Lái xe bự - STEPHEN KING (Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      .26.

      Tess kiểm tra để đảm bảo chắc chắn chiếc Expedition của mình có thể khởi động được, sau đó thù lao cho người lái taxi hai mươi đô thay vì mười. Ông ta cảm động cảm ơn , rồi lái xe về hướng đường I-84. Tess theo sau, nhưng chỉ sau khi lắp trả Tom về chỗ cũ và cắm nguồn cho nó.


      “Xin chào, Tess,” Tom lên tiếng. “Tôi thấy chúng ta thực chuyến .”


      “Chỉ quay về nhà thôi, Tommy bé bỏng,” , và lái xe ra khỏi bãi đỗ, ý thức rất lao chiếc lốp do gã đàn ông thiếu chút nữa giết chết lắp. Al Ba Lan Gì Đó. gã lái xe tải khốn kiếp. “ chặng dừng đường.”


      “Tôi biết nghĩ gì, Tess, nhưng nên cẩn thận.”


      Nếu như ở nhà thay vì trong chiếc xe, hẳn Fritzy là người ra câu vừa rồi, và Tess cũng vẫn chẳng thấy bất ngờ chút nào. quen tạo ra những giọng và tự chuyện mình từ hồi , mặc dù từ khi lên tám hay chín tuổi, thôi làm vậy khi có mặt những người khác, trừ khi để pha trò.


      “Tôi cũng biết mình nghĩ gì nữa,” , nhưng hẳn đúng là vậy.


      Phía trước là giao lộ với tuyến đường US 47, và cũng là chỗ cửa hàng Gas & Dash tọa lạc. bật xi nhan, rẽ vào, và đỗ lại với đầu chiếc Expedition nằm giữa hai máy điện thoại trả tiền ở bên cạnh tòa nhà. nhìn thấy số điện thoại của Royal Limousine tấm bê tông đầy bụi nằm giữa chúng. Những con số cong queo, run rẩy, được viết bởi ngón tay được bình tĩnh lắm. cơn ớn lạnh gai gai chạy dọc sau lưng , và đưa hai cánh tay ôm sát lấy người, siết chặt. Sau đó, chui ra khỏi xe, bước tới chiếc điện thoại vẫn còn hoạt động.


      Bảng hướng dẫn bị cào xước, có lẽ là do kẻ say rượu thực với chiếc chìa khóa xe, nhưng vẫn có thế đọc được thông tin quan trọng nhất vào lúc này: gọi 911 mất phí, chỉ cần nhấc ống nghe lên và bấm số. Dễ-như-trở-bàn-tay.


      bấm số 9, do dự chút, bấm số 1, rồi lại do dự. hình dung ra quả cầu treo đựng đồ chơi, và phụ nữ dùng gậy chĩa vào nó để chọc. bao lâu nữa, mọi thứ chứa bên trong tung tóe ra ngoài. Bạn bè, cộng của biết bị cưỡng hiếp. Patsy McClain biết câu chuyện về việc vấp phải Fritzy trong bóng tối chỉ là lời dối do xấu hổ... và rằng Tess đủ tin tưởng vào bà để ra . Nhưng thực những chuyện đó phải là điều cốt yếu. cho rằng có thể đối diện với cuộc xăm xoi nho của công chúng, đặc biệt nếu nó ngăn cho kẻ Betsy Neal gọi là Lái Xe Bự tiếp tục cưỡng bức và giết hại thêm người phụ nữ nào khác nữa. Tess nhận ra thậm chí còn có thể được nhìn nhận như người hùng, điều thậm chí thể nghĩ tới vào tối hôm qua, khi chỉ việc tiểu tiện cũng làm đau đến phát khóc, còn tâm trí luôn quay trở lại với hình ảnh chiếc quần lót bị đánh cắp của nằm trong túi chiếc quần yếm của gã khổng lồ.


      Chỉ có điều...


      “Liệu mình có gì trong đó?” lại hỏi lần nữa. rất khẽ, trong lúc nhìn số điện thoại chính viết lên lớp bụi. “Liệu mình có gì trong đó?”


      Và nghĩ: Mình có khẩu súng và biết dùng nó như thế nào.


      gác ống nghe lên, quay trở lại xe. nhìn lên màn hình của Tom, lúc đó hiển thị giao lộ giữa Stagg Road và đường 47. “Tôi cần nghĩ thêm về việc này,” .


      “Nghĩ về cái gì đây?” Tom hỏi. “Nếu giết rồi bị bắt, phải vào tù. Cho dù có bị cưỡng hiếp hay .”


      “Đó chính là điều tôi cần phải suy nghĩ thêm,” , và rẽ vào tuyến đường 47, con đường đưa tới I-84.


      Giao thông tuyến xa lộ lớn rất vắng vẻ, đúng như trong buổi sáng thứ Bảy, và được ngồi sau tay lái chiếc Expedition của mình cảm giác tuyệt diệu. nhõm thư thái. Bình thường. Tom im lặng cho tới khi qua tấm biển đề LỐI RA 9 STOKE VILLAGE 2 DẶM. Sau đó, chiếc máy lên tiếng, “ chắc đó là tai nạn chứ?”


      “Cái gì?” Tess giật bắn người, sững sờ. nghe thấy những lời của Tom phát ra từ miệng mình, bằng giọng trầm hơn mà vẫn luôn dùng cho người đối thoại tưởng tượng trong cuộc đối thoại tưởng tượng của mình (đó là giọng hầu như chẳng giống chút nào so với giọng robot thực tế của Tom, chàng Tomtom), nhưng lại hề giống những gì nghĩ. “Có phải bạn rằng việc gã khốn đó cưỡng bức tôi chỉ là tai nạn?”


      ,” Tom trả lời. “Tôi rằng nếu như chỉ do mình quyết định, hẳn quay về theo tuyến đường tới. Tuyến đường này. I-84. Nhưng ai đó có ý tưởng hay hơn, phải nào? Ai đó biết con đường tắt.”


      “Phải,” đồng ý. “Là Ramona Norville.” cân nhắc lát, rồi lắc đầu. “Như thế cường điệu quá, bạn.”


      Lần này Tom trả lời.





      .27.

      Rời khỏi Gas & Dash, Tess dự định lên mạng tìm kiếm xem liệu có thể phát ra công ty vận tải nào đó, có thể là công ty độc lập , hoạt động ở Colewich hay trong những thị trấn xung quanh. công ty có tên gọi liên quan tới chim, có thể là chim ưng hay đại bàng. Đó là những gì các quý bà Willow Grove làm; họ thích những chiếc máy tính của họ, và luôn chat với nhau như những đứa trẻ vị thành niên. Bên cạnh những cân nhắc khác, rất thú vị khi kiểm chứng xem liệu phiên bản trinh thám nghiệp dư của có vận hành được trong đời thực hay .


      Lái xe tới cách ngã rẽ khỏi đường I-84 dặm và cách nhà nửa dặm, quyết định trước hết thực cuộc điều tra về Ramona Norville. Ai mà biết được, rất có thể khám phá ra, bên cạnh việc quản lý Books & Brown Baggers, Ramona còn là chủ tịch của Hiệp hội Ngăn chặn Cưỡng dâm ở Chicopee. Thậm chí còn hoàn toàn hợp lý. Người tổ chức cuộc chuyện của Tess ràng chỉ đơn thuần là người đồng tính nữ, mà còn là mẫu người đồng tính nữ nam tính, và những phụ nữ kiểu này thường thích những người đàn ông phải là những gã cưỡng dâm.


      “Nhiều kẻ gây hỏa hoạn lại là thành viên của đội chữa cháy tình nguyện tại địa phương đấy,” Tom nhận xét khi lái xe rẽ về phố nhà mình.


      “Thế có nghĩa là gì?” Tess hỏi.


      “Rằng nên loại trừ bất cứ ai dựa tư cách công khai của họ. Các quý bà của Hội đan lát bao giờ làm như thế. Nhưng kiểu gì kiểu, hãy tìm hiểu về bà ta mạng.” Tom bằng giọng cho phép kẻ cả mà Tess mấy trông đợi. Nó khiến hơi khó chịu.


      tử tế khi cho phép tôi làm vậy, Thomas,” .





      .28.

      Nhưng khi ở trong phòng làm việc của mình với máy tính bật, chỉ nhìn chằm chằm vào màn hình chào đón của chiếc Apple trong năm phút đầu tiên, băn khoăn liệu có phải thực nghĩ tới việc truy tìm gã khổng lồ và sử dụng khẩu súng của , hay đó chỉ là thoáng tưởng tượng mà những kẻ -láo-ăn-tiền như quá quen. Trong trường hợp này là cuộc báo thù tưởng tượng. cũng tránh cả những bộ phim kiểu đó, song biết chúng vẫn đầy rẫy ngoài kia; bạn thể tránh được ảnh hưởng từ nền văn hóa bạn sống, trừ khi bạn là kẻ biệt lập hoàn toàn, và Tess phải người như thế. Trong những bộ phim về báo thù, những chàng cơ bắp đáng ngưỡng mộ như Charles Bronson và Sylvester Stallone buồn đếm xỉa tới cảnh sát, họ tự mình xử đám người xấu. Công lý tự thân. Mi cảm thấy may mắn chứ, đồ du đãng. tin rằng thậm chí cả Jodie Forster, trong những người nổi tiếng nhất từng tốt nghiệp Yale, đóng bộ phim kiểu này. Tess còn nhớ tiêu đề nữa. Người phụ nữ can đảm, phải nhỉ? chung là thứ gì đại loại như thế.


      Máy tính của chuyển sang chế độ bảo vệ màn hình với từ được chọn cho ngày hôm nay. Từ của hôm nay là chim cốc, tình cờ lại là loài chim.


      “Khi bạn gửi hàng của bạn bằng Cormorant Trucking[37] bạn nghĩ mình dang bay,” Tess bằng thứ giọng trầm trầm giả-bộ-là-Tom. Sau đó phím, và chế độ bảo vệ màn hình biến mất. vào mạng, nhưng tới trong các trang tìm kiếm, hay ít nhất cũng bắt đầu bằng chúng. Đầu tiên vào YouTube và gõ RICHARD WIDMARK mà hiểu tại sao lại làm như thế. tóm lại, phải cách có ý thức.


      Có thể mình muốn tìm ra liệu gã này có thực đáng để hâm mộ hay , nghĩ. Ramona hẳn là nghĩ thế rồi.


      Có rất nhiều đoạn clip. Được xếp hạng cao nhất là đoạn ghép dài sáu phút với tựa đề TỒI TỆ, HẲN THỰC TỒI TỆ. Hàng trăm nghìn người xem qua nó. Có những cảnh được cắt ra từ ba bộ phim, nhưng thu hút chú ý của là bộ phim thứ nhất. Đó là bộ phim đen trắng, trông có vẻ rẻ tiền... nhưng chắc chắn là trong những bộ phim kiểu đó. Thậm chí tựa đề cũng cho bạn biết như vậy: Nụ hôn của Cái chết.


      Tess xem toàn bộ đoạn video, sau đó xem lại đoạn trích từ Nụ hôn của Cái chết hai lần. Widmark vào vai gã đội mũ trùm đầu cười ngặt nghẽo đe dọa bà lão ngồi xe đẩy. muốn thông tin: “Thằng con trai mách lẻo của mụ ở đâu?” Rồi khi bà lão chịu cho biết: “Mụ biết tao làm gì với những kẻ mách lẻo ? Tao cho chúng nó thưởng thức thứ này vào bụng, như thế chúng nó có thể lăn lộn hồi lâu mà ngẫm nghĩ.”


      Tuy vậy, bắn vào bụng bà lão. dùng dây trói bà lão vào chiếc xe lăn và đẩy bà xuống cầu thang.


      Tess thoát ra khỏi YouTube, tìm hiểu về Richard Widmark, và tìm thấy đúng thứ trông đợi, nếu suy đoán từ mức độ được quan tâm của đoạn clip ngắn đó. Cho dù ông ta xuất trong nhiều bộ phim sau đó, thường là vào vai người hùng, ông ta được biết đến nhiều nhất với Nụ hôn của Cái chết và vai kẻ tâm thần hay cười Tommy Udo.


      “Khám phá vĩ đại làm sao,” Tess . “Đôi lúc điếu xì gà chẳng qua chỉ là điếu xì gà mà thôi.”


      “Thế có nghĩa là gì?” Fritzy lên tiếng hỏi từ bậu cửa sổ nơi nó nằm sưởi nắng.


      “Nghĩa là Ramona rất có thể phải lòng ông ta sau khi chứng kiến ông ta diễn vai cảnh sát trưởng hùng hay hạm trưởng can trường, hay thứ gì đó đại loại.”


      “Hẳn là vậy rồi,” Fritzy đồng ý, “bởi vì nếu đúng về thiên hướng tình dục của bà ta, nhiều khả năng bà ta thần tượng những chàng sát hại các bà lão ngồi xe đẩy.”


      Tất nhiên đúng vậy rồi. Suy nghĩ hay lắm, Fritzy.


      Con mèo nhìn Tess với con mắt ngờ vực và , “Nhưng rất có thể đúng về chuyện đó.”


      “Thậm chí là nữa,” Tess , “chẳng có ai lại hâm mộ những gã xấu xa tâm thần cả.”


      nhận ra câu của mình ngớ ngẩn tới mức nào ngay khi nó thoát ra khỏi miệng . Nếu người ta khoái những gã tâm thần, họ tiếp tục làm phim về con ma đội mũ đấu thủ hockey và nạn nhân bị thiêu cháy với những cây kéo thay cho ngón tay. Nhưng Fritzy tỏ ra lịch khi cười nhạo .


      “Tốt hơn mày nên làm thế,” Tess . “Nếu mày cảm thấy muốn làm thế, hãy nhớ ai là người đổ thức ăn đầy đĩa cho mày.”


      gõ Ramona Norville và Google, thu được bốn mươi tư nghìn trả lời, thêm vào Chicopee, và số lượng trả lời cho về con số nghìn hai trăm có phần dễ xoay xở hơn (cho dù thậm chí phần lớn chúng, biết, là những thông tin trùng lặp ngẫu nhiên có ý nghĩa gì). Đầu mối đáng chú ý đầu tiên tới từ tờ báo Weekly Reminder phát hành tại Chicopee, và liên quan tới chính bản thân Tess: THỦ THƯ RAMONA NORVILLE THÔNG BÁO “WILLOW GROVE VÀO THỨ SÁU.”


      “Mình đây rồi, ngôi sao của chú ý,” Tess lẩm bẩm. “Hoan hô Tessa Jean. Giờ hãy xem qua chút về nữ diễn viên phụ của mình.” Nhưng khi kéo màn hình xuống, bức ảnh duy nhất Tess thấy là ảnh của chính . Đó là bức hình để vai trần chụp nhằm mục đích quảng bá hình ảnh mà trợ lý làm việc bán thời gian của vẫn thường xuyên gửi . nhăn mũi và quay trở lại Google, biết vì sao lại muốn nhìn lại Ramona, mà chỉ biết là muốn thế. Khi cuối cùng Tess cũng tìm được bức ảnh của bà thủ thư, nhìn thấy điều có lẽ linh tính của vốn nghi ngờ, ít nhất nếu đánh giá dựa vào những lời nhận xét của Tom trong chuyến trở về nhà.


      Bức ảnh nằm trong bài báo đăng trong số ra ngày 3 tháng Tám của Weekly Reminder. BROWN BAGGERS THÔNG BÁO LỊCH CHUYỆN MÙA THU, đầu đề bài báo viết. Bên dưới, Ramona Norville đứng bậc thềm thư viện, mỉm cười và đưa mắt nhìn về phía mặt trời. bức ảnh tồi, được chụp bởi tay máy nghiệp dư chẳng mấy tài năng, và lựa chọn trang phục tồi (nhưng có lẽ là đặc trưng) về phần Norville. Chiếc áo cộc tay may theo kiểu đàn ông làm cho bà ta có phần ngực rộng chẳng khác gì hậu vệ bóng đá nhà nghề. Chân bà ta đôi giày đế bằng màu nâu xấu thảm hại. Hai ống quần màu xám quá chật phô bày ra thứ mà Tess và các bạn ở trường phổ thông thường hay gọi là “cặp đùi sấm sét”.


      là chết tiệt, Fritzy,” . Giọng của đượm vẻ thất thần. “Thử nhìn qua cái này xem.” Fritzy chẳng buồn bước lại gần ngắm nghía và cũng chẳng trả lời - làm sao nó có thể trả lời khi quá bực bội để có thể giả giọng cho nó?


      Hãy đảm bảo chắc chắn về những gì nhìn thấy, Tess tự nhủ. gặp phải cú sốc kinh hoàng, Tessa Jean, có lẽ là cú sốc khủng khiếp nhất mà người phụ nữ có thể gặp phải, kiểu như chẩn đoán chết người trong phòng khám của bác sĩ vậy. Vì thế hãy đảm bảo chắc chắn.


      nhắm mắt lại và hình dung ra hình ảnh người đàn ông chui ra từ chiếc bán tải Ford cũ kỹ với keo Bondo trám quanh các đèn pha. Thoạt đầu ta dường như có vẻ thân thiện. nghĩ gặp Người Khổng Lồ Xanh Vui Tính ở nơi hoang vu này đúng ?


      Chỉ có điều ta phải màu xanh lục, gã khổng lồ với làn da rám nắng, kẻ phải ngồi trong chiếc bán tải của mình mà khoác nó lên người.


      Ramona Norville, phải là Lái Xe Bự nhưng chắc chắn là Thủ Thư Bự, quá tuổi để làm chị của . Và nếu tại bà ta là người đồng tính, trước đây hẳn lúc nào cũng thế, vì giống nhau giữa hai người là thể nhầm lẫn được.


      Trừ khi mình lầm đến mức thê thảm, mình nhìn vào ảnh bà mẹ của gã cưỡng dâm.





      .29.

      vào bếp, rót cho mình cốc nước, nhưng nước cũng thể giúp bình tâm lại. chai tequile[38] cũ đẩy nửa nâm im lìm trong góc ngăn tủ bếp biết từ bao nhiêu năm nay. lấy nó ra, cân nhắc xem có nên rót ra ly , rồi tu thẳng từ trong chai. Thứ rượu mạnh làm miệng và cổ họng như bốc cháy, nhưng đồng thời cũng đem đến hiệu quả tích cực. uống thêm ít nữa - lần này giống hớp hơn là hơi - rồi để lại cái chai vào chỗ cũ. hề có ý uống đến say. Nếu có lúc nào đó cần đến trí tuệ của mình, thời điểm ấy chính là hôm nay.


      Căm hận - cơn căm hận dữ dội nhất, xác đáng nhất trong suốt phần đời trưởng thành của - lan khắp người như cơn sốt, nhưng hề giống với bất cứ cơn sốt nào từng biết trước đây. Nó tuần hoàn như thứ huyết thanh kỳ quái, lạnh toát bên phía phải cơ thể , rồi nóng bừng lên ở bên trái, nơi có trái tim . Dường như nó hề tới từ đâu đó gần cái đầu của , nơi vẫn giữ được sáng suốt. Còn sáng suốt hơn kể từ khi uống tequila, quả thực là vậy.


      bước liền mạch nhiều vòng nhanh quanh bếp, đầu cúi xuống, bàn tay xoa xoa những vết bầm tím chạy vòng quanh cổ. hề nhận ra mình lượn vòng quanh bếp đúng như cách vòng quanh khu cửa hàng bỏ hoang sau khi bò ra khỏi ống cống mà gã Lái Xe Bự định dùng làm nhà mồ cho . có thực cho rằng Ramona Norville gửi , Tess, tới cho đứa con trai bệnh hoạn của bà ta như thứ vật hy sinh ? Có vẻ là thế ? phải. Thậm chí liệu có thể đoán chắc hai người bọn họ là hai mẹ con dựa vào bức ảnh chụp tồi và trí nhớ của chính hay ?


      Nhưng trí nhớ của mình rất tốt. Nhất là trong việc ghi nhớ những khuôn mặt.


      Được thôi, nghĩ tiếp, nhưng có lẽ ai cũng thế cả. Phải nào?


      Phải, và toàn bộ ý tưởng này điên rồ. cần phải thừa nhận điều đó.


      thừa nhận điều đó , song cũng từng thấy những chuyện còn điên rồ hơn trong các chương trình tội phạm thực tế (mà thực xem). Các quý bà sở hữu khu căn hộ ở San Fransisco trải qua nhiều năm liền vào việc giết chết những người thuê nhà già cả của họ để lấy tiền Bảo hiểm Xã hội, rồi chôn các nạn nhân ngoài sân sau. Viên phi công dân dụng giết chết vợ ta, sau đó làm đông lạnh thi thể để có thể ném vợ qua chiếc máy nghiền gỗ để sau gara. Người đàn ông đổ xăng lên người chính những đứa con của mình rồi nấu chúng lên như nấu gà để đảm bảo vợ ta bao giờ có được quyền nuôi con mà tòa phán quyết trao cho này. người phụ nữ gửi nạn nhân tới cho chính con trai của bà ta quả là chuyện khiến người ta sốc và có vẻ khó tin... nhưng phải là thể xảy ra. Khi đến khía cạnh tăm tối chết tiệt của trái tim con người, dường như có giới hạn nào hết.


      “Ôi trời ơi,” nghe thấy chính mình thốt lên bằng giọng vừa sợ hãi vừa giận dữ. “Ôi trời, ôi trời, ôi trời.”


      Tìm cho ra. Tìm cho ra để chắc chắn. Nếu có thể.


      quay trở lại với chiếc máy tính đáng tin cậy của mình. Hai bàn tay run lẩy bẩy, và phải mất đến ba lần để gõ từ CÁC CÔNG TY VẬN TẢI TẠI COLEWICH vào ô tìm kiếm đầu trang giao diện của Google. Cuối cùng cũng gõ được chính xác, gõ enter, và nó kia rồi, ngay đầu danh sách: VẬN TẢI RED HAWK[39]. Đầu mối này dẫn tới trang web của Red Hawk, với hình vẽ tệ hại mà đoán chính là con chim ưng đỏ ở bên, và hình người đàn ông với cái đầu smiley[40]quái lạ ngồi sau tay lái. Chiếc xe tải chạy qua màn hình từ phải sang trái, lộn ngược lại, rồi quay trở về từ trái sang phải, rồi tiếp tục lộn lại. cuộc hành trình qua lại có hồi kết. Câu tôn chỉ của công ty lập lòe các màu đỏ, trắng và xanh da trời phía hình chiếc xe tải: NHỮNG NỤ CƯỜI ĐẾN CÙNG DỊCH VỤ!


      Với những ai muốn xa hơn giao diện chào đón, có tất cả bốn hay năm lựa chọn, bao gồm số điện thoại, mức phí, và những lời làm chứng từ các vị khách hàng hài lòng. Tess bỏ qua những thứ này và bấm chuột vào lựa chọn cuối cùng, có ghi THAM KHẢO BỔ SUNG MỚI NHẤT CHO ĐỘI XE CỦA CHÚNG TÔI! Và khi bức ảnh ra, mảnh ghép cuối cùng còn thiếu rơi vào đúng chỗ của nó.


      Đó là bức ảnh khá hơn nhiều so với bức hình chụp Ramona Norville đứng thềm thư viện. Trong ảnh, kẻ cưỡng dâm Tess ngồi sau tay lái của chiếc xe tải đầu bằng bóng loáng, cửa xe có viết VẬN TẢI RED HAWK, COLEWICH, MASSACHUSETTS bằng những chữ cái bay bướm. đội chiếc mũ lưỡi trai màu nâu với những vết trắng, và mái tóc vàng húi cua cứng như rễ tre lộ ra do vắng mặt của nó làm trông lại càng giống bà mẹ hơn, gần như tới mức kỳ quái. Nụ cười vui vẻ bạn-có-thể-tin-tôi vẫn là nụ cười Tess nhìn thấy chiều hôm qua. Nụ cười vẫn trưng ra khuôn mặt khi Thay vì thay lốp xe cho , nghĩ sao nếu tôi đ... ? thấy thế nào?


      Nhìn vào bức ảnh khiến cho thứ huyết thanh - căm hận kỳ quái tuần hoàn nhanh hơn trong cơ thể . cảm giác rần rật hai bên thái dương , song chính xác lại phải là cơn đau đầu; kỳ thực, đó là cảm giác gần như khoan khoái.


      đeo chiếc nhẫn có viên đá màu đỏ.


      Dòng chú thích bên dưới bức ảnh viết: “Al Strehlke, Chủ tịch của Vận tải Red Hawk, được thấy ở đây sau tay lái chiếc xe mới nhất công ty mua, chiếc Peterbilt 389 đời 2008. Con ngựa thồ này, tại sẵn sàng phục vụ khách hàng của chúng tôi, là chiếc xe TUYỆT NHẤT KHẮP VÙNG. Thử xem! phải Al trông giống như Ông Bố Đầy Tự Hào sao?”


      nghe thấy gọi con chó cái, con chó cái lăng loàn, và hai bàn tay siết chặt lại thành nắm đấm. cảm thấy các móng tay đâm sâu vào lòng bàn tay, và siết chúng thậm chí còn chặt hơn nữa, tận hưởng cảm giác đau đớn.


      Ông Bố Đầy Tự Hào. Đôi mắt liên tục quay trở lại nhìn dán vào những từ đó. Ông Bố Đầy Tự Hào. Căm hận di chuyển mỗi lúc nhanh hơn, tuần hoàn trong cơ thể giống như cách lượn vòng quanh bếp. Giống như cách vòng quanh cửa hàng tối hôm qua, bước vào rồi ra khỏi trạng thái tỉnh táo như nữ diễn viên băng qua chuỗi những quầng sáng.


      Mày phải trả giá, Al. Và đừng bao giờ bận tâm đến đám cớm, tao là người tới bắt mày trả giá.


      Và rồi còn có cả Ramona Norville. Bà mẹ đầy tự hào của ông bố đầy tự hào. Cho dù Tess vẫn chưa chắc chắn về bà ta. phần vì muốn tin phụ nữ có thể cho phép việc ghê rợn đến thế xảy ra với phụ nữ khác, song ngoài ra cũng có thể hình dung ra lời giải thích hoàn toàn vô tội. Chicopee nằm cách Colewich xa mấy, và Ramona có thể luôn sử dụng đường tắt qua Stagg Road khi bà ta đến đó.


      “Để thăm con trai,” Tess , và gật đầu. “Để thăm ông bố đầy tự hào với chiếc xe tải đầu bằng mới. Từ những gì mình biết, rất có thể bà ta chính là người chụp bức ảnh ta ngồi sau tay lái.” Và tại sao bà ta lại thể mang tuyến đường ưa thích của mình ra giới thiệu với vị diễn giả của buổi chuyện ngày hôm đó?


      Nhưng tại sao bà ta , “Tôi vẫn luôn theo con đường đó để tới thăm con trai tôi?” Như thế chẳng tự nhiên sao?


      “Có thể bà ta với người lạ về quãng đời của mình có liên quan tới Strehlke,” Tess . “Quãng đời trước khi bà ta khám phá ra mái tóc ngắn và những đôi giày thoải mái.” Có thể lắm, nhưng còn cần phải nghĩ tới những súc gỗ cắm đầy đinh rải ra đường. Cái bẫy. Norville chỉ cho theo tuyến đường đó, và cái bẫy được chuẩn bị từ trước. Bởi vì bà ta gọi cho ? Gọi cho Mẹ gửi cho con con mồi ngon lành, đừng có để xổng mất?


      Dẫu vậy vẫn có nghĩa là bà ta có can dự vào... hay can dự vào cách có ý thức. Ông bố đầy tự hào có thể theo dõi lộ trình những diễn giả khách mời của bà ta, việc đó khó khăn tới mức nào nhỉ?


      “Chẳng có gì khó khăn hết” Fritzy sau khi trèo lên tủ đựng tài liệu của . Con mèo bắt đầu liếm láp bàn chân của nó.


      “Và nếu ta thấy bức ảnh của người ta thích... người tương đối hấp dẫn... Tôi cho rằng biết mẹ làm ta quay về bằng...”. dừng lại. “, điều đó hợp lý. Nếu có đầu mối từ mẹ , làm sao biết được phải tôi lái xe tới nhà mình ở Boston? Hay bay trở về nhà tôi ở New York?”


      tìm kiếm Google,” Fritzy . “Có thể cũng tìm kiếm Google. Giống như bà ta làm. Ngày nay mọi thứ đều có cả Internet; chính thế còn gì.”


      Tất cả đều gắn kết với nhau, cho dù chỉ bằng sợi chỉ.


      nghĩ có cách để biết chắc chắn, và cách đó là dành cho bà Norville chuyến ghé thăm bất ngờ. Nhìn thẳng vào mắt bà ta khi bà ta trông thấy Tess. Nếu trong đó có gì ngoài ngạc nhiên và tò mò trước trở lại của Tác giả Willow Grove... tới nhà Ramona thay vì thư viện nơi bà ta làm việc... như thế chẳng có gì để . Nhưng nếu trong đôi mắt bà ta có thêm cả vẻ sợ hãi, thứ cảm giác có thể xuất phát từ ý nghĩ tại sao lại ở đây thay vì nằm trong cống ngầm bẩn thỉu bên Stagg Road... khi đó ...


      “Khi đó khác hẳn, Fritzy. Phải vậy ?”


      Fritzy ngước đôi mắt xanh lục khôn ngoan của nó nhìn , trong lúc tiếp tục liếm bàn chân. Trông bàn chân đó vô hại, nhưng phía trong nó là những móng vuốt sắc nhọn. Tess nhìn thấy chúng, và trong vài dịp thậm chí được cảm nhận chúng.


      Bà ta tìm ra được mình sống ở đâu! Hãy cùng xem xem mình có thể đáp lễ được .


      Tess quay trở lại máy tính của , lần này để tìm trang web của Books & Brown Baggers. tin chắc tìm thấy trang chủ như thế - ngày nay ai cũng có trang web của mình, thậm chí có những gã sát nhân ngồi tù chung thân cũng có trang web - và cũng có. Brown Baggers đăng tải thông tin mới về các thành viên của họ, các bài điểm sách, và những bài tường thuật chính thức - hẳn là tường thuật chi tiết - về những buổi gặp gỡ của họ. Tess chọn chuyên mục sau cùng này và bắt đầu tìm kiếm. mất mấy thời gian, tìm ra cuộc gặp ngày 10 tháng Sáu được tổ chức tại nhà Ramona Norville ở Brewster. Tess chưa bao giờ tới thị trấn này, nhưng biết nó nằm ở đâu, vì lái xe ngang qua tấm biển chỉ đường màu xanh lục chỉ hướng tới đó đường tới buổi chuyện ngày hôm qua. Nó chỉ cách Chicopee hai hay ba ngã rẽ về phía nam.


      Tiếp theo, chuyển sang danh sách đóng thuế của thị trấn Brewster, kéo thanh trượt xuống cho tới khi tìm ra tên Ramona. Bà ta trả 913,06 đô la tiền thuế bất động sản vào năm trước; bất động sản đó được ghi tọa lạc tại số 75 Lacemaker Lane.


      “Tìm thấy bà rồi, quý bà thân mến,” Tess thầm.


      cần phải nghĩ xem thực việc này như thế nào” Fritzy . “Và sẵn sàng xa tới đâu.”


      định tắt máy tính , rồi sau đó nghĩ tới thứ cũng đáng bỏ công kiểm tra, mặc dù biết rất có thể nó chẳng dẫn tới đâu cả. vào trang chủ của Weekly Reminder, bấm vào mục CÁO PHÓ. Có chỗ để gõ tên họ của người bạn quan tâm vào, và Tess gõ STREHLKE. Chỉ có trả lời duy nhất, của người đàn ông có tên Roscoe Strehlke. Theo cáo phó đăng năm 1999, ông ta bị đột tử tại nhà ở tuổi bốn mươi tám. Để lại người vợ, Ramona, và hai con trai: Alvin (23 tuổi) và Lester (17 tuổi). Với tác giả viết truyện bí hiểm, thậm chí cả thể loại dính máu chút nào mà người ta vẫn gọi là loại “”, đột tử là dấu hiệu đáng ngờ. tiếp tục tìm trong cơ sở dữ liệu của Reminder và tìm thấy thêm được gì.


      ngồi im lát, bứt rứt gõ các ngón tay lên tay vịn ghế như vẫn thường làm trong lúc viết và đột nhiên nhận ra mình bị tắc tịt sao tìm ra được từ, câu, hay cách để diễn đạt thứ gì đó. Sau đó, tìm kiếm danh sách các tờ báo phát hành ở vùng tây và nam Massachusetts, rồi tìm thấy tờ Republican phát hành ở Springfield. Khi gõ tên người chồng của Ramona Norville vào mục tìm kiếm, hàng tít ra ảm đạm và trúng đích: DOANH NHÂN Ở CHICOPEE TỰ SÁT.


      Strehlke được phát treo cổ lên xà nhà trong gara của mình. có thư tuyệt mệnh, Ramona cũng được nhắc đến, nhưng người láng giềng ông Strehlke rất phiền muộn vì “vài rắc rối mà cậu con trai đầu của ông ta dính dáng vào.”


      “Al dính vào thứ rắc rối gì để ông chán nản đến thế hả?” Tess hỏi màn hình máy tính. “Liệu nó có gì liên quan tới ? Hành hung chăng? Hay lạm dụng tình dục? Hay cậu con quý tử của ông gây ra những chuyện còn tày đình hơn, ngay từ hồi đó? Nếu đó là lý do tại sao ông tự treo cổ mình lên, ông quả là ông bố vô tích .”


      “Có thể ai đó giúp Roscoe,” Fritzy . “Ramona chẳng hạn. người đàn bà to khỏe, biết rồi đấy. Chắc chắn phải biết; gặp bà ta rồi còn gì.”


      lần nữa, nghe nó lại giống với giọng tạo ra khi chuyện chủ yếu với chính mình. sững sờ đưa mắt nhìn Fritzy. Fritzy nhìn lại: đôi mắt xanh lục hỏi ai cơ, tôi á?


      Việc Tess muốn làm là lái xe chạy thẳng tới Lacemaker Lane với khẩu súng để trong xắc tay. Việc nên làm là chấm dứt trò đóng vai thám tử này và gọi điện cho cảnh sát. Hãy để cho họ xử lý tất cả. Đó là điều Tess Cũ hẳn làm, song còn là người phụ nữ đó nữa. Người phụ nữ đó với giờ đây giống như người họ hàng xa, kiểu họ hàng bạn chỉ gửi thiếp chúc mừng vào Lễ Giáng Sinh rồi quên bẵng trong suốt cả năm.


      Bởi vì thể đến quyết định - và cũng vì thấy đau khắp người - bèn leo lên lầu và quay trở lại giường. ngủ thiếp bốn giờ liền và khi tỉnh giấc gần như cứng đơ người lại nổi. uống hai viên Tylenol[41] hàm lượng cao, đợi cho tới khi chúng giúp cải thiện tình hình, rồi lái xe tới tiệm thuê đĩa Blockbuster. mang theo Máy Vắt Chanh trong xắc. nghĩ từ giờ luôn mang nó theo người những khi lái xe mình.


      tới Blockbuster ngay trước giờ đóng cửa và hỏi bộ phim của Jodie Foster có tên Người phụ nữ can đảm. Cậu nhân viên (có mái tóc màu xanh lục, chiếc ghim băng cài qua bên tai, và chừng mười tám tuổi) mỉm cười đầy khoan dung và với thực ra bộ phim có tên là Người dũng cảm. Quý ông Sành điệu với rằng nếu trả thêm năm mươi cent, có thể có kèm thêm túi bỏng ngô quay trong lò vi sóng. Tess định trả lời là , nhưng rồi lại nghĩ lại. “Quái , tại sao lại chứ?”, hỏi Quý ông Sành điệu. “Người ta chỉ sống có lần thôi, phải nào?”


      Cậu thanh niên nhìn ngỡ ngàng như muốn xem xét lại, rồi mỉm cười và đồng ý rằng đó là trường hợp chỉ đến lần trong đời với khách hàng.


      Về đến nhà, cho bỏng ngô vào lò vi sóng, cho đĩa DVD vào đầu đọc, và ngồi xuống trường kỷ với cái gối đặt sau lưng để đỡ lấy chỗ vết xước dài. Fritzy tới ngồi cạnh và cả hai cùng theo dõi Jodie Foster truy đuổi những gã đàn ông (đám du côn, giống như trong câu mày có thấy may mắn , đồ du côn) giết hại bạn trai ta. Foster hạ thủ đủ loại du côn đường báo thù của mình, và dùng khẩu súng ngắn để làm việc đó. Người dũng cảm thực đúng là bộ phim kiểu đó, nhưng dẫu vậy Tess vẫn thích thú theo dõi nó. cảm thấy bộ phim hoàn toàn hợp lý. cũng nghĩ mình thiếu vắng thứ gì đó trong suốt những năm vừa qua; cảm giác hồi hộp thầm nhưng rất mà những bộ phim như Người dũng cảm đem tới. Khi bộ phim kết thúc, quay sang Fritzy và , “Tao ước gì Richard Widmark gặp phải Jodie Foster thay vì bà lão ngồi xe đẩy, mày có nghĩ vậy ?”


      Fritzy đồng ý cả nghìn phần trăm.





      .30.

      Nằm dài giường tối hôm ấy với cơn gió tháng Mười rú rít như tiếng hồn ma hờn khóc quanh nhà và Fritzy ở bên cạnh , người khoanh tròn, Tess đưa ra thỏa thuận với chính mình: nếu sáng mai tỉnh giấc với cảm giác như lúc này, tới gặp Ramona Norville, và có thể sau Ramona - phụ thuộc vào tình hình diễn biến ra sao tại Lacemaker Lane - dành cho “Lái Xe Bự” Alvin Strethke cuộc ghé thăm. Nhiều khả năng hơn, tỉnh dậy với sáng suốt được phục hồi hoàn toàn và gọi điện cho cảnh sát. Và phải là cuộc gọi nặc danh; sẵn sàng đối đầu với màn ầm ĩ sau đó. Chứng minh mình bị cưỡng dâm sau bốn mươi giờ đồng hồ và có Chúa mới biết bao nhiêu lượt tắm hoa sen trôi qua kể từ khi việc xảy ra có thể khó khăn, song những dấu vết của bạo lực tình dục vẫn còn in khắp cơ thể .


      Và còn những người phụ nữ trong ống cống nữa: chính là luật sư của họ, dù muốn hay .


      Ngày mai, tất cả những ý tưởng báo thù này trở nên ngớ ngẩn với mình. Giống như những ảo giác người ta vẫn có khi bị ốm và sốt cao.


      Nhưng khi tỉnh giấc vào sáng Chủ nhật, vẫn còn nguyên vẹn ở phiên bản Tess Mới. nhìn sang khẩu súng để bàn đầu giường và nghĩ, mình muốn dùng nó. Mình muốn tự thân giải quyết chuyện này, và tính đến những gì xảy ra, mình đáng được tự thân giải quyết nó.


      “Nhưng tao cần tìm hiểu chắc chắn, và tao muốn bị bắt” với Fritzy, lúc này đứng dậy duỗi dài người ra, chuẩn bị cho ngày vất vả nằm dài quanh nhà và nhai nuốt các bữa ăn từ cái bát của chàng.


      Tess tắm dưới vòi hoa sen, mặc quần áo vào, rồi cầm theo tập giấy ghi chú màu vàng ra ngoài khoảng hiên hứng nắng. nhìn chằm chằm ra bãi cỏ sau nhà mình trong gần mười lăm phút, thỉnh thoảng lại nhấp ngụm trà nguội. Cuối cùng, ghi ĐỂ BỊ BẮT lên đầu trang giấy ghi chú đầu tiên. cẩn thận cân nhắc, rồi bắt đầu viết xuống các ghi chú. Giống như với công việc hàng ngày khi viết cuốn sách, khởi đầu chậm rãi, nhưng sau đó nhanh chóng tăng tốc.





      .31.

      Đến mười giờ đói ngấu. nấu cho mình bữa sáng gộp luôn bữa trưa đầy ụ, và ăn ngấu nghiến tới miếng cuối cùng. Sau đó, mang đĩa phim trả lại cho tiệm Blockbuster và hỏi xem họ có đĩa Nụ hôn của Cái chết . Họ có, nhưng sau mười phút tìm kiếm, lựa chọn bộ phim thay thế có tựa đề Ngôi nhà cuối cùng bên trái. mang đĩa phim về nhà và chăm chú ngồi xem. Trong phim, mấy gã đàn ông cưỡng bức trẻ và để mặc lại như chết. Câu chuyện giống những gì xảy đến với Tess tới mức bật khóc, và khóc thành tiếng to đến mức Fritzy cuống cuồng bỏ chạy ra khỏi phòng. Nhưng vẫn tiếp tục kiên trì theo dõi tiếp bộ phim và được tưởng thưởng bằng đoạn kết hài lòng: bố mẹ trẻ lần lượt giết hết những kẻ cưỡng dâm.


      cất chiếc đĩa trở lại vỏ đựng để mặt bàn ngoài lối . trả lại chiếc đĩa vào ngày mai, nếu ngày mai vẫn còn sống. dự kiến là vậy, song chẳng có gì chắc chắn hết; có quá nhiều biến cố kỳ lạ và những ngã rẽ khúc khuỷu khi người ta bước con đường đầy hiểm họa khó lường của cuộc đời. Tess tự khám phá ra điều này cho bản thân .


      Để giết thời gian - những giờ khắc ban ngày dường như trôi qua quá chậm chạp - lại lên mạng, tìm kiếm thông tin có liên quan tới quãng đời của gã Al Strehlke phiền phức trước khi ông bố gã tự sát. chẳng tìm thấy gì. Rất có thể láng giềng xung quanh cũng chỉ dựng chuyện bừa (nhiều khi những người láng giềng vẫn như thế), nhưng Tess có thể nghĩ tới khả năng nữa: rắc rối nọ xảy ra khi Strethke chưa đến tuổi trưởng thành. Trong những trường hợp như thế, tên của bị can bị tiết lộ ra với báo chí và các hồ sơ biên bản của tòa án (nếu giả thiết rằng vụ này nghiêm trọng tới mức phải ra tòa) đều được bảo mật.


      “Nhưng có thể ta còn gây ra chuyện tệ hại hơn” với Fritzy.


      “Những gã đó quả tình cũng hay trở nên tệ hại hơn” Fritzy tán đồng. ( việc hiếm có: Tom vẫn thường là người tán đồng. Còn Fritzy thường sắm vai biện hộ cho kẻ xấu.)


      “Và sau đó, vài năm sau, chuyện khác xảy ra. Chuyện gì đó rất nghiêm trọng. Có thể bà mẹ giúp che đậy...”


      “Đừng quên gã em trai nữa” Fritzy . “Lester. Có thể gã này cũng can dự vào đó.”


      “Đừng có lẫn lộn tao với quá nhiều nhân vật như thế, Fritz. Tất cả những gì tao biết là Al Lái Xe Bự Chết Tiệt cưỡng bức tao, và mẹ có thể là trợ thủ. Với tao, thế là đủ.”


      “Có thế Ramona là của ” Fritzy lý luận.


      “Ôi, câm mồm ,” Tess , và Fritzy làm theo.





      .32.

      ngả lưng nằm xuống lúc bốn giờ, trông đợi ngủ giấc, song cơ thể bình phục của lại có những ưu tiên riêng của nó. thiếp gần như ngay lập tức, và khi tỉnh dậy vì tiếng dah-dah-dah dai dẳng của chiếc đồng hồ để bên giường, lấy làm mừng vì để chuông báo thức. Bên ngoài, cơn gió tháng Mười hây hây vặt trụi lá từ các thân cây và rải chúng xuống khắp sân sau nhà thành những mảng chấm phá đầy màu sắc. Ánh sáng chuyển sang gam màu vàng kỳ lạ có chiều sâu dường như là sở hữu đặc thù của những buổi chiều cuối thu vùng New England.


      Mũi của khá hơn - cơn đau dữ dội ở đó giờ giảm xuống chỉ còn là cảm giác rần rật ỉ - song cổ họng của vẫn còn đau rát, và dường như tập tễnh lết thay vì bước khi di chuyển tới phòng tắm. bước vào dưới vòi hoa sen và đứng đó cho tới khi cả phòng tắm chìm trong làn sương mờ ảo như cánh đồng hoang nước trong câu chuyện về Sherlock Holmes. Tắm dưới vòi hoa sen quả là hữu ích. Thêm hai viên Tylenol nữa từ trong tủ thuốc hẳn còn hữu ích hơn nữa.


      lau khô tóc, rồi dọn dẹp lấy khoảng quang đãng bề mặt chiếc gương. Người phụ nữ trong gương nhìn lại với đôi mắt đầy thịnh nộ và tỉnh táo. Mặt gương được lâu, nhưng cũng đủ lâu để Tess nhận ra thực muốn báo thù, bất chấp hậu quả ra sao.


      mặc lên người chiếc áo len cổ lọ màu đen và cái quần đen ống rộng có túi to ngoài ống quần. buộc tóc túm lại, rồi dội lên đầu chiếc mũ lưỡi trai rộng màu đen. Búi tóc làm chiếc mũ hơi phồng lên ở phía sau, nhưng ít nhất có nhân chứng tiềm năng nào có thể , tôi nhìn được lắm khuôn mặt ta, nhưng ta có mái tóc vàng để dài. Nó được buộc túm ra sau gáy bằng sợi dây buộc tóc. Các vị biết đấy, thứ các vị có thể mua ở JCPenney.


      xuống tầng hầm, nơi chiếc xuồng kayak của được cất từ ngày Lễ Lao Động, và với lấy cuộn dây buộc thuyền màu vàng từ chiếc giá phía nó xuống. dùng chiếc kéo xén cây cắt ra đoạn dài bốn foot[42], cuộn nó quanh cánh tay, rồi nhét vòng dây được cuộn lại vào trong những chiếc túi to bên ngoài ống quần. Quay trở lên bếp, nhét con dao Quân đội Thụy Sĩ của mình vào cùng túi quần - bên trái. Túi bên phải được dành cho khẩu Máy Vắt Chanh.38... và món đồ khác, mà lấy ra từ trong ngăn kéo ngay cạnh bếp. Sau đó, xúc ra bát khẩu phần đúp cho Fritzy, nhưng trước khi để nó bắt đầu ăn, bế con mèo lên nựng và hôn lên đỉnh đầu nó. Con mèo già cụp hai tai xuống (nhiều khả năng vì ngạc nhiên hơn là do khó chịu; thông thường phải là bà chủ hay ban phát những cái hôn) và hối hả tìm tới đĩa thức ăn của mình ngay khi đặt nó xuống.


      “Hãy ăn chỗ cuối này ,” Tess với nó. “Cuối cùng rồi thế nào Patsy cũng qua coi xem tình hình mày ra sao nếu tao quay về, nhưng chắc phải mất vài ngày đấy.” khẽ mỉm cười và thêm, “Tao mày, đồ già cả lôi thôi.”


      “Phải, phải” Fritzy , rồi bận rộn với việc ăn cật lực.


      Tess kiểm tra bản ghi chú ĐỂ BỊ BẮT của thêm lần nữa, kiểm kê lại trong đầu các món đồ cần thiết trong khi đọc, lướt qua từng bước dự định tiến hành khi tới Lacemaker Lane. nghĩ điều quan trọng nhất cần ghi nhớ trong đầu là mọi chuyện diễn ra đúng như hy vọng. Khi bắt tay vào những việc như thế này, luôn có những biến cố ngoài dự kiến chờ đợi. Ramona có thể có ở nhà. Hoặc có thể bà ta có nhà, nhưng lại cùng với gã con trai là hung thủ cưỡng dâm của bà ta, cả hai hào hứng ngồi trong phòng khách xem thứ gì đó kiểu như loại có thể thuê được từ Blockbuster. Saw[43] chẳng hạn. Gã em trai - chắc hẳn được biết tới ở Colewich dưới cái tên Lái Xe Bé - có khi cũng có mặt ở đó. Từ những gì Tess biết, nhiều khả năng tối nay Ramona tổ chức buổi tiệc Tuppenvare[44] hay buổi đọc sách nhóm. Điều quan trọng là được để những diễn biến ngoài dự kiến làm bối rối. Nếu thể tùy cơ ứng biến, Tess nghĩ rất có khả năng đây thực là lần cuối cùng rời khỏi ngôi nhà của mình tại Stoke Village.


      mang tập ghi chú ĐỂ BỊ BẮT vào đốt trong lò sưởi, dùng que cời lò dầm nát tro ra, sau đó mặc lên người chiếc áo khoác da và xỏ vào tay đôi găng da mỏng. Bên vạt chiếc áo khoác có túi áo rất sâu, Tess nhét trong những con dao thái thịt của vào trong đó, chỉ để lấy may, rồi tự nhủ đừng có quên nó ở trong đó. nhát dao chẳng may đâm vào ngực quả là thứ cuối cùng cần đến vào dịp cuối tuần này.


      Trước khi bước ra khỏi cửa, bật hệ thống báo động lên.


      Gió lập tức bao quanh , đập phần phật vào cổ áo khoác và hai ống quần. Lá rụng quay vòng thành những vòi rồng . bầu trời -u-ám-lắm nằm phía mảnh ngoại ô Connecticut bé trang nhã này, những đám mây lướt qua phía trước mặt trăng đầy được ba phần tư. Tess nghĩ đó quả là đêm tuyệt đẹp cho bộ phim kinh dị.


      ngồi vào trong chiếc Expedition của mình, rồi đóng cửa lại. chiếc lá bị gió cuốn đập vào trước kính chắn gió, rồi lại bị thổi bay . “Mình đánh mất tỉnh táo” với giọng dửng dưng. “Nó rơi ra và chết ngóm trong cái ống cống đó, hoặc trong khi mình bước lang thang quanh cửa hàng. Chẳng còn cách giải thích nào khác.”


      nổ máy. Tom, chàng Tomtom, lập tức bật sáng và , “Xin chào, Tess. Tôi thấy chúng ta thực chuyến .”


      “Đúng vậy đấy, bạn.” Tess cúi người ra trước, nhập địa chỉ cần lập chương trình, đường 75 Lacemaker Lane, vào cái đầu cơ khí bé ngăn nắp của Tom.





      .33.

      kiểm tra trước về hàng xóm láng giềng của Ramona qua Google Earth[45] và trông mọi thứ hệt như vậy khi tới nơi. Cho đến lúc này, vậy là ổn. Brewster là thị trấn ở New England, và Lacemaker Lane nằm ở khu ngoại ô, nơi này các ngôi nhà nằm cách nhau rất xa. Tess lái xe quá số nhà 75 ở tốc độ ru ngủ hai mươi dặm giờ, xác định được đèn trong nhà vẫn bặt sáng và chỉ có chiếc xe duy nhất - chiếc Subaru đời cũ gần như lớn tiếng thừa nhận chủ nhân của nó là thủ thư - đỗ ngoài ngôi nhà. thấy bóng dáng của chiếc Pete đầu bằng hay bất cứ loại xe tải cỡ lớn nào khác. Cũng chẳng có chiếc bán tải cũ rích có trét Bondo nào.


      Con phố kết thúc bằng khúc quẹo vòng trở lại. Tess lái xe theo khúc quẹo đó, quay lại, rẽ vào lối xe dẫn tới nhà Norville mà cho mình bất cứ cơ hội nào để do dự. tắt đèn pha, tắt máy, rồi hít hơi sâu.


      “Quay lại an toàn nhé, Tess,” Tom lên tiếng từ chỗ của nó bảng điều khiển. “Quay lại an toàn và tôi chỉ đường cho tới điểm dừng tiếp theo.”


      “Tôi làm tốt nhất có thể.” cầm lấy tập giấy ghi chú màu vàng (lúc này có gì được ghi đó) và ra khỏi xe. giữ lấy tập giấy trước áo khoác trong lúc bước tới cửa nhà Ramona. Cái bóng dưới ánh trăng của - có lẽ là tất cả những gì còn lại của Tess Cũ - bước theo sau .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      .34.

      Cửa trước ngôi nhà của Ramona có những dải kính xiên chéo ở hai bên rìa. Những miếng kính rất dày và làm góc nhìn bị méo mó , song Tess có thể nhận ra thứ giấy dán tường rất đẹp và lối có sàn lát ván gỗ bóng lộn. Có cái bàn với vài cuốn tạp chí để mặt. Mà cũng có thể đó là những tập ca ta lô. Ở cuối lối căn phòng lớn. Từ trong đó vọng ra thanh của chiếc tivi. nghe thấy tiếng hát, vậy là nhiều khả năng phải Ramona xem Saw. Thực ra - nếu Tess đoán đúng và bài hát đó là bài Trèo lên mọi ngọn núi - Ramona xem Những giai điệu hạnh phúc.


      Tess bấm chuông cửa. Từ trong nhà vang lên hòa của những chiếc chuông chùm nghe giống như những nốt dạo đầu của “Dixie[46]”- lựa chọn kỳ lạ cho New England, nhưng vậy đấy, nếu Tess suy đoán đúng về bà ta, Ramona Norville là phụ nữ lạ lùng.


      Tess nghe thấy tiếng bước chân nặng nề vang lên và xoay người nửa vòng, vậy là ánh sáng chiếu qua những vạt kính chỉ có thể làm hé lộ chút ít khuôn mặt . hạ tập giấy ghi chú vẫn trắng nguyên xuống khỏi ngực và làm cử chỉ như viết với bàn tay đeo găng. hơi cúi hai vai xuống. phụ nữ thực cuộc điều tra nào đó. Lúc này là tối Chủ nhật, rất mệt, tất cả những gì muốn là tìm hiểu tên loại thuốc đánh răng ưa thích của bà chủ nhà (hoặc liệu bà ta có được hình Hoàng tử Albert vỏ lon ) rồi sau đó quay về nhà.


      Đừng lo, Ramona, bà có thể mở cửa, ai cũng có thể thấy tôi hoàn toàn vô hại, người phụ nữ chẳng bao giờ đánh chó trêu mèo.


      Từ khóe mắt, thoáng nhìn thấy khuôn mặt méo mó biến dạng xuất đằng sau những vạt kính.


      khoảng im lặng dường như kéo dài rất lâu, rồi sau đó Ramona Norville mở cửa. “Vâng? Tôi có thể giúp g...”


      Tess quay người lại. Ánh sáng hắt ra qua khung cửa mở rọi thẳng lên khuôn mặt . Và vẻ sững sờ choáng váng khuôn mặt Norville, thứ cơn sốc làm người ta há hốc mồm ra kinh hoàng, cho biết tất cả những gì cần biết.


      ? làm gì ở đ...”


      Tess rút Máy Vắt Chanh.38 ra khỏi túi trước bên phải của . đường lái xe tới từ Stoke Village, hình dung ra nó bị mắc kẹt lại trong túi - hình dung ra với ràng chi tiết của cơn ác mộng - song thực tế khẩu súng được rút ra trơn tru.


      “Lùi vào trong. Nếu bà tìm cách đóng cửa, tôi bắn bà.”


      dám đâu,” Norville . Bà ta lùi lại, nhưng cũng đóng cửa. “ điên rồi phải ?”


      vào trong.”


      Norville mặc chiếc áo khoác ở nhà rất to màu xanh, và khi Tess thấy vạt áo trước dâng lên rất nhanh, lập tức giơ súng lên. “Chỉ cần bà định kêu lên, tôi bắn. Tốt hơn bà nên tin tôi, đồ chó cái, bởi vì phải tôi đùa.”


      Khuôn ngực đồ sộ của Norville xẹp xuống. Đôi môi bà ta nhếch lên để lộ hai hàm răng, hai con mắt ngừng đảo qua đảo lại trong hốc mắt. Bà ta giờ trông còn giống thủ thư, và cũng hề có vẻ hồ hởi chào mời. Với Tess, bà ta trông giống như con chuột bị bắt quả tang ở ngoài hang.


      “Nếu bắn, cả khu vực xung quanh nghe thấy.”


      Tess lấy làm nghi ngờ điều đó, song cũng tranh luận. “Điều đó chẳng mấy quan trọng với bà, vì lúc ấy bà chết rồi. vào trong. Nếu bà cư xử đúng mực và trả lời các câu hỏi của tôi, có thể bà vẫn còn cơ hội được sống vào sáng mai.”


      Norville lùi vào trong, và Tess bước vào qua khung cửa mở rộng với khẩu súng giơ thẳng phía trước. Ngay khi đóng cửa lại - bằng cách dùng chân gạt - Norville thôi lùi tiếp nữa. Bà ta đứng cạnh cái bàn có mấy cuốn tạp chí mặt.


      nhặt, ném,” Tess , và qua đôi môi vừa mím chặt lại của người phụ nữ kia, có thể thấy ý tưởng nhặt tạp chí lên để ném vào quả thực vừa thoáng qua trong đầu Ramona. “Tôi guốc trong bụng bà rồi. Nếu tại sao tôi lại ở đây? Tiếp tục lùi lại. Lùi thẳng vào trong phòng khách. Tôi rất thích gia đình Trapp[47] khi họ thực hào hứng.”


      điên mất rồi,” Ramona , nhưng bà ta lại tiếp tục lùi lại. Chân bà ta giày. Ngay cả khi mặc áo khoác trong nhà, bà ta vẫn đôi giày to tướng xấu xí. Giày đàn ông. “Tôi biết làm gì ở đây, nhưng...”


      “Đừng giỡn mặt tôi, Mẹ Quý. Đừng cả gan làm thế. Tất cả mặt bà khi bà ra mở cửa. Tất cả. Bà nghĩ tôi chết, phải nào?”


      “Tôi biết ...”


      “Chỉ có đàn bà chúng ta với nhau, vậy sao trắng ra ?”


      Lúc này, họ ở trong phòng khách. tường có treo những bức tranh ủy mị - những chú hề, những đứa trẻ bơ vơ với đôi mắt mở to - cùng rất nhiều giá và bàn để chật ních những món đồ trang trí rẻ tiền: quả cầu thủy tinh có thể lắc làm tuyết rơi, tượng trẻ con ngộ nghĩnh, những hình nhân bằng sứ Hummel[48] những chú gấu Care Bear[49], mô hình ngôi nhà bánh kẹo trong chuyện Hansel và Gretel[50] bằng sứ. Mặc dù Norville là thủ thư, nhưng hề có bóng dáng của cuốn sách nào diện. Đối diện với chiếc tivi là chiếc ghế xô pha hiệu La-Z-Boy, trước ghế có kê gối quỳ. Bên cạnh cái ghế là chiếc bàn để các món đồ cần thiết khi ngồi xem tivi. đó có túi Cheez Doodles[51], chai Diet Coke[52] to, cái điều khiển từ xa và cuốn TV Guide[53]. nóc tivi có bức ảnh lồng trong khung chụp Ramona cùng phụ nữ khác với hai cánh tay lồng vào nhau, má kề má. Có vẻ như bức ảnh được chụp trong khu công viên giải trí hay khu hội chợ. Trước bức ảnh là đĩa thủy tinh đựng kẹo lấp lánh nhờ những chấm sáng phía dưới phần mặt đĩa ở .


      “Bà làm chuyện đó bao lâu rồi?”


      “Tôi biết về cái gì.”


      “Bà tiếp tay cho đứa con trai hiếp dâm giết người của bà được bao lâu rồi?”


      Norville chớp mắt, nhưng lần nữa bà ta lại chối... tình thế đặt ra cho Tess rắc rối. Khi tới đây, giết Ramona Norville dường như chỉ là lựa chọn mà là kết quả nhiều khả năng xảy ra nhất. Tess gần như chắc chắn có thể làm thế, và cuộn dây buộc thuyền bên túi quần trước bên trái của phải dùng đến. Tuy nhiên, giờ đây nhận ra mình thể ra tay trừ khi người đàn bà kia thừa nhận vai trò đồng lõa của bà ta. Bởi vì những gì khuôn mặt bà ta khi bà ta trông thấy Tess đứng trước cửa nhà mình, tuy bầm dập nhưng vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, là chưa đủ.


      Còn xa mới đủ.


      “Việc đó bắt đầu khi nào? Lúc đó con trai bà bao nhiêu tuổi? Mười lăm? Có phải rằng “chỉ quậy chút” ? Đó là điều rất nhiều kẻ như từng khi chúng mới bắt đầu.”


      “Tôi biết ý là gì. tới thư viện và thực cuộc chuyện hoàn toàn chấp nhận được - nhạt nhẽo, hiển nhiên chỉ tới đó vì tiền, nhưng ít nhất điều đó cũng cho phép hoàn thành thời gian biểu lịch của chúng tôi - và điều tiếp theo tôi biết là đứng trước cửa nhà tôi, chĩa khẩu súng vào tôi và thực đủ trò điên rồ...”


      ăn thua gì đâu, Ramona. Tôi thấy ảnh của trang web của Red Hawk. Chiếc nhẫn và mọi thứ khác. cưỡng hiếp tôi và định giết tôi. nghĩ giết được tôi. Và bà gửi tôi tới cho .”


      Miệng Norville há hốc, kết quả từ hỗn hợp khủng khiếp của sốc, hốt hoảng và cảm giác tội lỗi. “ đúng thế! Đồ ngu ngốc đáng ghét, biết về cái gì đâu!” Bà ta bắt đầu nhô người ra trước.


      Tess giơ súng lên. “Nào nào, đừng có làm thế. .”


      Norville dừng lại, song Tess nghĩ bà ta dừng lại lâu. Bà ta suy nghĩ xem nên tấn công hay bỏ chạy. Và bởi vì bà ta hẳn phải biết Tess đuổi theo nếu bà ta cố chạy sâu hơn vào trong nhà, nhiều khả năng là tấn công.


      Gia đình Trapp lại hát. Nếu tính tới hoàn cảnh Tess lâm vào - mà đẩy mình vào - tất cả những bài đồng ca hạnh phúc đó khiến người ta muốn phát điên. Giữ Máy Vắt Chanh chĩa thẳng vào Norville với bàn tay phải, Tess dùng tay trái cầm điều khiển từ xa lên tắt tiếng tivi . định đặt cái điều khiển xuống, rồi bỗng sững lại. Có hai thứ đặt nóc tivi, nhưng khi đưa mắt nhìn qua lần đầu, chỉ chú ý tới bức ảnh chụp Ramona cùng bạn của bà ta; cái đĩa đựng kẹo chỉ được dành cho cái liếc mắt thoáng qua.


      Lúc này, nhận ra những tia sáng lúc trước đoán xuất phát từ bên thành thủy tinh được cắt trổ của chiếc đĩa thậm chí còn xuất phát từ thành đĩa. Chúng tới từ vật gì đó nằm bên trong. Đôi hoa tai của ở trong đĩa. Đôi hoa tai kim cương của .


      Norville vớ lấy ngôi nhà bánh kẹo bằng sứ giá và ném thẳng nó vào . Bà ta ném mạnh. Tess cúi đầu xuống, ngôi nhà bay vèo qua cách phía đầu inch, đập vào bức tường sau lưng vỡ tan tành. lùi lại, vấp phải chiếc gối quỳ, và ngã ngửa ra sàn. Khẩu súng tuột khỏi bàn tay .


      Cả hai người phụ nữ đều lao tới khẩu súng, Norville sụp người xuống hai đầu gối, thúc vai vào cánh tay và vai Tess như cú huých trong môn bóng đá nhằm đánh bại tiền vệ đối phương. Bà ta vồ lấy khẩu súng, thoạt đầu lúng túng như thể tung hứng với nó, rồi sau đó cũng cầm chắc được. Tess thò tay vào trong áo khoác và nắm bàn tay quanh cán con dao thái thịt vốn là phương án dự phòng của , ý thức được sắp hành động quá trễ. Norville quá to con... và có bản năng mẫu tử quá mạnh mẽ. Phải, đúng thế. Bà ta che chở cho gã con trai đốn mạt của mình suốt bao năm qua, và lúc này cũng tiếp tục có ý định bao che cho . Đáng ra Tess nên bắn bà ta ngay ngoài lối , ngay khi cánh cửa khép lại sau lưng .


      Nhưng mình thể, nghĩ, và thậm chí ngay cả vào khoảnh khắc này, biết rằng đó là đem đến ít nhiều an ủi. nhổm dậy hai đầu gối, bàn tay vẫn đút vào trong áo khoác, đối mặt với Ramona Norville.


      “Mày là con nhà văn thối tha, và mày cũng là diễn giả khách mời thối tha,” Norville . Bà ta mỉm cười, mỗi lúc nhanh hơn. Giọng của bà ta có hưởng giọng mũi của người điều khiển đấu giá. “Mày õng ẹo trong buổi chuyện cũng đúng như cách mày õng ẹo trong những cuốn sách ngu ngốc của mày. Mày đúng là hoàn hảo cho nó, và nó làm chuyện ấy với ai đó, tao biết các dấu hiệu. Tao chỉ cho mày theo con đường đó, mọi thứ diễn ra hoàn hảo, và tao lấy làm mừng nó đ... mày. Tao biết mày nghĩ mày sắp làm gì khi mò đến đây, nhưng đây là thứ mày nhận được.”


      Bà ta siết cò, và có gì xảy ra ngoài tiếng cạch khô khan. Tess nhận được các bài học khi mua súng, và bài học quan trọng nhất là cho viên đạn nào vào buồng đạn đầu tiên kim hỏa đập vào. Để đề phòng trường hợp cướp cò tình cờ.


      phản ứng kinh ngạc gần như hài hước lên khuôn mặt Norville. Nó khiến bà ta trẻ trung trở lại. Bà ta cúi xuống nhìn khẩu súng, và khi bà ta làm vậy, Tess rút con dao ra khỏi túi áo khoác, nhào người tới trước, và đâm nó lút tới cán vào bụng Norville.


      Bà ta bật ra thanh vô hồn “OOO - OOOO”, như thể cố gắng thét lên nhưng thành tiếng. Khẩu súng ngắn của Tess rơi xuống, và Ramona loạng choạng lùi lại tựa vào tường, cúi mặt nhìn xuống cán dao. cánh tay vung lên quờ quạng đập vào dãy hình nhân Hummel. Chúng rơi khỏi giá, đập xuống sàn vỡ tan tành. Bà ta lại phát ra thanh “OOO - OOOO” đó lần nữa. Vạt trước chiếc áo mặc trong nhà vẫn chưa dính máu, nhưng máu bắt đầu chảy xuống bên dưới gấu áo, chảy lên đôi giày đàn ông của Ramona Norville. Bà ta đưa hai bàn tay lên nắm lấy cán con dao, cố gắng rút nó ra, và bật ra thanh “OOO - OOO” lần thứ ba.


      Bà ta ngước mắt lên nhìn Tess, như thể tin nổi. Tess nhìn lại. vẫn còn nhớ việc xảy ra vào ngày sinh nhật thứ mười của mình. Bố tặng chiếc súng cao su, và ra ngoài tìm mục tiêu để sử dụng. Sau hồi tìm kiếm, khi ở cách nhà mình chừng năm hay sáu khối nhà, nhìn thấy con chó hoang có vành tai rách tướp rúc đầu vào thùng rác. mắc viên đá vào súng cao su của mình và bắn vào nó, chỉ muốn dọa cho con chó sợ mà bỏ chạy (hay đó là những gì tự nhủ với bản thân), nhưng thay vì thế lại bắn trúng vào mông nó. Con chó bật lên tràng ách ách ách thảm thương và bỏ chạy, nhưng trước khi chạy , nó ném về phía Tess cái nhìn đầy oán trách mà bao giờ quên được. hẳn sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để rút lại phát bắn ngẫu hứng đó, và sau đó bao giờ dùng chiếc súng cao su của mình bắn vào sinh vật sống nào khác. hiểu giết là phần của cuộc sống - hề cảm thấy chút ân hận nào khi đập muỗi, đặt bẫy khi phát thấy phân chuột dưới tầng hầm, và ăn ít suất Mickey D’s Quarter Pounders[54] - nhưng khi đó tin bao giờ lại có thể gây đau đớn cho sinh vật nào như làm với con chó mà cảm thấy ân hận hay hối tiếc. Nhưng phải chịu đựng cảm xúc nào như thế trong phòng khách của ngôi nhà tại Lacemaker Lane. Có lẽ vì cho cùng đó là hành động tự vệ. Mà cũng có thể phải là vậy.”


      “Ramona” , “ngay lúc này tôi cảm thấy ít nhiều quan hệ gần gũi với Richard Widmark. Đây là cách chúng tôi xử trí những kẻ chỉ điểm, bà bạn thân mến.”


      Norville đứng trong vũng máu của chính mình, và chiếc áo khoác mặc trong nhà của bà ta cuối cùng cũng bắt đầu loang lổ vết máu. Khuôn mặt bà ta tái nhợt. Đôi mắt sẫm màu của bà ta mở to, lấp lánh trong cơn sốc. Lưỡi bà ta thè ra, chậm chạp liếm môi dưới.


      “Giờ bà có thể có thời gian dài cựa quậy trở mình mà nghĩ ngợi - làm sao có thể vậy chứ?”


      Norville bắt đầu trượt . Đôi giày đàn ông của bà ta kêu ken két máu. Bà ta chộp lấy cái giá khác và kéo nó rời ra khỏi tường. Cả trung đội Care Bear đổ nhào ra trước tự sát tập thể.


      Mặc dù hề cảm thấy ân hận hay hối tiếc, Tess nhận ra, bất chấp những lời đao to búa lớn của mình, hầu như chẳng có mấy tố chất của Tommy Udo[55]; hề cảm thấy thôi thúc muốn chứng kiến hay kéo dài nỗi thống khổ của Norville. cúi xuống, nhặt khẩu.38 lên. Từ trong túi quần trước bên phải, lấy ra món đồ vật cầm theo từ trong ngăn kéo cạnh bếp. Đó là chiếc găng tay đệm bông dùng để lấy đồ trong lò ra. Nó cho phép giảm thanh phát súng ngắn duy nhất khá hiệu quả, với điều kiện cỡ nòng quá lớn. học được điều này trong lúc viết cuốn Hội đan lát Willow Grove chuyến hải hành bí hiểm.


      hiểu đâu.” Giọng của Norville trở thành tiếng thào khàn khàn. “ thể làm thế này. Đây là sai lầm. Hãy đưa tôi tới... bệnh viện.”


      “Sai lầm là của bà.” Tess áp chiếc găng tay lên khẩu súng cầm bàn tay phải. “Đó là việc bà cho thiến ngay con trai bà ngay khi bà phát ra là kẻ như thế nào.” ấn chiếc găng tay vào thái dương Norville, khẽ hất đầu bà ta sang bên, rồi siết cò. Có tiếng pặc trầm trầm, dứt khoát vang lên, giống như tiếng người đàn ông to lớn đằng hắng trong họng.


      Tất cả chỉ có vậy.





      .35.

      tìm kiếm địa chỉ nhà Al Strehlke Google; trông đợi biết được nó từ Norville. Nhưng, đúng như nhắc nhở mình từ trước, những việc như làm bao giờ diễn ra theo đúng kế hoạch. Điều phải làm lúc này là giữ bình tĩnh và thực việc phải làm đến cùng.


      Phòng làm việc tại nhà của Norville nằm lầu, trong căn phòng có lẽ được thiết kế với mục đích làm phòng ngủ dự phòng. Tại đây cũng lại có thêm nhiều Care Bear và hình nhân sứ Hummel nữa. Ngoài ra cũng có sáu bức ảnh lồng trong khung, nhưng có bức nào là của hai con trai bà ta, bạn , hay ông Roscoe Strehlke vĩ đại quá cố; chúng đều là ảnh chân dung có ký tặng của những tác giả từng tới chuyện tại Brown Baggers. Căn phòng làm Tess nhớ lại phòng chính tại Stagger Inn, với những dãy ảnh của nó.


      Bà ta xin ký tặng ảnh của mình, Tess nghĩ. Tất nhiên là rồi, tại sao bà ta lại muốn phải nhớ tới nhà văn thối tha như mình? Về cơ bản mình chỉ là cái đầu biết để lấp lỗ hổng trong chương trình của bà ta. Chưa đến chuyện là món thịt cho cái chày giã thịt của con trai bà ta. may mắn cho bọn họ là mình đến đúng thời điểm.


      bàn làm việc của Norville, dưới bảng tin, chìm ngập trong đống văn bản và thư tín của thư viện là chiếc máy tính để bàn Mac rất giống của Tess. Màn hình tối đen, nhưng ánh sáng từ CPU cho biết chiếc máy tính chỉ ở trạng thái chờ. dùng đầu ngón tay găng ấn vào phím. Màn hình sáng trở lại, và nhìn vào cửa sổ làm việc điện tử của Norville. cần phải gõ những từ khóa rắc rối, tuyệt làm sao.


      Tess bấm vào biểu tượng sổ địa chỉ, kéo thanh trượt xuống các đầu mục bắt đầu bằng V, và tìm thấy Vận tải Red Hawk. Địa chỉ là số 7 Transport Plaza, Township Road, Colewich. kéo thanh trượt về những đầu mục bắt đầu bằng S, và tìm ra địa chỉ của gã khổng lồ làm quen tối hôm thứ Sáu và em trai của , Lester. Lái Xe Bự và Lái Xe Bé. Cả hai đều sống tại Township Road, gần công ty mà hẳn hai em được thừa hưởng từ ông bố: Alvin ở số nhà 23, Lester tại số nhà 101.


      Nếu có người em trai thứ ba nữa, thầm nghĩ, bọn họ là Ba Chàng Lái Xe Bé . người sống trong ngôi nhà cỏ, người sống trong ngôi nhà gỗ, người sống trong ngôi nhà gạch. Than ôi, tiếc thay chỉ có hai người.


      Xuống trở lại dưới nhà, lấy đôi hoa tai kim cương của mình ra khỏi chiếc đĩa và cho vào trong túi áo khoác. Trong lúc làm vậy, đưa mắt nhìn người đàn bà chết ngồi dựa vào tường. Trong cái nhìn của có chút thương hại nào, chỉ có cảm giác kết thúc mà bất cứ ai cũng có trước công việc khó khăn hoàn thành. cần phải lo lắng về những dấu vết để lại; Tess tự tin rằng lưu lại bất cứ dấu vết nào, cho dù là cọng tóc. Chiếc găng dùng lấy đồ ăn ra khỏi lò - giờ đây có thêm lỗ thủng ở giữa - trở lại nằm gọn trong túi . Con dao là món vật dụng có bán tại các siêu thị khắp nước Mỹ. Theo những gì biết (hay quan tâm), nó hoàn toàn ăn khớp với chính bộ dao của Ramona. Cho tới lúc này vẫn hoàn toàn sạch , song phần khó khăn nhất rất có thể vẫn còn ở phía trước. rời khỏi ngôi nhà, chui vào trong xe và lái . Mười lăm phút sau, dừng xe lại trong bãi đỗ của khu mua bán vắng tanh đủ lâu để nhập địa chỉ lập chương trình đường 23 Township Road, Colewich vào thiết bị GPS của mình.





      .36.

      Nhờ Tom dẫn đường, Tess tới gần đích đến của chỉ sau chín giờ chút. Vầng trăng đầy ba phần tư vẫn còn ở khá thấp bầu trời. Gió thổi mạnh hơn bao giờ hết.


      Township Road là nhánh từ đường US 47 rẽ vào, song phải cách The Stagger Inn ít nhất bảy dặm, và còn cách trung tâm Colewich xa hơn nữa. Transport Plaza nằm ở giao lộ của hai tuyến đường. Theo bảng hướng dẫn, có ba công ty vận tải và công ty chuyển nhà đóng trụ sở tại đây. Khu nhà nơi chúng tọa lạc là những căn nhà tiền chế dáng vẻ xấu xí. Căn nhà nhất thuộc về Vận tải Red Hawk. Tất cả đều tối đen vào đêm Chủ nhật này. Phía sau dãy nhà là bãi đỗ xe rộng mênh mông có rào xung quanh và được chiếu sáng bằng đèn cao áp. Bãi tập kết xe đỗ đầy taxi và xe tải hạng nặng. Ít nhất chiếc xe tải đầu bằng có sơn dòng chữ VẬN TẢI RED HAWK bên sườn, song Tess nghĩ đó là chiếc xe được chụp hình trang web, chiếc xe với Ông Bố Đầy Tự Hào ngồi sau tay lái.


      trạm xăng cho xe tải ở gần bãi tập kết xe. Các cây bơm – phải có đến hơn tá - cũng được đèn cao áp chiếu sáng. quầng sáng huỳnh quang trắng lóa tỏa ra từ bên phải tòa nhà chính; nửa bên trái chìm trong màn đêm. Còn có tòa nhà khác, hình chữ U, ở đằng sau. Vài chiếc xe con và xe tải đỗ rải rác ở đó. Bảng đèn đặt bên đường là màn hình kỹ thuật số lớn, trưng ra những dòng thông tin sáng chói màu đỏ.


      TRẠM XĂNG XE TẢI RICHIE TẠI TOWNSHIP ROAD “BẠN LÁI CHÚNG, CHÚNG TÔI ĐỔ ĐẦY CHO CHÚNG” XĂNG THƯỜNG $2,99/ GALLON[56]


      DIESEL $2,69/GALLON


      VÉ SỔ XỐ MỚI NHẤT LUÔN SẴN CÓ


      NHÀ HÀNG ĐÓNG CỬA CHỦ NHẬT. BUỔI TỐI XIN LỖI CÓ TẮM HOA SEN VÀO CHỦ NHẬT. BUỔI TỐI CỬA HÀNG VÀ NHÀ TRỌ “LUÔN MỞ CỨA”. NHÀ XE DI ĐỘNG “LUÔN ĐƯỢC CHÀO ĐÓN”.


      Ở dưới cùng, lời hô hào viết mấy đúng chính tả nhưng khá khí thế:


      ỦNG HỘ BINH LÍNH CỦA CHÚNG TA!


      CHIẾN THẮNG Ở AFGANDISTAN!


      Với những chiếc xe tải ngừng đến rồi , với những người lái xe tìm đến để nạp đầy cho cả xe lẫn bản thân họ (thậm chí ngay cả khi hệ thống chiếu sáng của nó tắt, Tess cũng có thể đoán chắc khi mở cửa, nhà hàng ở đây hẳn thuộc loại nơi các món bít tết khoai tây chiên, xúc xích và Mom’s Bread Pudding[57] luôn có mặt trong thực đơn), nơi này chắc hẳn là tổ ong nhộn nhịp trong suốt cả tuần, song vào tối Chủ nhật nó vắng như bãi tha ma vì còn gì hoạt động tại đây, cho dù là câu lạc bộ bên đường như The Stagger Inn.


      Chỉ có duy nhất chiếc xe đỗ ở chỗ những cây bơm, quay mặt ra phía ngoài đường, cần bơm cắm vào lỗ nạp xăng. Đó là chiếc bán tải Ford F-150 cũ kỹ với keo Bondo trét quanh hai bên đèn pha. thể nhìn ra màu sơn của nó dưới ánh sáng chói chang, nhưng Tess cần phải làm thế. nhìn cận cảnh chiếc xe đó, và biết màu của nó. Trong xe có ai.


      “Có vẻ như hề ngạc nhiên, Tess,” Tom trong lúc cho xe chạy chậm dần rồi dừng lại bên vệ đường và quay đầu về phía cửa hàng. có thể nhìn ra có vài người ở trong đó, bất chấp việc bị lóa do ánh sáng chói mắt bên ngoài, và có thể thấy người trong số đó rất to con. ta to con hay thực rất to? Betsy Neal hỏi như thế.


      “Tôi hề ngạc nhiên chút nào” . “ sống ở đây. Vậy còn có thể đâu đổ xăng được nữa?”


      “Có thể sửa soạn cho chuyến .”


      “Vào lúc muộn thế này đêm Chủ nhật ư? Tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ ở nhà, xem Những giai điệu hạnh phúc. Tôi nghĩ uống hết sạch bia và mò ra đây mua thêm. quyết định đổ đầy bình xăng trong lúc vào mua bia.”


      “Dẫu vậy, vẫn có thể nhầm. Chẳng phải tốt hơn nên lái xe ra sau cửa hàng và bám theo khi quay về sao?”


      Nhưng Tess muốn làm thế. Mặt trước khu cửa hàng cạnh trạm xăng toàn lắp kính. có thể nhìn ra và thấy khi lái xe vào. Thậm chí nếu ánh sáng chói mắt phía khu cây xăng khiến khó lòng nhận mặt được , rất có thể nhận ra chiếc xe. Có rất nhiều xe SUV[58] mang nhãn hiệu Ford đường, nhưng sau tối thứ Sáu, Al Strehlke hẳn phải rất nhạy cảm với những chiếc Ford Expedition màu đen. Và còn cả biển số đăng ký xe của nữa - chắc chắn nhìn qua biển số Connecticut của hôm thứ Sáu, khi đỗ xe lại cạnh trong bãi đỗ um tùm cỏ dại cạnh khu cửa hàng bỏ hoang.


      Và còn điều khác nữa. điều còn quan trọng hơn. lại cho xe lăn bánh, để lại Trạm xăng xe tải Richie tại Township Road lùi xa dần trong kính chiếu hậu.


      “Tôi muốn ở đằng sau ,” . “Tôi muốn ở phía trước . Tôi muốn đợi sẵn .”


      “Nếu lập gia đình rồi sao, Tess?” Tom hỏi. “ thế nào nếu vợ chờ ở nhà?”


      Ý nghĩ đó làm sững sờ trong giây lát. Sau đó mỉm cười, và phải chỉ vì viên đá chiếc nhẫn duy nhất gã khổng lồ đeo tay quá to để có thể là viên hồng ngọc. “Những gã như có vợ,” . “Nghĩa là có những người phụ nữ cùng sống chung, trong bất cứ trường hợp nào. Chỉ có người đàn bà trong đời Al, và bà ta chết.”





      .37.

      giống như Lacemaker Lane, chẳng có chút màu sắc ngoại ô nào ở Township Road; nơi này cũng đậm chất đồng quê như Travis Tritt[59] vậy. Những ngôi nhà giống như những hòn đảo lập lòe ánh điện dưới ánh sáng của mặt trăng lên.


      “Tess, tới gần điểm đến,” Tom bằng giọng của mình.


      hơi nhổm người dậy, và đằng kia, bên trái hòm thư có ghi STREHLKE và 23. Đoạn đường lái xe vào nhà khá dài, lượn vòng, được rải nhựa nhẵn bóng như bề mặt khối băng đen. Tess rẽ vào chút do dự, nhưng cảm giác sợ hãi lập tức ập xuống ngay khi Township Road ở lại phía sau. phải cố trấn tĩnh để đạp phanh rồi lùi trở lại. Vì nếu tiếp tục tiến lên phía trước, còn lựa chọn nào khác. giống như con bọ bị nhốt trong chai. Và cho dù nếu chưa lập gia đình, thế nào nếu có ai khác ở trong nhà? Cậu em trai Les chẳng hạn? thế nào nếu Lái Xe Bự bận rộn tới cửa hàng mua bia và bánh giòn phải chỉ cho người mà là hai?


      Tess tắt đèn pha, tiếp tục lái xe nhờ vào ánh trăng.


      Trong trạng thái căng thẳng của lúc này, con đường dường như chạy dài mãi mãi, nhưng hẳn mới chỉ vượt qua cùng lắm là phần tám dặm khi nhìn thấy ánh đèn từ ngôi nhà của Strehlke. Nó nằm đỉnh đồi, căn nhà trông có vẻ ngăn nắp, lớn hơn ngôi nhà đồng quê song hơn điền trang. phải là căn nhà gạch, song cũng phải là gian nhà cỏ tồi tàn. Trong câu chuyện về ba chú lợn con và gã sói to xác xấu xa, Tess nghĩ hẳn đây là ngôi nhà gỗ.


      Nằm bên trái ngôi nhà là toa moóc dài, bên sườn có dòng chữ VẬN TẢI RED HAWK. Đỗ ở phía cuối con đường, trước cửa gara, là chiếc Pete đầu bằng trang web. Trông nó giống như bị ma ám dưới ánh trăng. Tess chậm lại khi lái xe tới gần nó, và rồi đột nhiên chìm ngập trong quầng sáng trắng làm lóa mắt, làm sáng bừng cả bãi cỏ lẫn con đường. Đó là cột đèn tự động bật nhờ cảm biến chuyển động, và nếu Strehlke quay về khi nó vẫn bật sáng, có thể thấy ánh sáng của nó từ tận chỗ rẽ ngoài đường vào. Thậm chí ngay từ khi còn ở ngoài Township Road.


      đạp phanh, cảm thấy đúng cảm giác từng mường tượng ra lúc còn là đứa trẻ khi thấy mình ở trường mà có chút quần áo nào người. nghe thấy tiếng người phụ nữ rên lên. đoán chắc đó là mình, nhưng cả thanh và cảm giác nó đem đến đều giống .


      “Chuyện này tốt đâu, Tess.”


      “Im mồm , Tom.”


      có thể quay về bất cứ lúc nào, và biết thiết bị hẹn giờ chiếu sáng cái của quỷ đó kéo dài bao lâu. gặp rắc rối với bà mẹ rồi. còn to con hơn bà ta nhiều.”


      “Tôi bảo im mồm cơ mà.”


      cố suy nghĩ, nhưng thứ ánh sáng chói gắt đó làm việc này khó khăn. Những cái bóng từ chiếc xe tải và toa moóc bên phía tay trái dường như mò tới gần với những ngón tay đen thui sắc nhọn - những ngón tay của con tinh. Cái đèn chết tiệt! Tất nhiên kẻ như phải có cái đèn như thế rồi! cần phải rút lui ngay bây giờ, chỉ cần vòng qua bãi cỏ của và lái xe quay trở ra đường cái nhanh hết mức có thể, nhưng nhiều khả năng chạm trán nếu làm thế. biết vậy. Và khi còn yếu tố bất ngờ, chết.


      Nghĩ, Tessa Jean, nghĩ nào!


      Và, ôi lạy Chúa, như thể để làm cho tình thêm tồi tệ, con chó bắt đầu sủa nhặng lên. Có con chó trong nhà. hình dung ra con chó bun với cái miệng rộng gần hết đầu lởm chởm răng nhọn.


      “Nếu định ở lại, cần tránh ra khỏi tầm nhìn,” Tom ... và , nghe nó giống giọng của . Hay chính xác giống giọng của . Có thể đó là phần thuộc về bản thể sâu thẳm nhất trong , kẻ sống sót. Và cả phần kẻ sát nhân trong nữa. Mỗi con người liệu có thể có bao nhiêu bản thể sâu bên trong bản thân, mà chính người đó cũng hề biết đây? bắt đầu nghĩ con số đó có thể là vô hạn.


      đưa mắt nhìn gương chiếu hậu, cắn vào môi dưới vẫn còn sưng phồng. Chưa có ánh đèn pha nào tới gần. Nhưng làm sao có thể đoán chắc được, nếu tính đến kết hợp lóa mắt giữa ánh trăng và cái đèn mắc dịch kia?


      “Nó tự động tắt theo thời gian đặt sẵn,” Tom , “nhưng tôi làm gì đó trước khi nó tắt, Tess. Nếu di chuyển cái xe sau khi nó tắt, chỉ làm nó bật lên lần nữa.”


      nhấn ga chiếc Expedition, bắt đầu đánh lái để vòng qua chiếc xe tải đầu bằng, rồi dừng lại. Phía đó cỏ mọc rất cao. Trong ánh sáng thương tiếc của cái đèn, thể trông thấy vết bánh xe để lại. Thậm chí nếu cái đèn có tắt, nó cũng sáng trở lại khi lái xe về, và thấy hết.


      Trong nhà, con chó tiếp tục gân cổ lên: Oẳng! Oẳng! Oẳng oẳng oẳng!


      “Lái xe qua bãi cỏ và đỗ nó đằng sau toa moóc,” Tom .


      “Vẫn còn vết bánh xe! Vết bánh xe!”


      cần phải giấu cái xe đâu đó,” Tom lại lên tiếng. chàng với giọng có vẻ biết lỗi nhưng vẫn cương quyết. “Ít nhất phía đó cỏ cũng được cắt ngắn. Phần lớn mọi người đều có khả năng quan sát quá sắc sảo đâu, biết mà. Doreen Marquis luôn thế.”


      “Strehlke phải là quý bà của Hội đan lát, tên bệnh hoạn chết tiệt.”


      Nhưng bởi vì thực còn lựa chọn nào khác - còn nữa, khi giờ đây tìm đến tận chỗ này - Tess lái xe qua bãi cỏ về phía toa moóc dài màu bạc dưới ánh sáng dường như cũng chói chang như ánh mặt trời vào giữa trưa ngày hè. hơi nhổm người dậy khỏi ghế trong lúc lái xe , như thể khi làm thế có thể bằng cách thần kỳ nào đó làm cho những vết bánh xe của chiếc Expedition trở nên khó thấy hơn.


      “Thậm chí nếu cái đèn kia vẫn còn sáng khi ta quay về, có khi vẫn cảm thấy nghi ngờ,” Tom . “Tôi dám cược rằng những con thú hoang vẫn thường xuyên chạy qua gần nó. Thậm chí có khi còn có cọc đèn như thế để xua đuổi chúng ra khỏi vườn rau của .”


      Nghe có vẻ hợp lý (và trở lại có vẻ giống với thứ giọng đặc biệt dành cho Tom hơn), nhưng nó cũng làm thấy an tâm hơn bao nhiêu.


      Oẳng! Oẳng! Oẳng oẳng! Cho dù nó có là gì nữa, nghe chừng chàng trong đó rất bực bội.


      Mặt đất đằng sau toa moóc khá mấp mô và trơ trụi - hẳn những toa moóc khác cũng thỉnh thoảng được mang tới để tại đây, nghi ngờ gì nữa - nhưng đủ cứng. lái chiếc Expedition sâu vào trong bóng của cái toa moóc hết mức có thể, rồi tắt động cơ. đổ mồ hôi đầm đìa, tạo ra thứ mùi hương mà sản phẩm khử mùi nào có thể đánh bại nổi.


      ra khỏi xe, và cái đèn có cảm biến chuyển động vụt tắt khi đóng sập cửa xe lại. Trong khoảnh khắc mê tín, Tess nghĩ chính làm việc đó, rồi hiểu ra cái đèn chết tiệt làm sợ hết hồn đó chỉ đơn giản là hết thời gian cài đặt. tựa người lên nắp máy còn ấm của chiếc Expedition, hít từng hơi sâu rồi thở ra giống như vận động viên chạy trong phần tư dặm cuối cùng của cuộc đua marathon. Có thể có ích nếu biết được cái đèn sáng trong bao lâu, nhưng đây là câu hỏi thể trả lời. Lúc đó quá sợ. Dường như nó bật sáng hàng giờ liền.


      Khi trấn tĩnh lại, lấy các món đồ cần thiết ra, buộc mình phải thực từng thao tác cách thong thả, tuần tự. Khẩu súng và chiếc găng dùng lấy đồ ăn trong lò. Cả hai đều có mặt và được kiểm tra. nghĩ cái găng có thể át được thanh của phát đạn nữa, khi lỗ thủng đó; phải trông cậy vào vị trí biệt lập của ngôi nhà đỉnh đồi này. Việc bỏ lại con dao bụng Ramona thực ra cũng tốt; nếu buộc phải xử trí Lái Xe Bự bằng con dao thái thịt, khi đó quả tình gặp rắc rối nghiêm trọng.


      Và chỉ còn bốn viên đạn trong khẩu súng, tốt nhất đừng quên điều đó mà chỉ mắm môi xối đạn vào . Tại sao mang thêm đạn, hả Tessa Jean? nghĩ lên kế hoạch, nhưng tôi nghĩ làm việc ngon nghẻ cho lắm.


      “Im mồm ,” thầm. “Cho dù mi là Tom hay Fritzy, hay là ai nữa, cũng im mồm .”


      Giọng càu nhàu ngừng bặt, và khi nó ngừng lại, Tess nhận ra thế giới thực tại cũng chìm trong im lặng.


      Con chó thôi tràng sủa điên dại của nó khi đèn tắt. Giờ đây thanh duy nhất còn lại là tiếng gió thổi và ánh sáng duy nhất là ánh trăng.





      .38.

      khi luồng sáng chói lọi kinh khủng kia tắt, chiếc toa moóc cung cấp tấm bình phong hoàn hảo, nhưng thể ở lại đó. thể, nếu thực có ý muốn thực dự định khi tìm tới đây. Tess vòng ra sau ngôi nhà, khỏi lo sợ trước nguy cơ vấp phải cọc đèn có cảm biến chuyển động nữa, nhưng cảm thấy còn lựa chọn nào khác. có ánh đèn nào phải né tránh, song mặt trăng cũng lặn vào trong đám mây, và vấp phải gờ cửa xuống hầm nhà, rồi thiếu chút nữa cụng đầu vào cái xe cút kít khi quỳ xuống hai đầu gối. Trong khoảnh khắc, khi ngồi đó, lại tự hỏi lần nữa mình biến thành cái gì. thành viên của Hội Tác giả vừa bắn vào đầu phụ nữ trước đó chưa lâu. Sau khi đâm vào bụng bà ta. Mình hoàn toàn rời xa khỏi khu bảo tồn[60]. Thế rồi nghĩ tới việc từng gọi con chó cái, con chó cái lăng loàn, và thôi còn thấy bận tâm tới chuyện rời xa khu bảo tồn hay chưa nữa. Dù thế nào nữa, đó cũng là ý nghĩ ngớ ngẩn. Và còn có mùi phân biệt sắc tộc nữa.


      Strehlke quả thực có mảnh vườn đằng sau nhà , song nó rất và có vẻ đáng để phải bảo vệ khỏi xâm hại của thú hoang bằng cọc đèn có cảm biến chuyển động. Chẳng còn gì trong vườn ngoài mấy quả bí ngô, hầu hết lúc này thối hỏng. bước qua những luống đất, vòng tới góc xa nhất của ngôi nhà, và gặp lại chiếc xe tải đầu bằng đỗ ở đó. Mặt trăng ló ra và biến bề mặt mạ crôm của chiếc xe thành những lưỡi kiếm bạc uốn lượn như chất lỏng trong những cuốn tiểu thuyết tưởng tượng.


      Tess bước lại sau chiếc xe, dọc theo thành xe bên trái, và quỳ xuống bên bánh trước cao đến cằm (ít nhất là với ). lấy Máy Vắt Chanh ra khỏi túi. thể lái xe vào gara vì chiếc xe tải đầu bằng chắn mất đường. Cho dù nó nằm đó nữa, chắc hẳn trong gara cũng đầy ắp những món đồ lỉnh kỉnh của gã đàn ông độc thân: dụng cụ, đồ câu cá, đồ cắm trại, linh kiện xe tải, những két sô đa khuyến mại.


      Đó chỉ là phỏng đoán. Phỏng đoán nguy hiểm. Chắc chắn Doreen mắng cho trận vì chuyện này.


      Tất nhiên bà ta làm thế rồi, chẳng ai hiểu các quý bà trong Hội đan lát hơn Tess, nhưng những quý bà ưa thích các món tráng miệng này hiếm khi chấp nhận mạo hiểm. Còn khi bạn chấp nhận nó, bạn buộc phải đưa ra số phỏng đoán nhất định.


      Tess nhìn đồng hồ và ngỡ ngàng khi thấy lúc này mới chỉ là mười giờ kém hai lăm. Dường như cho Fritzy gấp đôi khẩu phần ăn và rời khỏi nhà bốn giờ trước. Có thể là năm. nghĩ vừa nghe thấy tiếng động cơ lại gần, sau đó đến quyết định là phải vậy. ước gì gió thổi mạnh đến thế, nhưng những điều ước luôn ở bên bàn tay, còn thực tế phũ phàng ở bên kia, hãy thử nhìn xem bên nào đầy trước. Đó là cách chưa quý bà nào của Hội đan lát từng cất giọng đưa ra - Doreen Marquis và các bạn của bà ta vốn quen thuộc hơn với những thứ đại loại như bắt đầu sớm nhất, xong sớm nhất - nhưng , đó cũng là cách diễn đạt chính xác.


      Có thể thực thực chuyến . Bất chấp tối nay có phải là tối Chủ nhật hay . Có thể vẫn phải ngồi đây khi mặt trời lên, lạnh cóng tới tận bộ xương vốn đau nhức ê ẩm bởi cơn gió liên tục thổi thông thống qua đỉnh đồi độc này, nơi điên rồ mò tới.


      , mới là kẻ điên rồ. Còn nhớ nhảy như thế nào chứ? Và cả cái bóng của nhảy nhót bức tường sau lưng nữa? Còn nhớ hát thế nào chứ? Còn nhớ giọng hát quái gở của ? đợi , Tessa Jean. đợi cho tới khi chốn địa ngục này đông cứng lại. quá xa để có thể quay lui.


      thực sợ là thế.


      thể là vụ giết người trong căn phòng khách trang hoàng lộng lẫy. hiểu điều đó mà, phải ?


      hiểu. Lần giết người cụ thể này - nếu có thể thực được nó - giống như Ước nguyện cuối cùng hơn là Hội đan lát Willow Grove trở lại. lái xe về, hy vọng là vừa đúng tới chỗ chiếc xe tải đầu bằng nấp đằng sau. tắt đèn pha chiếc bán tải, và trước khi mắt kịp thích nghi...


      Lần này phải là gió thổi. nhận ra thanh có giai điệu khó nghe của cái động cơ thậm chí từ trước khi ánh đèn pha rọi tới chỗ ngoặt của con đường dẫn lên ngôi nhà. Tess nhổm dậy đầu gối và kéo sụp vành mũ của xuống để gió thổi bay nó mất. phải tiếp cận, và điều đó có nghĩa là việc tính toán thời gian của phải rất hợp lý. Nếu cố tìm cách nấp kín để bắn hạ , nhiều khả năng bắn trượt, thậm chí ở cự ly gần; huấn luyện viên bắn súng với rằng chỉ có thể trông cậy vào Máy Vắt Chanh ở khoảng cách mười foot hay gần hơn. ta cũng khuyên nên mua khẩu súng đáng tin cậy hơn, nhưng bao giờ làm thế. Và việc phải tiếp cận đủ gần để đảm bảo chắc chắn giết được vẫn chưa phải là tất cả. cần phải đoan chắc trong xe chính là Strehlke, chứ phải em trai hay người bạn nào đó.


      Mình chẳng có kế hoạch nào cả.


      Nhưng bây giờ quá muộn để lên kế hoạch, vì chiếc xe lên tới nơi và khi cọc đèn bật sáng, nhìn thấy chiếc mũ lưỡi trai màu nâu với những vệt trắng đó. cũng thấy nheo mắt lại trước ánh đèn chói lóa, hệt như lúc trước, và biết mất thị lực trong khoảnh khắc đó. Đây chính là giây phút để hành động, hoặc bao giờ nữa.


      Mình là Người Phụ Nữ Dũng Cảm.


      hề có kế hoạch, thậm chí chẳng hề suy nghĩ, bước vòng qua đuôi chiếc xe tải đầu bằng, chạy, mà bước từng sải dài, bình tĩnh. Gió thổi giật lên từng cơn xung quanh , đập vào chiếc quần ống rộng mặc. mở cánh cửa đối diện với bên người lái và nhìn thấy chiếc nhẫn gắn viên đá màu đỏ tay . cầm túi giấy, bên trong có đựng chiếc hộp vuông. Bia, có lẽ là thùng mười hai lon. quay về phía và có điều gì đó khủng khiếp xảy ra: tách ra làm đôi. Người Phụ Nữ Dũng Cảm nhìn thấy con quái vật cưỡng hiếp , bóp cổ , và ném vào ống cống với hai thi thể thối rữa khác. Tess nhìn thấy khuôn mặt hơi rộng hơn chút, những đường nét quanh miệng và mắt hoàn toàn vắng bóng vào buổi chiều thứ Sáu. Nhưng trong khi ghi nhận những chi tiết đó, Máy Vắt Chanh sủa lên hai lần tay . Viên đạn thứ nhất xuyên thẳng qua họng Strehlke, ngay sát dưới cằm. Viên đạn thứ hai trổ lỗ đen ngòm ngay dải lông mày rậm bên phải của và làm vỡ tan khung cửa kính bên phía lái xe. đổ ngửa ra sau đập vào cánh cửa, bàn tay cầm mép chiếc túi giấy buông rời ra. Cả người co giật khủng khiếp, và bàn tay có đeo chiếc nhẫn đập vào giữa tay lái, làm còi xe vang lên. Trong nhà, con chó lại bắt đầu sủa.


      , là !” đứng cạnh cánh cửa mở toang, súng tay, nhìn chằm chằm vào trong. “Nhất định phải là !”


      chạy vòng qua đằng trước chiếc bán tải, mất thăng bằng, ngã quỵ xuống đầu gối, đứng dậy, và giật mở cánh cửa bên lái xe. Strehlke đổ vật ra ngoài, cái đầu chết của đập xuống mặt đường rải nhựa. Cái mũ của rơi ra. Con mắt bên phải, bị xô lệch bởi viên đạn xuyên qua đầu ngay phía nó, trợn trừng nhìn thẳng lên mặt trăng. Con mắt bên trái nhìn chằm chằm vào Tess. Và phải là khuôn mặt cuối cùng khiến bị thuyết phục - khuôn mặt đó có những đường nét mới lần đầu tiên nhìn thấy, khuôn mặt lấm tấm những vết sẹo trứng cá cũ hề xuất vào lúc chiều thứ Sáu.


      ta to con hay thực rất to? Betsy Neal hỏi như thế.


      Thực rất to, Tess đáp lại, và đúng là như thế... nhưng cũng to bằng người đàn ông này. Kẻ cưỡng dâm cao chừng mét chín mươi lăm, nghĩ vậy khi chui ra khỏi chiếc bán tải (chính là chiếc xe này, hề nghi ngờ gì về chuyện đó). Bụng ngoại cỡ, bắp đùi to tướng, và bề ngang bè bè như cánh cửa. Nhưng người đàn ông này phải cao ít nhất hai mét linh ba. tới săn lùng gã khổng lồ và giết chết con quái vật siêu đại.


      “Ôi Chúa ơi,” Tess thốt lên, và gió thổi bạt những lời . “Ôi, lạy Chúa, tôi làm gì vậy?”


      giết tôi, Tess,” người đàn ông nằm dưới đất ... và điều đó hoàn toàn hợp lý, nếu xét đến lỗ thủng đầu và cổ . “ tới và giết Lái Xe Bự, đúng như dự định.”


      Tất cả sức lực rời bỏ cơ bắp của . khuỵu gối xuống bên cạnh ta. đầu, mặt trăng chiếu xuống từ bầu trời đầy tiếng gió gào rít.


      “Cái nhẫn,” thầm. “Chiếc mũ. Chiếc xe.”


      “Nó đeo cái nhẫn và đội chiếc mũ đó khi nó săn mồi,” Lái Xe Bự . “Và nó lái chiếc bán tải. Khi nó săn mồi, tôi ở đường trong chiếc xe tải đầu bằng của Red Hawk, và nếu có ai nhìn thấy nó - nhất là nếu nó ngồi - họ nghĩ nhìn thấy tôi.”


      “Tại sao làm thế?” Tess hỏi người chết. “ trai cơ mà.”


      “Vì nó bị điên,” Lái Xe Bự kiên nhẫn giải thích.


      “Và bởi vì trước đây cách đó thành công,” Doreen Marquis . “Khi hai em họ còn trẻ hơn và Lester gặp rắc rối với cảnh sát. Câu hỏi ở đây là liệu có phải Roscoe Strehlke tự sát vì rắc rối đầu tiên đó, hay vì Ramona bắt người Al gánh tội. Hoặc có thể Roscoe sắp sửa báo với cảnh sát và Ramona giết ông ta. Rồi làm cho trường giống như tự sát. Là khả năng nào, Al?”


      Nhưng về chủ đề này Al giữ im lặng. Im lặng chết chóc, thực thế.


      “Tôi cho biết tôi nghĩ mọi việc diễn ra như thế nào,” Doreen dưới ánh trăng. “Tôi nghĩ Ramona biết nếu cậu em trai bé của bị đẩy vào phòng thẩm vấn với viên cảnh sát dù chỉ có nửa trí khôn thôi, cậu ta rất có thể thú nhận điều còn tệ hại hơn nhiều so với chuyện sàm sỡ xe chở học sinh của trường, nhìn lén vào trong xe của những đôi tình nhân bận bịu hay bất cứ trò phạm pháp vặt vãnh nào cậu ta bị cáo buộc. Tôi nghĩ bà ta thuyết phục nhận lấy lời buộc tội, và bà ta cũng thuyết phục chồng mình đồng tình. Hoặc hăm dọa ép ông ta phải làm thế, và nhiều khả năng là vậy hơn. Và bởi vì có thể cảnh sát chẳng bao giờ cầu bị hại tới đối chất trực tiếp hay vì tiếp tục kiện nữa, họ thoát được trót lọt.”


      Al gì.


      Tess nghĩ, mình quỳ xuống đây mình với những giọng tưởng tượng. Mình bị mất trí rồi.


      Thế nhưng phần trong biết cố giữ cho tâm trí tỉnh táo. Cách duy nhất để làm được điều đó là phải hiểu, và nghĩ câu chuyện qua giọng của Doreen có thể chính xác hoặc rất gần với . Nó dựa phỏng đoán và suy luận, nhưng hoàn toàn có lý. Nó khớp với những gì Ramona trong khoảnh khắc cuối cùng của bà ta.


      Đồ ngu ngốc đáng ghét, biết về cái gì đâu.


      Và: hiểu đâu. Đây là sai lầm.


      Đây là sai lầm, được thôi. Mọi thứ làm tối nay đều là sai lầm.


      , phải tất cả. Bà ta có can dự vào việc đó. Bà ta biết.


      có biết ?” Tess hỏi người đàn ông giết. đưa tay ra định tóm lấy cánh tay Strehlke, rồi rụt lại. Có lẽ nó vẫn còn ấm dưới ống tay áo của ta. Vẫn làm người ta nghĩ nó còn sống. “Có hay ?”


      ta trả lời.


      “Hãy để tôi thử,” Doreen . Và bằng giọng tử tế nhất, đầy thuyết phục theo kiểu -có-thể-kể-cho-tôi-nghe-tất-cả của bà lão, cách luôn có hiệu quả trong các cuốn sách, bà ta hỏi: “ biết nhiều đến mức nào, Lái Xe?”


      “Thỉnh thoảng tôi có nghi ngờ,” ta . “Còn thường tôi nghĩ tới chuyện đó. Tôi có công việc làm ăn phải chăm lo.”


      từng bao giờ hỏi mẹ mình chưa?”


      “Có lẽ tôi hỏi,” ta , và Tess nghĩ con mắt bên phải có góc nhìn lạ lùng của ta như muốn lẩn tránh. Nhưng dưới ánh trăng hoang dại này, ai có thể được gì về chuyện như thế? Ai có thể đoan chắc được?


      “Khi các biến mất phải ? Có phải khi đó hỏi đúng ?”


      Lái Xe Bự trả lời, có thể vì Doreen bắt đầu nghe giống như Fritzy. Và giống Tom, chàng Tomtom, tất nhiên rồi.


      “Nhưng chưa bao giờ có bằng chứng, phải ?” Lần này là chính bản thân Tess khẳng định. dám chắc ta có thể trả lời giọng của , nhưng ta trả lời .


      . có bằng chứng.”


      “Và các người muốn có bằng chứng, phải nào?”


      Lần này có câu trả lời, vậy là Tess đứng dậy và chuệnh choạng bước tới chỗ cái mũ nâu có những vệt trắng bị hất bay qua bên kia đường tới tận bãi cỏ. Đúng lúc nhặt nó lên, cọc đèn lại tắt phụt. Trong nhà, con chó cũng ngừng sủa. Điều này khiến nghĩ tới Sherlock Holmes, và trong lúc đứng đó dưới ánh trăng của đêm lộng gió, Tess nghe thấy chính mình bật ra tiếng cười thầm buồn bã nhất từng phát ra từ cổ họng con người. bỏ mũ của mình ra, nhét vào trong túi áo khoác, và đội cái mũ của ta lên thế vào. Cái mũ quá to với , vậy là lấy mũ ra lần nữa, đủ lâu để chỉnh dải cài đằng sau mũ. quay lại chỗ người đàn ông bị giết, người theo đánh giá có lẽ cũng hẳn vô tội... nhưng chắc chắn là quá vô tội để xứng đáng với hình phạt Người Phụ Nữ Dũng Cảm vừa thi hành.


      gõ lên vành lưỡi trai chiếc mũ nâu và hỏi, “Có phải đây là thứ đội khi đường ?” Dù biết phải.


      Strehlke trả lời, nhưng Doreen Marquis, thủ lĩnh của Hội đan lát, có. “Tất nhiên là rồi. Khi lái xe cho Red Hawk, đội chiếc mũ Red Hawk, phải chàng trai?”


      “Phải,” Strehlke .


      “Và cũng đeo cái nhẫn của mình, đúng ?”


      . Quá lòe loẹt để trưng ra trước khách hàng. giống với người làm ăn nghiêm túc. Và ra sao nếu ai đó tại trong những trạm nghỉ bẩn thỉu cho xe tải đó - kẻ nào đó quá say xỉn hay lên cơn nghiện để có thể suy xét tỉnh táo hơn - nhìn thấy và nghĩ đó là đồ ? ai dám mạo hiểm trấn lột tôi, tôi quá to con và khỏe mạnh để có thể làm thế - ít nhất tôi từng là vậy cho tới tối nay - nhưng có thể ai đó bắn tôi. Và tôi đáng bị bắn. phải vì cái nhẫn rởm, và cũng phải vì những chuyện khủng khiếp có thể em trai tôi làm.”


      “Và cùng em trai bao giờ lái xe cho công ty cùng lúc, phải chàng trai?”


      . Khi nó ở đường, tôi lo công việc tại văn phòng. Khi tôi ở đường, nó... vậy đấy. Tôi đoán bà biết nó làm gì khi tôi ở đường.”


      “Đáng lẽ nên ra!” Tess cúi xuống quát vào mặt ta. “Cho dù nếu chỉ nghi ngờ, đáng lẽ nên ra!”


      ta sợ,” Doreen bằng giọng hiền hòa của bà ta. “Phải , chàng trai?”


      “Phải,” Al . “Tôi sợ.”


      “Sợ em trai ?” Tess hỏi, có thể tin, mà cũng có thể muốn tin. “Sợ đứa em trai nhóc con của sao?”


      phải nó,” Al Strehlke . “Mà là bà ấy.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      .39.

      Khi Tess quay trở lại xe của và nổ máy, Tom : “ thể nào biết được, Tess. Và tất cả xảy ra nhanh quá.”


      Đúng thế, nhưng lý luận đó bỏ qua mất trung tâm hiển : khi truy đuổi theo kẻ cưỡng dâm như kẻ thi hành công lý trong bộ phim, cũng đẩy chính mình xuống địa ngục.


      đưa khẩu súng lên thái dương, rồi lại hạ xuống. thể, lúc này chưa. vẫn còn nghĩa vụ với những người phụ nữ trong ống cống, và bất cứ người phụ nữ nào có thể phải gia nhập cùng họ nếu Lester Strehlke lọt lưới. Và sau những gì vừa làm, việc để lọt lưới lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.


      còn điểm dừng nữa cần tìm đến. Nhưng phải chiếc Expedition.





      .40.

      Con đường rẽ vào số 101 Township Road dài lắm, và cũng được rải nhựa. Nó chỉ là hai dải vệt bánh xe với những bụi cây mọc gần đến mức đủ để cọ vào hai bên thành chiếc bán tải F-150 màu xanh trong lúc lái nó lên phía ngôi nhà . Chẳng có vẻ gì ngăn nắp ở ngôi nhà này; đó là ngôi nhà có bộ dạng khiến người ta sởn gai ốc như thể vừa chui ra từ bộ phim Tàn sát bằng cưa máy ở Texas. Đúng là cuộc sống thực đôi lúc cũng bắt chước phim ảnh. Và thứ phim ảnh đó càng thô kệch, bắt chước lại càng gần gũi.


      Tess tìm cách giấu giếm diện của mình - tại sao người lại phải tắt đèn pha trong khi Lester Strehlke hẳn cũng quen thuộc với tiếng động cơ chiếc xe của trai chẳng kém gì chính giọng của ông trai này?


      vẫn đội chiếc mũ nâu lấm tấm vệt trắng mà Lái Xe Bự vẫn đội khi ta bôn ba đường, chiếc mũ may mắn mà rốt cục hóa ra lại hề may mắn. Cái nhẫn với viên đá giả hồng ngọc quá to với bất cứ ngón tay nào của , vậy là đành phải cho nó vào trong túi quần trước bên trái. Lái Xe Bé ăn mặc và lái xe trong bộ dạng của trai khi săn lùng con mồi, và trong khi có thể bao giờ có đủ thời gian (hay đủ đầu óc) để cảm nhận hương vị mỉa mai trong việc nạn nhân cuối cùng của tìm đến với cùng những món phụ kiện ấy, Tess lại có.


      đỗ xe gần cửa sau nhà, tắt động cơ, rồi ra khỏi xe. cầm sẵn súng trong tay. Cánh cửa khóa. bước vào trong nhà kho sặc mùi bia và thức ăn ôi thiu. bóng đèn sáu mươi oát duy nhất treo toòng teng từ trần xuống bằng đoạn dây bẩn thỉu. Ngay trước mặt là bốn túi nhựa đựng rác căng phồng, loại có dung tích ba mươi hai gallon bạn có thể mua ở Walmart. Đằng sau chúng, chất đống tựa sát vào tường nhà kho, là đống phải tương đương với năm năm phát hành của cẩm nang mua sắm Uncle Henry’s. Bên phía tay trái có cánh cửa nữa, bậc cấp duy nhất dẫn lên. Cánh cửa này mở vào nhà bếp. Nó có then cài kiểu cổ thay vì tay nắm. Cánh cửa kêu cọt kẹt những bản lề khô dầu khi tháo then cài và đẩy mở nó ra. giờ trước đây, tiếng cọt kẹt như thế hẳn khiến sợ đến cứng đờ người lại. Còn giờ đây nó chẳng hề khiến bận tâm chút nào. có việc cần làm. Đó là tất cả những gì khiến bận tâm, và nhõm khi trút bỏ được hết những gánh nặng cảm xúc. bước vào gian tràn ngập mùi của thứ thịt ngậy mỡ mà Lái Xe Bé rán làm bữa tối cho . có thể nghe tràng cười vọng ra từ tivi. bộ phim sitcom nào đó. Seinfeld, nghĩ thầm.


      làm cái quái gì ở đây vậy?” Lester Strehlke gọi với ra từ gần chỗ vừa phát ra tiếng cười. “Tôi chẳng còn gì ngoài lon bia nguyên và nửa lon dở, nếu đó là thứ tới tìm. Tôi định uống nốt rồi ngủ.” định hướng theo giọng của . “Nếu gọi trước, có khi tôi để dành cho ...”


      bước vào phòng. nhìn thấy . Tess hình dung ra trước phản ứng của ra sao khi thấy nạn nhân cuối cùng của mình xuất trở lại, mang theo khẩu súng và đội đầu cái mũ chính Lester đội khi bản năng bệnh hoạn thúc giục . Thậm chí có hình dung trước, cũng bao giờ có thể lường được mức độ cực đoan của những gì chứng kiến. Miệng há hốc, và rồi cả khuôn mặt cứng đờ như bị đông cứng lại. Lon bia cầm tay rơi xuống lòng, làm bọt bắn tung tóe lên món trang phục duy nhất mặc người, chiếc quần đùi Jockey ngả vàng.


      nhìn thấy hồn ma, nghĩ trong lúc bước về phía , giơ súng lên. Tốt lắm.


      có đủ thời gian để thấy rằng, cho dù căn phòng là đống bừa bộn đặc trưng của đàn ông độc thân và hề có quả cầu thủy tinh hay hình nhân bằng sứ nào, những món đồ được bày ra để phục vụ chủ nhân xem tivi cũng hệt như tại nhà mẹ ở Lacemaker Lane: chiếc ghế sô pha hiệu La-Z-Boy, cái bàn để đồ xem tivi (ở đây là lon bia Pabst Blue Robbon cuối cùng chưa khui nắp và túi bánh giòn Doritos thay cho Diet Coke và Cheez Doodle), cùng cuốn TV Guide với hình Simon Cowell[61] bìa.


      chết rồi,” lẩm bẩm.


      ,” Tess đáp. chĩa nòng Máy Vắt Chanh vào sát bên đầu . cố thử yếu ớt tìm cách chộp lấy cổ tay , nhưng nỗ lực của vừa đủ vừa quá muộn. “Chính là mày.”


      siết cò. Máu trào ra khỏi tai và đầu lập tức vật sang bên. trông giống như người vùng vẫy thoát khỏi sợi thòng lọng tròng vào cổ. tivi, George Constanza , “Tôi ở trong bể bơi, tôi ở trong bể bơi.” Khán giả cười ồ lên.





      .41.

      gần nửa đêm, và gió thổi mạnh hơn lúc nào hết. Khi gió giật lên, cả ngôi nhà của Lester Strehlke chao đảo, và mỗi lần như thế, Tess lại nghĩ tới chú lợn xây ngôi nhà của mình bằng gỗ.


      Con lợn bé sống trong ngôi nhà này hẳn bao giờ phải lo lắng tới chuyện ngôi nhà chết tiệt của bị thổi bay , vì chết chiếc ghế La-Z-Boy của mình. Và dù thế nào nữa, cũng phải là con lợn bé , Tess nghĩ. con sói to lớn xấu xa.


      ngồi trong bếp, viết lên những trang giấy của tập sổ ghi chép hiệu Blue Horse bám đầy bụi tìm thấy trong phòng ngủ lầu của Strehlke. lầu hai có bốn phòng, nhưng phòng ngủ là nơi duy nhất chất đống đủ loại đồ bỏ , mọi thứ từ khung giường sắt cho tới cục động cơ xuồng máy Evinrude trông giống như bị thả rơi từ nóc tòa nhà năm tầng xuống vậy. Bởi vì có lẽ phải mất hàng tuần, thậm chí hàng tháng, để xem qua hết những đống đồ vô dụng, vô giá trị, vô mục đích đó, Tess dồn tất cả chú ý vào phòng ngủ của Strehlke và lục lọi tìm kiếm trong đó rất cẩn thận. Cuốn sổ Blue Horse là phần thưởng bổ sung. tìm ra thứ muốn tìm trong cái vali kéo cũ kỹ bị nhét vào tận trong cùng giá tủ tường, nơi nó được che đậy ngụy trang - cách mấy thành công - bằng những số tạp chí National Geographic cũ. Trong vali là đống đồ lót phụ nữ. Chiếc quần lót của chính nằm cùng. nhét nó vào trong túi quần, và, giống như kẻ hay nhặt nhạnh tích trữ, thay thế nó bằng đoạn dây buộc thuyền màu vàng. ai ngạc nhiên khi tìm thấy dây trong chiếc vali đựng những món đồ lót chiến lợi phẩm của kẻ cưỡng dâm - giết người. Hơn nữa, cũng cần tới đoạn dây nữa.


      “Tonto,” Thợ săn độc[62] , “công việc của chúng ta ở đây hoàn tất rồi.”


      Những gì viết, trong lúc tivi Seinfeld nhường chỗ cho Frasier, rồi Frasier nhường chỗ cho bản tin địa phương ( cư dân tại Chicopee trúng xổ số và người nữa gãy lưng sau khi rơi từ giàn dáo xuống, vậy là hòa), là bản thú tội dưới dạng lá thư. Khi viết tới trang năm, bản tin tivi nhường chỗ cho chương trình quảng cáo thương mại dành cho Almighty Cleanse dường như kéo dài bất tận. Danny Vierra , “ số người Mỹ chỉ cầu hai hay ba ngày lần, và bởi vì tình trạng này kéo dài suốt nhiều năm, họ tin rằng thế là bình thường! Bất cứ bác sĩ nào xứng đáng với danh xưng này cũng cho bạn hay rằng phải thế!”


      Lá thư được đề gửi tới CÁC NHÀ CHỨC TRÁCH HỮU QUAN, và bốn trang đầu tiên chỉ gồm đoạn được viết liền mạch. Trong đầu , nó giống như tiếng kêu thống thiết. Bàn tay mỏi rã rời, và chiếc bút bi tìm thấy trong ngăn kéo bếp ( thân bút có in dòng chữ VẬN TẢI RED HAWK bằng nhũ vàng mờ) bắt đầu có dấu hiệu sắp hết mực, nhưng tạ ơn Chúa, cũng gần xong. Trong lúc Lái Xe Bé tiếp tục theo dõi tivi nữa từ chỗ ngồi chiếc sô pha La-Z-Boy, cuối cùng cũng bắt đầu đoạn mới đầu trang thứ năm.


      Tôi tìm cách biện hộ cho những gì tôi làm. Và tôi cũng thể làm những điều đó trong lúc tâm trí tỉnh táo. Tôi rất phẫn nộ và phạm phải sai lầm. Chỉ đơn giản là vậy thôi. Trong những hoàn cảnh khác - ý tôi là những hoàn cảnh ít khủng khiếp hơn - có thể tôi , “Đó là lầm lẫn tự nhiên, hai người bọn họ trông giống nhau tới mức gần như hai em sinh đôi.” Nhưng thực tế có những hoàn cảnh khác.


      Tôi nghĩ tới việc chuộc lỗi trong lúc ngồi đây viết những trang này và lắng nghe những thanh từ chiếc tivi của cùng tiếng gió thổi - phải vì tôi hy vọng được tha thứ, mà vì dường như phải khi làm việc sai trái mà ít nhất cố gắng chuộc lại bằng điều gì đó đúng đắn. (Tới đây, Tess chợt nghĩ tới việc người trúng xổ số và người bị gãy lưng bù trừ cho nhau như thế nào, nhưng khái niệm này khó diễn đạt ra thành ngôn từ khi quá mệt mỏi, và cho cùng dám chắc nó có phù hợp hay .) Tôi nghĩ tới việc đến châu Phi cùng chia sẻ với các nạn nhân AIDS. Tôi nghĩ tới việc đến New Orleans và làm việc tình nguyện tại cơ sở cứu trợ cho người vô gia cư hay cơ sở cung cấp lương thực. Tôi cũng nghĩ tới việc tới vùng Vịnh để giúp tẩy sạch dầu thô khỏi những con chim. Tôi nghĩ tới việc hiến khoản tiền chừng vài triệu đô la tôi để dành ra cho cuộc sống hưu trí cho nhóm hoạt động nào đó nhằm chấm dứt nạn bạo lực đối với phụ nữ. Chắc chắn phải có tổ chức như thế tại Connecticut, thậm chí là vài nhóm.


      Nhưng sau đó, tôi nghĩ tới Doreen Marquis, người của Hội đan lát, và điều bà ấy vẫn lần trong tất cả các cuốn sách...


      Điều Doreen vẫn ít nhất lần trong mỗi cuốn sách là những kẻ sát nhân luôn bỏ qua những thứ quá hiển nhiên. Các bạn có thể trông chờ vào điều đó, các bạn thân mến. Và ngay cả khi Tess viết về chuộc tội, nhận ra điều đó là thể. Vì Doreen quả thực hoàn toàn đúng.


      Tess đội cái mũ lên đầu để làm vương lại tóc có thể bị sử dụng để phân tích ADN. găng và chưa lần tháo bỏ ra, ngay cả khi lái chiếc bán tải của Alvin Strehlke. Vẫn chưa quá muộn để đốt bản thú tội này trong chiếc lò đốt củi của Lester, lái xe quay về ngôi nhà đẹp hơn đáng kể của Alvin (nhà gạch thay vì nhà gỗ), chui vào chiếc Expedition của , và trở về Connecticut. có thể quay về nhà, ở đó có Fritzy đợi. Thoạt nhìn qua, có vẻ như hoàn toàn sạch , và hẳn phải mất vài ngày cảnh sát mới tìm đến , nhưng thể nào họ cũng tìm đến . Bởi vì trong khi tập trung vào những chi tiết pháp lý nhặt, bỏ qua mất ngọn núi lù lù trước mắt, đúng như những tên sát nhân trong các cuốn sách về Hội đan lát.


      Ngọn núi hiển ràng ấy có cái tên: Betsy Neal. phụ nữ xinh xắn với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt Picasso hoàn toàn giống nhau, và mái tóc rậm sẫm màu. ta nhận ra Tess, thậm chí xin ký tặng, song đó phải là bằng chứng thể chối cãi. Bằng chứng thể chối cãi chính là những vết bầm mặt (Tôi hy vọng chuyện đó xảy ra ở đây, Neal thế), cùng với là Tess hỏi về Alvin Strehlke, mô tả lại chiếc xe của ta và nhận ra cái nhẫn khi Neal nhắc đến nó. Như viên hồng ngọc, Tess đồng ý.


      Neal có thể thấy câu chuyện này tivi hay đọc được báo - với ba cái chết trong cùng gia đình, làm sao ta có thể chú ý? - và ta tìm tới cảnh sát. Cảnh sát tìm tới Tess. Họ kiểm tra hồ sơ đăng ký súng tiểu bang Connecticut, chuyện này chắc rồi, và phát ra Tess sở hữu khẩu súng ổ quay .38 Smith & Wesson còn được gọi là Máy Vắt Chanh. Họ cầu nộp súng để họ có thể kiểm tra bắn thử và so sánh với những viên đạn tìm thấy ba nạn nhân. Và gì? Liệu có thể nhìn thẳng vào họ với đôi mắt thâm quầng của mình và (với giọng vẫn còn khàn khàn do bị Lester Strehlke bóp cổ) rằng đánh mất súng? Liệu có thể tiếp tục bám chặt vào câu chuyện đó ngay cả sau khi thi thể những phụ nữ chết được tìm thấy dưới cống ngầm?


      Tess cầm cây bút mượn lên và viết tiếp.


      ... điều bà ấy vẫn lần trong tất cả các cuốn sách: kẻ sát nhân luôn bỏ qua những thứ quá hiển nhiên. Doreen cũng từng bắt chước theo sách của Dorothy Sayers[63] và để kẻ sát nhân ở lại với khẩu súng nạp đạn, với hãy chọn cách kết thúc trong danh dự. Tôi có khẩu súng. trai Mike của tôi là người thân duy nhất còn sống. tôi sống tại Taos, New Mexico. Tôi đoán ấy có thể thừa kế các bất động sản của tôi. Điều đó phụ thuộc vào hệ quả pháp lý từ những hành động phạm tội của tôi. Nếu tôi được quyền thừa kế, tôi hy vọng nhà chức trách tìm thấy lá thư này cho tôi xem nó, và chuyển tới ước nguyện của tôi mong hiến phần lớn số tài sản này cho tổ chức từ thiện giúp đỡ các phụ nữ từng bị lạm dụng tình dục.


      Tôi lấy làm tiếc về Lái Xe Bự - Alvin Strehlke. ta phải là kẻ cưỡng bức tôi, và Doreen tin chắc ta cũng phải là người cưỡng bức và sát hại những người phụ nữ khác.


      Doreen ư? , là . Doreen có thực. Nhưng Tess quá mệt mỏi để có thể lùi lại và sửa chữa. Và mặc kệ - dù gì cũng gần tới đoạn kết rồi.


      Về Ramona và thứ rác rưởi nằm ngoài phòng khách, tôi có gì phải xin lỗi. Bọn họ tốt hơn nên chết .


      Và tất nhiên cả tôi cũng thế.


      ngừng lại đủ lâu để nhìn lại các trang viết xem có điều gì quên hay . Có vẻ có gì, vậy là ký tên - lần ký tên cuối cùng. Cây bút cũng hết mực ngay sau khi chữ cuối cùng được viết xong, và đặt nó xuống bên cạnh.


      “Có gì để , Lester?” hỏi.


      Chỉ có tiếng gió trả lời, gầm rít dữ dội đến mức đủ để làm ngôi nhà rên kèn kẹt và phả ra những luồng khí lạnh.


      quay trở vào phòng khách. đội mũ lên đầu và đeo chiếc nhẫn lên ngón tay . muốn người ta tìm thấy như vậy. Có bức ảnh lồng khung đặt nóc tivi. Trong ảnh, Lester và mẹ đứng với cánh tay quàng quanh người nhau. Cả hai mỉm cười. Chỉ là cậu con trai và mẹ ta. nhìn bức ảnh hồi, rồi rời .





      .42.

      cảm thấy mình cần quay trở lại khu cửa hàng bỏ hoang, nơi biến cố xảy ra và hoàn tất những việc cần làm ở đó. ngồi lát trong bãi để xe đầy cỏ dại, lắng nghe tiếng gió đập vào tấm biển cũ (BẠN THÍCH NÓ NÓ THÍCH BẠN), nghĩ về những gì người ta vẫn nghĩ tới trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời. Trong trường hợp của , hẳn đó là Fritzy. đoán Patsy đón nó về nuôi, và như thế chắc ổn cả. Mèo là những kẻ sống sót. Chúng mấy bận tâm tới việc ai cho chúng ăn, chừng nào bát thức ăn vẫn đầy.


      mất mấy thời gian để tới khu cửa hàng vào giờ này, nhưng đoạn đường vẫn có vẻ xa. rất mệt. quyết định chui vào trong chiếc bán tải cũ của Al Strehlke và đặt dấu chấm hết trong đó. Nhưng muốn làm dây bẩn những lời thú tội phải khổ sở viết ra với máu của chính mình, điều đúng nếu tính đến tất cả những chi tiết đẫm máu trong đó, và vậy là...


      lấy những trang giấy từ cuốn sổ Blue Horse ra phòng khách, nơi tivi vẫn bật ( người đàn ông trẻ có vẻ như tên tội phạm lúc này rao bán robot lau sàn), và ném chúng lên lòng Strehlke. “Giữ lấy thứ này cho tao, Les,” .


      vấn đề gì,” trả lời. nhận thấy phần bộ óc bệnh hoạn của lúc này khô dần bờ vai trần của . Được lắm.


      Tess bước ra bóng tối lộng gió bên ngoài và chậm rãi leo lên ngồi sau tay lái chiếc bán tải. Tiếng bản lề rên rỉ khi cánh cửa bên lái xe đóng sập lại nghe quen thuộc lạ lùng. Nhưng , lạ lùng chút nào, chẳng phải nghe thấy ở khu cửa hàng sao? Phải. cố giúp việc gì đó, vì sắp giúp việc khác - sắp thay lốp cho để có thể về nhà cho mèo ăn. “Mình muốn ắc quy của bị hết điện,” , rồi phá lên cười.


      chĩa nòng súng ngắn của khẩu .38 lên thái dương mình, rồi nghĩ lại. phát súng như thế phải lúc nào cũng hiệu quả. muốn tiền của mình giúp đỡ những người phụ nữ bị tổn thương, chứ phải để chi trả phí tổn cho khi nằm bất tỉnh hết năm này qua năm khác trong căn phòng nào đó như kẻ sống thực vật.


      Miệng, như thế tốt hơn. Chắc chắn hơn.


      Nòng súng trơn nhẫy dầu áp lên lưỡi , và có thể cảm thấy chiếc mấu nhô lên của thước ngắm chọc lên vòm miệng.


      Mình cuộc sống tốt - thực tốt, - và mặc dù mình phạm phải sai lầm khủng khiếp vào đoạn cuối của nó, rất có thể nó bị mang ra phán xử chống lại mình, nếu còn có gì đó sau cuộc sống này.


      A, nhưng buổi tối lộng gió này ngọt ngào biết chừng nào. Cũng như thế là những mùi hương mong manh thoang thoảng đưa vào qua cánh cửa hé mở bên phía lái xe. đáng buồn khi phải ra , nhưng còn lựa chọn nào nữa đây? tới lúc phải lên đường rồi.


      Tess nhắm mắt lại, áp chặt dần ngón tay lên cò súng, và đúng lúc ấy Tom lên tiếng. Tom ở trong chiếc Expedition của , và chiếc Expedition ở chỗ nhà người trai, cách nơi này gần dặm phía cuối đường. Hơn nữa, giọng nghe thấy chẳng có gì giống với giọng vẫn giả tạo ra cho Tom. Và nó cũng hề giống giọng của chính . Đây là giọng lạnh ngắt. Và - khẩu súng trong miệng. thể được.


      “Bà ấy chưa bao giờ là thám tử giỏi cho lắm, phải ?”


      ngớ người. “Ai cơ? Doreen ư?”


      Bất chấp tất cả, vẫn cảm thấy sốc.


      “Còn ai vào đây nữa, Tessa Jean? Và tại sao bà ấy lại phải là thám tử giỏi? Bà ấy do con người cũ của tạo ra. Phải nào?”


      Tess cho rằng đúng là vậy.


      “Doreen tin rằng Lái Xe Bự cưỡng bức và sát hại những người phụ nữ khác. Chẳng phải viết vậy sao?”


      “Tôi,” Tess . “Tôi tin chắc là thế. Chỉ là tôi thấy quá mệt mỏi, vậy thôi. Và choáng váng nữa, tôi đoán thế.”


      “Cũng có tội.”


      “Phải. Cũng có tội.”


      “Liệu những người có tội có thể suy luận đúng đắn được , nghĩ sao?”


      . Có lẽ là .


      định gì với tôi vậy?”


      “Rằng mới chỉ khám phá ra phần của bí mật mà thôi. Trước khi có thể khám phá ra toàn bộ nó - , chứ phải bà già thám tử sặc mùi sáo mòn - điều phải thừa nhận rất may xảy ra.”


      may? Đó là cách gọi nó sao?” Từ khoảng cách khá xa, Tess nghe thấy bật cười. Ở đâu đó, gió làm máng thoát nước bị bung ra đập vào mái hiên. Nghe cũng giống như tiếng động phát ra từ bảng quảng cáo 7Up ở khu cửa hàng bỏ hoang.


      “Trước khi bắn chính mình,” chàng Tom mới mẻ, xa lạ (nghe chàng mỗi lúc trở nên nữ tính hơn), “Tại sao thử nghĩ cho chính mình? Nhưng phải ở đây.”


      “Vậy ở đâu?”


      Tom trả lời câu hỏi này, và cần phải làm thế. Những gì chàng là, “Và mang cái bản tự thú chết tiệt ấy cùng với .”


      Tess ra khỏi xe, trở vào trong nhà Lester Strehlke. đứng trong căn bếp của kẻ chết, trầm ngâm suy nghĩ. to ý nghĩ của mình lên thành tiếng, bằng giọng của Tom (ngày càng trở nên giống giọng của chính hơn). Doreen dường như đâu mất.


      “Chìa khóa nhà của Al cùng chùm với chìa khóa xe của ta,” Tom , “nhưng vẫn còn con chó. muốn quên mất con chó.”


      , nếu thế rất tệ. Tess tới bên tủ lạnh của Lester. Sau lát lục tìm, thấy gói hamburger ở đằng sau tầng giá dưới cùng. dùng tờ Uncle Henry’s gói hai lần ra ngoài, rồi quay ra phòng khách. cầm bản thú tội từ trong lòng Strehlke lên, làm vậy cách rón rén thận trọng, vì biết rất cái của làm đau đớn - cũng là thứ khiến ba người bị giết tối hôm nay - nằm ngay dưới những tờ giấy đó. “Tao lấy món thịt xay của mày, nhưng đừng tức tối tao làm gì. Tao làm ơn cho mày đấy. Mùi của nó như thể thối rữa vậy.”


      “Vừa là sát nhân, vừa là kẻ trộm,” Lái Xe Bé lẩm bẩm bằng thứ giọng đều đều chết của . “ hay ho phải nào.”


      “Câm mồm lại, Les,” , và ra khỏi nhà.





      .43.

      Trước khi bắn chính mình, tại sao thử nghĩ cho chính mình?


      Trong lúc lái chiếc bán tải cũ rích trở lại con đường hun hút gió tới nhà Alvin Strehlke, cố gắng làm điều đó. bắt đầu nghĩ rằng Tom, thậm chí cả khi chàng có mặt xe cùng , còn là thám tử tài năng hơn nhiều so với Doreen Marquis trong ngày xuất thần nhất của bà ta.


      “Tôi ngắn gọn thôi,” Tom . “Nếu nghĩ rằng Al Strehlke là phần trong chuyện này - và ý tôi là phần rất quan trọng - điên mất rồi.”


      “Tất nhiên là tôi điên,” trả lời. “Nếu tại sao tôi lại cố thuyết phục bản thân rằng phải tôi bắn nhầm người khi tôi biết đúng là thế?”


      “Đó là cảm giác tội lỗi , chứ phải lý trí,” Tom đáp lại. Nghe chàng có vẻ tự mãn đến phát điên lên được. “ ta phải là con cừu vô tội, thậm chí còn phải là con cừu nửa trắng nửa đen. Tỉnh dậy , Tessa Jean. Bọn chúng chỉ là hai em, chúng còn là cộng .”


      “Cộng làm ăn.”


      “Những người em ruột bao giờ chỉ đơn thuần là cộng làm ăn. Mối quan hệ luôn phức tạp hơn thế nhiều. Nhất là khi có bà mẹ là phụ nữ như Ramona.”


      Tess rẽ lên con đường trải nhựa phẳng phiu dẫn tới nhà Al Strehlke. cho rằng rất có thể Tom đúng về chuyện đó. biết điều: Doreen và đám bạn trong Hội đan lát của bà ta chưa bao giờ gặp phải người đàn bà như Ramona Norville.


      Cọc đèn bật sáng. Con chó cũng bắt đầu lên tiếng: oẳng-oẳng, oẳng oẳng oẳng. Tess đợi cho tới khi ánh sáng tắt phụt và con chó im lặng trở lại.


      “Tôi bao giờ có thể biết chắc được, Tom.”


      thể biết trừ khi thử tìm kiếm.”


      “Cho dù ta có biết chăng nữa, ta cũng phải là kẻ cưỡng hiếp tôi.”


      Tom im lặng trong giây lát. nghĩ chàng bỏ cuộc. Nhưng rồi chàng lại lên tiếng, “Khi người làm điều xấu xa và người khác biết song ngăn chặn nó, cả hai đều có tội như nhau.”


      “Trong mắt pháp luật ư?”


      “Và cả trong mắt tôi nữa. Cứ cho rằng chỉ mình Lester là kẻ săn lùng các nạn nhân, cưỡng bức họ, rồi giết họ. Tôi cho là vậy, song chúng ta hãy cứ giả thuyết là thế. Nếu người biết và gì, điều đó cũng khiến ta đáng bị giết. Thực ra, tôi muốn rằng vài viên đạn là quá tử tế với ta. Bị cái que nhọn nóng đỏ xiên qua người gần với công lý hơn.”


      Tess uể oải lắc đầu và đưa tay đặt lên khẩu súng nằm ghế. Còn lại viên đạn. Nếu phải dùng nó với con chó (và việc đó thực lại là thêm vụ án mạng giữa những người bạn nữa), phải tìm khẩu súng khác, trừ khi muốn thử treo cổ mình lên hay bằng cách nào khác. Nhưng những gã như Strehlke thường kiểu gì cũng có súng. Đó là phần tuyệt vời, như Ramona hẳn .


      “Nếu ta biết, phải. Nhưng vẫn còn chữ nếu về khả năng ông này đáng bị viên đạn vào đầu. Bà mẹ, phải rồi - về bà ta, đôi hoa tai là tất cả bằng chứng tôi cần. Nhưng ở đây có bằng chứng nào hết.”


      ư?” Giọng Tom khẽ đến mức Tess hầu như nghe . “Thử kiểm tra xem.”





      .44.

      Con chó sủa khi bước lên các bậc thềm, nhưng có thể hình dung ra nó đứng ngay phía trong cánh cửa với cái đầu cúi xuống và hai hàm răng nhe ra.


      “Goober?” Quỷ tha ma bắt, đó là cái tên cũng phù hợp với con chó nhà quê như bất cứ cái tên nào khác. “Tên tao là Tess. Tao có mấy cái hamburger cho mày. Tao cũng có khẩu súng với viên đạn trong đó. Tao chuẩn bị mở cửa. Nếu tao là mày, tao chọn món thịt. Okay? Thỏa thuận nhé?”


      Vẫn có tiếng sủa nào. Có thể cần phải bật sáng cọc đèn lên để kích thích nó. Hay nàng kẻ trộm mát mắt. Tess thử chìa khóa, rồi chìa khác. ăn thua. Hai chìa khóa đó có lẽ là của văn phòng công ty vận tải. Chiếc chìa thứ ba xoay trong ổ khóa, và mở cửa ra trước khi mất hết can đảm. hình dung ra con chó bun, hay con chó giống Rottweiler dữ tợn, hay con chó ngao với đôi mắt đỏ quạch và hàm răng lởm chởm. Thứ nhìn thấy là con chó lùn giống Jack Russell nhìn đầy hy vọng với cái đuôi vẫy tít.


      Tess cho khẩu súng vào trong áo khoác và vuốt đầu con chó. “Lạy Chúa lòng lành,” . “Thử nghĩ xem mày làm tao phát khiếp đến thế nào.”


      cần phải thế,” Goober . “ cho tôi biết , Al đâu rồi?”


      “Đừng hỏi,” . “Có muốn ít hamburger ? Tao cảnh cáo mày, nó có thể biến mất bất cứ lúc nào đấy.”


      “Cho tôi , bé,” Goober .


      Tess cho nó ăn miếng hamburger, rồi bước vào trong nhà, khóa cửa lại, bật đèn lên. Tại sao ? cho cùng, chỉ có mỗi mình và Goober.


      Alvin Strehlke có ngôi nhà ngăn nắp hơn em trai ta nhiều. Sàn nhà và các bức tường đều sạch , có đống cẩm nang mua bán Uncle Henry’s nào nằm chất đống, và thậm chí còn nhìn thấy vài cuốn sách giá. Cũng có vài nhóm hình nhân Hummel, và bức ảnh lớn lồng khung của Bà Mẹ Quỷ Sứ treo tường. Tess thấy đây là chi tiết rất đáng chú ý, nhưng khó có thể coi đó là bằng chứng khẳng định. Bất cứ điều gì. Nếu có bức ảnh Richard Widmark trong vai Tommy Udo nổi tiếng của ông ta, có thể khắc hẳn.


      cười cái gì vậy?” Goober hỏi. “Có muốn cho tôi biết ?”


      “Thực ra là ,” Tess . “Chúng ta nên bắt đầu từ đâu nhỉ?”


      “Tôi biết,” Goober . “Tôi chỉ là con chó thôi mà. sao về chút nữa món thịt bò ngon lành đó?”


      Tess cho con chó ăn thêm chút thịt nữa. Goober nhổm lên hai chân sau và quay hai vòng. Tess tự hỏi liệu có sắp mất trí hay .


      “Tom? Có gì để ?”


      tìm thấy quần lót của mình trong nhà người em, phải nào?”


      “Phải, và tôi lấy nó . Nó bị rách... và tôi bao giờ muốn mặc lại nó nữa cho dù nó có còn lành lặn... nhưng nó là của tôi.”


      “Và tìm thấy thứ gì khác bên cạnh mớ đồ lót?”


      “Thứ gì khác ư, ý là gì?”


      Nhưng Tom cần phải nhắc để nhớ. Câu hỏi phải là về những gì tìm thấy; đó là câu hỏi về những gì tìm thấy: có xắc tay, và có chìa khóa. Lester Strehlke có thể ném chùm chìa khóa vào rừng. Đó là điều bản thân Tess làm ở vị trí của . Còn chiếc xắc tay là chuyện khác. Đó là chiếc xắc hiệu Kate Spade, rất có giá, và bên trong là dải lụa đính thêm vào có thêu tên đó. Nếu chiếc xắc - và những món đồ trong đó - có ở nhà Lester, và nếu ném chúng vào rừng cùng với chùm chìa khóa của , vậy chúng có thể ở đâu?”


      “Tôi xin bỏ phiếu lựa chọn là ở đây,” Tom . “Hãy thử tìm quanh xem sao.”


      “Thịt!” Goober reo lên, và nhảy thêm vòng nữa.





      .45.

      nên bắt đầu từ đâu?


      “Thôi nào,” Tom . “Đám đàn ông thường cất giấu hầu hết bí mật của họ ở trong hai chỗ: phòng làm việc hay phòng ngủ. Doreen có thể biết điều đó, nhưng có. Và ngôi nhà này có phòng làm việc.”


      vào phòng ngủ của Al Strehlke (bám theo sau là Goober), tại đây nhìn thấy chiếc giường đôi dài quá cỡ được sắp dọn theo kiểu quân . Tess cúi xuống nhìn dưới gầm giường. có gì. định quay sang tủ tường, rồi ngừng lại, và quay trở lại giường. lật đệm lên. Xem nào. Sau năm giây - mà có khi là mười - thốt lên với giọng khô khan dứt khoát.


      “Đây rồi.”


      Nằm hộp lò xo là ba xắc tay phụ nữ. Chiếc xắc ở giữa là món đồ màu kem có lẫy bấm mà Tess có thể nhận ra ở bất cứ chỗ nào. mở nó ra. có gì bên trong ngoài gói khăn giấy Kleenex và chiếc bút chì kẻ mắt với chiếc lược mascara được giấu khéo léo ở nửa . tìm dải lụa có tên mình thêu đó, nhưng dải lụa biến mất. Nó bị tháo cách cẩn thận, nhưng nhìn thấy vết cắt xíu mặt thứ da Italia rất đẹp nơi chỉ may bị tháo ra.


      “Của phải ?” Tom hỏi.


      biết là nó mà.”


      “Thế còn chiếc bút chì kẻ mắt?”


      “Người ta bán cả nghìn thứ như thế tại các cửa hàng khắp nước M...”


      “Có phải của ?”


      “Phải. Đúng là nó.”


      thấy thuyết phục chưa?”


      “Tôi...” Tess nuốt nước bọt. vừa cảm thấy gì đó, nhưng chắc là cái gì. nhõm ư? Hay kinh hãi? “Tôi đoán là thế. Nhưng tại sao? Tại sao lại là cả hai?”


      Tom . chàng cần phải . Doreen có thể biết (hay thừa nhận điều đó nếu bà ta biết, vì các bà lão theo chân bà ta vào các cuộc phiêu lưu thích những thứ ghê rợn), nhưng Tess cho là có. Bởi vì Bà Mẹ làm cả hai đứa con trai trở nên bệnh hoạn. Đó là những gì chuyên gia tâm thần học . Lester là kẻ cưỡng dâm; Al là kẻ sùng bái đồ vật tham gia cách gián tiếp. Thậm chí có thể ta còn ra tay với hay cả hai người phụ nữ trong ống cống. chẳng bao giờ biết chính xác được.


      “Có thể phải mất tới sáng để lục soát cả ngôi nhà,” Tom , “nhưng có thể tìm kiếm trong phần còn lại của căn phòng này, Tessa Jean. Nhiều khả năng ta thủ tiêu mọi thứ có trong xắc - cắt rời thẻ tín dụng thành từng mảnh rồi ném xuống sông Colewich, tôi đoán là vậy - nhưng cần phải đoan chắc, vì bất cứ thứ gì có tên đó cũng có thể dẫn cảnh sát thẳng tới cửa nhà . Hãy bắt đầu bằng cái tủ tường.”


      Tess tìm thấy các thẻ tín dụng của hay bất cứ vật nào khác thuộc về trong tủ tường, nhưng tìm ra thứ. Nó nằm ở tầng cùng. bước xuống khỏi chiếc ghế kê để đứng lên và ngắm nghía vật đó, càng lúc càng thấy ghê rợn: con vịt nhồi bông có thể từng là món đồ chơi ưa thích của đứa trẻ nào đó. trong hai con mắt biến mất, và lớp lông bằng sợi tổng hợp rối bết lại. Lớp lông bị rụng ở đôi chỗ, như thể con vịt được âu yếm tới gần nát tươm.


      chiếc mỏ màu vàng phai có vết màu nâu sẫm.


      “Có phải là thứ tôi nghĩ ?” Tom hỏi.


      “Ôi Tom, tôi cho là vậy.”


      “Những thi thể thấy trong ống cống... có thể nào trong số đó là thi thể đứa trẻ ?”


      , có thi thể nào tới cỡ đó. Nhưng có thể ống cống chạy qua bên dưới Stagg Road phải là nơi giấu nạn nhân duy nhất của em Strehlke.


      “Hãy để trả nó lên giá. Hãy để cho cảnh sát phát ra nó. cần đoan chắc ta chiếc máy tính có các thông tin về trong đó. Sau đó, cần biến khỏi đây.”


      Có thứ gì đó lành lạnh, ươn ướt cọ lên bàn tay Tess. Thiếu chút nữa kêu thét lên. Đó là Goober, ngước lên nhìn với đôi mắt sáng long lanh.


      “Thêm thịt nữa !” Goober , và Tess cho nó thêm ít nữa.


      “Nếu Al Strehlke có cái máy tính,” Tess . “ có thể tin chắc nó có mật mã bảo vệ. Và nhiều khả năng nó chịu mở ra để tôi mò mẫm vào trong đó.”


      “Vậy hãy mang nó và ném xuống dòng sông chết tiệt đó đường quay về nhà. Hãy để nó ngủ cùng với cá.”


      Nhưng chẳng có chiếc máy tính nào hết.


      Ra tới cửa, Tess cho Goober ăn nốt chỗ hamburger còn lại. Nhiều khả năng con chó làm dây bẩn ra khắp thảm trải sàn, song chuyện này cũng còn khiến Lái Xe Bự bận tâm.


      Tom , “ hài lòng chưa, Tessa Jean? có thấy hài lòng vì giết người vô tội ?”


      chắc hẳn mình phải cảm thấy như vậy, vì tự sát giờ đây còn là khả năng được nghĩ tới nữa. “Thế còn Betsy Neal sao, Tom? Còn ta sao?”


      Tom trả lời... nhưng lần nữa, chàng chẳng cần phải làm thế. Bởi vì, cho cùng, chàng chính là .


      Hay phải là ?


      Tess hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Và liệu chuyện đó có quan trọng hay , chừng nào biết cần làm gì tiếp theo? Còn về ngày mai, nó ngày mới. Scarlett O’Hara đúng về điều đó.


      Điều quan trọng hơn cả là cảnh sát cần biết về những thi thể dưới cống ngầm. Vì rất có thể ở đâu đó có những người bạn hay người thân vẫn băn khoăn lo lắng. Và cũng vì...


      “Vì con vịt nhồi bông cho biết rất có thể còn nhiều nữa.”


      Lần này là chính giọng của .


      Và điều đó hoàn toàn đúng.





      .46.

      Vào bảy giờ ba mươi sáng hôm sau, sau gần ba giờ trải qua giấc ngủ đứt quãng ngớt bị ác mộng ám ảnh, Tess khởi động chiếc máy tính trong phòng làm việc của mình. Nhưng phải để viết. Viết là việc cuối cùng bận tâm đến lúc này.


      Betsy Neal có độc thân ? Tess nghĩ là có. hề thấy chiếc nhẫn cưới nào ngày hôm đó trong phòng làm việc của Neal, và trong khi có thể bỏ sót mất chi tiết này, ít nhất cũng có bất cứ bức ảnh gia đình nào. Bức ảnh duy nhất nhớ nhìn thấy là bức ảnh Barack Obama lồng trong khung... và ông ta lập gia đình rồi. Vậy là đúng - Betsy Neal nhiều khả năng ly hôn hoặc chưa lập gia đình. Và nhiều khả năng, chưa được lưu danh ở đâu. Trong trường hợp đó, tìm kiếm Internet chẳng đem lại cho ích lợi gì. Tess nghĩ có lẽ cần tới The Stagger Inn và tìm gặp ta ở đó... nhưng muốn quay trở lại The Stagger Inn. bao giờ.


      “Tại sao lại chuốc lấy rắc rối làm gì?” Fritzy lên tiếng từ bậu cửa sổ. “Ít nhất hãy tìm qua danh bạ điện thoại ở Colewich. Mà tôi ngửi thấy mùi gì người vậy? Có phải là con chó đó ?”


      “Phải. Đó là Goober.”


      “Đồ phản bội,” Fritzy khinh khỉnh .


      Truy vấn tìm kiếm của tìm ra đúng tá Neal. trong số này là E Neal. E là Elizabeth chăng? Chỉ có cách để kiểm tra.


      chút do dự - điều gần như chắc chắn làm mất can đảm cần thiết - Tess bấm số. túa mồ hôi ra đầy người, và tim đập nhanh đến chóng mặt.


      Chuông điện thoại reo lên lần. Rồi hai lần.


      Nhiều khả năng phải là ta. Có thể là Edith Neal. Edwina Neal. Thậm chí là Elvira Neal.


      Ba lần.


      Nếu đây là điện thoại của Betsy Neal, có khi ta còn có nhà. Nhiều khả năng ta nghỉ ở Catskills...


      Bốn lần.


      ... hay giường với ai đó trong đám Thợ nướng bánh Zombie, nếu vậy sao? chàng chơi ghi ta chính. Có thể hai người cùng nhau hát “Cái của có chơi được chó ” dưới vòi hoa sen sau khi ...


      Đầu dây bên kia nhấc máy, và Tess lập tức nhận ra giọng vọng vào tai .


      “Xin chào, bạn gọi tới Betsy Neal, nhưng tôi thể trả lời điện thoại vào lúc này. có tiếng bíp, và bạn biết cần làm gì khi bạn nghe thấy nó. Chúc ngày tốt lành.”


      Tôi ngày tệ hại, xin cảm ơn, và tối hôm qua thậm chí còn tệ hơn...


      Tiếng bíp vang lên, và Tess nghe thấy trước khi ý thức ra mình định làm gì. “Xin chào Neal, tôi là Tessa Jean đây - tác giả của Willow Grove, nhớ chứ? Chúng ta gặp nhau tại The Stagger Inn. trả lại cho tôi chiếc máy Tomtom của tôi và tôi ký tặng sách cho bà của . nhận ra những vết bầm tím của tôi và tôi dối vài chuyện. Nguyên nhân phải là bạn trai, Neal.” Tess bắt đầu nhanh hơn, sợ rằng băng ghi hết trước khi xong... và chợt nhận ra mình muốn kết thúc đến tột độ. “Tôi bị cưỡng dâm, và điều đó tồi tệ, nhưng sau đó tôi tìm cách sửa chữa lại và... tôi... tôi cần chuyện với về chuyện đó vì...”


      tiếng tách đường dây, và sau đó chính Betsy Neal vào tai Tess. “Hãy bắt đầu lại từ đầu,” ta , “nhưng chậm thôi. Tôi vừa mới tỉnh giấc và còn ngái ngủ.”





      .47.

      Hai người gặp nhau vào bữa trưa trong khu công viên ở Colewich. Họ ngồi xuống băng ghế gần bục của dàn nhạc. Tess nghĩ đói, song Betsy Neal dúi chiếc xăng uých vào tay , và Tess nhận ra ăn từng miếng to, khiến nhớ tới Goober hăng hái tấn công món hamburger của Lester Strehlke.


      “Hãy bắt đầu từ đầu,” Betsy . ta có vẻ bình thản, Tess thầm nghĩ - gần như tới mức siêu nhiên. “Hãy bắt đầu từ đầu và kể cho tôi nghe tất cả.”


      Tess bắt đầu từ lời mời của Books & Brown Baggers. Betsy Neal rất ít, chỉ thỉnh thoảng chêm vào câu “Ừ hứ” hay “Okay” để Tess biết ta vẫn theo dõi câu chuyện. Kể chuyện quả là việc khiến người ta rất khát nước. May thay, Betsy cũng mua hai lon sô đa kem Dr. Brown. Tess cầm lấy lon và uống ừng ực.


      Khi kể xong quá giờ chiều. Vài người ít ỏi tìm đến nơi này ăn trưa ở các băng ghế đều cả. Có hai phụ nữ đẩy con dạo xe nôi, nhưng cả hai đều ở cách họ khá xa.


      “Hãy giúp tôi hiểu chỗ này,” Betsy Neal . “ sắp sửa tự sát, và rồi sau đó giọng của bóng ma nào đó bảo quay lại nhà Alvin Strehlke thay vì làm thế.”


      “Phải,” Tess trả lời. “Tại đó tôi tìm thấy xắc tay của mình. Và con vịt với vết máu dính đó.”


      “Còn quần lót của mình tìm thấy ở nhà người em trai.”


      “Lái Xe Bé, đúng thế. Chúng ở trong chiếc Expedition của tôi. Và cái xắc. có muốn thấy chúng ?”


      . Còn khẩu súng sao?”


      “Cũng ở trong xe. Còn viên đạn bên trong.” nhìn Neal cách tò mò, thầm nghĩ: với đôi mắt Picasso. “ sợ tôi sao. là đầu mối nguy hiểm. tóm lại là đầu mối duy nhất tôi có thể nghĩ ra.”


      “Chúng ta ở trong công viên, Tess. Ngoài ra, tôi lời tự thú khá đầy đủ trong hộp thư thoại ở nhà rồi.”


      Tess chớp mắt. Thêm thứ nữa hề nghĩ tới.


      “Thậm chí nếu bằng cách nào đó giết được tôi mà làm hai bà mẹ trẻ ở đằng kia để ý...”


      “Tôi muốn giết ai nữa. ở đây hay ở bất cứ đâu.”


      “Rất tốt được biết điều đó. Bởi vì cho dù có thể thu xếp ổn thỏa được với tôi và hộp thư thoại của tôi, sớm muộn gì cũng có ai đó tìm ra người lái xe taxi đưa tới The Stagger Inn sáng hôm thứ Bảy. Và khi cảnh sát tìm đến , họ phát ra mang mình vô số thương tích đủ để buộc tội .”


      “Phải,” Tess , bị chạm tới chi tiết tồi tệ nhất. “Đúng thế. Vậy giờ thế nào?”


      “Thứ nhất, tôi nghĩ với khôn ngoan nhất là tránh để người khác nhìn thấy hết mức có thể cho tới khi khuôn mặt của trông đẹp đẽ trở lại.”


      “Tôi nghĩ về chuyện này tôi có bình phong cho mình rồi,” Tess , và kể cho Betsy nghe câu chuyện bịa ra đãi Patsy McClain.


      “Khá đấy.”


      Neal... Betsy... có tin tôi ?”


      “Ồ, có chứ,” ta , gần như lơ đãng. “Giờ hãy nghe này. vẫn nghe đấy chứ?”


      Tess gật đầu.


      “Chúng ta là hai phụ nữ tận hưởng cuộc picnic nho trong công viên, và điều đó rất tuyệt. Nhưng sau ngày hôm nay, chúng ta gặp mặt nhau nữa. Được chứ?”


      “Nếu muốn thế,” Tess . Bộ óc của vừa trải qua cảm giác mà quai hàm của cảm thấy sau khi được nha sĩ tiêm cho liều novocain[64].


      “Tôi muốn thế. Và cần phải chuẩn bị sẵn sàng thêm câu chuyện nữa, đề phòng trường hợp cớm hỏi chuyện người lái xe thuê đưa về nhà...”


      “Manuel. Tên ta là Manuel.”


      “... hay người lái taxi đưa tới The Stagger Inn sáng thứ Bảy. Tôi nghĩ ai đó phát ra mối liên hệ giữa và nhà Strehlke chừng nào có giấy tờ tùy thân nào của bị tìm thấy, nhưng khi việc này được công bố rộng rãi, nó trở nên nghiêm trọng và chúng ta thể giả thiết rằng cuộc điều tra đụng chạm tới .” ta cúi người ra trước và vỗ lần lên ngực trái Tess. “Tôi trông đợi vào để đoan chắc nó bao giờ đụng chạm đến tôi. Bởi vì tôi đáng bị như thế.”


      . ta hoàn toàn đáng bị như vậy.


      có thể kể chuyện gì với đám cớm hả? chuyện gì đó hay ho có tôi trong đó. Thôi nào, là nhà văn mà.”


      Tess nghĩ trọn phút. Betsy để yên cho nghĩ.


      “Tôi Ramona Norville cho tôi biết về đường tắt qua Stagg Road sau buổi chuyện của tôi - điều này hoàn toàn đúng - và tôi trông thấy The Stagger Inn khi lái xe ngang qua. Tôi tôi dừng lại ăn tối cách đó vài dặm phía cuối tuyến đường, sau đó quyết định quay trở lại và uống vài ly. Lắng nghe ban nhạc.”


      “Hay đấy. Như thế gọi là...”


      “Tôi biết như thế gọi là gì,” Tess . Có lẽ novocain hết dần tác dụng. “Tôi tôi gặp vài gã đàn ông, uống chầu, và cảm thấy mình quá chếnh choáng để có thể lái xe. có mặt trong câu chuyện này, bởi vì làm việc ban đêm. Tôi cũng có thể ...”


      cần đâu, vậy là đủ rồi. thực rất ấn tượng trong trò này khi bắt đầu để tâm vào. Chỉ có điều đừng tô vẽ thái quá thôi.”


      đâu,” Tess . “Và có thể đây là câu chuyện tôi bao giờ phải kể ra. khi họ tìm thấy nhà Strehlke cùng các nạn nhân của bọn họ, họ tìm kiếm thủ phạm khác trời vực so với quý chuyên viết sách như tôi.”


      Betsy Neal mỉm cười. “Quý chuyên viết sách ư, chết tiệt . ả ma mãnh.” Rồi ta nhìn thấy vẻ hốt hoảng khuôn mặt Tess. “Gì vậy? Giờ gì nữa đây?”


      “Họ có thể liên hệ những phụ nữ trong ống cống với em nhà Strehlke chứ, phải ? Ít nhất là với Lester?”


      ta có dùng bao cao su trước khi cưỡng hiếp ?”


      Tess chớm nhổm dậy khỏi băng ghế, nhưng lại ngồi xuống. “Có việc tôi cần phải biết. thực tế biến mình thành thứ công cụ. Tại sao lại làm thế vì phụ nữ thậm chí còn hề quen biết? người mới chỉ gặp qua lần?”


      lẽ tin rằng vì bà tôi hâm mộ các cuốn sách của và hẳn rất thất vọng nếu bị tống vào tù vì ba án mạng?”


      hề,” Tess .


      Betsy gì trong khoảnh khắc. ta cầm lon Dr. Brown của mình lên, rồi lại đặt xuống. “Rất nhiều phụ nữ bị cưỡng dâm, muốn vậy phải ? Ý tôi là phải trường hợp duy nhất nếu nhìn nhận theo khía cạnh đó, đúng ?”


      , Tess biết phải là duy nhất về mặt đó, song biết vậy cũng làm cho nỗi đau và cảm giác nhục nhã ê chề dịu chút nào. Đồng thời cũng giúp đầu óc nhõm hơn trong lúc chờ đợi kết quả của xét nghiệm AIDS sớm thực .


      Betsy mỉm cười. có gì vui vẻ trong nụ cười đó. Hay đẹp đẽ. “Phụ nữ khắp thế giới bị cưỡng bức trong lúc chúng ta chuyện. Cả những bé nữa. số, nghi ngờ gì nữa, có những con thú nhồi bông cưng. số bị giết, và số sống sót. Trong số những người sống sót, theo có bao nhiêu người trình báo về những gì xảy đến với họ?”


      Tess lắc đầu.


      “Tôi cũng biết,” Betsy , “nhưng tôi biết những gì được công bố trong Chương trình điều tra quốc gia về nạn nhân của các hành vi tội phạm, vì tôi tìm hiểu Google. Sáu mươi phần trăm số vụ cưỡng dâm được trình báo, theo như họ công bố. Ba trong mỗi năm vụ. Tôi nghĩ con số này có thể thấp, nhưng ai dám chắc được? Bên ngoài các lớp học toán, khó chứng minh con số . thực là thể.”


      “Ai cưỡng bức ?” Tess hỏi.


      “Bố dượng tôi. Lúc đó tôi mười hai tuổi. Lão ta dí con dao trét bơ vào mặt tôi trong khi làm chuyện đó. Tôi dám cựa quậy - tôi sợ chết khiếp - nhưng con dao trượt khi lão đạt đến cực khoái. Có thể phải là cố tình, nhưng ai biết được?”


      Betsy dùng bàn tay trái kéo mí mắt dưới của con mắt bên trái xuống. ta khum lòng bàn tay phải bên dưới, và con mắt bằng thủy tinh tuột xuống nằm gọn trong lòng bàn tay. Hốc mắt trống rỗng hơi đỏ và hơi nghếch lên, dường như ngạc nhiên nhìn chằm chằm ra thế giới xung quanh.


      “Cảm giác đau đớn ... vậy đấy, có cách nào để tả lại cảm giác đau đớn đó, đúng vậy. Với tôi, nó giống như ngày tận thế vậy. Và cả máu nữa. Rất nhiều. Mẹ tôi đưa tôi tới bác sĩ. Bà ấy tôi chạy với hai chân chỉ tất và trượt sàn bếp vì bà ấy mới đánh xi sàn. Sau đó, tôi ngã úp sấp ra trước và đập mắt vào góc bàn bếp. Bà ấy bác sĩ muốn chuyện mình với tôi, và bà trông cậy vào tôi. “Mẹ biết ông ấy làm việc kinh khủng với con,” bà ấy , “nhưng nếu người ta tìm ra, họ buộc tội mẹ. Làm ơn, con , hãy làm việc này vì mẹ và mẹ đảm bảo bao giờ có điều gì tồi tệ xảy đến với con nữa”. Và đó là những gì tôi làm.”


      “Và sau đó chuyện ấy lại tái diễn?”


      “Ba hay bốn lần nữa. Và tôi luôn im lặng, vì tôi chỉ còn lại con mắt duy nhất. Nghe này, chúng ta kết thúc ở đây thôi chứ?”


      Tess định ôm lấy ta, nhưng Betsy lùi lại - như con ma cà rồng nhìn thấy thập giá vậy, Tess nghĩ.


      “Đừng làm thế,” Betsy .


      “Nhưng...”


      “Tôi biết, tôi biết, cảm ơn, thể tình đoàn kết, là chị em mãi mãi, blah-blah-blah. Tôi thích ai ôm mình, có vậy thôi. Chúng ta kết thúc ở đây được rồi chứ?”


      “Chúng ta kết thúc.”


      “Vậy hãy . Và nếu là tôi, tôi ném khẩu súng đó xuống sông đường về nhà. đốt lời thú tội rồi chứ?”


      Vâng. Tất nhiên.


      Betsy gật đầu. “Và tôi xóa lời nhắn để lại trong hộp thư thoại của tôi.”


      Tess bước . chỉ ngoái lại nhìn lần. Betsy Neal vẫn ngồi băng ghế. ta lắp con mắt giả vào.





      .48.

      Trong chiếc Expedition của mình, Tess chợt nghĩ ý tưởng rất hay nếu xóa hết những hành trình trong vài ngày gần đây khỏi thiết bị GPS. bật nút nguồn, và màn hình sáng lên. Tom : “Xin chào, Tess. Tôi thấy chúng ta thực chuyến .”


      Tess hoàn tất việc thực điều vừa quyết định, rồi lại tắt thiết bị GPS . Đây thực chuyến ; chỉ quay về nhà. Và nghĩ có thể tự mình tìm được đường.



      [1] Thành phố ở tiểu bang Illinois, Mỹ.

      [2] Thành phố tiểu bang Massachusetts, Mỹ.

      [3] 1 dặm = 1,609 km.

      [4] Tức là Book & Brown Baggers.

      [5] Tên hệ thống khách sạn.

      [6] Tên hệ thống khách sạn.

      [7] I là viết tắt của Interstate, có nghĩa là tuyến đường liên tiểu bang.

      [8] Nhân vật nữ thám tử trong nhiều tiểu thuyết của Agatha Christie.

      [9] Tên chuỗi siêu thị ở Mỹ

      [10] hồ nước nhân tạo thuộc sở hữu của công ty tư nhân tại tiểu bang Bắc Carolina, Mỹ.

      [11] thương hiệu giày dép.

      [12] 1 yard = 0,9144m

      [13] Tức Standard Oil, công ty dầu mỏ Mỹ.

      [14] Theo truyền thuyết phương Tây, zombie là những xác chết sống lại nhờ các phép thuật như phép phù thủy.

      [15] Tên thương hiệu keo dán.

      [16] Biểu tượng cho thương hiệu đậu hạt đóng hộp của công ty Green Giant Company tại Mỹ

      [17] bộ phim kinh dị cùa Mỹ sản xuất năm 1972.

      [18] 1 cân (pound) = 0,453 kg.

      [19] 1 inch = 2,54cm

      [20] 1 yard = 0,9144m

      [21] nhóm nhạc rock Canada nổi tiếng từ những năm 1970.

      [22] giống sinh vật tưởng tượng trong tiểu thuyết giả tưởng Máy Thời Gian của H.G.Wells.

      [23] Trạm xăng và siêu thị mini.

      [24] Tên loại thuốc giảm đau bán tổng hợp có tác dụng gẩn giống như morphin hay heroin.

      [25] loại súng ngắn bắn đạn cỡ 9mm.

      [26] hiệp hội kinh doanh bất động sản lớn tại Mỹ.

      [27] nữ diễn viên Mỹ.

      [28] loại thuốc giảm đau chứa paracetamol và hydrocodone.

      [29] bộ phim kinh dị của Alfred Hitchcock, trong đó có cảnh nạn nhân bị đâm chết dưới vòi hoa sen.

      [30] Thuốc hạ nhiệt, giảm đau chứa paracetamol và oxycodone.

      [31] thương hiệu thời trang dành cho nữ giới.

      [32] Salvador Dali ( 1904 - 1989) họa sĩ theo trường phái siêu thực người Tây Ban Nha.

      [33] Deputy Dawg, tên xê ri phim hoạt hình hài phát truyền hình Mỹ lần đầu vào những năm 1962 - 1963.

      [34] loại bánh ngọt của hãng Kellogg.

      [35] chương trình chuyện truyền hình do Phil McGraw dẫn.

      [36] Hawk là chim ưng, Eagle là đại bàng.

      [37] Vận chuyển bằng xe tải Chim cốc

      [38] Rượu mạnh cất từ cây thùa.

      [39] Chim ưng đỏ

      [40] Biểu tựng hình đầu người rất hay được sử dụng Internet

      [41] Tên thương mại loại thuốc giảm đau hạ sốt chứa Paracetamol.

      [42] 1 foot = 30 cm.

      [43] Tên bộ phim kinh dị phát hành năm 2004.

      [44] Buổi tiệc kết hợp với việc quảng bá sản phẩm được tổ chức tại tư gia của người tham gia mạng lưới quảng bá, hình thức marketing trực tiếp do tập đoàn Tupperware tiên phong trong việc vận dụng.

      [45] Bản đồ vệ tinh trực tuyến, dịch vụ của Google.

      [46] Tên bài hát dân ca Mỹ có nguồn gốc từ thế kỷ 19.

      [47] Gia đình trong phim Những giai điệu hạnh phúc.

      [48] Tượng sứ được chế tạo dựa theo những bức vẽ của xơ Maria Innoccntia Hummel, nữ tu và nghệ sĩ người Đức.

      [49] Hình những chú gấu do American Greetings sáng tạo năm 1981 để in các thiệp mừng.

      [50] câu chuyện kể của em Grimm, trong đó mụ phù thủy sống trong ngôi nhà làm bằng bánh ngọt.

      [51] loại bánh giòn hương pho mát.

      [52] loại đồ uống ít năng lượng

      [53] Tạp chí ra hang tuần đăng tải các chương trình truyền hình được phát sóng

      [54] loại hambunger kẹp thịt.

      [55] Nhân vật kẻ sát nhân bệnh hoạn do Richard Widmark đóng trong phim Nụ hôn của Cái chết.

      [56] 1 gallon Mỹ = 3,79 lít.

      [57] Bánh ngọt làm từ vụn bánh mì khô, trứng, nho khô.

      [58] Xe đa dụng thể thao.

      [59] Ca sĩ nhạc đồng quê Mỹ.

      [60] Các vùng lãnh thổ được khoanh vùng riêng cho các bộ lạc da đỏ tại Mỹ.

      [61] nhà sản xuất chương trình truyền hình.

      [62] Lone Ranger, nhân vật nổi tiếng phát thanh và truyền hình Mỹ, cựu cảnh sát Texas bịt mặt chuyên thi hành công lý cùng người trợ thủ Tonto.

      [63] nữ nhà văn , tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám với nhân vật Lord Peter Wimsey.

      [64] loại thuốc gây tê.

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :