, tôi cầu Chúa có thể bảo cho tôi hay. Vì tôi biết chuyện gì xảy ra."

      Bà vợ ông , "Tôi biết," bà bắt đầu mạng lại bít tất và buộc phải ngừng tay vì nước mắt tràn ra. "Cái thằng bạn của nó kìa. Chuyện xảy ra là thế đấy."

      Người khách, đặc vụ K.B.I. Harold Nye, bận ngoáy vội vào cuốn sổ tốc ký - cuốn sổ tay đầy những kết quả của ngày dài bỏ ra thăm dò những lời buộc tội của Floyd Wells. Đến nay, những việc xác định được chứng minh câu chuyện Floyd Wells kể là thuyết phục nhất. Ngày 20 tháng Mười , nghi phạm Richard Eugene Hickock làm chuyến mua bán bốc trời ở Kansas City trong đó cho lọt được dưới "bảy tấm séc giả". Nye thẩm vấn tất cả các nạn nhân từng trình báo - nhân viên bán camera, rađiô, ti vi. Ông chủ tiệm vàng bạc, người bán hàng ở cửa hàng may mặc - và ở mỗi chỗ, khi ông đưa cho nhân chứng xem ảnh của Hickock và Perry Edward Smith, ông luôn luôn nhận dạng được Hickock là tác giả của những tấm séc giả, Perry là tên tòng phạm "im lìm" của . ( đại lý bán hàng chán nản , " [Hickock] hành động. cha rất ngọt, rất thuyết phục. Thằng kia - tôi nghĩ nó có thể là người nước ngoài, người Mexico - bao giờ mở miệng.")

      Sau đó, Nye lái xe đến làng ngoại ô Olathe, ở đây ông phỏng vấn người chủ cuối cùng của Hickock, ông chủ tiệm sửa xe Bod Sands. "Vâng, ta có dạo làm ở đây," ông Sands . "Từ tháng Tám cho tới - à phải, tôi còn thấy ta nữa sau ngày 19 tháng Mười , hoặc có thể là ngày 20. ta bỏ chẳng bảo tôi gì sất. Cứ thế chuồn thôi - tôi biết đâu, bố ta cũng chẳng biết. Ngạc nhiên ư? À, có chứ. Có, tôi ngạc nhiên. Chúng tôi làm việc thân mật lắm. Dick là loại người có cái kiểu riêng của mình, ông biết đấy. ta có thể rất đáng mến. dạo ta quen đến chơi nhà tôi. là trước khi ta bỏ , chúng tôi có mời ít người tới, liên hoan nho , và Dick mang bạn tới, người này là chàng ở Nevada đến thăm ta, tên là Perry Smith. ta chơi ghi ta hay lắm. ta chơi ghi ta và hát mấy bài, rồi ta và Dick giúp vui cho mọi người bằng màn cử tạ. Perry Smith, người bé , cao hơn mét rưỡi là mấy, thế nhưng có thể nhấc nổi cả con ngựa. , họ nom có vẻ căng thẳng gì, cả hai. Tôi dám họ rất vui vẻ chơi đùa là đằng khác ấy chứ. Ngày giờ chính xác à? Chắc chắn tôi nhớ chứ. Ngày 13. Thứ Sáu, 13 tháng Mười ." Từ đấy Nye cho xe lên phía Bắc, dọc những con đường nông thôn thô sơ. Khi đến gần trại của Hickock, ông đỗ lại ở nhiều trại hàng xóm, bề ngoài là hỏi đường, thực ra là thăm dò về kẻ tình nghi. Vợ chủ trại , "Dick Hickock! Đừng với tôi về Dick Hickock! Nếu mà tôi gặp phải con quỷ ấy! Ăn cắp? Ăn cắp cả đến mắt người chết nữa đấy! Nhưng mẹ ta, bà Eunice, lại là người tốt. Tốt bụng vô cùng ấy. Bố ta cũng vậy. Cả hai người đều thà, lương thiện. Dick còn vào tù nhiều đến mức ông cũng chẳng tính ra nổi đâu, có điều quanh đây người ta muốn tố cáo. Vì kính trọng bố mẹ đẻ ra ."

      Bóng chiều buông xuống khi Nye gõ cửa căn nhà trại bốn buồng bị thời gian làm cho xám xịt của Walter Hickock. Tựa như nó từng chờ đợi cuộc viếng thăm thế này. Ông Hickock mời nhà thám tử vào trong bếp và bà Hickock mời ông cà phê. Có lẽ nếu họ biết được mục đích của người khách đến đây chiêu đãi kia bớt lịch và thêm dè dặt. Nhưng họ biết, và trong hàng mấy giờ ba người ngồi trò chuyện, cái tên Clutter lẫn chữ án mạng đều được nhắc tới. Ông bố bà mẹ chấp nhận cái điều Nye đưa ra là ông lùng tìm con trai họ vì vi phạm lời hứa tái phạm và có gian lận về tài chính.

      " buổi tối Dick mang [Perry] về nhà và bảo chúng tôi người bạn vừa mới xuống chuyến xe buýt từ Las Vegas đến, nó muốn biết có thể ngủ ở nhà, nán lại ít lâu được ," bà Hickock . ", thưa ông, tôi muốn cho vào nhà. Nhìn qua tôi thấy ngay là cái thứ gì. Với cái mùi nước hoa của . Rồi cái loại dầu bôi tóc. như ban ngày là Dick gặp ở đâu. Theo điều kiện tha do lời hứa tái phạm, nó được bảo ban là được kết bè với bất cứ ai nó gặp ở đó [ở Lansing]. Tôi có nhắc nhở Dick, nhưng nó nghe. Nó tìm cái buồng cho bạn nó ở khách sạn Olathe, ở Olathe, rồi sau cứ rảnh lại đến với . Có lần hai đứa du lịch cuối tuần. Ông Nye à, chắc chắn như ông ngồi đây đây, Perry Smith chính là kẻ xúi giục nó viết séc giả đấy."

      Nye gập quyển sổ tay và cất bút vào túi, kể cả hai bàn tay bởi chúng run lên vì kích động. "Về Du lịch cuối tuần à. Họ đâu?"

      "Fort Scott," ông Hickock , nêu tên thị trấn ở Kansas. "Theo như tôi hiểu Perry Smith có người chị sống ở Fort Scott. Nghe đâu bà ấy giữ món tiền của ta. Đâu như nghìn rưởi đô la. Đó là lý do chính mà tới Kansas, tới để lấy lại tiền gửi người chị. Thế nên Dick đánh xe chở xuống dưới đó. Chỉ đêm thôi, về nhà trước trưa Chủ nhật. Kịp bữa tối Chủ nhật."

      "Tôi rồi," Nye . " chuyến suốt đêm. Có nghĩa là họ rời đây vào lúc nào đó ngày thứ Bảy. Có phải thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười ?"

      Ông già phải.

      "Và quay về ngày Chủ nhật, 15 tháng Mười ?"

      "Trưa Chủ nhật."

      Nye làm tính nhẩm và phấn khởi vì cái kết luận vừa có được trong quãng thời gian hai mươi, hoăc hai mươi tư giờ, hai kẻ tình nghi làm chuyến suốt ngày đêm hơn tám trăm dặm đường và, trong quá trình đó, giết bốn người.

      "Bây giờ , ông Hickock này," Nye . "Hôm Chủ nhật, khi con trai ông về, ta có mình ? Hay Perry Smith cùng về?"

      ", có mình. Nó để Perry ở khách sạn Olathe."

      Bình thường vốn có giọng mũi sắc khiến kẻ khác phải e dè, Nye cố cho ra sắc dịu chùng, giọng hờ hững dễ làm người ta tin cậy. "Ông bà có nhớ - ta có cái gì khác thường để ông bà ngạc nhiên ?"

      "Gì cơ?"

      "Con ông ba ấy."

      "Khi nào chứ?"

      "Khi ở Fort Scort quay về."

      Ông Hickock nghĩ ngợi. Rồi , "Xem vẻ như vẫn vậy. Ngay sau khi nó vào nhà chúng tôi ngồi xuống ăn cơm. Nó đói dữ. Tôi chưa đọc kinh tạ Chúa xong nó bắt đầu lấy thức ăn vào đầy đĩa rồi. Tôi để ý chuyện đó, bèn , 'Dick, mày nuốt nhanh thế này cùi chỏ mày hoạt động kịp với mày đâu. Định ăn hết phần của cả nhà đấy hả?' Dĩ nhiên lúc nào nó cũng là đứa ăn khỏe. Rau dầm giấm. Nó có thể ăn cả thẫu rau dầm giấm."

      "Sau bữa tối ấy làm gì?"

      "Ngủ vùi," ông Hickock , và có vẻ như hơi sửng sốt về câu trả lời của chính mình. "Gục ngủ ngay. Và tôi nghĩ ông có thể coi điều đó là khác thường được đấy. Chúng tôi cùng quây quần ngồi xem bóng rổ. ti vi. Tôi, Dick và thằng con trai kia của chúng tôi, David. Chả mấy chốc Dick ngáy như cái cưa điện, tôi liền bảo thằng em nó, 'Lạy Chúa, tao bao giờ nghĩ tao còn sống đến ngày thấy Dick nó thà ngủ chứ xem bóng rổ.' Thế mà ngủ đấy. Ngủ lèo đến hết trận đấu. Chỉ thức dậy vừa đủ để ăn ít món nguội bữa đêm rồi ngay sau đó lại lên giường luôn."

      Bà Hickock xâu chỉ vào kim mạng; chồng bà dập dinh cái ghế bập bênh và mút mút cái tẩu châm. Con mắt được huấn luyện của người thám tử lướt quanh gian phòng xoàng xĩnh nhưng được quét dọn lau chùi. Trong góc nhà, khẩu súng dựng vào tường; ông để ý thấy nó từ trước. Đứng dậy, với tay lấy khẩu súng, ông , "Ông có hay bắn , ông Hickock?"

      "Súng của nó đấy. Của Dick. Nó và David dạo hay bắn. Chủ yếu là săn thỏ."

      Đó là khẩu súng nòng 12 ly nhãn Savage (Man dại), Model 300; cảnh đàn trĩ bay được chạm trổ tinh vi trang hoàng cái báng.

      "Dick có cái này bao lâu rồi?"

      Câu hỏi làm bà Hickock nổi đóa. "Khẩu súng này giá trăm đô la. Dick mua trả góp đấy, giờ cửa hàng chịu lấy lại, tuy mua chưa tới tháng và mới chỉ dùng có lần - đầu tháng Mười , lúc nó với David Grinnell bắn trĩ. Nó lấy tên chúng tôi đứng ra mua - bố nó để chúng nó làm như vậy - cho nên chúng tôi phải chịu trách nhiệm trả, mà ông nghĩ xem, Walter ốm đau thế này, mọi cái chúng tôi đều thiếu thốn thế này, mọi cái chúng tôi phải làm mà chẳng..." Bà nín thở, tựa như gắng ghìm cơn nấc. "Ông dùng cà phê nữa ư, ông Nye? phiền gì đâu mà."

      Nye dựng lại khẩu súng vào tường, rời tay ra khỏi nó, mặc dù cảm thấy chắc chắn nó là thứ vũ khí giết cả nhà Clutter. "Cảm ơn bà, muộn rồi, tôi còn phải Topeka," ông , đoạn xem quyển sổ tay, "Giờ tôi phải suốt tới đó, xem liệu có thẳng lèo được đây. Perry Smith đến Kansas thứ Năm ngày 12 tháng Mười . Con ông bà người ấy đến để lấy khoản tiền gửi người chị cư ngụ tại Fort Scott. Thứ Bảy ấy, hai người lái xe Fort Scort, họ ở lại cả đêm ở đó - tôi đồ là họ ở nhà người chị?"

      Ông Hickock , ". Chúng tìm ra bà ta. Hình như chuyển rồi."

      Nye mỉm cười. "Nhưng họ cũng ở xa đây suốt đêm hôm ấy. Và trong cả tuần sau đó - tức là từ ngày 15 tới ngày 21! Dick tiếp tục gặp người bạn Perry Smith của mình, hay nếu , như ông biết đấy, vẫn giữ lề thói cũ, sống ở nhà và làm ngày ngày. Ngày 21 ấy biến mất, cả Perry Smith. Và từ đó ông bà nghe thấy gì về ấy nữa? ấy viết gì cho ông bà ư?"

      "Nó sợ viết," bà Hickock . "Xấu hổ và sợ."

      "Xấu hổ?"

      "Về cái việc nó làm ấy. Về việc nó lại làm khổ chúng tôi. Còn sợ là vì nghĩ chúng tôi tha thứ. Như chúng tôi vẫn luôn luôn tha thứ. Và còn tha thứ. Ông có con , ông Nye?"

      Nye gật.

      "Vậy ông biết chuyện đó nó như thế nào rồi đấy."

      "Thêm câu nữa thôi. Ông bà liệu may ra có biết con trai ông bà đâu ?"

      "Ông mở tấm bản đồ ra," ông Hickock , "trỏ ngón tay vào, có thể ở chỗ đó đấy."

      ° ° °

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :