Lá Bài Thứ XII - Jeffery Deaver [Trinh Thám, Hình Sự]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 25

      “Trung tâm, tôi có cuộc gọi theo số 1209, khả năng là vụ bắt cóc trẻ em.”

      Bell lặp lại thông điệp đáng lo ngại với giọng bình tĩnh và đưa địa chỉ. Rồi: “Nạn nhân là bé da đen, mười sáu tuổi, mét năm tám, khoảng năm mươi cân. Nghi phạm là người đàn ông da đen, to lớn, gần bốn mươi tuổi, tóc ngắn”.

      . Các đơn vị đường. Hết.”

      Bell cài chiếc điện đàm vào thắt lưng, gửi Martinez và Lynch tìm kiếm trong tòa nhà trong khi nhanh chóng bước xuống tầng. Con phố phía trước tòa nhà được giám sát bởi Lynch, trong khi Martinez ở mái nhà. Nhưng họ lại đinh ninh Nghi phạm 109 hoặc đồng phạm của xuất hướng tới tòa nhà, chứ phải là rời khỏi nó. Martinez cho rằng nhìn thấy bé và người đàn ông, mà có thể chính là ông bác, khỏi căn hộ ba phút trước. chú ý tới họ lắm.

      Nhìn quanh con phố, Bell thấy ai ngoài vài nhân viên văn phòng. xuống con hẻm bên cạnh tòa nhà. để ý thấy gã vô gia cư đẩy chiếc xe chở hàng nhưng ở cách hai dãy phố. Bell chuyện với ta phút và biết được ta có thấy bé hay . Giờ, tìm nhân chứng khả quan khác, vài chơi trò nhảy dây đôi.

      “Chào.” Chiếc dây chùng xuống khi chứng ngước lên nhìn người thanh tra.

      “Chào các cháu. Chú là cảnh sát. Chú tìm bạn . ấy da đen, gầy, tóc ngắn. cùng với người đàn ông trung niên.”

      Tiếng còi xe cảnh sát hú vang gian, ngày càng to lên.

      “Chú có huy hiệu chứ?”, bé hỏi.

      Bell kìm nén nỗi lo lắng của mình xuống, vẫn giữ nụ cười và giơ chiếc phù hiệu cảnh sát ra cho lũ nhóc.

      “Ồ.”

      “Vâng, chúng cháu có thấy họ”, nhắn, xinh xắn . “Họ lên con phố kia. Rẽ sang phải.”

      , sang trái.”

      “Cậu có nhìn đâu.”

      “Tớ có. Chú có súng ?”

      Bell lao nhanh về phía con phố mà lũ trẻ chỉ. dãy nhà ở bên phải, thấy chiếc xe lao vòng ra khỏi vỉa hè. chộp lấy điện đàm của mình. “Các đơn vị trả lời tình huống 1029. Có ai ở gần phố 117 ... Có chiếc Sedan màu nâu sẫm di chuyển về phía tây. Chặn nó lại và kiểm tra những người trong xe. Nhắc lại, chúng ta tìm kiếm bé da đen, mười sáu tuổi. Nghi phạm là người đàn ông da đen, bốn mươi tuổi, hết. có thể có vũ khí.”

      “Đội tuần tra 772. Chúng tôi ở ngay đấy. Hết... Đây rồi, chúng tôi thấy đối tượng. đuổi sát chiếc xe ngay lập tức.”

      , 772.”

      Bell nhìn thấy chiếc xe cảnh sát, đèn của nó nhấp nháy, tăng tốc đuổi theo chiếc Sedan màu nâu sẫm phanh gấp. Tim đập nhanh, Bell bắt đầu chuyển về phía họ, khi viên cảnh sát tuần tra bước ra khỏi chiếc xe, tới cửa sổ chiếc Sedan và cúi xuống, bàn tay đặt báng khẩu súng ngắn.

      Làm ơn mà, phải là bé.

      Viên cảnh sát vẫy vẫy cho chiếc xe tiếp.

      Chó chết , Bell với mình đầy giận dữ khi bước nhanh về phía viên cảnh sát.

      “Thanh tra.”

      phải họ à?”

      phải, thưa ngài. người phụ nữ da đen. Tầm ba mươi tuổi. ấy mình.”

      Bell cầu sĩ quan tuần tra này lên và xuống các con phố ở gần phía nam rồi điện đàm cho các sĩ quan tuần tra khác xử lý các hướng còn lại. quay đầu và chọn ngẫu nhiên con phố, lao vào nó. Điện thoại đổ chuông.

      “Bell nghe đây.”

      Lincoln Rhyme hỏi xem chuyện gì xảy ra.

      ai thấy bé cả. Nhưng tôi hiểu, Lincoln. Chẳng lẽ biết bác của mình sao?”

      “À, tôi có thể nghĩ tới vài già thiết mà nghi phạm có thể đưa người thay thế vào. Hoặc là ông ta làm việc với nghi phạm. Tôi biết nữa. Nhưng có điều gì đó hoàn toàn đúng ở đây. Nghĩ tới cách ông ta . có vẻ như là trai của giáo sư lắm. Ông ta có chút gì đó mang phong cách đường phố.”

      “Đúng thế ... Tôi muốn kiểm tra với đội của mình. Tôi gọi lại cho sau.” Bell dập máy rổi gọi điện cho các cộng của mình. “Luiz, Barbe, báo cáo. Mọi người tìm thấy gì rồi?”

      Người phụ nữ báo rằng số người mà ấy hỏi phố 118 nhìn thấy ai cả, người bác hay bé. Martinez báo cáo rằng họ kiểm tra tất cả tòa nhà và tìm thấy bất cứ dấu vết của kẻ đột nhập hay dấu hiệu phá cửa nào. hỏi Bell: “ ở đâu?”.

      “Dãy phố phía đông tòa nhà, hướng về phía đông. Tôi cử các sĩ quan tuần tra quét sạch các dãy phố. trong số các tới đây với tôi. Những người khác bảo vệ khu vực căn hộ.”ết.”

      “Ngắt.”

      Bell bước nhanh qua con phố và nhìn sang bên trái. nhìn thấy gã vô gia cư lần nữa, dừng lại, nhìn và rồi cúi xuống gãi cổ chân mình. Bell bắt đầu bước về phía để hỏi xem liệu có thấy gì .

      Nhưng rồi nghe thấy tiếng cánh cửa xe ô tô sập lại. Nó đến từ phía nào vậy? thanh dội lại từ bức tường khiến thể biết được.

      Tiếng động cơ bắt đầu rung lên.

      Ở phía trước... bước về phía đó.

      , sang bên phải.

      bước vội vàng phố, bất chợt nhìn thấy chiếc Dodge màu xám cũ sờn lao ra đường. Nó hướng về phía trước nhưng phanh gấp khi thấy chiếc xe cảnh sát lòng vòng chậm rãi về phía ngã tư. Người lái chiếc Dodge đưa xe về chế độ lùi và lăn bánh lên vỉa hè, vào chỗ đậu xe trống, thoát khỏi tầm mắt của sĩ quan tuần tra. Bell tin rằng nhìn thấy có hai người bên trong... đưa mắt nhìn. Đúng thế! Là Geneva và người đàn ông tự nhận mình là bác của bé. Chiếc xe hơi chồm lên trước chút khi ông ta chuyển số.

      Bell chộp lấy điện đàm và gọi các sĩ quan tuần tra, cầu họ khóa chặt hai ngã tư.

      Nhưng người cảnh sát tuần tra lái chiếc xe gần nhất rẽ vào con phố, hơn là chỉ chặn ở ngã tư; người bác của Geneva nhìn thấy ta. Ông ta chuyển chiếc xe về số lùi, nhấn chân ga và đảo chiếc xe xoay vòng quanh chỗ đậu hướng về phía con hẻm phía sau các dãy nhà. Chiếc Dodge vọt khỏi tầm mắt của Bell. biết nó rẽ sang phía nào nữa. Chạy nhanh tới chỗ nhìn thấy chiếc xe lần cuối cùng, ra lệnh cho chiếc xe cảnh sát vòng qua dãy phố.

      chạy vào trong hẻm và nhìn sang bên phải, vừa đúng lúc nhìn thấy đuôi chiếc xe biến mất. lao theo nó, lôi khẩu Berreta ra khỏi bao. Chạy với tốc độ nhanh nhất có thể và rẽ sang góc cua.

      Bell đông cứng lại.

      Tiếng lốp xe rít lên, chiếc Dodge cũ kỹ chạy lùi ngay về phía , cố gắng trốn khỏi chiếc xe cảnh sát chặn đường tầu thoát của nó.

      Bell kiên quyết giữ chặt vị trí. nâng khẩu Berreta lên. nhìn thấy đôi mắt sợ hãi của người bác, và vẻ mặt hoảng hốt của Geneva, lên thét. Nhưng thể nổ súng. Chiếc xe cảnh sát ở ngay phía sau chiếc Dodge. Ngay cả khi bắn trúng kè bắt cóc, những viên đạn đồng cũng có thể xuyên qua mục tiêu rồi chiếc xe và trúng những cảnh sát khác.

      Bell nhảy sang bên, nhưng giẫm phải những hòn đá cuội trơn trượt với rác và ngã vật xuống đường, rền rĩ. nằm ngay đường của chiếc Dodge. Viên thanh tra cố gắng tránh khỏi nguy hiểm. Nhưng chiếc xe lao tới với tốc độ cao khiến kịp tránh nữa.

      Nhưng... nhưng điều gì xảy ra chứ?

      Người bác giậm chân phanh. Chiếc xe dừng lại chỉ cách Bell mét rưỡi. Những cánh cửa mở toang và cả Geneva lẫn người bác của chạy ra ngoài, về phía , người đàn ông hét lớn: “ sao chứ? sao chứ?”.

      “Thanh tra Bell”, Geneva , cau mày, cúi xuống và giúp đứng dậy.

      Co quắp vì đau, Bell chĩa súng về phía người bác và : “Đứng im, được cựa quậy”.

      Người đàn ông chớp chớp mắt và cau mày.

      “Nằm xuống. Và giơ thẳng hai cánh tay của ông ra.”

      “Thanh tra Bell...”, Geneva bắt đầu.

      “Đợi phút cháu.”

      Người bác làm theo lời . Bell còng tay ông ta lại, khi những cảnh sát thuộc đội tuần tra lao tới từ con hẻm.

      “Khám xét ông ta.”

      , thưa ngài.”

      Người bác : “Nghe này, ngài biết mình làm gì đâu, thưa thanh tra”.

      “Im lặng”, Bell với ông ta và đưa Geneva sang bên, đẩy bé vào cánh cửa kín đáo để rơi vào tầm ngắm từ bất cứ ai các mái nhà xung quanh.

      “Roland!”, Barbe Lynch chạy nhanh xuống từ con hẻm.

      Bell đứng dựa vào bức tường gạch, cố gắng lấy lại hơi thở.

      nhìn sang bên trái, nhìn thấy gã vô gia cư lúc trước liếc nhìn cách thoải mái vào cảnh sát và quay vòng, chuyển sang hướng ngược lại.

      Bell lờ ta .

      “Chú cần phải làm thế”, Geneva với người thanh tra, hất đầu về phía người đàn ông bị còng tay.

      “Nhưng đó phải là bác của cháu”, viên thanh tra , lấy lại bình tĩnh. “Đúng ?”

      .”

      “Vậy ông ta làm gì với cháu lúc này?”

      bé cúi nhìn xuống, nỗi đau khổ lên khuôn mặt.

      “Geneva”, Bell cách nghiêm khắc: “Việc này nghiêm trọng. cho chú biết chuyện gì đây”.

      “Cháu nhờ ông ấy đưa cháu tới nơi.”

      “Nơi nào?”

      bé cúi gằm mặt. “Để làm việc”, . “Cháu thể lỡ mất ca của mình”. mở chiếc áo khoác ra, để lộ trang phục của McDonald. chiếc thẻ tên là dòng chữ: “Xin chào, tôi là Gen”.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 26

      “Chuyện là thế nào?”, Lincoln Rhyme hỏi. lo lắng, nhưng trái ngược với nỗi sợ hãi trước biến mất của bé, vẫn chút quở trách nào trong giọng .

      Geneva ngồi chiếc ghế gần xe lăn của Rhyme, ở tầng trệt của ngôi nhà. Sachs đứng bên cạnh bé, tay khoanh tròn trước ngực. mới trở về với chồng cao ngất những tài liệu mang từ kho lưu trữ của tổ chức Sanford, nơi có khám phá lớn về Potter’s Field. Nó nằm chiếc bàn gần Rhyme, bị quên lãng bởi tình huống mới phát sinh này.

      bé nhìn cách bướng bỉnh vào mắt . “Cháu thuê ông ấy để đóng vai bác của cháu.”

      “Thế còn bố mẹ cháu?”

      “Cháu có.”

      “Cháu ...”

      “Có ai”, bé nhắc lại qua hàm răng nghiến chặt.

      tiếp ”, Sachs cách nhàng.

      bé im lặng lúc. Cuối cùng: “Khi cháu lên mười tuổi, cha cháu bỏ chúng cháu, mẹ cháu và cháu. Ông ấy chuyển tới Chicago với người phụ nữ và họ lấy nh


      au, ông ấy có cho riêng mình gia đình hoàn toàn mới. Trái tim cháu như vỡ nát thành nhiều mảnh - thực đau đớn. Nhưng tận sâu trong lòng, cháu thực đổ lỗi cho ông ấy nhiều lắm. Cuộc sống của gia đình cháu là đống lộn xộn. Mẹ cháu, bà ấy dính vào ma túy, thể từ bỏ nó. Họ có những trận chiến kịch liệt - vâng, bà ấy động tay động chân. Cha cháu rấcố gắng để lôi kéo bà ấy trở lại với cuộc sống và bà ấy nổi đóa với ông ấy. Để trả tiền cho thứ mình cần bà ấy ăn trộm đồ từ các cửa hàng.” Geneva vẫn nhìn Rhyme chằm chằm khi : “Và bà ấy tới chỗ những người bạn của mình và họ có vài người đàn ông ở đó - chú biết là gì rồi đấy. Cha cháu biết tất cả những chuyện đó. Cháu đoán là ông ấy chịu đựng điều đó lâu hết mức có thể và rồi bước ”.

      lấy hơi sâu rồi tiếp tục: “Rồi mẹ cháu đổ bệnh. Bà ấy dương tính với HIV nhưng hề sử dụng thuốc và cuối cùng chết vì căn bệnh. Cháu sống với chị của bà ở Bronx thời gian nhưng rồi sau đó bà ấy chuyển tới Alabama và bỏ lại cháu ở căn hộ của bà Lilly. Nhưng bà Lilly cũng có tiền và tiếp tục bị đuổi khỏi nhà, chuyển sang sống với những người bạn, như bây giờ. Bà ấy đủ khả năng để cho cháu sống cùng. Nên cháu chuyện với người quản lý tòa nhà mà mẹ cháu từng đến làm việc vài lần, chỉ là lau dọn. Ông ấy cháu có thể ở lại dưới tầng hầm - nếu trả tiền cho ông ấy. Cháu có chiếc giường ở dưới đó, chiếc tủ, cái lò vi sóng, và cái giá sách. Cháu lấy địa chỉ của ông ấy làm địa chỉ hòm thư của mình.”

      Bell : “Cháu có vẻ hề thoải mái khi ở trong chỗ đó. Nó là của ai?”

      cặp vợ chồng nghỉ hưu. Họ sống ở đó nửa năm và tới nam Carolina vào mùa thu và mùa đông. Willy có chìa khóa dự phòng.” bé thêm vào: “Cháu trả tiền cho hóa đơn điện, mua bia và những thứ mà Willy lấy để trả lại chỗ cũ”.

      “Cháu phải lo lắng về vấn đề đó.”

      “Có, cháu có.” cách kiên quyết.

      “Vậy ta chuyện với ai trước đó, nếu như đó phải là mẹ cháu?”, Bell hỏi.

      “Xin lỗi”, Geneva , thở dài. “Đó là Lakeesha. Cháu nhờ bạn ý giả vờ là mẹ cháu. Bạn ấy thực diễn viên giỏi.”

      “Con bé hoàn toàn đánh lừa được ta.” Viên thanh tra cười méo xệch vì bị mắc lừa hoàn toàn.

      “Vậy còn ngôn ngữ trong cách năng của cháu sao?” Rhyme hỏi. “Cháu thực giống như là con của giáo sư.”

      bé chuyển ngay sang giọng điệu đường phố. “Đừng có năng như lũ vô gia cư mất dạy, ý ông là thế hả?” nụ cười tinh quái. “Cháu học tiếng chuẩn từ khi mới bảy hay tám tuổi cơ.” Khuôn mặt bé trở nên buồn rầu. “Điều duy nhất tốt đẹp về cháu - ông ấy luôn muốn cháu đọc nhiều sách, ông ấy từng đọc cho cháu nghe vài quyển.”

      “Chúng ta có thể tìm ông ấy và…”

      !” Geneva với giọng chói tai. “Cháu muốn làm gì liên quan tới ông ấy nữa. Dù sao , ông ấy có những đứa con cho riêng mình rồi. Ông ấy muốn làm gì liên quan đến cháu.”

      “Và ai biết được là cháu có gia đình sao?” Sachs hỏi.

      “Tại sao họ phải biết? Cháu chưa bao giờ tìm đến trợ cấp xã hội hay lương thực miễn phí để nhân viên xã hội nào tìm đến cháu. Cháu chưa bao giờ đăng kỷ các bữa ăn miễn phí ở trường bởi nó lật tẩy vỏ bọc của cháu. Cháu tự ký tên bố mẹ vào trong các giấy tờ của nhà trường khi cần chữ ký của họ. Và cháu có hộp thư thoại sử dụng. Đó cũng là Keesh. Bạn ấy ghi lại thông tin thoại, giả vờ là mẹ cháu.”

      “Và nhà trường bao giờ nghi ngờ sao?”

      “Đôi khi mọi người hỏi tại sao cháu bao giờ có ai đến tham dự buổi họp giáo viên - phụ huynh, nhưng chẳng ai nghĩ gì về việc đó lắm bởi cháu luôn giành được điểm A. trợ cấp xã hội, điểm số tốt, rắc rối với cảnh sát... chẳng ai chú ý nếu như ta có điều gì đó sai phạm.” bé cười. “Chú biết quyển sách của Ralp Ellison chứ, Invisible Man? , phải là bộ phim khoa học viễn tưởng ấy. Nó về người da đen ở Mỹ, nghĩa là phải vô hình. Chà, cháu là vô hình.”

      Nó thực hợp lý lúc này: quần áo cũ kỹ và chiếc đồng hồ đeo tay rẻ tiền, chẳng có chút nào là những thứ mà người cha mẹ giàu có hay du lịch mua cho con của mình. trường công, phải trường tư. Bạn của bé, có nhà cửa, gia đình - Keesh, phải dạng gần gũi với con của giáo sư đại học.

      Rhyme gật đầu. “Chúng ta chưa bao giờ thực thấy cháu gọi điện cho bố mẹ ở . Nhưng cháu gọi điện cho người đóng thế này hôm qua, sau những gì xảy ra ở bảo tàng, đúng ? Ông ta bao giờ từng giả vờ là bác cháu chưa?”

      “Ông ấy đồng ý nếu cháu trả thêm tiền, ông ấy muốn cháu đến ở chỗ của ông ấy - nhưng đó phải là ý tưởng hay cho lắm. Chú hiểu cháu gì chứ? Bởi vậy cháu với ông ta sử dụng căn hộ 2-B của gia đình nhà Reynolds vắng. Cháu nhờ ông ấy rút tên họ ra khỏi hòm thư.”

      “Ta chưa bao giờ cảm thấy ông ta là người họ hàng ruột thịt của cháu”, Bell và Geneva đáp lại với nụ cười chế giễu.

      “Nếu như bố mẹ cháu bao giờ xuất , cháu định gì với chúng ta chứ?”

      “Cháu biết.” Giọng chùng xuống và chợt nhiên nhìn bé trông đầy tuyệt vọng và mất mát. Rồi định thần lại. “Cháu từng phải ứng phó với tất cả mọi thứ. Khi cháu lấy những bức thư của Charles ngày hôm qua?” nhìn Bell, gật đầu. “Cháu phải lẻn qua lối cửa sau, và xuống tầng hầm. Chúng nằm ở đó.”

      “Cháu có người thân nào ở đây ?”, Sachs hỏi. “Ai đó, ngoài bà của cháu.”

      “Cháu chả có...” Ảnh nhìn hoảng sợ trong đôi mắt của bé, lần đầu tiên Rhyme thấy. Và nguồn gốc của nó phải là vì gã sát thủ giết mướn mà là việc năng ứng xử trở thành thứ tiếng với ngữ pháp đáng ghét[10]. bé lắc đầu: “Cháu ai cả”.

      [10] Ở đây, câu đầu Geneva : “I don’t have no…” là sai ngữ pháp. sửa lại thành: “I don’t have anybody.”

      “Tại sao cháu tới các Dịch vụ Xã hội?” Sellito hỏi. “Đó là lý do tại sao họ được thành lập.”

      Bell thêm vào: “Cháu vất vả hơn bất cứ ai có thể đến đó”.

      bé cau mày và đôi mắt sẫm màu trở nên tối tăm hơn nữa. “Cháu lấy thứ gì miễn phí cả.” Rồi lắc lắc đầu. “Hơn nữa, nhân viên xã hội có thể đến để kiểm tra mọi việc và biết được tình trạng của cháu. Cháu lại bị gửi xuống chỗ chị mẹ cháu ở Bama. Bà ấy sống ở thị trấn bên ngoài Selma, có ba trăm người sống ở đó thôi. Chú có biết được cháu nhận được giáo dục như thế nào ở đó chứ? Hoặc là, cháu ở lại đây, và kết thúc trong trường giáo dưỡng ở Brooklyn, sống trong phòng với bốn gangster, những chiếc ti vi bật hip hop và BET[11] hai mươi tư giờ ngày, bị lôi vào nhà thờ...” rùng mình và lắc lắc đầu.

      [11] giải thưởng hằng năm về hip hop.

      “Đó là lý do cháu làm việc”, Rhyme nhìn vào bộ đồng phục.

      “Đó là lý do cháu làm việc. Có người đưa cháu đến chỗ người giúp cháu làm bằng lái xe giả. Theo đó, cháu mười tám tuổi.” bé cười thành tiếng. “Cháu nhìn vào đó, cháu biết. Nhưng cháu xin việc ở nơi mà người quản lý là ông già da trắng. Ông ấy có bằng chứng nào về việc tuổi bằng cách nhìn cháu. Và làm việc ở đấy suốt từ đó. Chưa bao giờ bỏ ca làm nào hết. Cho đến ngày hôm nay.” tiếng thở dài. “Ông chủ của cháu tìm ra nguyên nhân, ông ấy phải sa thải cháu. Chán . Và cháu vừa mới mất việc khác tuần trước.”

      “Cháu làm hai công việc?”

      bé gật đầu. “Xóa các hình vẽ graffiti. Đó là thay đổi diễn ra ở Harlem. Các chú có thể thấy ở bất cứ đâu bây giờ. vài công ty bảo hiểm và bất động sản lớn sửa chữa các tòa nhà cũ và cho thuê với rất nhiều tiền. Họ thuê những đứa nhóc để làm sạch các bức tường. Họ trả rất nhiều tiền. Nhưng cháu bị đuổi việc.”

      “Vì cháu đủ tuổi?”, Sachs hỏi.

      . Bởi vì cháu nhìn thấy những người công nhân đó, có ba gã da trắng to lớn làm việc cho công ty bất động sản. Họ quấy rối cặp vợ chồng già sống ở tòa nhà từ rất lâu rồi. Cháu bảo họ dừng lại nếu báo cảnh sát...” bé nhún vai. “Họ đuổi việc cháu. Cháu gọi cho cảnh sát nhưng họ quan tâm lắm... Quá nhiều để làm những việc tốt.”

      “Và đó là lý do tại sao cháu muốn cố vấn Barton giúp đỡ”, Bell .

      ấy biết là cháu có gia đình, và thế là, bùm phát, cháu vào trong trường giáo dưỡng.” bé rùng mình. “Cháu gần xong rồi! Cháu đáng lẽ có thể hoàn thành. năm rưỡi nữa thôi là cháu có thể biến mất. Có thể là ở Harvard hoặc Vassar. Rồi cái gã đó xuất ở bảo tàng ngày hôm qua và phá hỏng mọi thứ.”

      Geneva đứng dậy và bước tới bảng ghi các dữ liệu về Charles Singleton. bé nhìn nó chăm chú. “Đó là lý do tại sao cháu viết về ông ấy. Cháu phải tìm ra là ông ấy vô tội. Cháu muốn ông ấy phải là người đàng hoàng tốt bụng và là người chồng, người cha tốt. Những bức thư tuyệt đẹp. Ông ấy có thể viết ra hay những lời của mình. Ngay cả nét chữ của ông ấy cũng đẹp.” nín thở thêm vào: “Và ông ấy là hùng trong thời Nội chiến, dạy dỗ những đứa trẻ, cứu những em bé mồ côi từ những kẻ nổi dậy chống chế độ quân dịch. Sau cùng, bỗng nhiên cháu có người thân trong gia đình tốt đẹp. người thông minh, biết những người nổi tiếng. Cháu muốn ông ấy trở thành người mà cháu có thể ngưỡng mộ, khác với bố hay mẹ cháu”.

      Luiz Martinez dừng lại ở ngưỡng cửa. “ ta kiểm tra. Đúng tên và địa chỉ, tiền án tiền , chưa từng bị bắt.” ta đă điều tra tên của người bác giả mạo. Rhyme và Bell tin tưởng ai

      “Cháu cần phải ở mình”, Sachs .

      Im lặng chút. “Cha đưa cháu đến nhà thờ vài lần, trước khi ông ấy bỏ . Cháu vẫn nhớ bài hát Phúc [12] này. Nó từng là bài hát thích của chúng cháu. Tên nó là Aint got time to die. Đó là những gì giống với cuộc đời cháu. Cháu có thời gian để đơn.”

      [12] loại nhạc tôn giáo khởi nguồn từ các nhà thờ của người Mỹ gốc Phi.

      Nhưng lúc này, Rhyme hiểu khá Geneva. thiếu thành . : “Vậy là cháu có bí mật giống như người tổ tiên của mình. Ai biết những bí mật của cháu?”

      “Keesh, chủ ngôi nhà, vợ ông ấy. Thế thôi.” với Rhyme với cái nhìn thách thức. “Chú định lật tẩy cháu phải ?”

      “Cháu thể sống mình được”, Sachs .

      “Cháu như thế hai năm rồi”, bé ngắt lời. “Cháu có sách vở, trường lớp. Cháu cần bất cứ thứ gì khác nữa.”

      “Nhưng...”

      . Nếu chú ra, nó phá hỏng mọi thứ.” bé thêm vào: “Cháu xin đấy”. Tiếng lịm dần, như thể vô cùng khó khăn để thốt ra điều đó.

      Im lặng lúc. Sachs và Sellito nhìn Rhyme, người duy nhất trong căn phòng phải trả lời trước các quy định và cấp . : “ cần phải đưa ra quyết định ngay lập tức. Chúng ta ngập đầu với việc truy bắt hung thủ rồi. Nhưng ta nghĩ rằng có lẽ cháu nên ở lại đây, phải nơi nào khác nữa”. nhìn Thom. “Ta nghĩ rằng chúng ta có thể tìm phòng cho cháu lầu, đúng ?”

      “Chắc chắn là có rồi.”

      “Cháu muốn...”, bé bắt đầu.

      Rhyme với nụ cười: “Ta nghĩ lần này chúng ta cương quyết”.

      “Nhưng công việc của cháu. Cháu thể mất nó được.”

      “Ta lo việc này.” Rhyme lấy số điện thoại từ bé và gọi điện cho ông chủ cửa hàng McDonald, giải thích chung chung về vụ tấn công và rằng Geneva thể đến trong vài ngày. Người quản lý nghe giọng có vẻ thực quan ngại và với rằng Geneva là nhân viên cẩn thận nhất mà họ có được có thể nghỉ chừng nào mình muốn và yên tâm rằng công việc chờ đợi đến khi bé quay trở lại.

      ấy là nhân viên tốt nhất của chúng tôi”, tiếng người đàn ông qua chiếc loa ngoài. “ bé tuổi mới lớn mà trách nhiệm còn hơn cả những người gấp đôi tuổi. hay thấy điều đó đâu.”

      Rhyme và Geneva mỉm cười với nhau rồi tắt điện thoại.

      Ngay sau đó, chuông cửa reo. Bell và Sachs lập tức đề cao cảnh giác, tay họ nhanh chóng đưa về vị trí vũ khí của mình. Rhyme nhận thấy rằng, Sellito vẫn còn hoảng sợ, và mặc dù nhìn xuống vũ khí của mình, ta vẫn chạm vào nó. Những ngón tay của ta vẫn ở má, gãi nhè , như thể động tác này cầu vị thần xuất và xoa dịu trái tim khốn khổ của ta.

      Thom xuất ở ngưỡng cửa và với Bell: “Có Barton ở đây, đến từ trường học. ấy mang đến bản copy từ video an ninh”.

      bé lắc đầu trong hoảng sợ. “”, thầm.

      “Đưa ấy vào đây”, Rhyme .

      người phụ nữ Mỹ gốc Phi to lớn bước vào trong phòng, mặc chiếc đầm màu tím. Bell giới thiệu. ta gật đầu chào mọi ngưòi, và giống như những cố vấn mà Rhyme từng gặp, có phản ứng gì với tình trạng của . ta : “Chào, Geneva”.

      bé gật đầu. Khuôn mặt vẫn là chiếc mặt nạ. Rhyme có thể thấy rằng nghĩ về đe dọa mà người phụ nữ này đại diện: miền quê Alabama hoặc trại giáo dưỡng.

      Barton tiếp tục: “Em thế nào rồi?”

      “Ổn ạ, em cảm ơn .” với tôn trọng, giống với kiểu cách thường ngày.

      “Chuyện này hẳn phải rất khó khăn với em”, người phụ nữ .

      “Em khá hơn rồi.” Geneva giờ cố nở nụ cười khiên cưỡng. bé nhìn người phụ nữ lần rồi nhìn sang chỗ khác.

      Barton : “Tôi chuyện với hàng tá người về gã đàn ông ở gần sân trường ngày hôm qua. Chỉ hai hoặc ba người nhớ có thấy ai đó. Họ thể miêu tả kẻ đó, ngoại trừ việc ta là người da màu, mặc chiếc áo dã chiến màu xanh và đôi giày lao động cũ kỹ”.

      “Điều này mới”, Rhyme . “Đôi giày.” T viết điều này lên bảng.

      “Và đây là cuộn băng từ phòng an ninh của chúng tôi.” ta đưa cuộn băng ghi hình cho Cooper, bật nó lên.

      Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình và cảm thấy cổ căng ra khi nghiên cứu những hình ảnh.

      giúp gì nhiều lắm. Chiếc camera được hướng chủ yếu vào sân trường, phải các con phố và vỉa hè xung quanh. Trong phạm vi của nó có thể nhìn thấy vài hình ảnh lờ mờ của những người qua, nhưng có gì nổi bật. có hy vọng rằng họ thu được nhiều thông tin, Rhyme ra lệnh cho Cooper gửi cuốn băng tới phòng thí nghiệm ở Queens để xem liệu nó có thể cải thiện được chất lượng hình ảnh hơn . điền vào bản CoC[13] và gói nó lại, gọi người đến lấy.

      [13] Xác nhận lưu giữ bằng chứng hợp pháp.

      Bell cảm ơn giúp đỡ của người phụ nữ.

      “Bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm được”, bà ta dừng lại và nhìn bé. “Nhưng ta thực cần phải chuyện với bố mẹ em, Geneva.”

      “Bố mẹ em?”

      ta gật đầu cách chậm rãi. “Ta phải là - ta chuyện với vài sinh viên và giáo viên, lòng , hầu hết họ đều gia đình em quan tâm lắm tới việc học hành của em. Thực tế, ta chưa thấy ai thực gặp họ.”

      “Nhưng điểm số của em rất tốt.”

      “À, ta biết điều đó. Chúng ta thực hài lòng với việc học tập của em, Geneva. Nhưng trường học là học sinh và cha mẹ cùng phối hợp với nhau. Ta thực muốn chuyện với họ. Số điện thoại của họ là gì?”

      bé tê cứng lại.

      im lặng ngột ngạt bao trùm.

      Cuối cùng, Lincoln Rhyme phá vỡ nó. “Tôi với .”

      Geneva cúi gằm xuống. Hai bàn tay nắm chặt lại.

      Rhyme với Barton: “Tôi vừa mới ngắt điện thoại với bố bé”.

      Tẩt cả những người khác trong phòng quay sang và nhìn chằm chằm.

      “Họ về nhà chưa?

      , họ về thời gian.”

      ?”

      “Tôi cầu họ về.”

      làm thế sao? Tại sao?” Người phụ nữ cau mày.

      “Đó là quyết định của tôi. Tôi làm thế để giữ an toàn cho Geneva. Ngài Roland Bell đây cho biết.” nhìn về viên thanh tra đến từ Carolina, gật đầu, hành động đáng tin cậy, tuy dường như hiểu chuyện gì diễn ra. “Khi thiết lập các thông tin bảo vệ, đôi khi chúng tôi cần phải tách biệt những người chúng tôi bảo vệ với gia đình họ.”

      “Tôi biết điều đó.”

      “Nếu ”, Rhyme tiếp tục, sửa lại: “Kẻ tấn công có thể lợi dụng người nhà của họ để kéo họ ra ngoài”.

      Barton gật gù. “Hợp lý.”

      “Như thế gọi là gì, Roland?” Rhyme nhìn viên thanh tra lần nữa. Và tự trả lời: “Cách ly đối tượng ảnh hưởng, đúng nhỉ?”

      “IOD[14]", Bell , gật đầu. “Đó là cách chúng tôi gọi phương pháp này. phương pháp vô cùng quan trọng.”

      [14] Isolation of Dependants: Cách ly đối tượng ảnh hưởng.

      “Chà, tôi rất vui được biết điều đó”, cố vấn . “Nhưng bác của cháu trông chừng cháu chứ, đúng ?”

      Sellito : “. Chúng tôi cho rằng cách tốt nhất với Geneva là ở lại đây”.

      “Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp này với bác của bé nữa”, Bell . Lời dối nghe đặc biệt êm tai từ cảnh sát với giọng rề rà đậm chất miền Nam. “Chúng tôi muốn giữ ông ấy ngoài tầm liên lụy.”

      Barton chấp nhận tất cả những lời dối đó, Rhyme có thể thấy điều đó. cố vấn với Geneva: “Chà, khi chuyện này kết thúc, hãy họ liên lạc với ta. Có vẻ như em xoay xở khá ổn. Nhưng xét về mặt tâm lý nó phải có những tác động hay. Tất cả chúng ta ngồi chung với nhau và giải quyết số vấn đề”. ta thêm với nụ cười: “ có cái gì bị phá vỡ mà thể được hàn gắn lại”.

      Câu này hẳn phải được khắc bảngdanh đặt ở bàn làm việc hoặc cốc cà phê ở văn phòng của ta.

      “Được rồi”, Geneva cách thận trọng.


      “IOD.” Bell nhắc lại.

      “Và ta làm gì?” Rhyme lẩm bẩm. “Bắt tôi phải ở lại sau giờ học à?” Rồi hất đầu cộc lốc về phía tấm bảng ghi bằng chứng. “Giờ chúng ta quay lại với công việc được chưa? Có tên sát nhân ở ngoài kia. Và có đồng bọn. Có kẻ thuê chúng. Nhớ điều đó chứ? Tôi muốn làm chúng là ai lúc nào đó trong cái thập kỷ này.”

      Sachs bước tới cái bàn, bắt đầu sắp xếp các tập tài liệu và bản copy của những thứ mà William Ashberry cho mượn từ thư viện của tổ chức - cái “ trường nho ”. : “Đây phần lớn là về Gallows Heights - bản đồ, hình vẽ, bài báo. vài thứ về Potter’s Field”.

      đưa từng tập tài liệu cho Cooper. ghép lại rồi dán vào vài bản vẽ và bản đồ của Gallows Heights, thứ Rhyme nhìn vào chằm chằm cách cố ý khi Sachs với họ về những gì tìm ra về khu vực xung quanh. Rồi bước tới bản vẽ, chạm vào tòa nhà thương mại hai tầng. “Potter’s Field chính là ở đây. Phía tây phố 18.” lướt qua vài tập tài liệu. “Có vẻ như nó khá tai tiếng, có rất nhiều kẻ xấu lảng vảng ở đây, những người như Jim Fisk, Boss Tweed và các nhà chính trị có liên quan tới bộ máy Tammany Hall.”

      “Nhìn xem những trường nho giá trị như thế nào, Sachs? Em là tài sản to lớn đầy những thông tin có giá trị.”

      quắc mắc nhìn , rồi nhấc lên bản photocopy. “Đây là bài báo về vụ hỏa hoạn. Nó rằng cái đêm mà Potter’s Field cháy rụi, các nhân chứng nghe thấy tiếng nổ ở trong căn hầm và rồi, gần như là ngay lập tức, nơi này ngập chìm trong biển lửa. Bị nghi ngờ là có người phóng hỏa nhưng chưa có ai bị bắt. có nạn nhân.”

      “Charles đến đó để làm gì?” Rhyme trầm ngâm thành tiếng. “Ý ông ta là gì khi đề cập tới ‘công lý’? Và cái gì mãi mãi bị vùi lấp dưới bùn đất?”

      Liệu có manh mối, chút ít bằng chứng, mẩu tài liệu nào có thể trả lời câu hỏi về kẻ muốn giết Geneva Settle?

      Sellito lắc đầu. “Quá tệ là nó xảy ra trăm bốn mươi năm trước. Dù là gì, nó cũng biến mất. Chúng ta bao giờ biết được.”

      Rhyme nhìn Sachs. b gặp ánh mắt của . Rồi mỉm cười.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 27

      “Ồ, phần nào đó may mắn”, David Yu, người kỹ sư trẻ với mái tóc dựng ngược làm việc cho thành phố giải thích.

      “Chúng tôi có thể sử dụng ít”, Amelia Sachs . “May mắn, ý tôi là thế.”

      Họ đứng phía tây phố 18, cách Riverside Walk khoảng nửa dãy phố về phía đông, nhìn vào tòa nhà đá nâu ba tầng. chiếc xe buýt của đội khám nghiệm trường đợi ở gần đó, cả người bạn khác của Sachs cũng đứng đợi sẵn, nữ cảnh sát tên là Gail Davis, từ đơn vị K9, và con chó của - Vegas. Hầu hết các chú chó cảnh sát là giống chó chăn cừu, Malinois - đánh hơi bom - và giống chó săn Labrador. Dù vậy, Vegas, là con Briard, giống chó cổ của Pháp với lịch sử phục vụ lâu đời trong quân đội; giống chó này nổi tiếng với những chiếc mũi thính tuyệt vời cùng khả năng huyền bí có thể cảm nhận các mối đe dọa tới gia súc và con người. Rhyme và Sachs đều nghĩ rằng việc khám nghiệm trường trăm bốn mươi năm tuổi có thể có ích từ việc sử dụng vài phương pháp tìm kiếm cổ điển truyền thống, thêm vào đó là các hệ thống công nghệ cao có thể được áp dụng.

      Viên kỹ sư, Yu, hất đầu về phía tòa nhà được xây dựng từ vị trí mà quán Potter’s Field bị đốt cháy. Ngày tháng ghi viên đá nền là năm 1879. “Để xây tòa nhà chung cư như thế này năm đó họ cần phải đào lên và đổ lớp móng bê tông. Họ chỉ cần đào cái móng


      theo chu vi, đổ bê tông vào đó và xây lên các bức tường. Đó là phần chịu tải trọng. Nền tầng hầm hẳn phải rất bẩn. Nhưng bộ luật xây dựng thay đổi. Họ chắc phải đổ nền bê tông lúc nào đó đầu thế kỷ này rồi. Dù sao, nó mang tính kết cấu mà vì lý do sức khỏe và an toàn. Nên những nhà thầu cũng đào lên.”

      “Vậy may mắn của tôi ở đây là thứ gì đó nằm ở dưới này từ những năm 1860 có thể vẫn còn đó”, Sachs .

      Mãi mãi chôn giấu...

      “Phải.”

      “Và cái may mắn là nó nằm bên dưới lớp bê tông.”

      “Nhiều khả năng là thế.”

      “Dày khoảng 30 cm?”

      “Có thể ít hơn.”

      Sachs xung quanh tòa nhà đầy bụi và cũ kỹ, dù biết những căn hộ bên trong nó có thể phải thuê với giá 4000 đô la tháng. Có lối vào ở phía sau dẫn xuống tầng hầm.

      quay ra đằng trước tòa nhà điện thoại đổ chuông. “Thám tử Sachs.”

      Lon Sellito ở đầu dây bên kia. tìm ra tên chủ của tòa nhà, doanh nhân sống cách đó vài dãy phố. Ông ta đường tới để cho họ vào trong. Rhyme gọi điện lúc sau đó và với những gì Yu .

      “Vận may, vận rủi”, , ràng là cau có. “Tôi ra lệnh cho đội Tìm kiếm và Giám sát ở đây với máy phát sóng radar bề mặt và siêu .”

      Ngay sau đó người chủ tòa nhà xuất , người đàn ông thấp, đầu hói trong bộ vest và chiếc áo sơ mi trắng mở phanh cổ. Sachs tắt điện thoại với Rhyme và giải thích nhanh gọn cho người đàn ông về việc họ cần xem xét căn hầm. Ông ta nhìn cách ngờ vực rồi mở cửa căn hầm và bước lùi lại, khoanh tay, gần Vegas. Chú chó cảnh sát có vẻ thích ông ta lắm.

      chiếc Chevy Blazer trờ tới và ba chuyên gia thuộc đội S & S của Sở cảnh sát New York bước ra. Các nhân viên S & S bao gồm cả cảnh sát, kỹ sư và nhà khoa học, nhiệm vụ của họ là hỗ trợ đội đặc nhiệm xác định vị trí hung thủ và nạn nhân ở các trường với kính viễn vọng, các máy nhìn ban đêm, hồng ngoại, tai nghe mini và các trang bị khác. Họ gật đầu với các chuyên gia khám nghiệm trường và rồi mở những chiếc va li màu đen cũ sờn, rất giống với những đồ đựng thiết bị khám nghiệm trường riêng của Sachs. Người chủ tòa nhà quan sát họ với cái cau mày.

      Các nhân viên S & S bước xuống tầng hầm lạnh và tăm tối, có mùi dầu và mùi đất mốc meo, Sachs và người chủ theo sau. Họ kết nối chiếc máy dò mà giống với chiếc máy hút bụi chân với các thiết bị được điều khiển bằng máy tính.

      “Cà khu vực này?” người hỏi Sachs.

      “Ừ.”

      ảnh hưởng đến ai, đúng ?” người chủ hỏi.

      , thưa ngài.” chuyên viên trả lời.

      Họ bắt đầu vào công việc. Họ quyết định sử dụng máy phát sóng radar trước. Sóng radar xuyên qua bề mặt phát ra các sóng radio và phản hồi thông tin về những vật thể mà nó chạm vào, giống như những sóng radar thường thấy tàuuyền hoặc máy bay. Điều khác biệt duy nhất là máy phát sóng radar có thể xuyên qua các vật thể như bùn đất và những mảnh gạch đá vụn. Nó có tốc độ nhanh như tốc độ ánh sáng, và khác với sóng siêu , cần phải chạm vào bề mặt để có được thông tin.

      Họ quét tìm cái sàn khoảng tiếng đồng hồ, gõ các phím máy tính, ghi chú, trong khi Sachs đứng bên cạnh, cố gõ gõ chân mình hay bồn chồn cách thiếu kiên nhẫn, nhận ra rằng nó tốt cho việc hoạt động của các thiết bị.

      Sau khi họ quét sạch tầng hầm với radar, đội dò tìm tra màn hình máy tính rồi dựa những gì họ biết, xung quanh căn hầm lần nữa, hướng đầu dò siêu vào khối bê tông trong cả tá vị trí mà họ đánh dấu là quan trọng.

      Khi hoàn thành, họ gọi Sachs và Yu tới chiếc máy tính, lướt qua vài tấm hình. Màn hình tối xám khiến đọc được: Nó được lấp đầy bởi các đốm và vạch màu, rất nhiều trong số đó có các ô chứa các con số và chữ cái bên cạnh mà thể đoán được đó là gì.

      trong những chuyên viên : “Hầu hết những thứ này là những gì ta hy vọng có ở dưới tòa nhà ở tuổi này. Những hòn đá lớn bị mài mòn do nước, những thảm đá cuội, những tảng gỗ mục. Đó là phần của đường thoát nước ở đây”. chỉ vào phần của màn hình.

      “Có đường xả nước vào dòng xả chính tới dòng sông Hudson”, Yu . “Hẳn chính là nó.”

      Người chủ đứng nghiêng vai dựa vào tường.

      “Ông có phiền , thưa ngài?” Sachs gằn giọng. Người đàn ông bước lùi lại cách miễn cưỡng.

      Người chuyên viên hất đầu. “Nhưng ở đây…” chạm vào điểm bên cạnh bức tường ở phía sau. “Có cái gì đó ở đây nhưng lên .”

      “A...”

      “Khi có vật thể nào mà máy tính nhìn thấy trước đó, nó gợi ý đó có thể là gì. Nhưng cái này máy đoán được.”

      Sachs chỉ nhìn thấy vùng ít tối hơn cái màn hình tối đen.

      “Bởi vậy chúng tôi dùng sóng siêu và được thứ này.”

      Cộng của ta gõ lệnh và màn hình khác xuất , với bức ảnh sáng hơn và ràng hơn: cái vòng xù xì, bên trong là vật hình tròn đụcó sợi gì đó thò ra từ nó. Trong cái vòng xù xì, ở khoảng bên dưới, vật thể hơn xuất với hình dạng như đống que và ván gỗ, có thể, Sachs đoán vậy, cái rương bị vỡ ra sau ngần ấy năm.

      nhân viên : “Cái vòng ngoài khoảng 60 cm. Cái bên trong có mặt - dạng hình cầu. Nó có đường kính khoảng 22 cm.”

      “Nó có nằm gần bề mặt ?”

      “Cái lớp bê tông dày khoảng 20 cm, và vật thể này nằm bên dưới khoảng 1,8 đến 2 mét.”

      “Chính xác ở vị trí nào?”

      Người chuyên viên nhìn từ màn hình máy tính tới sàn nhà và quay lại. ta bước tới điểm ở ngay bên cạnh bức tường ở phía sau căn hầm, gần cái cửa dẫn ra bên ngoài. ta vẽ dấu bằng phấn. Vật thể đó nằm ở ngay bên bức tường. Bất cứ ai xây bức tường này bỏ qua nó chỉ vài centimet.

      “Tôi đoán đó là cái giếng hoặc cái bể nước. Có thể là cái ống khói.”

      “Cần những gì để xuyên qua lớp bê tông?” Sachs hỏi Yu.

      cho phép của tôi”, người chủ tòa nhà . “Và các người lấy được điều đó. có ai phá hỏng căn hầm của tôi.”

      “Thưa ngài”, Sachs cách kiên nhẫn: “Đây là công việc của cảnh sát”.

      “Dù có là cái gì nữa, đây là khu vực thuộc quyền sở hữu của tôi.”

      “Quyền sở hữu phải là vấn đề ở đây. Nó có thể liên quan tới cuộc điều tra của cảnh sát.”

      “Chà, vậy các cần có lệnh của tòa án. Tôi là luật sư. Và ai trong các người được phép đập phá chỗ này của tôi.”

      “Việc tìm hiểu xem đó là gì thực rất quan trọng với chúng tôi.”

      “Quan trọng?” ông ta hỏi. “Tại sao?”

      “Nó có liên quan tới vụ án từ vài năm trước.”

      “Vài năm?” ông ta ngay lập tức , nhấn vào điểm yếu trong vụ án của . “Vài năm là bao nhiêu?” Ông ta hẳn phải là luật sư khá giỏi.

      Ta dối với kiểu người như vậy và điều đó quay trở lại làm hại ta. : “ trăm bốn mươi năm. Có thể nhiều hơn, có thể ít hơn”.

      Ông ta cười. “Đây phải là điều tra. Đây là kênh Discovery. có búa khoan. Hừm.”

      “Có chút cộng tác nào ở đây , thưa ngài?”

      “Lấy lệnh của tòa án. Tôi hợp tác cho đến khi buộc phải làm thế.”

      “Vậy đó còn là hợp tác nữa rồi, đúng ?” Sachs đáp lại và gọi cho Rhyme.

      “Có chuyện gì vậy?”, hỏi.

      tóm tắt cho biết chuyện gì xảy ra.

      chiếc rương bên trong cái giếng hoặc cái bể nước bên trong tòa nhà cháy sụp ấy. Chẳng có chỗ giấu nào tốt hơn thế nữa.”

      Rhyme cầu đội S & S gửi những bức ảnh qua email. Họ làm theo.

      có bức ảnh ở đây rồi, Sachs”, sau khắc. “ nó là gì lắm.”

      với về vị công dân tỏ vẻ hợp tác.

      “Và tôi đấu tranh”, vị luật sư , nghe cuộc hội thoại giữa họ. “Tôi tự tay đưa vụ này ra tòa với thẩm phán. Tôi biết hết họ. Chúng tôi khá là thân thiết.”

      nghe thấy Rhyme trao đổi với Sellito về vấn đề này. Khi quay lại với cuộc gọi, tỏ vẻ hài lòng. “Lon cố gắng lấy lệnh của tòa án, nhưng mất thời gian. Và ấy thậm chí còn chắc về giấy cho phép của tòa án trong vụ như thế này.”

      “Tôi có thể chỉ đấm trận ? lẩm bẩm và dập máy rồi quay sang người chủ tòa nhà. “Chúng tôi sửa lại tầng hầm cho ông. cách hoàn hảo nhất.”

      “Tôi có những người thuê nhà sống ở đây. Họ phàn nàn. Và tôi phải giải quyết điều đó. Các làm thế. Và phải biến .”

      Sachs vẫy vẫy tay cách bực bội, thực nghĩ tới việc còng tay lại vì - chà, vì cái gì đó - và rồi đào xuyên qua cái tầng hầm khỉ gió này. Mất bao lâu để có lệnh của tòa án? Nhiều khi là mãi mãi, tưởng tượng, xem xét tới khả năng các thẩm phán cần lý do “chính đáng” để cho phép cảnh sát xâm nhập tư gia của ai đó.

      Điện thoại đổ chuông lần nữa và Sachs trả lời.

      “Sachs”, Rhyme hỏi: “Có viên kỹ sư cùng ở đó ?”

      “David? Vâng. ấy đứng cạnh em.”

      câu hỏi.”

      “Gì cơ?”

      “Hỏi ấy xem ai sở hữu con hẻm?”


      Câu trả lời, trong trường hợp đặc biệt này, dù phải là tất cả, là: thành phố. Người luật sư chỉ sở hữu cái mặt bằng của tòa nhà và những gì bên trong mà thôi.

      Rhyme : “Đưa những kỹ sư lấy vài thiết bị sang bên kia bức tường, ở bên ngoài và đào xuống rồi tạo đường hầm bên dưới bức tường của ông ta. Như thế có được ?”

      Ngoài tầm nghe của người sở hữu tòa nhà, đưa câu hỏi cho Yu, : “Ừm, chúng ta có thể làm như vậy. có nguy cơ tổn hại về kết cấu nếu đào lỗ hẹp”.

      Hẹp, người nữ cảnh sát với nỗi sợ gian chật chội nghĩ. Chỉ là thứ tôi cần... dập máy rồi với viên kỹ sư: “Được rồi, tôi muốn ...” Sachs cau mày. “Những cái máy mà có cái thìa to đùng được gọi là gì nhỉ?” Kiến thức của về các phương tiện có tốc độ tối đa mười dặm giờ khá là hạn chế.

      “Máy xúc?”

      “Hình như thế. Mất bao lâu các có thể đưa cái đến đây?”

      “Khoảng nửa giờ”.

      nhìn cách đau khổ. “Mười phút

      “Để xem tôi có thể làm được gì.”

      Hai mươi phút sau, với tiếng bíp cảnh báo lùi xe vang lên inh ỏi, chiếc máy xúc của thành phố tiến sát tới bên cạnh tòa nhà. có cách nào để giấu chiến thuật của họ nữa. Người chủ tòa nhà bước tới trước, vẫy vẫy những bàn tay. “Các người vào bên dưới từ bên ngoài! Các người cũng thể làm như thế được. Tôi sở hữu tòa nhà này từ trời cho đến tâm đất. Đó là những gì mà luật pháp .”

      “Chà, thưa ngài”, nhân viên trẻ, mảnh dẻ . “Có đường thoát nước công cộng nằm dưới tòa nhà. Chúng tôi có quyền để tiếp cận. Như tôi chắc chắn là ông biết .”

      “Nhưng cái đường thoát khỉ gió ấy nằm ở bên kia tòa nhà.”

      “Tôi nghĩ thế.”

      “Nó cái màn hình ở ngay đây này.” ông ta chỉ vào chiếc máy tính - ngay khi cái màn hình tối sầm.

      “Úi” trong những nhân viên S & S , người vừa tắt cái máy . “Những thứ khỉ gió này luôn hỏng.”

      Người chủ sở hữu tòa nhà quắc mắt nhìn ta, rồi với Yu: “Chẳng có cái đường xả lũ nào ở cái chỗ mà các người định đào”.

      Yu nhún vai. “Chà, ông biết đấy, khi có ai đó tranh cãi về vị trí của đường xả, trách nhiệm của ông ta là phải có lệnh của tòa án để dừng chúng tôi lại. Có lẽ ông phải gọi cho vài người bạn thẩm phán của ông thôi. Và ông biết gì ? Tốt hơn hết là ông nên làm điều đó nhanh lên, bởi chúng tôi bắt đầu làm bây giờ.”

      “Nhưng...”

      “Tiếp tục ”, ta hét lớn.

      “Có ?” Sachs thầm với ta. “Về cái đường xả lũ ấy?”

      “Tôi biết. Nhưng có vẻ như ông ta mua nó.”

      “Cảm ơn.”

      Chiếc máy xúc bắt tay vào công việc. mất nhiều thời gian lắm. Mười phút sau, theo hướng dẫn của đội S & S, chiếc máy xúc đào được cái lỗ cáo rộng khoảng mét hai, và sâu khoảng ba mét. Móng của tòa nhà chấm dứt khi cách mặt đất khoảng mét tám, bên dưới đó là bức tường bằng đất thịt và đất sét. Sachs phải trèo xuống đáy của cái lỗ và phải đào sang ngang khoảng mươi centimet cho tới khi chạm tới được cái bể nước hoặc giếng. mặc vào bộ Tyvek và chiếc mũ cứng với đèn ở đỉnh rồi gọi Rhyme qua điện đàm - dám chắc là điện thoại di động có thể nhận cuộc gọi bên dưới cái lỗ này. “Em sẵn sàng rồi”, với .

      Sĩ quan Gail Davis của K9 bước tới với chú chó Vegas, kéo căng sợi dây da, và đào xới ở ven miệng lỗ. “Có thứ gì đó dưới này”, nữ cảnh sát .

      Cứ như thể tôi chưa đủ sợ hãi vậy, Sachs nghĩ, nhìn vào khuôn mặt cảnh giác của con chó.

      “Đó là tiếng gì, Sachs?”

      “Gail ở đây. Con chó của ấy có vấn đề với địa điểm này.”

      “Có gì đặc biệt ?” Sachs hỏi Davis.

      . Nó có thể đánh hơi hay cảm thấy bất cứ gì.”

      Vegas gầm gừ rồi cọ móng vào chân Sachs. Davis từng với Sachs về kỹ năng khác của giống Briard, đó là khả năng phát ra ai là người bị thương nặng hơn để ưu tiên chữa trị - được sử dụng bởi các y bác sĩ quân đội để quyết định vết thương nào có thể cứu được và cái nào , ngay tại tiền tuyến. tự hỏi liệu Vegas có báo trước cho về việc xảy ra ở tương lai hay .

      “Bám sát nhé”, Sachs với Davis, với nụ cười thoải mái lắm. “Trong trường hợp tôi cần đào ra ngoài.”

      Yu xung phong xuống cái lỗ ( mình thích những đường hầm và các hang động, điều mà khiến Amelia Sachs kinh ngạc). Nhưng . Sau tất cả, đây chính là trường, ngay cả khi nó trăm bốn mươi năm tuổi, cả cái vật thể hình cầu và cái rương, hay cái gì cũng được, là bằng chứng cần được thu lại và bảo quản, theo các bước cần phải được thực trong khám nghiệm trường.

      Người công nhân hạ thấp cái thang vào trong hầm, Sachs nhìn xuống dưới, thở dài.

      ổn chứ?”, Yu hỏi.

      sao”, cách hân hoan và bất đầu trèo xuống hố rồi nghĩ: Nỗi sợ gian hẹp ở kho lưu trữ của tổ chức Sanford là gì so với điều này. Ở dưới đáy, lấy xẻng và cái cuốc chim mà Yu đưa từ trước và bắt đầu đào.

      Đổ mồ hôi vì nỗ lực, run lên vì những cơn sợ hãi, mải miết đào, mỗi xẻng lại nghĩ tới cảnh cái đường hầm này sụp xuống và b chặt lấy mình.

      Lôi ra những hòn đá, xới những khối đất đặc.

      Mãi mãi chôn vùi dưới bùn đất...

      “Em thấy gì rồi, Sachs?”, Rhyme hỏi qua điện đàm.

      “Đất, cát, sâu bọ, vài hộp thiếc, đá.”

      được khoảng 30 cm bên dưới tòa nhà, rồi 60 cm.

      Mũi xẻng của kêu ‘cạch’ tiếng và dừng lại ngay lập tức. cạo lớp đất và tìm thấy bức tường gạch tròn, rất lâu đời, lớp vữa được trát vụng về giữa những viên gạch.

      “Có gì đó đây rồi. bên của cái bể nước.”

      Đất bẩn từ miệng cái hầm xíu chảy xuống sàn. Nó khiến hoảng sợ còn hơn việc con chuột bò qua đùi mình. hình ảnh rất nhanh ra trong đầu : nằm bất động trong khi đất bẩn đổ ụp xuống xung quanh, đè ép ngực, rồi tràn vào trong mũi và miệng. Chết ngạt trong đất...

      Được rồi, , thoải mái nào. Sachs lấy lại vài hơi thở sâu. Cạo thêm đất ra. gallon đất hoặc lượng tương đương tràn đầu gối. “ có cho rằng chúng ta nên chống chỗ này ?”, gọi Yu.

      “Gì cơ?” Rhyme hỏi.

      “Em với viên kỹ sư.”

      Yu gọi: “Tôi nghĩ có lẽ nó vẫn giữ vững được. Đất đủ ẩm để bám chặt thành khối.”

      Có lẽ.

      Người kỹ sư tiếp tục: “Nếu muốn, chúng tôi có thể, nhưng mất vài giờ đồng hồ để đóng khung đỡ”.

      sao”, với . hỏi: “Lincoln?”

      cảm thấy luồng điện chạy dọc sống lưng, nhận ra rằng mình vừa gọi bằng tên riêng. Cả hai người họ đều chẳng ai mê tín nhưng có quy tắc mà họ gắn vào: Đó là điềm gở nếu như dùng tên riêng của họ trong công việc.

      do dự cho thấy cả cũng nhận ra vừa phá vỡ quy tắc. Cuối cùng : “Tiếp tục ”.

      Sỏi và đất khô tiếp tục rớt xuống bên của đường hầm và phủ xuống vai và cổ. Nớt xuống bộ Tyvek, làm thanh càng . bật lùi ra sau, cảm giác như bức tường sụp xuống. Thở dốc hơi.

      “Sachs? Em sao chứ?”

      nhìn xung quanh. , bức tường vẫn đứng vững. “Em ổn.” tiếp tục cạo đất bẩn ra khỏi cái bể nước bằng tường gạch tròn. Với cái cuốc chim, đào những mảng vữa rồi hỏi Rhyme: “Có ý tưởng nào khác về cái vật bên trong ?” Câu hỏi chỉ phần lớn nhằm vào cảm giác an tâm khi được nghe giọng .

      khối cầu với cái đuôi.

      “Chẳng có ý tưởng nào hết.”

      cú đánh mạnh với cái cuốc. viên gạch rớt ra. Rồi hai. Đất chảy xuống từ bên trong cái giếng và phủ đầy đầu gối.

      Khốn kiếp, tôi ghét điều này.

      Nhiều gạch, nhiều cát, đá cuội và đất bẩn hơn. dừng lại, rũ sạch cái đống nặng trịch đất đá khỏi đôi chân quỳ của mình và quay lại với nhiệm vụ.

      “Em sao rồi?”, Rhyme hỏi.

      “Kẹt ở đây”, cách yếu đuối và lôi ra vài viên gạch nữa. Có cả đống gạch nằm rải rác xung quanh. quay đầu, chiếu ánh sáng vào thứ nằm phía sau những viên gạch: bức tường đất đen xì, tro bụi, vài mẩu than đá và những mảnh gỗ.

      bắt đầu đào vào bên trong cái lớp đất khô cứng và chặt chẽ bên trong cái giếng. Chả có gì gọi là kết dính với đống đất phải gió này, nghĩ, nhìn dòng màu nâu xốp chảy xuống, lấp lánh trong ánh sáng từ chiếc đèn mũ.

      “Sachs”, Rhyme hét lên. “Dừng lại!”

      thở dốc. “Cái gì..?”

      mới xem lại lịch sử vụ phóng hỏa lần nữa. Người ta rằng có tiếng nổ ở tầng hầm của quán rượu. Lựu đạn thời bấy giờ có hình cầu và có dây dẫn nổ. Charles hẳn phải mang theo hai quả. Đó chính là khối cầu trong chiếc giếng! Em ở ngay sát quả mà phát nổ. Quả bom này có thể dễ bị kích động như nitroglycerine. Đó chính là thứ mà con chó đánh hơi thấy, chất nổ! Ra khỏi đó nhanh lên.”

      ấn mạnh vào thành giếng để đẩy thân mình về phía chân.

      Nhưng viên gạch mà dựa vào đột ngột long ra, khiến ngã ngửa và trận mưa đất kh từ bên trong giếng tràn ra đường hầm. Đá, sòi và đất bẩn chảy quanh, kẹt chặt chân và nhanh chóng trải lên ngực và mặt.

      hét lên, cố gắng vùng vẫy cách liều mạng để nhổm dậy với chân mình. Nhưng thể; cơn lũ đất tràn đến lấp đầy những cánh tay.

      “Sa...”, nghe thấy tiếng Rhyme khi sợi dây tai nghe tuột ra khỏi chiếc điện đàm.

      Nhiều đất hơn nữa chảy xuống tràn qua người, đông cứng và bấu víu được dưới cái sức nặng đè bẹp tăng dần lên như nước lũ.

      Rồi Sachs thét lên lần nữa - khi cái khối cầu, được mang ra bởi dòng chảy của đất, rớt xuống từ cái lỗ hổng ở bức tường gạch và lăn xuống thân thể bất động.

      Jax ra khỏi khu vực của gã.

      Bỏ lại Harlem phía đằng sau, cả về địa lý lẫn trạng thái tinh thần. Bỏ lại đằng sau những khu đất trống đầy những chai Malt, bỏ lại sau lưng những vỉa hè trước các cửa hàng mà gã thường trú chân, những bức poster quảng cáo nhãn hiệu nước tẩy rửa Red Devil cũ sờn vì thời tiết, thứ mà những người đàn ông da đen sử dụng để kéo tóc thẳng ra ở thời đại Malcolm X; bỏ lại đằng sau những rapper tuổi mới lớn thích được nổi tiếng và những nhóm gõ trống bằng xô ở công viên Marcus Garvey, những gian hàng bán đồ chơi và dép xăng đan cùng những đồ phụ kiện lấp lánh với những cái móc treo tường vải kente. Bỏ lại phía sau tất cả những công trình xây dựng mới được tái thiết, bỏ lại đằng sau những chiếc xe buýt chạy tour.

      Giờ gã trong số ít những nơi mà mình chưa từng tàn phá với dòng chữ Jax 157, chưa bao giờ vẽ hình bừa bãi. phần thanh lịch ở phía tây Central Park.

      Nhìn chằm chằm vào tòa nhà mà lúc này Geneva Settle ở bên trong.

      Sau việc xảy ra ở con hẻm, gần nhà phố 118, với Geneva và người đàn ông chiếc xe màu xám, Jax nhảy vào chiếc taxi khác và theo những chiếc xe cảnh sát tới đây. Gã biết nơi này để làm gì: hai chiếc xe cảnh sát ở phía trước, và từ cầu thang xuống vỉa hè là đường dốc thoải, giống như họ làm cho những người xe lăn.

      khập khiễng, chậm rãi qua công viên, xem xét kỹ ngôi nhà từ bên ngoài. Con bé làm gì ở bên trong chứ? Gã cố gắng nhòm vào trong. Nhưng những chiếc rèm được thả xuống.

      chiếc ô tô khác - chiếc Crown Vic, loại mà cảnh sát sử dụng rất nhiều - dừng lại và hai cảnh sát bước mang theo cái va li rẻ tiền được dán băng dính và những hộp đựng sách. Hẳn là của Geneva, đoán. Con bé chuyển sang sống ở đây.

      Họ bảo vệ bé thậm chí còn vững chắc hơn, gã nghĩ và cảm thấy nản lòng.

      Gã bước vào bụi rậm để có được tầm nhìn tốt hơn khi cánh cửa mở, nhưng ngay lúc đó chiếc xe cảnh sát khác qua, chậm rãi. Có vẻ như là tên cớm bên trong quan sát công viên cũng như các vỉa hè. Jax ghi nhớ số nhà, rồi quay và biến mất vào trong công viên. Gã hướng lên phía bắc, bước ngược về Harlem.

      Cảm thấy khẩu súng nằm trong tất của mình, cảm thấy kéo giật lại của viên sĩ quan giám sát cách hai trăm dặm về phía bắc, người có thể nghĩ tới chuyến viếng thăm bất ngờ tới căn hộ ở Buffalo của gã ngay lúc này, Jax vẫn nhớ câu hỏi mà Ralph - vị Pharaoh - hỏi: Liệu việc gã làm có đáng để mạo hiểm ?

      suy nghĩ về điều đó, khi quay về nhà.

      Gã nghĩ: Liệu nó có đáng cho mạo hiểm hai mươi năm trước, bám vắt vẻo cái gờ sắt rộng 12 cm của chiếc cầu vượt đại lộ Grand Central, chỉ để vẽ cái hình Jax 157 ở độ cao 9m bên dòng xe cộ với tốc độ sáu mươi dặm giờ?

      Liệu có đáng cho mạo hiểm sáu năm trước, nhét viên đạn 12 ly vào trong khẩu súng và gí cái họng súng ấy vào mặt người lái xe buýt có vũ khí, chỉ để lấy số tiền 50.000 hay 60.000 đô la? Đủ để giúp gã vượt qua khó khăn, đưa cuộc đời gã trở lại như ngày trước.

      Và gã biết rằng, câu hỏi của Ralph phải là câu hỏi có chút ý nghĩa nào cả, bởi vì nó gợi ý rằng có lựa chọn. Lúc ấy và bây giờ, đúng hay sai, quan trọng. Alonzo “Jax” Jackson thẳng về phía trước. Nếu việc này thành công, gã có thể quay trở lại với cuộc sống đáng lẽ phải có ở Harlem, ngôi nhà của gã, nơi mà cả những người xấu và tốt tạo nên gã bây giờ - nơi mà chính gã góp phần hình thành, với hàng ngàn bình sơn xịt. Gã chỉ đơn giản làm điều phải làm.

      Cẩn thận.

      Trong nơi nấp ở Queens, Thompson Boyd đeo chiếc mặt nạ phòng chống khí độc và đôi găng tay dày. chậm rãi pha trộn acid và nước, rồi kiểm tra nồng độ.

      Cẩn thận...

      Đây chính là phần rắc rối phức tạp. Chắc chắn bột kali cyanide ở gần đó nguy hiểm rồi - đủ để giết ba mươi hoặc bốn mươi người - nhưng ở thể rắn nó t đối ổn định. Giống như thứ mà đặt vào trong chiếc xe cảnh sát, cái chất bột trắng ấy cần phải được pha trộn với acid sulfuric để tạo ra cái khí độc chết người (chất độc Zyklon-B bỉ ổi được sử dụng trong cơn mưa bởi Đức quốc xã để hủy diệt dân chúng).

      Nhưng cái từ “nếu” to đùng ấy là acid sulfuric.

      Nồng độ quá thấp tạo ra khí độc chậm, có thể tạo cơ hội cho những nạn nhân phát ra mùi và chạy trốn. Nhưng acid quá mạnh - nồng độ quá 20% - khiến cho chất xyanua ấy phát nổ trước khi hòa tan, làm hỏng mục đích mong muốn về tác dụng chết người.

      Thompson cần nồng độ càng gần với 20% càng tốt - với lý do đơn giản: Địa điểm mà chuẩn bị đặt thiết bị này - ngôi nhà nằm ở khu phía tây Central Park cổ kính mà Geneva Settle ở trong đó - nơi khó có khả năng kín gió. Sau khi biết được đó là nơi nấp, Thompson tiến hành việc quan sát ngôi nhà và phát ra những cửa sổ chưa được bịt kín cũng như hệ thống điều hòa và lò sưởi cũ kỹ. Nó thử thách để biến cấu trúc to lớn thành căn phòng chết chóc.

      ...con hiểu về thứ chúng ta làm ở đây. Nó giống như mọi thứ khác trong cuộc sống. Chẳng có cái gì là hoàn toàn đúng 100% cả. Chẳng có cái theo con đường mà nó phải...

      Ngày hôm qua, với ông chủ của rằng lần tấn công tiếp theo vào Geneva thành công. Nhưng giờ chắc chắn về điều đó. Cảnh sát quá giỏi.

      Chúng ta chỉ dựng lại và tiếp tục. Chúng ta thể có cảm xúc về nó.

      Chà, hề xúc động và day dứt. Nhưng cần phải sử dụng những biện pháp quyết liệt - vài phương diện. Nếu như cái khí độc trong ngôi nhà ấy giết chết Geneva, tốt. Nhưng đó phải mục tiêu chính của . buộc phải hạ ít nhất vài người bên trong đó - những nhà điều tra tìm kiếm và ông chủ của . Giết họ, khiến họ hôn mê, gây ra những tổn thương trong não - điều đó quan trọng. Điều quan trọng là làm họ tiêu hao lực lượng.

      Thompson kiểm tra nồng độ lần nữa, và thay đổi cách nhàng, điều chế làm sao để khí có thể thay đổi độ cân bằng pH. Đôi tay hơi run, nên bước lùi chút để bình tâm lại.

      Wsst...

      Bài hát mà bắt đầu thổi sáo là bài Stainvay to Heaven.

      Thompson dựa ra sau và nghĩ về cách để nhét quả bom khí này vào bên trong ngôi nhà. vài ý tưởng xuất - bao gồm cả hay hai cách mà khá chắc chắn rằng có hiệu quả. kiểm tra nồng độ của acid lần nữa, thổi sáo cách vô thức qua phần miệng của chiếc mặt nạ chống độc. Chiếc máy phân tích báo rằng nồng độ đạt 19,99394%.

      Hoàn hảo.

      Wsst...

      Giai điệu mới nảy ra trong đầu là Ode to Joy từ bản giao hưởng số chín của Beethoven.

      Amelia Sachs bị đè bẹp đến chết bởi đất thịt và đất sét cũng như bị thổi bay xác vì quả mìn ổn định từ thế kỷ XIX ấy.

      giờ đứng đây, tắm rửa và đóng bộ quần áo sạch , ở trong phòng thí nghiệm của Rhyme, xem xét cái vật lăn xuống từ cái giếng khô cạn vào vạt áo của mình giờ trước đó.

      Đó phải là quả bom cũ. Nhưng có chút nghi vấn lúc này về việc nó bị bỏ lại trong giếng bởi Charles Singleton vào đêm ngày 15 tháng 7 năm 1868.

      Chiếc xe lăn của Rhyme đứng ở trước chiếc bàn khám nghiệm bên cạnh Sachs, và họ nhìn ngó, xem xét bên trong cái hộp thu vật chứng bằng bìa các tông. Cooper ở đó với họ, đeo găng tay cao su.

      “Chúng ta phải với Geneva”, Rhyme .

      “Có cần thế ?”, Sachs cách lưỡng lự. “Em muốn.”

      với cháu điều gì cơ?”

      Sachs quay lại rất nhanh. Rhyme lùi lại khỏi chiếc bàn, lưỡng lự rồi nghĩ rằng: Khốn nạn. Cần phải cẩn thận hơn nữa.

      Geneva Settle đứng ở thềm cửa.

      “Các chú tìm ra điều gì đó về Charles trong căn hầm của quán rượu, phải ? Mọi người phát ra rằng ông ấy thực lấy trộm tiền. Đó có phải là bí mật của ông ấy , sau tất cả?”

      Nhìn Sachs, rồi Rhyme : “, Geneva. phải. Chúng ta tìm ra việc khác cơ”. Hất đầu về phía cái hộp. “Đây. Nhìn .”

      bé bước tới gần hơn rồi dừng lại, chớp mắt, nhìn chằm chằm vào cái đầu lâu màu nâu của người. Đó là thứ họ nhìn thấy bức ảnh sóng siêu , thứ lăn ra và chảy vào vạt áo của Sachs. Với giúp đỡ của Vegas, chú chó giống Briard của Gail Da người thanh tra khai quật được các mẩu xương còn lại. Những mẩu xương này - Sachs nghĩ rằng đó là những mẩu gỗ từ cái rương - là của người đàn ông, Rhyme xác định. Cái xác ràng bị nhét thẳng xuống giếng ở căn hầm của quán Potter’s Field ngay trước khi Charles châm lửa cho vụ hỏa hoạn. Việc ghi hình ảnh bằng sóng siêu chụp được đỉnh của chiếc sọ não và cái xương sườn bên dưới nó, tạo ra dáng vẻ của sợi dây dẫn cháy của quả mìn.

      Những cái xương nằm ở trong chiếc hộp thứ hai chiếc bàn khám nghiệm.

      “Chúng ta khá chắc chắn rằng đó là người đàn ông mà Charles giết.”

      !”

      “Và rồi ông ấy đốt cháy quán rượu để che giấu tội ác.”

      “Chú thể biết điều đó được.” Geneva ngắt lời.

      “Chúng ta . Nhưng đó là suy luận hợp lý.” Rhyme giải thích: “Lá thư ông ấy đường tới Potter’s Field, mang theo khẩu côn Navy Colt. Đó là khẩu súng ngắn từ thời Nội chiến. Nó giống như súng thời đại, nạp viên đạn vào phía sau của ổ đạn tròn. Ta phải nhét từ phía trước với viên bi và thuốc nổ”.

      gật đầu. Đôi mắt nhìn vào những chiếc xương màu nâu đen và cái sọ não mắt.

      “Chúng ta tìm ra vài thông tin về súng giống như của ông ấy trong hồ sơ lưu trữ. Đó là khẩu 36 ly nhưng phần lớn các chiến sĩ Nội chiến học cách sử dụng những viên bi cỡ 39. Nó to hơn chút và nhét vào khít hơn. Khiến cho phát bắn chính xác hơn.”

      Sachs nhấc chiếc túi nhựa lên. “Cái này nằm trong hộp sọ”. Bên trong là đầu đạn hình tròn. “Đó là viên bi cỡ 39 được bắn ra từ khẩu súng nòng cỡ 36 ly.”

      “Nhưng điều đó chứng minh cái gì cả.” bé nhìn chằm chằm vào cái lỗ trán của chiếc sọ.

      ”, Rhyme cách nhàng. “Nó gợi ý. Nhưng nó gợi ý cách mạnh mẽ rằng Charles giết ông ta.”

      “Ông ta là ai?” Geneva hỏi.

      “Chúng ta có ý tưởng nào hết. Nếu ông ta có bất cứ giấy tờ tùy thân nào người bị đốt cháy hoặc bị phân hủy cùng với quần áo rồi. Chúng ta tìm thấy viên đạn, khẩu súng ông ấy chắc hẳn mang theo, vài đồng tiền vàng và chiếc nhẫn với từ... Đó là từ gì nhỉ Mel?”

      “Winskinskie.” giơ chiếc túi nhựa với chiếc nhẫn vàng bên trong. Bên chữ khắc là bản lỷ lịch của người da đỏ.

      Cooper nhanh chóng tìm ra nghĩa của từ đó là “người gác cửa” hay “người giữ cửa” trong ngôn ngữ người da đỏ ở tiểu bang Delaware. Đây có thể là tên của người đàn ông chết này, mặc dù cấu trúc xương sọ cho thấy ông ta phải người Mỹ chính gốc. Rhyme cảm thấy rằng nó giống với kiểu khẩu hiệu của hội kín, trường học hoặc tổ chức và Cooper gửi email để nhờ số nhà nhân chủng học và các chuyên gia về lịch sử để xem liệu họ có biết cái từ đó .

      “Charles làm điều đó”, hậu duệ của ông ta với giọng sụt sùi. “Ông ấy thể giết hại ai cả.”

      “Viên đạn được bắn vào trước trán ông ấy”, Rhyme . “ phải từ đằng sau. Và khẩu Derringer - khẩu súng mà Sachs tìm thấy trong giếng có thể thuộc về nạn nhân. Điều này gợi ý cho thấy phát đạn có thể là để tự vệ.”

      Dù cho vẫn còn đó là Charles tự nguyện tới quán rượu với khẩu súng, ông ấy chắc cũng tiên liệu trước cuộc ẩu đả.

      “Đáng lẽ ra cháu bao giờ nên bắt đầu những điều này ngay từ đầu”, Geneva lầm bầm. “ là ngu ngốc. Cháu thậm chí hề thích quá khứ. Nó là vô nghĩa. Cháu ghét nó.” bé quay lưng và chạy vào hành lang, rồi lên tầng.

      Sachs theo rồi trở lại vài phút sau đó. “ đọc sách. Nó muốn được ở mình. Tôi nghĩ rằng nó ổn thôi.” Dù sao, giọng của vẫn có vẻ nào là chắc chắn cả.

      Rhyme xem xét những thông tin về trường lâu đời nhất từng làm việc - trăm bốn mươi năm. Tất cả mục đích của cuộc tìm kiếm là để tìm ra điều gì đó có thể đưa họ tới bất cứ kẻ nào có thể thuê Nghi phạm 109. Nhưng kết quả là gần như giết chết Sachs và làm Geneva thất vọng với thông tin rằng ông tổ của giết người đàn ông khác.

      nhìn vào bản copy của lá bài Người treo ngược, nhìn chằm chằm cách điềm tĩnh, bình thản chiếc bảng bằng chứng, chế nhạo thất bại của Rhyme.

      Cooper : “Này, có gì đó đấy”. nhìn vào màn hình máy tính của mình.

      “Cái từ winskinskie ấy hả?”, Rhyme hỏi.

      . Nghe này. Câu trả lời cho cái chất huyền bí của chúng ta - cái mà Amelia tìm thấy ở nơi náu của hung thủ phố Elizabeth và gần nhà bà của Geneva. Cái chất lỏng ý.”

      “Cuối cùng cũng có. Nó là cái quỷ gì vậy? Có phải độc chất toxin ?” Rhyme hỏi.

      “Hung thủ của ta có đôi mắt khô và hay rát”, Cooper .

      “Gì cơ?”

      “Đó là Murine.”

      “Thuốc mắt á?”

      “Đúng vậy. Thành phần giống hệt.”

      “Được rồi. Thêm điều đó vào bảng”, Rhyme cầu Thom. “Có thể chỉ là tạm thời thôi - bởi phải làm việc với acid. Trong trường hợp này, có vẻ có nhiều tác dụng. Nhưng nó có thể là bệnh kinh niên. Như thế tốt.”

      Nhà tội phạm học thích những tên hung thủ mắc bệnh hoặc tật về thể chất. Rhyme có hẳn chương riêng trong quyển sách về việc lần tìm dấu vết người khác thông qua đơn thuốc hoặc những loại thuốc được bán cần đơn, những kim tiêm được sử dụng bị vứt bỏ, kính đeo mắt được chỉ định của bác sĩ, những dấu giày đặc trưng từ các nghi phạm có vấn đề về phẫu thuật chỉnh hình...

      Đó là lúc điện thoại của Sachs đổ chuông. nghe lúc. “Được rồi. Tôi ở đó mười lăm phút nữa.” Nữ cảnh sát tắt máy, nhìn Rhyme. “Chà, chuyện này thú vị đây.”

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 28

      Khi Amelia Sachs bước vào Khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện Columbia - Presbyterian, nhìn thấy những hai Pulaski.

      nằm giường, được băng kín bởi những chiếc bông băng, gạc và nhét chằng chịt những ống nhựa trong suốt nhìn nổi da gà. Đôi mắt vẫn còn lờ đờ, miệng há ra.

      Người còn lại ngồi bên cạnh giường, lúng túng chiếc ghế nhựa được thoải mái lắm. Cũng với mái tóc vàng, khuôn mặt trẻ măng, trong cùng bộ quân phục phẳng phiu màu xanh da trời của NYPD mà Ron Pulaski vẫn mặc khi Sachs tuyển ta vào đội ở trước bảo tàng Mỹ - Phi ngày hôm qua và với cần chú ý tới cái đống r

      Cần bao nhiêu đường?...

      chớp mắt nhìn vào hình ảnh như trong gương.

      “Tôi là Tony. trai của Ron. Chắc là cũng đoán ra rồi?”

      “Chào, Thanh tra”. Ron gượng dậy. Giọng của ổn lắm. Nó mềm yếu và thều thào.

      “Cậu cảm thấy thế nào rồi?”

      “Geneva thế nào rồi?”

      “Con bé ổn. Tôi chắc chắn là cậu nghe rồi - chúng tôi ngăn ở nhà bà của bé nhưng trốn thoát... Cậu có đau ? Hẳn là phải đau lắm.”


      hất đầu về phía chai nước truyền. “Món súp hạnh phúc... Chẳng cảm thấy gì hết.”

      “Cậu ấy ổn thôi.”

      “Tôi ổn thôi.” Ron lặp lại lời trai mình. Hít vài hơi sâu, nháy nháy mắt.

      tháng hoặc hơn”, Tony giải thích. “ vài liệu trình. Cậu ấy trở lại làm nhiệm vụ. vài vết rạn. có nhiều tổn thương bên trong. Sọ dầy. Như bố vẫn hay .”

      “Sọ.” Ron cười nhăn nhở.

      “Hai người cùng học trong học viện với nhau?” kéo cái ghế và ngồi xuống.

      “Đúng vậy.”

      “Các cậu ở khu nào?”

      “Khu số 6”, Tony trả lời.

      Khu số 6 nằm ở trung tâm phía tây Làng Greenwich. có nhiều vụ lộn xộn hay cướp xe hoặc ma túy. Hầu hết là đột nhập trộm cướp, bạo lực giữa các cặp đồng giới và những vụ do những nhà văn và nghệ sĩ bị rối loạn cảm xúc. Khu số 6 cũng là trụ sở của Đội phòng chống bom mìn.

      Tony run lên, và cả giận dữ nữa. “Gã đó vẫn đánh cậu ấy, ngay cả khi nó gục xuống rồi. cần thiết phải làm thế.”

      “Nhưng có thể”, Ron lắp bắp. “Nó làm mất thời gian... mất nhiều thời gian với tôi hơn. Nên ... chộp được cơ hội tốt nhất theo sau Geneva.”

      Sachs mỉm cười. “Cậu thuộc kiểu người lạc quan.” với cậu ta rằng cậu ấy bị đánh gần như đến chết chỉ đơn giản để Nghi phạm 109 có thể sử dụng v khẩu súng của cậu và thu hút chú ý của họ.

      “Tôi cho là thế. Cảm ơn Geneva... hộ tôi. Vì quyển sách.” ta thậm chí còn chẳng thể xoay nổi đầu mình nhưng đôi mắt lại trượt về hướng chiếc bàn cạnh giường, chỗ quyển sách Giết con chim nhại nằm. “Tony đọc nó cho tôi nghe. ấy thậm chí còn có thể đọc các chỗ chơi chữ nữa.”

      trai của cậu cười. “Đồ ngốc.”

      “Vậy cậu có thể gì với chúng tôi , Ron? Gã này khá thông minh và vẫn lang thang bên ngoài. Chúng ta cần cái gì đó để có thể sử dụng.”

      “Tôi biết, thưa b... Tôi biết, thưa Thám tử. Tôi chỉ tuần trong con hẻm. nấp khi tôi muốn... khi tôi về con phố. ngược lại phía sau, con hẻm... Tôi nghĩ là há... . ở quanh cái góc, của tà... biết đấy, tòa nhà. Tôi tới khúc cua. Tôi thấy đeo cái mặt nạ như kiểu mặt nạ trùm trượt tuyết. Và rồi là thế này đây. Cây dùi cui, quá nhanh. Thực thể nhìn thấy. làm tốt điều đó.” nhấp nháy mắt lần nữa, rồi nhắm mắt. “Bất cẩn. Nà... Là đứng quá gần bức tường. bao giờ như vậy nữa.”

      Cậu biết. Giờ biết rồi.

      tiếng rít.” Cậu ấy co rúm lại.

      “Em sao chứ?”, Ron hỏi.

      “Em sao.”

      tiếng rít?”, Sachs khuyến khích, nhích chiếc ghế của tới gần hơn.

      “Gì cơ?”

      “Cậu nghe thấy tiếng rít lên.”

      “Vâng, tôi nghe thấy tiếng ấy, thưa bà. phải ‘thưa bà’. Thám tử.”

      sao cà, Ray. Gọi tôi thế nào cũng được. Cậu có nhìn thấy bất cứ gì ? Bất cứ thứ gì sau đó?”

      “Vật này. Giống như cây gậy. , phải là Người dơi và Robin. Ha. Mà là chiếc gậy đánh bóng chày. Đập ngay vào mặt tôi. ồ, tôi điều này rồi. Và tôi ngã xuống. Ý tôi là, thưa thám tử. phải ‘Thưa bà’.”

      “Được mà Ron. Rồi sau đó cậu nhớ gì ?”

      “Tôi biết. Tôi chỉ nhớ mình nằm đất. Nghĩ... Tôi nghĩ rằng lấy vũ khí của mình. Tôi cố gắng để giữ khẩu súng của mình. Nà... Là trong quyển sách. được để vuột mất nó. ‘Luôn luôn kiểm soát vũ khí của mình’. Nhưng t làm được. lấy được nó. Tôi chết. Tôi biết là tôi chết hẳn rồi. ”

      khuyến khích cách nhàng: “Cậu có nhớ nhìn thấy gì nữa ?”.

      mớ lộn xộn.”

      cái gì cơ?”

      ta cười. “Ý tôi phải là mớ lộn xộn. hình tam giác. cái hộp các tông. Nằm đất. Tôi thể cử động. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy.”

      “Và cái thùng các tông này. Nó là của hung thủ à?”

      “Cái hình ta... giác? , ý tôi là, hình tam giác. , nó chỉ là rác mà thôi. Ý tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể thấy. Tôi cố gắng bò. Tôi nghĩ là mình làm được thế.”

      Sachs thở dài: “Cậu được tìm thấy nằm sấp đất, Ron”.

      “Tôi ...? Nằm úp xuống?”

      “Nghĩ lại xem. Cậu có nhìn thấy trời ?”

      liếc mắt.

      Trái tim đập nhanh hơn. Liệu cậu ta có nhìn thấy gì ?

      “Má...”

      “Gì cơ?”

      “Má... ở trong mắt tôi sau đó.”

      “Máu?”, trai cậu ta gợi ý.

      “Đúng rồi. Máu. thể nhìn thấy gì sau đó. hình tam giác, tòa nhà. đánh tôi.

      ở quanh tôi lúc. Rồi tôi nhớ thêm gì khác nữa.”

      ở gần? Gần thế nào?”

      “Tôi biết. quá gần. thể nhìn thấy. Có quá nhiều máu.”

      Sachs gật đầu. Chàng cảnh sát tội nghiệp có vẻ quá mệt mỏi. Hơi thở của cậu ta khó nhọc, đôi mắt lờ đờ hơn lúc mới đến. đứng dậy. “Tôi để cậu ấy nghỉ ngơi vậy.” hỏi: “Cậu nghe tới Terry Dobyns?”.

      . Có phải là cậu ta... Ai cơ?” Chàng cảnh sát nằm giường bệnh nhăn mặt. “Đó là ai?”

      “Nhà tâm lý học của sở.” nhìn Ron với nụ cười. “Việc này lôi cái cứng nhắc của cậu ra thời gian. Cậu nên chuyện với ấy về việc này. Đó là người đàn ông. ấy chịu trách nhiệm.”

      Ron : “ cần phải...”.

      “Cảnh sát tuần tra Ronald Pulaski?”, cách nghiêm nghị.

      Cậu ta nhướn mày, rụt lại.

      “Đây là mệnh lệnh.”

      “Vâng, thưa bà. Ý tôi là... Thưa bà.”

      Anthony : “Tôi chắc chắn là cậu ấy làm như vậy”.

      cảm ơn... Geneva hộ tôi chứ? Tôi thích cuốn sách đó.”

      “Tôi làm thế.” Sachs quăng chiếc túi lên vai và bắt đầu bước ra cửa. Vừa bước qua ngưỡng cửa dừng lại đột ngột, quay lại. “Ron?”

      “Gì vậy?”

      quay trở lại bên giường cậu ta, ngồi xuống lần nữa.

      “Cậu hung thủ ở quanh cậu vài phút.”

      “Đúng.”

      “Nếu như cậu thể thấy , với máu đầy trong mắt. Sao cậu có thể biết là ở đó?”

      Chàng cảnh sát trẻ cau mày. “À... Vâng. Có điều tôi quên .”

      “Hung thủ của chúng ta có thói quen, Rhyme.” Amelia Sachs quay lại phòng thí nghiệm.

      “Đó là gì vậy?”

      huýt sáo.”

      “Gọi taxi?”

      “Nhạc. Pulaski nghe thấy. Sau khi cậu ấy bị đánh cú đầu tiên và nằm sàn, hung thủ lấy vũ khí, rồi, em đoán là, mất vài phút để ghép viên đạn vào điếu thuốc. Trong khi làm điều đó, huýt sáo. Rất nhàng, Ron , nhưng cậu ấy chắc chắn rằng huýt sáo như vậy.”

      kẻ chuyên nghiệp nào huýt sáo khi làm việc.” Rhyme .

      nghĩ thế được. Nhưng em cũng nghe thấy thế nữa. Ở nơi nấp của phố Elizabeth. Em nghĩ rằng đó là tiếng đài hoặc gì đó - thổi khá tốt.”

      “Chàng lính trẻ sao rồi?”, Sellito hỏi. còn chà tay lên vết máu vô hình mặt nữa nhưng vẫn khá lo lắng.

      “Họ cậu ấy ổn thôi. tháng trị liệu hoặc hơn. Tôi bảo cậu ta gặp Terry Dobyns. Ron muốn thế lắm nhưng trai cậu ta ở đó. ta chăm sóc cậu ấy. Đó cũng là cảnh sát. cặp song sinh giống nhau như đúc.”

      Rhyme ngạc nhiên lắm. Phục vụ trong các lực lượng thường có nhiều thành viên cùng gia đình. “Cớm” có thể là tên của loại gen trong con người.

      Nhưng Sellito lại lắc đầu trước thông tin về người em. ta có vẻ cảm thấy đau khổ hơn, như thể đó là lỗi của ta về việc cả gia đình bị ảnh hưởng bởi vụ tấn công.

      Dù sao, vẫn có thời gian để giải quyết vấn đề của ta. Rhyme : “Được rồi. Chúng ta có vài thông tin mới. Hãy đưa nó lên để sử dụng”.

      “Như thế nào?”, Cooper hỏi.

      “Vụ giết hại Charlie Tucker vẫn là manh mối gần nhất mà chúng ta giữ, có vẻ liên quan tới Ngài 109. Nên, ràng là”, nhà tội phạm học thêm vào: “Chúng ta gọi cho Texas”.

      “Còn nhớ Alamo chứ”, Sachs gợi ý và nhấn vào nút loa ngoài điện thoại.

      Bảng bằng chứng:

      trường quán Potter’s Field (1868-)

      + quán rượu ở Gallows Heights - con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

      + Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

      + Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

      + Bị đốt cháy sau vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để che giấu bí mật của ông ấy?

      + Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

      - Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu)

      - Những đồng tiền vàng.> - Người đàn ông bị giết có khẩu Derringer.

      - có danh tính.

      - Có chiếc nhẫn khắc “Winskmskie”.

      - Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác cổng” theo ngôn ngữ Delaware của người da đỏ.

      - tìm các nghĩa khác.

      trường đông Harlem (Căn hộ của bà Geneva)

      + Sử dụng điếu thuốc và viên đạn cỡ 9 mm như thiết bị nổ nhằm đánh lạc hướng cảnh sát. Hiệu Merit, lần dấu vết được.

      + Các dấu vết để lại: . Chỉ có dấu găng tay.

      + Thiết bị khí độc:

      - Lọ thủy tinh, viên bọc lá kim loại, chân nến. lần được dấu vết.

      - Cyanide và acid sulfuric. có nhãn hiệu. lần được.

      * Chất lỏng trong suốt giống những gì tìm thấy căn hộ ở phố Elizabeth.

      - Được xác định là Murine.

      - Các mảng màu cam . Như ở công trường xây dựng hoặc các công nhân thi công đường cao tốc?


      Ngôi nhà an toàn phố Elizabeth của hung thủ:

      + Sử dụng bẫy điện.

      + Dấu tay: . Chỉ có dấu găng tay.

      + Camera và màn hình an ninh: K

      + Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; có manh mối.

      + Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố.

      + Dấu vết:

      - Falafel và sữa chua.

      - Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.

      - Chất lỏng trong suốt, phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.

      * Xác định là Murine.

      * Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ

      + Carbon nguyên chất tìm thấy tấm bản đồ.

      + Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil thực tế.


      trường Bảo tàng Mỹ - Phi

      + Gói đồ hiếp dâm:

      - Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là tìm kiếm tâm linh.

      - Chiếc túi có hình mặt cười.

      - Quá chung chung để lần tìm.

      - Dao rọc giấy.

      - Bao cao su Trojan.

      - Băng dính.

      - Dầu thơm mùi hoa nhài.

      - Vật giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.

      - Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc hàng dược phẩm.

      - Nhiều khả năng được mua từ cửa hàng phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.

      + Dấu tay:

      - Nghi phạm đeo găng tay cao su.

      - Dấu tay gói đồ thuộc về người có bàn tay , có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.

      + Dấu vết:

      - Sợi thừng vài bông, vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?

      - Gửi tới CODIS.

      * tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.

      - Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.

      + Vũ khí:

      - Dùi cui hoặc chiếc côn.

      - Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster.

      - Đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.

      + Đ

      - Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.

      - Động cơ có thể là để lấy tấm vi phim của bài báo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc quan tâm tới bài báo này vì lý do chưa biết. Bài báo viết về người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.)

      - Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có ai đó muốn được xem bài báo.

      - cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.

      * có manh mối nào.

      - cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.

      - có manh mối nào.

      - Tìm kiếm bản copy của bài báo.

      - vài nguồn báo cáo về người đàn ông cầu cùng bài báo. manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí ấn bàn. (Xem biểu đồ bên cạnh.)

      - Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.

      - Động cơ có thể để giữ kín thực tế là ông tổ của Geneva phát ra Tu chính án số 14 trình lên Quốc hội Mỹ có hiệu lực, đe dọa tới hầu hết quyền công dân Mỹ và các điều luật về tự do công dân.

      + Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.


      - Nạn nhân là nhân viên coi ngục nghỉ hưu.

      - Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.

      * Chưa được nhận diện

      - Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có trường được làm giả (làm như đó là vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.


      Hồ sơ về Nghi phạm 109

      + Nam da trắng.

      + 1m85 gần 90 kg.

      + Giọng trung.

      + Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.

      + Mang chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.

      + Mùi hoa nhài.

      + Quần tối màu.

      + Đeo mũ trùm, màu tối.

      + nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.

      + Nhiều khả năng là kẻ giết thuê.

      + Nhiều khả năng là cựu phạm nhân ở Amarillo, TX.

      + Có giọng miền Nam.

      + Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch .

      đặc biệt, nổi bật.

      + Được thấy mặc chiếc áo mưa tối màu.

      + phải người hay hút thuốc.

      + công nhân xây dựng?

      + Sử dụng Murine.

      + Hay huýt sáo.


      Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109

      + Chưa có thông tin gì lúc này.


      Hồ sơ về kẻ đồng phạm Nghi phạm 109

      + Nam, da đen.

      + Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.

      + Cao khoảng mét tám.

      + Thân thể khỏe mạnh cường tráng.

      + Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.

      + Từng là phạm nhân.

      + Chân khập khiễng.

      + Được báo cáo có mang súng.

      + Râu được cạo sạch .

      + Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen.

      + đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh.

      - Băng ghi hình chưa ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích.

      + Giày lao cũ kỹ.


      Hồ sơ về Charles Singleton

      + Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, con trai. Được ông chủ cho vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.

      + Charles bị cho là thực vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

      + Có bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

      + Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

      + Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

      + Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.

      + Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:

      + Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

      + Thư của Charles:

      - Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.

      - Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

      - Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân . Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

      - Bức thư thứ tư, tới vợ: tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.


      “A lô?”

      “Xin chào, J.T. Đây là Lincoln Rhyme từ New York.” chuyện với ai đó bằng tên viết tắt và sống ở bang Ngôi sao đơn - chưa kể đến giọng khề khà của ta - khiến ta thiên về việc bỏ những từ như “này”, và “nghe này” trong câu của mình.

      “À, vâng thưa ngài, mọi việc thế nào rồi? Tôi đọc về ngài từ sau khi chúng ta chuyện lần trước. hề biết rằng ngài là người nổi tiếng.”

      “Ồ, chỉ là cựu đầy tớ của nhân dân thôi mà”, Rhyme với khiêm nhường mà nghe giống như cái lon thiếc xỉn. “ có gì hơn kém cả. Có gì khả quan hơn với bức ảnh chúng tôi gửi cho ?”

      “Tôi rất tiếc, thám tử Rhyme. là, nhìn giống với nửa số gã da trắng rời khỏi đây. Hơn nữa, chúng tôi cũng như hầu hết các nhân viên quản giáo khác - thay đổi nơi làm việc xoành xoạch. nhân viên nào vẫn còn ở đây từ lúc Charlie Tucker bị giết.”

      “Chúng tôi có thêm ít thông tin về . Nó có

      thể giúp loại bớt danh sách. đợi chút chứ?”

      “Vâng, cứ tự nhiên.”

      có thể có vấn đề về mắt. sử dụng Murine thường xuyên. Nó có thể là mới đây nhưng có thể làm như vậy khi còn là tù nhân ở đó. Và chúng tôi cho rằng có thể có thói quen huýt sáo.”

      “Huýt sáo? Như kiểu thấy người phụ nữ hay những gì đại loại như vậy ư?”

      , huýt giai điệu. bài hát.”

      “À. Được rồi. Đợi chút xem.” Năm phút dài như chưa từng có cho đến khi ta quay lại. “Rất tiếc. có ai nhớ gì về kẻ nào huýt sáo, hay có mắt kém, đặc biệt lắm. Nhưng chúng tôi tiếp tục tìm kiếm.”

      Rhyme cảm ơn và ngắt máy rồi nhìn vào tấm bảng bằng chứng với bất lực. Đầu những năm 1900, trong những nhà tội phạm học vĩ đ nhất từng sống, Edmond Locard của Pháp, tìm ra phương pháp - nguyên tắc mà ông gọi là nguyên lý trao đổi, rằng ở mỗi trường có vài trao đổi bằng chứng, tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn, giữa tên tội phạm và trường hoặc nạn nhân. Tìm ra bằng chứng đó là mục tiêu của thám tử điều tra pháp y. Tuy nhiên, nguyên lý của Locard thể tiếp tục bảo đảm rằng việc hình thành đơn giản của liên kết đó có thể đưa ta tới trước cửa nhà hung thủ.

      thở dài. Chúng ta biết đây cuộc chiến dài mà. Họ có gì? bức vẽ mơ hồ từ máy tính, đôi mắt có lẽ có vấn đề, điều có thể là thói quen, mối thù với người bảo vệ nhà tù.

      Còn gì nữa?

      Rhyme cau mày. nhìn chằm chằm vào lá bài thứ mười hai trong bộ bài tarot.

      Người treo ngược liên quan, ám chỉ đến ai đó bị trừng phạt...

      Có thể , nhưng nó vẫn miêu tả người đàn ông lủng lẳng chiếc giá treo cổ.

      Có điều gì đó nảy lên trong đầu . nhìn lên bảng bằng chứng lần nữa. Để ý thấy: cái dùi cui, dòng điện gắn với cửa căn hộ phố Elizabeth, thiết bị khí độc, những mảnh đạn trong tim, vụ án hành hình Charlie Tucker, những sợi vải của dây thừng với các vệt máu...

      “Ôi! Chết tiệt!”, phát ra.

      “Lincoln? Có vấn đề gì vậy?”, Cooper nhìn sếp của

      mình, lo lắng.

      Rhyme hét lên: “Lệnh, gọi lại!”.

      Chiếc máy tính phản ứng màn hình: Tôi hiểu ngài vừa gì. Ngài muốn tôi làm gì?

      “Quay lại số.”

      Tôi hiểu ngài gì.

      “Chết tiệt! Mel, Sachs... Ai đó nhấn nút gọi lại .” Cooper làm theo và vài phút sau nhà tội phạm học chuyện với người cai ngục ở Amarillo lần nữa.

      “J.T., là tôi Lincoln.”

      “Vâng, thưa ngài?”

      “Quên những tù nhân . Tôi muốn biết về những người gác hoặc bảo vệ.”

      “Bảo vệ?”

      ai đó từng là nhân viên ở đó. Với các vấn đề về mắt. ýt sáo. Và có thể từng làm việc ở khu Tử hình trước hoặc trong thời gian Tuker bị giết.”

      “Tất cả chúng ta đều nghĩ tới nhân của mình. Và, lần nữa, phần lớn nhân của chúng tôi ở đây từ năm, sáu năm trước. Nhưng đợi chút. Để tôi hỏi xem sao.”

      Hình ảnh của Người treo ngược mang ý tưởng ấy đến với Rhyme. để ý đến cách thức và vũ khí mà Nghi phạm 109 sử dụng. Đó là các biện pháp hành hình: khí xyanua, điện, treo cổ, bắn chùm đạn vào tim, giống như đội bắn. Và vũ khí của để hạ gục những nạn nhân là thanh dùi cui, giống như cái mà người cai tù mang theo.

      lát sau nghe thấy: “Đây, thưa Thám tử

      Rhyme!”.

      tiếp , J.T.!”

      “Khá chắc chắn, người nghe quen quen. Tôi gọi cho nhân viên bảo vệ nghỉ hưu, làm việc ở bộ phận hành hình. Tên là Pepper. Ông ấy đồng ý đến văn phòng và chuyện với ngài, sống gần đây thôi. có mặt sau vài phút. Chúng tôi gọi lại cho ngài ngay.”

      cái nhìn khác vào lá bài tarot.

      thay đổi về phương hướng...

      Mười phút dài thể chịu đựng được sau khi điện thoại reo.

      Họ nhanh chóng giới thiệu. Nhân viên sở Pháp lý Texas nghỉ hưu, Halbert Pepper với giọng khề khà mà khiến cho tiếng của J.T. Beauchamp nghe như là tiếng - vậy. "Tôi nghĩ là có thể giúp đỡ chút gì đó.”

      tôi biết”, Rhyme .

      “Cho đến cách đây khoảng năm năm, chúng tôi có nhân viên kiểm soát hành hình khớp với người mà các ngài miêu tả cho J.T. Có vấn đề với mắt và ta say mê thổi sáo. Tôi chuẩn bị nghỉ hưu nhưng vẫn làm cùng ta thời gian.”

      “Đó là ai?”

      ta tên là Thompson Boyd.”

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 29

      Qua loa điện thoại, Pepper gi thích:

      “Boyd lớn lên như vậy. Cha là thợ khoan dầu...”.

      “Dầu?”

      “Làm việc những khu mỏ. Vâng, thưa ngài. Mẹ ở nhà. chị em nào khác. tuổi thơ bình thường, có vẻ thế. Khá là êm đềm. luôn kể về gia đình mình, rất thương họ. Làm rất nhiều cho mẹ của , bà ta bị mất cánh tay hoặc chân hay gì đó ở trong cơn bão. luôn quan sát và bảo vệ bà ấy. Có lần tôi được nghe kể là đứa nhóc phố trêu chọc bà ta, và Boyd theo nó, dọa thả con rắn đuôi chuông vào giường của thằng nhóc đêm nào đó nếu nó xin lỗi.”

      “Dù sao sau khi hết trung học và hoặc hai năm học cao đẳng, vào làm việc ở công ty của cha thời gian, cho đến khi họ gặp phải đợt giảm biên chế hàng loạt. bị sa thải. Cha cũng vậy. Đó là khoảng thời gian khó khăn và thể kiếm được công việc ở quanh đây, nên rời khỏi bang. biết là ở đâu. Kiếm được công việc ở trong nhà tù. Bắt đầu là người gác trại. Rồi có vài rắc rối - nhân viên thi hành án của họ bị ốm, tôi nghĩ thế - và có ai làm công việc đó nên Boyd nhận nó. Cái việc đốt cháy được thực rất tốt..

      “Cái gì cơ?”

      “Xin lỗi, việc hành hình bằng điện được thực tốt đến mức họ nhận vào công việc đó. ở lại thời gian, nhưng lại tiếp tục từ bang này tới bang khác


      , bởi luân chuyển theo cầu. Trở thành chuyên gia trong việc thi hành án. hiểu về những chiếc ghế...”

      “Gh


      điện?”

      “Đúng vậy, giống như cái OP Sparky của chúng tôi ở đây. thứ khá nổi tiếng. cũng biết sử dụng khí nữa, là chuyên gia về tháo lắp súng. Để tôi cho biết cũng biết cách thắt nút dây treo cổ và có nhiều người nước Mỹ được cấp phép cho kiểu công việc như vậy. Công việc của nhân viên thi hành án được bỏ trống và nhảy vào vị trí đó. Chúng tôi chuyển sang tiêm thuốc độc, giống như hầu hết các nơi khác, và trở thành phù thủy với phương pháp này. Thậm chí, nghiên cứu về chúng và có thể trả lời những người phản đối. Có vài người rằng sử dụng các chất hóa học rất đau đớn. Tự bản thân tôi nghĩ rằng những người bảo vệ thiên nhiên và những người theo đảng Dân chủ, hề quan tâm tới . Điều đó là vớ vẩn. Ý tôi là, chúng tôi có những...”

      “Về Boyd?”, Rhyme hỏi cách thiếu kiên nhẫn.

      “Vâng, thưa ngài, xin lỗi. Nên quay trở lại đây và mọi việc ổn trong thời gian. ai quan tâm tới nhiều lắm. thuộc dạng kiểu như người vô hình. ‘Joe Trung bình’ là biệt danh của . Nhưng sau đó có chuyện xảy ra. Có điều gì đó thay đổi. Sau thời gian, bắt đầu có biểu kỳ lạ.”

      “Như thế nào?”

      “Càng thực nhiều cuộc hành hình, càng điên cuồng. Kiểu như càng ngày càng trống rỗng. Như vậy có nghĩa gì ? Giống như kiểu bình thường về mặt tâm thần. Cho ví dụ nhé: Tôi với về việc và người thân rất gắn kết với nhau. Dù chuyện gì xảy ra họ cũng bị giết chết trong vụ tai nạn ô tô, cả người dì của nữa, và Boyd, hề chớp mắt. thậm chí còn dự lễ tang. có thể nghĩ rằng bị sốc, nhưng phải như vậy. chỉ đơn giản tỏ vẻ quan tâm. vẫn tới phiên trực của mình và, khi mọi người nghe thấy, hỏi làm gì ở đó. Phải hai ngày mới tới phiên hành hình tiếp theo. có thể nghỉ. Nhưng muốn thế. tới mộ của họ sau đó. thể biết được từng đến hay chưa.

      Thấy , giống như là ngày càng tới gần với những phạm nhân - quá gần, rất nhiều người nghĩ như vậy. Chúng ta làm như thế. bình thường chút nào. chơi với các nhân viên khác nữa và dành thời gian với những phạm nhân. gọi họ là “người của ta”. thậm chí từng lần ngồi vào chiếc ghế điện cũ của chúng tôi, cái loại ở bảo tàng ấy. Chỉ để xem nó như thế nào. Và ngủ. Tưởng tượng điều đó .

      Có ai đó hỏi Boyd về điều này, hỏi cảm thấy như thế nào khi ngồi vào trong chiếc ghế điện. rằng đó giống như là có cảm xúc. Nó chỉ giống như là kiểu ‘vô cảm’. thế là quá nhiều về kết thúc. cảm thấy có cảm giác.”

      “Ông là cha mẹ bị giết? có chuyển về sống trong ngôi nhà của họ ?”

      “Tôi nghĩ là có.”

      “Liệu nó vẫn ở đấy chứ?”

      Người đàn ông Texas cũng để máy ở chế độ loa ngoài và J.T. Beauchamp vọng ra: “Tôi tìm hiểu điều đó, thưa ngài”. hỏi ai đó. “ biết trong vài phút nữa, ngài Rhyme.”

      “Và liệu có thể tìm ra những người họ hàng của trong khu vực ?”

      “Vâng, thưa ngài.”

      Sachs hỏi: “ông nhớ rằng huýt sáo rất nhiều, đúng Pepper?”.

      “Vâng, thưa bà. Và thực giỏi. Đôi khi hát

      cho những phạm nhân hay hai bài để ‘tiễn họ ’.”

      “Về đôi mắt của sao?”

      “Cũng vậy”, Pepper . “Thompson có đôi mắt được khỏe mạnh lắm. Chuyện là thực hành hình bằng điện - phải ở đây - và có điều gì đó trở nên tồi tệ. Đôi khi xảy ra, khi ta sử dụng chiếc ghế. Ngọn lửa bắt đầu bốc lên..

      “Người bị hành hình?”, Sachs hỏi, co rúm lại.

      “Đúng vậy, thưa bà. Bị bốc cháy. ta có thể chết rồi, hoặc bất tinh. ai biết. ta vẫn cử động như họ thường thế. Nên Thompson bước vào với khẩu súng hơi, sẵn sàng bắn vào người tù tội nghiệp, giải thoát cho ta khỏi nỗi đau đớn. Tôi phải với rằng điều đó giờ đây còn là phần của nghi thức. Đó là hành động giết người nếu giết tên tử tù trước khi chết dưới hình thức hành hình được đưa ra. Nhưng Boyd vẫn làm thế bất kể có chuyện gì nữa. thể để trong những ‘người của ’ chết như thế. Nhưng ngọn lửa bùng lên. Các đồ cách ly dây điện hoặc nhựa hoặc gì đó bắt lửa và khói khiến Boyd choáng váng. nhìn thấy gì trong hay hai ngày.”

      “Còn tên tử tù?”

      “Thompson cần phải bắn ta. Điện làm điều đó.”

      “Và rời công việc năm năm trước?”, Rhyme hỏi.

      “Về điều đó”, Pepper với giọng rề rà. “Bỏ việc. Tôi nghĩ là tới nơi nào đó, nhà tù, ở Midwest. bao giờ nghe thấy bất cứ thông tin gì về sau đó nữa.”

      Midwest - có thể là Ohio. Nơi mà vụ giết người khác có vẻ khớp với hồ sơ xảy ra. “Gọi ai đó ở nhà tù Ohio.” Rhyme thầm với Cooper, gật đầu và chộp lấy chiếc điện thoại khác.

      “Thế còn Charlie Tucker, người gác bị giết? Boyd rời trong khoảng thời gian của vụ án phải ?”

      “Vâng, thưa ngài, đúng vậy.”

      “Có mối thâm thù nào giữa họ ?”

      Pepper : “Charlie làm việc dưới quyền Thompson năm trước khi nghỉ hưu. Charlie được chúng tôi gọi là kẻ sùng đạo. Ông ta đôi khi có thể đọc đọc lại kinh thánh cho những phạm nhân, với họ rằng họ xuống địa ngục... Thompson khoái lắm”.

      “Vậy có thể Boyd giết ông ta để trả đũa việc ông ấy

      khiến cuộc sống của những tù nhân trở nên đau khổ hơn.”

      Người của ta...

      “Có thể là như vậy.”

      “Thế còn về bức tranh chúng tôi gửi sao? Đó có phải Boyd ?”

      “J.T. mới vừa đưa nó cho tôi xem”, Pepper . “Và, đúng rồi, đó có thể là . Mặc dù to hơn, béo hơn, ý tôi là, lúc đó. để đầu trọc và râu dê - rất nhiều người như chúng tôi làm thế, cố để nhìn mình đáng sợ như những tên tù nhân.”

      “Hơn nữa”, người bảo vệ : “Chúng ta tìm kiếm những tên tội phạm, phải người bảo vệ”.

      Đó chính là sai lầm của tôi, Rhyme nghĩ cách bực dọc.

      “Chà, khốn kiếp.” Giọng của người bảo vệ lại vang

      lên.

      “Gì vậy, J.T.?”

      “Người của tôi lấy hồ sơ nhân của Boyd. Và..”

      “Nó biến mất.”

      “Đúng vậy.”

      “Vậy là ăn trộm hồ sơ của mình để che mọi vấn đề liên quan tói vụ giết Charlie Tucker”, Sellito .

      “Tôi cũng đoán vậy”, J.T. Beauchamp .

      Rhyme lắc đầu: “ lo lắng về dấu vân tay bởi trong hồ sơ là nhân viên nhà nước, phải tên tội phạm”.

      “Khoan ”, người bảo vệ với giọng rề rà đặc trưng của mình. người phụ nữ chuyện với ta. Rồi ta quay lại với chiếc điện thoại. “Tôi vừa nghe thông tin từ người bạn ở sở dữ liệu của hạt. Boyd bán ngôi nhà của gia đình năm năm trước. mua bất cứ gì trong bang. Ít nhất là bằng tên . Hẳn là lấy tiền và biến mất... Có ai biết về các mối quan hệ khác của .”

      “Tên đầy đủ của là gì?”, Rhyme hỏi.

      Pepper : “Tôi nhớ là chữ cái đầu tên đệm là G, nhưng tôi biết là viết tắt của từ gì”. Rồi thêm vào: “ điều tôi về , đó là Thompson Boyd biết những gì làm. biết về EP

      “EP?”

      “Là Execution Protocol. Đó là quyển sách mà chúng tôi có, ghi chi tiết mọi thông tin về việc hành hình ai đó. bắt tất cả những ai thực công

      việc ghi nhớ nó, và khiến họ phải vừa vừa học thuộc rằng, ‘Tôi phải làm theo quyển sách, tôi phải làm theo quyển sách’. Thompson luôn ta bao giờ có thể đường tắt để chết.”

      Mel Cooper dập máy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :