CHƯƠNG 40 “Giáo sư?” “Ông là Steve Macy?” Vị giáo sư ăn mặc trông khá luộm thuộm; diện cái nơ bướm và chiếc áo vải tuýt, ngồi phía sau đống giấy tờ phủ đầy bàn làm việc. Ông ta cười: “Vâng, thưa giáo sư”. “Tôi là Richard Mathers. Còn đây là Geneva Settle.” bé chừng mười mấy tuổi thấp bé, màu da tối đen y như màu da của vị giáo sư. Geneva nhìn ông ta và gật đầu chào. bé nhìn cách thích thú vào cái hộp mà ông ta vác theo. bé quá trẻ. Liệu có thể giết bé ? Rồi hình ảnh lễ cưới đứa con chiếc bục tại hồ cạnh ngôi nhà nghỉ dưỡng lóe lên trong tâm trí; kéo theo loạt những hình ảnh khác như: Chiếc Mercedes AMG mà vợ muốn, thẻ thành viên ở sân golf Augusta; kế hoạch cho bữa tối sắp xếp vào buổi tối nay ở L’Etoile, khách sạn được tờ New York Times xếp hạng ba sao. Những hình ảnh ấy trả lời cho câu hỏi của . Ashberry đặt chiếc hộp lên sàn. có cảnh sát ở bên trong, nhấn mạnh và tự trấn an mình. bắt tay Mathers, nghĩ: Mẹ kiếp, họ có thể lấy dấu vân tay từ da thịt. Sau khi nổ súng hạ họ, phải mất thêm thời gian để lau sạch lòng bàn tay ông giáo sư. ( nhớ những gì mà Thompson Boyd với rằng: Khi đối điện với cái chết, ta làm mọi thứ theo quyển sách, hoặc ta phải bỏ công việc.) Ashberry mỉm cười với bé. cần phải bắt tay. nhìn quanh văn phòng, lựa chọn góc độ. “Xin lỗi vì bừa bộn”, Mathers . “Văn phòng của tôi cũng chẳng ngăn nắp hơn đâu”, với nụ cười nhạt. Căn phòng lấp đầy sách, tạp chí và hàng chồng bản photocopy. tường là loạt bằng cấp. Hóa ra là, Mathers phải là giáo sư về lịch sử mà là giáo sư về luật. người khá nổi tiếng, ràng là thế, Ashberry nhìn vào bức ảnh vị giáo sư chụp với Bill Clinton và thị trưởng trước đây Giuliani. Khi nhìn những bức ảnh này, lòng thương hại lại dâng lên môt lần nữa nhưng nó thực chẳng hơn gì tiếng bíp mờ nhạt nháy lên màn hình máy tính lúc này. Ashberry lúc này cảm thấy thoải mái với ý nghĩ rằng ngồi trong phòng với hai người chết rồi. Họ trò chuyện vài phút, Ashberry những cụm từ mơ hồ về các trường học và thư viện ở Philadelphia, tránh mọi bình luận trực tiếp về việc tìm kiếm cái gì. giữ thế chủ động, hỏi vị giáo sư: “Chính xác ông nghiên cứu cái gì?”. Mathers để cho Geneva giải thích về việc họ cố gắng tìm hiểu người tổ tiên của bé, Charles Singleton, cựu nô lệ. “Điều đó khá là kỳ lạ”, . “Cảnh sát nghĩ rằng có liên quan giữa ông ấy và vài tội, những vụ việc vừa mới xảy ra. Nhưng hóa ra lại phải, ý cháu là đúng. Nhưng tất cả đều tò mò với điều gì xảy ra cho ông ấy. Có vẻ như ai biết.” “Hãy xem ông có gì nào”, Mathers , lau sạch chấm chiếc bàn thấp phía trước bàn làm việc của ông ta. “Tôi lấy chiếc ghế khác.” Lúc này đây, Ashberry nghĩ. Tim bắt đầu đập nhanh. Rồi nhớ lại lưỡi dao sắc lẹm cắt vào da thịt của người bán hàng, sáu centimet cho hai ngày chậm khoản tiền bảo kê. Ashberry hầu như chẳng nghe thấy tiếng hét của người đàn ông. Nhớ lại tất cả những tháng ngày làm việc đến gãy lưng để tới được vị trí hôm nay. Nhớ lại đôi mắt chết chóc của Thompson Boyd. ngay lập tức trở nên bình tĩnh. Ngay khi Mathers bước vào hành lang, Ashberry nhìn ra ngoài cửa sổ. Người cảnh sát vẫn ngồi trong xe, cách khoảng mười lăm mét, và tòa nhà có tường dày và kín đến mức ta thậm chí có thể nghe thấy tiếng súng. Với chiếc bàn ngăn cách và Geneva, cúi xuống, bới qua đống giấy. nắm lấy khẩu súng hoa cải cưa nòng. “Ông có tìm bức tranh nào ?”, Geneva hỏi. “Cháu rất muốn tìm hiểu nhiều hơn về khu vực xung quanh như thế nào trong quá khứ.” “Ta có ít. Ta nghĩ thế.” Mathers quay lại. “Cà phê nhé?”, có tiếng vọng lại từ trong hành lang. “, cảm ơn.” Ashberry quay ra cửa. Chí lúc này đây. bắt đầu đứng dậy, kéo khẩu súng ra khỏi hộp, giữ nó thấp hơn tầm mắt của Geneva. Nhắm vào phía cửa, ngón tay đặt lên cò súng. Nhưng có gì đó ổn. Mathers có vẻ như xuất . Đó là lúc Ashberry cảm thấy có cái gì đó bằng kim loại chạm vào tai của mình. “William Ashberry, ông bị bắt. Tôi có súng.” Đó là giọng bé, mặc dù nó rất khác, là giọng của người trưởng thành. “Để cái khẩu súng lên bàn. Ngay.” Ashberry đông cứng. “Nhưng…” “Khẩu súng. Đặt nó xuống.” thúc vào đầu bằng khẩu súng. “Tôi là cảnh sát. Và tôi sẵn sàng nổ súng.” Ôi, Chúa ơi, ... Đây là cái bẫy! “Nghe này, giờ làm theo những gì ấy .” Tiếng của vị giáo sư - tất nhiên đó phải Mathers. Đó cũng là người đóng thế, cảnh sát giả vờ là giáo sư. nhìn sang bên. Người đàn ông quay lại vào văn phòng bằng cửa bên. cổ ông ta lủng lẳng tấm thẻ FBI. Và cũng nắm khẩu súng. Làm thế quái nào mà họ lần ra được? Ashberry tự hỏi trong bực tức. “Và đừng có di chuyển cái khẩu súng quá milimet. Tất cả chúng tôi đều nhằm vào đó rồi.” “Tôi với ông lần nữa đâu”, với giọng bình tĩnh. “Làm ngay .” vẫn động đậy. Ashberry nghĩ tới ông nội mình, tay gangster, nghĩ tới tiếng hét của người bán hàng, nghĩ tới đám cưới của con mình. Thompson Boyd làm gì? Làm theo quyển sách và từ bỏ. Chẳng có cách quái nào cả. Ashberry sụp xuống lộn vòng và lăn, nhanh như chợp, giơ khẩu súng lên. Có ai đó hét lên: “Đừng!”. Đó là từ cuối cùng có thể thấy.
CHƯƠNG 41 “Quả là khung cảnh đẹp”, Thomp . Lincoln Rhyme nhìn ra bên ngoài cửa sổ phía dòng sông Hudson, những vách đá của dãy Palisades bờ bên kia và những ngọn đồi xa xa của New Jersey. Có thể là của Pennsylvania nữa. quay ngay lập tức, vẻ biểu cảm mặt giải thích rằng cái khung cảnh rộng bao la, giống như mọi người vẫn , khiến cảm thấy nhàm chán cảm xúc. Họ ở trong văn phòng tổ chức Sandford của William Ashberry, chết nóc cùa tòa nhà Hiram Sanford phố 82 về phía tây. Phố Wall vẫn còn xôn xao tin tức về cái chết của người đàn ông và việc ông ta liên quan tới hàng loạt vụ phạm tội trong những ngày vừa qua. Cộng đồng tài chính hề mất động lực để hoạt động, so với những gì xảy ra đối với các cổ đông và nhân viên của tập đoàn Enron và Global crossing[1], cái chết của nhà điều hành của công ty đầy lợi ích chấn động đến mức như thế. [1] Tên hai công ty của Mỹ với hai vụ bê bối rất lớn về gian dối và sai lầm của lãnh đạo trong tổ chức hoạt động. Amelia Sachs khám nghiệm kỹ lưỡng văn phòng, lấy những bằng chứng kết nối Ashberry với Boyd và dùng băng dính dán tách riêng những phần nhất định trong căn phòng. Cuộc họp diễn ra trong khu vực được dọn dẹp sạch , với những cửa sổ được lau sạch các vết ố bẩn và những tấm bảng từ gỗ hồng sắc. Ngồi bên cạnh Rhyme và Thomp là Geneva Settle cùng luật sư Wesley Goades. Rhyme cảm thấy thích thú vì có đôi lúc thực nghi ngờ đồng lõa của Goades trong vụ việc - do xuất bất ngờ của ông ta ở căn hộ của Rhyme, tìm kiếm Geneva, và tình tiết về Tu chính án số 14; viên luật sư hẳn phải có động cơ lớn lao để chắc chắn rằng có gì gây nguy hiểm tới vũ khí quan trọng cho những người ủng hộ tự do. Rhyme cũng từng tự hỏi có phải lòng trung thành của người đàn ông với công ty bảo hiểm trước đây khiến ông ta phản bội Geneva . Nhưng Rhyme hề chia sẻ nghi ngờ về viên luật sư và do đó có gì để xin thứ lỗi cả. Sau khi Rhyme và Sachs phát ra rằng vụ án chuyển sang hướng mong đợi, nhà tội phạm học gợi ý Goades ở lại chờ xem chuyện gì din ra tiếp theo. Tất nhiên là, Geneva Settle, hoàn toàn ủng hộ việc nhờ ông ấy giúp đỡ. Bên kia chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch là Gregory Hanson, Chủ tịc h ngân hàng Sanford, thư ký của ông, Stella Tumer, và cộng cấp cao ở công ty luật Sanford, luật sư có dáng vẻ gọn gàng tầm bốn mươi tuổi tên là Anthony Cole. Họ đều tỏ ra thoải mái, mà Rhyme cho là xuất từ ngày hôm qua khi gọi cho Hanson để đề nghị buổi họp về “vấn đề Ashberry”. Hanson đồng ý nhưng thêm vào cách nhanh chóng và ngán ngẩm rằng ông ta thực rất sốc như những người khác khi biết về cái chết của Ashberry trong vụ nổ súng ở Đại học Columbia vài ngày trước. Ông ấy biết gì về điều đó - hay về bất cứ vụ cướp hàng trang sức cũng như tấn công khủng bố nào cả - ngoại trừ những gì đọc báo. Vậy chính xác là Rhyme và cảnh sát muốn gì? Rhyme đưa ra lời đậm ngôn ngữ của cảnh sát: “Chỉ là câu trả lời cho vài câu hỏi thủ tục thôi”. Giờ, họ xong phần mào đầu câu chuyện, Hanson hỏi: “ có thể cho chúng tôi biết đó là gì ?”. Rhyme thẳng vào vấn đề luôn: giải thích rằng William Ashberry thuê Thompson Boyd, sát thủ chuyên nghiệp, giết Geneva Settle. Ba người thảng thốt nhìn về phía bé mảnh khảnh ngồi đối diện. bé bình tĩnh nhìn từng người . Nhà tội phạm học tiếp tục thêm vào rằng Ashberry cảm thấy điều hiển nhiên là ai biết lý do mà muốn bé chết nên cùng với Boyd dựng lên vài động cơ giả cho cái chết của bé. Lúc đầu vụ giết người được dàn dựng sao cho giống với vụ hiếp dâm. Dù vậy, Rhyme nhìn xuyên qua mưu đó ngay lập tức, và khi tiếp tục tìm kiếm kẻ giết người, và đồng đội tìm ra lý do cho vụ án là: Geneva có thể nhận dạng kẻ khủng bố lên kế hoạch vụ tấn công. “Nhưng lại có vài vấn đề với lý do này: Kẻ đánh bom chết có thể kết thúc toàn bộ cầu cần phải giết Geneva. Nhưng như thế. Đồng phạm của Boyd tiếp tục cố gắng lần nữa. Chuyện gì diễn ra? Chúng tôi lần ra gã bán quả bom cho Boyd, tên phóng hỏa đốt nhà ở New Jersey. FBI tóm cổ . Chúng tôi thấy liên hệ giữa những tờ đô la của với ngôi nhà náu của Boyd. Điều đó khiến trở thành đồng lõa cho vụ giết người này và đồng ý với thỏa thuận. với chúng tôi rằng mình giúp cho Boyd và Ashberry biết nhau…” “Dù sao , tên khủng bố này”, viên luật sư của ngân hàng cách ngờ vực, với tiếng cười chua chát: “Bill Ashberry và khủng bố ư? Nó…”. “Dẫn đến kết cục đó”, Rhyme , với giọng chua chát kém. Có lẽ còn hơn. tiếp tục giải thích: Những lời khẳng định của tên chế tạo bom đủ để đưa ra lệnh bắt giữ Ashberry. Nên Rhyme và Sellito phải quyết định rằng họ cần phải khiến ra mặt. Họ gài cảnh sát ở trường của Geneva, người đàn ông giả vờ là phó hiệu trường. Bất cứ ai gọi điện hỏi về Geneva được rằng bé ở Đại học Columbia với giáo sư luật. Vị giáo sư đồng ý để họ sử dụng chỉ tên ông ta mà cả văn phòng nữa. Fred Dellray và Jonette Monroe, cảnh sát với vỏ bọc nữ sinh giang hồ ở trường trung học của Geneva, rất vui khi đóng vai vị giáo sư và nữ sinh. Họ thực nhiệm vụ cách nhanh chóng và triệt để nhằm dựng lên màn kịch, tạo vài bức ảnh giả bằng photoshop của Dellray với Bill Cliton và Rudy Giuliani, để bảo đảm rằng Ashberry đoán ra họ giả dạng. Rhyme lúc này giải thích những kiện cho Hanson và Cole, thêm vào các chi tiết về vụ cố tình giết người ở văn phòng của Mathers. lắc đầu. “Tôi đáng ra phải đoán được hung thủ có liên quan tới ngân hàng. có thể rút lượng lớn tiền mặt và giả mạo vài báo cáo. Nhưng…”, Rhyme hất đầu về phía vị luật sư, “ định làm gì mới được? Tôi biết là những người theo Thiên Chúa giáo chẳng bao giờ ủng hộ cho mầm mống khủng bố cả.” Chẳng ai cười. Rhyme nghĩ rằng, người làm ngân hàng, luật sư, chẳng ai có khiếu hài hước cả. tiếp tục: “Bởi vậy tôi quay trở lại với các bằng chứng và để ý thấy có điều gì đó khiến mình cảm thấy băn khoăn: có bộ điều khiển phát tín hiệu vô tuyến để kích nổ quả bom. Nó đáng lẽ phải nằm trong các mảnh vụn cùa chiếc xe tải, nhưng lại hề có.” “Tại sao ? Hoặc kết luận ở đây là Boyd và cộng của mình đặt quả bom lên đó và giữ bộ kích nổ để điều khiển quả bom như đánh lạc hướng để lôi chúng ta tìm ra động cơ cho việc giết Geneva.” “Được rồi”, Hanson . “Động cơ . Là gì mới được?” “Phải suy nghĩ kỹ về nó. Lúc đầu tôi nghĩ rằng có thể Geneva nhìn thấy vài người thuê nhà bị đuổi cách bất hợp pháp khi tẩy xóa các hình vẽ graffiti khỏi các tòa nhà cũ cho công ty phát triển đầu tư. Nhưng tôi nhìn vào nơi mà s việc đó diễn ra và tìm ra rằng ngân hàng Sanford hề liên quan tới các tòa nhà đó. Vậy , nó bỏ rơi chúng ta ở đâu? Tôi chỉ có thể quay trở lại với nơi mà lúc đầu chúng tôi nghĩ đến...” giải thích về tờ tạp chí Tuần báo Minh họa dành cho người da màu mà Boyd lấy mất. “Tôi quên mất rằng có ai đó truy lùng tờ tạp chí trước khi Geneva được cho là nhìn thấy chiếc xe tải và tên khủng bố. Tôi nghĩ tới khả năng Ashberry lao vào bài báo đó khi tổ chức Sanford nâng cấp lại kho lưu trữ của họ vào tháng trước. làm vài nghiên cứu và phát ra việc gì đó thực phiền phức, việc mà có thể phá hủy cả cuộc đời . hủy bản copy của tổ chức và quyết định rằng phải phá hủy tất cả những bản sao của tờ tạp chí. Trong suốt vài tuần vừa qua, tìm ra hầu hết các bản sao này - nhưng vẫn còn cái sót lại trong khu vực: Người thủ thư ở bảo tàng Mỹ - Phi tại Midtown lấy bản copy trong kho lưu trữ và hẳn phải báo cho Ashberry, cách ngẫu nhiên, rằng có bé quan tâm tới cái chủ đề này. Ashberry biết mình phải phá hủy bài báo và giết Geneva, cùng với người thủ thư, vì ông ấy có thể liên hệ họ với nhau.” “Nhưng tôi vẫn hiểu tại sao”, Cole, vị luật sư . chua chát trong giọng giờ biến thành cáu gắt thực . Rhyme giải thích nốt mảnh ghép cuối cùng của câu đố: đề cập đến câu chuyện về Charles Singleton, trang trại ông ấy được tặng từ ông chủ của mình và vụ cướp ở Quỹ Nô lệ tự do - và về việc người cựu nô lệ có giữ bí mật. “Đó là câu trả lời cho việc tại sao Charles bị dàn dựng vụ cướp vào năm 1868. Và đó là câu trả lời cho lý do Ashberry phải giết Geneva.” “Bí mật?”, Stella, thư ký hỏi. “Vâng, đúng. Cuối cùng tôi tìm ra nó là gì. Tôi nhớ đến điều mà cha của Geneva với chúng tôi. Ông ấy rằng Charles dạy miễn phí ở ngôi trường dành cho người da đen ở gần nhà mình và ông ấy bán rượu táo cho những công nhân đóng tàu đường.” Rhyme lắc đầu mình. “Tôi đưa ra giả định thiếu cẩn thận. Chúng tôi nghe rằng trang trại cùa ông ấy ở tiểu bang New York... Và đúng là nó ở New York. Trừ việc nó phải là ở khu phía bắc của bang, như chúng ta vẫn nghĩ.” “ phải à? Vậy nó ở đâu?”, Hanson hỏi. “Rất dễ để tìm ra”, tiếp tục. “Nếu vẫn nhớ rằng có những trang trại vẫn làm việc ở đây trong thành phố cho đến cuối những năm 1800.” “Ý là trang trại của ông ta ở Manhattan?”, Stella hỏi. “ chỉ vậy”, Rhyme . “Nó ở ngay dưới tòa nhà này.”
CHƯƠNG 42 “Chúng tôi tìm thấy bản vẽ về Gallows Heights trong những năm 1800 cho thấy có ba khu đất lớn được trồng cây. trong các khu đất ấy bao gồm tòa nhà này và vài dãy phố xung quanh. Bên kia con đường trước đây là ngôi trường miễn phí dành cho người da đen. Phải chăng đó chính là ngôi trường mà ông ấy dạy? Và ở dòng sông Hudson…” Rhyme nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ở ngay chỗ này, con phố 81, là vũng tàu cạn và xưởng đóng tàu. Có thể nào những người công nhân ở đó chính là những người mà Charles bán rượu táo?” “Nhưng liệu khu đất có phải của ông ấy ? Có cách đơn giản để tìm ra điều đó. Thom kiểm tra ở văn phòng lưu trữ Manhattan và tìm thấy giấy tờ, văn bản ghi chép từ ông chủ của Charles cho ông ấy. Đúng vậy, mảnh đất thuộc về ông ấy. Rồi chúng tôi hiểu ra tất cả mọi việc. Mọi tài liệu mà chúng tôi tìm thấy liên quan đến những buổi họp ở Gallows Heights - với các chính trị gia và những nhà lãnh đạo nhân quyền? Đó là nhà của Charles, là nơi mà họ gặp gỡ. Đó là bí mật của ông ấy - là việc ông ấy sở hữu mười lăm mẫu đất đẹp nhất ở Manhattan.” “Nhưng tại sao đó lại là bí mật chứ?”, Hanson hỏi. “Ồ, ông ấy dám với ai rằng mình là chủ sở hữu. Tất nhiên là ông ấy muốn. Đó là điều thực giày vò và khiến ông ấy băn khoăn, ông ấy tự hào rằng mình sở hữu trang trại lớn trong thành phố. Ông ấy tin rằng mình có thể trở thành hình mẫu cho những người cựu nô lệ khác. Cho họ thấy rằng họ đều có thể được đối xử như người đầy đủ quyền lợi, và được coi trọng. Rằng họ có thể sở hữu đất đai và làm việc đó, là những thành viên của cộng đồng. Nhưng ông ấy nhìn thấy những vụ nổi loạn do việc cưỡng bức quân dịch, những vụ hành hình người da đen, đốt phá. Vậy nên ông ấy và vợ mình giả vờ là những người cai quản đất, sợ rằng có ai đó phát ra cựu nô lệ sở hữu mảnh đất lớn có giá trị và phá hủy nó. Hoặc, đúng hơn là, lấy nó từ ông ấy.” “Mà”, Geneva : “Chính xác là việc đó xảy raspan>Rhyme tiếp tục: “Khi Charles bị buộc tội, tất cả tài sản cùa ông ấy bị tịch thu - bao gồm cả trang trại - và bán ... Giờ, chúng ta có giả thuyết thú vị: Dựng tội ai đó với những lời cáo buộc giả dối để lấy tài sản của người đó. Nhưng có bằng chứng nào ? Quả là nhiệm vụ khủng khiếp - trăm bốn mươi năm sau đó - về vụ án chưa có lời giải đáp... Chà, có vài bằng chứng. Những két sắt của Exeter Strongbow - loại mà Charles bị buộc tội phá hủy tại Quỹ Nô lệ tự do - được làm ở nên tôi gọi cho người bạn ở Sở cảnh sát Scotland. ấy với thợ khóa hình , ta rằng thể nào phá vỡ cái két Exeter thế kỷ XIX chỉ bằng cái búa và cái đục, những dụng cụ được tìm thấy tại trường. Ngay cả những chiếc máy khoan hơi nước thời kỳ đó cũng mất ba đến bốn giờ đồng hồ - và bài báo về vụ trộm rằng Charles chỉ ở bên trong tòa nhà đó vẻn vẹn hai mươi phút đồng hồ”. “Những kết luận tiếp theo là: Có ai khác cướp chỗ đó, và đặt vài dụng cụ của Charles ở trường rồi mua chuộc nhân chứng để bịa đặt về ông ấy. Tôi nghĩ rằng tên trộm thực là gã mà chúng tôi tìm thấy bị chôn bên dưới tầng hầm của quán Potter’s Field.” giải thích về chiếc nhẫn Winskinskie và người đàn ông đeo nó - rằng đó là nhân viên thuộc bộ máy chính trị tham nhũng Tammany Hall. “Đó là trong những người thân cận với Boss Tweed. người khác đó là William Simms, viên thanh tra bắt Charles. Simms sau đó bị truy tố vì hối lộ và đặt bằng chứng giả chống lại các nghi phạm. Simms, gã Winskinskie, quan tòa và công tố viên tất cả đều sắp đặt việc buộc tội Charles. Tất cả họ giữ trong tay số tiền bị ăn trộm mà được tìm lại.” “Vậy chúng ta khẳng định rằng Charles sử hữu khu đất lớn ở Gallows Heights và ông ấy dựng chuyện để ai đó có thể lấy mảnh đất.” Lông mày rướn lên. “Câu hỏi logic tiếp theo là gì? Câu hỏi lớn?” có ai hỏi. “ ràng: Hung thủ thực là kẻ nào chứ?”, Rhyme . “Ai cướp của Charles? Chà, cho rằng động cơ là lấy trộm trang trại của ông ấy, tất cả những gì tôi phải làm là tìm ra ai đứng tên mảnh đất.” “Đó là ai?”, Hanson hỏi, nghe có vẻ khó chịu nhưng vẫn nắm được vài tình tiết lịch sử. thư ký vuốt váy và : “Boss Tweed?”. “, đó là đồng nghiệp của ông ta. người thường được nhìn thấy ở quán rượu Potter’s Field, cùng với vài kẻ tai tiếng khác lúc đó - Jim Fisk, Jay Gould và Simms.” nhìn từng khuôn mặt bên kia chiếc bàn. “Tên ông ta là Hiram Sanford.” Người phụ nữ chợp chợp mắt. Sau lát ta : “Người thành lập ngân hàng chúng tôi”. “Người duy nhất.” “ là lố bịch”, Cole, vị luật sư . “Làm sao mà ông ấy có thể làm điều đó? Ông ấy là trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở New York.” “Cũng như William Ashberry?”, nhà tội phạm học hỏi cách mỉa mai. “Thế giới cạnh tranh làm ăn lúc đó thực hề khác chút nào so với bây giờ. Có rất nhiều nhà đầu cơ tích trữ tài chính - trong những bức thư của Charles có trích từ New York Tribune đề cập đến ‘ bùng nổ các bong bóng’ ở phố Wall. Đường sắt là mạng công nghệ thông tin của những năm 1800. Cổ phiếu của họ được đánh giá quá cao và bị phá sản. Sanford hầu như mất hết tiền bạc khi chuyện đó xảy ra và Tweed đồng ý trợ giúp ông ta. Nhưng, là Tweed, về bản chất ông ta muốn sử dụng tiền của người khác để làm điều đó. Vậy nên cả hai người bọn họ dựng chuyện cho Charles, và Sanford mua vườn cây trong phiên đấu giá được sắp đặt với phần giá trị thực của nó. Ông ta phá ngôi nhà của Charles và xây dựng tòa dinh thự của mình đó, nơi mà chúng ta ngồi đây.” cái hất đầu ra ngoài cửa sổ về phía những dãy phố gần đó. “Và rồi ông ta cũng như con cháu và những người thừa kế sau đó phát triển mảnh đất hoặc bán nó từng ít, từng ít .” “Chẳng lẽ Charles hề phản bác rằng mình vô tội sao, với họ những chuyện xảy ra?”, Hanson hỏi. Rhyme chế giễu: “ cựu nô lệ chống lại bộ máy Tammany Hall phản đối người da đen? Liệu nó có bao nhiêu phần thành công? Hon nữa, ông ấy giết gã đàn ông trong quán rượu”. “Vậy ông ta là kẻ giết người”, Cole lập tức chỉ ra. “Tất nhiên là ”, Rhyme đáp lời luôn, “Ông ấy cần gã Winskinskie sống - để chứng minh rằng mình vô tội. Cái chết của là vì tự vệ. Nhưng Charles có lựa chọn nào ngoài việc che giấu cái xác và giấu giếm vụ nổ súng. Nếu họ tìm ra, ông ấy bị treo cổ.” Hanson lắc đầu. “Chỉ có điều chả có ý nghĩa gì cả: Tại sao việc ông Hiram Sanford làm từ rất lâu rồi lại có thể ảnh hưởng tới Bill Ashberry? Cứ cho đó là hình thức quảng bá tồi tệ - nhà sáng lập ngân hàng lấy trộm tài sản cùa cựu nô lệ? Đó là mười phút xấu xí bản tin buổi tối. Nhưng thẳng thắn các trợ lý có thể giải quyết những vấn đề kiểu như vậy. Nó đáng để giết ai đó vì điều này.” “À”, Rhyme gật đầu. “ câu hỏi rất hay... Chúng tôi làm nghiên cứu. Ashberry chịu trách nhiệm cho bộ phận Bất động sản của các ông, đúng ?” “Đúng vậy.” “Nhưng nếu bộ phận này sụp đổ ông ta mất công việc và hầu hết tài sản đúng ?” “Tôi nghĩ vậy. Nhưng tại sao mà nó có thể sụp đổ chứ? Đó là bộ phận mang lại phần lớn lợi nhuận cho chúng tôi.” Rhyme nhìn vào Wesley Goades. “Đến lượt .” Vị luật sư nhìn lướt qua những người ngồi bên kia bàn, rồi lại nhìn xuống, ông ta đơn giản thể giữ ánh mắt. Cũng như việc ông ta bị đuối lý, bị cuốn theo những lời giải thích được nhấn mạnh cùa Rhyme - và thỉnh thoảng hay lạc đề chút. cách đơn giản: “Chúng tôi ở đây để thông báo với các ông rằng quý Settle đây có ý định lập hồ sơ kiện ngân hàng quý vị để lấy lại những mất mát của ấy”. Hanson cau mày và nhìn Cole, người nhìn họ với ánh mắt cảm thông. “Dựa những gì các vị với chúng tôi, đưa ra những cáo buộc có hại cho ngân hàng về việc gây ra những khó khăn về mặt tinh thần hẳn là mang lại kết quả gì đâu. Các vị biết đấy, vấn đề là Ashberry hành động mình, phải với vai trò lãnh đạo ngân hàng. Chúng tôi chịu trách nhiệm cho những hành động của ông ta.” Nhìn vào Goades, mà ông ta có thể hoặc nhún nhường lắm. “Như vị luật sư ở đây cho các .” Hanson cũng nhanh chóng thêm với Geneva rằng: “Nhưng, chúng ta thực hiểu những gì mà cháu trải qua”, Stella Tumer gật đầu. Họ có vẻ như muốn điều này cách rất thành : “Ta nghĩ cháu cảm thấy chúng ta khá rộng rãi”. Luật sư thấy cần thiết phải thêm vào: “ cách hợp lý”. Rhyme quan sát vị chủ tịch ngân hàng cách kỹ lưỡng. Gregory Hanson có vẻ khá tốt bụng. Trẻ hơn so với tuổi năm mươi, nụ cười phóng khoáng. Hẳn là típ người sinh ra để làm doanh nhân - kiểu ông chủ tốt bụng và là người đàn ông của gia đình, thực công việc cách xuất sắc, làm việc hàng giờ cho những cổ đông, máy bay với ghế thường bằng từng xu của công ty, nhớ sinh nhật của nhân viên mình. Nhà tội phạm học hầu như cảm thấy tồi tệ về những gì sắp diễn ra. Tuy nhiên, Wesley Goades hề tỏ ra chút thương xót với những gì ta : “Thưa ngài Hanson, mất mát mà chúng ta đến ở đây phải là vụ việc cán bộ của các ngài cố gắng giết hại quý Geneva Settle - theo cách mà chúng ta gọi cho việc ở đây - phải là ‘nỗi đau tinh thần’”. , vụ tố tụng của ấy là danh nghĩa những người thừa kế hợp pháp của ông Charles Singleton, để lấy lại tài sản bị lấy trộm bởi Hiram Sanford, cũng như những thiệt hại về tiền bạc…” “Đợi ”, vị chủ tịch thều thào, nở nụ cười yếu ớt. "... những thiệt hại tương đương với khoản thuê và những lợi ích mà ngân hàng của các ngài có được từ tài sản đó từ ngày tòa án chuyển giao tên chủ sở hữu.” Ông ta nhìn vào mẩu giấy: “Đó là ngày mùng 4 tháng 8 năm 1868. số tiền được đưa vào quỹ vì lợi ích của tất cả con cháu của ông Charles Singleton, với việc sử dụng, phân chia được giám sát bởi tòa án. Chúng tôi vẫn chưa có con số cụ thể.” Cuối cùng Goades ngước lên nhìn vào mắt Hanson. “Nhưng chúng tôi ước tính cách dè dặt là vào khoảng chín trăm bảy mươi triệu đôla.” CHƯƠNG 43 “Đó chính là những gì mà William Ashberry sẵn sàng giết người để giành lại”, Rhyme giải thích. “Để giữ bí mật vụ trộm tài sản của Charles. Nếu bất cứ ai tìm ra và những người thừa kế của ông ấy đưa ra cáo buộc, nó là kết thúc của bộ phận bất động sản và thậm chí có thể đưa cả ngân hàng Sanford tới con đường phá sản.” “Ồ, điều này lố bịch”, luật sư bên kia chiếc bàn quát tháo ầm ĩ. Hai đối thủ về luật tương đồng nhau: cao và gầy, mặc dù Cole có làn da rám nắng hơn. Rhyme cho rằng Wesley Goades thường ra các sân tennis và golf. “Hãy nhìn quanh các người xem. Những con phố phát triển! Mỗi centimet vuông đều được xây dựng.” “Chúng tôi cáo buộc gì về việc xây dựng”, Goades , như thể điều này ràng. “Chúng tôi chỉ muốn quyền sở hữu mảnh đất, và số tiền thuê đáng lẽ phải được trả nhằm tôn trọng quyền sở hữu này.” “Cho trăm bốn mươi năm?” “Đó phải là vấn đề của chúng tôi, đó là khi Sanford cướp mảnh đất của Charles.” “Nhưng phần lớn mảnh đất được bán ”, Hanson . “Ngân hàng chỉ sở hữu hai tòa nhà dãy phố và tòa nhà này.” “Chà, lẽ tự nhiên, chúng tôi tính toán để lần theo phát triển của mảnh đất mà ngân hàng các ông bán cách bất hợp pháp.” “Nhưng chúng tôi chuyển nhượng các phần đất hơn trăm năm rồi.” Goades với cái mặt bàn. “Tôi lần nữa: Đó là vấn đề của các ông, phải vấn đề của chúng tôi.” “”, Cole ngắt lời. “Quên chuyện này .” “Quý Settle thực có chút kiềm chế với cáo buộc về thiệt hại của mình. Điểm đáng tranh luận được đưa ra dựa là nếu có tài sản của tổ tiên ấy, ngân hàng của các ngài phá sản trong những năm 1860 rồi và ấy là người được đứng tên cho tất cả những doanh thu toàn cầu của các người. Nhưng chúng tôi tiến tới điều đó. ấy muốn những người chủ ngân hàng tại phải chịu quá nhiều.” “ là rộng rãi đấy”, luật sư lầm bầm. “Đó là quyết định của ấy. Tôi ủng hộ việc cho các sập tiệm luôn.” Cole vươn người về phía trước. “Nghe này, tại sao các chấp nhận ? Các chẳng có vụ án nào ở đây cả. Vì điều, thời gian hiệu lực của vụ án hết rồi. Các bị đá ra khỏi tòa án.” “ bao giờ để ý là”, Rhyme hỏi, thể kháng cự được rằng: “Người ta thường tới đâu với luận điểm yếu ớt nhất của mình?... Xin thứ lỗi cho cái điều chú thích .” “Còn về thời hạn hiệu lực”, Goades . “Chúng tôi có thể khẳng định cách vững chắc rằng vụ án được trì hoãn và chúng tôi có đủ thẳm quyền để đưa vụ án vào đúng các luật lệ.” Vị luật sư giải thích với Rhyme rằng trong vài trường hợp giới hạn thời gian để đưa đơn kiện lên tòa án có thể“trì hoãn” nếu như bên bị cáo che giấu tội ác để nạn nhân biết nó xảy ra, hoặc khi họ có đủ khả năng để kiện, giống như khi những phiên tòa và các công tố viên hoạt động thông đồng với kẻ làm sai, chuyện xảy ra trong vụ án của Singleton. Goades lập lại luận điểm đó lúc này. “Nhưng dù là Hiram Sanford làm cái gì chăng nữa”, viên luật sư chỉ ra. “Chẳng liên quan gì đến ông chủ của chúng tôi – chủ tịch ngân hàng.” “Chúng tôi lần theo dấu vết quyền sở hữu ngân hàng theo mốc thời gian đến khi khởi đầu là ngân hàng Hiram Sanford và Trust Limited, và đó là những gì thuộc về trang trại của Singleton. Sanford sử dụng ngân hàng như vỏ bọc. Nhưng may... cho các ông.” Goades cách hoan hỉ như thể người đàn ông chưa từng cười có thể làm được. Cole hề có ý định chịu thua. “Chà, các có chứng cứ nào để rằng tài sản đó được để lại qua các đời con cháu trong gia đình? Cái ông Charles Singleton này có thể bán nó với giá năm trăm đô la trong năm 1870 và phung phí hết nó rồi.” “Chúng tôi có các bằng chứng về việc ông ẩy muốn để lại trang trại cho các thành viên trong gia đình.” Rhyme quay sang Geneva. “Ông Charles gì?” bé chẳng cần phải nhìn vào mẩu giấy nào cả. “Trong lá thư gửi cho vợ, ông ấy bao giờ muốn bán trang trại . Ông ấy , ‘ mong muốn mảnh đất được để lại nguyên vẹn từng mét tới con trai chúng ta và các con cháu của nó; công việc lúc thăng lúc trầm, thị trường tài chính bất ổn, nhưng Trái đất là vĩnh hằng của Chúa - và trang trại mang lại kính trọng cho gia đình của chúng ta trong con mắt của những người lúc này đây hề tôn trọng điều đó. Đó chính là cứu rỗi cho con cháu chúng ta, và cho các thế hệ sau đó.’” Hưởng thụ cảm giác của người đội trưởng đội cổ vũ, Rhyme : “Hãy nghĩ xem bồi thẩm đoàn phản ứng thế nào với điều đó? ai là lệ cho mà xem”. Cole nghiêng người về phía Goades cách giận dữ. “Ồ, tôi biết chuyện gì diễn ra ở đây. Các người làm cho nó nghe có vẻ như bé là nạn nhân vậy. Nhưng đây chỉ là tống tiền mà thôi. Giống như tất cả những gì gọi là bù đắp lại cho những người nô lệ trước đây mà thôi. Tôi lấy làm tiếc là ông Charles Singleton ấy là nô lệ. Tôi lấy làm tiếc là ông ấy hay là cha của ông ấy, hay bất cứ ai chăng nữa, bị đưa đến đây ngược lại với mong muốn của người đó.” Cole vẫy vẫy cánh tay, như thể xua con ong bay , và nhìn vào Geneva. “Chà, thưa quý , cách đây rất lâu rồi. Ông cố của tôi chết vì bệnh phổi do hít phải bụi than đá trong hầm mỏ. hề thấy tôi kiện công ty khai thác Than đá và Khoáng chất West Virginia, chỉ để kiếm thêm vài đồng tiền. Các người phải vượt qua điều đó mà thôi. Chỉ là hãy tiếp tục với cuộc sống của các người. Nếu các người mất càng nhiều thời gian...” “Khoan ”, Hanson ngắt lời. Cả ông ta và thư kỷ đều nhìn chằm chằm vào vị luật sư. Cole liếm môi rồi ngồi xuống. “Tôi xin lỗi. Ý tôi phải như là những gì tôi . Tôi là ‘các người’ nhưng tôi ám chỉ là…” ta nhìn vào Wesley Goades. Nhưng Geneva là người lên tiếng. “Thưa ông Cole, tôi cũng cảm thấy như vậy. Giống như là, tôi thực tin tưởng vào điều mà Frederick Douglass . ‘Người ta có thể có được tất cả những gì mà họ dành công sức để làm việc vì nó trong cái thế giới này, nhưng họ chắc chắc rằng làm vì tất cả những gì họ có thể có được.’ Tôi cần đồng tiền rẻ mạt nào cả.” Vị luật sư nhìn bé cách ái ngại, ông ta nhìn xuống sau khắc. Geneva . tiếp tục: “Tôi chuyện với cha mình về Charles. Tôi tìm ra vài điều về ông ấy. Như là, ông của ông ấy bị bắt cóc bởi những kẻ buôn nô lệ và bị lôi khỏi gia đình của mình ở Yorubaland và đưa đến Virginia. Cha của Charles mất khi ông ấy bốn mươi hai tuổi vì ông chủ của ông ấy nghĩ rằng đỡ tốn tiền hơn nếu mua nô lệ mới, trẻ hơn thay vì chữa bệnh viêm phổi cho ông ấy. Tôi cũng tìm ra rằng mẹ của Charles bị bán cho đồn điền ở Georgia khi Charles mới mười hai tuổi và ông ấy bao giờ gặp lại mẹ mình được nữa. Nhưng, các ngài biết gì ?” hỏi cách bình tĩnh. “Tôi đòi xu nào hết vì những điều đó. . Nó rất đơn giản thôi. thứ mà Charles vô cùng quý bị cướp mất khỏi ông ấy. Và tôi làm bất cứ điều gì có thể để bảo đảm rằng tên trộm phải trả giá cho điều đó.” Cole mấp máy môi lẩm bẩm lời xin lỗi khác nhưng chất gen luật sư trong ông ta cho phép ông ta từ bỏ vụ án của khách hàng, ông ta nhìn vào Hanson rồi tiếp tục: “Tôi đánh giá cao những gì vừa và chúng tôi cũng đề nghị đưa ra chút cho những hành động của ông Ashberry. Nhưng còn về quyền với tài sản. Chúng tôi thể đồng ý được. Chúng tôi thậm chí còn biết các người còn có chỗ dựa pháp lý nào để đưa vụ án ra tòa. Có bằng chứng nào cho thấy được thực là dòng dõi của cái ông Charles Singleton ấy?”. Lincoln Rhyme lướt ngón tay qua màn điều khiển cảm ứng và lái chiếc xe cách tự tin tới gần chiếc bàn. “Liệu có phải đến lúc có ai đó ở đây hỏi xem tại sao tôi lại được mang cùng nhỉ?” Im lặng. “Tôi hay ra ngoài lắm, mọi người có thể thấy điều đó. Vậy các người nghĩ gì, khi đưa tôi ra hàng chục dãy phố về phía tây?” “Lincoln”, Thom kêu lên. “Được rồi, được rồi, tôi thẳng vào vấn đề. Đưa tang vật A ra đây.” “Tang vật nào?”, Cole hỏi. “Tôi chỉ hài hước chút. Bức thư.” nhìn vào Geneva. bé mở chiếc ba lô của mình và lấy ra chiếc cặp tài liệu. đặt bản photocopy lên bàn. Những người ngồi bên phía ngân hàng Sanford nhìn nó. “ trong những bức thư của Singleton?”, Hanson hỏi. “Chữ viết đẹp”, Rhyme quan sát. “Điều đó khá quan trọng vào thời bấy giờ. giống như ngày nay, tất cả văn bản đánh máy và những mẩu giấy chép tay liến láu... Được rồi, tôi xin lỗi - lạc đề nữa. Đây là vấn đề: Tôi có đồng nghiệp, ta tên là Parker Kincaid, ở D.C., so sánh chữ viết tay này với tất cả những mẫu viết tay khác còn lại của Charles Singleton, bao gồm cả các tài liệu pháp lý được lưu giữ trong kho lưu trữ ở Virginia. Parker là cựu nhân viên FBI - ấy là chuyên gia về chữ viết tay, các chuyên gia luôn tới khi họ có văn bản nghi vấn. ấy thực bản phân tích chứng thực pháp lý và khẳng định rằng nó giống hệt với những bản mẫu chữ viết tay của Charles Singleton.” “Được rồi”, Cole chấp nhận: “Đây là bức thư của ông ấy. Vậy sao?”. “Geneva”, Rhyme : “Charles gì trong đó?”. bé hất đầu về phía bức thư và đọc nó lần nữa, bằng trí nhớ của mình: “‘Đó là những giọt nước mắt - những vết ố mà em nhìn thấy lá thư này, em - phải là từ nỗi đau đớn mà từ ân hận cho nỗi khổ mà bắt chúng ta phải chịu đựng’”. “Bức thư nguyên bản có vài vết ố”, Rhyme giải thích. “Chúng tôi phân tích chúng và thu được lysozyme, lopocalin và lactoferrin - proteins, nếu các ngài quan tâm - và các enzyme cùng loại, lipid và metabolites. Những chất này, và tất nhiên cả nước nữa, tạo thành nước mắt của con người... Tiện đây, các ông có biết là thành phần cấu tạo nước mắt khác biệt rất lớn phụ thuộc vào việc nó rơi vì đau hay vì cảm xúc? Những giọt nước mắt này” - hất đầu về phía lá thư - “được rớt ra từ cảm xúc. Tôi có thể chứng minh điều đó. Tôi cho là bồi thẩm đoàn cũng thấy điều này thực cảm động.” Cole thở dài. “Hẳn thực xét nghiệm DNA vết ố và nó hoàn toàn khớp với DNA của quý Geneva Settle này.” Rhyme nhún vai và cất lên cái từ quan trọng nhất trong ngày hôm nay: “Hiển nhiên rồi”. Hanson nhìn Cole, ông ta hết nhìn lên rồi lại nhìn xuống lá thư và những ghi chú của mình. Vị chủ tịch với Geneva: “ triệu đô. Tôi ký tấm séc cho ngay bây giờ với triệu đô, nếu như và những người giám hộ ký vào tờ Miễn trách nhiệm pháp lý về tài chính”. Goades cách lạnh lùng: “ Settle muốn có được bồi thường thiệt hại thực tế - tiền được tất cả con cháu của Charles Singleton cùng có phần, chỉ là cho ấy”. ta liếc sang vị chủ tịch ngân hàng. “Tôi chắc chắn ông rằng số tiền ông chi trả chỉ là dành cho bé thôi, có thể là động viên để lờ việc với những họ hàng bé về việc xảy ra.” “, , tất nhiên rồi.” Hanson cách nhanh chóng. “Để tôi chuyện với ban lãnh đạo . Chúng tôi đưa ra con số bồi thường.” Goades thu thập lại các giấy tờ và nhét chúng vào chiếc ba lô của ông ta. “Tôi hoàn thành đơn kiện trong vòng hai tuần. Nếu các ông muốn thỏa thuận cách tự nguyện về việc mở quỹ cho bên nguyên, các ông có thể gọi tôi theo số ở đây.” Ông đưa tấm danh thiếp sang bên bàn. Khi họ đứng ở cửa, luật sư của ngân hàng : “Geneva, đợi , làm ơn. Tôi xin lỗi vì những gì lúc trước. Thực lòng. Tôi chỉ... phù hợp mà thôi. Tôi thực lòng cảm thấy tồi tệ vì những gì xảy ra cho và cho tổ tiên của . Và tôi thực có nghĩ tới quyền lợi của trong thâm tâm mình. Chỉ nhớ là khoản tiền bồi thường là những gì tốt nhất cho và người thân. Hãy để luật sư của cho biết khó khăn tới nhường nào với những vụ kiện như thế này, và nó mất bao lâu thời gian, bao nhiêu tiền.” Ông ta cười. “Hãy tin tôi. Chúng tôi ủng hộ .” Geneva nhìn ông ta. Câu trả lời của là: “Trận chiến luôn như chúng vẫn thế. Chỉ là nhận biết được kẻ thù là ai khó hơn rất nhiều”. bé quay bước về phía cửa. Vị luật sư ràng hiểu được ý bé muốn là gì. Rhyme cho là điều đó ít nhiều cũng khẳng định được quan điểm của .
CHƯƠNG 44 Sáng sớm ngày thứ Tư, khí mùa thu lạnh và trong như tảng băng trong suốt. Geneva mới đến thăm cha mình ở bệnh viện Columbia Presbyterian và đường trở về trường trung học Langston Hughes. mới hoàn thành bài viết về tác phẩm Home to Harlem. Hóa ra đó hề là quyển sách tồi (mặc dù vẫn thích viết về Octavia Butler hơn; chà, bà ấy có thể viết rất hay!) và khá hài lòng với báo cáo của mình. Dù vậy, điều khá là tuyệt là Geneva viết về nó bằng chiếc máy đánh chữ hiệu Toshiba mà Thom chỉ cho cách sử dụng ở phòng thí nghiệm của Rhyme. Ở trường, trong số máy tính ít ỏi sử dụng được lại luôn quá tải tới mức ta thể dùng quá mười lăm phút máy, chứ đừng là mình sử dụng nó để viết cả bài luận. Và để tìm ra các dữ liệu nghiên cứu, tất cả những gì phải làm là thu thanh công cụ WordPerfect và truy cập vào mạng. phép màu. Hơn nữa, những gì mà có thể phải mất đến hai ngày để viết, hoàn thành chỉ trong vài giờ đồng hồ. Băng qua phố, hướng về phía đường tắt xuyên qua sân trường Tiểu học PS 288, mà chỉ mất vài phút từ ga tàu Đại lộ 8 tới Langston Hughes. Hàng rào bằng sắt quanh sân trường đổ bóng lên mặt đường nhựa màu nâu. mảnh khảnh lách cách dễ dàng qua khoảng trống ở chiếc cổng, từ rất lâu rồi được chêm cho đủ rộng để cậu nhóc và quả bóng rổ chui vừa qua nó. Vẫn còn sớm, sân trường vắng vẻ. còn cách hơn ba mét tới cái sân nghe thấy tiếng gọi cất lên từ phía bên kia hàng rào. “Này nhóc!” dừng lại. Lakeesha đứng vỉa hè, diện chiếc quần màu xanh ôm sát, chiếc áo cánh màu cam bó sát, nổi bật bộ ngực căng tròn, cặp sách lủng lẳng, các búi tóc và đồ trang sức lấp lánh dưới ánh mặt trời. Khuôn mặt vẫn toát ra vẻ ủ rũ giống như khi Geneva nhìn thấy tuần trước, khi cái mụ Frazier khốn nạn ấy cố gắng giết Geneva và cha bé. “Này, nhóc, cậu ở đâu vậy?” Keesh nhìn ra ngoài cách đầy nghi hoặc vào khoảng trống ở chỗ sợi xích; bao giờ vừa để chui qua. “Lại đây nào.” “Gặp ở trường .” “Lúc này, tớ chỉ muốn chuyện giữa hai đứa thôi.” Geneva ngập ngừng. Biểu lộ mặt người bạn ch o biết rằng điều này quan trọng. lách qua cánh cổng và bước tới phía người bạn to lớn. Họ bước chậm rãi, sát cạnh nhau. “Cậu đâu vậy Keesh?”, Geneva cau mày. “Cậu bỏ học.” “Mình cảm thấy được tốt lắm.” “Đến tháng à?” “, phải thế. Mẹ tớ gửi bức thư.” Lakeesha nhìn quanh. “Cái gã kỳ lạ với cậu ngày hôm trước là ai thế?” mở miệng định dối nhưng thay vì thế lại : “Cha tớ đấy”. “!” “”, Geneva . “Ông ấy sống ở Chiago, hoặc gì đó. Cậu thể mà.” “Mẹ tớ dối. Ông ấy vào tù. Ông ấy được thả ra vài tháng trước, và đến đây tìm tớ.” “Bây giờ ông ấy ở đâu?” “Trong bệnh viện, ông ấy bị thương.” “Bị đánh à?” “Ừ. Nhưng ông ấy ổn thôi.” “Cậu và ông ấy? Cậu vui chứ?” “Có thể. Khó mà biết được ông ấy.” “Chà, ông ấy đột nhiên xuất - quả là việc bất ngờ.” “Đúng thế.” Cuối cùng, to lớn bước chầm chậm. Rồi dừng lại. Geneva nhìn vào đôi mắt tránh né của bạn mình và nhìn thấy tay ấy biến mất vào trong túi, cầm lấy cái gì đó. do dự. “Gì vậy?”, Geneva hỏi. “Đây”, thầm nhanh, đưa tay lên và lao nó về phía trước. Trong những ngón tay của ấy, mà đầu ngón tay được sơn màu kẻ ca rô trắng đên, là chiếc vòng bạc, hình trái tim ở cuối sợi dây. “Đó là...”, Geneva bắt đầu. “Quà sinh nhật của cậu cho tớ tháng trước.” “Cậu trả lại nó?” “Tớ thể giữ nó được, Gen. Dù sao cậu vẫn cần tiền. Cậu có thể mang nó cầm.” “Đừng kỳ cục thế nào. Cứ như là những lời của Tiffany vậy.” Những giọt nước mắt ngân ngấn bên trong đôi mắt của to lớn, phần đẹp nhất khuôn mặt . Tay chùng xuống. “Tuần sau tớ .” “? đâu?” “BK.” “Brooklyn? Cả nhà ư? Với hai đứa sinh đôi?” “Chúng nó . ai trong nhà cả.” Đôi mắt bé quét xuống vỉa hè. “Thế là chuyện gì vậy, Keesh?” “Tớ kể cho cậu nghe chuyện gì xảy ra.” “Tớ hứng thú với kịch lắm”, Geneva ngắt lời. “Cậu gì vậy nào?” “Kevin”, Lakeesha với giọng sụt sịt. “Kevin Cheany?” Keesh gật đầu. “Tớ xin lỗi, Geneva. Chúng tớ nhau rồi. Cậu ấy có chỗ ở tại đó. Tớ với cậu ấy.” ấy gật đầu. “Nghe nè, tớ muốn điều đó xảy ra nhưng nó xảy ra rồi. Cậu phải hiểu cho tớ. Chúng tớ có tình , cậu ấy và tớ. Nó giống với những gì mà tớ từng cảm thấy. Tớ biết là cậu cũng thích cậu ấy. Cậu về cậu ấy suốt, nhìn cậu ấy hằng ngày. Cậu hạnh phúc biết bao khi được cậu ấy đưa về nhà. Tớ biết tất cả những điều đó và vẫn xen vào. Ồ, tớ rất lo lắng, nghĩ tới việc phải cho cậu điều này.” Geneva cảm thấy ớn lạnh, nhưng hề liên quan tới tình cảm của dành cho Kevin, thứ biến mất ngay giây phút cậu ta lộ bản chất của mình trong lớp học toán. hỏi: “Cậu có bầu rồi, phải ?”. Cảm thấy tốt lắm... Keesh cúi gằm xuống và nhìn chằm chằm vào chiếc dây lủng lẳng. Geneva nhắm mắt lại chút. Rồi hỏi: “Bao lâu rồi?”. “Hai tháng.” “Cậu cần phải có bác sĩ ngay. Chúng ta tới phòng khám tư, cậu và tớ. Tớ …” Người bạn cau mày. “Tại sao tớ làm thế? Cứ như là tớ dựa vào đứa bé để bắt cậu ấy. Cậu ấy dùng bao nếu tớ thế nhưng cậu ấy thực muốn có con với tớ. Cậu ấy nó giống như là phần của cả hai đứa.” “Đó là lời dối, Keesh. Cậu ta lợi dụng cậu đấy.” Bạn của nhìn chằm chằm, “Ồ, là hay đấy.” “, đó là . Cậu ta đóng kịch thôi. Cậu ta lợi dụng cậu đấy.” Geneva tự hỏi xem liệu cậu ta muốn gì từ ấy. Nó thể là điểm chác được, phải với trường hợp của Keesh. Có lẽ là tiền. Mọi người trong trường đều biết ấy làm việc nặng nhọc với hai công việc và dành dụm những gì mình kiếm được. Cha mẹ của ấy cũng có thu nhập. Mẹ của ấy từng làm việc ở Dịch vụ Bưu chính nhiều năm; cha làm việc cho kênh truyền thông CBSvà cứ cách đêm lại làm cho khách sạn Sheraton. Em trai của ấy cũng có công viêc. Kevin hẳn để ý tới số tiền của cả gia đình vất vả dành dụm. “Cậu có đưa cho cậu ta vay chút tiền nào thế?”, Geneva hỏi. bạn cúi xuống. gì cả. Có nghĩa là có. “Chúng ta có thỏa thuận, cậu và tớ. Chúng ta tốt nghiệp, và vào đại học.” Lakeesha lau những giọt nước mắt khuôn mặt tròn xinh cùa mình với bàn tay mũm mĩm. “Ồ, Geneva, với cậu là chuyện . Cậu sống hành tinh nào vậy? Chúng ta chuyện, cậu và tớ, về trường đại học và những công việc tuyệt vời đầy màu sắc nhưng với tớ, chỉ là chuyện mà thôi. Cậu viết những bài luận như chẳng có gì và tham gia các kỳ kiểm tra và trở thành số mọi môn học. Cậu biết thừa là tớ được như vậy.” “Cậu cũng trở thành người thành công, với công việc kinh doanh của mình. Nhớ nào? Tớ có thể trở thành giáo sư nghèo khổ ở nơi nào đó, ăn cá ngừ đóng hộp và bánh Cheerios cho bữa tối. Cậu là người duy nhất thực trở nên tuyệt vời. Cửa hàng của cậu thế nào? Chương trình TV của cậu? Câu lạc bộ của cậu?” Keesh lắc đầu, những búi tóc đung đưa. “Chết tiệt, nhóc, đó là những lời của cậu. Tớ đâu cả. Những gì tốt nhất tớ có thể hy vọng là những gì tớ làm lúc này - phục vụ salad và burger ở T.G.I vào các ngày thứ Sáu. Hoặc tết tóc và làm các phụ kiện nối tóc cho đến khi chúng lỗi mốt. Mà cậu bảo với tớ là nó có thể là sáu tháng.” Geneva mỉm cười cách yếu ớt. “Chúng ta vẫn thường là kiểu đầu xù quay trở lại cơ mà.” Keesh cười. “Đúng thế. Tất cả những gì mà cậu cần cho kiểu đầu đấy là cái lược và lọ xịt tóc; chả cần đến nhà tạo mẫu nghiệp dư như tớ.” xoay những lọn tóc giả màu vàng quanh ngón tay mình rồi hạ thấp tay xuống, nụ cười nhạt nhòa khuôn mặt. “Kết cục của chính mình như là chiếc túi cũ nát hết giá trị sử dụng. Chỉ có cách để tớ vượt qua là có người đàn ông bên cạnh.” “Giờ ai tự xấu về ấy vậy? Kevin cho cậu ăn cái quỷ quái gì vậy? Cậu chưa bao giờ chuyện kiểu này cả.” “Cậu ấy chăm sóc cho tớ. Cậu ấy tìm kiếm công việc và hứa với tớ chăm sóc đứa bé. Cậu ấy khác. Cậu ấy giống như những thằng nhóc vẫn chơi bời cùng.” “Đúng, cậu ta như vậy. Cậu thể từ bỏ, Keesh. Đừng làm điều đó! Ít nhất cũng phải ở lại trường. Cậu thực muốn đứa bé, được thôi, nhưng hãy ở lại trường. Cậu có thể “Cậu phải là mẹ tớ, nhóc.” Keesh ngắt lời. “Tớ biết mình phải làm gì.” Nỗi tức giận lóe lên trong đôi mắt bé - hơn tất cả nỗi đau tan nát trong trái tim bởi nó rất giống với tức giận lên khuôn mặt tròn trịa của khi bước lên bảo vệ Geneva khỏi những đứa con của trường Delano hay St. Nicholas săn đuổi bé phố. Đẩy nó, đánh nó , đánh chết con chó cái... Rồi Keesh sụt sùi : “Điều mà cậu ấy với tớ là, tớ thể chơi với cậu được nữa”. “Cậu thể...” “Kevin cậu đối xử tốt với cậu ấy ở trường.” “Đối xử tốt?” tiếng cười lạnh lùng. “Cậu ta muốn tớ giúp cậu ta gian lận. Tớ .” “Tớ với cậu ấy rằng đó là điều vớ vẩn, cái điều cậu ấy , tớ và cậu trở nên thân thiết và mọi điều. Nhưng cậu ấy hề nghe. Cậu ấy tớ thể gặp cậu thêm được nữa.” “Vậy cậu chọn cậu ta?”, Geneva . “Tớ có lựa chọn.” to lớn nhìn xuống dưới. “Tớ thể lấy bất cứ món quà nào từ cậu. Đây.” dúi chiếc vòng cổ vào tay Geneva và thả nó ra nhanh, như thể bỏ chiếc chảo nóng bỏng. Nó rơi xuống cái vỉa hè bẩn thỉu. “Đừng làm thế Keesh. Làm ơn mà!” Geneva cố tóm lại nhưng những ngón tay của chỉ nắm được cái khí lạnh mùa thu. CHƯƠNG 45 Mười ngày sau cuộc họp với chủ tịch ngân hàng Sanford Gregory Hanson và luật sư của ông, Lincoln Rhyme có cuộc trò chuyện qua điện thoại với chàng trai trẻ Ron Pulaski, vẫn được nghỉ để chữa trị nhưng trở lại công việc trong khoảng tháng. Ký ức quay lại và cậu ấy giúp họ củng cố vụ án chống lại Thompson Boyd.“Vậy đến bữa tiệc lễ Halloween chứ?”, Pulaski hỏi. Rồi dừng lại và nhanh: “Hay gì cũng được”. Hai từ cuối cùng để lấp liếm lỡ lời do việc gợi ý cho người tàn tật hoàn toàn nên tham gia các buổi tiệc. Nhưng Rhyme khiến cậu ta cảm thấy thoải mái hơn khi : “Tất nhiên là tôi đến. Giống như Glenn Cuimingham”. Sachs bụm miệng cười. “ chứ?”, chàng cảnh sát trẻ . “Ừm, chính xác đó là ai vậy?” “Tại sao cậu tra cứu , chàng cảnh sát?” “Vâng, thưa ngài. Tôi làm.” Rhyme ngắt máy và nhìn vào tấm bảng bằng chứng, ở cùng được dán lá bài thứ mười hai, Người treo ngược. nhìn chằm chằm vào lá bài cho đến lúc chuông cửa reo. Hẳn là Lon Sellito. được về sớm sau thời gian chữa trị. ấy cũng còn chà cái vệt máu vô hình và tập luyện vẽ nhanh hình nhóc Billy - mà vẫn chưa có ai giải thích cho Rhyme. thử hỏi Sachs về điều đó nhưng thể, hoặc nhiều. Như thế cũng tốt. Đôi khi, Rhyme tin tưởng cách kiên định rằng, ta chỉ đơn giản cần phải biết hết mọi tình tiết. Nhưng hóa ra, người khách đến lúc này, phải là vị thanh tra nhàu nhĩ. Rhyme nhìn ra cửa và thấy Geneva Settle đứng ở đó, nghiêng người dựa vào chiếc cặp sách. “Mời vào”, . Sachs chào và bỏ chiếc kính bảo vệ đeo từ lúc phải điền vào các bản chứng thực bằng chứng hợp pháp cho các mẫu máu lấy được từ trường vụ án mạng buổi sáng hôm đó. Wesley Goades có đầy đue các giấy tờ và thủ tục pháp lý cần thiết để lập hồ sơ vụ kiện chống lại ngân hàng Sanford đồng thời báo cho Geneva rằng có thể yên tâm chờ lời đề nghị thực tế hơn từ Hanson vào ngày thứ Hai. Nếu , t hì vị luật sư ‘tên lửa hành trình pháp lý’ cảnh báo đối thủ của mình rằng ông ta đưa hồ sơ kiện lên tòa án ngay ngày hôm sau. buổi họp báo kèm theo với kiện (Ý kiến của Goades là quảng bá rầm rộ về những điều xấu tồn tại lâu đáng kể hơn so với ‘mười phút xấu xí’). Rhyme nh. chiếc áo ấm hợp thời làm cho cả tay xã hội đen cũng phải đổ mồ hôi và chiếc mũ trùm trở nên phù hợp, bé mặc chiếc quần jeans màu xanh và chiếc áo phông tay với dòng chữ Guess! lấp lánh chạy ngang ngực. Nhìn bé béo hơn chút, tóc dài hơn. thậm chí còn trang điểm chút ít (Rhyme tự hỏi cái gì ở trong chiếc túi mà Thom đưa cho cách đầy bí mật vào ngày hôm đó). Nhìn bé khá ổn. Cuộc sống cùa Geneva có được ổn định nhất định. Jax Jackson được ra viện và chạy vật lý trị liệu. Nhờ có tác động từ Sellito, ta chính thức thuộc quản lý của cơ quan chức trách ở New York. Geneva sống trong căn hộ của Thom ở Harlem, thỏa thuận đến nỗi khốc liệt như dự đoán ( bé thừa nhận là phải vì Rhyme hay Roland Bell mà là vì Thom - người giúp đỡ và mời bé đến ngôi nhà của mình thường xuyên để dạy nấu ăn, xem TV, tranh cãi về sách vở và chính trị, có gì trong số này mà Rhyme thấy thích thú cả). Ngay khi họ có thể tậu được căn nhà lớn hơn, và cha của mình mời bà Lilly đến ở cùng họ. bé bỏ công việc ở chỗ McHash và được về làm việc cùng với Wesley Goades với vai trò người nghiên cứu và trợ lý hợp pháp. cũng giúp ông dựng quỹ Charles Singleton, đưa tiền bồi thường tới những người thừa kế của người cựu nô lệ. mong muốn rời khỏi thành phố ngay cơ hội đầu tiên để sống ở London hoặc Rome hề giảm , nhưng những vụ việc mà Rhyme nghe lỏm được khi cách say mê về tất cả những gì có vẻ như liên quan đến người dân của Harlem, những người bị phân biệt đối xử bởi họ là người da đen, người Mỹ Latin, theo đạo Hồi, phụ nữ hay người nghèo. Geneva cũng tham gia vào vài kế hoạch mà cho đó là “cứu lấy bạn của mình”, cũng đề cập đến với ; người cố vấn đưa ra lời khuyên cho nỗ lực đặc biệt này có vẻ như là Amelia Sachs. “Cháu muốn cho chú xem thứ.” bé giơ lên tờ giấy ngả vàng có chứa vài đoạn văn bằng chữ viết tay mà Rhyme ngay lập tức nhận ra đó là của Charles Singleton. “ lá thư khác à?”, Sachs hỏi. Geneva gật đầu. cầm lá thư cách rất cẩn thận. “Bà Lilly nghe từ người họ hàng của nhà cháu ở Madison. Ông ấy gửi tới vài thứ mà ông ấy tìm thấy trong tầng hầm nhà mình. cái đánh dấu trang của Charles, cặp kính. Và hàng tá những lá thư khác. Đây là l muốn đưa cho chú xem.” Với đôi mắt tươi cười rạng rỡ, thêm: “Nó được viết vào năm 1875, sau khi ông ấy ra tù”. “Hãy xem nào”, Rhyme . Sachs đưa lá thư vào máy scan và lát sau bức ảnh xuất vài màn hình máy tính quanh phòng thí nghiệm. Sachs bước tới bên cạnh Rhyme, đưa tay ôm vòng quanh vai . Họ nhìn vào màn hình. Violet thương của , tin rằng em tận hưởng cuộc sống bên cạnh chị mình, Joshua và Elizabeth vui thích được chơi đùa cùng chị em họ của chúng nó. Nhóc Frederick - mới chín tuổi khi nhìn thấy nó lần gần đây nhất - giờ cao bằng bố của nó, quả là điều mà khó có thể tưởng tượng được. Tất cả đều ổn trong căn nhà của chúng ta, rất vui được báo với em điều đó. James và cắt băng bờ sông vào các buổi sáng và xây ngôi nhà băng, rồi đổ mùn gỗ lên đó. Sau đó bọn lên phía bắc dòng sông gần bốn cây số, qua những đống tuyết to lớn để nhìn vườn cây được rao bán. Giá đắt nhưng tin rằng người bán đáp lại cách thân thiện với lời đề nghị hoàn giá của . Ông ta thực nghi ngờ việc bán cho người da đen, nhưng khi hé lộ ra rằng mình có thể trả ông ta bằng những đồng tiền xanh, lo ngại của ông ẩy hoàn toàn biến mất. Trả bằng tiền mặt quả là cách tốt. Em có hồ hởi giống như khi đọc về Luật Quyền dân có hiệu lực ngày hôm qua? Em có thấy những điểm nổi bật ? Luật bảo đảm cho tất cả mọi người với mọi màu da có quyền bình đẳng ở tất cả các nhà trọ, các phương tiện vận chuyển công cộng, nhà hát và những thứ như vậy. Quả là ngày quan trọng cho nghiệp của chúng ta! Đây chính là ban hành luật mà trao đổi với Charles Sunner và Benjamin Butler suốt năm ngoái, và tin rằng vài ý tưởng của giúp họ trong văn bản quan trọng này. Em có thể tưởng tượng rằng, cái tin này mang lại cho lý do để phải suy nghĩ, nghĩ lại những kiện khủng khiếp trong bảy năm qua, bị cướp vườn cây của chúng ta ờ Galloxv Heights và bị nhét vào ngục trong những điều kiện khốn cùng. Và giờ đậy, suy tưởng về tin này từ Washington D.c. khi ngồi trước ngọn lửa trong ngôi nhà của chúng ta, cảm thấy như những ký ức khủng khiếp ấy tất cả đến từ thế giới hoàn toàn khác. Phần lớn giống hệt với những ngày chiến tranh đẫm máu ở Cuộc chiến hoặc những năm tháng khốn khó bị làm nô lệ khổ sai ở Virginia vẫn luôn ra trong ký ức nhưng - bằng cách nào đó - cũng biến mất như những hình ảnh lộn xộn trong cơn ác mộng khó nhớ. Có lẽ tận sâu trong trái tim của chúng ta có chỗ giấu cho cả nỗi buồn chán và hy vọng, và khi chỗ sâu thẳm ấy được lấp đầy bởi thứ, điều còn lại hề ở trong đó mà chỉ là ký ức mờ ảo ràng của cái còn lại. Và đêm nay trái tim được lấp đầy hy vọng. Em hãy nhớ lại xem, trong nhiều năm trời thề nguyện rằng mình làm bất cứ gì có thể để xóa nỗi nhục bị coi như là ba phần năm con người. Khi nhìn thấy ánh mắt mà vẫn nhận được, bởi vì màu da của , và hành động của những người khác đối với và những người như chúng ta, nghĩ rằng mình vẫn chưa được nhìn như con người toàn diện. Nhưng dám rằng chúng ta tiến tới vị trí mà được nhìn nhận như chín phần mười con người (James cười cách đầy sảng khoái khi với ấy điều này trong bữa ăn tối nay), và tiếp tục có niềm tin rằng chúng ta được nhìn nhận như con người đầy đủ trong suốt cuộc đời mình, hoặc, ít nhất là trong cuộc đời của Joshua và Elizabeth. Lúc này đây, tình của , phải tạm biệt với em rồi và chuẩn bị bài học cho sinh viên của ngày mai. Chúc em và các con ngủ ngon và những giấc mơ ngọt ngào, em . sống vì ngày em quay về. Charles của em Croton on Hudson, Mùng 2 tháng 3 năm 1875 Rhyme : “Nghe như là Douglass và những người khác tha thứ cho ông ấy vì tội cướp tài sản. Hoặc quyết định tin rằng ông ấy hề làm điều đó”. Sachs hỏi: “Ông ấy đến luật nào ấy nhỉ?”. “Bộ luật Dân quyền năm 1875”, Geneva . “Nó cấm phân biệt chủng tộc tại các khách sạn, nhà hàng, tàu, rạp hát - bất cứ nơi công cộng nào”. bé lắc lắc đầu mình. “Dù vậy, nó tồn tại lâu. Tòa án Tối cao gỡ bỏ nó trong những năm 1880 vì trái với hiến pháp. có phần nào của các quyền dân trong lập pháp liên bang được ban hành sau đó trong vòng hơn năm mươi năm.” Sachs trầm ngâm: “Tôi tự hỏi liệu Charles có sống lâu để biết rằng cái luật ấy bị bỏ xuống, ông ấy hẳn là thích điều đó”. Nhún vai, Geneva đáp lời: “Cháu nghĩ rằng nó là vấn đề. Ông ấy nghĩ tới điều đó như là khó khăn tạm thời”. “Niềm hy vọng đẩy lùi nỗi đau”, Rhyme . “Đúng vậy”, Geneva . Rồi nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch cũ kỹ của mình. “Cháu cần phải quay lại làm việc. Chỗ ông Wesley Goades... Cháu phải là, ông ấy kỳ quặc. bao giờ cười, bao giờ nhìn vào mình... Và, là, đôi khi chúng ta có thể tỉa bớt râu cơ mà.” Nằm giường đêm hôm đó, trong căn phòng tối, Rhyme và Sachs ngắm mặt trăng, cái lưỡi liềm mảnh, đúng ra nó phải là màu trắng lạnh nhưng qua bầu khí quyển, nó vàng rực như mặt trời. Đôi khi, vào những khoảnh khắc như thế này, họ chuyện, đôi khi . Đêm nay họ yên lặng. Có chuyển động ở rìa bên ngoài cửa sổ - từ những con chim cắt làm tổ ở đó. cặp chim trống và mái với hai con chim non mới ra ràng. Có lúc đột ngột người khách đến thăm Rhyme có thể nhìn vào cái tổ và hỏi liệu biết chúng có tên . “Chúng tôi có thỏa thuận”, lầm bầm. “Chúng đặt tên tôi. Tôi đặt tên chúng.” Đầu của con chim cắt ngẩng lên và nhìn sang bên, cắt qua tầm nhìn của họ tới mặt trăng. Chuyển động và mặt cắt của con chim cho thấy vài lý do, thông thái, cả nguy hiểm nữa - những con chim ưng trưởng thành có kẻ thù ăn thịt trong tự nhiên và chúng tấn công con mồi từ cao với tốc độ lên tới hơn ba trăm kilômet giờ. Nhưng lúc này con chim cúi xuống hiền lành và đứng yên. Các sinh vật đều làm việc vào ban ngày và ngủ vào ban đêm. “ nghĩ gì à?”, Sachs hòi. “Hãy nghe nhạc ngày mai. Có buổi biểu diễn hoặc bất cứ gì mà em gọi là buổi hòa nhạc chiều, ở Lincoln Center.” “Ai chơi?” “The Beatles, nghĩ thế. Hoặc Elton John và Maria Callas cùng diễn. quan tâm lắm. thực chỉ muốn làm bẽ mặt mọi người bằng việc lăn chiếc xe về phía họ... Quan điểm của là vấn đề phải là ai chơi. muốn đứng dậy. Điều đó thường xuyên xảy ra, em biết đấy.” biết.” Sachs nghiêng người và hôn . “Chắc chắn rồi, hãy .” xoay đầu mình và hôn lên tóc . chùng xuống dựa vào . Rhyme nắm chặt những ngón tay quanh bàn tay . nắm lại. “ biết chúng ta có thể làm gì ?”, Sachs hỏi, có chút gợi ý trong giọng . “Hãy lén mang vào chút rượu và đồ ăn. Patê và bơ. Bánh mỳ Pháp.” “Em có thể mua đồ ăn ở đó. nhớ thế. Nhưng rượu scotch là khủng khiếp. Và nó tốn kha khá tiền. Chúng ta có thể làm là...” “Rhyme!”, Sachs ngồi thẳng dậy giường, . “Có chuyện gì vậy?”, hỏi. “ làm gì?” “ đồng ý rằng chúng ta lén đưa ít đồ ăn vào...” “Đừng có chối vòng quanh.” Sachs lần mò công tắc bật đên, nhấn nó. Trong chiếc quần đùi lụa màu đen và áo phông màu nâu, tóc hất lệch sang bên, và đôi mắt mở to, nhìn giống như sinh viên đại học mới chợt nhớ ra là mình có bài kiểm tra vào tám giờ sáng ngày hôm sau. Rhyme nheo mắt khi nhìn vào ánh sáng. “ là chói mắt quá. Có cần phải bật đèn ?” nhìn chằm chằm vào cái giường. “Tay... tay của . cử động nó.” “ nghĩ là mình làm thế.” “Tay phải của ! chưa bao giờ có cử động nào ở bàn tay phải cả.” “Buồn cười, đúng ?” “ trì hoãn bài kiểm tra, nhưng biết là mình có thể làm điều đó rồi?” “ hề biết là mình có thể. Cho đến lúc này. định thử - sợ là nó có kết quả. Nên định bỏ tất cả các bài tập, ngừng lo lắng về nó.” nhún vai. “Nhưng thay đổi quyết định. muốn thử. Nhưng chỉ giữa chúng ta, có máy móc hay bác sĩ nào xung quanh phải mình nữa, Rhyme thêm vào, dù ra. “Và với em!”, ôm chầm lấy cánh tay . “ cảm thấy điều đó.” Họ cười. “ là kinh ngạc, Rhyme”, thầm và ôm chặt. “ làm được. làm được.” “ thử lại lần nữa”, Rhyme nhìn Sachs, rồi nhìn vào bàn tay mình. dừng lại chút, rồi chuyển luồng năng lượng từ tâm trí xuyên qua các dây thần kinh tới bàn tay phải của mình. Mỗi ngón tay nắm lại chút. Và rồi, cách vụng về giống như là chú ngựa non mới đẻ, bàn tay của xoay qua nếp gấp sâu năm centimet của chăn mà như vượt qua miệng vực Grand Canyon[1] và đặt xuống cách vững chắc lên cổ tay của Sachs. nắm ngón cái và ngón trỏ quanh cổ tay . [1] khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado Arizona. Dài 446 km, rộng từ 0,4 - 24 km và sâu hơn 1,6 km. Những giọt nước trong đôi mắt, cười với niềm vui sướng. “Như thế sao nào”, . “Vậy vẫn tiếp tục luyện tập?” gật đầu. “Chúng ta tham gia bài kiểm tra với bác sĩ Sherman chứ?”, hỏi. “ cho rằng ta có thể. Trừ khi có điều gì khác xảy ra. Gần đây chúng ta quá bận rộn.” “Chúng ta lên lịch cuộc kiểm tra”, cách quả quyết. tắt đèn và nằm gần bên . có thể cảm nhận, dù chưa phải là cảm giác thấy. Trong im lặng, Rhyme nhìn chằm chằm lên trần nhà. Đến khi hơi thở của Sachs đều đều, cau mày, nhận thấy cảm giác kỳ lạ nhói lên trong ngực, nơi mà đáng ra chẳng có cảm giác nào cả. Lúc đầu, cứ tưởng đó cơn đau giả. Rồi, cảnh giác, tự hỏi liệu có phải nó là bắt đầu của tượng tăng phản xạ tự phát[2], hoặc tồi tệ hơn chăng. Nhưng rồi nhận ra rằng phải, đó là điều khác hoàn toàn, cái gì đó bắt nguồn từ thần kinh hay cơ bắp hay là các bộ phận bên trong. nhà khoa học luôn luôn phân tích cảm giác theo kinh nghiệm và nhận ra rằng, nó giống với những gì mà cảm thấy khi nhìn thấy Geneva Settle ngẳng cao lên nhìn xuống vị luật sư của ngân hàng. Giống như khi đọc về nhiệm vụ của Charles Singleton tìm ra công lý ở quán rượu Potter’s Field trong đêm kinh hoàng ấy vào tháng Bảy cách đây hàng trăm năm trước, hoặc là về lòng nhiệt huyết của ông ấy đối với việc thực quyền dân . [2] bệnh lý có khả năng đe dọa đến tính mạng. Rồi, bất ngờ, Rhyme hiểu ra rằng mình cảm thấy điều gì. Đó chỉ đơn giản là niềm tự hào. Giống như tự hào về Geneva và người tổ tiên của bé, tự hào với thành tích của chính mình. Bằng việc gắn chặt với những bài tập và đêm nay đây tự kiểm tra chính mình, Lincoln Rhyme đối đầu với điều thể, làm khiếp sợ. Dù cho có tìm lại được bất cứ vận động nào hay đều liên quan; cái cảm giác đến từ điều mà giành được thể chối cãi: trọn vẹn, cũng giống như trọn vẹn mà Charles viết về nó. nhận ra rằng gì khác - phải các nhà chính trị hay các công dân hay cái thân thể rắc rối của chúng ta - có thể khiến chúng ta thành ba phần năm con người; nó chỉ đơn giản là phán quyết trong lòng chúng ta tự nhìn nhận mình như là con người hoàn thiện hay chỉ là phần con người và từ đó sống cuộc đời của mình. tin rằng, tất cả mọi thứ đều có thể phải đúng với logic vốn có của nó, cũng giống như cử động mà tìm lại được ở bàn tay mình. Nhưng điều đó quan trọng. nghĩ về công việc của mình: làm thế nào mà mẩu sơn vụn có thể giúp tìm ra chiếc xe, rồi từ chiếc xe đó đưa tới điểm đỗ xe, nơi xuất dấu chân mờ nhạt dẫn tới cánh cửa mà từ đó có thể tìm ra sợi vải của chiếc áo được vứt ra với dấu tay nút áo - bề mặt duy nhất mà hung thủ quên lau sạch. Ngày hôm sau, đội đặc nhiệm gõ cửa nhà . Và công lý được mang đến, nạn nhân được cứu, gia đình đoàn tụ. Tất cả đều nhờ vào mẩu sơn xíu. Những chiến thắng bé - đó là những gì mà bác sĩ Sherman . Những chiến thắng bé... Đôi khi đó là tất cả những gì mà ta có thể hy vọng tới, Lincoln Rhyme trầm ngâm suy nghĩ, khi cảm thấy cơn buồn ngủ ới. Nhưng đôi khi chúng là tất cả những gì mà ta cần. LỜI TÁC GIẢ Các tác giả thể thành công nếu như có những người bạn. người em tuyệt vời bên họ. và tôi vô cùng may mắn khi có được những người bạn thực tuyệt vời như vậy quanh mình: Will và Tina Anderson, Alex Bonham, Louise Burke, Robby Burroughs, Britt Carlson, Jane Davis, Julie Reece Deaver, Jamie Hodder-Williams, John Gilstrap, Cathy Gleason, Carolyn Maỵs, Emma Longhurst, Diana Mackay, Tara Parsons, Carolyn Reidỵ. David Rosenthal, Marysue Rucci, Deborah Schenider, Vivienne Schuster, Brigitte Smith và Kevin Smith. Như mọi khi, tôi xin được gửi tới Madelyn Warcholik lời cảm ơn đặc biệt. Với độc giả tìm kiếm trong những cuốn sách du lịch với hy vọng tìm hiểu về Gallows Heights, các bạn có thể thôi cần tìm kiếm nữa. Bức tranh cuộc sống về Manhattan thế kỷ