“Ohio?” Rhyme hỏi. Người chuyên viên gật đầu. “Nhà tù an ninh tối đa Keegan Falls. Boyd chỉ làm việc ở đó khoảng năm. Người bảo vệ nhớ bởi vấn đề ở đôi mắt, và huýt sáo. Ông ta Boyd là vấn đề ngay từ đầu. Gây gổ, va chạm với các nhân viên gác khác về cách đối xử với tù nhân, dành rất nhiều thời gian để trò chuyện với các phạm nhân, mặc dù điều đó vi phạm với quy định. Người bảo vệ nghĩ rằng tạo quan hệ để sau này sử dụng họ như những sát thủ.” “Giống như móc nối với gã thuê ta giết nhân chứng ở đó.” “Có thể lắm.” “Và bộ hồ sơ nhân viên của ở đó sao? Cũng bị mất trộm?” “Thất lạc, vâng. ai biết sống ở đâu hay bất cứ điều gì khác về . Như biến mất khỏi màn hình radar.” Joe Trung bình... “Chà, còn thuộc về Texas hay Ohio nữa. là của chúng ta. Hãy tìm kiếm tỉ mỉ.” “Đúng thế.” Cooper chạy chương trình tìm kiếm chi tiết - các văn bản pháp lý, Cục quản lý xe cơ giới, các khách sạn, vé giao thông, thuế... tất cả mọi thứ. Trong vòng mười lăm phút, tất cả các kết quả ra. Có vài danh sách về Thompson G. Boyd và về T. G. Boyd. Nhưng tuổi và miêu tả của họ khớp với nghi phạm lắm. Người chuyên viên cũng thử vài cách đánh vần khác nhau của những cái tên này và cho ra kết quả tương tự. “Tên thường gọi?”, Rhyme hỏi. Hầu hết các hung thủ chuyên nghiệp, đặc biệt là các sát thủ giết mướn, sử dụng tên thường gọi khác. Cái tên chúng chọn thường giống với mật khẩu cho máy tính và tài khoản ATM - có vài biến đổi từ cái tên có ý nghĩa với hung thủ. Khi tìm ra nó là gì, ta có thể đá mình cái vì đơn giản trong lựa chọn. Nhưng để đoán được những cái tên này quả là thể. Họ vẫn thử: đảo chỗ của tên (Thompson tất nhiên là phổ biến với họ hơn). Cooper thậm chí còn thử phần mềm chuyên dùng đảo chữ cái để sắp xếp lại các chữ cái trong tên “Thompson Boyd”, nhưng chẳng có cái nào khớp với cơ sở dữ liệu. có gì cả, Rhyme nghĩ, bực dọc trước bế tắc. Chúng ta biết tên, biết trông như thế nào, biết ở trong thành phố... Nhưng ta chẳng thể nào tìm ra . Sachs liếc nhìn lên bảng, gõ đầu mình. : “Billy Todd Hamil”. “Ai?”, Rhyme hỏi. “Cái tên mà sử dụng để thuê căn hộ phố Elizabeth.” “Nó sao?” giở lướt nhanh qua tập giấy rồi nhìn lên. “Chết sáu năm trước.” “Có ở đâu ?” “. Nhưng em cá là ở Texas.” Sachs gọi cho nhà tù lần nữa và hỏi về Hammil. lát sau dập máy và gật đầu. “Đây rồi. Giết nhân viên ở cửa hàng tạp hóa mười hai năm trước. Boyd giám sát việc hành hình ông ta. Có vẻ như có mối liên hệ kỳ lạ này với những người mà mình giết. Phương pháp thực của xuất từ khi là người thi hành án. Tại sao đó phải là tính cách của ?” Rhyme biết, hoặc quan tâm, về “mối liên hệ kỳ lạ”, nhưng dù động cơ của Boyd là gì, có vài logic trong gợi ý của Sachs. hét lớn: “Lấy danh sách tất cả những phạm nhân hành hình và so sánh nó với DMV[1]. Thử Texas trước rồi sang các bang khác”. [1] Cơ quan điều hành giao thông cấ tiểu bang ở Mỹ với hai chức năng chính là thu thuế lưu thông và cấp bằng lái xe. J.T. Beauchamp gửi họ danh sách của bảy mươi chín tù nhân mà Thompson Boyd hành hình dưới vai trò nhân viên thi hành án ở Texas. “Nhiều thế sao?”, Sachs hỏi, cau mày. Dù Sachs có thể bao giờ do dự nổ súng giết kẻ nào đó nếu cần cứu những người khác. Rhyme biết có chút nghi ngờ về án tử hình bởi nó thường được đưa ra sau vài phiên xử được dàn dựng và mắc sai lầm, thậm chí đôi khi còn cố ý thay đổi bằng chứng. Rhyme nghĩ tới ý khác về số vụ hành hình: ở thời điểm nào đó trong s tám mươi vụ thi hành án, Thompson Boyd đánh mất khác nhau giữa sống và cái chết. Dù điều gì xảy ra họ bị giết trong vụ tai nạn ô tô... Và Boyd, hề chớp mắt. Chết tiệt, thậm chí còn tới dự đám tang. Cooper ghép các tên của những tử tù nam bị hành hình với các ghi chép của chính phủ. có gì hết. “Khốn kiếp”, Rhyme gắt gỏng. “Chúng ta phải lần ra những bang khác mà làm việc và những người mà hành hình ở đó. Nó vô cùng mất thời gian.” Rồi ý tưởng này ra. “Khoan . Những người phụ nữ.” “Gì cơ?”, Sachs hỏi. “Thử tên những người phụ nữ mà hành hình. thay đổi theo các tên.” Cooper làm thế, giới hạn lại danh sách hơn, cho chạy các cái tên và tất cả những cách viết có thể có, qua máy tính của cơ quan Điều hành giao thông. “Được rồi, có thể có gì đó đây”, người chuyên viên cách hào hứng. “Tám năm trước, người phụ nữ tên là Randi Rae Silling - ả điếm - bị hành hình ở nhà ngục Amarillo vì ăn cướp và giết hai khách hàng của ả. Cơ quan Điều hành giao thông của New York có kết quả, trùng họ, nhưng đó là người đàn ông, Randy với chữ Y và tên đệm R-A-Y. Trùng tuổi và miêu tả. Địa chỉ ở Queens - Astoria. Có chiếc Buick Century màu xanh da trời, ba năm tuổi.” Rhyme ra lệnh: “Đưa vài người mặc thường phục mang bức ảnh vi tính tới quanh đó để gặp vài người hàng xóm.” Cooper gọi cho Phó thanh tra - người đứng đầu khu vực 114. Trụ sở này phụ trách khu vực Astoria, và phần lớn khu vực Greek gần đó. giải thích về vụ án và gửi email bức ảnh của Boyd. Vị Phó thanh tra ta cử vài cảnh sát mặc thường phục tới để điều tra cách khéo léo từ những người ở trong căn hộ của Randy Silling. Trong nửa giờ căng thẳng - và có thông tin nào từ đội lấy thông tin ở Queens - Cooper, Sachs và Sellito liên lạc với các cơ quan lưu trữ công cộng ở Texas, Ohio và New York, tìm kiếm bất cứ thông tin nào họ có thể về Boyd, Hammil hoặc Silling. có gì hết. Cuối cùng họ nhận được cuộc gọi từ viên thanh tra từ khu 114. “Đại úy?”, người đàn ông gọi. Rất nhiều sĩ quan cấp cao vẫn sử dụng chức danh cũ để gọi Rhyme. “Chúng tôi có hai người xác nhận là người đàn ông này sống ở địa chỉ mà MDV cung cấp.” . “Ngài nghĩ sao về việc ưu tiên tạo điều kiện cho chúng tôi tiếp cận, thưa ngài?” Công lao, Rhyme thở dài. cần đến bất cứ câu trả lời mang tính đối đáp nào vói cách quan liêu và chấp nhận bằng câu trả lời hơi khó hiểu: “Hãy tóm cổ lại”.
CHƯƠNG 30 Hàng tá các nhân viên cảnh sát của lực lượng phản ứng nhanh di chuyển vào vị trí phía sau tòa nhà sáu tầng của Thompson Boyd phố 14 ở Astoria, Queens. Sachs, Sellito và Bo Haumaiui đứng ở trung tâm chỉ huy được thiết lập lệnh cách nhanh chóng đằng sau chiếc xe tải bị để ý của đội ESU. “Chúng em đây, Rhyme.” Sachs thầm vào chiếc micro. “Nhưng có ở đó ?”, nhà tội phạm học hỏi cách thiếu kiên nhẫn. “Chúng ta đưa các cảnh sát thuộc đội Tìm kiếm và Giám sát vào vị trí... Đợi chút. Có ai đó báo cáo.” sĩ quan đội Tìm kiếm và Giám sát tới chỗ họ. “Có nhìn được vào trong ?”, Haumann hỏi. “, thưa ngài. che kín cửa sổ trước rồi.” Viên cảnh sát trong đội thứ nhất rằng ta tiếp cận cửa sổ phía trước của căn hộ gần hết mức có thể; đội thứ hai ở ngay phía sau. Viên sĩ quan thêm vào: “Tôi có thể nghe thấy tiếng , tiếng nước chảy. Trẻ em, nghe có vẻ giống”. ‘Trẻ con, khốn kiếp.” Haumann càu nhàu. “Có thể là ti vi hoặc đài. Tôi chỉ dám chắc.” Haumann gật đầu. “Trung tâm gọi đội số hai. Báo cáo.” “Đội số hai đây. Có vết nứt phía sau thanh rèm - nhiều lắm. có ai ở phòng ngủ phía sau cả. Tôi có thể nhìn thấy. Nhưng đó chỉ là góc hẹp thôi. Có ánh sáng ở phía trước. Nghe thấy tiếng , tôi nghĩ vậy. Tiếng nhạc. Hết.” “Có thấy đồ chơi trẻ con hay “. Nhưng tôi chỉ có thể quan sát phòng ngủ góc mười độ. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy. Hết.” “Có thấy chuyển động nào ?” “, hết.” “Nghe . Đội hồng ngoại sao?” Máy dò hồng ngoại có thể định vị vị trí của người, động vật và các nguồn nhiệt khác bên trong tòa nhà. Kỹ thuật viên đội số ba cho chạy máy dò thân nhiệt vào ngôi nhà. “Tôi thu thập các vị trí nhiệt, nhưng nó quá yếu để nhận diện, hết.” “m thanh, hết?” “Tiếng cót két và tiếng kêu rên. Có thể là các phần ngôi nhà, đồ dùng, máy sưởi, máy thông gió và điều hòa khí. Có thể là loanh quanh hoặc lê cái ghế. Giả định ở đó nhưng thể được chính xác vị trí. thực che kín nơi này, hết.” “Được rồi, đội S & S tiếp tục làm nhiệm vụ. Hết.” Sachs vào micro của mình: “Rhyme, có nghe thấy chút nào ?”. “Làm thế nào mà có thể nghe thấy chứ?”, giọng Rhyme cáu kỉnh. “Họ cho rằng có chuyển động trong căn hộ của .” “Điều cuối cùng chúng ta cần là trận đấu súng”, Rhyme lẩm bẩm. cuộc trạm trán về mặt chiến thuật là trong những phương pháp hiệu quả nhất để phá hủy các dấu vết và các bằng chứng khác ở trường. “Chúng ta cần phải bảo đảm giữ được càng nhiều bằng chứng càng tốt - nó có thể là cơ hội duy nhất để tìm ra kẻ thuê và tên đồng phạm.” Haumann nhìn tòa nhà lần nữa. có vẻ vui lắm. Và Sachs - nửa trong là chiến sĩ đặc nhiệm - có thể hiểu tại sao. Đó có thể là cuộc triệt hạ khó nhằn, đòi hỏi rất nhiều sĩ quan. Căn hộ của nghi phạm có hai cửa sổ trước, ba sau và sáu cửa sổ bên. Boyd có thể dễ dàng nhảy qua trong số chúng và cố gắng trốn chạy. Đồng thời cũng có tòa nhà bên cạnh, chỉ cách có mét hai - cú nhảy dễ dàng từ mái nếu chọn đường trốn ở cao. cũng có thể có được chỗ nấp phía sau mái trước ngôi nhà và có thể nhắm bắn vào bất cứ ai bên dưới, ở bên kia phố, đối diện với ngôi nhà của tên sát thủ, là những ngôi nhà khác. Nếu như xảy ra trận chiến, viên đạn lạc cũng có thể dễ dàng là bị thương hoặc giết chết người vô tội. Boyd cũng có thể nã đạn vào những ngôi nhà này, với mục đích gây ra những thương tổn. Sachs nhớ lại việc nhắm vào những người vô tội chỉ đơn giản để đánh lạc hướng. Chẳng có lý do nào để nghĩ rằng có thể xử lý tình huống này cách khác . Họ phải di tản toàn bộ những người dân quanh đây trước khi thực cuộc đột kích. Haumann qua điện đàm: “Chúng tôi vừa bắt được hình ảnh ai đó vào hành lang. có camera nào giống như cái Boyd sử dụng phố Elizabeth.” biết chúng ta tiếp cận.” Dù vậy, viên sĩ quan đặc nhiệm vẫn thêm vào cách mơ hồ: “Trừ khi có vài cách khác để báo động. Mà có thể biết rất cuộc tấn công này”. Sachs nghe thấy tiếng rít bên cạnh và quay lại. Mặc bên ngoài bộ áo chống đạn và cách vô thức để tay chạm vào báng khẩu súng ngắn nằm trong bao, Lon Sellito xem xét tòa nhà. Nhìn cũng đầy ưu tư. Nhưng Sachs ngay lập tức biết rằng đó phải là khó khăn của việc xâm nhập vào ngôi nhà khiến suy nghĩ. có thể thấy đau khổ như thế nào. Với vai trò thám tử điều tra cấp cao, có lý do gì cho để tham gia vào đội đột nhập - thực tế, với bề ngoài to lớn, bụng to và kỹ năng sử dụng vũ khí cơ bản, có lý do để tham gia thực những pha đột nhập bất ngờ. Nhưng logic chẳng liên quan gì tới lý do thực việc có mặt ở đây. Nhìn thấy bàn tay lần nữa đưa lên má và gãi vào vệt máu vô hình, biết rằng nghĩ lại vụ nổ súng bất ngờ ngày hôm qua, và việc tiến sĩ Barry bị bắn chết ngay trước mắt, Sachs hiểu rằng: Đây là khoảng thời gian thử thách của ấy. Cách này xuất phát từ cha của , người làm rất nhiều việc dũng cảm trong lực lượng nhưng có lẽ dũng cảm nhất là lần chiến đấu cuối cùng, chống lại căn bệnh ung thư quái ác cướp sinh mạng của ông, mặc dù khó mà đánh bại được tinh thần ông ấy. Con ông trở thành cảnh sát từ đó và ông bắt đầu đưa ra cho những lời khuyên về công việc. lần, ông rằng có lúc nhận ra chính mình trong những tình huống mà phải đơn độc chống lại thử thách và hiểm nguy. “Cha gọi đó là ‘giai đoạn thử thách’, Amie. chuyện gì đó mà ta phải gồng mình lên để vượt qua. Trận chiến có thể là chống lại hung thủ, có thể là chống lại người cộng . Nó thậm chí có thể là chống lại cả Sở cảnh sát New York.” Đôi khi, ông , trận chiến khó khăn nhất lại nằm bên trong tâm hồn ta. Sellito biết phải làm gì. phải là người đầu tiên xông qua Nhưng sau việc xảy ra ở bảo tàng ngày hôm qua, như bị tê liệt với nỗi sợ ấy. Giai đoạn thử thách... Liệu ấy vượt qua được hay ? Haumann giờ phân các sĩ quan đột nhập thành ba đội, cử vài người tới các góc phố để ngăn dòng giao thông và những người khác tới các góc khuất bên cạnh cửa trước của ngôi nhà để ngăn bất cứ ai định vào - và hiển nhiên, để sẵn sàng hạ Boyd nếu có ý định bước ra ngoài lang thang làm việc gì đó. cảnh sát trèo lên mái nhà. Vài cảnh sát trong đội Phản ứng nhanh bảo vệ những ngôi nhà bên cạnh - trong trường hợp cố trốn thoát theo cách làm phố Elizabeth. Haumainn sau đó nhìn Sachs: “ vào với chúng tôi chứ?”. “Tất nhiên”, trả lời. “Cần có ai đó từ đội Khám nghiệm trường bảo đảm nơi này. Chúng ta vẫn chưa biết được ai thuê tên khốn này và chúng ta cần phải tìm ra.” “ muốn vào đội nào?” “Với bất cứ ai định đột nhập bằng cửa trước”, . “Đó là Jenkin.” “Vâng, thưa ngài.” Rồi giải thích về những người dân sống bên kia phố và nhắc họ rằng Boyd có thể nhắm vào những người dân thường sống ở đó khi cố gắng chạy trốn. Haumann gật đầu. ‘Tôi cần người bảo đảm những nơi này, ít nhất là đưa mọi người tránh các cửa trước và giữ họ tránh các con phố.” Tất nhiên, ai muốn công việc này. Nếu như các cảnh sát thuộc đội Phản ứng nhanh là những chàng cao bồi, Haumann cầu ai đó tình nguyện thực . giọng phá vỡ im lặng. “Mẹ kiếp, tôi nhận nhiệm vụ này.” Là Lon Sellito. “Quá tốt với gã già như tôi.” Sachs nhìn ta. Người cảnh sát đầu hàng trước khoảng thời gian thử thách của mình. ta tuyệt vọng, cười cách vô tư lự, có thể là nụ cười buồn nhất trong đời Sachs từng nhìn thấy. Người chỉ huy đội ESU vào micro của mình: “Tất cả các đội, triển khai giữ vững khoảng cách. Đội S & S, hãy cho tôi biết lúc có thay đổi trong nhà, hết”. “. Hết.” Sachs vào micro: “Bọ chuẩn bị tấn công, Rhyme. Em kể biết những gì xảy ra”. “ nghe”, ngắn gọn. gì nữa được giữa họ. Rhyme thích việc tham gia vào trận đấu. Nhưng Rhyme biết quyết tâm đến mức nào, và những mối đe dọa tới người vô tội có thể làm Sachs sôi máu cũng như việc bảo đảm rằng những kẻ như Thompson Boyd trốn thoát được quan trọng với như thế nào. Đây là phần bản năng của và bao giờ khuyên dừng lại vào những lúc như thế này. Dù sao, nó có nghĩa là cảm thấy vui. Nhưng rồi những suy nghĩ của Lincoln Rhyme mờ dần khi họ bắt đầu vào vị trí. Sachs và Sellito bước lên con hẻm, nhập vào đội đột nhập, ta tiếp tục tới các nhà bên kia phố và đưa mọi người tới nơi nấp. Nụ cười ngoác miệng giả tạo của chàng Trung úy biến mất. Khuôn mặt nhìn béo phị và lấm tấm mồ hôi, mặc cho thời tiết mát mẻ. lau nó, gãi gãi vệt máu vô hình và nhận ra nhìn mình. “Cái áo chống đạn chết tiệt. Nóng quá.” “Nó đáng ghét”, Sachs . Họ tiếp tục bước xuống con hẻm, cho tới khi đến gần phía sau ngôi nhà của Boyd, nơi mà các cảnh sát triển khai đội hình. Bất ngờ chộp lấy cánh tay của Sellito và kéo lại. “Có ai đó nhìn....” Nhưng khi họ bước tới gần tòa nhà, Sachs trượt túi rác và khuỵu xuống. thở dốc, co rúm và ôm lấy đầu gối. “ ổn đấy chứ?” “ sao”, , đứng lên với khuôn mặt nhăn nhó và gọi vào điện đàm, với giọng ra hơi: “5885, tôi thấy có chuyển động cửa sổ tầng hai, ở phía sau tòa nhà. Đội S & S, các có thể xác nhận ?”. “ phải đối tượng thù địch. Đó là trong những người của ta, hết.” “ nhận, hết.” Sachs tiếp tục bước về phía trước, khập khiễng. “Amelia, bị đau.” “ có gì.” “Hãy với Bo.” “Đây phải vấn đề.” là phải chịu đựng căn bệnh viêm khớp mvài người trong cuộc biết đến như - Rhyme, Mel Cooper và Sellito - nhưng đó là về chuyện này. vượt qua khoảng thời gian rất dài để che giấu bệnh tật của mình, lo lắng rằng chỉ huy đưa ra ngoài chữa trị nếu họ phát ra. thò vào bên trong túi chiếc quần lùng thùng của mình và lôi ra gói thuốc giảm đau, bóc nó bằng răng rồi nuốt viên. điện đàm họ nghe tiếng Bo Haumann: “Tất cả các nhóm vào vị trí, hết”. Sachs tiến lên phía trước nhập vào đội xâm nhập chính. Cái chân lại đau hơn. Sellito kéo sang bên. “ thể vào được.” “ phải là tôi hạ nằm im sàn, Lon. Tôi chỉ muốn bảo đảm an toàn trường.” Viên thanh tra quay lại chiếc xe trung tâm chi huy, hy vọng có thể tìm thấy ai đó để hỏi về tình hình, nhưng Haumann và những người khác vào vị trí. “Nó khá hơn rồi, sao đâu”, bước lên cà nhắc. trong những cảnh sát thuộc nhóm A gọi Sachs thầm: “Thám tử, sẵn sàng chưa?”. “Rồi.” “, ấy chưa.” Sellito quay sang phía người cảnh sát. “ ấy sơ tán những người dân thường. Tôi vào cùng các .” “Ngài?” “Ừ, tôi. Có vấn đề gì ?” “, thưa ngài.” “Lon”, thầm: “Tôi ổn mà”. Viên thám tử to béo đáp lời: “Tôi đủ hiểu biết để bảo đảm giữ an toàn cho trường. Rhyme nhắc nhắc lại cho tôi hằng năm trời để làm cho đúng”. “Tôi chạy chạy lại đâu.” “Ừ, có thể là , nhưng liệu có thể nhảy vào trận chiến nếu chĩa cái khẩu súng quái quỷ đó vào ?” “Đúng, tôi có thể.” trả lời cách kiên quyết. “Chà, tôi nghĩ vậy. Nên thôi tranh cãi và bảo đảm những người dân thường an toàn.” cột chắc bộ áo chống đạn và rút khẩu côn của mình ra. lưỡng lự. “Đây là mệnh lệnh, thưa Thám tử.” nhìn cách ù rũ. Nhưng vẫn tự tin như Sachs thường thế 1 vài người dùng cái từ “kẻ nổi loạn” - con của cảnh sát biết vị trí của mình về mặt thứ bậc trong Sở cảnh sát New York. : “Được rồi... nhưng đây, cầm lấy cái này”. rút khẩu Glock của mình ra và đưa nó cho Sellito cùng với băng đạn phụ. cầm lấy khẩu côn sáu viên của . nhìn vào khẩu súng tự động to màu đen. Đó là khẩu súng với cái cò kéo cách nhàng như cánh của con bướm đêm. Nếu như sử dụng khẩu này đúng, giống như làm ngày hôm qua phố Elizabeth, có thể dễ dàng giết chết mình hoặc ai đó trong đội đột nhập. Gãi lên má lần nữa, Sellito nhìn vào tòa nhà. Và nhanh chóng nhập vào với các cảnh sát khác. Chạy băng qua phố để di tản mọi người ra khỏi các tòa nhà và các căn hộ. Sachs nhìn ra phía sau và quan sát họ . quay lại tiếp tục với các căn hộ bên kia đường. Cảm giác đau ở chân biến mất. ra, vẫn ổn. Nỗi đau duy nhất mà cảm thấy là thất vọng vì tham gia cùng với đội đột nhập. Nhưng cần phải giả vờ cú ngã và vết thương. Vì lợi ích của Lon Sellito. thể nghĩ ra bất cứ cách nào để giúp đỡ, ngoại trừ việc ép ta phải tham gia nhiệm vụ. đánh giá mức độ mạo hiểm của việc để tham gia vào đội và quyết định rằng chỉ có nguy cơ tối thiểu đối với hay bất cứ ai khác - có hàng tá các bảo đảm, mọi người đều mặc áo chống đạn và họ truy bắt hung thủ bằng cách đột nhập bất ngờ. Sellito cũng có vẻ như có vài cách kiềm chế nỗi sợ hãi. nhớ lại thận trọng trong cách giữ và kiểm tra khẩu Glock, cũng như cách đôi mắt nhanh nhẹn của nhìn vào tòa nhà của tên hung thủ. Nhưng trong bất cứ kiện nào giờ đây thực có lựa chọn nào khác. Sellito là cảnh sát tuyệt vời. Nhưng nếu vẫn tiếp tục yếu đuối, còn là cảnh sát và cuộc đời của có thể kết thúc với điều đó. Những mẩu tự ti này có cách riêng ảnh hưởng đến toàn bộ tinh thần của ta. Sachs biết điều đó, chiến đấu với chúng thường xuyên. Nếu như quay trở lại trận chiến lúc này, từ bỏ. nhấc chân bước; sau cùng, có nhiệm vụ quan trọng ở đây, sơ tán tất cả những dân cư trong các ngôi nhà bên kia phố và cần phải di chuyển nhanh chóng; đội đột nhập có thể xông vào bất cứ lúc nào. Sachs bắt đầu nhấn các chuông cửa, đưa mọi người ra khỏi các phòng gần cửa trước và bảo đàm rằng họ ở bên trong với các cánh cửa khóa chặt. điện đàm cho Bo Haumann thông qua tần số an toàn và rằng những ngôi nhà xung quanh được bảo đảm an toàn; tiếp tục tới các tòa nhà khác, ở và cả dưới con phố. “Được, chúng tôi tiến vào”, cách ngắn gọn và ngắt máy. Sachs tiếp tục dọc con phố. nhận ra là móng tay mình bấm chặt vào ngón cái. Phản ánh mỉa mai: Sellito bồn chồn về trận chiến; Amelia Sachs cáu kỉnh khi ở cách xa nơi nguy hiểm.
CHƯƠNG 31 Lon Sellito bám theo bốn cảnh sát khác vào cầu thang tối lờ mờ, tới chiếu nghỉ tầng hai của căn nhà. Thở hổn hển sau khi trèo, dừng lại, lấy hơi. Các cảnh sát đặc nhiệm chụm lại, đợi mệnh lệnh từ Haumann báo về việc ngắt đường điện vào tòa nhà - họ muốn thêm bất cứ ai bị sốc điện nữa. Trong khi chờ đợi, viên cảnh sát to lớn tự chuyện với mình: Mày sẵn sàng chưa? Nghĩ về nó. Giờ là lúc để quyết định, ở lại hay rời ? Phụp, phụp, phụp... Mọi thứ xoay vòng trong tâm trí: Những vết máu bắn vào, những mũi kim từ viên đạn xé nát da thịt. Đôi mắt màu nâu còn ngập đầy sống trong giây lát rồi chỉ khắc sau đó ánh lên tia chết chóc. Khoảnh khắc ớn lạnh thoáng qua của nỗi kinh hoàng khi cửa căn hầm phố Elizabeth mở ra và khẩu súng của phát nổ với tiếng nổ lớn và bất ngờ, Amelia Sachs sợ hãi nấp , tóm lấy khẩu súng của mình, khi những mẩu đá bắn vọt ra khỏi bức tường chỉ cách vài bước chân. Viên đạn từ chính cái khẩu súng khỉ gió này. Điều gì xảy ra vậy? tự hỏi. Có phải thần kinh của mình biến mất rồi chăng? cười giận dữ với chính mình, khi so sánh với dạng thần kinh mà nghĩ tới của Lincoln Rhyme, người mà những dây thần kinh, ở trong xương sống của ta, căn bản bị phá hủy. Chà, Rhyme đối đầu cách khá tốt với những gì xảy ra với ấy. Tại sao mình thể? Đó là phải được trả lời, bởi vì nếu bước lên lúc này và phá hỏng nhiệm vụ lần nữa, có người chết. Có thể là như thế vì hung thủ mà họ săn đuổi là gã vô cùng nguy hiểm. Nếu lùi lại, lôi mình ra khỏi trận chiến, cả nghiệp của kết thúc, nhưng ít nhất phải đẩy ai khác vào nguy hiểm nữa. Mình có thể làm thế ? Sellito tự hỏi. Chỉ huy nhóm : “Thám tử, chúng ta xông vào trong vòng ba mươi giây nữa. Chúng ta phá sập cánh cửa, tản ra và bảo đảm căn nhà. có thể vào và bảo vệ trường sau đó. Như vậy được chứ?” Ở lại hay bỏ ? Viên trung úy tự hỏi chính mình. Mình chỉ cần bước xuống cầu thang. Chỉ thế thôi. Từ bỏ phù hiệu cảnh sát, làm việc như nhân viên tư vấn an ninh cho vài công ty. Mức lương gấp đôi. bao giờ bị bắn nữa. Phụp, phụp, phụp... bao giờ phải nhìn thấy những đôi mắt ánh lên vẻ đau đớn rồi sống nhanh chóng biến mất chỉ cách bạn vài centimet. Phụp... “Như thế ổn chứ?”, nhóm trường nhắc lại. Sellito nhìn viên cảnh sát “”, thầm: “”. Viên cảnh sát thuộc đội ESU cau mày. Viên thanh tra : “Phá cánh cửa với thanh dầm, rồi tôi vào. Đầu tiên”. “Nhưng...” Sellito lầm bầm: “ nghe thám tử Sachs rồi đấy. Tên tội phạm này làm việc mình. Chúng ta cần bất cứ thứ gì có thể dẫn tới kẻ thuê . Tôi biết cần phải tìm cái gì và tôi có thể bảo vệ trường nếu như cố gắng để phá tung nó lên.” “Để tôi gọi điện ”, viên cảnh sát thuộc đội ESU cách đầy ngờ vực. “Đồng chí”, viên thanh tra cách bình tĩnh: “Đó chính là cách chúng ta phải như vậy. Ở đây tôi là chỉ huy.” Chỉ huy nhóm nhìn vào người phó chỉ huy. Họ nhún vai. “Đó là... quyết địnhài.” Sellito đoán rằng phần còn lại của câu ấy (sau đoạn ngập ngừng) lúc ban đầu là “đám tang” chứ phải là “quyết định”. “Ngay khi họ ngắt nguồn điện chúng ta xông vào”, viên cảnh sát thuộc đội ESU . ta đeo chiếc mặt nạ chống độc lên. Cả đội cùng đeo mặt nạ của họ vào, Sellito cũng thế. nắm chặt khẩu Glock của Sachs - giữ ngón tay mình nằm ngoài vành cò súng - và bước sang bên cánh cửa. Tiếng vang lên bên tai : “Chúng tôi ngắt điện trong ba... hai... ”. Người chỉ huy nhóm khẽ đập vai viên cảnh sát bằng thanh dầm. Người đàn ông to lớn vung nó lên mạnh và cánh cửa bị phá bung ra. Cảm giác lâng lâng, quên hết tất cả mọi thứ trừ tên sát thủ và bằng chứng, Sellito xông vào trong, các cảnh sát đặc nhiệm theo sau yểm trợ, đạp cánh cửa bung ra và lùng sục các căn phòng. Đội thứ hai đột nhập vào từ bếp. có bất cứ dấu hiệu mới nhất nào của Boyd. chiếc ti vi là vở hài kịch phát - đó là nguồn thanh và gần như là nguồn nhiệt và tiếng động mà đội S & S tìm thấy. Gần như là. Nhưng có thể là . Nhìn sang trái rồi sang phải khi bước vào căn phòng khách , thấy ai, Sellito hướng thẳng tới chiếc bàn làm việc của Boyd, được chất đống cao: những tập giấy, đạn, vài cái phong bì, ít dây cao su, chiếc đồng hồ kỹ thuật số, ống chất lỏng và ống bột màu trắng, chiếc đài bán dẫn, dây thừng. Dùng tờ giấy ăn, Sellito cẩn thận kiểm tra ngăn kéo bằng kim loại gần chiếc bàn xem có bẫy . thấy gì và mở nó ra, phát ra nhiều chai lọ và hộp hơn. Hai khẩu súng. vài tập tiền mới - ước tính gần 100.000 đô la. “Căn phòng an toàn”, trong các cảnh sát ESU . Rồi tiếng người từ căn phòng khác. Cuối cùng là tiếng: “Trưởng nhóm A gọi trung tâm, chúng tôi bảo đảm trường, hết”. Sellito cười lớn. làm được. Đối diện với điều khỉ gió nào đó giày vò . Nhưng đừng quá tự mãn, tự với mình, nhét khẩu Glock của Sachs vào trong túi. Mày đến tận lúc này chỉ vì lý do, nhớ ? Mày còn có việc phải làm. Vậy bảo vệ những bằng chứng khỉ g . Khi quan sát căn hộ, nhận ra có tiếng gì đó xè xè. Cái gì chứ? Nhìn vào bếp, hành lang, chiếc bàn làm việc. Cái gì kỳ lạ ở đây? Có gì đó ổn. Rồi nó ra trong đầu . Chiếc điện đàm. Có phải nó tạo ra thanh này ? Chà, nếu là thế, ta khó có thể nhìn thấy, với tất cả những thiết bị chơi nhạc rẻ tiền kỳ diệu hơn nhiều: những chiếc đài loa to đùng, đầu CD, MP3. Khốn kiếp. Đó là cái bẫy, thiết bị nổ! Và nó nằm ngay bên cạnh lọ đựng chất lỏng trong suốt, với cái nút đậy bằng thủy tinh, mà Sellito được học từ những lớp học khoa học chính là thứ ta sử dụng để đựng acid. “Chúa ơi!” có bao nhiêu thời gian trước khi nó phát nổ đây? , hay hai phút? Sellito vung lên phía trước và chộp lấy điện đàm, bước vào phòng tắm, đặt nó vào trong chậu rửa mặt. trong những cảnh sát đặc nhiệm hỏi: “Cái gì...?”. “Chúng ta có thiết bị nổ tự tạo! Nhanh chóng ra khỏi tòa nhà mau!”, viên thanh tra hét lớn, đeo mặt nạ chống độc vào. “Chạy mau!”, viên cảnh sát hét lên. Sellito lờ ta . Khi người ta làm những thiết bị nổ tự tạo họ bao giờ băn khoăn về những dấu tay hay các bằng chứng khác bởi khi cái thiết bị ấy nổ tung, hầu hết các vật chứng bị phá hủy. Họ biết danh tính của Boyd, tất nhiên, nhưng có thể có vài dấu vết hoặc các dấu tay khác ở thiết bị có thể đưa họ tới kẻ thuê hoặc tên đồng phạm. “Gọi cho đội phá bom ”, ai đó qua chiếc điện đàm. “Im nào. Tôi bận.” Có chiếc nút tắt/mở cái đài bán dẫn nhưng tin rằng nó được dùng để vô hiệu hóa nguồn nổ. Chịu thua, viên thanh tra tìm cách tháo cái nắp nhựa sau màu đen của nó ra. Bao lâu, bao lâu? Khoảng thời gian bao lâu cho Boyd để vào trong nhà và ngắt chiếc bẫy Khi nhấc cái nắp lưng lên và cúi xuống, Sellito thấy nửa que dynamite - phải là chất nổ dèo nhưng thừa khả năng thổi bay bàn tay và làm mù mắt. có màn hình. Chỉ có trong các bộ phim bom mới có những chiếc đồng hồ số đếm ngược dễ nhìn. Những quả bom được kích nổ bởi những con chip định giờ với bộ vi xử lý siêu mà cần màn hình hiển thị. Sellito giữ cố định thanh dynamite bằng những móng tay của mình - để tránh làm hỏng bất cứ dấu tay nào. bắt đầu tìm cách tháo kíp nổ ra khỏi quả bom này. Tự hỏi liệu tên sát thủ này tinh quái đến mức nào (những kẻ tạo bom chuyên nghiệp sử dụng thiết bị kích nổ phụ để hạ những người như Sellito, lởn vởn quanh tác phẩm của chúng), kéo cái kíp nổ ra khỏi cục dynamite. có thiết bị kích nổ phụ, hay bất cứ... tiếng nổ, tiếng đùng lớn, vọng lên trong phòng tắm, dội vào những viên gạch. “Cái gì vậy?”, Bo Haumann gọi. “Ai đó nổ súng? Chúng ta có nổ súng? Các đơn vị báo cáo ngay.” “Tiếng nổ trong phòng tắm của nghi phạm”, ai đó gọi. “Cần nhân viên y tế tới trường, đội Phụ trách các tình huống khẩn cấp vào trường.” “ có gì, có gì. Mọi người thư giãn .” Sellito nhét bàn tay cháy phừng phừng của mình vào nước lạnh. “Tôi chỉ cần miếng dán Band-Aid thôi.” “Là phải , Trung úy?” “Vâng. Đó là cái kíp nổ. Boyd dùng cái bẫy nhằm phá hủy các bằng chứng. Tôi giữ lại phần lớn...” ấn tay mình vào nách và rít lên: “Khốn kiếp, đau quá”. “Thiết bị lớn cỡ nào?”, Haumann hỏi. Sellito nhìn vào chiếc bàn làm việc trong căn phòng khác. “Đủ lớn để thổi bay cái thứ nhìn giống bình gallon đựng acid sulfuric, tôi đoán thế. Tôi thấy vài lọ đựng bột, nhiều khả năng là cyanide. Nó đáng ra có thể hủy diệt phần lớn các bằng chứng - và bất cứ ai ở gần rồi.” vài cảnh sát đội phản ứng nhanh nhìn Sellito với biết ơn. người : “Tôi muốn tự tay mình hạ tên hung thủ này”. Haumann, vẫn với giọng của viên cảnh sát khách quan, hỏi cách thực tế nhất: “Tnghi phạm?”. “ có dấu hiệu nào. Nhiệt ảnh hồng ngoại là từ ti vi, tủ lạnh và ánh mặt trời các đồ vật trong nhà, có vẻ thế.” cảnh sát trả lời. Sellito quan sát căn phòng và rồi thông báo: “Có ý này, Bo”. “Cứ .“ “Hãy sửa cánh cửa nhanh. Để tôi và vài cảnh sát khác bên trong, đưa mọi người ra khỏi khu phố. có thể quay về sớm. Chúng ta tóm lúc đó.” “ hiểu, Lon. Tôi thích ý tưởng này đấy. Bắt tay vào việc thôi. Ai biết làm mộc ?” “Tôi làm việc này.” Sellito . “ trong những sở thích của tôi. Chỉ cần đưa cho tôi vài dụng cụ thôi. Và cái đội đột nhập kiểu quái gì thế này? Chẳng lẽ ai có cái băng dán Band-Aid đấy sao?” Dưới con phố cách xa căn hộ của Boyd, Amelia Sachs lắng nghe cuộc trao đổi qua điện đàm về cuộc đột nhập. Có vẻ như kế hoạch của dành cho Sellito có hiệu quả - thậm chí còn tốt hơn hy vọng. Sachs thực hiểu những gì xảy ra nhưng ràng là ấy làm điều gì đó cách đầy dũng cảm và nghe thấy tự tin trong giọng của . xác nhận thông điệp về kế hoạch đưa mọi người ra khỏi khu phố và đợi Boyd quay lại, sau đó thêm rằng mình cảnh báo những người dân còn lại ở bên kia con phố, và sau đó nhập vào những người khác trong nhiệm vụ nấp tại căn nhà, tới trước ngôi nhà và cầu người phụ nữ trong căn nhà đó tránh xa tất cả cửa trước cho tới khi nghe thấy có người báo rằng đủ an toàn để ra ngoài. Có hoạt động của cảnh sát diễn ra phố. Đôi mắt của người phụ nữ mở to. “Có nguy hiểm ?” với người phụ nữ: Chúng tôi chỉ đề phòng thôi, có gì phải đến mức báo động hay như thế. cách chung chung, làm họ quá sợ hãi. nửa công việc của cảnh sát là quan hệ công chúng. Đôi khi nó chiếm phần lớn công việc của họ. Sachs thêm vào rằng thấy vài thứ đồ chơi trẻ em trong sân nhà bà ta. Liệu lũ trẻ có ở trong nhà lúc này ? Đó là lúc nhìn thấy người đàn ông ra từ con hèm phố. bộ chậm rãi theo hướng về phía căn nhà, đầu cúi xuống, đội chiếc mũ và chiếc áo khoác ngoài dài. thể nhìn thấy khuôn mặt của ta. Người phụ nữ với giọng đầy lo lắng: “Chỉ có tôi và bạn trai ở nhà lúc này. Lũ trẻ học. Chúng thường bộ về nhà nhưng chúng tôi có nên đón chúng ?”. “Thưa bà, cái người đàn ông kia, ở bên kia phố ấy?” Người phụ nữ bước tới trước và nhìn. “ ta?” “ biết ta chứ?” “Đúng rồi. ta sống trong ngôi nhà đằng kia.” “Tên ta là gì?” “Larry Tang.” “Ồ, đó là người Trung Quốc à?” “Tôi đoán thế. Hoặc Nhật hoặc gì đó.” Sachs thả lỏng. “ ta liên quan chứ?”, người phụ nữ hỏi. “ hề. về lũ trẻ của , có lẽ là tốt nhất nên...” Ồ, Chúa ơi. Nhìn qua người phụ nữ, Amelia Sachs nhìn chằm chằm vào phòng ngủ của ngôi nhà trong quá trình sơn sửa lại. bức tường là hình vài nhân vật hoạt hình được vẽ bằng sơn. là trong chuyện của gấu Pooh - nhân vật chú hổ Tigger. Mảng màu cam của lớp sơn hoàn toàn giống với mẫu tìm thấy ở gần nhà bà dì của Geneva ở Harlem. Màu cam sáng. Rồi nhìn vào sàn nhà ở sảnh vào. tập báo là đôi giày cũ. Màu nâu sáng. chỉ có thể nhìn thấy nhãn hiệu bên trong. Đó là hiệu Bass. Khoảng cỡ 11. Amelia Sachs hiểu ngay lập tức rằng người bạn trai mà người phụ nữ này chính là Thompson Boyd và ngôi nhà ở bên kia phố phải là chỗ ở của mà là nơi náu khác. Tất nhiên, lý do nó có ai lúc này đơn giản bởi vì ở chỗ nào đó trong chính ngôi nhà này.
CHƯƠNG 32 Amelia Sachs nghĩ: Kéo người phụ nữ ra ngoài. Đôi mắt của ta cho thấy hề biết gì. ấy liên quan tới chuyện này. Tất nhiên là Boyd có vũ khí Và mình vừa đổi khẩu Glock lấy cái khẩu côn khỉ gió này. Kéo ấy ra khỏi đây. Nhanh lên. Bàn tay của Sachs xuôi về phía dây đeo lưng, vị trí của khẩu súng bé của Sellito. “À, điều nữa, thưa .” cách bình tĩnh. “Tôi nhìn thấy chiếc xe tải ở phố. Tôi muốn hỏi xem liệu có thể cho tôi biết nó là của ai ?” Tiếng gì vậy? Sachs tự hỏi. Có cái gì đó từ bên trong ngôi nhà. Kim loại. Nhưng giống tiếng vũ khí, tiếng lạch cạch chìm dần. “ chiếc xe tải?” “Đúng. thể nhìn thấy nó ở đây. Nó ở phía sau cái cây đằng kia.” Sachs bước lùi lại, ra hiệu cho ta tới trước. “ có thể ra ngoài và nhìn nó được ? Đó là giúp đỡ rất lớn.” Dù vậy, người phụ nữ đứng yên tại chỗ ở cửa vào, nhìn về phía bên phải của mình, về phía thanh phát ra. “ ?”, cau mày. “Có chuyện gì vậy?” Tiếng lạch cạch, mà Sachs hiểu ra ngay lập tức, là của những tấm rèm che cửa. Boyd nghe được cuộc chuyện của với bạn và nhìn ra ngoài cửa sổ. thấy cảnh sát thuộc đội ESU hoặc chiếc xe cảnh sát ở gần ngôi nhà náu của . “Điều này thực quan trọng”, Sachs cố gắng. “Nếu có thể chỉ...” Nhưng người phụ nữ đứng đông cứng lại, đôi mắt mở to. “! Tom! làm...?” “Thưa , bước tới đây ngay!”, Sachs hét lên, rút khẩu Smith & Wesson. “Giờ! nguy hiểm đấy!” “ làm gì với nó vậy? Tom!”, bước lùi khỏi Boyd nhưng vẫn đứng trong hành lang, đứng như trời trồng vì quá bất ngờ, sợ hãi. “!” “Cúi xuống!”, Sachs với giọng đanh lại, cúi thấp mình lấy đà và di chuyển về phía ngôi nhà. “Boyd, nghe tôi đây”, Sachs hét lớn. “Nếu có vũ khí, hãy thả nó ra. Ném nó ra đây để tôi có thể thấy. Rồi nằm xuống sàn. Tôi muốn làm ngay! Có rất nhiều cảnh sát bên ngoài.Im lặng, trừ tiếng sụt sịt của người phụ nữ. Sachs thực động tác ló đầu ra nhanh chóng, quan sát tầm thấp quanh góc bên trái . thấy người đàn ông, khuôn mặt bình thản, khẩu súng ngắn lớn màu đen trong tay. phải khẩu cỡ 22 ly của Bắc Mỹ, mà là khẩu tự động, với đầu đạn nổ sau khi chạm mục tiêu và băng đạn cỡ mười lăm viên hoặc hơn. lùi lại để có chỗ nấp. Boyd tính là di chuyển cao hơn và hai viên đạn bắn ra trượt mục tiêu, chỉ vài centimet, thổi bay các mảng vữa và các mành gỗ vào khí. Người phụ nữ có làn da rám nắng la hét, quờ quạng lung tung, nhìn vào Sachs rồi quay lại nhìn vào Boyd. “, , !” Sachs gọi lớn: “Ném vũ khí của xuống!”. “Tom, làm ơn mà! Chuyện gì xảy ra vậy?” Sachs gọi ta: “Cúi xuống, thưa !”. khoảng dài im lặng tuyệt đối. Boyd định làm gì? Dường như tranh đấu xem làm gì tiếp theo. Rồi bắn phát duy nhất. Nữ thanh tra né tránh phát đạn. Dù vậy, viên đạn vẫn trượt mục tiêu. Nó hoàn toàn trượt ra khỏi bức tường gần vị trí đứng của Sachs. Nhưng, hóa ra, Boyd hề nhắm vào , và quả là viên đạn trúng vào mục tiêu được nhắm tới. Người phụ nữ khuỵu xuống, tay ôm lấy đùi, máu trào ra. “Tom”, thào. “Tại sao?... Ồ, Tom.” lăn qua lưng và nằm ôm chặt lấy chân mình, thở hổn hển trong cơn đau. Cũng giống như ở bảo tàng, Boyd bắn ai đó để đánh lạc hướng cảnh sát, để tạo cơ hội cho bỏ chạy. Nhưng lần này đó là bạn . Sachs nghe thấy tiếng kính vỡ khi Boyd phá vỡ cửa sổ để trốn thoát. Người phụ nữ vẫn thào những lời mà Sachs nghe được. điện đàm cho Haumann về tình trạng và vị trí của người phụ nữ, rồi ngay lập tức đưa nhân viên y tế và lực lượng hỗ trợ tới. Rồi nghĩ: Nhưng mất vài phút để các cảnh sát đội cứu thương tới đây. Mình cần phải cứu ấy. tấm gạc có thể làm giảm việc chảy máu. Mình có thể cứu mạng sống của ấy. Nhưng rồi: . chạy trốn được. nhìn quanh góc nhà, thấp, nhanh và thấy Boyd nhảy ra khỏi cửa sổ ở hành lang vào sân bên sườn nhà. Sachs do dự, quay lại nhìn người phụ nữ. ấy bất tỉnh, và bàn tay rơi khỏi chỗ vết thương khủng khiếp chân. Máu chảy thành vũng bên dưới thân người. Chúa ơi... chạy lại phía người phụ nữ. Rồi dừng lại. . Mình biết mình phải làm gì. Amelia Sachs chạy về phía cửa sổ bên. nhìn ra ngoài, rất nhanh lần nữa, trong trường hợp đợi xuất . Nhưng, , Boyd hy vọng rằng cứu người phụ nữ. Sachs nhìn thấy chuồn nhanh khỏi căn nhà con hẻm đá cuội mà hề quay lại nhìn. nhìn xuống. Khoảng cách gần hai mét từ đây xuống đất. Câu chuyện về cơn đau từ cú ngã mà với Sellito hai mươi phút trước là giả; nhưng cơn đau kinh niên . Ồ, người em. trèo lên bậu cửa sổ, phủi sạch những mẩu kính vỡ, vung chân ra ngoài, rồi nhảy chồm tới. Cố làm giảm độ sốc của cú nhảy, Sachs giữ đầu gối của mình gập lại. Nhưng đó là cú nhảy dài và khi tiếp đất đôi chân khuỵu xuống, ngã nhào lên những viên đá cuội và cỏ, rên rỉ với cơn đau. Thở cách nặng nề, gượng đứng dậy và bắt đầu lao theo Boyd, nhưng giờ tốc độ giảm do tập tễnh của đôi chân. Chúa bắt ta phải trả giá cho dối trá, Sachs nghĩ. Gạt những bụi cây mỏng manh, Sachs lao từ khoảng vườn vào con hẻm phía sau những ngôi nhà và các căn hộ. nhìn sang trái rồi sang phải. có dấu hiệu nào của . Rồi, ở cách đó khoảng ba mươi mét về phía trước, nhìn thấy cánh cửa gỗ lớn mở ra. Đây là đặc trưng của những khu cũ kỹ ở New York - những ga ra nằm dọc các con hẻm phía sau những ngôi nhà. Điều đó có nghĩa là giữ xe của mình trong ga ra; đội Tìm kiếm và Giám sát tìm thấy nó ở bất cứ nơi nào trong các dãy phố xung quanh. nhanh về phía trước hết mức có thể, Sachs báo vị trí của cho viên chỉ huy. “Nghe , 5855. Chúng tôi đường, hết.” Di chuyển cách loạng choạng những viên đá cuội, búng mở ổ đạn khẩu Smittie của Sellito và nhăn mặt khi thấy là trong những người cầm súng còn thận trọng hơn; ổ đạn nằm dưới búa hoàn toàn có đạn. Có năm phát. Trái ngược với khẩu tự động của Boyd với số đạn gấp b lần và khả năng là cả hay hai băng dự trữ trong túi của . Chạy về lối vào con hẻm, Sachs có thể nghe thấy tiếng động cơ nổ và giây sau, chiếc Buick màu xanh da trời lùi ra ngoài, hướng về phía . Con hẻm quá hẹp để có thể quay đầu với lần bẻ lái, nên Boyd phải dừng lại, tiến lên rồi lùi lại. Điều này tạo điều kiện cho Sachs có thể lao tới thu hẹp khoảng cách với ga ra khoảng mười tám, hai mươi mét. Boyd xong việc chỉnh đầu xe, và với cánh cửa như lá chắn giữa và Sachs, tăng tốc bỏ chạy nhanh. Sachs nhoài mạnh người những viên sỏi và nhìn thấy mục tiêu duy nhất có nằm dưới khe hở hẹp dưới chân cánh cửa ga ra: những chiếc bánh xe. Nằm sõng soài, Sachs ngắm vào chiếc lốp bên phải. Có quy tắc trong những vụ nổ súng ở thành phố là bao giờ nổ súng trừ khi ta biết phía sau là gì, đó là, nơi mà viên đạn kết thúc hành trình nếu ta bắn trượt - hoặc nếu nó xuyên qua mục tiêu và tiếp tục bay. Khi chiếc xe của Boyd quành khỏi, Sachs để ý tới điều này trong phần của giây, rồi - nghĩ tới Geneva Settle - cùng với quy tắc riêng của : Tên khốn nạn này chạy đâu hết. Điều tốt nhất có thể làm để kiểm soát phát súng là nhắm thấp để viên đạn lượn lên và trúng vào chiếc xe nếu bắn trượt. Giơ súng lên ngắm với động tác, để việc kéo cò nhạy cảm hơn nữa, nhắm bắn và nhả hai phát đạn, phát cao hơn chút. Những viên đạn rít lên bên dưới cánh cửa ga ra và ít nhất viên chọc thủng lốp bên phải. Khi chiếc xe lắc lư và trượt mạnh vào bức tường gạch của căn hẻm, Sachs bật dậy và lao tới chiếc xe, nhăn nhó vì cơn đau. Ở chỗ cánh cửa ga ra, dừng lại và nhìn quanh rồi phát ra rằng cả hai bánh bên phải của chiếc xe bị chọc thủng; cũng bắn trúng bánh trước. Boyd cố lái xe ra khỏi bức tường, nhưng bánh trước vẹo sang bên và hoàn toàn bất động. trèo ra ngoài, vung khẩu súng ra sau và tới trước, tìm kiếm người bắn. “Boyd! Bỏ vũ khí xuống!” đáp lại bằng năm hay sáu phát súng về phía cánh cửa. Sachs cũng trả lời bằng viên, trúng vào thân xe chỉ cách vài centimet, rồi lăn sang bên phải và chồm dậy nhanh, thấy Boyd lỉnh nhanh vào con phố bên ngoài. có thể nhìn thấy nền phía sau lúc này - bức tường gạch phí bên kia con phố - và nổ phát đạn khác. Nhưng ngay khi viên đạn được bắn , Boyd quay ngoặt sang bên như thể biết trước. Viên đạn bay vọt qua , cũng chỉ vài centimet. đáp trả phát đạn, bằng loạt đạn, và nhoài mạnh những viên sòi bẩn thỉu đầy bùn đất lần nữa, cái điện đàm vỡ tan. biến mất ở góc phố về bên trái. Chỉ còn lại viên đạn. Đáng lẽ chỉ cần bắn viên vào cái lốp xe là được rồi, nghĩ cách đầy giận dữ, khi bật dậy và lao theo nhanh nhất có thể với cái chân đau nhói. Dừng lại chút ở góc phố nơi giao với con phố, nhìn nhanh sang bên trái. thấy cái bóng rắn chắc của trốn chạy nhanh. chộp lấy chiếc Motorola và nhấn nút truyền tin. được, nó hỏng rồi. Khốn kiếp. Gọi 911 bằng điện thoại di động? Quá nhiều thời gian để giải thích, quá ít thời gian để lưu lại tin nhắn. Phải có ai đó trong những tòa nhà gọi tới báo về những tiếng súng. tiếp tục truy đuổi Boyd, miệng thở dốc, chân nện mặt đất. Ở giao lộ phía xa, cuối dãy phố, chiếc xe cảnh sát chuyển vào chỗ đậu. Những cảnh sát bước ra; họ nghe thấy những tiếng súng, biết rằng gã sát nhân và Sachs ở đây. Boyd nhìn lên và thấy họ. dừng lại nhanh và nhảy vọt qua cái hàng rào rồi chuồn xuống bên dưới cầu thang dẫn vào tầng của tòa nhà. nghe thấy tiếng đạp khi cố gắng đột nhập vào trong tầng hầm của tòa nhà. Sachs vẫy tay về phía những cảnh sát nhưng họ nhìn lên rồi xuống con phố bên kia và thấy . Đó là lúc có cặp đôi trẻ tuổi bước ra khỏi cánh cửa trước của tòa nhà phía đối diện với Boyd. Sập cánh cửa phía sau họ, người đàn ông trẻ kéo khóa chiếc áo khoác để tránh cái lạnh của ngày hôm nay và người phụ nữ ôm lấy tay . Họ bắt đầu bước xuống những bậc thang. Tiếng chân đạp cửa ngừng lại. Ôi, ... Sachs nhận ra rằng điều gì sắp xảy ra. thể nhìn thấy Boyd nhưng biết định làm gì. ngắm vào cặp đôi này. bắn hoặc cả hai người, lấy chìa khóa của họ và trốn thoát vào trong tòa nhà - hy vọng lần nữa rằng những cảnh sát chia lực lượng để giúp đỡ những người bị thương. “Cúi xuống!”, Sachs hét lên. Phải đến hơn ba mươi mét, đôi nam nữ nghe thấy Boyd hẳn phải nhắm vào họ lúc này, đợi họ bước tới gần hơn nữa. “Cúi xuống!” Sachs nhỏm dậy và chạy cà nhắc về phía họ. Cặp đôi nhìn thấy nhưng hiểu muốn gì. Họ dừng lại, cau mày. “Nằm xuống!”, nhắc lại. Người đàn ông úp bàn tay lên tai mình, lắc lắc đầu. Sachs dừng lại, lấy hơi sâu và bắn viên đạn duy nhất còn lại vào cái thùng rác bằng kim loại cách họ khoảng sáu mét. Người phụ nữ hét toáng lên và họ quay đầu, quờ quạng bước lên cầu thang hướng vào căn hộ của mình. Cánh cửa sập lại. Ít nhất làm được... Ở ngay bên cạnh Sachs miếng đá vôi nổ tung, bắn vào những mẩu đá nóng. nửa giây sau nghe thấy tiếng nổ lớn từ khẩu súng của Boyd. phát súng khác rồi phát nữa, đẩy Sachs lùi lại, những viên đạn bắn tới cách chưa đầy mét. trượt vào khoảng sân, vấp phải hàng rào dây cao ngang chân và những đồ trang trí bãi cỏ bằng thạch cao, chú hươu Bambis và những chú lùn. viên đạn sượt qua chiếc áo khoác, làm Sachs thót tim nín thở. nhoài lăn mạnh thảm cỏ. Càng nhiều hơn những viên đạn giã vào căn nhà gần đó. Boyd quay sang phía những cảnh sát nhảy ra khỏi chiếc xe. nã vào chiếc xe cảnh sát với vài loạt đạn, bắn xịt lốp và đẩy lùi những cảnh sát nấp vào sau chiếc xe. Những cảnh sát giữ yên vị trí nhưng ít nhất họ cũng phải gọi báo về cuộc tấn công và các lực lượng khác hẳn phải đường. Tất nhiên điều đó có nghĩa là chỉ có cách duy nhất để Boyd có thể thoát được – nhắm vào . lao xuống nấp phía sau vài bụi cây. Boyd ngừng nã súng nhưng có thể nghe thấy tiếng chân tới gần. cách khoảng hơn sáu mét, đoán. Rồi ba mét. chắc chắn rằng bất cứ phút nào mình có thể thấy khuôn mặt của , kèm theo là họng khẩu súng của . Rồi chết... Phụp. Phụp. Nhổm lên khuỷu tay, có thể nhìn thấy tên giết người, gần hơn, sút vào cánh cửa xuống tầng hầm tòa nhà khác, mà nó chậm rãi mở đường cho . Khuôn mặt bình thản ỳ quái - giống như khuôn mặt của Người treo ngược lá bài tarot mà cố ý để lại bên cạnh xác của Geneva Settle. hẳn phải cho rằng mình bắn trúng Sachs bởi lờ chỗ ngã xuống và chăm chú vào việc phá cánh cửa - con đường thoát duy nhất lúc này. nhìn vào phía sau hoặc hai lần, về phía đầu kia của dãy phố, chỗ mà những cảnh sát tìm cách tiếp cận - dù chậm rãi bởi quay sang và nhả vài phát đạn về phía họ. cũng có thể phải hết đạn, suy đoán điều đó. chắc phải... Boyd tháo băng đạn trong khẩu súng và nhét băng khác vào. Nạp đạn. Được rồi... có thể nằm yên ở chỗ của mình, an toàn và hy vọng rằng các cảnh sát khác đến đây trước khi trốn thoát. Nhưng Sachs nghĩ tới người phụ nữ với làn da rám nắng nằm trong vũng máu ở căn nhà - có thể chết lúc này. nghĩ tới những cảnh sát bị dính bẫy điện của , người thủ thư bị giết ngày hôm qua. nghĩ tới chàng cảnh sát trẻ Pulaski, với khuôn mặt bị đánh nát và đầy máu. Và nghĩ nhiều hơn tới bé tội nghiệp Geneva Settle, người nguy hiểm từng phút nếu Boyd còn tự do và lang thang những con phố. Sachs vồ lấy khẩu súng, có quyết định. Thompson Boyd đạp cú mạnh nữa vào cánh cửa căn hầm. Nó sắp mở đường cho . vào trong, ... “Đứng im, Boyd. Bỏ súng xuống.” Chớp chớp đôi mắt nhức nhối trong ngạc nhiên, Thompson quay đầu lại. Đúng, như nghĩ, chính là người phụ nữ từ trường vụ án ở thư viện của bảo tàng ngày hôm qua. tới rồi lại lui, tới rồi lại lui, giống như con rắn đuôi chuông. Mái tóc màu đỏ, trong trang phục màu trắng. Người mà thích thú quan sát, ngưỡng mộ. Có quá nhiều điều để ngưỡng mộ, nghĩ. Và là tay súng cừ nữa. ngạc nhiên vì vẫn còn sống. nghĩ chắc chắn rằng mình bắn trúng trong loạt đạn cuối cùng. “Boyd. Tôi nổ súng. Bỏ súng của xuống, nằm úp xuống đất.” nghĩ rằng vài cú đạp nữa vào cánh cửa làm nó đổ ngược vào trong. Rồi là hành lang của tòa nhà. Hoặc có thể những người trong tòa nhà này có chiếc ô tô. có thể lấy chìa khóa và bắn bất cứ ai bên trong, làm họ bị thương, thu hút nhiều hơn nữa cảnh sát. Trốn Nhưng, tất nhiên, có câu hỏi cần phải được trả lời trước tiên: Liệu ta có còn viên đạn nào ? “ có nghe tôi Boyd?” “Vậy đó là .” Liếc đôi mắt nhức nhối lên, giọt Murine nào khá lâu rồi. “Dù có thể đúng là vậy.” cau mày, hiểu ám chỉ điều gì. Có lẽ tự hỏi liệu từng nhìn thấy mình trước đây chưa, và tại sao biết. Boyd cẩn thận cử động. cần phải tìm ra điều này. Bắn ta hay ? Nhưng nếu thực dù chỉ cử động nhất về phía đó nếu như còn đạn ta nổ súng. hoàn toàn nghi ngờ điều đó. có gì cần phải quá cân nhắc về người phụ nữ này. Chúng giết con chỉ bằng nụ hôn... đắn đo suy tính. Khẩu súng của ta là loại sáu viên Smith & Wesson cỡ 38 đặc biệt. ta bắn năm phát. Thompson Boyd luôn đếm các phát súng ( biết chính mình còn lại tám viên trong băng đạn tại, và băng mười bốn viên nữa trong túi). ta nạp đạn chưa? Nếu chưa, liệu có phải vẫn còn viên duy nhất? Có những cảnh sát để ổ đạn trống dưới búa đập ở những khẩu côn đề phòng những trường hợp hiếm hoi như vô tình đánh rơi khiến nó phát nổ. Nhưng ta có vẻ như thuộc dạng người như vậy. ta quá hiểu về vũ khí và bao giờ vô tình đánh rơi khẩu súng. Bên cạnh đó, nếu như làm nhiệm vụ đặc nhiệm, ta cần mọi phát đạn có thể. , ta phải dạng cớm súng--còn-đạn. “Boyd, tôi nhắc lại lần nữa đâu.” Mặt khác, nghĩ, khẩu súng này phải là của ta. Ngày hôm qua ở bảo tàng ta đeo khẩu tự động ngang hông, khẩu Glock. ta vẫn đeo bao khẩu Glock ấy thắt lưng lúc này. Liệu khẩu Smitte này có phải là khẩu dự phòng? Ngày trước, khi mọi cảnh sát đều chỉ có loại súng sáu viên, đôi khi họ mang thêm khẩu khác ở bao súng đeo dưới chân. Nhưng bây giờ, với những khẩu tự động có ít nhất mười hai viên và hai băng dự phòng ở thắt lưng, họ thường quan tâm tới việc có thêm khẩu dự phòng. , cá rằng ta có thể mất khẩu tự động hoặc đưa nó cho ai đó và mượn khẩu này, điều đó có nghĩa là vẫn còn khả năng ta còn đạn để nạp. Câu hỏi tiếp theo là: Liệu cái người mà đưa cho ta mượn khẩu Smitie có để ổ đạn trống dưới búa đập ? Mà, có cách nào để biết được, tất nhiên là thế. Vậy nên câu hỏi là ta thuộc dạng người như thế nào. Boyd nghĩ tới bảo tàng, nhìn thấy ta tìm kiếm dấu vết giống như con rắn đuôi chuông. Nghĩ tới ta ở sảnh bên ngoài căn hộ nấp của mình ở phố Elizabeth, qua cánh cửa đuổi theo . Nghĩ tới việc ta lao lên theo lúc này – bỏ mặc Jeanne chết bởi viên đạn ghim trong đùi ấy. quyết định: ta giả vờ. Nếu như ta còn lại viên đạn hẳn bắn vào rồi. “ hết đạn rồi“, tuyên bố cách tự tin rồi quay về phía và đưa khẩu súng của mình lên. cau có và hạ khẩu súng xuống. đúng. giết chứ? , chỉ bắn để làm bị thương thôi. Nhưng vị trí nào tốt nhất? Đau đớn và đe dọa mạng sống. Tiếng la hét và máu chảy đều thu hút chú ý của người khác. nghĩ tới bên chân; bắn vào cái chân bị đau, ở đầu gối. Và khi gục xuống, bồi thêm phát nữa vào vai . Rồi bỏ . “Vậy ngươi thắng rồi”, . “Giờ là sao đây? Tôi là con tin chăng?" chưa từng nghĩ về điều này. do dự. Như vậy có hợp lý ? Liệu như thế có ích chứ? Thường con tin mang đến nhiều rắc rối hơn là giá trị. , tốt hơn là nên bắn ta. bắt đầu kéo cò khi ta ném khẩu súng của mình xuống vỉa hè với thất bại. nhìn khẩu súng, nghĩ, có gì đúng ở đây... Đó là gì? ta nắm khẩu súng bằng tay trái. Nhưng cái bao súng lại nằm bên hông phải. Đôi mắt của Thompson quay lại nhìn và há hốc miệng khi thấy con dao lóe lên bay vào mặt . quăng nó bằng bàn tay phải của mình, khi nhìn khẩu súng chỉ trong giây. Con dao cắm, hay thậm chí là cứa da - đó là cái tay cầm sượt lên má - nhưng quăng nó thẳng vào đôi mắt. Thompson nhào sang bên theo bản năng, đưa tay lên để bảo vệ mắt. Trước khi có thể lùi lại và định vị mục tiêu, người phụ nữ áp sát, vung hòn đá mà nhặt trong vườn. cảm thấy cú đánh choáng váng vào bên thái dương, thở hồng hộc trong cơn đau. kéo cò lần, và khẩu súng nổ. Nhưng viên đạn trượt mục tiêu và trước khi có thể bắn phát nữa, viên đá đập mạnh vào bàn tay phải của . Khẩu súng rớt xuống đất. rít lên và ôm lấy những ngón tay đau đớn. Nghĩ rằng lấy khẩu súng, cố khóa chặt lại. Nhưng Sachs có ý định với khẩu súng. có mọi thứ vũ khí mà cần; viên đá đập vào mặt lần nữa. “, ...“ cố gắng để đánh trả, nhưng cũng khá to khỏe, và cú đánh khác bằng hòn đá khiến khuỵu xuống, rồi bên sườn vặn lên từ những cú đánh. “Dừng lại, dừng lại“, la hét. Nhưng đáp lại là cú đánh khác vào má bằng hòn đá. nghe thấy tiếng rít lên trong cơn thịnh nộ từ cổ họng của . Chúng giết con... ta làm gì vậy? tự hỏi trong cơn bàng hoàng. ta thắng... Tại sao ta lại làm việc này, phá vỡ mọi quy tắc? Sao ta có thể? Điều này có trong quyển sách. ... bằng nụ hôn. thực tế, khi những cảnh sát chạy tới khắc sau đó, chỉ có trong số họ tóm lấy Thompson Boyd và còng tay lại. Người kia đưa tay vòng quanh Sachs và vật lộn để giành lấy viên đá đầy máu trong tay . Trong cơn đau nhói bên tai , Thompson nghe thấy viên cảnh sát lại: “Được rồi, được rồi. bắt được rồi, Thám tử. Ổn rổi, thả lỏng . đâu hết, đâu hết, đâu hết...”
CHƯƠNG 33 Làm ơn, làm ơn mà... Amelia Sachs vội vã quay ngược trở lại căn nhà của Boyd nhanh hết mức có thể, bỏ qua những lời chúc mừng từ các đồng và cố gắng quên nỗi đau ở chân. Đổ mồ hôi, thở dốc, chạy tới chỗ nhân viên y tế đầu tiên của đội cứu thương mà mình thấy và hỏi: “Người phụ nữ trong ngôi nhà đó sao rồi?”. “Kia ư?”, ta hất đầu về phía ngôi nhà. “Đúng. Người phụ nữ nước da rám nắng sống ở đó.” “Ồ, là ta. Tôi e là, tình hình tốt.” Sachs hít vào hơi sâu, cảm thấy nỗi sợ hãi giống như tảng băng đặt lên da thịt mình. tóm cổ được Boyd nhưng còn người phụ nữ có thể cứu sống lại chết. nhấn tay vào ngón tay cái của mình và cảm thấy cơn đau, cảm thấy máu chảy ra. Nghĩ: Mình làm chính xác điều mà Boyd làm. Mình hy sinh mạng sống của người vô tội vì lợi ích của công việc. Nhân viên y tế tiếp tục: “ ta bị bắn”. “Tôi biết”, Sachs thầm . Nhìn chằm chằm xuống đất. Này, khó mà sống với... “ cần phải lo lắng.” “Lo lắng?” “ ấy ổn thôi.” Sachs cau mày. “ là tình hình tốt.” “Chà, kiểu như là, bị bắn cũng là điều hay chứ sao.” “Chúa ơi, tôi biết là ấy bị bắn. Tôi ở đó khi điều đó xảy ra.” “Ồ.” “Tôi cứ nghĩ rằng ý là ấy chết.” “Giờ. ấy vẫn chảy máu nhưng chúng tôi đến đúng lúc. ấy ổn thôi. ấy ở bệnh viện Luke’s ER. Tình trạng ổn định.” “Được rồi, cảm ơn.” Tôi có tin xấu... Sachs bước lại chậm rãi, với cái chân khập khiễng, và tìm thấy Sellito và Haumann ở trước ngôi nhà náu của Boyd. “ tóm cổ với khẩu súng hết đạn phải ?”, Haumann hỏi, bằng giọng ngờ vực. “Thực ra tôi tóm với hòn đá.” Chỉ huy đội Phản ứng nhanh gật đầu, nhướn lông mày - lời khen ngợi ngọt ngào nhất của . “Boyd có gì ?”, hỏi. “ biết quyền của mình. câm như hến.” và Sellito đổi lại súng. nạp đạn. kiểm tra khẩu Glock của mình và nhét lại nó vào bao. Sachs hỏi: “Thế còn việc ở ngôi nhà sao?”. Haumann vuốt cái đầu húi cua lởm chởm của mình và : “Có vẻ như ngôi nhà sống được thuê dưới tên Jeanne Starke. Đó là lũ trẻ của ta, hai bé . phải của Boyd. Chúng ta có tổ chức Bảo trợ trẻ em. Tòa nhà đó - hất đầu về phía ngôi nhà thứ nhất - là nơi náu của . Có đầy đủ vật chứng để chúng ta làm việc”. Sachs : “Tốt hơn là tôi khám nghiệm trường”. “Chúng tôi giữ nó an toàn”, Haumann . “À, ấy làm điều đó.” Hất đầu về phía Sellito. Người đứng đầu ESU : “Tôi phải hỏi cung tên khốn này. đến sau khi khám nghiệm trường chứ? Họ cần lệnh”. Sachs gật đầu, cùng với viên thanh tra to lớn bước về phía ngôi nhà tên tội phạm dùng để nấp. im lặng dày như những lớp cát ở giữa họ. Cuối cùng Sellito nhìn vào chân và : “Lại đau rồi phải ”. “Lại?” “Đúng, khi sơ tán các ngôi nhà, ở bên kia phố, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Có vẻ như là lúc đó vẫn lại được.” “Đôi khi nó tự khỏi mà.” Sellito nhún vai. “ buồn cười là làm thế nào những việc kiểu như vậy xảy ra được.” “Buồn cười.” biết điều làm cho mình. cũng với như vậy. Rồi hỏi: “Được rồi. Chúng ta bắt được tên giết người. Nhưng đó mới chi là nửa công việc mà thôi. Chúng ta cần phải tóm được tên đầu sỏ thuê và kẻ đồng lõa của - kẻ mà chúng ta phải giả định rằng vừa mới nhận lấy nhiệm vụ từ Boyd. Bắt tay vào công việc thôi, Thanh tra”. Sellito với cái giọng cộc cằn như Rhyme có thể vẫn hay . Đó chính là lời cảm ơn tuyệt vời nhất mà có thể với : Chỉ đơn giản là biết rằng trở lại. Thường phần bằng chứng quan trọng nhất là cái cuối cùng mà chúng ta tìm ra. nhà khám nghiệm trường giỏi ngay lập tức nhắm vào các vật chứng dễ bị hủy hoại, thường là ảnh hưởng bởi bay hơi, bị xóa hỏng bởi mưa, bị tiêu tan bởi gió... và bỏ lại những bằng chứng quá ràng để thu thập sau - như là khẩu súng còn bốc khói. Lincoln Rhyme thường nếu trường được bảo vệ, những đồ còn tốt biến đâu mất Tại cả hai nơi ở của Boyd và ngôi nhà náu bên kia phố, Sachs thu các mẫu dấu tay , ghép các dấu vết, thu lượm các mẫu chất lỏng từ nhà vệ sinh để có các phân tích DNA, cạo bề mặt sàn và các đồ vật, cắt các mẩu thảm để có các mẫu sợi và chụp ảnh cũng như quay phim toàn bộ khu vực. Chỉ sau khi làm như thế mới quay chú ý của mình sang các đồ ràng và lớn hơn. sắp xếp để đưa các chất acid và cyanide tới trụ sở trung tâm lưu giữ bằng chứng độc hại ở Bronx, và xử lý cái thiết bị nổ tự tạo được đựng trong chiếc đài bán dẫn. xem xét và kiểm tra các vũ khí cũng như đạn, tiền, các cuộn dây thừng, dụng cụ. Hàng tá đồ vật có vẻ hữu dụng để làm bằng chứng. Cuối cùng, Sachs lấy lên phong bì màu trắng nằm ở gần cửa trước của ngôi nhà dùng để náu. Ở bên trong là tờ giấy. Sachs đọc nó. Rồi cười rất nhanh. đọc bức thư lần nữa. Và gọi cho Rhyme, tự nghĩ rằng: Người em à, liệu chúng ta có sai . “Vậy”, Rhyme với Cooper khi hai người nhìn vào màn hình máy tính. “Tôi cá trăm đô là chúng ta tìm thấy nhiều carbon nguyên chất hơn nữa, giống như thứ bản đồ giấu dưới gối của ở căn hộ phố Elizabeth. có muốn thử ? Đặt cược ?” “Quá muộn rồi”, Cooper , khi chiếc máy phân tích kêu bíp và bản phân tích dấu vết các thành tố từ tờ giấy trồi lên trước họ. “ thế kiểu gì tôi cũng cược rồi.” ta đẩy chiếc kính cao hơn mũi và : “Và, đúng, carbon. trăm phần trăm”. Carbon. Có thể được tìm thấy trong than đá, bụi hoặc hàng tá các vật chất khác. Nhưng nó cũng có thể là bụi kim cương. “Điều đáng ghét mới nhất trong tiếng của thế giới thương mại là gì?” Nhà tội phạm học hỏi, tâm trạng lại lần nữa tràn đầy hứng khởi. “Chúng ta sai đường rồi.” Ồ, họ sai về việc Boyd là hung thủ của vụ này hoặc là được thuê để giết Geneva. , chính là họ hoàn toàn thổi phồng động cơ vụ án. Tất cả mọi thứ họ phỏng đoán về phong trào quyền dân trước đây, về những gợi ý tại về việc dàn dựng nên vụ cướp của Charles Singleton từ Quỹ Nô lệ tự do, mưu về Bản sửa đổi số 14... Họ sai hoàn toàn. Geneva Settle bị mục tiêu đến chết đơn giản bởi vì nhìn thấy thứ gì đó mà đáng ra nên thấy: vụ cướp nữ trang được lên kế hoạch. Bức thư mà Amelia Sachs tìm thấy trong ngôi nhà náu của có bản đồ của nhiều tòa nhà khác nhau phố, bao gồm cả bảo tàng Mỹ - Phi. Tờ giấy ghi chú viết: con bé da đen, ở cửa sổ này tầng năm, ngày mùng 2 tháng 10, khoảng 8 giờ 30 phút. Nó thấy chiếc xe chở hàng của tôi đậu ở con hẻm phía sau cửa hàng mua bán trang sức đá quý. Nó nhìn đủ để đoán ra được kế hoạch của tôi. Giết nó. Cửa sổ của thư viện ở gần chiếc máy đọc vi phim, chỗ mà Geneva bị tấn công được khoanh tròn tấm biểu đồ. Bên cạnh lỗi đánh thiếu chữ, ngôn ngữ của tờ ghi chú cũng khá khác thường, và theo như nhà tội phạm học khá tốt; khi lần theo dấu vết của cái bất thường dễ dàng hơn. Rhyme đưa Cooper gửi bản copy tới Paker Kincaid, cựu chuyên viên kiểm tra tài liệu của FBI bên ngoài D.C., hành nghề tự do. Cũng giống như Rhyme, Kincaid đôi khi được tham gia vào các công việc của những chỉ huy cũ và các sở hành pháp khác để tư vấn trong số vụ việc liên quan tới các tài liệu và chữ viết tay. Email trả lời của Kincaid rằng có câu trả lời cho họ nhanh nhất có thể. Khi xem xét lá thư, Amelia Sachs lắc đầu cách đầy giận dữ. nhớ lại vụ việc về gã có vũ trang mà và Pulaski ở bên ngoài bảo tàng ngày hôm qua - hóa ra là nhân viên an ninh, kẻ với họ về những thứ giá trị của giao dịch, về những giao dịch hàng triệu đô từ Amsterdam và Jerusalem hằng ngày. “Chúng ta đáng lẽ nên chú ý điều đó”, , lắc lắc đầu. Nhưng ai có thể đoán được là Thompson Boyd được thuê giết Geneva chỉ vì bé nhìn ra bên ngoài cửa sổ đúng lúc? “Nhưng tại sao lại lấy cái máy đọc vi phim chứ?”, Sellito hỏi. “Tất nhiên là để đánh lạc hướng của chúng ta. Và đúng là nó làm khá tốt việc đấy.” Rhyme thở dài. “Trong khi chúng ta chạy vòng quanh, nghĩ về các mưu liên quan tới luật hiến pháp. Boyd hẳn là chẳng có chút hiểu biết gì về cái mà Geneva đọc.” quay sang bé, ngồi gần đó và cầm ly chocolate nóng. “Kẻ nào viết cái tờ giấy đó nhìn thấy cháu từ phố. hoặc là Boyd liên lạc với người quản lý thư viện để biết cháu là ai và khi nào cháu quay lại, để Boyd có thể ở đó, đợi cháu. Tiến sĩ Barry bị giết ông ấy có thể chỉ ra manh mối giữa cháu với chúng... Giờ, nghĩ lại khoảng tuần trước. Cháu nhìn ra ngoài cửa sổ lúc 8 giờ 30 phút, nhìn thấy chiếc xe tải và kẻ nào đó ở trong hèm. Cháu có nhớ thấy gì ?” bé liếc mắt và cúi xuống. “Cháu biết. Cháu nhìn ra ngoài rất nhiều lần. Khi đọc mệt quá cháu loanh quanh vài lần, chú biết đấy. Cháu thể nhớ điều gì cụ thể cả.” Sachs chuyện với Geneva trong mười phút, cố gắng gợi cho bé nhớ lại hình ảnh. Nhưng để nhớ lại người cụ thể và chiếc xe tải chở hàng những con phố đông đúc ở trong thành phố chỉ qua cái nhìn tuần trước là quá nhiều với trí nhớ của bé. Rhyme gọi cho giám đốc của Sở giao dịch trang sức đá quý Mỹ và với ông ta những gì họ mới phát ra. Hỏi xem liệu ông ta có tình cờ biết ai đó có khả năng cố tạo ra vụ trộm, ông ta đáp lại rằng: “Mẹ kiếp, có gì hết. Dù nó xảy ra nhiều hơn có thể nghĩ”. “Chúng tôi tìm thấy dấu vết của carbon nguyên chất trong vài vật chứng. Bụi kim cương, chúng tôi nghĩ thế.” “Ồ, vậy có nghĩa là chúng xem xét con hẻm ở gần khu ga ra. ai ở bên ngoài được đến gần khu phòng cắt, nhưng, này, nếu đánh bóng sản phẩm, nhặt được bụi. Nó có ở trong những chiếc túi máy hút bụi chân và bất cứ vật gì mà chúng tôi ném ra ngoài.” Người đàn ông cười, nhiều lo lắng với tin tức về vụ trộm lơ lửng đầu được báo trước. “Dù gì, tôi cũng báo với , bất cứ kẻ nào định động vào chúng tôi dính ngay vài viên đạn. Chúng tôi có hệ thống an ninh tốt nhất trong thành phố. Ai cũng tưởng là nó giống với ti vi. Chúng tôi có những gã đến để mua nhẫn cho bạn rồi chúng nhìn quanh và hỏi những tia vô hình mà ta đeo kính mới thấy đâu, hiểu chứ? Chà, câu trả lời là họ chả làm ra cái máy phát tia vô hình khi gió nào cả. Bởi nếu có thể loanh quanh các tia khi đeo những chiếc kính đặc biệt, những kẻ xấu mua những cái kính chó chết ấy và vòng quanh đúng ? Hệ thống báo động thực như vậy. Nếu con ruồi đánh rắm trong két của chúng tôi, còi báo động rú ầm ĩ. Và, là, cái hệ thống an ninh chặt đến mức con ruồi cũng thể lọt qua được.” “Tôi đáng lẽ cần phải biết”, Lincoln Rhyme sau khi họ dập máy. “Nhìn lên biểu đồ nào! Nhìn vào những gì chúng ta tìm thấy ở nơi trú đầu tiên của .” hất đầu về phía tấm bản đồ được tìm thấy ở căn hộ phố Elizabeth. Nó chỉ cho thấy nét phác thảo của thư viện nơi Geneva bị tấn công. Trung tâm giao bên kia phố được vẽ lớn hơn và chi tiết hơn nhiều, cũng như các con hẻm gần đó, các cánh cửa và các khu ga ra - lối vào và lối ra của trung tâm, chứ phải bảo tàng. Hai thanh tra từ trung tâm thành phố hỏi cung Boyd về thân nhân kẻ đứng đằng sau vụ cướp, kẻ thuê , nhưng né tránh. Sellito kiểm tra dữ liệu của sở Larceny, sở NYPD các báo cáo về các hoạt động đáng ngờ ở quận kim cương nhưng có manh mối nào đặc biệt có vẻ liên quan. Fred Dellray tạm dừng việc điều tra những tin đồn về các vụ đánh bom khủng bố tiềm năng để kiểm tra các dữ liệu của FBI về bất cứ cuộc điều tra nào liên quan đến các vụ trộm trang sức. Bởi trộm cắp phải là tội cấp bang, có nhiều vụ lắm, nhưng vài trong số đó - phần lớn liên quan đến hoạt động rửa tiền trong khu vực New York - còn hiệu lực và hứa mang các báo cáo tới ngay lập tức. Giờ họ quay sang các vật chứng tìm thấy tại nơi ở và ngôi nhà nấp của Boyd, với hy vọng tìm ra kế hoạch của tên trộm. Họ kiểm tra khẩu súng, những chất hóa học, dụng cụ và các vật còn lại, nhưng có gì mà họ chưa tìm ra trước đó: nhiều mầu sơn màu cam, các vệt acid, các mẩu vụn bánh falafel và các vết sữa chua, có vẻ như đó là bữa ăn ưa thích của Boyd. Họ kiểm tra thông qua số seri các tờ tiền và tìm thấy gì từ Bộ tài chính, và chẳng có tờ tiền nào có lấy dấu vân tay. Để rút số tiền lớn như vậy từ tài khoản là khá mạo hiểm với gã thuê Boyd bởi bất cứ giao dịch lớn nào như vậy đều phải được báo cáo theo các quy định về việc lưu giữ tiền. Nhưng cuộc kiểm tra nhanh về các vụ rút tiền lớn gần đây từ các ngân hàng trong khu vực đưa ra được đầu mối nào. Điều này khá kỳ lạ, Rhyme nghĩ, dù kết luận rằng hung thủ hẳn rút nhiều khoản tiền suốt thời gian để trả công cho Boyd. Có vẻ như thủ phạm phải là người rất khó tìm thế giới này, có điện thoại di động, hoặc nếu có, hẳn phải là thuê bao trả trước vô danh - có các hóa đơn cước về nhật ký cuộc gọi - cũng như phải tính toán trước để vứt nó trước khi bị bắt. Xem xét hóa đơn điện thoại bàn của Jeanne Starke mang lại điều gì khả nghi trừ việc có hàng tá cuộc gọi tới chiếc bốt điện thoại công cộng ở Manhattan, Queens hoặc Brooklyn, nhưng chẳng liên quan tới địa điểm nào cụ thể thường xuyên cả. Tuy nhiên, dũng cảm của Sellito mang lại những bằng chứng khá tốt: những dấu tay thanh dynamite và phần lõi của chiếc đài bán dẫn nổ. Hệ thống IAFIS cùa FBI và các dữ liệu dấu vân tay cấp cơ sở đưa tới cái tên: Jon Earle Wilson. từng phạm nhiều tội ở Ohiho và New Jersey, bao gồm cả đốt nhà phóng hỏa, chế tạo bom và lừa đảo bảo hiểm. Nhưng tr khỏi tầm kiểm soát của các nhà chức trách địa phương, Cooper báo cáo. Địa chỉ cuối cùng là ở Brooklyn nhưng đó là khu đất trống. “Tôi cần những địa chỉ cuối cùng của được biết đến. Tôi muốn địa chỉ tại. Đưa cả FBI vào tìm kiếm nữa.” “Nhất trí.” Tiếng chuông cửa reo. Tất cả mọi người vẫn còn cảnh giác với hung thủ chính đằng sau vụ án và tên đồng phạm vẫn chưa bị tóm cổ và họ nhìn ra cửa với thận trọng. Sellito trả lời tiếng chuông cửa và bước vào phòng thí nghiệm với cậu bé da đen, tầm tuổi vị thành niên, cao ráo, mặc chiếc quần lửng ngang bắp chân và chiếc áo Knicks. Cậu ta mang theo chiếc túi đồ nặng. Cậu nhóc chớp chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Rhyme - rồi mọi thứ khác ở trong căn phòng. “Ồ, Geneva, chuyện gì xảy ra vậy?” nhìn cậu ta với cái cau mày. “Ồ, mình là Rudy.” Cậu ta cười. “Cậu nhớ tớ rồi.” Geneva gật đầu. “Ừ. Mình cũng nghĩ thế. Cậu là…” “ trai của Ronelle.” bé với Rhyme. “ bạn trong lớp cháu.” “Sao cậu biết tớ ở đây?” “Ừ, Ronee nghe ai đó .” “Hẳn phải là Keesh rồi. Cháu với cậu ấy.” Geneva với Rhyme. Cậu bé nhìn quanh phòng thí nghiệm lần nữa rồi quay lại với Geneva. “Đây là gì, vài đứa trong lớp gửi cho cậu cái này. Cậu biết đấy, cậu ở trường và chúng nó nghĩ là cậu cần cái gì đó để đọc. Tớ bảo là, đưa cho cậu cái Game Boy, nhưng chúng nó bảo , cậu thích đọc sách. Nên bọn nó gửi cái này cho cậu.” “ sao?” “. phải bài tập về nhà hay đại loại như thế đâu. Cậu có thể đọc để giải trí" “Ai gửi?” “Ronelle, vài đứa con khác, biết nữa. Đây này. Nặng cả tấn ý chứ.” “Chà, cảm ơn nhé cầm lấy cái túi. “Lũ con với tớ rằng mọi việc ổn.” Geneva cười gượng gạo và cảm ơn cậu ta lần nữa, gửi lời chào của mình tới bạn bè trong lợp. Cậu bé rời , Geneva nhìn xuống chiếc túi. Nhấc lên quyển sách của Laura Ingalls Wilder, Geneva lại cười. “ biết chúng nó nghĩ gì. Mình đọc quyển này rồi, đến bảy năm trước rồi ý chứ.” thả nó vào trong túi. “Dù sao , các bạn ấy tốt.” “Và khá có ích”, Thom cách châm chọc. “Chú e là, có nhiều thứ ở đây để cho cháu đọc đâu.” cái nhìn tới Rhyme. “Chú vẫn làm việc với ta. m nhạc. Giờ ta rất hay nghe nhạc. Thậm chí còn đe dọa tự viết vài bản nhạc. Còn đọc truyện viễn tưởng á? Chúng ta vẫn chưa đạt đến trình độ ấy.” Geneva cười với Thom cách vui vẻ, cầm chiếc túi đựng đồ và về phía hành lang khi Rhyme : “Cảm ơn. Vì vạch áo tôi ra, Thom. Trong bất cứ tình huống nào, giờ Geneva có thể đọc thỏa thích, mà tôi chắc chắn là bé thích làm thế hơn là ngồi nghe những câu chán ngắt của cậu. Còn với thời gian rảnh rỗi của tôi? Tôi cho là mình có nhiều thời gian như thế, cậu biết đấy, cố để tóm những kẻ giết người”. Đôi mắt lại quay lên nhìn vào tấm bảng ghi chép bằng chứng. Bảng bằng chứng: Nơi ở của Thompson Boyd và nhà an toàn chính + Có nhiều falafel và sữa chua hơn, các vết sơn. + Tiền mặt (tiền cho công việc?) 100.000 đô la tiền mới. có dấu vết. Nhiều khả năng được rút ra bằng các khoản tiền nhiều lần. + Vũ khí (súng, dùi cui, dây thừng) có liên hệ với các trường trước. + Acid và cyanide có liên hệ với trường trước đó, có dấu hiệu đưa tới nhà sản xuất. + có điện thoại di động. Các thông tin ghi chép về điện thoại khác có ích. + Các dụng cụ đưa tới trường trước. + Lá thư hé lộ ra việc G. Settle bị nhắm tới vì bé là nhân chứng cho vụ cướp trang sức được lên kế hoạch. Nhiều carbon nguyên chất hơn 1 được nhận định là bụi kim cương. + được gửi tới Parker Kincaid ở Washington D.C., để làm các kiểm tra đánh giá. + Thiết bị nổ tự tạo, phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. truy lùng tên này. trường quán Potter’s Field (186 + quán rượu ở Gallows Heights - nằm con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860. + Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York. + Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868. + Bị đốt cháy sau vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để giấu bí mật của ông ấy? + Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết. - Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu). + Những đồng tiền vàng. + Người đàn ông bị giết có khẩu Derringer. + có danh tính. + Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”. - Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác D.C., để làm các kiểm tra đánh giá. + Thiết bị nổ tự tạo, phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. truy lùng tên này. trường quán Potter’s Field (186 + quán rượu ở Gallows Heights - nằm con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860. + Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York. + Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868. + Bị đốt cháy sau vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của giấu bí mật của ông ấy? + Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết. - Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu). + Những đồng tiền vàng. + Người đàn ông bị giết có khẩu Derringer. + có danh tính. + Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”. - Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác + Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; có manh mối. + Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố. + Dấu vết: - Falafel và sữa chua. - Các mẫu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất. - Chất lỏng trong suốt, phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI. * Xác định là Murine. - Nhiều sợi vài từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ? - Carbon nguyên chất tìm thấy tấm bản đồ. * Xác định là bụi kim cương. * Ngôi nhà được thuê, bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng có manh mối nào liên quan tới Hammil thực tế. trường Bảo tàng Mỹ - Phi + Gói đồ hiếp dâm: - Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là tìm kiếm tâm linh. - Chiếc túi có hình mặt cười. * Quá chung chung để lần tìm. - Dao rọc giấy. - Bao cao su Trojan. - Băng dính. - Dầu thơm mùi hoa nhài. - Vật giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm. - Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc hàng dược phẩm. * Nhiều khả năng được mua từ cửa hàng phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng. + Dấu tay: - Nghi phạm đeo găng tay cao su. - Dấu tay gói đồ thuộc về người có bàn tay , có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng. + Dấu vết: - Sợi thừng vải bông, vài có vết máu người. Dây để thắt cổ? * Gửi tới CODIS. * tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS. - Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó. + Vũ khí: - Dùi cui hoặc chiếc côn. - Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster. - Tạo những viên đạn riêng, đầu đạn với những chiếc kim. thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE. + Động cơ: - Geneva Settle là nhân chứng vụ phạm tội trong kế hoạch thực - ở Trung tâm mua bán trang sức bên kia con phố từ bảo tàng Mỹ - Phi + Hồ sơ vụ việc gửi tới VICAP và NCIC. - Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ vẫn chưa được tìm ra). * Nạn nhân là người gác ngục nghỉ hưu. * Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas. • Được nhận dạng là Thompson G. Boyd, nhân viên thi hành án. + Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có trường được làm giả (làm như đó là vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc. Hồ sơ về Nghi phạm 109 + Thompson Boyd, cựu nhân viên thi hành án, Amarillo, TX. + bị bắt giữ. Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109 + Chưa có thông tin gì lúc này. Hồ sơ về đồng phạm của Nghi phạm 109 + Nam, da đen. + Cuối ba mươi, đầu bốn mươi. + Cao khoảng 1m8. + Thân thể khỏe mạnh cường tráng. + Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh. + Từng là phạm nhân. + Chân khập khiễng. + Được báo cáo có mang súng. + Râu được cạo sạch . + + đợi các nhân chứng thêm và băng ghi hình ninh. - Băng ghi hình chưa ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích. + Giày lao động cũ kỹ. Hồ sơ về Charles Singleton + Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, con trai. Được ông chủ cho vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm. + Charles bị cho là thực vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm. + Có bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ. + Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York. - Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm? + Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn. + Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu : - Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ. + Thư của Charles: - Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sàn mà người da đen sở hữu. - Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến. - Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân . Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật. - Bức thư thứ tư, tới vợ: tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật của ông ấy là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.