Lá Bài Thứ XII - Jeffery Deaver [Trinh Thám, Hình Sự]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 9

      Đối tượng 109 có thể hoặc phải là kẻ tấn công tình dục nhưng hề có mẫu DNA của trong dữ liệu của CODIS.

      Kết quả tính làm nổi bật thiếu sót của những manh mối trong vụ án, Rhyme trầm ngâm với bế tắc. Họ nhận được những mảnh vỡ còn lại của viên đạn, được lấy ra từ thân thể tiến sĩ Barry bởi những chuyên gia y tế, nhưng nó thậm chí còn nát vụn và tồi tệ hơn viên đạn được lấy ra từ người phụ nữ đứng gần đó, cũng chẳng có tác dụng gì hơn những mảnh trước đó cho công việc điều tra bằng IBIS hay DRUGFIRE.

      Họ cũng nghe thông tin từ vài người ở bảo tàng Mỹ - Phi. Tiến sĩ Barry chẳng hề đề cập với ai trong số các nhân viên về vị khách quan tâm tới cái Tuần báo Minh họa dành cho người da màu năm 1868 ấy cả. Và cả nhật ký điện thoại của bảo tàng cũng chẳng hé lộ ra manh mối nào hết; tất cả các cuộc gọi đều tới tổng đài trung tâm và rồi được kết nối tới các số máy lẻ, chi tiết nào được giữ lại. Các cuộc gọi đến và điện thoại của ông cũng đưa ra đầu mối nào cả.

      Cooper với họ rằng mình tìm hiểu thông tin từ chủ sở hữu của hiệu Trenton Plastics, trong những nhà sàn xuất túi nylon đựng đồ mua sắm lớn nhất nước. Người chuyên viên nhắc đến lịch sử của cái icon hình mặt cười, như người chủ công ty với . “Họ nghĩ rằng cái mặt cười nguyên bản được in hình cái nút áo bởi chi nhánh của công ty bảo hiểm State Mutual Insurance những năm 60 để thúc đẩy danh tiếng của công ty và như mánh lới quảng cáo. Trong những năm 70, có hai em vẽ khuôn mặt cười như vậy với khẩu hiệu: “Hãy vui vẻ". dạng hình ảnh thay thế cho biểu tượng hòa bình. Từ đó được in năm mươi triệu sản phẩm mỗi ngày bởi hàng chục công ty.

      “Vậy mấu chốt của bài học này là gì?”, Rhyme lầm bầm

      “Rằng ngay cả khi nó được đăng ký bản quyền, mà ai có vẻ là biết điều đó, có đến hàng tá công ty vẫn làm ra những chiếc túi có mặt cười. Và điều đó có nghĩa là thể nào lần ra được dấu vết.”

      Ngõ cụt...

      Trong hàng tá bảo tàng và thư viện mà Cooper,

      Sachs và Sellito hỏi, chỉ có hai báo lại rằng có người đàn ông gọi tới trong vài tuần trước hỏi về ấn bản của Tuần báo Minh họa dành cho người da màu từ tháng 7 năm 1868. Điều này khá khích lệ bởi nó ủng hộ giả thuyết của Rhyme về việc chính cái tạp chí này là lý do mà Geneva bị tấn công. Nhưng cả hai cơ quan đều có ấn bản đó và chẳng ai có thể nhớ tên của người gọi điện - nếu như thậm chí cho họ biết tên mình. Chẳng có ai có vẻ là có bản sao của tạp chí ấy để cho họ nhìn xem nó thế nào. Bảo tàng Báo chí Mỹ - Phi ở New Haven báo rằng họ có đủ bộ vi phim nhưng nó biến mất.

      Rhyme tỏ vẻ cau có với tin này khi chiếc máy tính đổ chuông báo và Cooper thông báo: “Chúng ta có hồi từ VICAP”.

      nhấn vào thanh công cụ và gửi email tới tất cả những máy tính trong phòng thí nghiệm của Rhyme. Sellito và Sachs chụm lại quanh chiếc, Rhyme nhìn vào tấm màn hình phẳng của mình. Đó là email được bảo đảm an toàn từ thanh tra ở phòng thí nghiệm nghiên cứu trường tại Queens.

      Thanh tra Cooper:

      Theo cầu của ngài, chúng tôi xử lý dữ liệu mà ngài cung cấp qua cả VICAP và HITS, tìm ra hai thông tin phù hợp như sau:

      việc thứ nhất: Vụ giết người ở Amarillo, Texas. Vụ số 3451-01 (Đội biệt động Texas): năm năm trước, Charles T. Tucker 67 tuổi, nhân viên nhà nước nghỉ hưu, được tìm thấy chết sau khu mua sắm gần nhà. Ông ta bị đánh vào gáy bằng vật cứng, được cho là nhằm đánh gục người đàn ông, rồi hành hình. Bằng chiếc dây thừng làm từ sợi bông với nút thắt trượt buộc quanh cổ ông ta và hung thủ ném nó lên cành cây rồi kéo căng. Những vết cào ở cổ cho thấy nạn nhân tỉnh lại trước khi chết vài phút.

      Những yếu tố giống với Vụ 109:

      + Nạn nhân bị đánh gục với cú đánh vào sau gáy.

      + Kẻ tình nghi mang đôi giày cỡ 11, có vẻ là của hãng Bass. Những vết mòn đều ở chiếc b phải, cho thấy bàn chân có xu hướng chĩa ra ngoài.

      + Chiếc dây thừng vải bông với những vệt máu là hung khí; sợi vải giống với những gì tìm thấy ở trường tại.

      + Động cơ gây án được ngụy tạo. Tên giết người là kẻ theo chủ nghĩa hình thức. Những cây nến được đặt mặt đất bên dưới chân và hình ngôi sao năm cánh được vẽ đất. Nhưng những điểu tra về cuộc đời nạn nhân và việc ghi chép lại hồ sơ kẻ tấn công đưa những nhà điều tra tới kết luận rằng bằng chứng này được sắp đặt để đánh lạc hướng cảnh sát. động cơ nào khác được đưa ra.

      + dấu vân tay nào được tìm thấy; hung thủ đeo găng tay cao su.

      Trạng thái của vụ án: vẫn còn trong thời gian điều tra.

      “Vụ tiếp theo là gì?”, Rhyme hỏi.

      Cooper kéo màn hình xuống.

      việc thứ hai: Vụ giết người ở Cleveland, Ohio. Vụ số 2002-34554F (Cảnh sát bang Ohio): ba năm trước, doanh nhân bốn mươi lăm tuổi, Gregory Tallis, được tìm thấy chết trong căn hộ của mình, bị bắn đến chết.

      Những yếu tố giống với vụ 109:

      + Nạn nhân bị đánh gục với cú đánh vào sau gáy bằng vật cứng.

      + Dấu giày của kẻ tình nghi trùng khớp với đôi giày hiệu Bass, với bàn chân phải có xu hướng chĩa ra ngoài.

      + Nguyên nhân chết là ba phát súng vào tim. Khẩu caliber, cỡ 22 hoặc 25 ly, giống với vụ án tại

      + dấu tay có liên quan nào được tìm ra; hung thủ đeo găng tay cao su.

      + Quần của nạn nhân bị cởi bỏ và cái chai được đưa vào trong trực tràng (phần nối với hậu môn), với ý đồ ràng là gợi ý rằng ta là nạn nhân của vụ cưỡng hiếp đồng giới. Sở cảnh sát bang Ohio kết luận rằng trường vụ án bị làm giả. Nạn nhân được lên kế hoạch để ra làm chứng trong phiên tòa chống lại tội phạm có tổ chức sắp tới. Các ghi chép của ngân hàng cho thấy bên bị cáo rút năm mươi ngàn đô tiền mặt tuần trước vụ án mạng. Tuy nhiên, thể lần theo dấu vết số tiền. Các nhà chức trách cho rằng đó là tiền để thuê hung thủ giết Tallis.

      Tình trạng: vẫn chưa có kết quả nhưng còn được điều tra do bằng chứng bị thất lạc.

      Bằng chứng thất lạc, Rhyme nghĩ... Lạy Chúa. nhìn vào màn hình. “Những bằng chứng được dựng lên để tạo động cơ gây án - và vụ tấn công mang hình thức nghi lễ tôn giáo giả khác.” nhìn về phía quân bài tarot Người treo ngược. “Đánh ngất nạn nhân với chiếc gậy, rồi thắt cổ hay bắn, những chiếc găng tay cao su, đôi giày Bass, bàn chân phải... Chắc chắn rằng, đó chính là đối tượng của chúng ta. Và có vẻ như tay giết mướn. Nếu như vậy, hẳn là chúng ta có hai hung thủ: và kẻ thuê . Được rồi, tôi muốn tất cả những gì mà Texas và Ohio có về cả hai vụ án này.”

      Cooper thực vài cuộc gọi. biết được rằng những nhà chức trách của Texas kiểm tra hồ sơ và trở lại với họ sớm nhất có thể. Ở Ohio, mặc dù, viên thanh tra xác nhận rằng hồ sơ nằm trong hàng tá những vụ án chưa được giải quyết bị thất lạc trong lần chuyển sang cơ sở mới hai năm về trước. Họ tìm lại nó. “Nhưng”, người đàn ông thêm vào: “cũng nên hy vọng quá”. Rhyme nhăn mặt và Cooper giục họ tìm ra nó bằng tất cả những gì có thể.

      lát sau, điện thoại của Cooper đổ chuông và nghe máy. “Xin chào?... Vâng cứ .” viết lại vài ghi chú, cảm ơn người gọi điện và dập máy. “Đó là Sở Giao thông. Cuối cùng họ lần ra những giấy phép đặc biệt cho những lễ hội đường phố hoặc các hội chợ đủ lớn để phải chặn những con phố trong vài ngày gần đây. Hai ở Queens - là Hội láng giềng và là Hội kín Hy Lạp. lễ hội Colombus ở Brooklyn và cái khác ở Little Italy. Đó là lễ hội lớn. Phố Mulberry.”

      “Chúng ta cần cử vài nhóm ra ngoài và xem xét cả bốn khu này.” Rhyme . “Kiểm tra kỹ những cửa hàng bán nhiều hàng giảm giá và những hàng thuốc sử dụng túi có mặt cười có bán bao cao su, băng dính, dao rọc giấy và sử dụng những máy tính tiền điện tử rẻ tiền hoặc những chiếc máy tính cổ lỗ sĩ. Đưa cho các đội bản miêu tả về hung thủ và xem liệu có nhân viên nào nhớ .”

      Rhyme thấy Sellito cứ chằm chằm vào cái chấm màu tối tay chiếc áo vest ngoài của ta. cho rằng đó là vệt máu khác từ vụ nổ súng buổi sáng hôm nay. Viên cảnh sát to lớn động đậy. Bởi vì ta là sĩ quan chỉ huy ở đây, là người gọi cho ESU và đơn vị Tuần tra cũng như sắp xếp các đội tìm kiếm. Dù sao có vẻ như là ta hề nghe thấy nhà tội phạm học.

      Rhyme nhìn Sachs, gật đầu và gọi điện cho khu trung tâm thành phố để sắp xếp cho những sĩ quan cảnh sát thành lập các đội. Khi dập máy, nhận thấy Rhyme nhìn chằm chằm vào tấm bảng. “Có gì ổn à?”

      trả lời ngay, nghiền ngẫm, suy nghĩ chính xác xem cái gì ổn ở đây. Rồi nhận ra. Cá có nước...

      “Tôi nghĩ rằng chúng ta cần được giúp đỡ.”

      trong những vấn đề khó khăn nhất mà những chuyên gia tội phạm đối mặt phải là biết được khu vực sống của họ. nhà phân tích trường chỉ giỏi khi ta nắm chắc về khu vực sinh sống của đối tượng tình nghi - địa lý, xã hội, lịch sử, văn hóa, công việc... mọi thứ.

      Lincoln Rhyme nghĩ rằng biết quá ít về cái thế giới mà Geneva sống trong đó: Harlem. Ồ, tất nhiên là từng đọc các số liệu thống kê: Phần đông dân số được pha trộn đồng đều giữa những người da đen đến từ châu Phi (cả từ xa xưa lẫn mới nhập cư sang) và cả những người da đen lẫn da trắng đến từ các nước tiếng Tây Ban Nha (phần lớn là Puerto Rica, Dominica, Salvador và Mexico) tiếp theo đó là những người da trắng và số ít người châu Á. Đói nghèo, các băng đảng, ma túy và bạo lực - được tập trung phần lớn xung quanh các dự án - nhưng hầu hết khu vực xung quanh chung là an toàn, hơn hẳn so với những phần thuộc Brooklyn, Bronx hay là Newark. Harlem có nhiều nhà thờ và có cả điện thờ Hồi giáo, các tổ chức cộng đồng và hội những phụ huynh lo lắng cho con cái mình hơn bất cứ khu vực nào quanh thành phố. Nơi này từng trở thành tâm điểm của quyền dân dành cho người da đen, cả văn hóa, nghệ thuật của người da đen và người gốc Tây Ban Nha. Giờ đây, nó còn là trung tâm của phong trào mới: vì bình đẳng về tài chính. Có hàng tá những dự án tái phát triển kinh tế tại được thi công cũng như các nhà đầu tư thuộc mọi chủng tộc và quốc tịch ganh đua để đầu tư tiền vào Harlem, giành lấy những lợi thế đặc quyền của thị trường bất động sản nóng bỏng này.

      Nhưng đó là những số liệu của tờ New York Times, và của Sở cảnh sát New York. Nó hề giúp Rhyme có chút manh mối nào để hiểu được tại sao sát thủ chuyên nghiệp lại muốn giết bé học sinh ở khu vực này. nắm được động cơ khiến việc tìm kiếm Đối tượng 109 này bị hạn chế rất lớn. cầu thực cuộc gọi qua điện thoại, và cái phần mềm ngoan ngoãn kết nối tới số điện thoại tại văn phòng FBI trong thành phố.

      “Dellray nghe.”

      “Fred, Lincoln đây. Tôi cần thêm giúp đỡ.”

      chàng của tôi ở dưới đó có giúp được gì cho ?”

      “Có chứ, chắc chắn là thế rồi. Cả ở Maryland nữa.”

      vui khi biết điều đó. Đợi út. Để tôi xem còn ai khác ngoài đó .”

      Rhyme từng đến văn phòng của Dellray vài lần. Văn phòng của viên đặc vụ da đen cao lênh khênh trong tòa nhà liên bang chất đầy sách văn học và khoa học bí mật, cũng như những cái giá treo áo đầy những bộ quần áo đủ mọi kiểu mà ta có thể mặc để cải trang, mặc dù còn làm nhiều công việc nghiên cứu ở thực địa nữa.

      Nực cười là, những giá treo quần áo đó, bạn có thể tìm thấy bộ vest em nhà Brooks FBI và những chiếc áo sơ mi trắng với cà vạt kẻ sọc. Trang phục thường thấy ở Dellray là - cách tế nhị - khá kỳ cục. Những bộ trang phục thể thao bộ và áo nỉ cùng với những chiếc áo khoác thể thao, với tông ưa thích là màu xanh lá cây, xanh da trời và vàng. ít nhất tránh đội mũ, bởi nó có thể khiến giống như tên ma bước ra từ bộ phim khai thác về chủ đề người da đen trong những năm 70.

      Khi viên đặc vụ quay trở lại với chiếc điện thoại, Rhyme hỏi: “Vụ đánh bom thế nào rồi?”.

      “Thêm cuộc gọi nặc danh sáng nay nữa, về Tòa lãnh Israel. Giống như tuần trước. Chỉ duy nhất tai mắt của tôi - thậm chí cả những cậu bé vàng - là chẳng thể chắc chắn với tôi được dù chỉ điều nho . Nó khiến tôi tức điên lên được. Dù sao , có vấn đề gì?”

      “Vụ án đưa chúng tôi tới Harlem. có làm việc ở đó nhiều ?”

      “Tôi có dạo qua đó đôi lần. Nhưng tôi phải là từ điển bách khoa toàn thư. Sinh ra và lớn lên ở BK.”

      “BK?”

      “Brooklyn, tên ban đầu của làng Breuckelen, mang lại cho chúng ta ưu đãi của công ty Dutch West India trong những năm 1640. Thành phố chính thức đầu tiên của tiểu bang New York, nếu muốn biết nó là gì. Quê hương của Walt Whitman. Nhưng mất cả chục phút đồng hồ chỉ để chuyện phiếm nhỉ.”

      có thể ra ngoài và tìm hiểu chút gì đó được ?”

      “Tôi cải trang và ra xem. Nhưng tôi thể hứa được rằng mình giúp được nhiều đâu đấy.”

      “Ừm, Fred, lợi thế hơn tôi, tới mức hòa nhập với khu ngoại ô thành phố.”

      “Rồi, rồi, rồi - cái mông tôi ngồi cái xe lăn màu đỏ chóe nào cả.”

      “Hãy coi như đó là hai lợi thế của ”, Rhyme đáp lời, và mặt tái như mái tóc vàng của chàng lính trẻ Pulaski.

      Những bức thư khác của Charles Singleton được gửi đến từ Geneva.

      Chúng được cất giữ tốt lắm theo năm tháng và mờ nhạt và dễ vụn. Mel Cooper cẩn thận đặt những lá thư vào giữa hai tấm nhựa mỏng trong suốt, sau khi xử lý hóa học những nếp gấp để bảo đảm rằng tờ giấy bị rách vụn.

      Sellito bước về phía Cooper: “Chúng ta có gì nào?”.

      Nhà khoa học hình tập trung chiếc máy quét quang học vào bức thư đầu tiên và nhấn vào nút công cụ máy tính. Hình ảnh ra vài chiếc máy tính trong căn phòng.

      Violet thương nhất của ,

      có mấy phút để viết cho em vài lời trong cái nóng nực và yên ả của buổi sáng sớm Chủ nhật này. Đơn vị của bọn , Trung đoàn New York thứ Ba mươi mốt, đến sau quãng đường dài từ khi những chàng lính trẻ non nớt kinh nghiệm tụi tập hợp đảo Hart. Quả , giờ đây bọn tham gia vào nhiệm vụ trọng yếu là truy đuổi Tướng Robert E. Lee[1], đội quân của ông ta rút lui sau khi bị đánh bại tại Petersburg, Virginia, ngày mùng hai tháng Tư.

      [1] Đại tướng thống lĩnh Quân đội Liên minh miền Nam trong Nội chiến ở Hoa Kỳ.

      Ông ta giờ đây lại nổi lên với đội quân ba mươi ngàn người, ở trung tâm Liên Bang, và quân của ông ta thất bại trước trung đoàn của bọn , cùng với những đơn vị khác, để giữ chặt phòng tuyến phía tây, khi ông ta cố gắng trốn chạy, mà chắc chắn là ông ta phải trốn chạy, bởi cả tướng Grant và tướng Sherman đè bẹp ông ta bởi quân số lớn hơn rất nhiều.

      Khoảnh khắc lúc này đây là yên ắng trước cơn bão và bọn tập hợp ở trang trại lớn. Những người nô lệ với đôi chân trần đứng xung quanh, nhìn bọn mặc những bộ quần áo sợi bông của người da đen. vài trong số họ chẳng gì hết, nhưng tỏ vẻ kính trọng cách tuyệt đối. Những người khác vô cùng hân hoan.

      Cách đây lâu, chỉ huy của bọn đến đây, bước xuống ngựa và về kế hoạch trận đánh ngày hôm ấy. Rồi ông ấy , từ trong trí nhớ, những lời từ ngài Frederick Douglass mà nhớ như thế này: “ khi để cho người nô lệ da đen đặt lên mình chữ ‘U.S.’, con đại bàng những chiếc cúc áo, súng vai và đạn trong túi, chẳng ai trái đất này có thể phủ nhận việc ta giành được quyền làm công dân ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ."

      Rồi ông ấy chào bọn cách nghiêm trang và rằng đó là niềm vinh dự của ông ấy khi được cống hiến cho đất nước cùng với bọn trong chiến dịch ủng hộ của Chúa này để thống nhất lại dân tộc mình.

      Tiếng hô vang dậy khắp trung đoàn số Ba mươi mốt, những thanh mà trước đây chưa từng nghe thấy.

      Và giờ đây, em ạ, nghe thấy tiếng trống xa xa và tiếng những quả đạn pháo hai kilogram và bốn kilogram, báo hiệu trận đánh bắt đầu. Liệu đây có phải là những lời cuối cùng được với em từ phía bên này của dòng sông Jordan, hãy biết rằng em và con trai của chúng ta hơn tất cả những từ ngữ có thể diễn đạt điều đó. Hãy giữ vững và bám chặt vào trang trại, hãy giấu bí mật về việc chúng ta dối rằng mình là những người chăm sóc khu đất, chứ phải chủ, và từ chối mọi lời đề nghị mua lại mảnh đất. hy vọng mảnh đất được nguyên vẹn đến tay con trai mình và con cái của nó; công việc lúc thăng lúc trầm, thị trường tài chính bất ổn, nhưng đất đai là vĩnh hằng của Chúa - và trang trại mang lại kính trọng trong con mắt của những người mà lúc nầy đây hề tôn trọng điều đó đối với chúng ta. Đó chính là cứu rỗi cho con cháu chúng ta, và cho các thế hệ sau đó. Giờ đây, em dấu, lại phải lần nữa cầm khẩu súng lên và làm như những gì mà Chúa đánh cược, để bảo đảm cho tự do của chúng ta và duy trì đất nước thiêng liêng của mình.

      Tình vĩnh hằng của em,

      Charles 9 tháng Tư, 1865, Appromattox, Virginia

      Sachs nhìn lên. “Phù. Đúng là câu chuyện mà ta vẫn chẳng đến đâu.”

      hẳn là thế.” Thom .

      “Ý là sao?”

      “À, chúng ta biết họ giữ vững được chiến tuyến của mình.”

      “Như thế nào?”

      “Bởi ngày mùng 9 tháng 4 là ngày quân miền Nam đầu hàng.”

      “Tôi thực quan tâm lắm đến cuốn Lịch sử 101[2] ấy.” Rhyme . “Tôi chỉ muốn biết về cái bí mật này thôi.”

      [2] History 101 là tiểu thuyết của BBC Books được viết bởi Mags L Halliday dựa series chương trình ti vi khoa học viễn tưởng của Doctor Who.

      “Điều đó nằm trong lá thư này”, Cooper , quét lá thư thứ hai. đặt nó lên chiếc máy quét.

      Violet thương nhất của ,

      nhớ em, em ạ, cả Joshua bé của chúng ta nữa. như được tiếp thêm sinh lực khi biết rằng chị của em vượt qua được trận ốm sau khi sinh cháu và rất biết ơn Chúa bởi em có mặt bên chị ấy suốt thời gian khó khăn này. Tuy nhiên, nghĩ rằng tốt nhất em nên ở lại Harrisburg thời gian. Đây là khoảng thời gian then chốt và nguy hiểm, cảm nhận được, còn hơn cả những gì diễn ra trong suốt chiến tranh ly khai.

      quá nhiều chuyện xảy ra trong tháng em vắng. Cuộc đời thay đổi biết bao nhiêu, từ người nông dân bình dị và thầy giáo làng tới tại! tham gia vào những vấn đề mà thực là khó khăn, nguy hiểm và, phải là, sống còn cho quyền lợi của những người như chúng ta.

      Đêm nay, và đồng đội lại gặp nhau ở Galloxvs Heights, cuộc gặp diễn ra ở bên cạnh tòa lâu đài bị vây hãm. Những ngày dài vô tận, và hành trình đầy mệt mỏi. Cuộc đời của bao gồm cả những thời khắc gay go gian khổ, đến rồi dưới che chở của màn đêm, và tránh cả những kẻ có thể làm hại mình, có quá nhiều người như vậy - và chỉ những người nổi loạn cũ; cũng có rất nhiều người ở phương bắc có thái độ thù địch với nghiệp của chúng ta. vẫn nhận được đe dọa thường xuyên, có những kẻ giấu mặt, kẻ trắng trợn.

      cơn ác mộng khác dựng thức dậy sáng sớm hôm nay. nhớ nổi những hình ảnh quấy rầy giấc ngủ của mình, nhưng sau khi tỉnh lại, thể nào quay trở lại giấc ngủ cách thoải mái, ngon lành. cứ nằm thao thức cho đến bình minh, suy nghĩ về những khó khăn biết bao nhiêu khi giữ bí mật này trong lòng mình. Bởi vậy khao khát được nó ra với thế giới, nhưng biết mình thể. chút nghi ngờ về hậu quả là tấn bi kịch khi chuyện này được tiết lộ.

      Hãy thông cảm cho giọng điệu u sầu của . nhớ em và con, và mệt mỏi khủng khiếp lắm rồi. Ngày mai có thể thấy tái sinh của hy vọng. cầu nguyện cho điều đó xảy ra.

      em Charles

      Mùng 3 tháng 5 năm 1867

      “Ừm”, Rhyme trầm ngâm, “ông ấy về bí mật. Nhưng nó là cái gì? Nhất định phải có liên quan đến những cuộc họp ấy ở Gallows Heights. ‘Quyền lợi của những người như chúng ta.’ Quyền dân hay là. Ông ấy cũng nhắc đến nó ở trong lá thư thứ nhất nữa... Gallows Heights là cái khỉ gió gì vậy?”.

      Đôi mắt của liếc sang quân bài tarot Người treo ngược, treo lơ lửng cái giá treo cổ bằng bàn chân.

      “Tôi tìm kiếm nó”, Cooper và lên mạng. lát sau : “Đó là vùng lân cận Manhattan thế kỷ XIX, ở mạn phía tây, tập trung quanh đường Bloomingdale và phố 18. Bloomingdale thành Boulevard và rồi Broadway. ngước mắt lên nhìn với đôi lông mày nhướn cao. quá xa chỗ này lắm”.

      “Gallows với dấu móc lửng à?”

      dấu móc lửng nào hết. Ít nhất trong tiêu đề tôi tìm thấy.”

      “Còn gì nữa về nó ?”

      Cooper nhìn lượt, xem xét trang web lịch sử xã hội. “ vài điều. Bản đồ của năm 1872”. quay màn hình về phía Rhyme, Rhyme nhìn nó, nhận thấy rằng vùng lân cận ấy bao trùm cả diện tích lớn. Có vài khu bất động sản được sở hữu bởi những gia đình tài phiệt lâu đời ở New York cũng như hàng trăm những căn nhà và căn hộ khác.

      “Này, nhìn này, Lincoln”, Cooper , chỉ vào phần bản đồ gần khu Central Park. “Đó là khu vực của . Chính là chỗ chúng ta tại. Là cái đầm lầy từ hồi ấy.”

      “Thú vị đây”, Rhyme lẩm bẩm cách châm chọc.

      “Nguồn thông tin tham khảo duy nhất khác là câu chuyện tạp chí Times tháng trước về việc hiến tặng kho lưu trữ ở tổ chức Sanford - đó là căn biệt thự lớn và cổ kính phố 81

      Rhyme nhớ lại về toà nhà lớn có kiến trúc thời Victoria nằm bên cạnh khách sạn Sanford - theo phong cách Gothic, cổ kính như bị ma ám và gợi nhớ lại căn biệt thự Dakota, nơi mà John Lenon bị giết.

      Cooper tiếp tục: “Người đứng đầu của tổ chức này, William Ashberry, bài phát biểu trong buổi lễ. ta nhắc đến việc khu vực Upper West Side thay đổi như thế nào trong những năm qua từ khi nó được biết đến như là Gallows Heights. Nhưng đó là tất cả. có gì đặc biệt”.

      Có quá nhiều điểm liên quan đến nhau, Rhyme ngẫm nghĩ về điều đó. Rồi máy tính của Cooper lại kêu lên lần nữa, báo hiệu email mới. Ạnh ta đọc nó rồi nhìn về phía đội phá án. “Nghe này. Nó là thông tin về Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Người phụ trách thư viện của Đại học Booker T. Washington ở Philly mới gửi cho tôi. Thư viện từng có bộ đầy đủ của tờ tạp chí trong cả nước.

      từng là sao?” Rhyme cáu kỉnh cắt ngang. “Thế quái nào là ‘ từng’?”

      “Tuần trước, vụ hỏa hoạn phá hủy căn phòng chứa những tài liệu này.”

      “Báo cáo về vụ phóng hỏa này gì?”, Sachs hỏi. “ được coi là vụ cố ý gây hỏa hoạn. Nó có vẻ như là do bóng đèn nổ, và bắt lửa vào vài tờ báo. có ai bị thương cả.”

      “Chết tiệt, nếu đây phải vụ cố ý gây hỏa hoạn. Có ai đó làm điều này. Vậy người phụ trách này có gợi ý nào về nơi chúng ta có thể tìm...”

      “Tôi định tiếp tục.”

      “À, tiếp tục .”

      “Ngôi trường có chính sách là quét chụp tất cả những gì họ có trong kho lưu trữ và lưu lại file PDF.”

      “Có phải chúng ta đến gần tới thông tin tốt nhỉ, Mel? Hay là chỉ đùa cợt thôi đấy?” Cooper nhấn vào những chiếc nút khác. ra hiệu về phía màn hình. “Nó đây - ngày 23 tháng 7 năm 1868, Tuần báo Minh họa dành cho người da màu.”

      . Nào, đọc cho mọi người nghe,

      Mel. Đầu tiên là: ông Singleton đó chết đuối sông Hudson đúng hay ?”

      Cooper gõ phím và khắc sau đẩy cặp kính lên sống mũi mình, nghiêng về phía trước và : “Đây rồi. Tiêu đề là: ‘ nỗi nhục, ghi chép về tội lỗi của kẻ từng là nô lệ - Charles Singleton, cựu binh Nội chiến, phản bội lại nghiệp của những người da đen chúng ta bằng vụ đầy tai tiếng’”.

      Tiếp tục với những dòng chữ, đọc:

      Vào thứ Ba, ngày 14 tháng 7, lệnh bắt giữ Charles Singleton, người từng là nô lệ, cựu binh của Chiến tranh Ly khai, được thông qua bởi tòa án New York, với lời buộc tội ông ta lấy trộm lượng lớn vàng và tiền từ Quỹ giáo dục Quốc gia hỗ trợ những nô lệ tự do nằm phố 23 ở Manhattan, New York.

      Ông Singleton trốn tránh mạng lưới truy bắt của cảnh sát khắp thành phố, và được cho là trốn thoát, có khả năng là về Pennsylvama, nơi chị vợ và gia đình bà ta sống.

      Tuy nhiên, vào buổi sáng sớm thứ Năm ngày Mười sáu, ông ta bị phát bởi viên cảnh sát khi tìm đường chạy đến cầu tàu dòng sông Hudson.

      cảnh sát phát báo động và ông Singleton bỏ chạy. Cảnh sát đó đuổi theo.

      Cuộc truy bắt nhanh chóng kéo theo hàng tá cảnh sát và những người công nhân, người nhặt rác Ireland thực trách nhiệm công dân của mình là tóm lấy kẻ ăn trộm (với lời xúi giục bởi năm đồng vàng để ngăn kẻ xấu này lại). Hướng trốn chạy của ông ấy là xuyên qua những con hẻm tối tăm ngang dọc của khu ổ chuột bên sông.

      Ở chỗ những bức tranh phố 23, ông Singleton trượt chân ngã. cảnh sát cưỡi ngựa ập đến và có vẻ như ông ta bị tóm lại. Ông lấy lại được thăng bằng và thay vì thú nhận tội lỗi của mình, như người đàn ông dũng cảm làm, ông tiếp tục cuộc trốn chạy hèn nhát của mình.

      Trong thời gian ngắn, ông tránh được những kẻ truy bắt. Nhưng khoảnh khắc đó kéo dài lâu. người giao hàng da đen mái hiên nhìn thấy người cựu nô lệ và cầu xin ông hãy dừng lại, nhân danh công lý, quả quyết rằng ông ta nghe tới hành động ngu ngốc của Singleton và quở trách ông vì gây ra nỗi ô nhục cho những người da màu khắp đất nước. Ngay sau đó người dân, Walker Loakes, ném hòn gạch về phía Singleton nhằm đánh ngã ông. Tuy nhiên, ông Singleton tránh được cú ném và hét lên khẳng định vô tội của mình, tiếp tục trốn chạy.

      Người cựu nô lệ với thân thể cường tráng nhờ công việc lao động trong vườn táo chạy nhanh như gió. Nhưng người đàn ông tên Loakes kia báo với cảnh sát cưỡi ngựa về việc trông thấy người cựu nô lệ và, ở cầu tàu gần phố 88, gần trụ sở thuyền kéo, con đường trốn chạy của ông ẩy bị chặn lại bởi đội cảnh sát cần mẫn. Ông ấy dừng lại ở đó, kiệt sức, dựa vào tấm bảng hiệu của công ty Vận chuyển Swiftsure. Ông ấy bị thúc giục cầu đầu hàng bởi người chỉ huy cuộc rượt đuổi trong suốt hai ngày qua, Thám tử William P. Simms, người chĩa khẩu súng ngắn về phía tên trộm.

      Tuy nhiên, vừa tìm kiếm lối thoát liều mạng, vừa cố thuyết phục rằng những tội ác của mình là do bị vu oan và mong muốn kết thúc cuộc đời, ông Singleton, lưỡng lự chút rồi nhảy xuống dòng sông, những lời mà ai có thể nghe thấy được.

      Rhyme ngắt lời: “Đó là đoạn mà Geneva đọc tới trước khi bé bị tấn công. Quên cuộc Nội chiến , Sachs. Đây mới là những gì chúng ta vẫn chưa . Tiếp tục ”.

      Ông ấy biến mất dưới những con sóng và các nhân chứng chắc chắn rằng ông ấy bỏ mạng. Ba cảnh sát điều khiển chiếc thuyền từ cầu tàu gần đó và chèo dọc theo những cầu tàu để xác định số phận của người đàn ông da đen.

      Cuối cùng họ tìm thấy ông ấy, choáng váng sau cú nhảy, ôm chặt mảnh gỗ sông và, với cảm động mà nhiều người cho rằng được sắp xếp, gọi tên vợ và con trai.

      “Ít nhất ông ấy vẫn sống”, Sachs . “Geneva hẳn rất vui vì điều này.”

      Ông ấy được bác sĩ chăm sóc, bị mang và đưa ra phiên xét xử, được tổ chức vào ngày thứ Ba. Ở tòa, ông ấy bị chứng thực là ăn trộm số lượng lớn thể tưởng tượng nổi gồm tiền và những đồng vàng trị giá tới ba mươi ngàn đô.

      “Đó là điều mà tôi nghĩ’, Rhyme . “Rằng động cơ ở đây là số của cải bị mất. Trị giá tại là bao nhiêu?”

      Cooper đóng cửa sổ có bài báo về Charles Singleton máy tính và mở cửa sổ tìm kiếm mạng, nhấn những con số vào. nhìn lên từ những tính toán của mình, “ tại, nó trị giá khoảng tám trăm ngàn”.

      Rhyme lẩm bẩm: “ thể tưởng tượng được. Được rồi. Tiếp tục nào”.

      Cooper tiếp tục:

      người gác cổng ở bên kia phố trụ sở của Quỹ nô lệ tự do nhìn thấy ông Singleton tìm đường vào văn phòng bằng cửa sau và rời hai mươi phút sau đó, mang theo hai chiếc túi lớn. Khi người quản lý của Quỹ đến cơ quan sau đó, theo lệnh triệu tập của cảnh sát, được cho biết chiếc két Exeter Strongbow bị phá vỡ bởi chiếc búa và thanh xà beng, thứ được nhận dạng là thuộc sở hữu của bị cáo, được tìm thấy ở gần tòa nhà sau đó.

      Hơn nữa, bằng chứng cho thấy rằng, ông Singleton lấy lòng tin của mọi người, tại những buổi họp ở khu vực Gallows Heights, với những nhân vật có tiếng tăm như Charles Sumner, Thaddeus Stevens cùng với Frederick Douglass và con trai Lewis Douglass. Charles giả vờ góp sức cùng những người cao quý này trong việc xúc tiến đưa ra các quyền của những người da đen trước Quốc hội.

      “À, những buổi họp mà Charles nhắc đến trong bức thư của ông ấy. Đó là về các quyền dân . Và đó hẳn phải là những đồng đội mà ông ấy nhắc đến. Nghe có vẻ là những nhân vật khá lớn nhỉ. Gì nữa?”

      Tuy nhiên, động cơ của ông trong việc giúp đỡ những nhân vật quan trọng này, theo vị công tố viên có thẩm quyển, phải là để cống hiến cho nghiệp của những người da đen, mà để tìm hiểu về Quỹ và những nơi cất giấu mà ông ta có thể ăn trộm được.

      “Đó có phải là bí mật ?”, Sachs hỏi.

      Tại phiên xét xử của mình, ông Singleton vẫn giim lặng trước những cáo buộc này, trừ việc đưa ra vài lời chối tội chung chung và rằng ông ấy rất vợ và con trai.

      Đại úy Simms tìm ra phần lớn của cải bị lấy trộm. Người ta cho rằng Singleton bí mật cất giấu chỗ còn lại trị giá vài nghìn đô ở nơi kín đáo và từ chối tiết lộ vị trí đó. có chút nào trong số tài sản còn sót này được tìm ra, trừ vài trăm đồng tiền vàng được phát người ông Singleton khi bị bắt.

      “Vậy là có giả thuyết về kho báu bị chôn giấu”, Rhyme lẩm bẩm. “Quá tệ. Tôi thích rồi đấy.”

      Lời buộc tội được đưa ra nhanh chóng. Theo phán quyết, thẩm phán cầu người cựu nô lệ trả lại phần còn lại của số tiền đánh cắp, tuy nhiên ông ấy vẫn từ chối ra địa điểm của nó, vẫn khăng khăng khẳng định vô tội của mình và quả quyết rằng những đồng vàng được tìm thấy người là do được đặt vào đồ đạc sau khi ông bị bắt. Theo đó, vị thẩm phán với trí thông minh của mình ra lệnh rằng những gì thuộc về phạm nhân bị tịch thu và bán để bồi thường cho chỗ bị mất, và án phạt dành cho phạm nhân là phải ngồi tù năm năm.

      Cooper ngẩng lên. “Đó là toàn bộ bài báo.”

      “Tại sao kẻ nào đó lại phải giết người chỉ để chôn giấu câu chuyện này?”, Sachs hỏi.

      “Đúng, quả là câu hỏi lớn...” Rhyme nhìn lên trần nhà. “Vậy chúng ta biết gì về Charles? Ông ấy là thầy giáo và là cựu binh Nội chiến, sở hữu và làm việc trang trại ở khu phía bắc của bang, bị bắt và bị buộc tội ăn trộm, có bí mật mà có thể dẫn tới những hậu quả bi thảm nếu như nó được biết đến, tới những buổi họp bí mật ở Gallows Heights, tham gia vào cuộc vận động dân quyền cũng như thân thiết với vài chính trị gia lớn và những người hoạt động cho dân quyền lúc bấy giờ.”

      Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình máy tính, xem xét bài báo. thấy liên quan nào giữa những kiện và Nghi phạm 109.

      Điện thoại của Sellito kêu. ta nghe lúc. Lông mày nhướn lên. “Được rồi. Cảm ơn.” ta ngắt máy và nhìn Rhyme. “Đây rồi!”

      “‘Đây rồi’ là sao chứ?”, Rhyme hỏi.

      Sellito : “Đội dò hỏi thông tin ở Little Italy - nửa dãy phố từ lễ hội Columbus Day - mới tìm ra cửa hàng bán giảm giá phố Mulberry. Nhân viên bán hàng có nhớ ra người đàn ông da trắng, tầm bốn mươi tuổi có mua tất cả những thứ được tìm thấy trong chiếc túi của hung thủ vài ngày trước. ấy nhớ ra ta bởi chiếc mũ

      đội mũ?”

      , mua cái mũ. chiếc mũ trùm. Lý do ấy nhớ bởi vì đội thử chiếc mũ và kéo nó trùm qua mặt. ấy nhìn thấy điều đó qua gương an ninh và nghĩ rằng chuẩn bị cướp cửa hàng. Nhưng rồi tháo chiếc mũ ra, nhét nó vào giỏ với những thứ khác và trả tiền rồi .”

      Hẳn đó chính là vật có giá 5,95 đô la bị thiếu mất tờ hóa đơn. Đeo thử chiếc mũ trùm để bảo đảm rằng nó có thể làm chiếc mặt nạ. “Đó cũng có khả năng là vật dùng để lau sạch các dấu tay của mình. ấy có biết tên ?”

      . Nhưng ấy có thể miêu tả khá .” Sachs : “Chúng ta thực bức tranh vi tính tái dựng chân dung và đưa nó cho mọi người”. Chộp lấy chiếc túi của mình, nhận ra viên thanh tra to lớn cùng mình khi dừng lại ở cửa. dừng lại. Nhìn ra sau. “Lon, cùng ?” Sellito có vẻ như nghe thấy. nhắc lại câu hỏi và viên thanh tra chợp chợp mắt. ta bỏ tay xuống khỏi chiếc má bị chà đỏ ửng. Và nhe răng cười. “Xin lỗi. Tất nhiên rồi. tóm cổ thằng khốn này thôi.”

      Bảng bằng chứng, hồ sơ vụ 109:

      trường Bảo tàng Mỹ - Phi

      Gói đồ hiếp dâm:

      - Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là tìm kiếm tâm linh.

      - Chiếc túi có hình mặt cười.

      - Quá chung chung để lần tìm.

      - Dao rọc giấy.

      - Bao cao su Trojan.

      - Băng dính.

      - Dầu thơm mùi hoa nhài.

      - Vật xác định, giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.

      - Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc hàng dược phẩm.

      - Nhiều khả năng được mua từ cửa hàng phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.

      Dấu tay

      - Nghi phạm đeo găng tay cao su.

      - Dấu tay gói đồ thuộc về người có bàn tay , có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.

      + Dấu vết:

      - Sợi thừng vải bông, vài sợi có vết máu người. Từ dây để thắt cổ?

      - có nhà sản xuất.

      - Gửi tới CODIS.

      - tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.

      + Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.

      - Liên hệ tới các hội chợ hay lễ hội phố? Kiểm tra cùng với Bộ phận Giao thông về các giấy phép gần đây. Các cảnh sát nắm bắt thông tin từ các hội chợ phố; theo từng thông tin mà bên Giao thông cung cấp.

      - Xác nhận đó là lễ hội ở Little Italy.

      Vũ khí:

      - Dùi cui hoặc chiếc côn.

      - Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn 22 ly, thuộc Quân đội Bắc Mỹ - loại - Black Widow hoặc Minimaster.

      - Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.

      + Động cơ:

      - Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.

      - Động cơ có thể là để lấy tấm vi phim của bài báo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì quan tâm tới bài báo này bởi lý do chưa biết. Bài báo viết về người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton (xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh).

      - Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có ai đó muốn được xem bài báo.

      * cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.

      * có manh mối nào

      + cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.

      + có manh mối nào.

      - Tìm kiếm bản copy của bài báo.

      * vài nguồn báo cáo về người đàn ông cầu cùng bài báo. manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh).

      * Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.

      - Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.

      * Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ vẫn chưa được tìm ra).

      * Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có trường được làm giả (làm như đó là vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ có lẽ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.

      Hồ sơ về Nghi phạm 109

      + Nam da trắng.

      + 1m8, gần 90kg.

      + Giọng trung.

      + Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.

      + Mang chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.

      + Mùi hoa nhài.

      + Quần tối màu.

      + Đeo mũ trùm, màu tối.

      + nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.

      + Nhiều khả năng là kẻ giết thuê.

      Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109

      + Chưa có thông tin gì

      Hồ sơ về Charles Singleton

      + Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, con trai. Được ông chủ cho vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.

      + Charles bị cho là thực vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

      + cách gián tiếp có bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

      + Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

      + Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

      + Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:

      - Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

      Thư của Charles:

      - Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc nổi dậy năm 1863, nhắc đến chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.

      - Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

      - Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân . Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 10

      Trong những năm 1920, Phong trào Người da đen mới, sau đó được gọi là Phục hưng Harlem, bùng nổ ở thành phố New York.

      Nó bao gồm nhóm các nhà lý luận, nghệ sĩ, nhạc sĩ và - hầu hết - là các nhà văn, những người tiếp cận của mình bằng việc nhìn nhận vào cuộc sống của những người da đen phải bằng ánh mắt của những người Mỹ da t


      rắng mà là từ chính cách nhìn của họ. Phong trào chấn động này bao gồm cả đàn ông và phụ nữ như các nhà trí thức Marcus Garvey và W.E.B DuBois, nhà văn như Zora Neale Hurston, Claude McKay và Countee Culle, các họa sĩ như William H. Johnson và John T. Biggers, và, tất nhiên, có cả những nghệ sĩ, người mang đến những bản nhạc bất tận, như Duke Ellington, Josephine Baker, W.C. Handy, Eubie Blake.

      Trong những tượng đài xuất chúng ấy, khó cho bất kỳ nghệ sĩ nào có thể nổi bật hơn hẳn, nhưng nếu như có ai làm được điều đó, có lẽ là nhà thơ, nhà văn Langston Hughes, bởi chính thông điệp toát lên từ những từ ngữ giản đơn làm nổi bật ông giữa mọi người:

      Điều gì xảy ra với giấc mơ bị trì hoãn?

      Nó có bị khô héo như quả nho dưới ánh mặt trời?...

      Hay là bùng lên?

      Có rất nhiều khu lưu niệm về Hughes khắp đất nước, nhưng chắc chắn trong những khu lưu niệm lớn nhất và sinh động nhất, và có lẽ là nơi mà hẳn ông tự hào nhất, là tòa nhà cổ bốn tầng, xây bằng gạch đỏ ở Harlem, nằm gần Lennox Terrace phố 135.

      Giống như tất cả các trường học trong phố, trường trung học Langston Hughes có những vấn đề riêng của mình. Ngôi trường vẫn luôn quá tải và được đầu tư, lại phải đấu tranh trong vô vọng để có và giữ lại những giáo viên tốt - và để giữ các học viên trong lớp nữa. Tỷ lệ tốt nghiệp thấp, bạo lực trong các giảng đường, ma túy, các băng đảng, học sinh trốn học và có thai sớm. Tuy vậy, ngôi trường vẫn sản sinh ra những lứa học sinh, mà họ trở thành những luật sư, những doanh nhân thành đạt, bác sĩ, nhà khoa học, nhà văn, vũ công và nhạc sĩ, chính trị gia, giáo sư. Trong đó cũng có những đội tuyển giành chiến thắng trong các cuộc thi, hàng tá những hội sinh viên và các câu lạc bộ nghệ thuật.

      Nhưng đối với Geneva Settle, trường trung học Langston Hughes còn hơn cả những thống kê này. Đó là trung tâm cho cứu rỗi, hòn đảo bình yên thoải mái. Như lúc này, khi bé nhìn thấy những bức tường gạch bẳn thỉu ra, nỗi sợ hãi và lo lắng ập tới, vây quanh bởi việc khủng khiếp ở bảo tàng buổi sáng tiêu tan cách đáng kể.

      Thanh tra Bell đỗ xe và sau khi nhìn xung quanh dò xét các mối đe dọa, họ bước ra ngoài. gật đầu về phía góc phố và với viên sĩ quan trẻ, Pulaski: “Cậu đợi ở ngoài này”.

      “Vâng, thưa ngài.”

      Geneva thêm vào với viên thanh tra: “Chú cũng có thể đợi ở đây, nếu chú muốn”.

      cười khúc khích. “Chú chỉ loanh quanh với cháu lúc thôi, cháu đừng quan tâm. Được rồi, chú có thể thấy cháu thích điều đó. Nhưng dù thế nào nữa, chú nghĩ rằng mình vẫn theo.” cài khuy chiếc áo khoác lại để che những khẩu súng. “ ai để tâm đến chú đâu.” giơ quyển sách nghiên cứu xã hội lên.

      trả lời, Geneva nhăn mặt và họ tiến về phía ngôi trường, ở chỗ máy dò kim loại an ninh, bé giơ ID của mình ra và thanh tra Bell khéo léo giơ ví của mình lên và được đưa vòng sang bên cạnh của thiết bị. Mới chỉ là trước tiết thứ tư, bắt đầu lúc 11 giờ 37 phút, các giảng đường đông nghẹt, những đứa nhóc chạy vòng quanh thành từng đám, hướng về phía căng tin hoặc ra sân trường hay lên phố để tìm cửa hàng thức ăn nhanh. Chúng chơi đùa, chửi nhau, tán tỉnh, hôn nhau. hay hai vụ cãi cọ, đánh nhau. lộn xộn thống trị nơi này.

      “Bây giờ là giờ ăn trưa của cháu”, lớn trong cái gian ầm ĩ ấy. “Cháu xuống căng tin và học. Lối này.”

      Ba người bạn của bé đến rất nhanh, Ramona, Challette, Janet. Họ nhảy vào bậc thang bên cạnh bé. Đó là những thông minh, láu lỉnh như Geneva vậy. Vui vẻ, hề gây ra bất kỳ rắc rối nào, con đường học tập. Nhưng - hoặc có thể vì điều này – chúng đặc biệt khăng khít; ai trong số chúng có vẻ như muốn lượn lờ bên ngoài cùng nhau. Họ về nhà sau giờ học, luyện tập vĩ cầm hay dương cầm do Suzuki biên soạn, làm tình nguyện viên cho các nhóm thích văn học hoặc là làm việc với cuộc thi đánh vần “The Spelling Bee”[3]hay là cuộc thi đấu khoa học Westinghouse, và, tất nhiên, cả học bài. Việc cắm đầu vào học tập thường khiến người ta độc. (Thực ra, Geneva cũng có chút ghen tị với các nữ sinh khác ở trường, những đứa có phong cách nổi loạn, những đứa trong nhóm blingstas[4], những đứa ưa thể thao và hội chị em ủng hộ Angela Davis[5]). Nhưng giờ đây cả ba bạn này lượn lòng vòng quanh như những “đồng đội” thân thiết nhất, hỏi dồn dập những câu hỏi. chạm vào cậu chưa? Cậu nhìn thấy của quý của chưa? có thô bạo hay ? Cậu có nhìn thấy cái ông bị bắn ? Cậu đứng gần tới mức nào?

      [3] Spelling bee là cuộc thi trong đó các thí sinh, thông thường là thiếu niên, được cầu đánh vần đúng các từ tiếng đưa ra.

      [4] Blingstas: những người thích đeo đồ trang sức lỉnh kỉnh, khuyên, vòng, nhẫn đầy người.

      [5] nhà vận động chính trị, học giả, tác giả người Mỹ.

      Tẩt cả họ nghe - từ những đứa nhóc đến muộn, hoặc những đứa cúp học và xem ti vi. Mặc dù những câu chuyện nhắc đến tên của Geneva, nhưng mọi người đều biết là trung tâm của việc, hẳn là phải cảm ơn Keesh rồi.

      Marella - ngôi sao điền kinh cùng khóa - vừa bước tới vừa : “Có chuyện gì vậy các nàng? Cậu ổn chứ?”.

      “Ừ, tớ ổn.”

      Người bạn cùng lớp cao ráo ngước về thanh tra Bell và hỏi bé. “Tại sao cảnh sát lại cầm sách của cậu vậy Geneva?”

      “Hỏi chú ấy.”

      Viên cảnh sát cười ngượng nghịu.

      Giả vờ như chú là giáo viên. Này, thế hay đấy...

      Keesha Scott, tụ tập với nhóm chị em của mình và vài người bạn trong nhóm blingstas, bỗng nhiên tỏ vẻ quan tâm tới Geneva với điệu bộ khác hẳn mọi khi. “Nhóc, đồ quỷ”, la lớn. “ ai đó cho cậu qua, cậu qua rồi đấy. Nghỉ ngơi và nằm nhà mà xem ti vi, hưởng thụ .” cười toe toét và hất hàm về phía nhà ăn. “Gặp sau nhé.”

      vài học viên thực tốt bụng như vậy. Nửa đường tới nhà ăn, nghe thấy tiếng cậu bạn: “Ồ, đây là con điếm của hãng thông tấn Fox News, với tên cracker[6] đó hả. Nó vẫn còn sống sao?”.

      [6] Craker: Chỉ những kẻ da trắng cầm roi da giám sát những nô lệ da đen làm việc, ở đây là ám chỉ thanh tra Bell.

      “Cứ tưởng có kẻ nào đập chết con điếm này rồi chứ.”

      “Mẹ kiếp, cái con quỷ này quá gầy để có thể dùng thứ gì đó để đập, ngoại trừ cú đánh.”

      Những tiếng cười khoái chí nổ ra.

      Thanh tra Bell lao nhanh ra nhưng mấy cậu choai choai phát ra những lời ấy biến mất vào biển người trong những chiếc áo thể thao và áo len, những chiếc quần hộp và quần rằn ri, đầu trần -thể loại mũ bị cấm sử dụng trong các giảng đường ở Langston Hughes.

      sao mà”, Geneva , hàm nghiến chặt, cúi gằm xuống. “ vài người thích những người quá nghiêm túc với việc học hành. Làm gia tăng khoảng cách, tỷ lệ giữa học sinh giỏi và dốt”. từng là sinh viên của tháng rất nhiều lần và có phần thưởng vì tham gia tuyệt đối trong tất cả các lớp học trong hai năm học đầu tiên ở đây. thường xuyên có mặt trong danh sách sinh viên danh dự của hiệu trưởng, với điểm trung bình 98%, và được cử tham dự lễ vinh danh sinh viên xuất sắc Hiệp hội danh dự quốc gia tại buổi lễ trang trọng mùa xuân vừa qua. “Chẳng làm sao cả.”

      Ngay cả với những lời xúc phạm hằn học như “blondie” hay là “debbie”- ám chỉ ao ước của người da đen muốn trở thành da trắng - bao giờ chạm được đến . Bởi vài phương diện nào đó, nó đúng.

      Ở cửa phòng ăn, người phụ nữ da đen to lớn, xinh đẹp và hấp dẫn trong bộ váy màu tím, với tấm thẻ Ban giám hiệu quấn quanh cổ mình, bước tới phía Bell. tự giới thiệu mình là Barton, giáo viên cố vấn. nghe về việc xảy ra và muốn biết Geneva có ổn hay bé có muốn chuyện với ai đó trong văn phòng về chuyện này .

      Ôi trời, giáo viên cố vấn, Geneva nghĩ, tâm trạng của bỗng tụt xuống. cần cái rắc rối này. “ sao”, : “em ổn”.

      “Em chắc chứ? Chúng ta có thể có buổi gặp chiều nay.”

      mà. Em ổn.”

      “Tôi nên gọi cho bố mẹ em.”

      “Họ ở đây.”

      “Em mình chứ?”, người phụ nữ cau mày.

      “Em ở với bác của mình.”

      “Và chúng tôi bảo vệ bé”, viên thanh tra lên tiếng. Geneva để ý thấy người phụ nữ thậm chí còn hỏi xem ID của chú ấy, ràng việc chú ấy là cảnh sát.

      “Khi nào họ về? Bố mẹ của em.”

      “Họ trở về. Họ ở nước ngoài.”

      “Em thực cần phải đến lớp ngày hôm nay.”

      “Em có hai bài kiểm tra. Và em muốn lỡ b này.”

      Người phụ nữ cười nhạt và với thanh tra Bell: “Tôi chưa bao giờ quá nghiêm túc với việc đến lớp như thế này. Đáng ra là cần phải thế”. Rồi nhìn về phía bé. “Em có chắc là mình muốn về nhà chứ?”

      “Em mất bao nhiêu công học hành để chuẩn bị cho hai bài kiểm tra này.” lầm bầm. “Em thực muốn làm chúng.”

      “Được rồi. Nhưng sau đó, tôi cho rằng em nên về nhà và nghỉ vài ngày. Chúng ta lấy bài tập cho em.” Barton nhanh chóng tới nhanh để ngăn cuộc ẩu đả giữa hai cậu nhóc.

      Khi khỏi, viên thanh tra hỏi: “Cháu có vấn đề với ấy à?”.

      “Chỉ là, những cố vấn... Họ luôn luôn nhúng mũi vào công việc của chúng ta, chú hiểu chứ?”

      Nhìn có vẻ như là thế, , hiểu, nhưng tại sao cần phải hiểu? Đây phải thế giới của .

      Họ bắt đầu tiến về phía căng tin. Khi họ đặt chân vào cái nơi ầm ĩ này, bé hất đầu về góc rẽ dẫn tới khu nhà vệ sinh nữ. “Cháu vào đó có ổn ?”

      “Chắc chắn rồi. Nhưng gượm .”

      tiến về phía nữ giáo viên và thầm gì đó với ấy, giải thích tình huống, Geneva cho là vậy.

      Người phụ nữ gật đầu rồi bước vào nhà vệ sinh. Lát sau bước ra. “ có gì cả.”

      Thanh tra Bell chặn bên ngoài cánh cửa. “Tôi bảo đảm rằng chỉ có học sinh mới được vào.”

      Geneva bước vào trong, biết ơn cái khoảnh khắc bình yên này, thoát khỏi những cặp mắt chằm chằm nhìn vào mình. Thoát khỏi nỗi lo sợ bởi biết được rằng có ai đó muốn làm hại mình. Trước đó, rất giận dữ. Trước đó rất bướng bỉnh. Nhưng giờ đây, bắt đầu lượn qua lượn lại trong lòng và bỏ mặc sợ hãi và bối rối.


      bước ra ngoài căn buồng vệ sinh rồi rửa tay và mặt. khác vào và trang điểm. học sinh năm cuối, chắc chắn là vậy. Cao, ưa nhìn, với đôi lông mày được vẽ, tỉa và mái tóc bằng duỗi thẳng hoàn hảo. nhìn từ đầu xuống chân - mặc dù phải bởi vì câu chuyện sáng nay. ta nhìn và đánh giá những gì Geneva mặc. Ta có thể thấy chuyện này ở đây mỗi lần, từng phút trong ngày, nhìn và đánh giá lẫn nhau: ta mặc cái gì, có bao nhiêu khuyên xỏ, là vàng hay chỉ là mạ, quá lấp lánh, những bím tóc còn đẹp hay là lỏng ra rồi, ta đeo chuỗi khuyên tai hay là chỉ hoặc hai cái đơn giản mà thôi, những lọn tóc kẹp kia là tóc giả hay là tóc ? Liệu có phải ta che giấu cái bụng bầu nhỉ?

      Geneva, sử dụng tất cả các khoản tiền của mình vào sách vở, phải cho mỹ phẩm hay quần áo, luôn luôn đứng thấp trong bảng xếp hạng đánh giá này.

      phải lúc nào thứ mà Chúa tạo ra cũng có ích. phải hít hơi sâu để làm căng cái áo lót, mà bình thường vẫn chẳng quan tâm tới việc mặc nó vào. là “con quỷ cái ngực lép” trong mắt những của Dự án Delano, và từng bị gọi là “thằng” hay “cu” hàng chục lần trong năm ngoái. (Điều đau khổ nhất là khi ai đó thực nhầm lẫn cậu bé, chứ phải là khi họ giễu cợt.) Rồi sau đó là tóc của : Dày và xoăn tít như những sợi len làm bằng sắt. có thời gian để làm những lọn tóc xoăn hay tết thành hàng. Các bím tóc hay các phụ kiện rất mất thời gian và mặc dù Keesh có thể làm miễn phí cho , chúng thực làm cho nhìn trẻ hơn, giống như đứa bé được mẹ diện cho quần áo.

      Bên này, nó chạy bên này, cái con bé nhìn như con trai... đập nó xuống.

      năm cuối đứng cạnh ở chỗ những cái bồn rửa mặt quay lại về phía chiếc gương. ta khá xinh và to lớn, quai áo lót sexy của ta và cái đai quần lót hở lộ liễu, tóc duỗi thẳng suôn dài, đôi má bóng mượt có màu hồng nhạt. Đôi giày đỏ như kẹo táo. ta có tất cả những thứ mà Geneva hề có.

      Lúc đó, cánh cửa mở ra và tim Geneva đông cứng lại.

      Jonette Monroe, học sinh năm cuối khác bước vào. cao hơn Geneva lắm, mặc dù to lớn hơn, ngực to hơn, với đôi vai rắn chắc và những cơ bắp ràng cuồn cuộn. Những hình xăm cả hai cánh tay. khuôn mặt dài, đen như cà phê mocha. Và đôi mắt lạnh như đá - nheo lại khi nhận ra Geneva, và bé ngay lập tức liếc nhìn sang chỗ khác.

      Jonette là rắc rối. du côn. Những lời đồn đại là ta buôn bán ma túy - có thể cho bạn bất cứ thứ gì bạn muốn, meth[7], crack[8], smack[9]. Và nếu như bạn tìm đến ta mà có tiền, ta có thể hạ gục bạn bằng sức của mình - hoặc là cả bạn thân của bạn hay thậm chí mẹ bạn nữa - cho đến khi bạn trả được món nợ. hai lần trong năm nay, ta bị cảnh sát lôi , thậm chí còn đá vào “bi” của viên

      [7] Meth: loại ma túy tổng hợp, gọi là “đá”.

      [8] Crack: loại côcain có thể hít được.

      [9] Smack: heroin.

      Geneva lúc này cúi gằm mặt xuống dưới, và nghĩ: Thanh tra Bell thể biết được Jonette nguy hiểm tới mức nào khi để cho ta vào đây. Đôi tay và mặt vẫn còn ướt, Geneva bắt đầu bước về phía cửa.

      “Này, này, con kia”, Jonette với , nhìn từ xuống dưới với ánh mắt lạnh lùng. “À, đúng mày, Martha stewart[10]. Mày có đâu thế.”

      [10] Martha Stewart: doanh nhân tiêu biểu của Mỹ, thành công rồi bỗng nhiên phạm tội và gây dựng lại tất cả sau khi ra tù.

      “Em...”

      “Im mồm.” ta liếc về phía có gò má hồng nhạt. “Còn mày, cút ra ngoài.”

      ta nặng hơn Jonette đến gần hai lăm kilogram và cao hơn đến tám centimet nhưng vẫn dừng cái việc tô trát lại và chậm rãi thu nhặt những mỹ phẩm. ta cố gắng giữ lại chút vẻ khinh khinh, : “Đừng có tỏ thái độ với tôi”.

      Jonette gì hết. ta bước tới bước; chộp lấy chiếc túi của mình và lướt sang qua cửa.

      Chiếc bút kẻ môi rơi xuống sàn. Jonette nhặt nó lên và quẳng cái tuýp vào trong túi mình. Geneva tiếp tục tìm cách chuồn lần nữa nhưng Jonette túm lại và lôi tới phía trong của nhà vệ sinh. Khi Geneva đứng đó, căng cứng lên, Jonette chộp lấy cánh tay và đẩy mạnh những cánh cửa buồng khác để chắc chắn là có ai khác.

      “Chị muốn gì?”, Geneva thào, nửa kháng cự, nửa sợ hãi.

      Jonette ngắt lời: “Ngậm mồm lại”.

      chết, nghĩ, đầy tức giận. Thanh tra Rhyme đúng! Cái gã khốn nạn ở thư viện vẫn săn đuổi . bằng cách nào đó tìm ra trường của và thuê Jonette làm nốt phần việc còn lại. Thế quái nào lại muốn đến trường hôm nay chứ? Hét lên, Geneva với chính mình.

      làm.

      Hoặc định làm.

      Jonette có thể thấy bé định làm điều đó và chợp mắt vòng ra sau Geneva, chụm miệng bé, ngăn tiếng thét lại. “Im lặng!” Bàn tay còn lại của ta ghì vòng quanh eo bé và lôi tới góc xa hơn của căn phòng. Geneva chộp lấy bàn tay và cánh tay của ta rồi giật mạnh, nhưng phải là đối thủ của Jonette. bé nhìn chằm chằm vào hình xăm chữ thập rỉ máu cẳng tay ả và thút thít: “Xin chị đấy...”.

      Jonette lục kiếm cái gì đó trong túi và trong cặp của mình. Cái gì? Geneva tự hỏi trong nỗi kinh hãi. Có ánh lóe sáng của kim loại. con dao hay khẩu súng? Họ có cái máy dò kim loại để làm gì khi mà có thể dễ dàng mang vũ khí vào trong trường học như thế này chứ?”

      Geneva kêu lên the thé, vùng vẫy lăn lộn cách mạnh mẽ.

      Rồi bàn tay của du côn vung ra phía trước.

      , ...

      Và rồi Geneva phát ra mình nhìn vào cái huy hiệu sở cảnh sát bằng bạc.

      im lặng chứ?”, Jonette hỏi, giọng bực tức.

      “Em...”

      “Im lặng?”

      Gật đầu.

      Jonette : “Tôi muốn bất cứ ai ở bên ngoài nghe thấy thanh gì... Được chứ?”.

      Geneva gật đầu lần nữa và Jonette thả ra.

      “Chị là...”

      “Cớm... ừ.”

      Geneva quờ quạng lung tung và áp lưng dựa vào tường, thở sâu, khi Jonette tới cánh cửa, mở he hé ra chút. thầm điều gì đó và thanh tra Bell bước vào trong, khóa cánh cửa lại.

      “Vậy, hai người gặp nhau rồi?” .

      “Kiểu như thế”, Geneva . “Chị ấy là cớm à?”

      Viên thanh tra giải thích: “Tất cả các trường học đều có cảnh sát chìm. Họ thường là phụ nữ, đóng vai sinh viên năm thứ ba hoặc năm thứ tư. Hay cháu gì nhỉ? ’Giả vờ’”.

      “Tại sao chú cho cháu biết.” Geneva thốt lên.

      Jonette liếc về phía những buồng vệ sinh. “Tôi biết là có ai khác ngoài chúng ta. Xin lỗi vì thô lỗ. Nhưng tôi thể bất cứ điều gì có thể thổi bay vỏ bọc của mình.” Nữ cảnh sát nhìn Geneva, lắc đầu. “Đáng xấu hổ là điều này lại xảy ra với em. Em là trong những sinh viên tốt. Tôi chưa bao giờ phải e ngại gì về em cả.”

      tay cớm chìm”, Geneva thầm nghi ngờ.

      Jonette cười bằng giọng cao, đầy nữ tính. “Tôi là người đàn ông. Đúng thế.”

      “Chị tuyệt”, Geneva . “Em thể nào đoán được.”

      Bell : “Cháu có nhớ vụ những sinh viên năm cuối mang lậu súng vào trường bị bắt vài tuần trước ?”.

      Geneva gật đầu. “Có cả quả bom ống nữa[11] hay cái gì đại loại như thế.”

      [11] Bom ống: thiết bị nổ tự tạo, bằng các ống bên trong nhồi chất nổ.

      “Nơi đây có thể giống như vụ thảm sát ở

      trường trung học Columbine[12]”, người đàn ông với giọng chậm rãi: “Jonette chính là người nghe thông tin về việc đó và ngăn chặn tất cả mọi việc”.

      [12] Vụ thảm sát trường Trung học Columbine xảy ra ngày 20/04/1999 ở quận Jefferson, tiểu bang Colorado; thủ phạm là hai học sinh, giết 1 giáo viên, 12 học sinh, và làm bị thương 24 người khác và sau đó tự sát.

      “Tôi cần phải giữ lại vỏ bọc của mình, bởi vậy tôi thể tự mình tóm cổ chúng.” như thể hối tiếc vì có khả năng tự tay làm điều đó. “Bây giờ, miễn là em còn ở trong trường, mà tôi cho là được hay cho lắm, nhưng đó là câu chuyện khác, chừng nào em còn ở trong trường, tôi để mắt đến em. Nếu thấy bất cứ điều gì khiến em cảm thấy thoải mái, hãy ra hiệu cho tôi biết.”

      “Ra ký hiệu kiểu băng đảng?”

      Jonette cười. “Em có thể đóng vai thành viên trong bất cứ băng đảng nào, Gen, có gì quá riêng biệt. Em và vẫy tay về phía tôi, bất cứ ai cũng biết là có gì đó sắp xảy ra. Tốt hơn hết là em chỉ cần gãi tai mình. Như thế này sao?”

      “Chắc chắn rồi.”

      “Rồi sau đó tôi tiến đến và gây lộn với em chút. Làm em phải bối rối. Lôi em ra khỏi cái chỗ mà em đứng. Như thế em thoải mái chứ? Tôi làm em đau đâu. Có thể chỉ xô đẩy em lòng vòng chút thôi.”

      “Được rồi, hay lắm... Nghe này, em cảm ơn vì tất cả những điều đó. Và em hé nửa lời về chị.”

      “Tôi biết như vậy trước khi cho em biết mọi việc.” Jonette . Rồi nhìn về phía viên cảnh sát. “ muốn làm luôn bây giờ ?”

      “Hẳn rồi.”

      rồi viên cảnh sát hòa nhã vui vẻ với giọng xuồng xã, nhìn với ánh mắt hằm hằm và hét lên: “Mày làm cái quái gì ở đây vậy?”.

      Rồi tiếng thét: “Bỏ bàn tay bẳn thỉu ra khỏi người tôi, đồ khốn kiếp”. Jonette lại hóa thân vào vai diễn của mình.

      Viên thanh tra tóm lấy cánh tay ấy và đẩy ra khỏi cánh cửa. ấy trượt chân lao vào bức tường.

      “Đồ khốn! Mẹ kiếp, tao kiện mày vì tội lạm dụng.” phủi cánh tay mình. “Mày được chạm vào tao. Như thế là phạm pháp, đồ chó chết!” rồi cuốn nhanh như cơn lốc xuống giảng đường. lát sau thanh tra Bell và Geneva bước vào căng tin cách đường hoàng.

      “Quả là diễn viên tài ba”, Geneva thầm .

      trong những người giỏi nhất.” Viên cảnh sát .

      ấy là người thuộc dạng thổi bay vỏ bọc của ta ra.”

      trả cuốn sách nghiên cứu xã hội, cười toe toét. “ thực có tác dụng lắm.”

      Geneva ngồi xuống cái bàn trong góc và lôi quyển sách nghệ thuật ngôn ngữ ra khỏi ba lô.

      Thanh tra Bell hỏi: “Cháu ăn à?”.

      .”

      “Bác của cháu cho cháu tiền ăn trưa chưa vậy?”

      “Cháu thực thấy đói lắm.”


      “Bác cháu quên mất rồi phải ? Với tất cả tôn trọng, ta dám chắc ông ấy chưa từng làm người cha. Ta có thể điều đó. Ta chuẩn bị cho cháu ít vậy.”

      , thực ...”

      thực là ta đói hơn cả người nông dân lúc mặt trời lặn. Và hằng năm rồi ta chưa được ăn đĩa tetrazzini[13] gà tây trong trường trung học. Ta định lấy ít món đó. Và chẳng vấn đề gì khi muốn lấy đĩa thứ hai. Cháu thích sữa chứ?”

      [13] Món ăn được chế biến bằng mì sợi, nấm, quả hạnh và nước xốt kem với pho mát Pác ma.

      bé cãi. “Chắc chắn rồi. Cháu gửi trả lại cho chú.”

      “Chúng ta để việc đó sau.”

      bước vào hàng. Geneva vừa mới quay lại với quyển vở thấy chàng nhìn về phía mình và vẫy vẫy tay. quay lại nhìn phía sau xem cậu ta ra hiệu với ai. Chẳng có ai cả. khẽ há hốc miệng, nhận ra rằng cậu ta ám chỉ mình.

      Kevin Cheany đứng dậy khỏi cái bàn mà cậu và lũ bạn ngồi rồi bắt đầu nhảy tung tăng về phía . Ôi Chúa ơi! Liệu có đúng là cậu ta về phía này ?... Kevin trông giống hệt Will Smith. Hình dáng, cặp môi hoàn hảo. Cậu ta, người có thể lướt trong sân bóng rổ, có thể di chuyển như vũ công breakdance trong trận đấu của giải B-Boy. Kevin là viên than [14] nổi tiếng tại mọi giải đấu.

      [14] Nguyên văn: coal institution. Ám chỉ cậu bé da đen này nổi tiếng ở mọi giải đấu breakdance.

      đứng trong hàng, thanh tra Bell gồng lên và bắt đầu bước tới trước nhưng Geneva lắc đầu ra hiệu mọi việc vẫn ổn.

      Đúng là vẫn ổn. Thậm chí còn hơn cả thế. Hoàn toàn tuyệt ý chứ. Kevin được sắp xếp đến Connecticut hoặc Duke để học theo diện học bổng. Có thể là vận động viên - cậu ấy từng là đội trưởng của đội giành giải vô địch cuộc thi bóng rổ PSAL năm ngoái. Nhưng cậu ấy cũng làm được điều đó cả với những điểm số học tập. Có thể cậu ấy có chung tình dành cho sách vở và trường lớp như Geneva, nhưng cậu ấy vẫn luôn trong top 5% của cả lớp. Họ biết nhau cách rất ngẫu nhiên - cùng lớp toán học kỳ này và cũng tình cờ gặp nhau trong sành hay ở sân trường lần này sang lần khác - trùng hợp, Geneva tự với mình. Nhưng, được rồi, luôn bị hút về phía cậu ấy đứng hay ngồi.

      Hầu hết những đứa nhóc lờ hoặc khinh thường ; dù vậy, Kevin luôn “chào” hết lần này đến lần khác. Cậu ấy có thể hỏi câu hỏi về bài tập toán hay sử, hoặc chỉ dừng lại và tán gẫu vài phút.

      Tất nhiên, cậu ta hề rủ chơi - điều đó chưa bao giờ xảy ra - nhưng cậu ấy đối xử với như với con người.

      Cậu ấy thậm chí còn bộ về nhà cùng từ Langston Hughes vào ngày mùa xuân năm ngoái.

      ngày đẹp trời, vẫn còn nhớ như thể mình có chiếc đĩa DVD ghi lại ngày hôm ấy.

      Ngày 21 tháng 4.

      Thường Kevin lang thang với vài người mẫu mảnh mai cố đánh bóng tên tuổi - hoặc với những ngổ ngáo - những blingstas. (Cậu ấy thậm chí còn tán tỉnh Lakeesha vài lần, và điều đó làm Geneva cực kỳ tức giận, trong khi phải chịu đựng cơn ghen tức với nụ cười rắn rỏi vô tư lự.)

      Vậy cậu ấy định làm gì lúc này?

      “Ồ, nhóc, cậu ổn chứ?” Cậu ta hỏi, cau mày và nhảy vào chiếc ghế mạ chrom cũ kỹ méo mó bên cạnh , trải đôi chân dài thượt ra.

      “Ừ.” nuốt ực cái, lưỡi như bị xoắn lại. Tâm trí hoàn toàn trống rỗng.

      Cậu ta : “Tớ nghe về chuyện xảy ra. Quả , đó là chuyện kỳ lạ, ai đó lại cố đánh và bóp nghẹt cậu chứ. Tớ rất lo lắng”.



      .”

      “Chỉ là kỳ lạ mà thôi.”

      “Miễn là cậu ổn, thế là tốt rồi.”

      cảm thấy mặt mình nóng ran lên. Kevin thực điều này với sao?

      “Tại sao cậu về nhà?”, cậu ta hỏi. “Cậu làm gì ở đây vậy?”

      “Bài kiểm tra nghệ thuật ngôn ngữ. Rồi bài kiểm tra toán của chúng ta nữa.”

      Cậu ta cười. “Chết tiệt. Cậu vẫn đến trường học tiếp, sau tất cả những chuyện như vậy sao?”

      “Ừ. thể bỏ những bài kiểm tra đó được.”

      “Và cậu giỏi toán hả?”

      Đó chỉ đơn giản là cộng cộng trừ trừ. có gì lớn lắm. “Ừ, tớ học hết rồi. có gì quá khó.”

      thẳng. Dù gì . Tớ chỉ muốn rằng, đầy người quanh đây chẳng ưa gì cậu, tớ biết điều đó. Và cậu chỉ im lặng. Nhưng họ và đến đây ngày hôm nay, như cách cậu làm. Cậu có sức mạnh phi thường, nhóc.”

      Ngừng thở bởi những lời khen ngợi, Geneva chỉ cúi nhìn xuống và nhún vai.

      “Giờ, tớ thực nhận ra cậu như thế nào, cậu và tớ, nhóc à, chúng mình nên chơi với nhau nhiều hơn. Nhưng cậu chẳng bao giờ có thời gian chơi cả.”

      “Chỉ là, cậu biết đấy, trường lớp và những việc vớ vẩn.” Cẩn thận, tự cảnh báo mình. Mày cần phải theo cách của cậu ta.

      Kevin đùa: “Nhóc, phải là như thế. Tớ biết đâu là . Cậu bán ma túy ở BK chứ gì”.

      “Tớ…” gần như là chữ “”. cho phép nó bật ra. Geneva cười cách tự tin, cúi xuống nhìn cái sàn nhà mòn vẹt. “Tớ bán ở Brooklyn. Chỉ ở Queens mà thôi, ở đó họ có nhiều tiền hơn.” Xấu hổ, xấu hổ, xấu hổ quá. Ôi, mày là đáng thương. Lòng bàn tay nhễ nhại mồ hôi.

      Nhưng Kevin cười lớn. Rồi lắc lắc đầu. “Giờ tớ biết tại sao tớ lại lẫn lộn rồi. Đáng lẽ phải là mẹ cậu buôn ma túy ở Brooklyn mới đúng.”

      Nghe có vẻ như lời xúc phạm, nhưng nó thực ra lại là lời mời. Kevin rủ chơi trò đối đáp[15]. Đó là cách mà những người già vẫn gọi. Giờ ta gọi đó là “snapping”, đối đáp nhau bằng những lời xúc phạm. phần trong truyền thống lâu đời các cuộc thi đấu thơ ca và kể chuyện của người da đen, snapping là cuộc tấu hài, cuộc chiến bằng lời , ném về phía nhau những lời nhạo báng, chế nhạo. Những snapper có thể biểu diễn sân khấu, mặc dù hầu hết các cuộc đấu khẩu diễn ra trong phòng khách, sân trường, các quầy pizza, quán bar, các hộp đêm hay các bậc thềm và thường là về những chuyện buồn như kiểu mà Kevin mới trong loạt tấn công trước của mình, kiểu như “mẹ mày ngốc, hỏi hóa đơn ở cửa hàng giá đô”; “Chị mày xấu xỉ, chẳng có ai thèm làm tình với ta nếu ta là viên gạch”.

      [15] Nguyên văn: play the dozens.

      Nhưng ngày hôm nay, ở đây, vấn đề chẳng có gì liên quan đến việc cần phải hài hước, dí dỏm, thông minh. Bởi vì chơi trò đối đáp truyền thống là giữa những chàng trai hoặc giữa những với nhau. Khi cậu trai gạ chơi trò này, nó chỉ có duy nhất ý nghĩa: tán tỉnh.

      Geneva suy nghĩ, điều này kỳ cục tới mức nào? Nó khiến cảm thấy việc bị tấn công làm cho mọi người tôn trọng mình. Cha thường rằng điều tốt nhất có thể đến từ điều tồi tệ nhất.

      Chà, tiến lên, nhóc; đáp trả . Cái trò này ngốc nghếch và trẻ con cách lố bịch, nhưng biết đáp trả thế nào; cùng với Keesh và chị của Keesh có thể đối đáp nhau cả tiếng đồng hồ liên tục. Mẹ mày béo đến mức nhóm máu là RAGU. Con xe Chevy của mày cũ rách tới mức bọn trộm lẩy chiếc CLUB và vứt con xe lại... Nhưng, trái tim đập cách mạnh mẽ và dữ dội, Geneva giờ chỉ đơn giản cười trừ và toát mồ hôi trộm. cố gắng cách liều lĩnh để nghĩ ra cái gì đó để .

      Nhưng đó chỉ là mình Kevin Cheany mà thôi. Ngay cả nếu có thể kích thích lòng dũng cảm để phản pháo lại những lời châm chích về mẹ cậu ấy nhưng tâm trí hoàn toàn bị đóng băng.

      nhìn vào chiếc đồng hồ của mình, rồi lại liếc xuống cuốn sách nghệ thuật ngôn ngữ. Lạy Chúa, đồ chán chết, nổi giận với chính mình. điều gì nào!

      Nhưng chẳng có đến tiết lọt ra khỏi miệng. biết Kevin định nhìn theo cái cách mà biết rất , kiểu tôi chẳng rảnh rỗi để nhìn cái kẻ nhạt nhẽo như , và bước . Nhưng, , có vẻ như cậu ấy cho rằng chỉ đơn giản có tâm trạng để chơi lắm, hẳn là do vẫn sợ hãi bởi việc lúc sáng, và như vậy có vấn đề gì với cậu ta. Cậu ấy chỉ : “Mình nghiêm túc đấy, Gen, cậu còn hơn cả những suốt ngày bình luận về nhạc nhẽo, rồi tóc tai, và đồ trang sức vớ vẩn. Đó là gì, cậu thông minh. tuyệt khi được chuyện với ai đó thông minh. Những bạn của tớ”, cậu hất đầu về phía chiếc bàn mà nhóm của mình ngồi “họ hoàn toàn là những nhà khoa học về tên lửa, cậu hiểu ý tớ chứ?”.

      tia chớp lóe lên trong đầu. Tiến lên, nhóc. “Ừ”, : “ vài người trong số họ là ngu ngốc, nếu để họ bộc lộ suy nghĩ của mình, họ chẳng có gì để cả”.

      “Chuẩn, nhóc! Chính là thế.” Cười to, cậu giơ tay chạm nắm đấm của mình vào , và có luồng điện chạy qua người . cố gắng để cười; hay nếu như ta cười vào chính câu bỡn cợt của mình.

      Rồi, trong suốt khoảnh khắc vui vẻ ấy, nghĩ xem cậu ta đúng bao nhiêu, và nó hiếm khi xảy ra tới mức nào, việc chuyện với ai đó thông minh dí dỏm, ai đó biết lắng nghe, ai đó quan tâm tới những gì bạn .

      Kevin nhướn lông mày nhìn về phía thanh tra Bell, khi ông trả tiền thức ăn, và : “Tớ biết cái ông đóng giả giáo viên kia là cớm”.

      thầm: “Có vẻ như là ông ấy có chữ ‘cớm’ viết trán mình”.

      “Chắc chắn rồi”, Kevin , cười lớn. “Tớ biết ông ấy bước về phía cậu và thế là ổn rồi. Nhưng tớ cũng muốn là tớ cũng để mắt đến cậu nữa. Và cả những người bạn của tớ. Nếu thấy bất cứ điều gì kỳ lạ, chúng tớ báo cho ông ấy biết.”

      thực xúc động vì câu đó.

      Nhưng rồi rắc rối. ra sao nếu Kevin hoặc trong những người bạn của cậu ấy bị thương bởi cái gã nguy hiểm ở thư viện ấy? vẫn còn cảm thấy đau xót với việc tiến sĩ Barry bị giết vì mình, cả người phụ nữ đứng vỉa hè bị thương nữa. linh cảm khủng khiếp rằng: Kevin nằm trong phòng của nhà tang lễ Williams, giống như rất nhiều cậu nhóc khác ở Harlem, bị bắn chết phố.

      “Cậu cần phải làm thế”, , cười.

      “Tớ biết mình cần”, cậu . “Tớ muốn làm. có ai làm hại cậu hết. Tớ hứa. Được rồi. Tớ phải ra với mấy đây. Gặp cậu sau? Trước giờ vào lớp toán?”

      Tim đập thình thịch, lắp bắp : “Chắc chắn rồi”.

      Họ lại chạm nắm đấm vào nhau lần nữa và cậu ấy bước . Nhìn Kevin rời , cảm thấy bồn chồn, bắt tay tạm biệt. nghĩ, xin đừng để bất cứ điều gì xảy ra vói cậu ấy...

      “Geneva?”

      ngước lên, chớp mắt.

      Thanh tra Bell đặt khay đồ ăn xuống. Nó toát ra mùi tuyệt... thậm chí còn đói hơn cả mình nghĩ nên nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa bốc khói nghi ngút.

      “Cháu biết cậu ấy à?”, viên cảnh sát hỏi.

      “Vâng. Cậu ấy rất thú vị. Chúng cháu học cùng lớp mà. Cháu biết cậu ấy mấy năm rồi.”

      “À, ta biết điều đó.”

      “Nhưng chuyện ấy liên quan gì tới những việc xảy ra ở bảo tàng chứ?”, hỏi với nụ cười.

      quay sang hướng khác, cảm giác mặt mình nóng bừng lên.

      “Giờ ..viên thanh tra , đặt chiếc đĩa bốc khói xuống trước mặt : “Ăn . có gì bằng đĩa tetrazzini gà tây để xoa dịu tâm hồn có nhiều chuyện phải suy nghĩ. Cháu biết đấy, ta đáng ra chỉ cần hỏi họ về cách làm”.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 11

      Những thứ này làm tốt thôi.

      Thompson Boyd nhìn xuống những thứ mua trong giỏ, rồi bắt đầu bước về phía quầy tính tiền. chỉ thích những cửa hàng bán đồ dụng cụ. tự hỏi tại sao lại như vậy. Có lẽ bởi vì cha của thường đưa tới cửa hàng đồ dùng gia đình Ace vào các thứ Bảy ở ngoài Amarillo để thu thập những gì người đàn ông cần cho công xưởng của mình trong cái nhà kho bên ngoài chiếc xe moóc của gia đình.

      Hoặc có thể là vì trong hầu hết các cửa hàng đồ gia dụng, như ở đây, tất cả dụng cụ đều sạch và ngăn nắp, các lọ sơn, keo dán và băng dính được sắp xếp cách logic và dễ dàng tìm ra.

      Tất cả đều được sắp xếp theo quyển sách.

      Thompson thích cả mùi vị của chúng nữa, kiểu mùi hăng hăng của các chất dung môi, dầu, phân bón, khó có thể diễn tả được, nhưng đó là cái mùi mà bất cứ ai từng ở trong cửa hàng đồ gia dụng cũ kỹ có thể nhận ra ngay tức khắc.

      Tên sát nhân khá khéo tay. Có lẽ đó là ưu điểm thừa hưởng từ cha mình, người mặc dù dành cả ngày với các dụng cụ, làm việc với các ống dẫn dầu, giàn khoan và những chiếc máy bơm đầu khủng long nhấp nhô lên xuống, vẫn có thể bỏ ra nhiều thời gian kiên nhẫn chỉ bảo con trai mình cách để làm việc với - và tôn trọng - các dụng cụ; cách đo, cách vẽ những sơ đồ. Thompson sử dụng hàng tiếng đồng hồ để học cách sửa những thứ bị hỏng và biến gỗ, kim loại hay nhựa thành những thứ chưa từng tồn tại. và cha mình làm việc cùng nhau chiếc xe tải hay xe kéo, sửa hàng rào, làm ra những đồ nội thất, tạo ra những món quà cho mẹ và dì - cái lăn bột hay hộp thuốc lá hoặc cái bàn thớt. Cha dạy: “Dù lớn hay , con đều phải sử dụng những kỹ năng như nhau vào những gì con làm. việc nào tốt hơn hay nặng nề hơn những việc khác. Nó chỉ duy nhất là câu hỏi con đặt dấu thập phân ở đâu mà thôi.”

      Cha của quả là người thầy giỏi và ông tự hào với những gì mà con trai mình làm. Khi Hart Boyd qua đời, ông mang theo bộ hộp đánh giày mà con trai làm ra, và cái móc đeo chìa khóa bằng gỗ có hình cái đầu tù trưởng người da đỏ với chiếc mũ đầu khắc chữ “Cha” bằng vết lửa cháy miếng gỗ.

      Đó là phúc phận của , và hóa ra Thompson học tất cả những kỹ năng này để đáp ứng đòi hỏi về công việc của tử thần. Cơ khí và hóa chất. Chẳng có gì khác biệt với nghề mộc, sơn hay là sửa xe.

      Vị trí con đặt dấu thập phân.

      Đứng ở quầy tính tiền, thanh toán - tất nhiên bằng tiền mặt - và cảm ơn người thu ngân. lấy túi đồ mua được bằng bàn tay đeo găng. Bắt đầu ra ngoài cửa, dừng lại chút và nhìn vào chiếc máy cắt cỏ , màu xanh và vàng. Nó sạch , sáng bóng cách hoàn hảo, thiết bị xứng đáng là viên ngọc lục bảo. Nó kích thích tò mò trong . Tại sao? tự hỏi. Ừm, từ khi nghĩ về cha mình, chiếc máy gợi lại những khi dùng máy cắt cỏ khoảng sân chật chội bé xíu đằng sau chiếc xe kéo của bố mẹ, vào buổi sáng Chủ nhật, rồi sau đó vào và xem trận đấu bóng với cha trong khi mẹ nướng bánh.

      nhớ hương ngọt ngào của ống xả xăng pha chì, nhớ đến thanh khô khốc như tiếng súng nổ khi lưỡi dao đập vào viên đá và nảy lên trung, và đôi tay vì chấn động.

      Tê liệt, đó là cảm giác mà bạn cảm thấy khi nằm chết cứng bởi vết cắn của con rắn đuôi chuông, giả dụ.

      chợt nhận ra là người thu ngân chuyện với mình.

      “Gì cơ?”, Thompson hỏi.

      “Để cho với giá tốt đấy”, người bán hàng , hất đầu về phía chiếc máy cắt cỏ.

      , cảm ơn.”

      Bước chân ra ngoài, tự hỏi tại sao mình lại lơ đãng thế - điều gì khiến thích thú đến thế về chiếc máy cắt cỏ, tại sao lại rất muốn nó. Rồi sau đó lại có ý tưởng rằng đó phải là ký ức gia đình. Có lẽ bởi vì chiếc máy thực chiếc máy chém , cách giết người thực hiệu quả.

      Có lẽ đó là lý do.

      thích suy nghĩ đó chút nào. Nhưng chính là nó.

      Vô cảm...

      Huýt sáo khe khẽ trong miệng, bài hát từ khi còn trẻ, Thompson lên phố, mang theo túi đồ vừa mua tay và trong tay còn lại, là chiếc va li của , có chứa khẩu súng và chiếc dùi cui cùng vài dụng cụ khác nữa.

      tiếp tục bước lên phố, vào khu Little Italy, nơi có từng toán người phải lau dọn sau hội chợ ngày hôm qua. trở nên cảnh giác, quan sát vài chiếc xe cảnh sát. Hai viên sĩ quan chuyện với người bán hoa quả Hàn Quốc và vợ ta. tự hỏi biết họ chuyện gì. Rồi tiếp tục bước tới chiếc tủ điện thoại và kiểm tra lại hộp thư thoại của mình lần nữa, nhưng chẳng có tin nhắn nào về nơi ở của Geneva. Đó phải là mối bận tâm. Đầu mối của biết về Harlem, và đó chỉ là vấn đề về thời gian cho tới khi Thompson tìm ra trường học và nơi bé sống. Bên cạnh đó, có thể có thời gian rảnh rỗi. công việc khác, công việc mà lên kế hoạch thực thậm chí còn lâu hơn thời gian để giết chết Geneva, và đó là nhiệm vụ quan trọng như công việc đó của vậy.

      Thực ra là, quan trọng

      hài hước là giờ đây nghĩ đến điều đó - công việc này cũng liên quan tới lũ nhóc.

      “Vâng”, Jax qua điện thoại di động.

      “Ralph đây.”

      “Gì thế thằng quỷ?” Jax tự hỏi liệu có phải vị Pharaoh gầy guộc dựa vào cái gì đó lúc này. “Cậu có được thông tin từ bạn của chúng ta?” Ám chỉ nhân vật liên quan DeLisle Marshall.

      “Đúng vậy.”

      “Và cả vua Graffiti nữa?”, Jax hỏi.

      “Đúng thế.”

      “Được rồi. Vậy chúng ta ở đâu trong tất cả những việc này?”

      “Được rồi, tôi tìm ra thứ muốn. Đó là...”

      “Đừng bất cứ điều gì.” Điện thoại di động là phát minh của quỷ dữ khi nó frở thành bằng chứng. ta cho Ralph địa chỉ ngã tư nằm phố 116. “Mười phút.”

      Jax tắt máy và bắt đầu bước phố, khi hai người phụ nữ trong bộ áo choàng dài, đeo những chiếc mũ rộng vành của nhà thờ và giữ chặt những quyển kinh thánh sờn rách, lấn sang đường của ta. ta lờ cách ăn mặc kỳ quặc của họ.

      Vừa bộ cách chậm rãi vừa hút thuốc với cái chân cà nhắc bị bẳn chứ phải kiểu gangster, Jax hít sâu, phấn khởi khi được về nhà. Harlem... nhìn quanh những cửa hiệu, nhà hàng và các quầy buôn bán phố. Ta có thể mua bất cứ thứ gì ở đây: Những mảnh vải được dệt từ Tây Phi – vải dệt bằng tay của dân tộc thiểu số Malinke và cả những chiếc chìa khóa của sống theo văn hóa Ai Cập, những chiếc rổ Bolga được đan bằng tay rực rỡ màu sắc, những chiếc mặt nạ, những tấm biểu ngữ và các bức tranh được đóng khung về những người đàn ông và đàn bà Đại hội Dân tộc châu Phi với lá cờ ba màu đen, xanh và vàng. Và cả các tấm quảng cáo nữa: Malcolm X, Martin Luther King Jr., Tina, Tupac, Beyoncé, Chris Rock, Shaq... Và hàng tá những bức tranh về Jam Master Jay, rapper DJ thiên tài, nổi tiếng với nhóm Run - D.M.C, bị bắn chết bởi những kẻ khốn nạn trong phòng thu ở Queens vài năm trước.

      Những ký ức ở xung quanh Jax. Gã nhìn chằm chằm vào góc khác. Chà, hãy nhìn vào nó. Giờ là khu bán đồ ăn nhanh, đó chính là nơi gã thực hành vi phạm pháp lần đầu tiên, khi mới mười lăm tuổi - cái tội mở ra con đường đưa gã đến với tiếng tăm xấu xa. Bởi thứ mà gã lấy trộm phải là rượu, ma túy hay súng hoặc là tiền, mà là hộp sơn Krylon từ cửa hàng đồ gia dụng. Thứ được Jax sử dụng trong hai mươi tư tiếng đồng hồ sau đó, kết hợp với tội trộm cắp và xâm nhập bất hợp pháp cộng với phá hủy tài sản bằng việc phun sơn xịt các hình bong bóng với những chữ Jax 157 suốt từ Manhattan cho đến khu Bronx.

      Trong suốt vài năm tiếp theo, Jax vẽ ký hiệu đó hàng ngàn bề mặt: các cầu vượt, cầu qua sông, các bức tường, bảng thông báo, cửa hàng, xe buýt trong thành phố, xe buýt tư nhân, các tòa nhà văn phòng - vẽ lên cả tòa nhà Trung tâm Rockefeller, ngay bên cạnh bức tượng đài vàng ấy, trước khi bị tóm cổ bởi hai nhân viên an ninh cơ bắp cuồn cuộn, lao vào cách đầy phẫn nộ với bình xịt hơi cay hiệu Mace và những chiếc dùi cui.

      Nếu Alonzo Jackson trẻ tuổi có được năm phút có ai xung quanh và với bề mặt phẳng, cái hình Jax 157 ấy lại xuất .

      Chật vật chiến đấu để qua trung học, cậu con trai có cha mẹ ly dị, phát ngán với những công việc bình thường, thường xuyên gặp vấn đề, Jax tìm thấy thoải mái với công việc của tác giả (những tay du kích graffiti được gọi là những “tác giả”, phải là những “nghệ sĩ”- theo cách mà Keith Haring, phòng trưng bày Soho và các đại lý quảng cáo với mọi người). Gã từng qua lại với nhóm băng đảng trong khu thời gian, nhưng rồi ngày lại thay đổi suy nghĩ khi lang thang với băng của mình phố 140, nhóm Trey-Sevens lái xe qua, và rồi, pốp, pốp, pốp, Jimmy Stone, đứng sát ngay bên cạnh, ngã xuống với hai lỗ bên thái dương, chết ngay trước khi chạm đất. Tất cả chỉ vì tép cocain, hoặc chẳng vì lý do nào hết.

      Khốn kiếp. Jax con đường của riêng mình. Ít tiền hơn. Nhưng vô cùng an toàn (mặc dù vẽ những ký hiệu của mình lên cầu Verrazano và chiếc xe điện tuyến A chạy - là câu chuyện kỳ thú mà ngay cả những tay giang hồ trong tù cũng từng nghe tới).

      Alonzo Jackson, chính thức nhưng hoàn toàn đổi tên thành Jax, chìm đắm với nghệ thuật của mình. Gã bắt đầu đơn giản là tung những ký hiệu của mình ra khắp thành phố. Nhưng, Jax cũng học được rất sớm rằng nếu đó là tất cả những gì ta làm, ngay cả khi rải nó lên khắp các khu trong thành phố, ta vẫn chả là gì ngoài thứ trò chơi chán ngắt, và các vị vua Graffiti chẳng thèm để mắt tới ta.

      Vậy nên, gã bỏ học, làm việc trong những nhà hàng bán đồ ăn nhanh trong ngày để có tiền m sơn, hay thó bất cứ thứ gì có thể lấy được, Jax được nâng cấp lên mức mới - những bức hình graffiti được viết nhanh nhưng lớn hơn cả những hình vẽ kiểu rải bom. Gã ta trở thành chuyên gia với những hình vẽ từ xuống dưới: vẽ cả chiều thẳng đứng của toa tàu điện ngầm. Tuyến tàu A, được cho là tuyến dài nhất trong thành phố, là sở thích của gã. Hàng ngàn du khách có thể từ sân bay Kenedy vào thành phố chuyến tàu mà có dòng chữ: Chào mừng đến với “Quả táo

      lớn”[16] mà là cái thông điệp bí : Jax 157.

      [16] Quả táo lớn - Big Apple là nickname của thành phố New York.

      Cho đến năm Jax hai mươi mốt tuổi, gã thực xong hai mặt từ-đầu-này-sang-đầu-kia – phủ toàn bộ mặt toa tàu điện ngầm với hình vẽ graffiti của mình - và tiến đến rất gần với việc thực toàn bộ con tàu, giấc mơ của mọi tay đam mê vẽ graffiti. Gã cũng theo đuổi tuyệt tác. Jax cố gắng để lột tả tuyệt tác graffiti là gì. Nhưng tất cả những gì mà gã có thể nghĩ tới tuyệt tác là thứ gì đó còn hơn thế nữa. cái gì đó khiến cho người khác phải nín lặng. tuyệt phẩm mà ngay cả tên nghiện ma túy cặn bã cho đến thương nhân ở phố Wall tại trạm New Jersey đều phải ngước lên nhìn và nghĩ, trời ơi, nó tuyệt.

      Những ngày đó, Jax suy tư. Gã ta là vua Graffity, ở giữa giai đoạn của cuộc vận động mạnh mẽ nhất về văn hóa của người da đen kể từ sau Thời kỳ Phục hưng Harlem: hip hop.


      Chắc chắn rồi, thời Phục hưng hẳn phải là tuyệt lắm. Nhưng đối với Jax, nó là thứ của người thông minh, xuất phát từ trong đầu. Hip hop bùng nổ từ trong tâm hồn và từ trong trái tim. Nó hề được sinh ra trong các trường đại học, cao đẳng và trong phòng của những nhà văn, nó đến từ chính đường phố, từ những đứa trẻ đầy giận dữ vật lộn, tuyệt vọng với cuộc sống khó khăn cùng cực và những gia đình tan vỡ, chúng bước những vỉa hè vứt bừa bãi bơm kim tiêm của những con nghiện vẫn còn vết máu khô màu nâu. Đó là tiếng kêu hoang dại từ những kiếp người phải hét lên để được nghe thấy... Bốn nhánh của hip hop gồm: nhạc của DJ, chất thơ trong các bài rap, bước nhảy của những người chơi breakdance và nghệ thuật trong những cống hiến của Jax, graffiti.

      Thực tế, ở đây, phố 116 này, gã dừng lại và nhìn vào nơi mà cửa hàng bán đồ giảm giá Woolworth từng ở đó. Cửa hàng vượt qua nổi cơn khủng hoảng từ sau việc mất điện toàn thành phố năm 1977 nhưng thứ mọc lên ở đó là phép màu thực , câu lạc bộ hip hop số trong nước, Harlem World. Ba tầng của mọi thể loại nhạc mà bạn có thể tưởng tượng được, radical[17], addictive[18], electrifying[19]. Những chàng trai nhảy breakdance xoay tít, quằn lên như những cơn sóng trong bão. Những tay DJ xoay đĩa trong những sàn nhảy, các MC mơn trớn, vuốt ve những chiếc micro của mình và lấp đầy căn phòng với những bài thơ hoang dại kiểu đừng-đùa-với-tôi, hòa chung nhịp đập với trái tim thực . Harlem World là nơi mà những cuộc tranh cãi bắt đầu, những trận chiến giữa các rapper. Jax đủ may mắn để nhìn thấy trận chiến nổi tiếng nhất mọi thời đại: nhóm em Cold Crush và nhóm Fantastic Five...

      [17] Radical: dòng nhạc cấp tiến.

      [18] Addictive: loại nhạc ghép từ nhiều dòng khác nhau khiến người nghe thích thú say mê.

      [19] Electrifying: dòng nhạc kích thích người nghe với những cảm xúc mạnh.

      Tất nhiên, Harlem World là quá khứ xa xôi. Và đồng thời biến mất - bị chùi sạch, mờ , hay bị sơn đè lên - là hàng ngàn những hình vẽ của Jax, những tuyệt tác, cùng với đó là những hình vẽ của các huyền thoại graffiti của thuở khai sinh ra thời kỳ hoàng kim của hip hop, Julio và Kool và Taki. Những vị vua graffiti.

      À, có những người nuối tiếc cho thời kỳ biến đổi của hip hop, nay trở thành BET[20], những tay rapper triệu phú những chiếc Humvee vàng chóe, Bad Boys II[21] những công việc hái ra tiền, những đứa trẻ da trắng sống ở ngoại ô, nhạc tải về iPods, MP3 và đài radio vệ tinh. Nó... ừm, hãy lấy ví dụ như thế này: Jax nhìn vào chiếc xe buýt du lịch hai tầng chậm rãi tới cái vỉa hè gần đó. Ở sườn của chiếc xe là dòng chữ Rap/Hip hop Tours. Hãy xem Harlem thực . Hành khách lẫn lộn những người da trắng, da đen và cả những người đến từ châu Á. Gã nghe thấy loáng thoáng những đoạn trong bài giới thiệu của người lái xe và lời hứa hẹn rằng họ sớm nghỉ ăn trưa tại nhà hàng ‘có thức ăn ngon tuyệt và đúng vị New York’.

      [20] Kênh truyền hình giải trí dành cho người da đen. Black entertainment television.

      [21] bộ phim hành động hài.

      Nhưng Jax hề đồng ý với những người khăng khăng cãi rằng những ngày xa xưa ấy biến mất. Trung tâm của khu thị trấn ngoại ô vẫn còn giữ nguyên thuần khiết của nó. thứ gì có thể chạm vào. Hãy lấy quán Cotton Club, Jax suy tưởng, tổ chức của nhạc jazz, swing ( dạng nhạc ở Mỹ có nhịp điệu mạnh với trống) và stride piano ( dạng nhạc Jazz với đàn piano) những năm 20. Mọi người đều nghĩ rằng đó mới là Harlem thực , đúng ? Liệu có bao nhiêu người biết được rằng, nó chỉ dành cho những thính giả da trắng mà thôi (thậm chí công dân da đen nổi tiếng ở Harlem, W.C. Handy, trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất nước Mỹ mọi thời đại, bị cầu bước ra khỏi cửa trong khi chính nhạc của ông được chơi ở bên trong).

      Ừm, đoán xem? Quán Cotton Club biến mất mãi mãi. Nhưng Harlem . Và bao giờ. Thời Phục hưng hết và hip hop thay đổi. Nhưng nó thấm vào mọi con phố xung quanh gã với những trào lưu hoàn toàn mới. Jax tự hỏi liệu thực chính xác đó là cái gì. Và nếu như có thể, thậm chí gã quanh để nhìn nó - nếu gã giải quyết vấn đề này với Geneva Settle cách hợp lý chết hoặc quay trở lại xà lim chỉ trong vòng hai mươi tư giờ đồng hồ.

      Hãy tận hưởng bữa ăn ngon lành của mình, gã nghĩ tới những người khách du lịch khi chiếc xe buýt bắt đầu lăn bánh đường.

      Tiếp tục vài tòa nhà nữa, Jax cuối cùng tìm ra Ralph, người mà – đủ chắc chắn để nhận ra - đứng dựa vào tòa nhà bị bịt kín bởi những tấm bảng gỗ.

      “Con chó”, Jax .

      “Gì thế?”

      Jax tiếp tục bước .

      “Ta đâu đây?”, Ralph hỏi, bước nhanh chân để bắt kịp gã đàn ông to lớn.

      ngày đẹp trời để bộ.”

      “Khá là lạnh.”

      bộ làm mày ấm lên

      Họ tiếp tục lúc nữa, Jax lờ bất cứ điều gì mà Ralph rên rỉ. Gã dừng lại ở hàng Papaya King và mua bốn chiếc xúc xích và hai đồ uống hoa quả, chả thèm hỏi xem Ralph có đói hay . Hoặc có phải người ăn kiêng hay là nôn mửa khi uống ly sinh tố xoài. Gã trả tiền và bước ra phố, đưa cho gã đàn ông thó bữa trưa. “Đừng có ăn ở đây. nào.” Jax nhìn lên rồi bước xuống con phố. có ai theo dõi họ. Gã bắt đầu bước , nhanh. Ralph lẽo đẽo theo sau. “Chúng ta phải bộ thế này vì tin tôi à?”

      “Đúng thế.”

      “Tại sao tự nhiên lại tin tôi chút nào thế?”

      “Bởi vì mày có thời gian chơi tao từ lần tao nhìn thấy mày. Chính xác cái gì kỳ lạ ở đây?”

      ngày đẹp trời để bộ”, Ralph trả lời, lén lút cắn miếng xúc xích.

      Họ tiếp tục bước tới con phố có vẻ bị bỏ hoang và chuyển hướng về phía nam. Jax dừng lại.

      Ralph làm theo và dựa người vào cái hàng rào sắt được uốn khá đẹp ở trước căn nhà đá nâu. Jax ăn những cái xúc xích và hớp ly sinh tố xoài.

      Ralph nhai ngấu nghiến bữa trưa của mình.

      Ăn, uống, chỉ có hai công nhân với bữa ăn của mình từ công trường, hay là người lau cửa sổ. Chẳng có gì đáng ngờ với hình ảnh đó.

      “Cái chỗ ấy, chết tiệt, làm xúc xích ngon .” Ralph .

      Jax ăn xong bữa của mình, lau tay vào áo và vỗ xuống chiếc áo phông và quần bò của Ralph. có dây rợ gì hết. “Vào vấn đề luôn. Mày có thể tìm thấy gì?”

      “Con bé nhà Settle? Nó tới Langston Hughes. biết chứ? Cái trường trung học ấy.”

      “Chắc chắn rồi, tao biết cái trường ấy. Nó ở đấy hả?”

      “Tôi biết. hỏi ở đâu, chứ phải khi nào. Chỉ là tôi nghe được thông tin gì khác từ chiến hữu của mình trong lãnh thổ thôi.”

      Lãnh thổ..

      “Chúng rằng có ai đó đưa con bé về. Bám chặt lấy nó.”

      “Ai?” Jax hỏi. “Cớm à?” Tự hỏi tại sao phải băn khoăn. Tất nhiên đó phải là lũ cớm.

      “Có lẽ là thế.”

      Jax uống hết chỗ sinh tố. “Việc kia sao?”

      Ralph nhướn mày.

      “Cái mà tao hỏi ý.”

      “À.” Tay Pharaoh nhìn quanh. Rồi lôi chiếc túi giấy từ trong tài áo ra và nhét nó vào trong tay Jax. Gã có thể cảm thấy được đó là khẩu súng tự động và khá . Tốt. Đúng như cầu. Những viên đạn va lách cách trong đáy túi.

      “Vậy”, Ralph cách thận trọng.

      “Vậy.” Jax rút vài tờ đô la ra khỏi ví, đưa cho Ralph rồi dựa gần hơn vào gã đàn ông. Miệng thở ra mùi mạch nha, hành và xoài. “Giờ, nghe cho kỹ. Công việc giữa chúng ta xong. Nếu tao mà nghe thấy mày với bất cứ ai về việc này, hay chỉ đơn giản là nhắc đến tên tao, tao tìm ra mày và cho mày trận. Mày có thể hỏi DeLisle và nó cho mày biết tao là kẻ rất khó qua mặt. Mày hiểu tao gì chứ?”

      “Vâng, được rồi.” Ralph như thầm với ly sinh tố xoài của mình.

      “Giờ biến . , phía kia. Và đừng có nhìn lại.”

      Rồi Jax bước về hướng ngược lại, trở về phố 116, hòa lẫn mình vào dòng người mua sắm. Cắm đầu xuống, nhanh, mặc kệ cái chân khập khiễng, nhưng cũng đủ chậm để thu hút chú ý của những người khác.

      phố, chiếc xe buýt du lịch khác rít lên khi tới điểm dừng ở phía trước khu Harlem World chết từ lâu, vài tiếng rap lẹt rẹt phát ra từ cái loa bên trong chiếc xe lòe loẹt ấy. Nhưng khoảnh khắc ấy, vị vua Graffiti vẽ bằng máu này hồi tưởng về Harlem, hip hop hay là quá khứ tội phạm của mình. Gã có khẩu súng. Gã biết ở đâu. Điều duy nhất mà gã nghĩ tới là mất bao lâu để tới được trường trung học Langston Hughes.

      CHƯƠNG 12

      Người phụ nữ gốc châu Á với dáng người nhắn nhìn Sachs cách thận trọng.

      Chẳng có gì phải nghi ngờ về thoải mái này, nữ thanh tra nghĩ vậy, nên nhớ là ấy bị vây quanh bởi nửa tá cảnh sát to gấp đôi mình - và nửa tá còn lại đứng đợi bên ngoài cửa hàng.

      “Chào buổi sáng”, Sachs . “Chúng tôi tìm kiếm người đàn ông này. Việc tìm ra có ý nghĩa rất quan trọng. có thể


      ã thực vài tội ác nghiêm trọng.” với tốc độ hơi chậm chút so với tốc độ mà cho là đúng mực trong giao tiếp xã giao.

      Và điều đó, hóa ra lại là sai lầm ràng.

      “Tôi hiểu điều đó”, người phụ nữ bằng thứ tiếng hoàn hảo, với chút giọng Pháp, thực đáng ngạc nhiên. “Tôi với những cảnh sát khác bất cứ điều gì tôi nhớ ra. Tôi khá sợ hãi khi ta đeo thử cái mũ trùm lên, kéo nó xuống như cái mặt nạ. đáng sợ.”

      “Chắc chắn rồi”, Sachs , và nâng tốc độ phát lên chút. “Chị có cảm thấy phiền nếu chúng tôi muốn lấy dấu vân tay của chị ?”

      Việc này là để xác minh xem có đúng là dấu vân tay của ấy ở tấm hóa đơn và những đồ vật tìm thấy tại trường hay . Người phụ nữ đồng ý, và thiết bị phân tích dấu vân tay cầm tay xác nhận đó là dấu tay của ấy.

      Sachs hỏi: “Chị có chắc chắn là biết chút gì về và nơi sống chứ?”.

      . ta mới chỉ đến đây hay hai lần gì đó. Có thể nhiều hơn, nhưng ta thuộc dạng người chẳng bao giờ khiến ta chú ý. Bình thường. cười, nhăn nhó, từ. Hoàn toàn bình thường.”

      hề có vẻ ngoài xấu xa của tên giết người, Sachs nghĩ. “Thế còn những nhân viên khác của chị sao?”

      “Tôi hỏi tất cả mọi người. Chẳng ai trong số họ nhớ gì về cả.”

      Sachs mở chiếc va li, thay chiếc máy phân tích vân tay và lôi chiếc máy tính Toshiba ra. Trong vòng phút, khởi động xong và chạy phần mềm Kỹ thuật nhận dạng khuôn mặt điện tử EFIT. Đây là phiên bản được tối ưu hóa dành cho máy tính của Identikit, được sử dụng để tái t hình ảnh khuôn mặt các nghi can. Hệ thống điều khiển bằng tay này sử dụng các tấm thẻ về đặc điểm con người và tóc, từ đó các viên cảnh sát điều tra ghép lại và đưa cho nhân chứng xem để tạo ra vẻ ngoài tương tự của nghi phạm. EFIT sử dụng phần mềm để tạo ra bức ảnh gần giống như ảnh chụp.

      Trong vòng năm phút, Sachs có được bức ảnh ghép của người đàn ông da trắng với khuôn mặt được cạo râu nhẵn nhụi và mái tóc nâu sáng được chải chuốt gọn ghẽ, khoảng bốn mươi tuổi. ta nhìn giống với bất kỳ người nào trong số hàng triệu doanh nhân, những chủ thầu hay những người bán hàng trung niên mà ta có thể tìm thấy ở khu tàu điện ngầm.

      Trung bình...

      “Chị có nhớ ta mặc cái gì ?”

      chương trình chạy kết hợp với EFIT, nó “mặc” cho hình ảnh của nghi phạm mọi thể loại trang phục khác nhau - như bộ quần áo ghép lên những con búp bê giấy. Nhưng người phụ nữ thể nào nhớ ra bất cứ thứ gì ngoài chiếc áo mưa tối màu.

      Người nữ bán hàng bổ sung: “À, điều nữa. Tôi nghĩ rằng có giọng miền Nam”.

      Sachs gật đầu và ghi lại điều đó vào cuốn sổ tay. Rồi kết nối với chiếc máy in laze và ngay lập tức có cả tá ảnh cỡ 14x20 của Đối tượng 109, với bản miêu tả ngắn gọn về chiều cao, cân nặng cùng với thông tin rằng có thể mặc chiếc áo mưa và có giọng địa phương. thêm vào dòng cảnh báo rằng nhắm vào mục tiêu người vô tội, đưa những thứ đó cho Bo Haumann, cựu sĩ quan huấn luyện với mái tóc hoa râm húi cua, giờ là chỉ huy đơn vị Phản ứng nhanh (ESU), đội đặc nhiệm New York. Đến lượt ông ấy phân phát những bức ảnh cho các sĩ quan của mình và những viên sĩ quan tuần tra mặc thường phục có mặt với đội ở đó. Haumann phân chia các viên cảnh sát - kết hợp cả cảnh sát tuần tra với ESU, trang bị hỏa lực mạnh hơn - và ra lệnh cho họ bắt đầu thăm dò khu vực xung quanh.

      Cả tá sĩ quan phân tán hết.

      NYPD - Sở cảnh sát của thành phố xinh đẹp, nhét đội đặc nhiệm của mình phải vào trong các xe chuyên chở được vũ trang theo kiểu quân đội mà là vào trong các xe tuần tra cành sát luôn sẵn sàng nổ máy và các xe bán tải , với các trang thiết bị được chuyên chở trong chiếc xe buýt của ESU - chiếc xe màu xanh trắng có gì đặc biệt. trong số đó giờ đậu ở gần cửa hàng như chiếc xe cảnh sát đánh lạc hướng.

      Sachs và Sellito mặc áo chống đạn với tấm chống sốc che ở trước ngực trái và hướng về phía Little Italy. Khu vực xung quanh thay đổi cách ngoạn mục trong suốt mười lăm năm qua. thời, đây từng là khu vực lớn của những người lao động nhập cư đến từ Ý, và giờ co lại gần như chẳng còn gì nhiều lắm, nhờ vào lan rộng của khu phố người Hoa từ phía nam, những người trẻ từ phía bắc và phía tây đến đây sống. phố Mulberry, hai viên thanh tra qua biểu tượng rệt của thay đổi này: tòa nhà trước đây từng là Ravenite Social Club, hang ổ của gia đình tội phạm Gambino, do John Gotti - chết hoặc biến mất từ lâu rồi - cầm đầu. Câu lạc bộ này bị thu hồi bởi chính phủ - dẫn đến biệt danh thể tránh được là “Club Fed” - và giờ nơi đây chỉ là tòa nhà thương mại chờ người thuê.

      Hai viên thanh tra chọn tòa nhà và bắt đầu cuộc tìm kiếm manh mối hung thủ, giơ phù hiệu và bức ảnh của nghi phạm cho những người bán hàng phố và những nhân viên trong các cửa hiệu, mấy cậu học sinh trốn học và nhấp những ly cà phê từ quán Starbucks, vài người nghỉ hưu nằm chiếc ghế dài hay các bậc thềm. Họ thỉnh thoảng vẫn nghe tin báo từ những cảnh sát khác.

      có gì hết... Bình thường ờ Grand, Hết...

      Nghe ... Bình thường ở Hester, Hết... Chúng tôi chuyển sang hướng đông...

      Sellito và Sachs tiếp tục tuyến đường của mình và chẳng may mắn hơn những người khác là mấy.

      tiếng nổ lớn ở phía sau lưng họ.

      Sachs thở mạnh - phải vì tiếng nổ, ngay lập tức nhận ra đó là tiếng máy nổ của chiếc xe tải - mà là vì phản ứng của Sellito. ta nhảy sang bên, nhanh chóng nấp sau buồng điện thoại, bàn tay đặt sẵn báng khẩu côn của mình.

      ta chợp chợp mắt, nuốt ực cái, cười nhạt. “Cái xe tải khốn kiếp”, ta lẩm bẩm.

      “Ừ, Sachs .

      ta đưa tay lau mặt và họ lại tiếp tục.

      Ngồi trong ngôi nhà an toàn[22], ngửi mùi tỏi từ trong những nhà hàng gần đó ở khu Little Italy, Thompson Boyd cắm cúi vào quyển sách, đọc những dòng hướng dẫn trong đó rồi kiểm tra những gì mua từ cửa hàng đồ gia dụng tiếng

      [22] Nơi những tên tội phạm chuyên nghiệp dùng để ở tạm hoặc để tạm lánh truy lùng của cảnh sát.

      đánh dấu những trang nhất định bằng tờ giấy nhớ màu vàng và viết vài ghi chú ở bên lề. Những bước sử dụng đòi hỏi chút mưu mẹo và khéo léo nhưng biết mình có thể làm được. Chẳng có gì thể làm được nếu ta đầu tư thời gian để thực nó. Cha của dạy điều đó. Dù việc khó hay việc dễ.

      Nó chỉ đơn giản là câu hỏi vị trí mà con đặt dấu thập phân...

      nhỏm dậy khỏi chiếc bàn, bên cạnh là chiếc ghế tựa, đèn bàn và chiếc giường đơn, đó là đồ nội thất duy nhất trong căn phòng. chiếc ti vi, chiếc tủ lạnh cái sọt rác. cũng giữ ở đây vài thứ phù hợp cho công việc của mình.

      Thompson kéo chiếc găng tay cao su ra khỏi cổ tay phải và thổi vào đó để làm mát làn da. Rồi làm tương tự với tay bên trái. (Chúng ta cần biết rằng căn nhà an toàn cũng có thể bị lần ra ở thời điểm nào đó nên phải đề phòng để lưu lại bằng chứng nào có thể buộc tội mình, cho dù đó là đeo găng tay hay sử dụng cái bẫy.) Mắt tốt lắm ngày hôm nay. liếc mắt, vài giọt, và cái cảm giác đau nhói giảm dần. khép mi lại.

      Miệng thổi sáo khe khẽ bài hát đầy ám ảnh từ bộ phim Cold Mountain.

      Những chiến binh nhắm bắn vào những chiến binh, cái tiếng nổ lớn ấy, những lưỡi lê. Những hình ảnh trong bộ phim chạy qua đầu .

      Wssst...

      Bài hát biến mất, cùng với những hình ảnh, và giọng cổ điển nổi lên. “Bolero”.

      được những giai điệu đến từ đâu. Giống như ở bên trong đầu đầu đọc đĩa CD được lên chương trình sẵn. Nhưng với “Bolero” biết nguồn gốc xuất xứ. Cha của phần cỉa album này. Người đàn ông to lớn với mái tóc húi cua chơi chơi lại album đó chiếc máy Sears nhựa màu xanh trong xưởng của mình.

      “Hãy nghe đoạn này, con trai. Nó thay đổi nốt. Đợi... đợi... Đấy! Con nghe thấy chứ?”

      Thằng bé tin rằng nó ng thấy thế.

      Thompson mở mắt ra và quay lại với quyển sách.

      Năm phút sau: Wssst... “Bolero” kết thúc và giai điệu khác lại thoát ra từ đôi môi chúm lại của : “Time After Time”. Cyndi Lauper trở nên nổi tiếng cùng bài hát đó trong những năm 80.

      Thompson là người thích nhạc và ngay từ khi còn ít tuổi, muốn chơi nhạc cụ. Mẹ của đưa tới lớp học đàn guitar và sáo trong vài năm. Sau vụ tai nạn của bà ấy, cha đưa tới lớp mình, ngay cả khi ông ấy bị muộn giờ làm.

      Nhưng có những vấn đề đối với tiến bộ của Thompson: những ngón tay của quá to và mập so với cần và những phím đàn guitar và cả những lỗ sáo và đàn piano, và hề có tí chất giọng nào. Dù cho đó có là dàn hợp xướng nhà thờ hay là Willie, Waylon hoặc Asleep at the Wheel, , giọng của chẳng thể nào hơn tiếng ồm ộp rền rĩ phát ra từ cái thanh quản già nua cũ kỹ. Bởi vậy, sau hoặc hai năm gì đó, bỏ nhạc và lấp đầy thời gian của mình bằng những việc mà các cậu nhóc thường làm ở những nơi như Amarillo, Texas: dành thời gian cho gia đình, đóng đinh rồi bào gỗ, trộn cát trong cái xưởng của cha

      mình, chơi trò chạm và chặn bóng[23], săn tìm và hò hẹn với những còn e ấp ngượng ngùng, dạo trong hoang mạc.

      [23] Có thể hiểu là chơi trò chơi bóng ma.

      nhét cái tình nhạc của mình ở nơi mà mơ ước ngày ấy biến mất.

      Và nơi ấy quá sâu. Sớm hay muộn cũng có những lúc nó lại lộ ra mà thôi.

      Trong trường hợp của chuyện này xảy ra trong nhà giam vài năm trước. bảo vệ trong khu nhà an ninh tối đa tiến tới và hỏi Thompson: “Đó là cái khỉ gì thế?”.

      “Ý ông là thế nào?”, Joe Trung bình thời từng điềm tĩnh hỏi.

      “Bài hát đó. vừa huýt sáo.”

      “Tôi huýt sáo sao?”

      “Mẹ kiếp, đúng thế. biết à?”

      với người bảo vệ: “Chỉ là điều tôi làm thôi mà. Chẳng nghĩ gì cả”.

      “Mẹ kiếp, nghe hay phết đấy.” Người bảo vệ khỏi, bỏ lại Thompson cười mình. Như thế sao? nhạc cụ, thứ được sinh ra cùng , thứ luôn mang theo mình. Thompson tới thư viện của nhà tù và nhìn vào đó. nhận ra rằng mọi người có thể gọi người chơi “sáo miệng”, khác với người chơi sáo thiếc, giống như ở trong các ban nhạc Ireland. Những người chơi “sáo miệng” rất hiếm - hầu hết mọi người đều có quãng (cao độ) hơi rất hạn chế - và có thể kiếm sống tốt như nhạc công chuyên nghiệp trong các buổi hòa nhạc, quảng cáo, ti vi và phim ảnh (tất nhiên, ai cũng biết bối cành bộ phim Chiếc cầu sông Kxvai; ta thậm chí thể nghĩ về nó mà huýt lên vài nốt nhạc, ít nhất là trong đầu). Thậm chí còn có cả các cuộc thi đấu “huýt sáo miệng”, nổi tiếng nhất là giải International Grand Championship, nơi có hàng tá những người trình diễn nổi tiếng - rất nhiều trong số họ xuất thường xuyên với các dàn nhạc khắp thế giới và có các diễn viên múa phụ họa riêng.

      Wssst...

      giai điệu khác lại lên trong đầu . Thompson Boyd nhả ra những nốt nhạc cách nhàng, tạo ra tiếng láy . nhận ra mình để khẩu súng 22 ly ngoài tầm với. làm mọi việc theo quyển sách... kéo khẩu súng ngắn gần hơn rồi quay trở lại với quyển sách hướng dẫn lần nữa, dán nhiều tấm ghi chú hơn vào các trang giấy, liếc về phía túi đồ để bảo đàm rằng có đủ thứ mình cần. nghĩ mình có kỹ năng. Nhưng, như mọi khi, khi tiếp cận thứ gì đó mới, học tất cả mọi thứ lý thuyết khô khốc trước khi thực công việc.

      có gì, Rhyme”, Sachs qua chiếc điện thoại đung đưa gần đôi môi rộng của mình.

      Tâm trạng hứng khởi lúc trước của ràng tan biến như hơi nước khi ngắt lời : “ có gì?”.

      “Chẳng có ai nhìn thấy cả.”

      “Em ở đâu?”

      “Cơ bản tụi em bao quát hết toàn bộ khu vực Little Italy rồi. Lon và em ở phía Nam. Phố Canal.”

      “Chết tiệt”, Rhyme lẩm bẩm.

      “Chúng ta có thể...” Sachs dừng lại. “Đó là cái gì thế?”

      “Gì

      “Đợi chút.” với Sellito: “ nào”.

      Giơ chiếc phù hiệu ra, giành đường xuyên qua bốn làn xe cộ dày đặc, nhìn quanh rồi tiến lên phía nam phố Elizabeth, “thung lũng” tối giữa những tòa nhà chung cư, các cửa hàng bán lẻ và nhà kho. dừng lại lần nữa. “Ngửi thấy ?”

      Rhyme hỏi cách châm chọc: “Ngửi sao?”.

      “Em với Lon.”

      “Ừ, viên cảnh sát to lớn . “Nó là cái gì nhi? cái gì đó ngọt.”

      Sachs chỉ về phía công ty bán buôn hương liệu, xà phòng và các sản phẩm thảo dược, hai cánh cửa nằm ở phía nam phố Canal, phố Elizabeth. Mùi hương hoa lôi cuốn phảng phất từ những cánh cửa mở là mùi hoa nhài - đó là mùi họ phát chiếc túi, cũng là mùi mà Geneva ngửi thấy ở bảo tàng.

      “Chúng ta có vẻ có manh mối rồi, Rhyme. Em gọi lại.”

      “Vâng, vâng”, người đàn ông Trung Hoa mảnh khảnh trong cửa hàng bán buôn thảo dược , nhìn chằm chằm vào bức ảnh ghép từ EFIT của Nghi phạm 109. “Tôi có nhìn thấy ta đôi lần. Ở lầu. ta ở đây nhiều lắm. ta làm gì?”

      ta có ở đó lúc này ?”

      “Tôi biết. biết. Tôi nghĩ là mình có thấy ta hôm nay. ta làm gì?”

      “Căn hộ nào?”

      Người đàn ông nhún vai.

      Công ty nhập khẩu thảo dược chiếm hết tầng , nhưng ở phía cuối của con đường mờ tối, qua chiếc cửa an ninh, là cầu thang bộ dẫn lên bóng tối. Sellito rút điện đàm ra và gọi điện theo tần số hoạt động.

      “Chúng tôi lần ra .”

      “Ai vậy?”, Haumann ngắt lời.

      “Ồ, xin lỗi. Selltio đây. Chúng tôi nằm cách hai tòa nhà ở phía nam phố Canal, phố Elizabeth. Chúng ta có được danh tính chính xác của người thuê nhà. Có thể ở trong tòa nhà lúc này.”span>“Đội Phản ứng nhanh (ESU), tất cả các đơn vị. Nghe . Hết?”

      Những phản hồi xác nhận lệnh lan qua sóng điện đàm.

      Sachs thông báo tên và truyền tin: “Di chuyển lặng lẽ và tránh đường Elizabeth. có thể quan sát con phố từ cửa sổ trước”.

      “Nhất trí, 5885. Địa chỉ là gì? Tôi gọi để lấy lệnh khám xét, hết.”

      Sachs đọc cho ta địa chỉ. “Hết.”

      quá mười lăm phút sau, các đội có mặt tại địa điểm và các cảnh sát đội Tìm kiếm và Giám sát “S and S” kiểm tra phía trước và phía sau tòa nhà bằng ống nhòm, thiết bị cảm biến hồng ngoại và thanh. Người đứng đầu đội Tìm kiếm và Giám sát : “Tòa nhà có bốn tầng. Kho nhập hàng nằm ở tầng trệt. Chúng tôi có thể quan sát tầng hai và tầng bốn. Hai tầng này có người ở - các gia đình người châu Á. cặp vợ chồng già ở tầng hai và tầng bốn là phụ nữ với khoảng bốn hoặc năm đứa trẻ.”

      Haumann : “Thế còn tầng ba?”.

      “Cửa sổ được kéo rèm, nhưng máy dò hồng ngoại cho thấy có phản ứng nhiệt. Có thể là cái ti vi hoặc là cái lò sưởi. Nhưng cũng có thể là người. Và chúng ta có vài thanh. Tiếng nhạc. Và tiếng sàn nhà cọt kẹt, giống thế.”

      Sachs nhìn vào sơ đồ hướng dẫn của tòa nhà. Và cái hộp phía cái nút liên lạc nội bộ cho tầng ba có gì cả.

      viên cảnh sát đến và đưa cho Haumaiui mẩu giấy. Đó là lệnh khám xét được ký bởi tòa án bang và được gửi qua máy fax tới xe của đội ESU. Haumaiui xem xét tờ giấy, bảo đàm rằng địa chỉ chính xác - lệnh khám xét bất ngờ có thể khiến họ phải chịu trách nhiệm pháp lý và phá hỏng vụ án chống lại nghi phạm. Nhưng tờ giấy đầy đủ thông tin chính xác. Haumarm : “Hai đội vào, mỗi đội bốn người, ở cầu thang trước và lối thoát hiểm sau. người giữ thanh dầm[24] ở phía trước”. lấy ra tám người và chia họ thành hai nhóm. trong hai nhóm - nhóm A - ra phía trước. Nhóm B ở lối thoát hiểm. với nhóm thứ hai: “Các cậu phá cửa sổ khi đếm đến ba, và tấn công nghi phạm bằng lựu đạn sáng, hai giây trễ”.

      [24] Battering ram: thanh gỗ/hoặc sắt dùng để phá cửa.

      “Nhất trí.”

      “Đếm đến , phá cửa trước”, với trường nhóm A rồi phân công nhiệm vụ cho các sĩ quan khác bảo vệ cửa phòng các thường dân và để yểm trợ. “Giờ triển khai. Nhanh, nhanh, nhanh!”

      Những sĩ quan – chủ yếu là nam, hai nữ - di chuyển nhanh chóng theo mệnh lệnh của Haumann. Nhóm B vòng ra phía sau tòa nhà, trong khi Sachs và Haumatm nhập vào với nhóm A, cùng nữ cảnh sát giữ thanh dầm.

      Với những tình huống bình thường cảnh sát điều tra trường được tham gia vào đội xâm nhập. Nhưng Haumaim từng thấy Sachs nằm dưới làn đạn và biết rằng có thể nhanh chóng rút súng ra đáp trả. Và, quan trọng hơn là các thành viên trong đội Phản ứng nhanh rất chào đón tham gia. Họ bao giờ thừa nhận việc đó, ít nhất phải với Sachs, nhưng họ thực coi thành viên và vui mừng khi có chiến đấu cùng. Tất nhiên, đó phải do tự ái bởi trong những tay bắn súng hàng đầu của lực lượng.

      Còn đối với Sachs, chỉ đơn giản là thích tham gia vào nhiệm vụ đột nhập.

      Sellito tình nguyện ở dưới và quan sát con phố.

      Đầu gối đau nhức vì bệnh viêm khớp, Sachs leo lên tầng ba cùng với các sĩ quan khác. bước tới gần cửa, lẳng nghe rồi gật đầu với Haumann. “Tôi có thể nghe thấy tiếng gì đó”, thầm.

      Haumann vào điện đàm: “Đội B, báo cáo”.

      “Chúng tôi vào vị trí”, Sachs nghe qua tai nghe. “ thể nhìn vào bên trong. Nhưng tất cả sẵn sàng.”

      Người chỉ huy nhìn lượt quanh đội. Viên cảnh sát to lớn với thanh dầm - ống nước nặng, dài khoảng mét - gật đầu. cảnh sát khác áp sát phía sau ta và khẽ xoay tay đấm cửa để kiểm tra xem nó có khóa .

      Haumaiui thầm qua chiếc micro: “Năm... bốn... ba...”.

      Im lặng. Đây đáng lẽ là khoảnh khắc họ phải nghe thấy tiếng kính vỡ và tiếng lựu đạn quang nổ.

      có gì cả.

      Có điều gì đó ổn ở đây. Viên cảnh sát nắm núm cửa rung lên cách dữ dội, gào thét.

      Lạy Chúa, Sachs nghĩ, nhìn ta chằm chằm. ta lên cơn giật hoặc gì đó. sĩ quan cảnh sát đặc nhiệm bị bệnh động kinh? Tại sao trong hồ sơ y bạ của ta có thông tin quái này chứ?

      “Có chuyện gì vậy?”, Haumaim thầm.

      ta trả lời. Cơn co giật càng tồi tệ hơn. Mắt ta mở to và chỉ có lòng trắng.

      “Nhóm B, báo cáo”, viên chi huy gọi vào điện đàm: “Chuyện gì xảy ra vậy, hết”.

      “Nghe , cửa sổ bị chặn bằng tấm ván gỗ”, người phụ trách nhóm B trả lời. “Gỗ ép. Chúng tôi thể ném lựu đạn vào trong. Tình trạng Alpha, hết?”

      Người cảnh sát ở cánh cửa khuỵu xuống, bàn tay ta đông cứng ở núm cửa, vẫn rung bần bật. Haumarm thầm với giọng khàn khàn: “Chúng ta phí thời gian rồi! Lôi ta ra và phá cái cửa ngay lập tức!” cảnh sát khác tóm lấy ta.

      Và người thứ hai bắt đầu rung lên theo.

      Các cảnh sát khác bước lùi ra sau. người lầm bầm: “Cái khỉ gì thế...”

      Rồi tóc của người cảnh sát đầu tiên bắt đầu bốc cháy.

      “Hẳn cài điện vào cánh cửa.” Haumarui chi vào cái đĩa kim loại sàn. Chúng ta thường thấy những cái này trong các tòa nhà cũ kỹ - chúng được sử dụng như những miếng vá sàn gỗ cứng. Còn cái này lại được Nghi phạm 109 sử dụng làm cái bẫy điện; điện cao thế truyền qua cả hai viên cảnh sát.

      Lửa bốc lên từ đầu, lông mày, mu bàn tay rồi cổ áo của viên cảnh sát đầu tiên. Người còn lại dần mất nhận thức, nhưng vẫn rung lên bần bật.

      “Chúa ơi”, cảnh sát thầm bằng tiếng Tây Ban Nha.

      Haumann quăng khẩu súng máy H&K của mình sang cảnh sát đứng cạnh, lấy thanh dầm và vung nó mạnh vào cổ tay viên cảnh sát giữ núm cửa. Chắc chắn là xương rạn nứt rồi, nhưng nó làm những ngón tay ta phải buông ra. Mạch điện bị cắt đứt, hai người ngã xuống. Sachs dập lửa, ngọn lửa khiến hành lang ngập đầy mùi khen khét của tóc và da thịt cháy.

      Hai trong số các sĩ quan yểm trợ bắt đầu thực kỹ thuật cấp cứu CPR[25] cho hai đồng nghiệp bất tỉnh, trong khi người nhóm A tóm lấy thanh dầm và vung nó vào cánh cửa. Cả đội ập vào, giương súng. Sachs ập vào theo.

      [25] CPR (Cardiopulmonary resuscitation): kỹ thuật hồi sức tim - phổi.

      Chỉ mất năm giây để họ nhận ra rằng căn hộ hoàn toàn trống .

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 13

      Bo Haumann gọi vào điện đàm: “Nhóm B, chúng tôi ở trong. có dấu hiệu nào của nghi can. xuống tầng, kiểm tra kỹ hành lang. Nhưng nhớ là - ở trường lần trước, vẫn ở lại rình rập. tấn công những người vô tội và cả cảnh sát”.

      chiếc đèn bàn vẫn sáng và khi chạm vào chiếc ghế, Sachs nhận thấy nó vẫn còn ấm. hệ thống camera an ninh với màn hình bàn, màn hình mờ nhạt cho thấy hình ảnh của hành lang trước cửa. phải cài camera đâu đó bên ngoài và thấy họ tiếp cận. Kẻ giết người mới chỉ chuồn vài giây mà thôi. Nhưng ở đâu? Mọi người nhìn quanh để tìm lối trốn chạy. Cửa sổ bên cạnh


      lối thoát hiểm được che phủ bởi gỗ dán. Chiếc cửa sổ còn lại được che chắn nhưng lại nằm ở cao chín mét so với con hẻm. “ vừa ở đây. biến thế quái nào được nhỉ?”

      Chỉ lát sau họ có câu trả lời.

      “Nhìn chỗ này xem”, sĩ quan . ta tìm ở dưới gầm giường, và sau khi kéo chiếc giường ra khỏi bức tường, để lộ ra cái lỗ chỉ vừa đủ lớn cho người bò qua. Có vẻ như nghi phạm đục vữa và bỏ những viên gạch ở bức tường nằm giữa tòa nhà này và tòa bên cạnh. Khi thấy họ ở màn hình giám sát, chỉ đơn giản là đạp đổ lớp vữa ở bên kia của bức tường và trườn sang tòa nhà sát nách.

      Haumann cử nhiều sĩ quan hơn để kiểm tra mái nhà và các con phố xung quanh, những người khác tìm và bao quát các lối vào của tòa nhà bên cạnh.

      người chui qua cái lỗ ”, người chỉ huy đội ESU ra lệnh.

      “Tôi , thưa sếp”, viên sĩ quan thấp bé .

      Nhưng với chiếc áo chống đạn cồng kềnh, ngay cả ta cũng chui vừa qua khoảng trống.

      “Tôi ”, Sachs , là người nhắn nhất trong số tất cả các sĩ quan có mặt. “Nhưng tôi cần căn phòng này được giữ sạch , để bảo vệ các bằng chứng.”

      “Nghe . Chúng tôi đưa vào rồi kéo lại.” Haumann ra lệnh kéo chiếc giường sang bên. Sachs quỳ gối rồi chiếu đèn xuống cái lỗ, ở bên kia là lối hẹp trong kho hàng hoặc nhà máy. Để sang được bên đấy, phải bò bằng hai tay hai chân qua cái gian chật hẹp này.

      “Mẹ kiếp”, Amelia Sachs lẩm bẩm, có thể lái xe với vận tốc hơn 300 km/h và bắn trả trực tiếp với tội phạm nấp sau góc nhưng lại gần như tê liệt với nỗi sợ gian hẹp.

      Đầu xuống trước hay là chân?

      thở dài.

      Đầu xuống trước có vẻ đáng sợ hơn nhưng lại an toàn hơn; ít nhất có được vài giây để phát ra hướng bắn của hung thủ trước khi có thể nhắm mục tiêu. nhìn vào gian chật hẹp, tối tăm. Lấy hơi sâu. Nắm chặt khẩu súng ngắn trong tay, tiến lên phía trước.

      Có vấn đề quái gì với mình thế nhỉ? Lon Sellito nghĩ, đứng ở phía trước cái kho hàng ở bên cạnh cửa hàng nhập khẩu thảo dược và giám sát cửa trước của tòa nhà này. nhìn chằm chằm vào ô cửa và các cửa sổ, tìm kiếm nghi phạm trốn thoát, cầu cho hung thủ xuất để có thể tóm cổ lại.

      Cầu cho đừng.

      Cái vấn đề quái gì ở đây chứ?

      Trong những năm làm việc cho lực lượng, Sellito tham gia hàng tá trận đấu súng, tước vũ khí khỏi những kẻ điên cuồng, thậm chí từng đánh vật với người tự tử đòi nhảy xuống từ nóc tòa Flatiron, trong tay có gì khác ngoài khoảng hoa văn trang trí gần mét tám ngăn giữa và thiên đàng. Hẳn nhiên, có đôi lần từng run sợ. Nhưng Sellito vẫn luôn luôn lấy lại được tinh thần ngay lập tức. Chưa có điều gì ảnh hưởng tới như cái chết của ông Barry buổi sáng ngày hôm nay. cần phải phủ nhận rằng đứng dưới đường đạn làm sợ hãi. Nhưng đây là điều khác. cảm xúc thể gọi tên khi ở gần người vào khoảnh khắc đó..hoảnh khắc của cái chết. thể gạt tiếng của người thủ thư ra khỏi đầu mình, những lời cuối cùng của người còn sống.

      Tôi thực nhìn thấy...

      thể quên được tiếng ba viên đạn cắm vào ngực ông ta.

      Phụp... phụp... phụp...

      Đó là những tiếng rất , mờ nhạt, chỉ vừa đủ nghe thấy. chưa từng nghe những thanh như vậy. Lon Sellito lúc này run run và cảm thấy buồn nôn.

      Đôi mắt màu nâu của ông ấy... nhìn thẳng vào Sellito khi những viên đạn bắn trúng. Trong phần của khoảnh khắc ngắn ngủi ấy là kinh ngạc, đau đớn, rồi... gì cả. Đó là điều kỳ lạ nhất Sellito từng nhìn thấy. giống như lả rồi chìm vào giấc ngủ rất nhanh, bị xao nhãng. Chỉ có cách duy nhất để miêu tả nó: trong khoảnh khắc có điều gì đó phức tạp và chân thực ra ngay phía sau ánh mắt ấy, rồi chỉ khoảnh khắc sau, thậm chí trước khi ông ta đổ sụp xuống vỉa hè, còn gì nữa cả.

      Viên thanh tra vẫn còn căng cứng, nhìn chằm chằm vào cái xác vô hồn nằm trước mặt mình - dù biết mình cần phải cố gắng hành động để hạ hung thủ. Những nhân viên y tế phải đẩy tránh sang bên để đến gần ông Barry; Sellito thể nhúc nhích.

      Phụp... phụp... phụp...

      Rồi, đến lúc phải gọi điện cho gia đình của người thủ thư già, Sellito lưỡng lự lần nữa. nhiều lần phải gọi những cuộc điện thoại khó khăn như vậy trong suốt những năm qua. Hẳn nhiên là, chẳng cuộc gọi nào dễ dàng cả. Nhưng ngày hôm nay, đơn giản là thể đối diện với nó được. phải viện cớ để người khác làm điều đó. sợ rằng giọng của mình có thể vỡ ra, sợ rằng mình khóc, điều chưa bao giờ xảy ra trong hàng thập kỷ phục vụ trong ngành.

      Giờ đây, nghe báo cáo điện đàm về cuộc truy bắt hung thủ.

      Nghe tiếng,phụp... phụp... phụp...

      Mẹ kiếp, tôi chỉ muốn về nhà.

      muốn ở cùng Rachel, uống bia với ở mái vòm tại Brooklyn. Chà, còn quá sớm để ngồi uống bia. ly cà phê. Hoặc có thể phải quá sớm cho ly bia. Hay là ly rượu scotch. muốn đó, ngắm nhìn những cái cây và sân cỏ. chuyện. Hoặc là chẳng gì cả. Chỉ cần ở bên ẩy. Bỗng nhiên suy nghĩ của viên thanh tra chuyển sang cậu con trai tuổi mới lớn, sống với người vợ cũ. gọi cho nó ba hoặc bốn ngày nay rồi. Cần phải làm thế.

      ...

      Chết tiệt. Sellito nhận ra rằng mình đứng ở giữa phố Elizabeth, dựa lưng vào tòa nhà cần phải để mắt canh gác, và lại suy nghĩ miên man. Lạy Chúa! Mình làm gì vậy? Tên hung thủ nhởn nhơ loanh quanh đâu đây và mình mơ ngủ giữa ban ngày? có thể đứng rình rập ở cái hành lang kia, hay bất cứ nơi nào, như làm sáng hôm nay.

      Cúi thấp mình, Sellito quay trở lại, kiểm tra những cửa sổ tối, mờ hay bị che. Hung thủ có thể đứng sau bất cứ chỗ nào, ngắm vào lúc này với khẩu súng bé của . Phụp... phụp... Những mũi kim bên trong viên đạn xé nát thịt thành những mảnh vụn khi chúng bắn ra tứ tung. Sellito rùng mình và lùi lại, nấp giữa hai chiếc xe tải chở hàng đậu, tránh khỏi tầm nhìn từ những chiếc cửa sổ. Kiểm tra kỹ xung quanh bên của chiếc xe tải, quan sát những ô cửa sổ tối tăm, và cửa ra vào.

      Nhưng đó phải là những gì nhìn thấy. , thấy đôi mắt màu nâu của người thủ thư đứng ngay trước mặt, vài mét thôi.

      Tôi ...

      Phụp, phụp, ...

      sống biến mất.

      Đôi mắt đó...

      lau bàn tay cầm súng vào chiếc quần, tự rằng mình toát mồ hôi chỉ đơn giản vì chiếc áo chống đạn. Mà thời tiết sao thế nhỉ? Quá nóng so với thời tiết tháng Mười. Ai mà toát mồ hôi chứ?

      “Tôi thấy , hết.” Sachs thầm qua điện đàm.

      “Nhắc lại?”, tiếng Haumann trả lời.

      có dấu hiệu của hung thủ, hết.”


      Căn nhà kho mà Nghi phạm 109 trốn thoát thực gian rộng lớn được chia cắt bởi những lối hẹp chồng chéo đan xen. sàn là những tấm ván gỗ chất đống những chai dầu oliu và các can xốt cà chua, được gói kín bởi các tấm nilon. Lối đứng cao hơn chín mét, trong khoảng chu vi căn hộ của ở tòa nhà bên cạnh. Đó là nhà kho được sử dụng, dù hầu như chỉ thỉnh thoảng mới hoạt động; hề có dấu hiệu nào cho thấy nhân công diện trong thời gian gần đây. Điện mất nhưng vẫn có đủ ánh sáng lọt qua những cửa sổ mái nhà để có thể quan sát xung quanh.

      Sàn nhà được quét sạch tìm ra dấu chân để biết hướng của nghi phạm. Ngoài cửa trước và cửa cuốn ở phía sau, có hai cửa khác ở tầng hầm, sang bên. được đóng biển chữ Phòng vệ sinh, cửa còn lại có tên.

      Di chuyển chậm, vung khẩu súng ra phía trước, ánh sáng đèn pin dò tìm mục tiêu, Amelia Sachs nhanh chóng di chuyển qua hết các lối và khu vực thoáng của nhà kho. báo điều này lại với Haumann. Các sĩ quan ESU nhanh chóng phá cửa cuốn phía sau và vào, tản ra khắp nơi.

      Bớt căng thẳng vì được tăng cường lực lượng, giơ tay ra hiệu để chỉ vào hai cửa bên. Các cảnh sát nhanh chóng tập trung quanh chúng.

      Haumann qua điện đàm: “Chúng tôi tra hỏi thông tin nhưng ai thấy nghi phạm ra ngoài. có thể vẫn ở bên trong, hết”.

      Sachs thầm tiếp nhận thông tin. xuống dưới tầng chính, nhập vào với các cảnh sát khác.

      chỉ vào nhà vệ sinh. “Đếm đến ba”, thầm.

      Họ gật đầu. người chỉ vào mình nhưng lắc đầu, ám chỉ rằng là người vào trước. Sachs rất giận dữ - vì hung thủ chạy thoát, rằng để những đồ thực hành vi phạm pháp trong cái túi với hình mặt cười, rằng bắn người vô tội đơn giản để đánh lạc hướng. muốn bị tóm cổ và muốn bảo đảm rằng chính mình cũng tham gia tóm gọn .

      Tất nhiên, mặc áo chống đạn, nhưng thể tưởng tượng ra rằng điều gì xảy ra nếu như trong những viên đạn đầy kim ấy bắn vào mặt hay cánh tay của mình.

      Hay là cổ họng.

      giơ ngón tay lên. ...

      vào nhanh, cúi thấp, với áp lực đè nặng lên cò súng.

      Mày chắc chắn mình làm gì chứ?

      Hình ảnh Lincoln Rhyme lên trong đầu .

      Hai...

      Rồi ký ức về người cha cảnh sát với triết lý về cuộc sống trước giờ phút cuối cùng của ông: “Hãy nhớ kỹ, Amie, khi con di chuyển ai có thể tóm được con cả”.

      Vậy , di chuyển!

      Ba.

      gật đầu. cảnh sát đá bung cánh cửa ra - ai đến gần bất kỳ núm cửa kim loại nào - và Sachs nhào về phía trước, lộn xoay vòng và quét ánh đèn xung quanh căn phòng tắm bé, có cửa sổ.

      Trống .

      trở ra ngoài và chuyển sang cánh cửa khác, vẫn làm như ở phòng kia.

      Đếm đến ba, cú đá đầy mạnh mẽ khác. Cánh cửa đổ vào trong.

      Súng và ánh đèn quét lên. Sachs nghĩ, Người em, hề dễ dàng, phải ? nhìn vào cái cầu thang dài lê thê dẫn tới màn đen thăm thẳm và phát ra có chỗ để nấp ở trong cầu thang, hung thủ có thể đứng ở phía sau và bắn vào cổ chân, bắp hay lưng khi họ xuống.

      “Tắt đèn”, thầm.

      Các cảnh sát tắt hết đèn, nâng lên sát với nòng súng của mình. Sachs trước, đầu gối đau nhức. hai lần gần như khuỵu xuống những bậc thang nhấp nhô. Bốn cảnh sát ESU sau.

      “Đội hình chéo góc”, thầm, hiểu rằng về mặt kỹ thuật nắm quyền chỉ huy, nhưng thể ngăn mình lại vào lúc này. Những cảnh sát thắc mắc. Chạm vai nhau để chỉ hướng, họ tạo thành đội hình hình vuông, mỗi người nhìn ra xung quanh mình và bao quát, chịu trách nhiệm phần tư căn hầm.

      “Đèn!”

      Ánh sáng mạnh mẽ của những chiếc đèn halogen bất ngờ ngập đầy gian bé khi những khẩu súng truy tìm mục tiêu.

      thấy mối đe dọa nào, nghe thấy thanh nào. Trừ tiếng tim đập mạnh,

      Nhưng đó là của .

      Tầng hầm có cái lò nung, các đường ống, thùng dầu, khoảng ngàn chai bia rỗng. Hàng đống rác. Và cả đống chuột cáu kỉnh.

      Hai cảnh sát kiểm tra các túi rác bần thỉu, nhưng hung thủ ràng ở đây.

      Sachs điện cho Haumann báo cáo những gì họ tìm thấy. Chẳng có ai thấy bóng của hung thủ. Tất cả các cảnh sát tập trung về chiếc xe tải chỉ huy để tiếp tục rà soát khu vực xung quanh, trong khi Sachs nghiên cứu trường để tìm các bằng chứng - mọi người vẫn ghi nhớ, như ở bảo tàng sáng nay, tên giết người có thể vẫn lảng vảng quanh đây.

      ... hãy cẩn thận phía sau.

      Thở sâu, đặt lại khẩu súng và quay về phía cầu thang. Rồi dừng lại. Nếu bước lên cầu thang quay trở lại tầng nhà chính - quả thực cơn ác mộng với hai cái đầu gối Sachs - vẫn phải tiếp tục bước xuống các cầu thang để hướng ra phố. lựa chọn khác dễ dàng hơn là trực tiếp từ cầu thang ngắn hơn để lên vỉa hè bên .

      suy ngẫm, trong lúc quay bước về phía cái cầu thang đó, đôi khi ta cần phải thỏa mãn bản thân.


      Lon Sellito bị ám ảnh bởi khung cửa sổ.

      nghe tiếng truyền qua điện đàm rằng nhà kho có hung thủ, nhưng rồi tự hỏi liệu đội ESU thực lục tung mọi ngóc ngách chưa. Sau tất cả, mọi người để mất dấu hung thủ sáng nay ở bảo tàng. dễ dàng tiếp cận chỉ trong tầm bắn của khẩu súng ngắn.

      Phụp... phụp... phụp.

      Cái cửa sổ, nằm ở tận cùng bên phải, tầng hai... Dường như Sellito thấy nó động đậy hay hai lần.

      Có thể chỉ là cơn gió. Nhưng có thể là chuyển động từ kẻ nào đó cố gắng để mở nó.

      Hoặc ngắm bắn qua nó.

      Phụp.

      rùng mình và bước lù

      “Này”, gọi cảnh sát ESU, người vừa mới ra khỏi cửa hàng nhập khẩu thảo dược. “Hãy nhìn xem - thấy gì ở cái cửa sổ đó chứ?”

      “Đâu?”

      “Cái kia kìa.” Sellito nghiêng ra chút khỏi chỗ nấp và chỉ vào ô cửa vuông với kính đen.

      . Nhưng tòa nhà được kiểm tra kỹ. nghe thấy à?”

      Sellito nghiêng ra khỏi chỗ nấp xa hơn chút, nghe thấy phụp, phụp, phụp, nhìn thấy đôi mắt màu nâu dần trở nên vô hồn. liếc mắt, rùng mình và nhìn chiếc cửa sổ cách cẩn thận. Rồi trong tầm mắt của mình, bất chợt nhìn thấy chuyển động ở bên trái và nghe thấy tiếng ken két của cánh cửa mở. tia sáng lóe lên như ánh mặt trời lạnh phản chiếu qua vật kim loại.

      !

      “Lạy Chúa!”, Sellito thầm. rút súng, cúi đầu và xoay về phía ánh sáng lóe lên ấy. Nhưng thay vì tuân thủ các bước an toàn khi rút khẩu súng bằng tốc độ nhanh và giữ ngón tay trỏ bên ngoài vòng bảo vệ cò súng, rút khẩu côn ra khỏi bao trong nỗi kinh hoàng.

      Và khẩu súng nhả đạn ngay sau đó, đưa viên đạn bay về phía mà Amelia Sachs chui lên từ cửa tầng hầm lên nhà kho.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 14

      Đứng ở góc giữa phố Canal và phố 6, cách nơi náu cả chục dãy nhà, Thompson Boyd chờ đèn xanh. lấy lại hơi và lau khuôn mặt ướt mồ hôi.

      run, hề sợ hãi - thở hổn hển và toát mồ hôi là vì những bước chạy tới nơi an toàn - nhưng tò mò rằng làm thế nào mà họ tìm ra mình. luôn luôn cẩn thận với các mối liên lạc và điện thoại sử dụng, luôn luôn kiểm tra xem mình có bị theo dõi hay đoán rằng đó phải là nhờ các dấu vết từ những vật mà để lại. Điều đó nghe hợp lý - bởi khá chắc chắn rằng người phụ nữ trong bộ đồ màu trắng, lại lại trong trường thư viện của bảo tàng như


      con rắn đuôi chuông, xuất ở hành lang căn hộ của phố Elizabeth. để lại gì ở bảo tàng? Thứ gì đó trong cái túi đồ hiếp dâm chăng? Hay là í dấu vết từ đôi giày hoặc quần áo?

      Họ là những nhà điều tra giỏi nhất mà từng đối mặt. cần phải ghi nhớ điều này kỹ.

      Nhìn chằm chằm vào dòng xe cộ, suy tư về cuộc trốn chạy. Khi thấy cảnh sát bước lên cầu thang, nhanh chóng đặt quyển sách và những thứ mua được từ cửa hàng đồ gia dụng vào trong túi, chộp lấy bao và súng, rồi bật công tắc dẫn điện tới chiếc núm cửa. đạp xuyên qua bức tường và tháo chạy vào cái nhà kho bên cạnh, trèo lên mái và hướng về phía nam tới góc cuối cùng của dãy nhà. Trèo xuống cầu thang thoát hiểm, chuyển sang hướng tây và bắt đầu chạy, theo hành trình mà vạch ra và tập tập lại hàng chục lần.

      Giờ, ở phố Canal và phố 6, biến mất vào dòng người đứng chờ đèn xanh, nghe tiếng còi xe cảnh sát hú vang nhập vào cuộc truy lùng . Khuôn mặt chẳng biểu lộ chút cảm xúc nào, tay cũng hề run, lo lắng, sợ hãi. Đó là cách phải như vậy. nhìn thấy rất nhiều lần điều này - hàng tá kẻ giết người chuyên nghiệp từng biết bị bắt vì họ sợ hãi, để mất lạnh lùng trước cảnh sát và sụp đổ trước những cuộc thẩm vấn. Họ quá luống cuống khi thực công việc, bỏ lại dấu vết hoặc những nhân chứng sống. Cảm xúc - , giận dữ, sợ hãi - khiến ta trở nên ùy mị và yếu đuối. Ta cần phải bình tĩnh và lạnh lùng.

      Vô cảm...

      Thompson nắm chặt khẩu súng, giấu nó trong túi chiếc áo mưa, khi nhìn thấy vài chiếc xe cảnh sát tăng tốc về phía Đại lộ 6. Những chiếc xe phanh và cua gấp ở góc phố rồi chuyển sang hướng đông ở phố Canal. Họ làm tất cả những gì có thể để truy tìm . hề ngạc nhiên, Thompson biết thế. Cảnh sát New York cau mày với nghi phạm giật điện người trong số họ (dù trong quan điểm của Thompson, đó là sai lầm của người cảnh sát ấy vì ta cẩn thận).

      Rồi thanh lờ mờ báo hiệu mối lo ngại ra trong đầu khi nhìn theo chiếc xe cảnh sát khác cua gấp vào điểm dừng nằm cách ba dãy nhà.

      Rồi chiếc xe khác lăn bánh tới điểm dừng chỉ cách chỗ đứng gần sáu mươi mét. Và họ về phía này. Xe của đỗ gần Hudson, cách đây khoảng năm phút. phải tới đó ngay. Nhưng ánh đèn vẫn đỏ.

      Tiếng còi xe cảnh sát hú nhiều hơn.

      Điều này trở thành vấn đề.

      Thompson nhìn vào đám đông xung quanh mình, hầu hết bọn họ đều hướng về phía đông, chăm chú nhìn những chiếc xe cảnh sát và các sĩ quan. cần gây mất tập trung, cái vỏ bọc nào đó để qua đường. Chỉ cần cái gì đó... cần phải quá ầm ĩ, phô trương. Chỉ cần đủ để đánh lạc hướng chú ý của mọi người lúc. ngọn lửa trong thùng rác, tiếng báo động của ô tô, tiếng cái cốc vỡ...

      Còn ý tưởng nào khác nữa nhỉ? Nhìn sang phía nam, ở bên trái , Thompson nhận ra chiếc xe buýt lớn tiến về Đại lộ 6. Nó lại gần ngã tư nơi đám đông người bộ đứng. Đánh lửa ở thùng rác, hay cái này? Thompson Boyd quyết định. len khẽ tới sát lề đường, phía sau châu Á, nhắn, khoảng hai mươi tuổi. Tất cả những gì cần làm là cú đẩy vào lưng dưới để ngã vào đường của chiếc xe buýt. Xoay mình trong kinh hoàng, thở hổn hển, trượt chân khỏi lề đường.

      ấy bị ngã!”, Thompson hét lên, giọng gấp gáp. “Kéo ấy lại.”

      Tiếng kêu của bị cắt ngang khi chiếc gương chiếu hậu bên phải của chiếc xe đập mạnh vào vai và đầu, quăng thân thể ngã nhào, nằm dọc vỉa hè. Máu bắn vung vãi cửa sổ và những người đứng gần. Tiếng phanh rít lên. Vài người phụ nữ trong đám đông cũng hét lên kinh hoàng.

      Chiếc xe buýt phanh gấp ở điểm dừng nằm giữa đường Canal, ngăn cản giao thông, nơi mà nó phải giữ nguyên vị trí cho tới cuộc điều tra tai nạn. ngọn lửa trong thùng rác, cái chai vỡ, tiếng báo động của ô tô - chúng có thể có hiệu quả. Nhưng quyết định rằng giết hiệu quả hơn nhiều.

      Dòng xe cộ ngay lập tức bị đông cứng, bao gồm cả hai chiếc xe cảnh sát đến gần ở phố 6.

      bước qua đường cách chậm rãi, bỏ lại đám đông túm tụm những người qua đường kinh hãi, khóc, la hét, hoặc chỉ nhìn chằm chằm trong ánh mắt kinh ngạc trước thân thể mềm nhũn, đầy máu, ngã gục cái hàng rào sắt. Đôi mắt mở to trống rỗng vô hồn nhìn chằm chằm lên trời. ràng ai nghĩ rằng bi kịch này là cái gì đó ngoài tai nạn khủng khiếp.

      Mọi người chạy về phía , gọi 911... khung cảnh hỗn loạn. Thompson bình thản bước qua đường, len qua dòng xe cộ dừng lại. quên mất châu Á và bận tâm tới những vấn đề quan trọng hơn: mất nơi náu. Nhưng ít nhất trốn thoát với khẩu súng, những thứ mua từ cửa hàng đồ gia dụng và quyển sách hướng dẫn. có bằng chứng nào ở căn hộ để lùng ra hoặc người đàn ông thuê ; thậm chí ngay cả người phụ nữ trong bộ đồ màu trắng cũng thể tìm ra bất kỳ liên quan nào. , đây phải là vấn đề nghiêm trọng.

      dừng lại ở bốt điện thoại công cộng, gọi vào hộp thư thoại và nhận được vài tin tốt. biết rằng, Geneva Settle ở trường trung học Langston Hughes tại Harlem. tìm ra rằng, bé cũng được bảo vệ bởi cảnh sát, tất nhiên điều này có gì ngạc nhiên cả. Thompson có thể sớm tìm ra nhiều thông tin - có thể đoán chừng nơi bé sống hay thậm chí, với chút may mắn, cơ hội từng xuất , và bé đáng lẽ bị bắn chết, nhiệm vụ hoàn thành.

      Thompson Boyd tiếp tục bước về phía chiếc xe của mình - chiếc Buick ba năm tuổi, với màu xanh da trời nhàm chán, chiếc xe vừa vừa, chiếc xe trung bình, cho Joe Trung bình. hòa vào dòng xe cộ và lái xa chỗ ùn tắc do vụ tai nạn, hướng về phía cầu phố 59, trong đầu bây giờ là hình ảnh những gì học được trong quyển sách giờ trước, quyên sách dán đầy những tờ ghi chú, và nghĩ xem cần sử dụng kỹ năng mới như thế nào.

      “Tôi ... Tôi biết phải gì cả.”

      cách khổ sở, Lon Sellito nhìn lên người chỉ huy đến trực tiếp từ Sở chỉ huy cảnh sát New York ngay sau khi ông ta biểt về vụ nổ súng. Sellito ngồi vỉa hè, mái tóc nghiêng sang bên xõa xượi, bụng vượt qua thắt lưng, tàng thịt béo hồng ra giữa những nút áo. Đôi giày mòn hướng ra ngoài. Lúc này, trông ta hoàn toàn luộm thuộm.

      “Chuyện gì xảy ra?” Viên chỉ huy to lớn, hói đầu người Mỹ - Phi lấy khẩu súng khỏi Sellito và giữ nó bên cạnh, có đạn, ổ đạn mở ra, theo đúng các nguyên tắc sau khi sĩ quan cảnh sát nổ súng.

      Sellito nhìn vào đôi mắt của người đàn ông cao lớn và : “Tôi luống cuống với khẩu súng của mình”.

      Viên chỉ huy gật đầu chậm rãi và quay sang Amelia Sachs. “ ổn chứ?”

      nhún vai. “ có gì cả. Viên đạn bắn vào đâu đó gần chỗ tôi.”

      Sellito có thể thấy viên chỉ huy biết rằng ấy quan tâm tới việc, làm ra vẻ như nó quan trọng lắm. Việc bảo vệ viên cảnh sát to béo thậm chí càng cảm thấy khổ sở hơn.

      “Dù sao cũng gặp nguy hiểm”, viên chỉ huy .

      “Nó hề...”

      có thấy nguy hiểm ?”

      “Vâng, thưa ngài.” Sachs .

      Viên đạn 38 ly bay cách chỉ gần mét. Sellito biết điều đó. biết điều đó.

      gần chỗ tôi...

      Viên chỉ huy xem xét căn nhà kho. “Điều này xảy ra, hung thủ vẫn trốn thoát?”

      “Vâng”, Bo Haumann .

      có chắc là nó liên quan tới việc hung thủ trốn thoát chứ? có người điều tra về vấn đề này.”

      Người chỉ huy đội ESU gật đầu. “Có vẻ như hung thù trèo lên mái nhà kho và chạy theo hướng bắc hoặc nam - nhiều khả năng là nam. Phát đạn” - hất đầu về phía khẩu súng của Sellito, - “xảy ra ngay sau khi chúng tôi bảo đảm các tòa nhà kế cận an toàn.”

      Sellito nghĩ lần nữa, Chuyện gì xảy ra với mình vậy?

      Phụp, phụp, phụp...

      Viên chỉ huy hỏi: “Tại sao cậu lại rút súng ra?”.

      “Tôi nghĩ rằng có người lên qua cửa tầng hầm.”

      “Cậu nghe thấy tin truyền qua điện đàm về việc tòa nhà được kiểm tra kỹ à?”

      chút lưỡng lự. “Tôi nghe thấy.” Lần gần nhất mà Lon Sellito dối chỉ huy là để bảo vệ tay lính mới làm theo những bước như quy định khi ta cố cứu nạn nhân bị bắt cóc, và chủ ý làm như vậy. Đó là lời dối vô hại. Còn đây là lời dối để bao biện cho mình và khi thốt ra điều đó, đau đớn như bị gãy chiếc xương.

      Viên chỉ huy nhìn quanh trường. vài sĩ quan ESU loanh quanh. ai nhìn Sellito. Họ có vẻ cảm thấy xấu hổ thay cho . Viên chỉ huy cuối cùng : “ có thương tích, có thiệt hại nghiêm trọng về tài sản. Tôi làm bản báo cáo, nhưng có thể có hoặc ban thẩm tra về vụ nổ súng. Tôi đề cập đến nó.”

      Sellito thở phào như vừa nhấc được hòn đá ra khỏi ngực mình. ban thẩm tra về vụ nổ súng chỉ cách bước ngắn tới cuộc điều tra của bộ Nội vụ và điều đó ảnh hưởng tới thanh danh sau này. Ngay cả khi bạn trong sạch, những vết nhọ lưu lại trong hồ sơ thời gian dài, rất dài. Đôi khi là mãi mãi.

      muốn có chút thời gian để nghỉ ngơi chứ?”, viên chỉ huy hỏi.

      , thưa ngài.” Sellitto trả lời cách quả quyết.

      Điều tồi tệ nhất trong thế giới của - hay bất cứ cảnh sát nào - là phải nghỉ việc thời gian sau vụ như thế này. suy nghĩ thời gian dài, nhồi nhét mình ngập trong đống đồ ăn vặt, rơi vào tâm trạng cáu kỉnh đáng ghét với bất cứ ai xung quanh. Và thậm chí còn hoảng sợ hơn cả lúc này. ( vẫn còn nhớ xấu hổ khi nhảy như bé học sinh vì tiếng nổ máy của xe tải lúc trước đó.)

      “Tôi biết.” Viên chỉ huy có quyền đưa ra cầu tạm nghỉ việc bắt buộc, ông muốn hỏi ý kiến của Sachs nhưng điều đó có lẽ là đúng. ấy là thanh tra trẻ, cấp thấp. do dự của viên chỉ huy trong việc đưa ra quyết định vẫn là nhằm tạo cơ hội cho Sachs xen vào. Để , có thể là, Này, Lon, đẩy là ý tốt đấy. Hoặc: Được rồi. Chúng tôi giải quyết công việc mà cần cậu.

      Thay vào đó, chẳng gì hết. Mà họ đều ngầm hiểu rằng đó là phiếu ủng hộ cho giúp đỡ của ông. Viên chỉ huy hỏi: “Tôi hiểu vài nhân chứng bị giết ngay trước mặt cậu ngày hôm nay, đúng ? Điều đó chắc có ảnh hưởng tới cậu chứ?”.

      Có, ...

      khó để được.”

      Lại là cuộc tranh cãi dài khác. Nhưng dù bất cứ điều gì về vị lãnh đạo, phải nhớ rằng họ phải được thăng cấp trong Sở cảnh sát New York mà hề biết chút gì về cuộc sống đường phố và ảnh hưởng của nó tới cảnh sát. “Được rồi, tôi vẫn cho cậu tiếp tục làm việc. Nhưng cậu nên đến gặp chuyên gia tâm lý.”

      Mặt nóng ran. Rùng mình. Nhưng : “Chắc chắn rồi. Tôi lên lịch hẹn ng, thưa ngài”.

      “Tốt lắm. Và hãy thường xuyên báo cáo tình hình cho tôi.”

      “Vâng, thưa ngài.”

      Viên chỉ huy trả lại khẩu súng cho Sellito và bộ về Sở chỉ huy cùng với Bo Haumann. Sellito và Sachs về phía xe phản ứng nhanh của đơn vị Khám nghiệm trường vừa mới đến.

      “Amelia...”

      “Quên nó , Lon. việc xảy ra và cũng kết thúc rồi. Những phát đạn từ đồng đội là điều có thể xảy ra thường xuyên.” Theo thống kê, các cảnh sát có nhiều nguy cơ bị bắn bởi chính những viên đạn của đồng đội hơn là bởi tội phạm.

      Viên cảnh sát to lớn nặng nề lắc đầu. “Tôi chỉ…” Sellito biết phải gì nữa.

      khoảng im lặng kéo dài khi họ về phía chiếc xe buýt. Cuối cùng Sachs : “ điều, Lon. Thế giới quay vòng quanh. biết nó như thế nào. Nhưng ai ở ngoài biết về câu chuyện này. Và nếu có phải từ tôi”. giữ điện đàm - dạng mạng lưới truyền tin đồn của cảnh sát - Lincoln Rhyme chỉ biết về việc từ trong những cảnh sát.

      “Tôi thắc mắc về điều đó.”

      “Tôi biết”, . “Chỉ với rằng tôi xử lý việc như thế nào.” bắt đầu tháo dỡ trang thiết bị nghiên cứu trường.

      “Cảm ơn”, với giọng trầm đặc. Và nhận ra những ngón tay bàn tay trái của mình lại thò lên vị trí của vết máu vô hình má.

      Phụp, phụp, phụp...

      có nhiều thông tin lắm, Rhyme.”

      “Cứ ”, qua tai nghe.

      Trong bộ quần áo Tyvek màu trắng, khám nghiệm trường theo phương pháp kẻ ô vuông tại căn hộ - hay đúng hơn là nơi náu tạm thời của nghi phạm, họ biết điều đó bởi sơ sài của nó.

      Hầu hết những tên giết người chuyên nghiệp đều có nơi như vậy. Chúng cất giấu vũ khí và các nhu yếu phẩm ở đó, tận dụng nó như là trạm nghỉ, chỗ trú để tránh những ộc tấn công đồng thời là chỗ mình nếu như công việc có chuyển biến xấu.

      “Có những gì bên trong?”, hỏi.

      chiếc giường , cái bàn và cái ghế. Đèn bàn. chiếc ti vi nối với camera an ninh treo ở hành lang bên ngoài. Đó là hệ thống Kỹ thuật thu phát nhưng xóa miếng dán ghi số seri nên chúng ta thể biết nó được mua từ khi nào và ở đâu. Em tìm thấy những sợi dây điện và các đầu chuyển cho nguồn điện gắn vào cánh cửa. Những bức ảnh tĩnh điện cho thấy dấu giày khớp với dấu giày Bass chúng ta có. Em quét sạch mọi ngóc ngách và tìm thấy dấu tay nào. Đeo găng tay chính ngay trong chỗ náu - làm cái gì nhỉ?”

      Rhyme suy đoán: “Ngoài quá thông minh? Nhiều khả năng bảo vệ căn hộ thực cẩn thận và biết trước rằng nó bị phát lúc nào đó. chi cần dấu tay mà thôi. Chắc chắn nằm trong danh sách đen ở đâu đó rồi. Có thể là rất nhiều nơi”.

      “Em tìm thấy phần còn lại của bộ bài tarot, nhưng có nhãn cửa hàng. Và lá bài thiếu duy nhất là lá bài số mười hai, lá bài để lại trường. Được rồi, em tìm kiếm tiếp.”

      tiếp tục khám xét bằng cách ô vuông cách cần thận - dù cho căn hộ và ta có thể quan sát hầu hết căn phòng chỉ đơn giản bằng cách đứng ở giữa và xoay ba trăm sáu mươi độ. Sachs tìm thấy phần bằng chứng được cất giấu: Khi qua chiếc giường, phát mẩu thò ra bên dưới chiếc gối và rút nó ra, mở miếng giấy gấp cách cẩn thận.

      “Có vật gì đó ở đây, Rhyme. Tấm bản đồ con phố có bảo tàng Mỹ - Phi. Có rất nhiều chi tiết ghi chép về các hành lang, con hẻm và lối vào, lối thoát của tất cả các tòa nhà xung quanh, nhà kho, bãi đậu xe, đường dẫn nước, lỗ cống, bốt điện thoại trà trước. người theo chủ nghĩa hoàn hảo.”

      có nhiều sát thủ dính vào quá nhiều rắc rối thế này với công việc được thuê. “Có vài vết gì đó nó nữa. Và vài mẩu vụn. Màu nâu.” Sachs hít thử. “Tỏi. Mẩu vụn như kiểu thức ăn.” thả tấm bản đồ vào trong chiếc phong bì nhựa và tiếp tục tìm kiếm.

      “Em có thêm ít sợi vải nữa, giống với những thứ trước - sợi thừng cotton, em đoán vậy. ít bụi bẩn. Vậy đấy.”

      “Ước gì có thể thấy trường.” Giọng của Lincoln dần dần chuyển sang im lặng.

      “Rhyme?”

      tưởng tượng trong đầu”, thầm. Im lặng chút nữa. Rồi tiếp: “Có gì mặt bàn ?”.

      có gì cả. Em ...”

      ám chỉ cái gì mặt bàn. Ý là, nó có vết gì ? Mực? Hình vẽ? Vết dao? Hay là vết đáy cốc cà phê?” tiếp bằng giọng gay gắt: “Khi hung thủ bất lịch đến mức để lại hóa đơn tiền điện nằm đâu đó, ta phải lấy những gì ta có thể”.

      À, vậy là cái tâm trạng tốt lành chính thức tan biến.

      kiểm tra kỹ cái mặt bàn bằng gỗ. “Nó có vệt, đúng vậy. Vết xước và vết hằn.”

      “Bằng gỗ à?”

      “Đúng.”

      “Lấy ít mẫu về đây. Dùng con dao và cạo bề mặt.”

      Sachs tìm thấy con dao mổ trong túi đựng dụng cụ khám nghiệm. Giống với những con dao được dùng trong phòng phẫu thuật, nó được tiệt trùng và đóng gói trong tờ giấy và túi nhựa. cạo cẩn thận ít gỗ ở bề mặt và đặt chúng vào những chiếc túi nhựa .

      Khi cúi xuống, phát ra tia sáng lóe ra từ mép bàn. Sachs nhìn kỹ hơn.

      “Rhyme, tìm thấy vài giọt chất lỏng. Nó trong suốt.”

      “Trước khi em lấy ít mẫu về, thử cho vào giọt với ít Mirage xem. cùng với Exspray số Hai. Gã này rất thích kiểu đồ chơi chết người.”

      Công nghệ Mirage tạo ra hệ thống phát chất gây nổ cách nhanh chóng và hiệu quả. Expray số Hai có thể phát những chất nổ nhóm B, gồm có những chất nitroglycerin trong suốt và tính ổn định cao, chỉ cần giọt cũng có thể thổi bay bàn tay.

      Sachs kiểm tra giọt. Nếu như đó là chất nổ, chuyển sang màu hồng. có gì thay đổi. tiếp tục thử cũng giọt đó bằng Spray số Ba, chỉ để bảo đảm rằng - nó chỉ ra có mặt của bất cứ nitrat nào, nhân tố chủ chốt trong hầu hết các chất nổ, chỉ nitroglycerin.

      “m tính, Rhyme.” lấy giọt thứ hai của chất lỏng ấy và đưa vào ống thủy tinh, đậy kín nó lại.

      “Thế là xong rồi, Rhyme.”

      “Mang tất cả về đây, Sachs. Chúng ta cần nhanh chân hơn gã này. Nếu có thể trốn thoát đội ESU dễ dàng như vậy, điều đó có nghĩa là cũng có thể tiếp cận Geneva nhanh tương tự.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :