CHƯƠNG 15 vượt qua cách xuất sắc. Tuyệt. Hai mươi tư câu hỏi trong bài chọn đáp án đúng - tất cả đều đúng, Geneva Settle biết thế. Và viết bảy trang giấy cho câu hỏi ở bài luận mà chỉ cầu bốn tờ. Quá tuyệt... với thanh tra Bell về việc mình làm tốt như thế nào và ta gật đầu - điều đó với bé rằng ta lắng nghe, chỉ kiểm tra các giảng đường - nhưng ít nhất vẫn giữ nụ cười mặt và bé vờ như là vẫn nghe mình . Và là kỳ cục vì cảm thấy tốt hơn khi huyên thuyên như thế này. Chỉ với ta về những câu hỏi mẹo mà giáo viên đưa ra trong bài luận, cái cách mà Lynette Tompkins thầm: “Chúa ơi, cứu con với”, khi bạn này nhận ra rằng mình học sai chủ đề. ai ngoại trừ Keesh hứng thú với việc nghe kể kể lại như thế. Giờ, có bài kiểm tra toán. Geneva thích tính toán lắm nhưng biết tài liệu cần thiết nên học và thuộc nằm lòng nó rồi. “Này cậu!” Lakeesha chạy xuống bậc thang bên cạnh. “Cậu vẫn ở đây à?” Đôi mắt mở to. “Cậu gần như bị giết sáng nay mà chả lo lắng sợ hãi gì cả. là điên rồ.” “Chà. Nghe như là cậu ép tớ vậy.” Keesh vẫn chơi cái trò ‘snapping’, mà Geneva biết như vậy... “Cậu đạt điểm A rồi. Sao cậu vẫn đến làm bài kiểm tra làm gì?” “Nếu tớ đếnhi, tớ đạt được điểm A.” to lớn liếc nhìn thanh tra Bell với cái cau mày. “Ông xem, đáng ra ông phải ở ngoài truy lùng cái kẻ khốn nạn tấn công bạn thân thiết của tôi ở đây.” “Chúng tôi có hàng chục người làm điều đó.” “Bao nhiêu? Và họ ở đâu?” “Keesh!” Geneva thầm. Nhưng thanh tra Bell cười nhạt. “Hàng chục người.” Nhanh lên, nhanh lên. Geneva hỏi bạn: “Vậy, bài kiểm tra Văn minh thế giới của cậu thế nào?”. “Thế giới văn minh. Nó chán chết.” “Nhưng cậu bỏ nó?” “ với cậu là tớ có làm. Khá tốt, nhóc. Tớ làm hết sức mình rồi. Khá chắc chắn là được điểm C. Ít nhất là thế. Có thể thậm chí điểm B.” “Hài .” Họ đến ngã tư hành lang và Lakeesha rẽ sang trái. “Gặp sau nhé. Gọi tớ vào buổi chiều.” “Nhất trí.” Geneva tự cười với mình khi nhìn bạn bốc hơi qua những hành lang. Keesh trông giống với bất cứ xinh xắn, quyến rũ, với bộ quần áo bó sát sặc sỡ, những móng tay nhìn đáng sợ, tóc búi căng và những đồ trang sức rẻ tiền. Nhảy nhót sexy với các bài nhạc của L.L. Cool J, Twista và Beyoncé. Sẵn sàng nhảy vào những cuộc chiến - thậm chí nhảy ra trước mặt mấy giang hồ (đôi khi vẫn mang theo con dao rọc giấy hoặc dao bấm). Keesh đôi khi có dịp được làm DJ và tự gọi mình là Def Mistress K khi đứng bàn DJ tại những cuộc nhảy ở trường - và ở các hộp đêm nữa, những nơi mà bảo vệ thường cho ấy qua dù chưa đủ hai mươi mốt tuổi. Nhưng thực ra, người quậy phá như ấy vẫn giả vờ như vậy. ấy có thể mang mình những chiếc móng tay giả kinh dị hay những lọn tóc ba đô la rẻ tiền. Đối với Geneva, điều đó rất ràng: nếu nghe kỹ, ta có thể rằng tiếng chuẩn là ngôn ngữ mẹ đẻ của ấy. Nghe cách của ấy có vẻ giống với những nhân vật hoạt hình da đen chợ búa nhưng thực ra họ đều đúng. ấy có thể : “Tớ ở nhà Sammy đêm hôm qua[26]”. Nhưng người ngôn ngữ Ebonics[27] thực - cụm từ đúng về mặt chính trị là tiếng của người Mỹ gốc Phi (AAVE) - như vậy; họ : “Tôi ở nhà Sammy[28]”. Động từ “be” chỉ được dùng cho hành động xảy ra hoặc xảy ra trong tương lai, giống như: “Tớ làm việc ở Blockbuster các cuối tuần[29]” Hoặc là “Tớ Houston với tháng sau[30]” [26] Nguyên văn: I be at Sammy’s last night. [27] Ngôn ngữ của cộng đồng người có nguồn gốc từ các nô lệ da đen châu Phi. [28] Nguyên văn: I was at Sammy’s last night. [29] Nguyên văn: I be working at Blockbuster every weekend. [30] Nguyên văn: I be going to Houston with my aunt next month. Hoặc Keesh : “Tớ là người đầu tiên đăng ký[31]” Nhưng đó phải là AAVE, bởi AAVE bao giờ bỏ động từ “to be” với ngôi thứ nhất, chỉ ở ngôi thứ hai và thứ ba: “ ta là người đầu tiên đăng ký[32]” là đúng. Nhưng với những người bình thường, nghe như ấy lớn lên ở khu ổ chuột vậy. [31] Nguyên vãn: I the first one to sign up. [32] Nguyên văn: He the first one to sign up. Những điều khác nữa: rất nhiều các khoe khoang về việc thó đồ từ các cửa hiệu. Nhưng Keesh bao giờ lấy gì nhiều hơn cái lọ nước lau móng tay hoặc các lọn tóc giả. ấy thậm chí còn mua đồ trang sức bán rong phố từ bất cứ ai thó nó từ khách du lịch, và to lớn cũng nhanh chóng rút điện thoại ra và gọi cho 911 về những đứa nhóc đáng ngờ lởn vởn quanh hành lang của các tòa nhà vào “mùa săn” - thời gian trong tháng khi mà các cơ quan phúc lợi, và tiền trợ cấp xã hội bắt đầu ngập đầy các hòm thư. Keesh kiếm tiền chi trả bằng cách của mình. ấy làm hai việc lúc - làm tóc và làm nhân viên thu ngân trong nhà hàng bốn ngày tuần (nó nằm ở Manhattan nhưng cách Harlem về phía nam hàng dặm, để bảo đảm rằng gặp phải người quen, mà có thể làm lộ ra vỏ bọc là DJ phố 124). ấy tiêu xài cách cẩn thận và dành dụm các khoản thu của mình để giúp đỡ gia đình. Tuy nhiên, vẫn còn mặt của Keesh khiến ẩy khác biệt với rất nhiều khác ở Harlem. ấy và Geneva đều thuộc dạng đôi khi được gọi là “Hội chị em của chẳng nhóm nào”. Ý là, tình dục. (Chà, trêu đùa, bỡn cợt thôi thành vấn đề gì cả, nhưng, như người bạn của Geneva : “Nghĩa là chẳng có gã trai nào nhét cái ấy vào trong mình cả”, và đúng là thế .) Cả hai bé đều giữ hiệp ước về trinh tiết khi còn học ở trường trung học. Điều này khiến họ trở thành số ít. Phần lớn các nữ sinh ở Langston Hughes ngủ với bạn trai vài năm rồi. Các nữ sinh tuổi thành niên ở Harlem rơi vào hai nhóm và khác biệt được định bởi hình ảnh: mang thai. Có những bé vác bụng phố và có những . Và chẳng có gì quan trọng việc bạn đọc Ntozake Shange hay Sylvia Path hoặc là biết chữ, cần biết bạn mặc áo ba lỗ màu cam hay những búi tóc mua từ cửa hàng hay áo blouse trắng và những chiếc váy xếp li... nếu bạn kết thúc với kết quả thuộc nhóm có bầu, cuộc đời của bạn chuyển sang hướng hoàn toàn khác với những ở nhóm kia. đứa trẻ trong bụng có nghĩa là kết thúc việc học hành và nghiệp nhưng nó lại thường là như vậy. Ngay cả khi nếu phải thế, nữ sinh mang bầu có thể phải chịu đựng khoảng thời gian khó khăn đau khổ. Mục tiêu kiên định của Geneva là biến khỏi Harlem ngay khi có cơ hội đầu tiên, đến với Boston hay New Haven để lấy hoặc hai bằng đại học rồi tiến tới , Pháp hay Ý. Ngay cả nguy cơ nhàng nhất như mang bầu với khả năng làm hỏng kế hoạch cũng là thể chấp nhận được. Lakeesha chú trọng đến việc học cao hơn nhưng ấy cũng có những tham vọng của mình. Keesha xem vài trường cao đẳng thời gian học bốn năm và như nữ doanh nhân da đen thông minh giàu có, rất thành công ở Harlem. trở thành Frederick Douglass hay là Malcolm X của khu thương mại vùng ngoại ô. Chính những suy nghĩ chung này khiến những trong nhóm khác ưa hai bé. Và giống với hầu hết những mối quan hệ sâu sắc, liên kết giữa họ thường trái ngược với định nghĩa về tình bạn thân. Keesh cho thấy điều này ràng nhất lần khi giơ cánh tay đầy vòng của mình lên vẫy vẫy, với những ngón tay có móng giả sơn chấm bi, và bằng thứ tiếng đúng với quy tắc cần thỏa thuận ở ngôi thứ ba số ít của AAVE: “Gì nữa, nhóc. Nó có tác dụng, nhỉ[33]?” [font color="#0070C0">33] Nguyên văn: “Whatever, girlfriend. It work, don’t it?”. Và, tất nhiên, nó vẫn đúng. Geneva và thanh tra Bell lúc này đến lớp học toán. chọn vị trí bên ngoài cửa. “Chú ở đây. Sau bài kiểm tra, đợi chú bên trong. Chú cho ô tô đến khu vực trước cửa.” bé gật đầu rồi quay vào trong lợp rồi lại lưỡng lự, nhìn về sau. “Cháu muốn điều, thưa chú.” “Gì vậy?” “Cháu biết là đôi khi mình hợp tác. Bướng bỉnh, cứng đầu, như mọi người vẫn . Chà, phần lớn họ đều bảo cháu là cái nhọt ở mông. Nhưng, cảm ơn vì những gì chú làm cho cháu.” “Chỉ là công việc của chú thôi. Hơn nữa, nửa số nhân chứng và những người chú bảo vệ bằng cả cái mặt đường bê tông mà họ bước đó. Chú thấy vui khi được để mắt tới ai đó tốt bụng. Nào, giờ sẵn sàng hoàn thành tiếp hai mươi tư câu chọn đáp án đúng nào.” nháy mắt. “Chú lắng nghe cháu? Cháu cứ nghĩ là chú để ý những gì cháu .” “Chú có nghe chứ. Và quan sát xung quanh cho cháu. Dù chú thừa nhận là, làm hai việc cùng lúc hơi quá khả năng của mình. thể mong gì hơn thế nữa. Được rồi, giờ... Chú ở đây đến khi cháu ra.” “Và cháu trả lại chú tiền bữa trưa.” “Chú với cháu là nhà nước lo việc này mà.” “Chỉ là, chú trả tiền cho bữa trưa bằng tiền túi của mình - và chú lấy hóa đơn.” “Nào, nhìn xem. Cháu cũng để ý những chuyện vặt vãnh nhỉ.” Ở trong lớp, Geneva nhìn thấy Kevin Cheaney đứng ở cuối phòng, chuyện với vài cậu bạn trong nhóm. Cậu ấy hất đầu, nở nụ cười, bước về phía . Gần như mọi đứa con trong phòng học - dù là xinh xắn hay bình thường - dõi theo bước của cậu ấy. Ngạc nhiên - rồi sốc - lóe lên trong mắt khi họ nhìn thấy cậu ta về phía ai. Này, nghĩ cách đắc chí, hãy đóng lại nghĩ trong đầu các . Tôi ở thiên đường. Geneva Settle cúi xuống, mặt nóng ran. “Này, nhóc”, cậu ta , bước tới gần hơn. ngửi thấy mùi nước làm mềm da sau khi cạo râu của cậu ta. Tự hỏi nó là loại gì nhỉ. Có thể tìm hiểu ngày sinh nhật cậu ta và mua tặng vài lọ. “Chào”, , giọng run run, hắng giọng. “Chào.” Được rồi, có khoảnh khắc vinh quang trước cả lớp - mà có thể là mãi mãi. Nhưng giờ đây, lần nữa, tất cả những gì có thể nghĩ tới là giữ khoảng cách với cậu ta, bảo đảm chắc chắn rằng cậu ta vì mà bị liên lụy. Geneva cho cậu ta biết ở gần nguy hiểm tới mức nào. Quên cái trò chửi nhau, quên những chuyện đùa cợt về mẹ của cậu . Phải nghiêm túc. với cậu ta điều mình thực cảm thấy: Rằng mình lo lắng cho cậu. Nhưng trước khi có thể bất cứ điều gì, cậu ta ra hiệu cho về phía cuối lớp. “ lại đây. Có thứ cho cậu này.” Cho mình á? nghĩ. Hít hơi sâu và theo cậu ta tới góc lớp. “Này. món quà cho cậu.” Cậu ta giúi thứ gì đó vào tay . Bằng nhựa màu đen. Cái gì thế nhỉ? chiếc điện thoại? Máy nhắn tin? Chúng ta được phép mang những thứ này vào trường. Tim Geneva vẫn đập mạnh, thắc mắc hiểu mục đích của món quà. Có phải là để gọi cho cậu ấy khi gặp nguy hiểm? Hay là để có thể giữ liên lạc vói bất cứ khi nào cậu ấy muốn? “Cái này tuyệt”, , xem xét nó. nhận ra rằng nó phải là cái điện thoại hay máy nhắn tin, nhưng là dạng kiểu như thế. Giống cái Palm Pilot. “Có trò chơi, truy cập mạng, thư điện tử. Tất cả đều dùng mạng dây. Chả hiểu nó làm thế nào.” “Cảm ơn. Chỉ là... ừm, nó có vẻ đắt tiền, Kevin. Mình biết sử dụng.. “À, có gì, nhóc. Cậu có nó bằng công sức của mình đấy chứ.. nhìn lên vào cậu ta: “Tớ kiếm nó bằng sức mình?”. “Nghe này. vấn đề gì cả. Tớ và mấy thằng bạn thử rồi. Nó được kết nối với cái của tớ.” Cậu ta vỗ vỗ vào túi áo sơ mi“Những gì cậu cần làm là, điều đầu tiên cần phải ghi nhớ, giữ chặt nó ở giữa hai chân cậu. tốt hơn nếu cậu mặc váy. Giáo viên kiểm tra ở đấy đâu, họ gặp rắc rối với pháp luật, hiểu chứ? Giờ, câu hỏi đầu tiên trong bài kiểm tra, cậu nhấn vào cái nút này ở đây. Thấy chứ? Rồi sau đó nhấn cái nút cách này và rồi điền câu trả lời vào. Cậu hiểu ỷ mình chứ?” “Câu trả lời?” “Này, nghe này, quan trọng lắm. Cậu phải nhấn nút này để gửi nó cho mình. Cái nút nho với cái ăng ten. Nếu cậu nhấn nó gửi đâu. Câu hỏi thứ hai, nhấn hai. Rồi nhấn câu trả lời.” “Mình hiểu.” Cậu ta cười, tự hỏi sao lại hiểu ý mình. “Cậu nghĩ sao? Chúng ta thỏa thuận nhé, nhóc. Tớ bảo vệ cậu phố. Cậu ‘bảo kê’ cho tớ trong lớp học.” Geneva như bị cú tát vào mặt khi nhận ra ý đồ của Kevin, ngước lên nhìn, vẻ chán nản. “Ý cậu là gian lận.” Cậu ta cau mày. “Đừng có to.” Nhìn xung quanh. “Cậu đùa à. Đây là trò đùa.” “Trò đùa? , nhóc. Cậu giúp tớ.” phải câu hỏi. mệnh lệnh. cảm thấy như mình sắp nôn ọe. thở dốc. “Tớ làm việc này.” đưa chiếc máy ra. Cậu ta cầm lấy nó. “Vấn đề của cậu là gì? Có rất nhiều đứa con giúp tớ.” “Alicia”, Geneva thầm đầy giận dữ, gật gật đầu và nhớ lại về bạn từng học cùng lớp với họ cho đến gần đây, Alicia Goodwin, thông minh, thiên tài toán học. ấy vừa rời trường vì gia đình chuyển tới Jersey. ấy và Kevin rất gần gũi với nhau. Vậy tất cả là thế: Khi cậu ta mất cạ bao che, Kevin tìm người mới và chọn Geneva, học sinh tốt hơn so với người ‘tiền nhiệm’ nhưng được xinh đẹp bằng. Geneva tự hỏi liệu nằm ở số bao nhiêu trong danh sách ấy. Nỗi tức giận và đau đớn gào thét trong Geneva như ngọn lửa trong cái đầu máy xe lửa. Nó thậm chí còn tồi tệ hơn cả những gì xảy ra ở thư viện buổi sáng ngày hôm nay. Ít nhất cái gã đeo mũ trùm cũng hề vờ là bạn . Lạy thánh Judas... Geneva rít lên. “Cậu có cả tá cho cậu những câu trả lời... Điểm trung bình của cậu là bao nhiêu nếu có họ?” “Tớ ngốc nghếch thế đâu”, cậu ta thầm đầy tức giận. “Chỉ là, tớ chẳng cần phải học những cái vớ vẩn này. Tớ chỉ chơi bóng và có hàng đống séc để ký cho đến cuối đời. tốt hơn cho mọi người khi để tớ luyện tập, thay vì học hành.” “Cho mọi người.” cười cách chua chát. “Vậy đó là nơi điểm số của cậu có được: Cậu ăn cắp nó. Cũng giống như chôm chỉa sợi dây vàng của ai đó ở quảng trường Thời đại mà thôi.” “Này, nhóc, tớ cho cậu biết, cẩn thận cái mồm cậu đấy.” Cậu ta thầm đe dọa. “Tớ giúp cậu.” lẩm bẩm. Thế là cậu ta cười, nhìn chằm chằm bằng đôi mắt nheo lại. “Tớ cho cậu thấy việc cậu làm có giá trị. Cậu có thể đến nhà tớ bất cứ lúc nào cậu muốn. Tớ làm cho cậu sung sướng. Tớ thậm chí hôn chỗ ấy của cậu. Tớ biết khả năng của mình trong lĩnh vực đó.” “Chết cho khuất mắt”, gào lên. Đầu quay . “Nghe này”, cậu ta gằn giọng, túm chặt lấy cánh tay . Đau. “Mông của mày lép xẹp như đứa nhóc mười tuổi và mày luẩn quẩn như ả tóc vàng đến từ Long Island, cho rằng mình hơn tất cả những người khác. con điếm với cái đầu bù xù như mày đừng có mà kén cá chọn canh, mày hiểu tao gì ? Mày kiếm được ở đâu ai tốt hơn tao chứ?” Geneva thở mạnh trước xỉ nhục. “Mày là ghê tởm.” “Được rồi. Tốt thôi. Mày có hứng thú, hay đấy. Tao trả công cho mày để mày giúp tao. Mày muốn bao nhiêu nào? tờ trăm đô? Hai? Tao có tiền. Nào, giá mày muốn . Tao phải qua bài thi này.” “Vậy học ”, chửi rủa và ném cái máy vào cậu ta. Cậu ta bắt nó với tay và giật mạnh về phía mình bằng tay còn lại. “Kevin”, giọng người đàn ông nghiêm khắc cất lên. “Mẹ kiếp”, cậu trai thào trong nỗi tức giận, nhắm chặt mắt lại giây, thả tay bé ra. Ông Abrams, thầy giáo môn toán, bước tới và lấy chiếc máy . ông nhìn nó. “Đây là cái gì?” “Bạn ấy muốn em giúp bạn ấy gian lận trong bài kiểm tra”, Geneva . “Con chó này là... Đấy là của nó và nó…” “Thôi nào, chúng ta về văn phòng tôi”, ông với Kevin. Cậu ta nhìn Geneva chằm chằm với đôi mắt lạnh lùng. cũng quắc mắt lại. Thầy giáo hỏi: “Em ổn chứ, Geneva?”. xoa xoa cánh tay mình chỗ Kevin tóm. hạ thấp tay xuống và gật đầu. “Em muốn vào nhà vệ sinh vài phút.” “ .” Ông với cả lớp, tất cả nhìn chằm chằm, đều im lặng. “Chúng ta có mười phút tự học trước khi bước vào bài kiểm tra.” Rồi ông dẫn Kevin ra khỏi cửa sau lớp học. Cả lớp nhanh chóng rộ lên những tin đồn nhàm, như thể có ai đó tắt cái nút “im lặng” ti vi . Geneva đợi chút rồi theo. Nhìn ra phía hành lang, thấy thanh tra Bell, đứng ở gần cửa trước với cánh tay đan chéo trước ngực. Chú ấy thấy . bước vào hành lang và hòa vào đám đông học sinh bước tới lớp học của mình. Tuy nhiên, Geneva Settle vào nhà vệ sinh nữ. đến tận cuối đường và qua cánh cửa vào sân trường vắng lặng, nghĩ: ai được thấy mình khóc. Kia! quá ba mươi mét từ chỗ đứng. Tim của Jax đập nhanh khi gã thấy Geneva Settle đứng gần đó, ở trong sân trường. Vua Graffiti đứng ở đầu con hẻm bên kia phố, ở đó gần tiếng đồng hồ, đợi hình bóng của Geneva xuất . Nhưng thậm chí nó còn tốt hơn cả hy vọng. bé ở mình. Jax xem xét dãy nhà. Có chiếc xe cảnh sát sơn phù hiệu, cảnh sát bên trong, ở phía trước cổng trường, nhưng nó khá xa bé và viên cảnh sát nhìn vào sân trường; gã thể nhìn thấy bé ngay cả khi quay đầu lại. Như thế này còn dễ dàng hơn cả Jax nghĩ trước đây. Vậy bỏ cái việc đứng luẩn quẩn ở đây , tự nhủ. nhanh lên nào. Jax lôi chiếc khăn trùm đầu màu đen ra khỏi túi, trùm cả mái tóc xoăn dày. Len lỏi về phía trước, dừng lại bên cạnh chiếc xe tải cũ kỹ móp méo, tên cựu phạm nhân dò kỹ khu vực sân trường (mà gợi cho nhớ lại rất nhiều về cái sân ở trong tù, điện, tất nhiên, hàng rào kẽm gai và những tháp súng). Jax quyết định có thể chạy băng qua phố ở đây và tận dụng chiếc xe chở hàng của hãng Food Emporium đậu dọc vỉa hè, động cơ vẫn còn hoạt động. có thể tiến tới trong khoảng hơn bảy mét mà bị Geneva và viên cảnh sát trong ô tô phát . Như thế là quá gần rồi. Miễn là bé còn nhìn chằm chằm xuống đất, Jax có thể trượt qua hàng rào mà bị phát . bé có thể sợ hãi sau tất cả những gì xảy ra với mình, và nếu phát ra Jax tiếp cận, hẳn là bé quay đầu chạy, gào thét kêu cứu. chậm, cẩn thận. Nhưng phải di chuyển ngay lúc này. Mày có cơ hội như thế này lần nữa đâu. Jax bắt đầu tiến về phía bé, nhấc chân cẩn thận để tránh cái chân cà nhắc của mình kéo lê những chiếc lá và có thể làm bại lộ danh tính.
CHƯƠNG 16 Liệu đó có phải là cách mà mọi việc vẫn luôn như thế? Có phải là bọn con trai luôn luôn muốn thứ gì đó từ ta? Trong trường hợp của Kevin, cậu ta muốn kiến thức của . Chà, nhưng liệu có buồn và thất vọng như thế nếu có tính cách giống Lakeesha và cậu ta tấn công chỉ đơn giản vì thân xác của ? , nghĩ cách đầy giận dữ. Việc đó hoàn toàn khác. Đó là việc bình thường. Các giáo viên cố vấn rất nhiều về tội hiếp dâm, về việc , về việc cần phải làm gì nếu cậu bạn trai bỗng trở nên quá đ hỏi. Cần phải làm gì sau đó, n u nó xảy ra. Nhưng họ chẳng bao giờ từ về việc cần phải làm gì nếu như ai đó muốn chiếm đoạt kiến thức của ta. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt! nghiến răng và lau những giọt nước mắt, ném chúng khỏi những đầu ngón tay. Quên cậu ta ! Cậu ta là tên khốn ra gì. Bài kiểm tra toán - đó là tất cả những gì quan trọng nhất mình cần chú tâm. d dx nhân với x mũ n bằng... Có chuyển động ở bên trái. Geneva nhìn về hướng đó và nheo mắt vì mặt trời, thấy bóng người qua đường, trong bóng của tòa nhà, người đàn ông với chiếc mũ trùm đen đầu và mặc chiếc áo khoác màu xanh tối. bước hướng về phía sân trường nhưng sau đó biến mất đằng sau chiếc xe tải lớn gần đó. Suy nghĩ đáng sợ đầu tiên trong đầu là: cái gã ở thư viện đến đây tìm . Nhưng, , người đàn ông này da đen. Thoải mái hơn, nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch của mình. Quay trở lại vào trong. Chỉ... Thất vọng, nghĩ về những ánh mắt mà mình nhận được. Những đứa bạn của Kevin, nhìn bằng ánh mắt tăm tối. Những nàng đeo đồ lấp lánh, nhìn chằm chằm và cười to. Oánh nó trận, oánh con chó cái... Quên hết tất cả . cần quái gì phải quan tâm xem chúng nó nghĩ gì? Bài kiểm tra là vấn đề quan trọng nhất. d dx nhân với x mũ n bằng n nhân x mũ n trừ ... Khi bắt đầu quay trở lại cánh cửa ngách, tự hỏi liệu Kevin có bị đình chỉ . Hay là có thể bị đuổi học. hy vọng là thế. d dx nhân với... Đó là lúc nghe thấy tiếng bước chân kéo lê từ phố. Geneva dừng lại và quay đầu. nhìn ai cả, bởi ánh mặt trời chói lóa. Liệu đó có phải là gã da đen trong chiếc áo khoác màu xanh tối bám theo ? Tiếng chân dừng lạiay , hướng về phía trường, đẩy hết mọi suy nghĩ ngoài những quy tắc đầy sức mạnh của toán học. ... bằng với n nhân x mũ n trừ ... Đó là lúc lại nghe thấy tiếng bước chân, di chuyển nhanh. Có ai đó dồn bước về phía trước, nhắm thẳng vào . thể nhìn thấy. Đó là ai? giơ tay lên để che bớt cái ánh nắng gay gắt. Và rồi nghe thấy tiếng của thanh tra Bell gọi: “Geneva! Đứng yên”. chạy về phía trước, với ai đó - sĩ quan Pulaski - ở bên cạnh. “Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao cháu lại ra ngoài?” “Cháu chỉ...” Ba chiếc xe cảnh sát rít lên gần đó. Thanh tra Bell nhìn lên, hướng về phía chiếc xe tải lớn, nheo mắt trong ánh mặt trời. “Pulaski! kia kìa. , nhanh lên!” Họ nhìn vào cái bóng dần biến mất của người đàn ông vừa mới nhìn thấy trước đó, gã mặc chiếc áo khoác màu xanh. bước nhanh, với chân khập khiễng, chìm vào trong con hẻm. “ đuổi theo đây.” Người cảnh sát lao nhanh theo hướng nghi phạm. ta len qua chiếc cổng và biến mất vào con hẻm. Rồi nửa tá cảnh sát xuất trong sân trường. Họ tản ra vây xung quanh Geneva và viên thanh tra. “Chuyện gì xảy ra vậy?”, bé hỏi. Nhanh chóng kéo bé về phía những chiếc xe cảnh sát, thanh tra Bell giải thích rằng họ mới nhận được tin từ nhân viên FBI, ai đó tên là Dellray, làm việc với Rhyme. trong số những người săn tin cho ta biết được việc có người đàn ông ở Harlem hỏi về Geneva sáng hôm nay, cố tìm nơi học và sống. Đó là người Mỹ gốc Phi và mặc chiếc áo khoác kiểu quân đội màu xanh tối. từng bị bắt vì liên quan đến vụ giết người vài năm trước và tại có vũ khí. Bởi vì kẻ tấn công buổi sáng hôm nay ở bảo tàng là gã da trắng và có thể biết về Harlem, Rhyme kết luận, quyết định sử dụng kẻ đồng phạm biết khu vực xung quanh này. Sau khi biết được điều này, thanh tra Bell vào trong lớp và phát ra chuồn ra ngoài qua cửa sau. Nhưng Jonette Monroe, nữ cảnh sát chìm, dõi theo Geneva và theo sát bé. báo cho cảnh sát biết vị trí của Giờ, viên thanh tra , họ cần phải đưa quay trở lại chỗ Rhyme ngay lập tức. “Nhưng bài kiểm tra, cháu…” “ kiểm tra, trường lớp cho đến khi ta tóm được gã này ”, Bell với giọng cương quyết. “Giờ, thôi, thưa quý .” Tức giận trước trở mặt của Kevin, tức giận vì bị kéo vào giữa đống lộn xộn này, khoanh tay trước ngực. “Cháu phải làm xong bài kiểm tra này.” “Geneva, cháu biết ta có thể cục cằn thế nào đâu. Mục đích của ta là bảo vệ mạng sống của cháu và nếu điều đó có nghĩa là ta phải nhấc cháu lên và vác cháu tới xe của ta để bảo đảm chắc chắn ta làm điều đó.” Đôi mắt tối sầm, mà trước đó có vẻ là thoải mái dễ gần, giờ nghiêm khắc cứng rắn như những hòn đá. “Được rồi”, lẩm bẩm. Họ tiếp tục bước về phía những chiếc xe, viên thanh tra dò xét xung quanh, kiểm tra các góc tối. để ý thấy bàn tay ta để sát bên sườn. Gần với khẩu súng. lúc sau, viên cảnh sát tóc vàng chạy tới chỗ họ. “Để mất rổi”, thở dốc, cố lấy lại hơi thở. “Xin lỗi.” Bell thở dài. “Có thấy vẻ ngoài của ko?” “Da đen, cao khoảng mét tám, thân hình rắn chắc. chân cà nhắc. Đeo khăn trùm đầu màu đen. có râu. Khoảng ba mươi bảy, ba mươi tám đến tầm bốn mươi tuổi.” “Cháu có để ý thấy gì khác , Geneva?” lắc đầu cách ủ rũ. Bell : “Được rồi. khỏi đây thôi”. trèo lên ghế sau chiếc Ford của viên thanh tra, với viên cảnh sát tóc vàng bên cạnh. Bell sang bên ghế vô lăng. Người giáo viên cố vẩn họ gặp trước đó, Barton, vội vàng bước tới, hơi cau mày. “Thanh tra, có chuyện gì vậy?” “Chúng tôi cần phải đưa Geneva rời khỏi đây. Có vẻ trong những kẻ muốn làm hại bé ở gần. vẫn là có thể, đó là tất cả những gì chúng tôi biết.” Người phụ nữ to lớn nhìn quanh, cau mày: “Ở đây á? “Chúng tôi chắc chắn lắm. khả năng là tất cả những gì chúng tôi đến. Tốt nhất là nên bảo đảm an toàn.” Viên thanh tra thêm vào: “Chúng tôi cho rằng ở quanh đây năm phút trước. người đàn ông người Mỹ gốc Phi, vóc dáng tầm trung. Mặc chiếc áo khoác kiểu quân đội màu xanh tối và đeo khăn trùm đầu. để râu. khập khiễng. xuất ở góc bên kia sân trường, phía chiếc xe tải lớn kia. có thể làm ơn hỏi xem các học sinh và giáo viên có ai nhận ra hoặc nhìn thấy gì khác ?”. “Dĩ nhiên rồi.” cũng hỏi liệu có thấy tấm băng ghi hình từ máy camera an ninh nào của trường có thể ghi được hình . Họ trao đổi số điện thoại, rồi viên thanh tra vào vị trí sau vô lăng, khởi động máy. “Thắt dây an toàn vào mọi người. Tôi bảo đảm rằng chúng ta có chuyến yên ả đâu.” Ngay sau khi Geneva cài dây an toàn vào, viên thanh tra nhấn chân ga và chiếc xe đảo bánh nhanh ra khỏi vỉa hè và bắt đầu chuyến như những chiếc tàu trượt trong công viên xuyên qua những con phố gồ ghề của Harlem, khi Langston Hughes - pháo đài cuối cùng của về lành mạnh và thoải mái - biến mất khỏi tầm nhìn. Khi Amelia Sachs và Lon Sellito tổng hợp lại các bằng chứng thu thập được tại căn hộ của nghi phạm phố Elizabeth, Rhyme nghĩ về đồng phạm của - cái gã tiếp cận rất gần Geneva ở trường. Có khả năng là hung thủ tận dụng gã này chỉ đơn giản để quan sát, trừ việc với hồ sơ phạm tội và việc có vũ khí, cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng để sẵn sàng giết Geneva. Rhyme hy vọng rằng bỏ lại ít dấu vết ở gần sân trường, nhưng - đội khám nghiệm trường kiểm tra kỹ khu vực đó cẩn thận nhưng thể tìm được gì hết. Đội điều tra cũng tìm được nhân chứng nào phố nhìn thấy hay biến như thế nào. Có thể... “Chào, Lincoln”, giọng người đàn ông vang lên. Giật mình, Rhyme ngước lên nhìn và thấy người đàn ông đứng gần đó. Khoảng bốn mươi tuổi, đôi vai rộng, mái tóc bạc được cắt ngắn, mái cắt bằng, ông mặc bộ vét màu xám đậm, đắt tiền. “Bác sĩ. Tôi nghe thấy tiếng chuông.” “Thom ở ngoài. Cậu ấy cho tôi vào Robert Sherman, bác sĩ giám sát thực phương pháp chữa bệnh vật lý trị liệu của Rhyme, có phòng khám chuyên biệt với các bệnh nhân chấn thương tủy sống. Chính ông là người phát triển chế độ điều trị cho Rhyme, chiếc xe đạp và chiếc máy huấn luyện vận động guồng quay, cũng như phương pháp vận động dưới nước và cả các bài tập cải thiện phạm vi vận động truyền thống mà Thom thực với Rhyme. Bác sĩ và Sachs chào nhau, rồi ông nhìn vào căn phòng thí nghiệm, nhận thấy bận rộn. quan điểm chữa bệnh, ông vui khi thấy Rhyme làm việc. Tham gia vào công việc, ông vẫn thường là, cải thiện cách đáng kể ý chí của người và dẫn đến những thay đổi tích cực (dù ông vẫn nhấn mạnh Rhyme tránh những tình huống có thể bị nguy hiểm đến tính mạng, bởi nó gần như xảy ra trong vụ án mới đây). Ông bác sĩ thực có tài, tốt bụng và cực kỳ thông minh. Nhưng Rhyme chẳng có thời gian để tiếp ông ấy lúc này, bởi biết rằng có hai kẻ có vũ khí săn đuổi Geneva. chào đón vị bác sĩ với tâm trạng lơ đễnh. “Lễ tân của tôi rằng cậu hủy buổi hẹn ngày hôm nay. Tôi băn khoăn biết cậu có ổn .” quan tâm này có thể dễ dàng được truyền đạt qua điện thoại, Rhyme nghĩ. Nhưng bằng cách đó ông bác sĩ thể ép Rhyme kiểm tra sóc khỏe. Và quả Sherman áp đặt . Ông muốn biết rằng các bài tập có hiệu quả tốt. chỉ vì lợi ích của bệnh nhân mà cũng là để cho ông bác sĩ có thể hợp nhất các thông tin vào trong nghiên cứu thực . “ sao, mọi thứ đều ổn cả”, Rhyme trả lời. “Chúng tôi xử lý vụ án.” ra hiệu về phía tấm bảng tổng hợp dữ liệu bằng chứng. Sherman nhìn nó. Thom dừng chân ở cửa. “Bác sĩ, ông có muốn ít cà phê hay soda ?” “À, chúng ta muốn lấy mất thời gian quý báu của bác sĩ.” Rhyme nhanh. “Bởi ông ấy biết là có vấn đề gì cả. Tôi chắc chắn là ông ấy muốn…” “ vụ án?” Sherman hỏi, vẫn nghiên cứu tấm bảng. Khựng lại chút, Rhyme với gễ nổi cáu: “ vụ thực khó nhằn. Có gã cực kỳ xấu xa. Chúng tôi cố để tóm cổ gã này khi ông ghé vào”. Rhyme hề tỏ ra muốn nhượng bộ với bác sĩ và hề xin lỗi cho thái độ bất lịch của . Nhưng những bác sĩ hoặc các nhà trị liệu làm việc với bệnh nhân chấn thương tủy sống (SCI) đều biết rằng họ nhận được vài “món quà kèm” như: tức giận, thái độ hay và những lời đay nghiến. Sherman hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi cách cư xử của Rhyme. Ông vẫn tiếp tục kiểm tra Rhyme khi trả lời Thom: “, tôi cần gì, Thom. Cảm ơn cậu. Tôi thể ở lại lâu”. “Ông chắc chứ?” hất đầu về phía Rhyme. “Đừng để ý đến cậu ấy.” “ có gì.” Nhưng dù muốn đồ uống, dù thể ở lại lâu, ông vẫn ở đây, hề có vẻ luôn. Thực tế, ông kéo cái ghế ra và ngồi xuống. Sachs nhìn về phía Rhyme. nhìn cách vô hồn và quay sang vị bác sĩ, người rê cái ghế đến gần hơn. Rồi ông nghiêng về trước và thầm: “Lincoln, cậu phản đối cuộc kiểm tra hằng tháng rồi”. “Có cả đống việc. Chúng tôi phải xử lý bốn vụ án. Và bây giờ là năm. Rất tốn thời gian, như ông có thể tưởng tượng... Và nhân tiện, rất thú vị. Những vấn đề độc nhất vô nhị.” hy vọng ông bác sĩ hỏi chút chi tiết, mà ít nhất làm chuyển hướng cuộc hội thoại. Nhưng ông bác sĩ hỏi, tất nhiên là thế. Các bác sĩ điều trị bệnh nhân chấn thương tủy sống bao giờ mắc bẫy. Họ có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này. Sherman : “Để tôi với cậu điều”. Tôi làm thế quái nào để ngăn ông bây giờ nhỉ? Rhyme nghĩ. “Cậu thực các bài tập của tôi tốt hơn tất cả những bệnh nhân khác. Tôi biết cậu chống lại cuộc kiểm tra bởi cậu sợ rằng nó có hiệu quả. Tôi đúng chứ?” “ hẳn thế, bác sĩ. Tôi chỉ là bận quá.” Làm như thể hề nghe thấy, Sherman : “Tôi biết rằng cậu tìm kiếm những thay đổi đáng kể trong tình trạng của mình”. chuyện với bác sĩ cũng khó chịu như chuyện với cảnh sát vậy, Rhyme nghĩ. trả lời: “Tôi cũng hy vọng thế. Nhưng nếu , tin tôi , chuyện đó là vấn đề gì cả. Tôi những tiến triển về cơ bắp, cải thiện về độ loãng xương... Tim và phổi hoạt động tốt hơn. Đó là những gì tôi đạt được. phải là chuyển động của động cơ”. Sherman quan sát từ xuống dưới. “Cậu thực cảm thấy như vậy?” “Tất nhiên. Tuyệt đối như vậy.” Nhìn quanh, hạ thấp giọng và : “Những bài tập này thể làm cho tôi lại được”. “, điều đó xảy ra.” “Vậy tại sao tôi phải mong chờ chút thay đổi ở ngón chân út bàn chân trái của mình nhỉ? vô nghĩa. Tôi thực các bài tập, giữ cơ thể luôn ở trạng thái tốt nhất có thể và trong vòng năm đến mười năm, khi những người như ông mang đến với phương pháp ghép thần kỳ hoặc nhân bản vô tính hay gì nữa, tôi sẵn sàng để tiếp tục bước lần nữa.” Ông bác sĩ mỉm cười và vỗ vỗ tay vào chân của Rhyme, cử động mà cảm nhận được. Sherman gật đầu. “Tôi rất vui khi nghe cậu như vậy, Lincoln. Vấn đề lớn nhất mà tôi gặp phải là các bệnh nhân từ bỏ bởi họ nhận ra rằng tất cả các bài tập và những việc nặng nhọc thực thay đổi cuộc sống của họ nhiều. Họ muốn giành được những chiến thắng to lớn hơn và những cách chữa trị. Họ nhận ra rằng những chiến thắng làm nên chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến kiểu này.” “Tôi nghĩ rằng mình chiến thắng rồi.” Vị bác sĩ đứng dậy. “Tôi vẫn cần thực bài kiểm tra với cậu. Chúng tôi cần dữ liệu.” “Ngay khi mà... Này, Lon, cậu có nghe đấy? câu thành ngữ này. Ngay khi mà những tấm bảng này được lau sạch [34]” [34] Ý Rhyme ở đây ám chì những tấm bảng bằng chứng, có nghĩa là “Khi nào xong việc thôi”. Sellito, chẳng hiểu nổi Rhyme cái gì, hoặc là cần quan tâm, nhìn lại cách vô hồn. “Được rồi”, Sherman và bước về cánh cửa. “Chúc may mắn với vụ án.” “Chúng tôi mong muốn những điều tốt nhất”, Rhyme cách hoan hỉ. Người đàn ông của những chiến thắng bé rời khỏi căn nhà và Rhyme ngay tức khắc quay lại với những tấm bảng ghi chứng cứ. Sachs nhấc điện thoại, nghe lúc và dập máy. “Đó là Bo Haumaim. Những người trong đội tiếp cận lối vào? Những người bị điện giật? Người đầu tiên bị vài vết bỏng nặng, nhưng ấy vẫn sống. Người thứ hai được trả về.” “Cảm ơn Chúa.” Sellito , có vẻ như vừa được giải tòa áp lực lớn. “Đó là điều tất yếu. Cả dòng điện chạy qua cậu ta.” nhắm chặt mắt lát. “Những vết bỏng. Và cái mùi. Lạy Chúa. Tóc của cậu ta bị cháy... Tôi gửi cho cậu ta thứ gì đó. , tự tôi mang đến tặng cậu ta. Có thể là những bông hoa. có cho rằng cậu ta thích hoa ?” Cái phản ứng này, giống như cách cư xử của ta trước đó, phải là kiểu của Sellito. Cảnh sát có thể bị thương, và có thể bị giết, nhưng tất cả mọi người trong lực lượng đều chấp nhận đó theo cách của riêng mình. Có hàng tá cảnh sát : “Cảm ơn Chúa, ấy sống rồi”. Họ cầu nguyện và chạy đến nhà thờ gần nhất để thầm những lời cảm ơn. Nhưng cách của Sellito là gật đầu và tiếp tục với công việc. phải là hành động như thế. “Chẳng biết được”, Rhyme . Hoa? Mel Cooper gọi: “Lincoln, ta có Đại úy Ned Seely chờ điện thoại”. Nhà khoa học hình pháp y với đội Thực thi luật pháp Texas về vụ giết người ở Amarillo mà VICAP báo là giống với việc xảy ra ở bảo tàng. “Bật loa lên.” ta làm theo và Rhyme hỏi: “Xin chào, Đại úy?”. “Vâng.” giọng rề rà đáp lời. “ông Rhyme?” “Vâng, là tôi.” “Chúng tôi nhận được cầu từ người của ông về thông tin vụ Charlie Tucker. Tôi tìm xem có những gì nhưng nhiều lắm. Ông cho rằng đó là cùng hung thủ gây ra những vụ này?” “Phương thức thực giống với vụ việc mà chúng tôi có ở đây sáng hôm nay. Đôi giày của cùng hãng - và cả dấu giày nữa. Và cũng để lại vài bằng chứng để đánh lạc hướng chúng tôi, cùng cách bỏ lại những cái nến và những vật kỳ bí tại vụ án mạng Tucker. À, và hung thủ của chúng ta có giọng vùng phía nam. Cũng có vụ án tương tự ở Ohio vài năm trước. Đó là vụ giết mướn.” “Vậy ông cho rằng có ai đó thuê gã này để giết Tucker?” “Có thể. Ông ta là ai?” “Tucker? người bình thường. Chỉ vừa mới nghỉ hưu từ Bộ Luật pháp và Tòa án - đó là nhân viên quản lý trại giam. Có cuộc sống gia đình hạnh phúc, có cháu. bao giờ vướng vào rắc rối. đến nhà thờ đều đặn.” Rhyme cau mày. “Ông ấy làm gì ở nhà tù?” “Bảo vệ. Tại trung tâm an ninh tối đa ở Amarillo... Hừm, ông nghĩ là có thể phạm nhân thuê ai đó để trả thù việc gì đó xảy ra bên trong? Lạm dụng phạm nhân, hay là gì đó như thế?” “Có thể là vậy”, Rhyme . “Tucker từng vi phạm gì có lưu lại trong hồ sơ chưa?” “Trong hồ sơ ở đây có gì hết. ông có lẽ cần kiểm tra với nhà tù.” Rhyme lấy tên của người quản lý trại giam mà Tucker từng làm việc rồi : “Cảm ơn Đại úy”. “ vẩn đề gì. Chúc mọi người ngày tốt lành.” Vài phút sau, Rhyme kết nối vói quản lý trại giam J.T. Beauchamp của Nhà tù an ninh tối đa Northern Texas ở Amarillo. Rhyme tự giới thiệu và mình làm việc với Sở cảnh sát New York. “Giờ , Quản lý...” “J.T. Nếu ông có thể.” “Được rồi, J.T.” Rhyme tình hình cho ta. “Charlie Tucker? Chính là người bảo vệ bị giết. Giống kiểu hành hình Linsơ[35], hay gì gì đó. Tôi vẫn chưa làm việc ở đây lúc đó. Tucker nghỉ hưu chỉ ngay trước khi tôi chuyển về từ Houston. Tôi tìm lại hồ sơ của ông ấy. Ông giữ máy chút nhé.” lát sau, viên quản lý trở lại. “Tôi có ở đây rồi. có kiến nghị nào về ông ấy, trừ phạm nhân. ta rằng Charlie quay ta phát điên. Khi Charlie chịu thôi, họ có chút ẩu đả.” 35] Kiểu hành hình của những kẻ phân biệt chủng tộc với người da đen. “Đó có thể là kẻ chúng ta cần tìm.” Rhyme nhận định. “Ngoại trừ việc gã phạm nhân bị xử tuần sau đó. Và Charlie bị giết vào năm sau đó.” “Nhưng có thể Tucker gây rắc rối với phạm nhân khác. Và ta thuê kẻ khác để trả đũa.” “Có khả năng. Nhưng thuê kẻ chuyên nghiệp cho việc này? Hơi phức tạp cho công việc của chúng ta ở đây.” Rhyme có vẻ đồng tình. “Chà, có thể chính hung thủ là gã tù nhân đó. muốn săn lùng Tucker ngay khi được trả tự do, rồi dựng vụ giết người như vụ giết hại theo nghi lễ tôn giáo. có thể hỏi vài người cai ngục hoặc các nhân viên khác ? Chúng tôi truy tìm người đàn ông da trắng, khoảng bốn mươi, tầm vóc trung bình, tóc nâu sáng. Nhiều khả năng từng bóc lịch vì phạm tội ác dã man. Và có lẽ được thả hoặc trốn thoát...” “ có vụ vượt ngục nào ở đây hết”, người cai ngục nhấn mạnh. “Được rồi, vậy là được thả ra lâu trước khi Tucker bị giết. Đó là tất cả những gì chúng tôi biết. À, hiểu biết về súng và là tay súng cừ.” “Điều đó có nghĩa lý gì. Đây là Texas.” ta cười tủm tỉm. Rhyme tiếp tục: “Chúng tôi có bản phác thảo vi tính về dung mạo nghi phạm. Chúng tôi gửi bản copy cho . có thể cử người so sánh với ảnh các phạm nhân được phóng thích trong khoảng thời gian đó ?”. “Được, thưa ngài. Tôi cho người làm việc đó. ấy có đôi mắt khá tinh. Nhưng chúng tôi cần thời gian. Chúng tôi có cả đống phạm nhân vào đây.” ta đưa địa chỉ email và tắt máy. Vừa khi cuộc gọi kết thúc, Geneva, Bell và Pulaski đến. Bell giãi thích về cuộc chạy trốn của tên đồng phạm ở trường học. thêm vài thông tin về , cho họ biết rằng có người thu thập thông tin từ các học sinh và giáo viên rồi kiểm tra băng ghi hình an ninh nếu có. “Cháu được làm bài kiểm tra sau cùng”, Geneva cách đầy tức giận, như thể đó là lỗi của Rhyme. bé này ràng có thể khiêu khích làm ta phải tức giận. vẫn cách kiên nhẫn: “Chú có vài tin cháu có thể quan tâm. Người tổ tiên của cháu vẫn sống sau khi nhảy xuống dòng sông Hudson”. “Ông ấy làm được?” Khuôn mặt bừng sáng lên và hồ hởi đọc bản in của bài báo năm 1868. Rồi cau mày. “Họ khiến cho ông ấy nghe có vẻ là kẻ xấu. Như thể ông lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện. Ông ấy như vậy. Cháu biết điều đó.” ngước lên nhìn. “Và chúng ta vẫn chưa biết điều gì xảy ra nếu như ông ấy từng được thả ra.” “Chúng ta vẫn tìm kiếm thông tin. Chú hy vọng là chúng ta có thể tìm được thêm.” Chiếc máy tính kêu hồi chuông và Rhyme nhìn nó. “Có thể có gì đó ở đây. Email từ giáo sư ở Amherst - người điều hành trang web về lịch sử Mỹ - Phi. Bà ấy là trong những người tôi gửi email về Charles Singleton.” “Đọc lên xem.” “Nó là từ trong nhật ký của Frederick Douglass.” “ lần nữa, ông ta là ai vậy nhỉ?”, Pulaski hỏi. “Xin lỗi, tôi hẳn là nên biết. Có con đường mang tên ông ta.” Geneva : “Cựu nô lệ. Người ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình và lãnh đạo quyền dân thế kỷ XIX. Là nhà văn, giảng viên đại học”. Chàng lính trẻ đỏ mặt thẹn thùng. “Như tôi , đáng nhẽ tôi phải biết.” Cooper nghiêng về phía trước và đọc to các dòng chữ màn hình: Mùng 3 tháng 5 năm 1866. buổi tối khác ở Gallows Height... “À”, Rhyme cắt ngang. “Địa điểm huyền bí của chúng ta.” Từ “Giá treo cổ” lần nữa nhắc lại cho về hình ảnh lá bài Người treo ngược, nét bình thản với cái chân móc ngược giá. nhìn chằm chằm vào quân bài, rồi quay trở lại với Cooper. ... bàn bạc về nỗ lực sổng còn của chúng tôi, Tu chính án số 14. vài thành viên của Cộng người da màu ở New York, và cả tôi, gặp vị Thống đốc Fenton và các thành viên của ủy ban hợp nhất về Tái xây dựng, bao gồm các Thượng nghị sĩ Harris, Grimes và Fessenden, và các Nghị sĩ Stevens, Washburne và thành viên Đảng Dân chủ, Andrexv T. Rogers, người cho thấy đến mức bè phái như chúng ta vẫn sợ. Thống đốc Fenton bắt đầu với lời khẩn cầu thiết tha, và từ đó chúng tôi bắt đầu trình bày với các thành viên của Ủy ban ý kiến của mình về các phiên bản dự thảo khác nhau của Bản sửa đổi chúng tôi làm vất vả sau khoảng thời gian dài. (Ông Charles Singleton cũng trình bày cách ràng quan điểm của mình về việc Bản sửa đổi nên đưa vào cầu về tán thành chung của mọi công dân, người da đen và người có nguồn gốc châu Âu, đàn bà cũng như đàn ông, và các thành viên của ủy ban cân nhắc kỹ lời góp ý này.) Những cuộc tranh cãi diễn ra suốt cả đêm. Geneva nghiêng qua vai Rhyme và đọc. “Trình bày cách ràng”, thầm thành tiếng. “Và ông ấy muốn ủng hộ cho phụ nữ.” “Đây là bài viết khác.” Cooper . Ngày 25 tháng 6 năm 1867. Tôi thấy hài lòng với tiến trình chậm chạp. Bản sửa đồi số 14 được trình các bang để được phê chuẩn năm trước, với tính thiết thực hai mươi hai bang ủng hộ giải pháp. Chỉ còn thiếu sáu bang nữa, nhưng chúng ta phải đối mặt với phản đối mạnh mẽ và cương quyết. Williard Fish, Charles Singleton và Elijah Walker tới các bang chưa ký kết và làm tất cả những gì có thể để cầu xin những nhà lập pháp ở đó bỏ phiếu ủng hộ Bản sửa đổi. Nhưng ở mỗi bước , họ vấp phải thờ ơ trong việc đón nhận thông thái của bộ luật này - và thái độ khinh thị đe dọa và bực dọc đầy tính cá nhân. phải hy sinh quá nhiều, và vẫn chưa đạt được mục tiêu... Liệu áp đảo của chúng ta trong cuộc chiến trở thành vô nghĩa, gần như là chiến thắng Pyrrhic[36]? Tôi cầu cho nghiệp của nhân dân tàn úa trong nỗ lực quan trọng nhất này của chúng ta. [36] Pyrrhic victory: là thành ngữ để chỉ chiến thắng mà bên thắng phải tổn thất rất lớn, đến mức gần như hủy diệt. Cooper nhìn lên màn hình. “H Geneva : “Vậy là ông Charles cùng với Douglass và những người khác đóng góp cho Tu chính án số 14. Nghe có vẻ như họ là đồng đội”. Hay họ từng? Rhyme thắc mắc. Liệu bài báo có đúng ? Liệu có đúng là ông ấy dùng cách của mình để hòa chung với họ để tìm hiểu về Quỹ Nô lệ tự do và cướp nó? Dù sao, đối với Lincoln Rhyme là mục tiêu duy nhất trong bất cứ cuộc điều tra hình pháp y nào, vẫn nuôi hy vọng đầy cảm tính hiếm hoi về việc Charles Singleton thực tội lỗi đó. nhìn chằm chằm vào bảng bằng chứng, thấy nhiều dấu hỏi hơn là những câu trả lời. “Geneva, cháu có thể gọi cho bà của mình ? Để xem bà ấy có tìm thấy lá thư nào khác hay bất cứ thứ gì của ông Charles ?” bé gọi điện cho người phụ nữ mà bà Lilly sống cùng. có ai nhấc máy nhưng để lại tin nhắn để họ gọi lại theo số của Rhyme. Rồi gọi cú điện thoại khác. Đôi mắt sáng lên. “Mẹ! Bố mẹ về nhà chưa?” “Cảm ơn Chúa”, Rhyme nghĩ. Cuối cùng bố mẹ bé trở về. Nhưng cái cau mày lên khuôn mặt bé chỉ giây sau đó. “... có chuyện gì vậy?... Khi nào ạ?” chậm trễ của việc nào đó, Rhyme suy luận. Geneva thông báo cho mẹ tình hình, bảo đảm với họ rằng bé an toàn và được bảo vệ bởi cảnh sát. đưa điện thoại cho thanh tra Bell, chuyện với mẹ khá lâu về tình hình tại rồi chuyển lại điện thoại và tạm biệt mẹ mình. dập máy cách miễn cưỡng. Bell : “Họ kẹt ở London. Chuyến bay bị hủy và họ thể bằng phương tiện khác trong ngày hôm nay. Họ có mặt trong chuyến bay sớm nhất ngày mai - nó tới Boston và họ bắt chuyến bay tiếp theo ở đó”. Geneva nhún vai, nhưng Rhyme có thể nhìn thấy nỗi thất vọng trong mắt bé. : “Tốt hơn là cháu nên về nhà. Cháu có vài nghiên cứu ở trường”. Bell kiểm tra cùng với các sĩ quan đội bảo vệ nhân chứng và bác của Geneva. Mọi thứ có vẻ an toàn, báo cáo. “Cháu đến trường ngày mai chứ?” do dự lúc. Nhăn mặt. Liệu là trận chiến nữa chăng? Chợt tiếng cất lên. Đó là Pulaski, chàng cảnh sát trẻ. “ điều là, Geneva, nó còn là an toàn của riêng em nữa. Nếu ngày hôm nay gã ấy, tên mặc chiếc áo khoác quân , có thể tiếp cận đủ gần và bắt đầu nã súng, có lẽ có thêm những học sinh khác bị thương hoặc thậm chí bị giết. có thể cố gắng thực lần nữa khi em đứng với những người khác ở ngoài trường hay là phố.” Rhyme có thể thấy khuôn mặt bé tác động của những lời ấy. Có lẽ nghĩ tới cái chết của tiến sĩ Barry. Nên ông ấy chết vì mình... “Đúng thế rồi”, với giọng yếu ớt. “Cháu ở nhà.” Bell gật đầu vói . “Cảm ơn cháu.” Và biểu lộ cái nhìn đầy cảm kích với chàng sĩ quan trẻ. Viên thanh tra cùng Pulaski dẫn bé ra ngoài cánh cửa và những người khác quay trở lại với tấm bảng bằng chứng từ căn hộ của hung thủ. Rhyme thất vọng khi thấy có gì nhiều lắm. Bản đồ của con phố phía trước bảo tàng Mỹ - Phi mà Sachs tìm ra được giấu giường của , chẳng để lại dấu vân tay nào hết. Tấm bản đồ được bày bán đại trà, như ở Staples và Office Depot. Mực là loại rẻ tiền và có nguồn gốc hay dấu vết nào để lần theo. Tấm bản đồ được vẽ với những chi tiết kỹ càng hơn rất nhiều về các con hẻm và các tòa nhà con phố hơn là viện bảo tàng - cái bản đồ dành cho đường tháo chạy của hung thủ. Rhyme suy luận. Nhưng Sachs truy tìm những địa điểm này cách cẩn thận, các thám tử điều tra những nhân chứng trong cửa hàng đồ trang sức và các tòa nhà có trong tấm bản đồ. Có nhiều sợi hơn từ cái dây thừng của - dây thắt cổ, họ suy đoán. Cooper quét phần tấm bản đồ qua máy GC/MS, và dấu vết duy nhất được tìm thấy tờ giấy là carbon tinh khiết. “Than đá từ những người bán hàng hội chợ phố chăng?” thắc mắc. “Có thể”, Rhyme . “Hoặc có thể h vật chứng. Đưa việc này vào tấm biểu đồ. Có thể chúng ta tìm ra mối liên quan sau này.” dấu vết khác bản đồ - các vết bẩn và những mẩu vụn - phần lớn là thức ăn: sữa chua và những hạt đậu xanh, tỏi và dầu ngô. “Món falafel”, Thom, đầu bếp sành ăn, đưa ra lời đoán. “Đến từ Trung Đông. Và thường được phục vụ với sữa chua. Hơn nữa, món này rất tuyệt vời.” “Và cực kỳ phổ biến”, Rhyme cách chua chát. “Chúng ta có thể thu hẹp nguồn gốc tới khoảng hai ngàn cửa hàng chỉ trong khu vực Manhattan, các cậu có nghĩ thế ? Chúng ta có cái khỉ gì nữa đây?” đường trở về đây, Sachs và Sellito dừng lại ở công ty bất động sản quản lý khu phố Elizabeth và lấy được thông tin về người thuê căn hộ. Người phụ nữ quản lý văn phòng người khách trả ba tháng tiền nhà bằng tiền mặt và bảo bà cứ giữ lấy thêm hai tháng tiền đặt cọc. (Số tiền, may là, được tiêu hết; chẳng còn lại tờ nào để truy ra dấu vân tay cả.) sử dụng cái tên Billy Todd Hamil để thuê, địa chỉ cũ ở Florida. Bức ảnh ghép vi tính mà Sachs thực hoàn toàn giống với người đàn ông ký vào hợp đồng thuê nhà, dù đội mũ lưỡi trai và đeo kính. Người phụ nữ cũng xác nhận rằng có giọng miền Nam. Tìm kiếm cơ sở dữ liệu nhận dạng cá nhân cho kết quả 173 người trùng tên Billy Todd Hammils khắp đất nước trong suốt năm năm qua. Trong số những người da trắng và khoảng giữa ba lăm và năm mươi tuổi, ai sống trong khu vực New York. Những người ở Florida đều là người già hoặc khoảng hai mươi tuổi. Bốn Billy Todd có hồ sơ vi phạm pháp luật, và trong số này có ba người vẫn thụ án trong nhà giam và người chết sáu năm trước. “ chọn đại cái tên”, Rhyme lầm bầm. nhìn lên bức ảnh đối tượng từ máy tính. Mày là ai, Đối tượng 109? tự hỏi. Và mày ở đâu? “Mel, gửi email bức ảnh này cho J.T.” “Gửi tới ai?” “Người quản lý trại giam ở Amarillo.” Rồi hất đầu về phía bức ảnh. “Tôi vẫn nghiêng về giả thuyết là phạm nhân có xích mích với người bảo vệ bị hành hình.” “ hiểu”, Cooper . Sau khi làm xong, lấy mẫu chất lỏng mà Sachs tìm thấy ở căn hộ của hung thủ, cẩn thận mở nó ra và chuẩn bị sẵn sàng để đưa vào máy GC/MS. thời gian ngắn sau kết quả lên màn hình. “Đây là mẫu chất mới. Gồm có polyvinyl alcohol, povidone, belzalkonium chloride; dexstrose (đường D-glucosơ); kali clorua (potassium chloride), nước; natri bicarbonat, natri clorua...” “Nhiều muối hơn”, Rhyme thêm vào. “Nhưng lần này còn là bỏng ngô nữa.” “Sodium citrate và sodium phosphate. vài thứ nữa.” “Cái tiếng Hy Lạp vớ vẩn.” Sellito nhún vai và ra sảnh, hướng về phía phòng vệ sinh. Cooper gật gù nhìn vào danh sách thành phần chất lỏng thu được. “Có thông tin nào cho biết nó là gì ?” Rhyme lắc đầu. “Dữ liệu của chúng ta?” “ thấy gì hết.” “Gửi nó xuống Washington.” “ gửi.” Nhà khoa học hình gửi thông tin tới phòng thí nghiệm của FBI và quay trở lại với vật chứng cuối cùng mà Sachs tìm ra: những mẩu gỗ vụn được cạo ra từ các vệt mặt bàn ở căn hộ của hung thủ. Cooper lấy ít để làm mẫu đưa vào máy GC/MS. Trong khi chờ đợi kết quả, Rhyme nhìn lướt qua biểu đồ tư liệu. nhìn vào những ghi chép thấy có chuyển động nhanh ở phía đuôi mắt. Giật mình, quay về hướng đó. Nhưng có ai ở góc đấy của căn phòng. nhìn thấy cái gì vậy? Rồi lại nhìn thấy chuyển động và nhận ra rằng mình nhìn vào cái gì: hình ảnh phản chiếu trong chiếc cốc mặt tủ. Đó là Lon Sellito, đứng mình ở hành lang, ràng tin rằng ai nhìn thấy mình. Những chuyển động nhanh là do viên thanh tra to lớn tập tập lại động tác rút súng nhanh. Rhyme thể nhìn khuôn mặt của ta nhưng vẻ biểu lộ của ta ràng là lo lắng. Đó là điều gì vậy? bắt gặp của Sachs và gật đầu về phía cửa. tiến tới gần cánh cửa và liếc ra ngoài, nhìn viên thanh tra rút khẩu súng ra vài lần nữa rồi lắc lắc đầu, nhăn mặt. Sachs nhún vai. Sau khoảng ba đến bốn phút luyện tập, ta cất khẩu súng , bước vào phòng vệ sinh mà chẳng cần đóng cửa, dội nước bồn cầu và bước ra ngoài giây sau đó. ta quay trờ lại phòng thí nghiệm. “Lạy Chúa, Linc, khi nào đưa cái nhà vệ sinh đại tử tế hơn vào chỗ này đây? Chẳng phải cái màu vàng và đen ấy cũng lỗi thời từ hồi những năm 70 rồi sao?” “ biết đấy, tôi chỉ hay tổ chức các buổi họp trong nhà vệ sinh lắm.” Người đàn ông to lớn cười, nhưng quá to. Tiếng cười giống như bị kích thích bởi câu đùa, nhưng nghe tự nhiên. Nhưng dù điều gì gây rắc rối cho ta ngay lập tức biến mất khỏi đầu Rhyme khi kết quả từ chiếc máy phân tích bằng phương pháp GC/MS lên màn hình máy tính - những mẩu gỗ được lấy ra từ mặt bàn làm việc của hung thủ. Rhyme cau mày. Bản phân tích đưa ra báo cáo rằng cái chất ăn hằn vào gỗ là acid sulfuric tinh chất, tin mà Rhyme thấy rằng hề hay chút nào. Bởi điều, dựa chứng cứ xác thực, nó luôn luôn có sẵn và do đó thực chẳng thể nào tìm ra dù chỉ là manh mối. Nhưng còn đáng ngại hơn, có lẽ nó là acid mạnh nhất - và nguy hiểm nhất - mà ta có thể mua được; như vũ khí, ngay cả với số lượng cực cũng có thể, chỉ trong vài giây, giết hoặc phá hoại thể xác vĩnh viễn. Bảng bằng chứng: Ngôi nhà an toàn phố Elizabeth của hung thủ: + Sử dụng bẫy điện. + Dấu tay: . Chỉ có dấu găng tay. + Camera và màn hình an ninh; có manh mối. + Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; có manh mối. + Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố. Dấu vết: - Falafel và sữa chua - Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất. - Chất lỏng trong suốt, phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI. - Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ? - Carbon nguyên chất tìm thấy tấm bản đồ. + Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil thực tế. trường Bảo tàng Mỹ - Phi + Gói đồ hiếp dâm: - Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là tìm kiếm tâm linh. - Chiếc túi có hình mặt cười. + Quá chung chung để lần tìm. - Dao rọc giấy. - Bao cao su Trojan. - Băng dính. - Dầu thơm mùi hoa nhài. - Vật giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm. - Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc hàng dược phẩm. - Nhiều khả năng được mua từ cửa hàng phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng. + Dấu tay: - Nghi phạm đeo găng tay cao su. - Dấu tay gói đồ thuộc về người có bàn tay , có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng. + Dấu vết: - Sợi thừng vải bông, vài có vết máu người. Dây để thắt cổ? - Gửi tói CODIS. * tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS. * Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó. + Vũ khí: - Dùi cui hoặc chiếc côn. - Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly - loại Black Widow hoặc Minimaster. - Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE. + Động cơ: - Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả. - Động cơ có thể là để lấy tấm vi phim của bài báo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc quan tâm tới bài báo này bởi lý do chưa biết. Bài báo viết về ông tổ của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.) - Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có ai đó muốn được xem bài báo. - cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này. * có manh mối nào. * cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện. * có manh mối nào. - Tìm kiếm bản copy của bài báo. - vài nguồn báo cáo về người đàn ông cầu cùng bài báo. manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh). - Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm. + Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC. - Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ vẫn chưa được tìm ra). - Nạn nhân là nhân viên gác ngục về hưu. - Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas. - Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có trường được làm giả (làm như đó là vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc. Hồ sơ về Nghi phạm 109 + Nam da trắng. + lm8, gần 90kg. + Giọng trung. + Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân. + Mang chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài. + Mùi hoa nhài. + Quần tối màu. + Đeo mũ trùm, màu tối. + nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát. + Nhiều khả năng là kẻ giết thuê. + Nhiều khả năng là cựu phạm nhân ở Amarillo, TX. + Có giọng miền Nam. + Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch . + đặc biệt, nổi bật. + Được thấy mặc chiếc áo mưa tối màu. Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109 + Chưa có thông tin gì lúc này. Hồ sơ về đồng phạm Nghi phạm 109 + Nam, da đen. + Cuối ba mươi, đầu bốn mươi. + Cao khoảng lm8. + Thân thể khỏe mạnh cường tráng. + Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh. + Từng là phạm nhân. + Chân khập khiễng. + Được báo cáo có mang súng. + Râu được cạo sạch . + Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen. + đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh. Hồ sơ về Charles Singleton + Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, con trai. Được ông chủ cho vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm. + Charles bị cho là thực vụ trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm. + Có bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ. + Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York. + Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm? - Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn. - Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu: - Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ. + Thư của Charles: - Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa gọi quân năm 1863, chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu. - Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến. - Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân . Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.
CHƯƠNG 17 bộ con phố ở khu Queens, tay cầm túi đồ và chiếc va li, Thompson Boyd đột nhiên khựng lại. giả vờ nhìn vào tờ báo từ chiếc máy bán báo tự động và gõ vào đầu mình ra vẻ quan tâm tới tình hình thế giói, rồi nhìn về phía sau. có ai theo, có ai quan tâm tới Joe Trung bình cả. thực nghĩ rằng có cái đuôi bám theo. Nhưng Thompson luôn luôn giảm thiểu tối đa mọi nguy cơ. Ta thể nào bất cẩn khi công việc của mình là công việc của tử thần và càng trở nên đặc biệt cảnh giác sau cuộc chạm trán ở căn hộ phố Elizabeth với người phụ nữ mặc bộ đồ màu trắng. Chúng giết con chỉ bằng nụ hôn... Giờ quay lưng trở lại con phố. nhìn thấy ai nép vội vào các tòa nhà hay chuyển hướng cách nhanh chóng. Thỏa mãn, Thompson tiếp tục bước về phía mục tiêu ban đầu. nhìn vào đồng hồ. đến giờ hẹn. bước tới buồng điện thoại và gọi đến số điện thoại ở trung tâm Manhattan. Sau tiếng chuông nghe tiếng: “Xin chào?”. “Là tôi.” Thompson và người ở đầu dây bên kia bắt đầu lặp lại vài lời - kiểu để xác nhận an toàn, giống như những điệp viên - để bảo đảm chắc chắn rằng mỗi người đều biết chắc ai ở đầu dây bên kia. Thompson hạn chế tối thiểu giọng lè nhè của mình, cũng như khách hàng của cẩn thận với giọng của chính mình. Tất nhiên là qua mắt được máy phân tích giọng . Nhưng ta vẫn làm những gì có thể. Người đàn ông biết lần thực đầu tiên thất bại từ khi báo địa phương đưa tin. Khách hàng của hỏi: “Tình hình đến mức nào? Chúng ta có vấn đề gì à?”. Kẻ giết người nghiêng đầu về sau và vài giọt Murine vào mắt. Chợp chợp mắt khi cơn đau tan dần, Thompson trả lời với giọng lạnh như trái tim : “Chà, giờ ông hiểu chúng ta làm gì rồi. Nó giống như bất cứ điều gì đó trong cuộc đời này. Chẳng có cái gì suôn sẻ trăm phần trăm hết. Chẳng có cái gì xảy ra chỉ theo cách mà chúng ta muốn. Con bé đó láu cá hơn cả tôi”. “ đứa con trung học?” “Đơn giản nó là đứa lc lõi. Phản ứng nhanh. Nó sống trong rừng.” Thompson cảm thấy nhói lên khi nhận xét này, nghĩ rằng người đàn ông ở đầu dây bên kia có thể nghĩ tới da đen, kiểu phân biệt chủng tộc, dù thực chỉ ám chỉ rằng sống ở nơi mà môi trường khó khăn và phải lọc lõi. Thompson Boyd là người ít có thành kiến nhất trái đất này. Cha mẹ dạy điều đó. Bản thân Thompson quen biết nhiều người thuộc mọi chủng tộc cũng như hoàn cảnh xuất thân khác nhau và đáp trả họ chỉ đơn giản dựa cách cư xử và thái độ của họ, phải vì màu da. làm việc cho cả những người da trắng, những người da đen, Ả Rập, châu Á, Latin, và cũng giết người của chính những sắc tộc này. thấy khác nhau giữa họ. Tất cả những người từng thuê đều tránh ánh mắt của cũng như hành động cách kỳ cục và thận trọng. Những người chết dưới tay có đủ mọi bằng cấp, thứ bậc khác nhau về lòng tự trọng và nỗi sợ hãi, đồng thời chẳng liên quan gì đến màu da hay quốc tịch. tiếp tục: “ phải những gì ông mong muốn. phải tôi muốn thế, tôi cá đến đồng đô la cuối cùng của ông cho mà xem. Nhưng những gì xảy ra là khả năng hợp lý. Con bé có những kẻ khá lợi hại bảo vệ. Giờ chúng ta biết. Chúng ta chỉ cần dựng lại và tiếp tục thực . Chúng ta thể để cảm xúc xen lấn quá nhiều về việc này được. Lần tới ta tóm được con bé. Tôi đưa vào người biết về Harlem. Chúng tôi cũng tìm ra trường học của nó và tìm xem nó ở đâu. Tin tôi , chúng ta làm chủ được mọi vấn đề”. “Tôi kiểm tra tin nhắn sau”, người đàn ông ở đầu dây bên kia , rồi dập máy cách thô lỗ. Họ chuyện quá ba phút, giới hạn Thompson Boyd đề ra. Theo quyển sách... Thompson dập máy - cần thiết phải xóa dấu vân tay; găng tay da rồi. tiếp tục bước xuống phố. Dãy phố là dải nhà gỗ tầng thanh lịch nằm ở phía đông và các tòa nhà chung cư ở phía tây, khu vực khá cũ kỹ. Có vài đứa trẻ ở gần đó, mới về nhà từ lớp học. Trong những ngôi nhà ở đây, Thompson có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng chương trình kịch ngắn đài hay những chương trình đàm thoại với người nổi tiếng buổi chiều, khi những người phụ nữ là quần áo hay nấu cơm. Dù cuộc sống có là như thế nào ở phần còn lại của thành phố, phần lớn khu vực quanh đây chưa bao giờ thoát khỏi những năm 50. Nó gợi cho nhớ lại về căn nhà di động bằng chiếc xe rơ moóc và ngôi nhà gỗ trong tuổi thơ của mình. cuộc sống êm đềm, khá thoải mái. Cuộc đời của trước khi vào tù, trước khi trở nên vô cảm như cánh tay cụt hay cái chân bị rắn cắn. Ở dãy nhà phía trước, Thompson nhìn thấy bé tóc vàng mặc đồng phục bước vào ngôi nhà gỗ sơn màu be. Trái tim đập nhanh hơn chút - chỉ hay hai nhịp - nhìn theo bé bước lên vài bậc thang bê tông, lấy chìa khóa từ trong cặp sách, mở cửa và bước vào trong. tiếp tục tiến bước về phía ngôi nhà đó, nó ngăn nắp như những ngôi nhà khác, có vẻ hơn chút và được trang trí bức tượng người cưỡi ngựa nho , với những khoảng có tông màu tối được sơn cách cẩn thận với màu đen xạm, loạt những chú hươu bằng gốm nho gặm cỏ bãi cỏ xíu, ngả vàng. bước chậm qua ngôi nhà, nhìn vào những chiếc cửa sổ, rồi tiếp tục bước qua dãy phố. cơn gió mạnh thổi qua làm chiếc túi cầm xoay vòng và những chiếc lon va vào nhau lạch cạch. Chà, cẩn thận chứ, tự với chính mình. Và giữ chặt chiếc túi. Ở cuối dãy phố, đổi hướng rồi nhìn ra sau. người đàn ông bộ, người phụ nữ cố lái chiếc xe vào chỗ đậu ở giữa hai xe khác ven đường, chú bé dắt quả bóng rổ con đường đầy lá rụng. Chẳng ai quan tâm đến cả. Thompson Boyd bắt đầu bước ngược lại về phía ngôi nhà. Trong ngôi nhà ở quận Queens, Jeanne Starke với con mình: “ để cặp sách ở hành lang, Brit. Để ở trong phòng học con”. “Mẹ”, bé mười tuổi thở dài, cố gắng kéo dài hơi. hất mái tóc màu vàng, treo chiếc áo khoác đồng phục lên móc và nhấc chiếc ba lô nặng trịch lên, lầm bầm với nỗi bực dọc. “Bài tập về nhà đâu?”, bà mẹ xinh đẹp, khoảng tầm ba mươi đến bốn mươi tuổi. có mái tóc xoăn đen dày, được buộc chặt ở phía sau với chiếc buộc tóc hình bông hồng đỗ. “Chẳng có bài tập nào cả”, Britney . “ có?” “.” “Lần trước con có bài tập về nhà, nhưng phải vậy.” Bà mẹ châm chọc. “Đấy hẳn là bài tập. Đấy là bài báo. Chỉ là cắt bài nào đó ra khỏi tờ báo thôi mà.” “Con có bài tập ở trường phải làm ở nhà. Bài tập về nhà.” “ mà, có bài tập nào ngày hôm nay cả.” Jeanne có thể là có nhiều hơn thế. nhướn mày. “Chỉ là bọn con cần phải mang đến lớp thứ gì đó từ Italy. Để học giờ thuyết trình. Mẹ biết mà, đấy là dành cho ngày Colombus. Mẹ có biết ông ấy là người Ý ? Con cứ tưởng ông ẩy là người Tây Ban Nha cơ.” Người mẹ của hai đứa trẻ biết điều này. tốt nghiệp trung học và có bằng dự bị đại học điều dưỡng. có thể làm, nếu muốn, nhưng bạn trai của kiếm được nhiều tiền vì là thương nhân và cảm thấy hài lòng khi để chăm sóc cho ngôi nhà, mua sắm với những người bạn và chăm sóc lũ trẻ. phần của điều đó chỉ là để bào đảm rằng lũ trẻ làm bài tập về nhà, bất kể hình thức là như thế nào, bao gồm cả thuyết trình. “Thế thôi hả? Chà chà, xem nào?” “Meeeeeeeeeeeeeẹ.. “ ?” “Đúng...” “‘Vâng’. phải ‘đúng’. Con mang cái gì nào?” “Con biết. Có thể là cái gì đó từ cửa hàng Barrini. Mẹ có biết là Colombus sai ? Ông ấy nghĩ rằng mình tìm ra châu Á, chứ phải là châu Mỹ. Ông ấy còn quay lại đây ba lần nữa và bao giờ biết được .” “ á?” “Đúng... Vâng.” Britney lướt. Jeanne quay trở vào bếp, nghĩ về là ông ấy hề biết điều đó. Colombus thực nghĩ rằng mình tìm ra Nhật Bản hoặc Trung Quốc? rắc bột lên thịt gà, rồi trứng, các mẩu vụn bánh mỳ, và bắt đầu thả hồn mơ tưởng về chuyến du lịch gia đình tới châu Á - nhờ những hình ảnh truyền hình cáp. Hai đứa nhóc thích lắm. Có thể... Đó là lúc tình cờ nhìn ra ngoài và, xuyên qua tấm rèm lờ mờ, thấy bóng người đàn ông chầm chậm tiến đến gần ngôi nhà. cảm thấy bất an. Bạn trai của Jeanne, có sản xuất linh kiện máy tính cho những nhà thầu của chính phủ, tạo ra nỗi sợ hãi trong . Luôn luôn cẩn trọng với người lạ, thế. Nếu như thấy ai đó chậm lại khi họ ngang qua nhà, ai đó có vẻ như thấy thú vị với lũ nhóc cách bình thường... cần phải báo ngay cho biết. lần cách đây lâu lắm, họ ở trong công viên với lũ trẻ, hai đứa chơi ở rìa, chiếc ô tô chậm lại và người lái xe, đeo kính đen, nhìn chằm chằm lũ trẻ. Bạn trai làm và lũ nhóc hoảng sợ và bắt họ trở về nhà. giải thích: “Gián điệp”. “Gì cơ?” “, giống như những điệp viên CIA. Đó là những gián điệp kinh tế - từ những đối thủ cạnh tranh của công ty . Công ty của kiếm được sáu tỷ đô năm ngoái và chịu trách nhiệm phần khá lớn trong số đó. Người ta muốn tìm ra những gì mà biết về thị trường.” “Các công ty khác thực làm điều đó?” Jeanne hỏi như vậy. “Em bao giờ thực hiểu về lòng người.” Đó là câu trả lời của ấy. Và Jeanne Starke, với vết sẹo in hằn cánh tay - chỗ vỏ chai whisky cắt vài năm trước, nghĩ: mình chưa bao giờ hiểu. lau tay mình lên tấm tạp dề, bước về tấm rèm cửa và nhìn ra bên ngoài. Người đàn ông biến mất. Được rồi. Đừng có tự hù dọa mình nữa. Chỉ là... Nhưng khoan... nhìn thấy chuyển động ở bậc thang trước cửa. Và tin rằng mình nhìn thấy góc của chiếc túi - chiếc túi đựng đồ mua sắm - nằm hành lang. Người đàn ông đó ở đây! Chuyện gì xảy ra vậy? có nên gọi ngay cho bạn trai ? Hay là nên gọi cảnh sát? Nhưng họ phải mất mười phút để có thể tới đây. “Có ai đó ở ngoài cửa, mẹ ơi.” Britney gọi. Jeanne bước nhanh về phía trước. “Brit, con ở yên trong phòng . Mẹ ra xem Nhưng bé mở cánh cửa mất rồi. “!” Jeanne hét lên. Và nghe thấy: “Cảm ơn, con ”. Thompson Boyd với giọng lè nhè thân thiện khi bước vào trong ngôi nhà, tay cầm chiếc túi mà nhìn thấy. “ làm em sợ”, Jeanne . ôm chầm lấy và rồi hôn . “ tìm thấy chìa khóa.” “ về nhà sớm.” nhăn mặt. “ vài vấn đề với cuộc thảo luận sáng hôm nay. Họ hoãn đến ngày mai. nghĩ rằng mình cần về nhà và làm chút việc.” Đứa con khác của Jeaime, Lucy, tám tuổi, chạy vào hành lang. “Bố! Chúng con có thể xem Thẩm phán Judy ?” “ phải hôm nay!” “Ứ ừ, mà. Cái gì trong túi vậy ạ?” “Đó là công việc bố cần phải làm. Và bố cần các con giúp.” đặt chiếc túi lên sàn nhà ở hành lang, nhìn hai bé cách trịnh trọng và : “Các con sẵn sàng chưa?” “Rồi ạ!” Lucy . Brit, đứa lớn hơn, gì, nhưng đó là vì chẳng hay nếu cũng đồng ý với em mình; bé hoàn toàn sẵn sàng giúp đỡ. “Sau khi chúng ta hoãn cuộc gặp lại, ra ngoài và mua những thứ này. đọc kỹ hướng dẫn suốt cả buổi sáng hôm nay.” Thompson đưa tay vào trong tài và lấy ra vài hộp sơn, bọt biển, con lăn và bàn chải. Rồi giơ quyển sách đầy những tấm dấu trang màu vàng: Trang trí nhà cách dễ dàng. Tập 3: Trang trí phòng lũ trẻ. “Bố!” Britney . “Cho phòng chúng con ạ?” “Ừ”, lè nhè. “Mẹ các con và ta chắc chắn muốn Dumbo những bức tường.” “Bố định sơn Dumbo?” Lucy cau mày. “Con muốn hình Dumbo.” Britney cũng vậy. “Bố vẽ bất cứ ai các con muốn.” “Để con xem trước!” Lucy lấy quyển sách từ tay . “, con!” “Chúng ta xem cùng nhau”, Thompson . “Để bố treo áo khoác lên và cất va li nào.” bước về phòng làm việc của mình, ở phía trước của ngôi nhà. Quay trở lại căn bếp, Jeanne Starke nghĩ rằng mặc dù những chuyến dài liên miên, nỗi ám ảnh về công việc, có là trái tim ấy hề hòa chung với cả niềm vui hay nỗi buồn của ấy, là ấy phải người bạn trai lý tưởng, chà, biết rằng mình có thể làm rất nhiều những việc tồi tệ hơn trong căn hộ của người bạn trai. Chạy thoát khỏi cảnh sát từ căn hẻm ở gần sân trường Langston Hughes, Jax nhảy lên chiếc taxi và với người lái xe hướng về phía nam, nhanh, thêm mười đô để vượt đèn đỏ. Rồi năm phút sau lại bảo người lái xe vòng lại, thả xuống xa ngôi trường. may mắn trốn thoát. Cảnh sát ràng là làm bất cứ điều gì cần thiết để ngăn những người khác tiếp cận bé. Jax cảm thấy thoải mái, họ gần như biết về . Liệu có phải thằng khốn nạn Ralph chơi xỏ ? Chà, Jax cần phải khôn ngoan hơn chút. Đó là điều mà cần phải cố gắng làm lúc này. Giống như lúc ở trong tù - bao giờ manh động cho tới khi kiểm tra hết mọi thứ. Và Jax biết cần phải tìm hỗ trợ ở đâu. Những gã đàn ông sống ở thành phố luôn luôn tập trung lại với nhau, dù trẻ hay già, đen hay trắng hoặc tiếng Tây Ban Nha, sống ở phía đông New York, Bay Ridge hay Astoria. Ở Harlem, họ tụ tập ở các nhà thờ, quán bar, các câu lạc bộ Rap hoặc Jazz và các quán cà phê, trong các phòng khách, ghế công viên và những bậc thềm. Họ ở những bậc thềm trước cửa và lối thoát hiểm vào mùa hè, quây quần xung quanh những thùng rác cháy vào mùa đông. Các tiệm cắt tóc nữa - giống như bộ phim vài năm trước. (Tên của Jax, Alonzo, thực ra bắt nguồn từ Alonzo Henderson, cựu nô lệ ở bang Georgia trở thành triệu phú bằng việc gây dựng chuỗi tiệm cắt tóc nổi tiếng - bố của Jax hy vọng động lực và tài năng của mình có ở đứa con trai, và đó hóa ra chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi). Nhưng địa điểm phổ biến nhất cho những người đàn ông tụ tập ở Harlem là sân bóng rổ. Họ đến đó để chơi bóng. Nhưng cũng đến chỉ để làm những việc linh tinh, giải quyết những vấn đề của thế giới, về điểm tốt và xấu của phụ nữ, tranh luận về thể thao, chửi nhau và chém gió - phiên bản đại và có tính chất kế thừa: Nghĩa là văn hóa truyền thống của người da đen, kể về những câu chuyện của các nhân vật huyền thoại giống như tên tội phạm Stackolee hay câu chuyện về người đốt lò tàu Titanic sống sót sau thảm họa đâm vào núi băng bằng cách bơi đến nơi an toàn. Jax tìm thấy công viên gần Langston Hughes nhất có sân bóng rổ. Mặc dù khí lạnh lẽo của mùa thu và mặt trời thấp lờ mờ, sân bóng rổ vẫn đầy người. trườn đến cái sân gần nhất và cởi chiếc áo khoác dã chiến ra, bọn cớm chắc hẳn là chú ý đến, xoay mặt trong ra ngoài và choàng nó qua cánh tay. dựa vào hàng rào sắt, hút thuốc và nhìn như phiên bản lớn của Pharaoh Ralph. kéo cái khăn trùm xuống và chải chải cái đầu xù bằng những ngón tay. Khi quay đầu ra nhìn, thấy chiếc xe cảnh sát qua, chậm rãi, dọc con phố bên kia đường với sân chơi. Jax đứng yên chỗ cũ. có gì thu hút chú ý của lũ cớm nhanh hơn việc quay lưng bỏ khi thấy chúng ( bị chặn lại hàng chục lần vì vi phạm cái tội bộ và là người da đen). Ở sân bóng phía trước, nhóm những cậu nhóc học sinh trung học chuyển động cách khéo léo qua nửa sân trải nhựa màu xám, trong khi nhóm khác đứng nhìn. Jax nhìn quả bóng rổ màu nâu bụi bẩn đập xuống nền, rồi nghe thấy thanh nó chạm đất. nhìn những bàn tay tóm chặt, những thân thể lao vào nhau, nhìn quả bóng hướng về phía rổ. Chiếc xe cảnh sát biến mất, Jax nhổm ra khỏi hàng rào và tiến đến gần chỗ những cậu trai đứng ở rìa sân. Tên cựu phạm nhân nhìn lũ trẻ. có tay chị nào, gã gangster với khẩu Glock. Chỉ là túm học sinh trung học - vài đứa có hình xăm, vài đứa , vài đứa đeo những sợi xích, vài đứa chỉ đeo đơn giản cây thánh giá, vài đứa có ý đồ xấu, vài đứa tốt. Nhìn và trêu chọc những đứa con , bắt nạt và làm đại ca những đứa nhóc hơn. chuyện, tán gẫu, hút thuốc. Tận hưởng tuổi trẻ. Quan sát chúng, Jax lại chìm vào giai điệu. từng mong muốn có gia đình lớn, giống như rất nhiều những thứ khác, nhưng giấc mơ đó bao giờ thành thực. từng mất đứa con vào trung tâm giáo dưỡng và đứa trong chuyến định mệnh của bạn tới phòng khá phố 125. Đó là tháng của năm rất lâu rồi, với niềm hân hoan của Jax, ấy thông báo rằng mình có bầu. Đến tháng Ba, ấy cảm thấy đau và họ tới phòng khám miễn phí, đó là lựa chọn duy nhất cho dịch vụ y tế của họ. Họ mất hàng tiếng đồng hồ trong căn phòng chờ bẩn thỉu, đông đúc và chật chội. Cho đến khi gặp được bác sĩ ấy bị sảy thai. Jax túm lấy và gần như đánh ông ấy cách dã man. “Đó phải lỗi của tôi”, người đàn ông Ấn Độ nhò bé , co rúm bên cạnh cái xe đẩy bệnh nhân. “Họ cắt bớt ngân sách của chúng tôi. Chính quyền thành phố làm điều đó. Nghe tôi .” Jax bị nhấn chìm trong giận dữ và tuyệt vọng. cần phải trả thù kẻ nào đó, để bào đảm rằng điều này xảy ra lần nữa - với ấy và với bất cứ ai khác. Chẳng có an ủi nào khi ông bác sĩ giải thích rằng ít nhất họ giữ được mạng sống của bạn - điều mà có thể thể xảy ra nếu như kế hoạch về cắt giảm ngân sách cho việc chăm sóc sức khỏe dành cho người nghèo được thông qua. Chính quyền kiểu gì mà lại làm điều đó với nhân dân? Chẳng phải nhiệm vụ của Tòa thị chính thành phố và chính quyền bang là vì lợi ích của công dân đó sao? Làm thế nào mà họ có thể để đứa bé chết như vậy chứ? Cả bác sĩ, lẫn cảnh sát dẫn ra khỏi cái bệnh viện đêm hôm đó trong chiếc còng tay, đều trả lời được cho những câu hỏi ấy. Nỗi đau và tức giận tột cùng của ký ức ấy càng khiến quyết tâm hơn để vượt qua cái làm lúc này. Khuôn mặt nghiêm trọng, Jax quan sát lũ trẻ sân bóng và hất đầu về phía cậu trai mà cho là thủ lĩnh hoặc cầm đầu. Mặc chiếc quần hộp lửng nhiều túi, đôi giày ống cao và áo thun thể thao. Tóc để kiểu gumby - mỏng ở bên, rồi chải phồng cao lên ở bên kia. Cậu nhóc nhìn . “Gì thế lão già?” Tiếng cười ha hả từ những đứa khác. Lão già. Ở Harlem trước đây - chà, có lẽ là người già ở bất cứ đâu - là người trưởng thành cần có được tôn trọng. Giờ nó khiến ta cảm thấy khó chịu. dân chơi có thể rút súng ra khỏi tất và làm cho thằng nhóc kia nhảy dựng lên. Nhưng Jax được dùi mài qua nhiều năm sống đường phố, hằng năm trời ngồi bóc lịch và biết rằng đó phải là cách để giải quyết, phải ở đây. cười. Rồi thầm: “Có thích vài trăm đô ?”. “Ông muốn à?” “Ta muốn đưa cho cậu vài tờ. Nếu cậu muốn, đồ khỉ.” Jax vỗ vỗ túi áo, chỗ tập tiền phồng lên. “Tôi chẳng buôn bán cái gì cả.” “Tôi chẳng mua cái mà cậu nghĩ đâu. Nào. Lại đây xem nào.” Cậu nhóc gật đầu và họ khỏi sân bóng. Khi bước , Jax cảm thấy cậu ta quan sát , để ý thấy cái chân khập khiễng. Chà, đó là cái chân tôi bị bắn nhưng cũng có thể là cái chân của tay chị thứ thiệt. Rồi cậu ta nhìn vào đôi mắt của Jax, lạnh lùng như bụi bần, rồi cơ bắp và những hình xăm tù. Có thể nghĩ: Với tầm tuổi của Jax có thể khiến trờ thành thủ lĩnh cao trong các băng đảng - người mà ta dây dưa chỉ đem lại hiểm họa và phiền toái. Những thủ lĩnh trong các băng đảng có vũ khí AK và Uzis cộng với Hummers cũng như cả tá côn đồ vây xung quanh. Họ sử dụng những đứa nhóc mười hai tuổi để bắn các nhân chứng và các tay buôn ma túy kình địch bởi pháp luật thể giam giữ chúng suốt đời, trừ khi chúng mười bảy hay mười tám tuổi. dân chị thứ thiệt có thể đập bạn trận bầm giập nếu bạn gọi ông ta là “lão già”. Thằng nhóc bắt đầu nhìn có vẻ e dè. “Chà, vậy chính xác ông muốn gì? Chúng ta đâu đây?” “Chỉ đến kia thôi. Tao muốn chuyện trước cả lũ nhóc.” Jax dừng lại sau vài bụi cây. Đôi mắt thằng bé liếc quanh. Jax cười to. “Tao làm gì mày đâu, nhóc.” Thằng bé cười theo. Nhưng dè dặt. “Được rồi.” “Tao cần phải tìm địa chỉ đứa. đứa học ở Langston Hughes. Mày học ở đấy hả?” “Vâng, phần lớn chúng tôi.” Thằng nhóc hất đầu về phía sân bóng. “Tao tìm con bé bản tin thời sáng nay.” “Con bé ấy á? Geneva? Nó nhìn thấy ai đó bị bắn hay gì đó? Con đĩ toàn điểm A đấy á?” “Tao biết. Nó toàn được điểm A?” “Đúng. Nó thông minh.” “Nó sống ở đâu?” Thằng bé im lặng, dò xét thận trọng. Tranh đấu. Liệu nó có bị đập trận nếu hỏi thứ mà nó muốn nhỉ? Nó quyết định, chắc là , “Ông vừa về tiền?” Jax đưa cho nó vài tờ đô la. “Tôi biết con điếm ấy. Nhưng tôi có thể liên lạc với người em biết điều đó. Tên người em của tôi là Kevin. Muốn tôi gọi cho nó chứ?” “Được.” chiếc điện thoại bé xíu được lôi ra từ tủi quần của thằng nhóc. “Này, tao, Willy đây... Sân bóng rổ... Ừ, nghe này, có ông già ở đây với đống tiền, tìm con điếm của mày đấy... Geneva. Con chó nhà Settle... Này, đùa thôi mà, mày biết tao gì chứ?... Được rổi. Giờ ông này muốn...” Jax giật lấy cái điện thoại từ tay thằng nhóc và : “Hai trăm đô, đưa địa chỉ con bé đây cho tao”. Do dự chút. “Tiền mặt?”, Kevin hỏi. “”, Jax đùa cợt: “Chuyển phát chậm America. Ừ, tiền mặt”. “Tôi tới sân bóng, ông có tiền sẵn đấy rồi chứ?” “Ừ. Nó nằm ngay cạnh khẩu côn của tao, nếu mày thích. Và khi ‘côn’,tao ám chỉ cái chai bia bốn mươi độ[37] đâu.” [37] Nguyên văn: “malt in a forty” - loại bia malt liquor có tên là Colt 45; giống với cách gọi khẩu súng côn. “Được rồi. Chỉ hỏi vậy thôi. Tôi phải mình vòng quanh để kiếm người đâu.” “Tao với đội của mình”, Jax , cười nhăn nhở với Willy lóng cóng. tắt điện thoại và quăng nó cho thằng nhóc rồi về phía hàng rào và dựa vào nó, nhìn trận bóng. Mười phút sau Kevin đến - khác với Willy, nó là tay chơi thực , cao, đẹp trai, hiên ngang. Nhìn giống như diễn viên nào đó mà Jax nhớ ra tên. Để biểu diễn với bạn bè, cho thấy nó chả háo hức gì lắm với việc kiếm vài tờ trăm đô - và tất nhiên, cũng để gây ấn tượng với vài đứa con - Kevin rất chậm rãi. Dừng lại, chạm những nắm đấm vào nhau, ôm lấy hay hai thằng nhóc. Thốt lên cái câu “Chà chà, người em” vài lần, rồi bước vào sân, lấy trái bóng và thực vài cú úp rổ khá ấn tượng. cũng có thể thực cú nhảy úp bóng vào rổ, chẳng có gì thắc mắc hết. Cuối cùng Kevin nhảy về phía Jax và quan sát , bởi đó là điều mà ta làm khi kẻ lạ mặt bước vào giữa đám đông - dù cho đó là sân bóng rổ hay là trong quán bar hoặc thậm chí là tiệm cắt tóc của Alonzo Henderson thời Victoria, Jax đoán vậy. Kevin cố gắng tìm xem Jax giấu khẩu súng ở đâu, liệu Jax có được bao nhiêu tiền và định làm gì. Jax hỏi: “ tao biết xem mày định dò xét tao bao lâu nữa nào? Nó làm tao phát ngán rồi đấy”. Kevin cười. “Tiền đâu?” Jax đưa nó tiền. “Con nhãi đó ở đâu?” “Đợi nào. Tôi chỉ cho ông.” “Chỉ cần đọc địa chỉ đây.” “Ông sợ tôi à?” “Chỉ cần đưa địa chỉ đây.” Đôi mắt nhìn hề nao núng. Kevin cười nhe răng. “Tôi biết số nhà. Tôi biết ngôi nhà nào thôi. Tôi đưa con bé về nhà mùa xuân vừa rồi. Tôi chỉ nó cho ông.” Jax gật đầu. Họ bắt đầu bước về phía tây rồi hướng xuống phía nam, khiến Jax rất ngạc nhiên; cứ nghĩ rằng phải sống ở trong những khu ổ chuột khó khăn - xa hơn về phía bắc theo dòng Harlem, hoặc phía đông. Những con phố ở đây rực rỡ nhưng rất sạch và có vẻ như rất nhiều căn nhà ở đây mới được xây dựng lại. Và cũng có rất nhiều công trình mới được thực . Jax cau mày, nhìn quanh khu phố xinh đẹp. “Mày có chắc là ta về “Đó là con nhãi mà ông hỏi. Đó là ngôi nhà mà tôi muốn chỉ cho ông thấy... Chà, ông có muốn mua ít cỏ, hay là đá ? “.” “Ông chắc chứ? Tôi có vài cái tốt lắm.” “ đáng xấu hổ, mày sớm điếc và mất hết khi chưa già con ạ.” Kevin nhún vai. Họ bước tới dãy phố gần công viên Momingside. đỉnh con dốc lát đá là khuôn viên trường Đại học Columbia, địa điểm thường xuyên bị đánh bom với dòng chữ Jax 157 nhiều năm về trước. Họ bắt đầu rẽ về góc đường nhưng cả hai dừng lại nhanh. “Này, nhìn ”, Kevin thầm. Có chiếc Crown Vic - ràng là xe cảnh sát ngầm - đỗ song song với hàng xe khác phía trước tòa nhà cũ kỹ. “Đó là nhà nó hả? Chỗ cái xe đậu phía trước kia?” “. Nhà của nó cách đấy hai căn về phía chúng ta. Kia kìa.” Cậu nhóc chỉ. Đó là ngôi nhà cũ nhưng vẫn còn khá đẹp và chắc chắn. Những bông hoa trrên các cửa sổ, mọi thứ đều sạch . Rèm cửa xinh xắn. Nước sơn nhìn có vẻ mới. Kevin hỏi: “Ông cho nó trận hả?”, rồi nhìn Jax dò xét từ đầu đến chân. “Định làm gì là việc của tao.” “Việc của ông... Hẳn nhiên là thế rồi.” Kevin với giọng . “Chỉ là... Lý do tôi hỏi là, bởi vì nếu như nó sắp gặp rắc rối với ông - mà tôi chả vấn đề gì với việc đó cả, ý tôi là - nếu có chuyện gì xảy ra với nó, chà, nghĩ thử xem: Tôi biết đó là ông. Và có thể có ai đó đến và chuyện với tôi về điều này. Nên, tôi nghĩ, với cả đống tiền ông nhét trong túi áo mình kia, có lẽ nên san sẻ cho tôi ít nữa, tôi thậm chí có thể quên là từng gặp ông luôn. Mặt khác, cũng có khả năng là tôi nhớ rất nhiều về ông cũng như việc ông hỏi về con đĩ con này.” Jax là tay giang hồ từng trải. Từng là vua Graffiti, từng là người lính trong ến dịch Bão Cát Sa Mạc, biết những tay chị trong tù và bên ngoài, từng bị bắn vào... Nếu như có luật lệ trong cái thế giới điên khùng này chính là dù ta cho rằng mọi người ngu ngốc đến thế nào nữa, thậm chí họ vẫn luôn vui vẻ nếu là những kẻ ngốc. Trong phần triệu giây, Jax chộp lấy cổ áo thằng bé với bàn tay trái và vung nắm đấm mạnh vào bụng nó, ba lần, bốn, năm... “Mẹ kiếp…” Đó là tất cả những gì thằng nhóc kịp thốt ra. Cách ta chiến đấu trong tù. Đừng bao giờ cho chúng nó cơ hội để lấy lại thế. lần nữa, lần nữa, lần nữa... Jax thả nó ra và thằng nhóc chuồn nhanh vào con hẻm, rên rỉ đau đớn. Thận trọng và chậm rãi như vận động viên bóng chày nhấc cây gậy lên, Jax cúi thấp và lôi khẩu súng ra khỏi tất. Trong khi Kevin nhìn theo cách bất lực, tên cựu phạm nhân nhét viên đạn vào trong khẩu súng rồi quấn chiếc khăn trùm của quanh súng nhiều vòng. Jax học điều này từ DeLisle Marshall ở nhà S, là trong những cách tốt nhất và tiết kiệm nhất để bịt tiếng súng nổ.
CHƯƠNG 18 Buổi tối hôm đó, lúc 7 giờ 30 phút, Thompson Boyd vừa hoàn thành việc sơn hình chú gấu hoạt hình lên bức tường trong phòng Lucy. bước lùi lại và nhìn vào tác phẩm của mình. làm những gì mà quyển sách cầu và khá chắc chắn rằng nó giống con gấu. Đó là bức tranh đầu tiên vẽ trong đời, ở bên ngoài trường học - đó là lý do tại sao vất vả nghiên cứu và tìm tòi trong quyển sách ở căn hộ thuê buổi sớm ngày hôm nay. Những bé có vẻ rất thích nó. nghĩ rằng bản thân mình hẳn phải rất vui với bức tranh. Nhưng chắc chắn lắm. nhìn bức vẽ chằm chằm lúc lâu, đợi chờ cảm giác tự hào. Nhưng thấy. Chà. bước vào hành lang, nhìn vào điện thoại của mình. “Có tin nhắn”, cách lơ đãng rồi quay số. “Xin chào, đây là Thompson. thế nào rồi? Thấy cuộc gọi nhỡ của .” Jeanne nhìn rồi quay lại lau khô những chiếc đĩa. “Đừng đùa chứ?” Thompson cười khúc khích. Với người đàn ông cười, nghĩ rằng tiếng cười của mình có vẻ . Tất nhiên, làm điều đó sáng hôm nay, trong thư viện, cười để khiến cho đứa con nhà Settle cảm thấy thoải mái và điều đó lại thực hiệu quả lắm. tự nhắc nhở mình được diễn cách thái quá. “ bạn ạ, đó quả là kẻ lười biếng ăn ngồi rồi”, vào chiếc điện thoại mà hề thực cuộc gọi nào. “Chắc chắn rồi. mất nhiều thời gian phải ? tranh luận ngày mai vậy, ừ, cuộc họp mà chúng ta hoãn ấy... Hẹn gặp lúc mười giờ.” gập điện thoại và với Jeanne. “Vern ở chỗ Joey. Cậu ấy có căn hộ.” Vemon Harber từng tồn tại nhưng bây giờ . Thompson giết ta vài năm trước. Nhưng bởi biết Vem trước khi ta chết, Thompson biến ta thành người hàng xóm tưởng tượng mà thi thoảng nhìn thấy, người bạn. Giống như Vem chết, nhân vật hư cấu có lái chiếc Supra, có người bạn tên là Renee và kể vô số những câu chuyện cười về cuộc sống những bến tàu, trong cửa hàng bán thịt lợn và ở khu vực quanh nhà ta. Thompson biết rất nhiều về Vem và ghi nhớ mọi chỉ tiết trong đầu. ( biết, khi ta dối, hãy dối ràng, hồ hởi và cụ thể.) “ ta lái chiếc Supra của mình lên cái vỏ chai bia.” “ ấy sao chứ?”, Jeanne hỏi. “ ta chỉ cố đậu xe thôi. Cái gã lơ đễnh thể tháo được những con ốc ra mình ý chứ.” Sống và chết, Vem Harber là kẻ lười biếng chẳng biết làm gì. Thompson lấy chiếc bàn chải sơn và chiếc giỏ đựng bìa các tông vào phòng giặt và đặt chúng dưới bồn rửa mặt, vặn nước để nhúng cái bàn chải. khoác chiếc áo ngoài vào. Jeanne hỏi: “À, có thể mua ít sữa giảm béo 2% đường về ?”. “ phần tư gallon hả?” “Thế là đù rồi.” “Và kẹo roll-ups nữa!” Lucy gọi với theo. “Vị gì đây?” “Nho.” “Được rồi. Brit?” “Sơ ri!”, bé rồi nhớ ra là phải thêm vào: “ mà!”. “Nho, sơ ri và sữa.” chỉ vào từng người, theo cầu của họ. Thompson ra ngoài, bắt đầu bước con đường quanh co xuôi xuống những con phố ở Queens, thi thoảng quay lại nhìn để bảo đàm rằng có ai theo dõi. Hít bầu khí lành lạnh vào phổi, nhả ra luồng khí ấm hơn và với những nốt nhạc nhàng: bài hát của Celine Dion trong phim Titanic. Gã sát thủ để mắt tới Jeaime khi vói rằng mình ra ngoài. nhận thấy quan tâm của với Vern có vẻ là và rằng ấy phải là người ít đa nghi nhất, dù là gặp người đàn ông mà ấy chưa bao giờ gặp. Nhưng đó là điều riêng biệt. Đêm nay, giúp đỡ người bạn. Đôi khi mình muốn đặt cược ván ngoài trường đua ngựa. Hoặc là tới gặp vài người bạn ở chỗ của Joey và làm gì đó. Những lời dối của thay đổi liên tục. Người phụ nữ da ngăm đen với mái tóc xoăn bao giờ hỏi nhiều về việc đâu, hay về công việc của thương nhân giả mạo buôn bán linh kiện máy tính mà vẫn rằng mình làm, công việc đòi hỏi phải vắng nhà thường xuyên. bao giờ hỏi kỹ về việc tại sao công việc của lại bí mật đến mức phải luôn khóa cửa trụ sở văn phòng. khôn khéo và rất thông minh, hai điều rất khác nhau, và hầu hết những người phụ nữ như vậy đều khăng khăng đòi can dự nhiều hơn vào cuộc sống của người đàn ông của mình. Nhưng Jeanne Starkle hoàn toàn khác. gặp ở quầy bán đồ ăn trưa ở Astoria vài năm trước sau khi lẩn tránh vụ giết tay buôn bán thuốc phiện ở Newark mà được thuê giết. Ngồi bên cạnh Jeanne ở quầy bán đồ ăn Hy Lạp, hỏi lọ xốt cà chua và rồi xin lỗi, nhận ra rằng có cánh tay bị gãy và với được nó. hỏi xem có ổn và điều gì xảy ra? đánh lạc hướng câu hỏi, dù những giọt nước mắt đong đầy trong đôi mắt. Họ tiếp tục chuyện trò. Họ nhanh chóng hẹn hò. về cánh tay bị gãy cuối cùng cũng hé lộ và ngày cuối tuần Thompson đến gặp gã chồng cũ của . Sau đó, Jeanne với rằng phép màu xảy ra: chồng ta rời khỏi thị trấn và thậm chí gọi lũ trẻ lần nào nữa, chuyện gã từng làm tuần lần, trong tình trạng say khướt rồi nổi xung với lũ trẻ vì mẹ của chúng. tháng sau, Thompson chuyển đến sống với và l trẻ. Có vẻ như, đó là sắp đặt tốt cho Jeanne và những đứa con của . người đàn ông la hét hay sử dụng thắt lưng để đánh đập ai, trả tiền thuê nhà và có mặt mỗi khi ta có thể - tại sao, họ cảm thấy là tài sản tuyệt vời nhất thế gian. (Những năm tháng trong tù dạy Thompson bài học tuyệt vời về việc đặt những chuẩn mực thấp hơn). sắp đặt tốt cho họ, và tốt cho cả sát thủ chuyên nghiệp nữa: Bất cứ ai trong công việc của mà có vợ hay bạn và lũ trẻ ít bị nghi ngờ hơn so với kẻ sống mình. Nhưng có lý do khác mà ở với , quan trọng hơn cà hậu phương và thuận lợi. Thompson Boyd chờ đợi. Có điều gì đó lạc mất khỏi cuộc sống của thời gian dài và chờ đợi trở lại của nó. tin rằng ai đó giống như Jeanne Starkle, người phụ nữ với những đòi hỏi quá lớn lao và với những mong ước bình dị, có thể giúp tìm ra điều đó. Và cái điều lạc mất đó là gì? Đơn giản: Thompson Boyd chờ đợi vô cảm biến mất và những cảm giác trong tâm hồn quay trở lại, theo cái cách mà bàn chân của ta quay lại với cuộc sống sau khi mệt mỏi. Thompson có rất nhiều hồi tưởng về tuổi thơ của mình ở Texas, hình ảnh cha mẹ và người dì Sandra, chị em họ, bạn bè ở trường. Xem những trận đấu A&M Texas ti vi, ngồi quanh chiếc đàn organ điện của Sears, Thompson nhấn phím trong khi dì hoặc cha chơi những bản nhạc với tất cả khả năng của mình với những ngón tay mập mạp ngắn ngủn (đó quà thực là gen của nhà ). Hát vang bài Onward Christian Soldiers, Tie a yellow ribbon và nhạc nền bộ phim The Green Berets. Chơi trò Hearts frên máy tính. Học cách sử dụng những dụng cụ với người cha trong nhà kho ngăn nắp cách hoàn hảo. Bước bên cạnh người đàn ông to lớn sa mạc, kinh ngạc trước hoàng hôn, những thảm dung nham, những con chó sói, những con rắn đuôi chuông trườn như những nốt nhạc nhưng có thể cắn ta chết chì trong tíc tắc. nhớ về người mẹ mộ đạo của mình, gói ghém những chiếc bánh sandwich, tắm nắng, quét lớp bụi của Texas khòi cửa chiếc xe moóc và ngồi trong những chiếc ghế nhôm với những người bạn của bà. nhớ về người cha mộ đạo của mình, sưu tập những chiếc đĩa than, dành những ngày thứ Bảy với con trai và những ngày trong tuần với công việc liều lĩnh những chiếc cần cẩu. nhớ về những buổi tối thứ Sáu tuyệt vời, tới tiệm cà phê Goldenlight đường 66 để ăn bánh kẹp Harleoai tây chiên, thưởng thức nhạc xuynh[38] Texas xập xình qua những chiếc loa. [38] loại nhạc jazz êm dịu nhún nhẩy vào những năm 30. Thompson Boyd vẫn chưa hề vô cảm. Ngay cả khi trải qua quãng thời gian khó khăn sau khi cơn bão tháng Sáu cuốn chiếc xe - nhà của họ - và lấy mất cánh tay phải của mẹ , đồng thời cũng gần như cà cuộc sống của bà, thậm chí cả khi cha mất việc trong thời kỳ giảm biên chế, nó quét sạch cả phần phía của Texas như trận bão cát Oklahoma, Thompson hề vô cảm. chắc chắn hề vô cảm khi nhìn mẹ mình thở dốc và kiềm chế những giọt nước mắt những con phố của Amarillo sau khi đứa nhóc gọi mẹ là “đồ cụt tay” và Thompson theo, đồng thời bảo đảm rằng thằng nhóc bao giờ trêu chọc ai nữa. Nhưng rồi sau đó là những năm tháng tù tội. Và đâu đó trong những căn phòng đầy mùi nước rửa Lysol, vô cảm bò lên cảm xúc và khiến nó ngủ yên. Những cảm xúc ngủ say đến nỗi thậm chí cảm thấy tiếng bíp khi biết tin rằng tài xế cabin của chiếc Peterbilt ngủ gật giết chết cha mẹ và dì của cùng lúc, thứ duy nhất còn lại là bộ hộp đánh giày làm cho cha mình trong sinh nhật lần thứ bốn mươi của ông. Những cảm xúc ngủ sâu đến nỗi sau khi được thả ra và truy lùng người bảo vệ Charlie Tucker, Thompson Boyd chẳng cảm thấy gì khi nhìn người đàn ông chết cách từ từ, khuôn mặt tím tái từ sợi thòng lọng, chiến đấu cách tuyệt vọng để tóm lấy sợi dây và nhấc chính mình lên để ngăn cơn nghẹt thở. Mà ta thể làm được điều đó, dù cho có mạnh mẽ đến đâu. Vô cảm, khi nhìn xác của người bảo vệ đu đưa, quằn quại cách từ từ đến chết. Vô cảm, khi đặt những ngọn nến mặt đất dưới chân Tucker để khiến cho vụ giết người trông giống như kiểu tâm linh, ma quỷ và ngước nhìn vào đôi mắt vô hồn của người đàn ông. Vô cảm... Nhưng Thompson tin rằng có thể sửa chữa chính mình, cũng giống như sửa chiếc cửa buồng tắm và cái tay vịn cầu thang lỏng lẻo ở ngôi nhà gỗ. (Cả hai đều là công việc, điểm khác biệt duy nhất là nơi ta đặt dấu thập phân hay ta có biểt làm hay mà thôi.) Jeanne và lũ trẻ có thể mang những cảm xúc quay trở lại. Tất cả những gì phải làm là thực theo mà thôi. Làm những gì mà người khác làngười bình thường, những người hề lạnh lùng vô cảm: Sơn phòng của lũ trẻ, xem Quan tòa Judy với chúng, picnic ở công viên. Mang cho chúng những gì chúng muốn. Nho, sơ ri, sữa. Nho, sơ ri, sữa. Thử thốt ra những câu chửi thề, mẹ kiếp, khốn kiếp... Bởi đó là những gì mà người ta khi họ tức giận. Và những người tức giận có cảm xúc. Đó cũng là lý do vì sao hay huýt sáo - tin rằng nhạc có thể đưa trở lại những ngày xa xưa ấy, trước khi vào tù. Những người thích nhạc hề vô cảm. Những người hay huýt sáo có cảm xúc, họ có gia đình, có thể làm những người lạ phải ngoái đầu với nốt nhạc luyến hay. Họ là những người mà ta có thể dừng lại góc phố và chuyện, những người mà ta có thể mời miếng khoai tây chiên, ngay đĩa bánh kẹp Harley, với những tiếng nhạc xập xình từ căn phòng bên cạnh, chẳng phải họ cũng là nhạc sĩ sao? Như thế thế nào? Làm theo quyển sách và vô cảm biến mất. Cảm xúc quay trở về. tự hỏi, liệu nó có hiệu quả , chế độ mà sắp đặt cho mình để lấy lại cảm xúc trong tâm hồn? Tiếng sáo, gợi lên trong ký ức những điều mà cảm thấy rằng mình nên nhớ lại, nho và sơ ri, câu chửi thề, cười? Có thể là ít, tin thế. nhớ lại khi nhìn người đàn bà trong bộ đồ màu trắng sáng ngày hôm đó, lại lại, lại lại... có thể thành rằng thích thú được nhìn ta làm việc. niềm vui nho , nhưng đó là cảm xúc. Khá tốt. Đợi : “Chết tiệt, khá là tốt”, thầm. Đó, câu chửi thề. Có thể thử với tình dục thêm xem sao (thường là lần tháng, vào buổi sáng, có thể sắp xếp, nhưng là muốn - nếu như cảm xúc có, ngay cả Viagra cũng thực hiệu quả). Giờ bị giằng xé. Ừ, đó là những gì làm - dành ra vài ngày và làm chuyện đó với Jeanne. Suy nghĩ này khiến cảm thấy thoải mái. Nhưng có thể nỗ lực, tập trung vào việc đó. Đó có thể là bài kiểm tra tốt. Chà, nên thử và xem liệu mình cài thiện được chút nào. Nho, sơ ri, sữa... Thompson dừng lại bên buồng điện thoại công cộng ở trước quán ăn Hy Lạp. quay số hộp thư thoại lần nữa và nhấn mật mã. Lắng nghe tin nhắn mới báo rằng gần như có cơ hội để giết Geneva Settle ở trường nhưng quá nhiều cảnh sát dõi theo bảo vệ bé. Tin nhắn tiếp tục, cho địa chỉ, nằm phố 118 và báo rằng có ít nhất xe cảnh sát và xe tuần tra đậu gần đó, thi thoảng thay đổi vị trí. Số lượng cảnh sát bảo vệ bé khoảng đến ba người. Thompson ghi nhớ địa chỉ và xóa tin nhắn rồi tiếp tục hành trình phức tạp của mình tới tòa nhà sáu tầng còn xơ xác hơn nhiều căn nhà của Jeanne. vòng ra đằng sau và mở cánh cửa sau đó mới bước lên những bậc thang tới căn phòng là nơi náu chính. bước vào trong, khóa cửa rồi tắt hệ thống an ninh ngăn những kẻ xâm nhập mà thiết lập. Nơi này đẹp hơn chút so với căn hộ phố Elizabeth. Nó được che phủ, bảo vệ bởi tấm biển quảng cáo màu vàng được gắn chặt bằng đinh và được tô điểm bởi tấm thảm sợi dày màu nâu và có mùi của tấm thảm sợi dày màu nâu tỏa ra. Có nửa tá những đồ đạc nội thất. Nơi này gợi lại trong ký ức Thompson về căn phòng giải trí mà và cha dùng nhiều ngày cuối tuần để xây dựng căn nhà gỗ ở Amarillo, thay thế cho cái xe moóc bị cơn bão cuốn mất. Từ cái ngăn kéo đựng đồ lớn, cẩn thận rút ra vài cái lọ và mang chúng lên bàn làm việc, miệng huýt sáo bài hát nhạc nền trong bộ phim Pocohantas. Lũ trẻ rất thích bộ phim này. mở hộp dụng cụ, đeo đôi găng tay cao su dày, mặt nạ, đôi kính bảo vệ mắt và lắp ráp thiết bị giết Geneva Settle ngày mai - và bất cứ ai gần nữa. Wssst... Giai điệu trở thành tiếng gì đó: còn là bài hát của Disney. Bài Forever Young của Bob Dylan. Khi hoàn thiện thiết bị, kiểm tra nó kỹ càng và cảm thấy khá hài lòng. cất mọi thứ rồi bước vào phòng tắm, tháo găng và rửa tay ba lần. Tiếng sáo lặng dần khi bắt đầu nhớ lại trong đầu câu thần chú của ngày hôm nay. Nho, sơ ri và sữa... Nho, sơ ri và sữa. chưa bao giờ ngừng sẵn sàng cho cái ngày vô cảm biến mất. “Cháu thế nào rồi?” “Ổn mà, chú thanh tra.” Thanh tra Bell đứng thềm cửa phòng bé và nhìn vào giường, nơi ngập đầy sách vở và giấy. “Cháu cần phải là chú làm việc vất vả.” Geneva nhún vai. “Chú về nhà gặp các con trai của mình bây giờ.” “Chú có con trai?” “Ừ. Có hai cậu con trai. Có thể cháu gặp chúng ngày nào đó. Nếu cháu muốn.” “Chắc chắn rồi”, nhưng lại nghĩ: Điều đó bao giờ xảy ra. “Các bạn ấy ở nhà với vợ chú à?” “Chúng ở nhà ông bà lúc này. Chú từng kết hôn nhưng ấy mất rồi.” Những lời này chạm vào trái tim của Geneva. có thể cảm thấy nỗi đau sau chúng - theo cách kỳ lạ rằng, thái độ của chú ấy hề thay đổi khi thốt ra. Giống như tập để với mọi người điều đó mà bật khóc. “Cháu rất tiếc.” “À, đó là chuyện vài năm trước rồi.” bé gật đầu. “Chú Pulaski đâu rồi ạ?” “Cậu ẩy về nhà rồi. Cậu ẩy có đứa con . Và vợ cậu ấy mang bầu em bé nữa.” “Bé trai hay bé ạ?”, Geneva hỏi. “ lòng chú thể với cháu được. Cậu ấy quay lại sớm vào ngày mai. Chúng ta có thể hỏi cậu ấy sau. Bác của cháu ở phòng bên cạnh và Lynch ở đây đêm nay.” “Barbe?” “Đúng vậy.” “ ấy rất tốt bụng. ấy kể cho chú nghe về những con chó mà ấy nuôi. Và về vài chương trình ti vi mới nữa.” Geneva hất đầu về phía những quyển sách của mình. “Cháu có nhiều thời gian để xem ti vi.” Thanh tra Bell cười. “Các cậu con trai của chú có thể lây chút ảnh hưởng từ cháu. Chú nghĩ mấy đứa hẳn rất hợp nhau đấy. Giờ cháu thử gọi Barbe xem, viện bất cứ lý do nào cháu muốn.” ngập ngừng. “Ngay cả khi cháu có giấc mơ tồi tệ. Chú biết đôi khi nó rất khó khăn, bố mẹ cháu ở nhà.” “Cháu vẫn ổn lúc mình mà”, . “Chú nghi ngờ điều đó. Chỉ là, kêu lên nếu. Đó là lý do chúng ta ở đây.” bước về phía cửa sổ, hé nhìn qua tấm rèm cửa, bảo đảm rằng cửa sổ được khóa và thả những thanh rèm xuống. “Chúc ngủ ngon. Cháu đừng lo lắng. Tự tay chúng ta bắt . Chỉ là vấn đề thời gian thôi. có ai giỏi hơn Rhyme và những người làm việc với chú ấy đâu.” “Chúc ngủ ngon.” bé vui mừng vì khỏi. Có thể ý của là tốt nhưng Geneva ghét bị coi như là trẻ con cũng như khi bị nhắc đến tình hình tồi tệ này. dọn dẹp đống sách vở khỏi giường và chồng chúng lên cách ngăn nắp cạnh cửa để nếu như phải rời nhanh có thể tìm trong bóng tối và mang chúng theo. vẫn làm thế hằng đêm. mò trong túi mình và tìm thấy bông hoa vilolet khô mà nhà ảo thuật gia, Kara, đưa. nhìn nó lúc lâu rồi cất nó cẩn thận vào quyển sách đầu tiên chồng và gấp bìa lại. Nhanh chóng vào phòng tắm, Geneva lau sạch cái bồn rửa mặt màu ngọc trai sau khi rửa ráy và đánh răng. tự cười chính mình, nghĩ tới đống lộn xộn khủng khiếp trong nhà vệ sinh của Keesh. ở hành lang, Barbe Lynch chúc ngủ ngon. Quay trở vào phòng ngủ, Geneva khóa cửa, do dự rồi cảm thấy ngớ ngẩn, đặt cái ghế nghiêng dựa vào núm cửa. cởi quần áo, mặc quần đùi và chiếc áo phông phai màu rồi trở vào giường. Tắt đèn và nằm ngửa, lo lắng và điên cuồng, trong hai mươi phút đồng hồ, nghĩ về mẹ, rồi bố và, Keesh. Hình ảnh của Kevin Cheany xen vào; đẩy nó biến mất cách đầy giận dữ. Rồi dòng suy tư của dừng lại ở ông tổ Charles Singleton. Chạy, chạy, chạy... Nhảy xuống dòng sông Hudson. Nghĩ về bí mật của ông ấy. Điều gì mà quan trọng đến mức ông đánh liều tất cả mọi thứ để bảo vệ nó? Nghĩ về tình ông dành cho vợ và con trai. Nhưng cả cái gã khủng khiếp ở thư viện sáng nay cũng chen vào trong tâm trí của . À, lớn trước mặt cảnh sát. Nhưng tất nhiên là rất sợ hãi. Cái mũ trùm trượt tuyết, tiếng động khi cây gập đập trúng ma nơ canh, tiếng chân dồn đuổi phía sau. Và giờ là gã khác nữa, gã da đen ở sân trường với khẩu súng. Những ký ức này nhanh chóng giết chết cơn buồn ngủ. mở mắt và nằm yên thao thức, cảm thấy mỏi mệt, nghĩ về đêm ngủ khác cách đây nhiều năm rồi: Khi đó Geneva mới bảy tuổi, bò ra khỏi giường và lang thang vào phòng khách trong căn nhà. bé bật ti vi và xem vài chương trình hài kịch tình huống ngu ngốc khoảng mười phút trước khi cha bước vào phòng. “Con làm gì ở đây vậy, xem cái đó à?” ông chớp chớp mắt dưới ánh sáng. “Con ngủ được.” “Hãy đọc quyển sách. Như vậy tốt hơn cho con.” “Con cảm thấy thích đọc sách lắm.” “Được rồi. Vậy cha đọc.” ông bước tới kệ sách. “Con thích cuốn này. trong những quyển sách hay nhất từng có.” Khi ngồi xuống chiếc ghế, nó kêu cót két và rít lên dưới sức nặng của ông, nhìn vào quyển sách nhưng thể thấy được bìa. “Con cảm thấy thoải mái chứ?”, ông hỏi. “Vâng!” nằm duỗi ra chiếc ghế dài. “Hãy nhắm mắt lại.” “Con buồn ngủ.” “Nhắm mắt và hãy tưởng tượng những gì ta đọc.” “Được rồi. Đó là...” “Im lặng nào.” “Được rồi.” Ông bắt đầu với quyển Giết con chim nhại. Trong tuần tiếp theo, việc ông đọc sách cho bé trước khi ngủ trở thành thói quen. Geneva Settle quyết định rằng đó là trong những quyển sách hay nhất mình từng có - và thậm chí ở cái tuổi ấy, đọc, hoặc đứng hơn là nghe, rất nhiều sách. thích các nhân vật chính - người đàn ông góa vợ bình thản, mạnh mẽ; người trai và người em (Geneva luôn khao khát có được người chị em). Và bản thân câu chuyện, lòng dũng cảm được che đậy bằng lòng thù hận và ngu ngốc, làm ta phải mê muội. Ký ức về cuốn sách của Harper Lee vẫn ở lại với . Và buồn cười là, khi quay lại và đọc nó lúc mười tuổi, còn học được nhiều hơn lúc đó. Rồi khi mười bốn tuổi, thậm chí còn hiểu ra nhiều điều hơn nữa. mới đọc lại năm ngoái và viết bài luận về nó cho môn tiếng . Và được điểm A+. Giết con chim nhại là trong những cuốn sách nằm trong cái chồng đặt cạnh cửa phòng ngủ lúc này, cái chồng “chộp lấy mang theo trong trường hợp khẩn cấp”. Đó là quyên sách mà luôn muôn được mang theo trong túi xách của mình, ngay cả khi đọc nó. Đó cũng chính là quyển sách mà nhét đóa hoa may mắn của Kara vào trong. Dù vậy, đêm hôm nay, chọn quyển sách khác từ trong đống sách. cuốn của Charles Dicken. Oliver Twist. nằm ngửa, đặt quyển sách lên ngực mình và mở nó ra tới cái trang được đánh dấu bằng cái ống hút dẹp lép ( bao giờ gập trang sách nào lại trong bất cứ quyển sách nào, ngay cả khi đó là trang bìa mềm). Geneva bắt đầu đọc. Lúc đầu, tiếng cọt kẹt của ngôi nhà khiến sợ hãi và hình ảnh của gã đàn ông với chiếc mũ trùm trở lại, nhưng nhanh chóng chìm đắm vào câu chuyện. Và lâu sau đó, khoảng tiếng đồng hồ, đôi mắt của Geneva Settle trở nên nặng trĩu và cuối cùng hoàn toàn chìm vào giấc ngủ - phải bằng nụ hôn chúc ngủ ngon của mẹ, hay tiếng cha thâm trầm đọc lời cầu nguyện, mà bằng những lời văn đẹp đẽ của người lạ.
CHƯƠNG 19 “Đến giờ ngủ rồi.” “Gì cơ?”, Rhyme hỏi, ngước lên nhìn từ màn hình máy tính. “Giờ ngủ”, Thom nhắc lại. Hơi dè chừng chút. Đôi khi để lôi Rhyme rời khỏi bàn làm việc thực là cuộc chiến. Nhưng chuyên gia về tội phạm : “Ừ, ngủ thôi”. Thực tế là, rất mệt mỏi - và chán nản nữa. đọc dở email từ người quản lý trại giam J.T. Beauchamp ở Amarillo báo lại rằng có ai trong nhà tù nhận ra bức ảnh ghép từ máy tính của Nghi phạm 109. nhanh chóng đọc ra bức thư cảm ơn ngắn gọn và tắt máy. Rồi với Thom: “Chỉ cuộc gọi, rồi tôi ngủ ngay thôi”. “Tôi dọn dẹp vài thứ”, viên phụ tá . “Gặp ở lầu.” Amelia Sachs về nhà ngù, và để gặp mẹ của nữa, bà sốngà bị ốm mấy hôm nay - vài vấn đề về tim mạch. Sachs thường xuyên dành thời gian ở lại với Rhyme, nhưng vẫn giữ lại căn hộ của mình ở Brooklyn, ở đó có các thành viên gia đình và bạn bè khác. (Jenifer Robinson - nữ cảnh sát tuần tra, người đưa Geneva và Keesh đến chỗ Rhyme buổi sáng ngày hôm nay - sống ngay con phố đó). Bên cạnh đó, Sachs, cũng như Rhyme, đôi khi cần những khoảng gian riêng và sắp xếp này phù hợp với cả hai người họ. Rhyme gọi điện và chuyện vắn tắt với mẹ của , mong bà mau khỏe. Sachs cầm máy và với về những tình tiết mới nhất - dù chỉ có chút. “ vẫn ổn chứ?”, Sachs hỏi . “Nghe giọng có vẻ còn băn khoăn?” “Mệt mỏi.” “À.” tin điều . “ ngủ .” “Em cũng thế. Ngủ ngon nhé!” “ , Rhyme.” “ em.” Sau khi tắt máy, lái chiếc xe lăn về phía tấm bảng bằng chứng. Tuy nhiên, hề nhìn vào những đoạn viết tỉ mỉ của Thom về vụ án. nhìn vào bản in của lá bài tarot, được dán lên bàng, lá bài thứ mười hai, Người treo ngược, đọc lại bài viết về ý nghĩa của quân bài này, nhìn chằm chằm nghiên cứu cái mặt treo ngược bình thản của người trong lá bài. Rồi quay ra và tiến đến chiếc thang máy nối phòng thí nghiệm ở tầng với phòng ngủ ở tầng hai, ra lệnh cho chiếc thang máy lên rồi lái xe lăn ra ngoài. Rhyme ngẫm nghĩ về lá bài tarot. Cũng như Kara, người bạn ảo thuật của họ, hề tin vào thuyết duy linh hay những người có năng lực siêu nhiên. (Cả hai người, trong lĩnh vực của mình, đều là những nhà khoa học. Nhưng vẫn thể tìm ra và mắc kẹt bởi là lá bài với chiếc giá treo cổ chỉ ngẫu nhiên là phần của bằng chứng trong vụ án mà trong đó từ “Giá treo cổ” được nhắc đến. Từ “treo” nữa cũng là trùng hợp chưa lý giải được. Tất nhiên, các nhà tội phạm học cần phải biết mọi nguyên nhân dẫn đến cái chết, và Rhyme hiểu việc treo cổ giết nạn nhân như thế nào. Nó thắt chặt cổ nạn nhân cao, chi ngay dưới cái xương nền sọ. (Nguyên nhân thực dẫn đến cái chết của những vụ treo cổ kiểu hành hình là nạn nhân bị nghẹt thở, phải là từ việc siết cổ họng đóng chặt lại, mà là việc cắt đứt các nơ-ron thần kinh mang tín hiệu của não bộ đến phổi). Điều này gần như xảy ra với Rhyme ở trường vụ án dưới đường tàu điện ngầm vài năm trước. Gallows Heights... Người treo ngược... Dù vậy, ý nghĩa của lá bài tarot lại là phần đáng chú ý nhất của ngẫu nhiên này: diện của nó ám chỉ rằng tìm kiếm về mặt tâm linh đưa tới quyết định, chuyển đổi, thay đổi về phương hướng. Lá bài thường dự báo khuất phục trước những kinh nghiệm, kết thúc tranh đấu, và chấp nhận nó. Khi lá bài này xuất với bạn, bạn phải lắng nghe chính nội tâm mình, dù cho cái thông điệp ấy có vẻ như trái ngược với logic. cảm thấy vui vì thực hàng tá cuộc tìm kiếm từ trước đến nay - trước cả vụ án của Nghi phạm 109 với xuất của lá bài báo trước tương lai này. Lincoln Rhyme cần phải đưa ra quyết định. thay đổi về phương hướng... Giờ Rhyme ở trong phòng ngủ nữa mà tới căn phòng là tâm điểm của cuộc tranh cãi dữ dội này: Phòng trị liệu, nơi mà dành hàng trăm giờ đồng hồ tập luyện cách chăm chỉ các bài tập trong chế độ của bác sĩ Sherman. Dừng xe lăn ở cửa vào, xem xét những thiết bị phục hồi chức năng trong căn phòng mờ ảo - chiếc cơ công kế, máy huấn luyện vận động guồng quay rồi nhìn chằm chằm xuống tay phải của mình được buộc chặt ở vị trí cổ tay vào bàn điều khiển của chiếc xe lăn Storm Arrow màu đỏ. Quyết định... Cố lên nào, với chính mình. Thử xem. Bây giờ. Nhúc nhích bàn tay . Thở nặng nhọc. Mắt hút về phía bàn tay phải. ... Đôi vai đổ sụp xuống, chùng hết mức có thể, nhìn vào trong căn phòng. Nghĩ tới tất cả những bài tập gian khổ. hắc chắn rồi, những nỗ lực cải thiện độ loãng xương cũng như các khối cơ và tuần hoàn, giảm bớt lây nhiễm và khả năng các bệnh lý mạch máu thần kinh. Nhưng câu hỏi thực quanh bài tập luyện đó có thể được vắn tắt bằng cụm từ bởi các chuyên gia y học: Lợi ích về mặt chức năng. Cách hiểu và diễn giải của Rhyme ràng và ít mập mờ hơn là: cảm giác và vận động. Đó chính là những mặt của hồi phục mà gạt bỏ khi tranh cãi với Sherman ngày hôm nay. đúng hơn là, dối bác sĩ. Trong trái tim mình, cần phải thú nhận với bất cứ ai hết, là khao khát bùng cháy để biết điều: Liệu những giờ tập luyện đổ mồ hôi sôi nước mắt đầy gian khổ có giúp lấy lại được cảm giác và mang lại cho khả năng cử động những cơ bắp nằm im hằng năm trời ? Liệu có thể nào vặn được núm chiếc kính hiển vi Baush & Lomb để kiểm tra sợi vải hay sợi tóc? Liệu có thể cảm nhận được bàn tay Sachs trong bàn tay ? Đối với những cảm giác, có lẽ có những chuyển biến . Nhưng người liệt với thương tích cấp độ C4 trôi lênh đênh biển của những cơn đau và ảo giác, tất cả khiến não bộ kích động và hoang mang cực độ. Ta cảm thấy những con ruồi bò lổm nhổm da mà thực tế chẳng có con nào cả. Ta hề cảm nhận thấy gì hết, cả khi cúi xuống nhìn và nhận ra rằng dòng cà phê bỏng rẫy đốt cháy các lớp da thịt mình. Dù vậy, Rhyme vẫn tin rằng, có chút cải thiện về cảm giác. À, nhưng về cải thiện lớn nhất - cử động - sao? Đó thực là viên kim cương lớn trong công cuộc phục hồi chấn thương tủy sống. Nhìn xuống bàn tay phải lần nữa, thể nhúc nhích từ sau vụ tai nạn. Câu hỏi này có thể được trả lời cách đơn giản và ràng. có các vấn đề về những cơn đau ảo giác, có những phản ứng theo kiểu “tôi nghĩ là mình cảm thấy gì đó”. Nó có thể được trả lời ngay lúc này đây. Có hay . cần kiểm tra qua máy chụp cộng hưởng từ hoặc máy đo điện trở động hay bất cứ cái máy kỳ cục nào mà các bác sĩ thường có trong những chiếc túi đen nho của họ. Ngay lúc này đây, có thể đơn giản truyền những kích thích nho tới những cơ bắp theo con đường của các nơ-ron thần kinh và rồi chờ đợi xem điều ì xảy ra. Liệu những mệnh lệnh có đến nơi và khiến ngón tay co lên - để có thể được so sánh tương đương với kỳ lục nhảy xa thế giới? Hay là nó đâm vào điểm dừng tuyến đường thần kinh chết? Rhyme tin rằng mình là người đàn ông dũng cảm, cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong những ngày trước khi xảy ra vụ tai nạn, có gì mà thể làm để hoàn thành công việc. lần bảo vệ trường vụ án, và người khác ngăn đám điên cuồng khoảng bốn mươi người cố ăn trộm đồ trong cửa hàng xảy ra vụ nổ súng, trong khi cảnh sát có thể dễ dàng ngăn lại an toàn. lần khác, chạy tới trường chỉ cách hung thủ được che chắn và xả súng điên cuồng vào cách đó gần mười bảy mét, chỉ để tìm ra bằng chứng có thể dẫn điến địa điểm của bé bị bắt cóc. Rồi có lần đặt cả nghiệp của mình trước miệng vực vì bắt giữ sĩ quan cảnh sát cấp cao do làm hỏng trường đơn giản để giúp cánh báo chí có chỗ đứng chụp ảnh. Nhưng giờ đây lòng dũng cảm từ chối . Đôi mắt buồn bã nhìn chằm chằm vào bàn tay phải. Có, ... Nếu như cố gắng cử động ngón tay và thể làm được điều đó, nếu như thể khẳng định trong những chiến thắng của bác sĩ Sherman trong các trận chiến đầy gian nan vất vả mà phải đối mặt, nó có thể là kết thúc. Những suy nghĩ đen tối quay trở lại, giống như cơn thủy triều cuốn cao dần, cao dần bãi biển, và cuối cùng gọi cho bác sĩ lần nữa - nhưng phải Sherman. bác sĩ hoàn toàn khác. Người đàn ông đến từ Lethe Society, nhóm những người ủng hộ trợ tử[39]. vài năm trước, cố gắng kết thúc cuộc đời mình, đó là khi thể độc lập như bây giờ. Chỉ vài chiếc máy tính, có hệ thống ECU và điện thoại kích hoạt bằng thanh. Đáng nực cười là, giờ đây cuộc sống tốt hơn nhiều, và cũng thừa khả năng tự giết mình hơn trước. Vị bác sĩ có thể giúp bằng cách trang bị số thiết bị vào ECU, và để lại những viên thuốc hoặc vũ khí gì đó gần đấy. [39] Hình thức giúp người chết cách nhàng khỏi đau đớn do bệnh tật. Tất nhiên, có những người bạn, người thân trong cuộc sống lúc này, khác với vài năm trước. Việc tự tử có thể là cú sốc mạnh đối với Sachs, nhưng cái chết luôn là phần trong tình của họ. Với dòng máu cảnh sát chảy trong huyết mạch, vẫn luôn là người đầuông qua cửa trong bất cứ pha hạ gục nghi phạm bất ngờ nào, dù cho cần phải làm như vậy. Ngoài việc được trao tặng huy chương cho lòng dũng cảm trong những trận đấu súng, còn lái xe như tia chớp - số người thậm chí có thể rằng có thiên hướng tự sát bên trong mình. Trong trường hợp của Rhyme, khi họ mới gặp - trong vụ án vô cùng khó nhằn, thử thách khắc nghiệt của bạo lực và chết chóc vài năm trước - rất gần đến việc tự giết chính mình. Sachs hiểu điều này. Thom cũng chấp nhận điều đó. (Rhyme với người phụ tá của mình trong buổi phỏng vấn đầu tiên: “Tôi có thể sống lâu đâu. Nhớ rằng luôn rút tiền trong thẻ lương của mình ngay khi cậu nhận được nó”.) cũng ghét suy nghĩ về hậu quả cái chết của mình mang lại cho họ, và cả những người quen biết khác. Chưa đến là nhiều vụ án trôi vào quên lãng mà được giải quyết, những nạn nhân chết, nếu như còn diện mặt đất này để thực cái công việc là phần quan trọng trong tâm hồn mình. Đó chính là lý do tại sao cứ trì hoãn buổi kiểm tra. Nếu như tình trạng có chút khả quan nào điều đó đủ để đẩy rơi xuống vực. Đúng... Lá bài thường tiên đoán đầu hàng trước những kinh nghiệm, kết thúc tranh đấu, và chấp nhận nó... ... Hay ? Khi lá bài này xuất trong lượt bói của bạn, bạn phải lắng nghe nội tâm mình. Và đó là khoảnh khắc mà Lincoln Rhyme đưa ra quyết định của mình: từ bỏ. dừng những bài tập lại, thôi còn bận tâm đến ca phẫu thuật tủy sống. Sau tất cả, nếu ta có hy vọng, hy vọng thể bị phá hủy. xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình. tồn tại của hoàn hảo nhưng nó vừa phải và chấp nhận được. Lincoln Rhyme chấp nhận con đường của mình, và bằng lòng với những gì mà Charles Singleton từ chối: phần người, ba phần năm của con người. Bằng lòng, nhiều hơn hay ít hơn. Sử dụng ngón đeo nhẫn ở bàn tay trái, Rhyme chuyển hướng chiếc xe lăn và quay về phía phòng ngủ vừa đúng lúc Thom đứng thềm cửa. “ sẵn sàng ngủ rồi chứ?”, người phụ “Dĩ nhiên rồi”, Rhyme đầy hoan hỉ. “Tôi sẵn sàng.