Lá Bài Thứ XII - Jeffery Deaver [Trinh Thám, Hình Sự]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 5

      Sau hai mươi lăm phút dài như vô tận, Sachs và Sellito về đến văn phòng của Rhyme, theo là cảnh sát tuần tra trẻ, tóc vàng tên là Pulaski.

      Sellito giải thích rằng ta cầu chàng trai trẻ mang bằng chứng về cho Rhyme và làm cộng tác cho cuộc điều tra. ràng là tân binh, ta có chữ “hăng hái” cái trán nhẵn thín của mình. ta hẳn là được vắn tắt về tình trạng của nhà tội phạm học, thành ra lờ cách thái quá là Rhyme bị liệt. Rhyme ghét những phản ứng giả tạo như vậy. cảm thấy thích cái cách xử thẳng đuột của Lakeesha hơn.

      Chỉ là, bạn biết đấy, chán chết...

      Hai viên thanh tra cảnh sát chào những bé.

      Pulaski nhìn chúng lượt đầy cảm thông và hỏi thăm bằng giọng đầy thân thiện với lũ trẻ. Rhyme thấy được vết hằn của chiếc nhẫn cưới ngón tay ta và suy đoán cuộc hôn nhân từ thời học sinh trung học; chỉ khi có con của riêng mình mới có ánh mắt nhìn như vậy.

      Lakeesha đáp lại câu hỏi: “Phá phách là kiểu của tôi. khó chịu... vài kẻ khốn nạn gây lộn với bạn của tôi. nghĩ sao chứ?”.

      Geneva vẫn ổn.

      biết là cháu ở cùng người họ hàng, đúng ?”, Sachs hỏi.

      “Bác của cháu, ông ấy ở nhà cháu đến khi bố mẹ cháu trở về từ London.”

      Rhyme bất chợt nhìn vào Lon Sellito. Có gì đó đúng. ta thay đổi cách đáng kinh ngạc trong hai tiếng qua. Thái độ vui vẻ biến mất. Đôi mắt ta ánh lên nỗi sợ hãi và có vẻ bồn chồn. Rhyme cũng để ý thấy những ngón tay của ta liên tục chà vào cùng vị trí má. ta chà xát nó đến nỗi đỏ ửng lên.

      “Bị mấy viên đạn làm giật mình à?”, Rhyme hỏi, nhớ lại rằng viên cảnh sát này đứng ngay cạnh người thủ thư khi hung thủ bắn ông ấy. Có lẽ Sellito bị mảnh vỡ của viên đạn văng vào hoặc có thể là mẩu đá nếu như viên đạn xuyên qua người Barry và bắn trúng vào tòa nhà.

      “Gì cơ?” Sellito chợt nhận ra mình chà ngón tay lên da và buông tay xuống. bằng giọng , để cho những nghe thấy: “Tôi ở khá gần nạn nhân. Bị chút máu văng vào người. Chỉ có thế thôi. Chứ sao cả”.

      Nhưng chỉ chút xíu sau đó lại vô thức đưa tay lên cọ má mình.

      Điệu bộ đó khiến Rhyme liên tưởng đến Sachs, bởi có thói quen gãi đầu và nhay nhay móng tay mình. thôi thúc bất chợt, bằng cách nào đó liên quan tới nỗ lực, khát vọng của , xáo động thể định nghĩa được bên trong hầu hết những người cảnh sát. Các cảnh sát thường làm tổn thương chính mình theo hàng trăm cách khác nhau. Và nguy hại có từ những hành động như kiểu của Sachs, cho đến những trường hợp phá hỏng hạnh phúc gia đình và tâm hồn của những đứa trẻ với những từ ngữ tàn nhẫn, cho đến những việc như ngậm miệng quanh cái nòng sặc mùi khói của chính khẩu súng mình được phát. Dù sao chưa bao giờ thấy điều như thế này ở Lon Sellito.

      Geneva hỏi Sachs: “ có nhầm lẫn gì hả ?”.

      “Nhầm lẫn?”

      “Về tiến sĩ Barry.”

      rất tiếc, . Ông ấy chết rồi.”

      bé đứng im bất động. Rhyme có thể cảm thấy nỗi đau của lúc này.

      Và cả tức giận nữa. Đôi mắt của bé là hai chấm đen đầy giận dữ. Rồi nhìn vào đồng hồ của mình, với Rhyme: “Những bài kiểm tra mà cháu đến sao?”.

      “Ừm, hãy trả lời số câu hỏi trước rồi chúng ta xem xét điều đó sau, Sachs?”

      Với những vật chứng được bày ra chiếc bàn khám nghiệm và bản bảo đảm tính pháp lý cho các bằng chứng được hoàn thành, Sachs kéo ghế xuống ngồi cạnh Rhyme và bắt đầu phỏng vấn hai bé. hỏi Geneva chính xác những gì xảy ra. bé giải thích rằng mình tìm bài báo trong tạp chí cũ khi bước vào thư viện. nghe thấy những tiếng chân ngập ngừng chậm rãi. Rồi tiếng cười. Tiếng của người đàn ông kết thúc cuộc hội thoại và tiếng gập của chiếc điện thoại.

      bé nheo mắt. “À, những gì chú có thể làm là kiểm tra tất cả các công ty viễn thông trong thành phố. Để xem những ai chuyện điện thoại lúc đó.” Rhyme đáp lại bằng tiếng cười. “Đó là ý kiến hay. Nhưng thực tế là ở bất cứ thời điểm xác định nào tại Manhattan có khoảng năm mươi ngàn cuộc gọi được thực hoặc được kết nối. Bên cạnh đó, chú dám chắc rằng liệu có phải gọi điện hay .”

      “Ý chú là giả vờ á? Làm sao chú biết được điều đó?” Lakeesha hỏi, lén lút nhét hai thanh kẹo cao su vào miệng.

      “Chú biết điều đó. Chú nghi ngờ điều đó. Cũng như tiếng cười. Có nhiều khả năng làm vậy để khiến Geneva mất cảnh giác. Ta thường để ý đến những người chuyện điện thoại. Và hiếm khi ta nghĩ rằng đó mối đe dọa.”

      Geneva gật gật đầu. “Vâng. Đúng thế! Lúc đầu cháu cảm thấy sợ hãi khi bước vào thư viện. Nhưng khi cháu nghe tiếng chuyện điện thoại, thế là, cháu nghĩ bất lịch khi chuyện điện thoại ở trong thư viện nhưng cháu cũng cảm thấy sợ hãi nữa.”

      “Rồi sau đó chuyện gì xảy ra?”, Sachs hỏi.

      bé giải thích rằng mình nghe thấy tiếng “cách” thứ hai - và nghĩ rằng thanh ấy nghe giống như tiếng khẩu súng - rồi nhìn thấy người đàn ông đội mũ trùm kín mặt. bé sau đó kể lại việc mình tháo quần áo của ma nơ canh và mặc cho nó áo và mũ của mình như thế nào.

      “Tuyệt!”, Lakeesha chìa tay ra cách tự hào. “Người chị em của cháu ở đây, là quá thông minh!”

      bé chắc chắn là như vậy, Rhyme nghĩ trong đầu. “Cháu tr trong những chồng sách cho đến khi tiến lại chiếc máy đọc vi phim và rồi chạy về phía cửa thoát hiểm.”

      “Cháu nhìn thấy gì nữa về à?”, Sachs hỏi.

      .”

      “Chiếc mũ trùm màu gì?”

      “Tối màu. Cháu biết chính xác nữa.”

      “Còn quần áo sao?”

      “Thực cháu nhìn thấy gì khác nữa. Cháu nhớ những điều đó. Cháu khá là sợ hãi.”

      biết cháu sợ.” Sachs . “Khi cháu nấp ở sau những giá sách, cháu có quan sát hướng của ? Để có thể biết khi nào bỏ chạy?”

      Geneva cau mày chút. “À, vâng, đúng thế. Cháu quan sát . Cháu quên mất điều đó. Cháu quan sát qua gầm kệ sách để có thể chạy khi đến gần ghế cháu ngồi.”

      “Vậy có thể cháu nhìn thấy gì khác nữa ở ?”

      “À, biết đấy, cháu có. Cháu nghĩ rằng đôi giày màu nâu. Đúng rồi, màu nâu. Nâu sáng, chứ phải đậm tối.”

      “Được rồi. Còn quần sao?”

      “Tối màu. Cháu khá chắc chắn. Nhưng đó là tất cả những gì cháu có thể thấy, chỉ gấu quần mà thôi.”

      “Cháu có ngửi thấy mùi gì ?”

      ... Khoan . Hình như là cháu có. mùi gì đó ngọt, giống như những bông hoa.”

      “Và...?”

      bước tới cái ghế và cháu nghe thấy tiếng nứt rồi vài tiếng động ầm ầm nữa. Có cái gì đó bị đập nát.”

      “Chiếc máy đọc vi phim”, Sachs giải thích. “ đập nát nó.”

      “Sau đó cháu cố hết sức chạy nhanh, về phía cửa thoát hiểm. Cháu chạy xuống cầu thang và khi ra tới phố gặp Keesh và chúng cháu bắt đầu chạy tiếp. Nhưng cháu nghĩ rằng có thể tiếp tục làm hại ai đó khác. Do đó, cháu quay lại và...”, bé nhìn về phía Pulaski, “Bọn em nhìn thấy ”.

      Sachs hỏi Lakeesha: “Cháu có nhìn thấy kẻ tấn công ?”.

      “Chẳng có gì cả. Cháu chỉ đứng chơi và rồi Gen đến, chạy rất nhanh và lôi tha lôi thôi, chú hiểu cháugì ? Cháu chả nhìn thấy gì cả.”

      Rhyme hỏi Sellito: “Hung thủ giết Barry bởi ông ấy là nhân chứng - vậy ông ấy thấy gì?”.

      “Ông ấy thấy điều gì khác thường, ông ấy đưa cho tôi danh sách tên những nhân viên nam da trắng của thư viện trong trường hợp hung thủ là trong số họ. Có hai người nhưng họ được kiểm tra và có chứng cứ ngoại phạm. người đưa con đến trường và người ở văn phòng chính có mọi người xung quanh, vào thời điểm vụ việc xảy ra.”

      “Vậy hung thủ là kẻ cơ hội”, Sachs trầm ngâm. “Nhìn thấy vào và rình rập đằng sau.”

      “Bảo tàng?” Rhyme : “ lựa chọn kỳ cục”.

      Sellito hỏi hai : “Các cháu có thấy ai theo mình ngày hôm nay ?”.

      Lakeesha trả lời: “Chúng cháu xuống từ tàu C trong giờ cao điểm. Tuyến Đại lộ 8... đông đúc và bẩn thỉu. Chẳng thấy ai có biểu kỳ lạ hết. Cậu sao?”.

      Geneva lắc lắc đầu.

      “Thế còn bây giờ sao? Có ai quấy rối, có thù hằn gì với cháu ? Đánh cháu chẳng hạn?”

      Cả hai bé chẳng nghĩ được ai có vẻ như là mối đe dọa với họ. Ngượng ngùng, Geneva : “ có nhiều người theo đuổi xung quanh cháu.

      Họ phải rình rập những trông thu hút hơn. Nuột hơn”.

      “Nuột?”

      “Ý của cậu ấy là xinh xắn, gợi cảm”, Lakeesha giải thích, người ràng là hình mẫu điển hình cho những gợi cảm và xinh xắn. cau mày và liếc nhìn Geneva. “Tại sao cậu phải lên đó, nhóc? Đừng những thứ vớ vẩn về mình đấy.”

      Sachs nhìn về phía Rhyme, cau mày. “ nghĩ sao?”

      “Có gì đó đúng. Hãy xem qua lượt chứng cứ thu thập được trong khi Geneva ở đây. Có thể có gì đó mà bé giải thích được.”

      bé lắc lắc đầu. “Còn bài kiểm tra sao?” giơ chiếc đồng hồ lên.

      lâu đâu mà.” Rhyme .

      Geneva nhìn bạn mình. “Cậu có thể đến phòng học”.

      “Tớ ở lại đây với cậu. Tớ thể ngồi hàng tiếng đồng hồ ở trong lớp với đống bài kiểm tra mà tâm trí lo lắng cho cậu và tất cả mọi việc.”

      Geneva cười nhăn nhở. “Còn lâu, nhóc.” hỏi Rhyme: “Chú cần bạn ấy, đúng ạ?”.

      nhìn Sachs, lắc đầu. Sellito ghi lại địa chỉ và số điện thoại của bé. “Chúng tôi gọi cháu nếu như có gì cần hỏi.”

      “Cháu vẫn qua các bài kiểm tra, bé.” . “Quên nó và về nhà nghỉ ngơi.”

      “Tớ gặp lại cậu ở trường.” Geneva cách kiên quyết. “Cậu đến trường chứ?” Rồi nhướn mày. “Hứa chứ?”

      Hai tiếng nhóp nhép kẹo cao su lớn. Thở dài tiếng. “Hứa”. Lưỡng lự chút tại cửa, bé quay lại, với Rhyme: “À, thưa chú, còn bao lâu nữa chú có thể bước ra khỏi cái xe lăn này?”.

      ai gì để lấp cái phút đầy khó xử ấy. Khó xử với tất cả mọi người nhưng với Rhyme, cho là như vậy.

      “Có lẽ khoảng thời gian dài”, đáp lại .

      “Ồ, thế khó chịu chết!”

      “Ừ”, Rhyme . “Đôi lúc chán chết.”

      quay đầu bước về phía sảnh lớn, theo hướng cửa trước. Họ nghe thấy: “Chết tiệt, phải chú ý chứ, ông chú”. Tiếng cửa ngoài sập mạnh.

      Mel Cooper bước vào phòng, quay lại nhìn cái chỗ mà suýt nữa bị đè bẹp bởi trẻ nặng hơn đến hai mươi lăm kilogram. “Được thôi”, tự với mình. “Tôi định hỏi.” kéo chiếc áo khoác gió màu xanh lá cây ra và gật đầu chào mọi người.

      Người đàn ông mảnh khảnh, hói đầu từng làm việc với vai trò nhà khoa học hình pháp y cho Sở cảnh sát New York ở khu phía bắc vài năm trước đây khi với Rhyme, lúc đó là chỉ huy đơn vị Khám nghiệm pháp y của Sở cảnh sát New York, cách lịch nhã nhặn nhưng rất dứt khoát rằng, trong những phân tích của là sai. Rhyme tôn trọng những người biết chỉ ra khuyết điểm hơn nhiều những kẻ nịnh bợ - tất nhiên, trong trường hợp họ đúng, như Cooper từng làm được. Rhyme ngay lập tức bắt đầu chiến dịch để kéo ta về New York - thử thách khó khăn mà cuối cùng cũng thành công.

      Cooper sinh ra để làm nhà khoa học nhưng quan trọng hơn cả là để làm nhà khoa học pháp y, ngành hoàn toàn khác biệt. Người ta thường nghĩ rằng “pháp y” liên quan tới công việc ở trường vụ án, nhưng thực tế, từ này có nghĩa là mọi mặt của những vấn đề nóng bỏng gây trước tòa và luật pháp. Để là nhà tội phạm học thành công ta phải dịch được những thông tin trần trụi thành dạng thể mà nó hữu ích cho các công tố viên. Lấy ví dụ, việc xác định cách đơn giản diện của các vật chất có trong cây mã tiền ở nơi được nghi ngờ là trường vụ án vẫn là chưa đủ - các vật chất này được sử dụng rất nhiều trong các mục đích y tế vô hại như để chữa bệnh viêm tai. nhà khoa học pháp y thực như Mel Cooper có thể biết ngay lập tức được những vật chất như vậy tiết ra chất độc chết người strychine.

      Cooper có vẻ bề ngoài của con nghiện trò chơi máy tính. sống với mẹ của mình, bà vẫn mặc những chiếc áo sơ mi kẻ ca rô rực rỡ và trông giống Woody Allen[1]. Vẻ bề ngoài lại đánh lừa tất cả. Người bạn từ bao lâu nay của Cooper là tóc vàng cao và xinh đẹp dịu dàng. Họ có thể cùng nhau lướt qua sàn của hội trường nền hợp xướng trong cuộc thi khiêu vũ, mà trong đó họ thường là người chiến thắng. Mới đây nhất, họ tham gia cuộc thi bắn đĩa bay và cuộc thi nấu rượu vang nho (mà trong đó Cooper phải vận dụng cách tỉ mỉ những nguyên tắc - nguyên lý hóa học và vật lý).

      [1] Woody Allen: diễn viên, đạo diễn, biên kịch nổi tiếng người Mỹ

      Rhyme tóm tắt vụ án cho và họ quay sang làm việc với các chứng cứ. Rhyme : “Hãy nhìn vào cái gói”.

      Trong khi đeo vào tay những chiếc găng cao su, Cooper nhìn về phía Sachs, chỉ ra những chiếc túi giấy có chứa gói đồ của hung thủ. mở nó ra tờ giấy lớn - để có thể tìm ra dấu vết xung quanh- và lấy ra những đồ vật trong đó. Đó là cái túi nhựa mỏng. có logo cửa hàng nào được in lên đó, chỉ có hình mặt cười màu vàng lớn. Người chuyên gia mở chiếc túi và dừng lại. : “Tôi ngửi thấy mùi gì đó...”. Hít hơi sâu. “Có mùi hoa. Cái gì thế?” Cooper đưa cái túi lên cho Rhyme và ngửi nó. Có mùi giống với mùi nước hoa, nhưng thể nhận ra đó là mùi gì. “Geneva?”

      “Dạ?”

      “Có phải đây là mùi mà cháu ngửi thấy thư viện?”

      bé khịt khịt mũi. “Vâng. Đúng là nó.”

      Sachs : “Hoa nhài. Tôi nghĩ đó là hương hoa nhài”.

      bảng biểu đồ”, Rhyme .

      “Bảng biểu đồ nào?”, Cooper hỏi, nhìn xung quanh.

      Trong mỗi vụ án của mình, Rhyme đều có biểu đồ tấm bảng trắng ghi chép các bằng chứng được tìm thấy tạhiện trường và hồ sơ thông tin về các đối tượng. “Bước đầu tiên”, đề nghị. “Và chúng ta cần phải gọi là gì đó. ai đó cho tôi cái tên xem.”

      ai đưa ra sáng kiến nào cả.

      Rhyme : “ có thời gian để sáng tạo. Hôm nay là ngày mùng 9 tháng 10, đúng . Mười/chín. Vậy là Đối tượng 109. Thom! Chúng tôi cần ngòi bút tài hoa của cậu”.

      cần phải thêm bơ thêm đường như vậy”, người phụ tá và bước vào phòng với ấm cà phê khác.

      “Đối tượng 109. Biểu đồ chứng cứ và hồ sơ. là nam da trắng. Chiều cao?”

      Geneva trả lời: “Cháu biết. Với cháu ai cũng cao. mét tám, cháu đoán vậy”.

      “Có vẻ như cháu cũng nhanh mắt quan sát. Chúng ta theo lời cháu. Cân nặng?”

      quá to hay .” bé bỗng im lặng chút, vẻ băn khoăn. “Khoảng cân nặng của tiến sĩ Barry.”

      Sellito : “Như vậy là khoảng chừng tám mươi hai kilogram”.

      “Tuổi?”

      “Cháu biết. Cháu thể nhìn thấy mặt .”

      “Tiếng ?”

      ”Cháu chú tâm lắm. Tầm trung, cháu đoán vậy.”

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Rhyme tiếp tục: “Và đôi giày màu nâu sáng, quần tối màu, mũ trùm mặt tối màu. Cái gói trong túi có mùi hoa nhài. cũng có mùi như vậy. Có thể là xà bông hoặc nước tắm”.

      “Cái gói?” Thom hỏi. “Ý là sao?”

      “Cái gói mà đựng đồ định dùng để hiếp dâm ý ạ.” Geneva . Liếc nhìn Rhyme. “Chú cần phải tránh bất cứ điều gì cho cháu. Nếu như đó là điều chú làm.”

      “Đủ rồi.” Rhyme gật đầu với bé. “Hãy tiếp tục nào.” nhận thấy mặt Sachs tối sầm lại khi thấy Cooper nhấc chiếc túi lên.

      “Có chuyện gì vậy?”

      “Cái mặt cười. túi có đựng đồ để hiếp dâm. Cái thể loại chết tiệt bệnh hoạn nào làm như vậy?”

      Cơn giận dữ của làm lúng túng. “Em nhận ra rằng tin tốt là dùng nó, đúng , Sachs?”

      “Tin tốt?

      “Nó hạn chế số lượng các cửa hàng chúng ta cần phải tìm kiếm. dễ dàng như tìm kiếm thông tin về chiếc túi với logo được thiết kế riêng biệt nhưng còn hơn là chiếc túi trắng trơn hình gì cả.”

      “Em cũng nghĩ vậy”, , nhăn nhó. “Nhưng vẫn...”

      Tay đeo găng cao su mỏng, Mel Cooper nhìn vào chiếc túi. lấy ra lá bài tarot trước tiên. Nó có hình người đàn ông treo ngược chân chiếc giá treo cổ. chùm sáng phát ra từ đầu của nhân vật đó. Khuôn mặt thản nhiên cách kỳ lạ. Nhìn người đàn ông này chẳng thấy có chút đau đớn nào cả. Ở bên là con số La Mã, XII.

      “Nó có ý nghĩa gì với cháu ?”, Rhyme hỏi Geneva.

      bé lắc đầu.

      Cooper lẩm bẩm: “ kiểu lễ nghi hay tôn giáo chăng?”.

      Sachs : “Tôi có ý này”. rút chiếc điện thoại của mình ra, gọi cho ai đó. Rhyme đoán rằng người mà chuyện sớm có mặt ở đây. “Em gọi cho chuyên gia - về quân bài.”

      “Tốt.”

      Cooper kiểm tra dấu vân tay lá bài và phát được chút gì. Cũng có giấu vết nào hữu ích cả.

      “Còn thứ nào khác trong túi nữa?”, Rhyme hỏi.

      “Được rồi”, nhà khoa học hình pháp y trả lời: “Chúng ta có cuộn băng dính mới nguyên, con dao rọc giấy, vài cái bao cao su Trojan. thứ nào có thể lần tìm dấu vết được. Và... Đây rồi!”. Cooper giơ lên mẩu giấy. “ tấm hóa đơn.”

      Rhyme lái chiếc xe lăn tới gần hơn và nhìn nó. có tên của cửa hàng; tấm hóa đơn được in ra từ chiếc máy thanh toán kiểu cũ. Mực mờ.

      có nhiều thông tin từ nó lắm”, Pulaski , rồi có vẻ như nghĩ rằng mình đáng lẽ nên gì.

      Cậu ta làm gì ở đây nhỉ? Rhyme tự hỏi.

      À, đúng rồi. Giúp Sellito.

      “Rất tiếc, tôi nghĩ khác”, Rhyme cách thẳng thừng- ‘‘Nó cho chúng ta rất nhiều thông tin. mua tất cả các đồ này từ trong cùng cửa hàng - chúng ta có thể so sánh giá món đồ với cái hóa đơn - chà, cùng với thứ gì đó khác có ở đây mà mua với năm đô chín mươi lăm xu. Có thể là bộ bài tarot. Như vậy là chúng ta có thông tin về cửa hàng bán c băng dính, dao rọc giấy và bao cao su. Có thể là cửa hàng tạp hóa hoặc thậm chí là hàng dược phẩm. Chúng ta biết đó phải là siêu thị lớn vì có logo cửa hàng hóa đơn và chiếc túi. Và nó là cửa hàng bởi nó chỉ có ngăn kéo đựng tiền, chứ phải quầy thanh toán được quản lý bằng máy tính. đề cập đến vấn đề giá rẻ. Và mức thuế ghi hóa đơn cho chúng ta biết cái cửa hàng này năm ở...” nheo mắt khi so sánh tổng tiền hóa đơn với số tiền thuế. “Chết tiệt, ai giỏi toán nhỉ? Tỷ lệ phần trăm là bao nhiêu đây?”

      Cooper : “Tôi có máy tính đây”.

      Geneva nhìn vào tấm hóa đơn. “8.625%.”

      “Làm sao cháu biết điều đó?”, Sachs hỏi.

      “Cháu giống như chiếc máy tính thôi.” .

      Rhyme nhắc lại: “8.625%. Đó là liên hệ giữa tiểu bang New York và mức thuế mua hàng của thành phố. Khiến thông tin của cửa hàng này nằm ở trong số năm khu của tiểu bang”. nhìn Pulaski. “Vậy, cảnh sát tuần tra, vẫn cho rằng nó thực hé lộ nhiều thông tin chứ?”

      “Tôi hiểu, thưa ngài.”

      “Tôi còn phục vụ trong lực lượng nữa. ‘thưa ngài’ là cần thiết. Được rồi. In mọi thứ ra và hãy xem chúng ta có thể tìm thấy gì.”

      “Tôi á?” Chàng tân binh hỏi cách dám chắc.

      . Họ.”

      Cooper và Sachs sử dụng các kỹ thuật khác nhau để lấy các dấu tay các vật chứng: bột huỳnh quang, tia Adrox và hương liệu có mùi keo siêu dính các bề mặt phẳng trơn; hơi iode và ninhydrin các bề mặt có nhiều lỗ li ti, vài trong số đó tự làm nổi dấu tay; trong khi những cái khác kết quả dưới ánh sáng của đèn chiếu chuyên dụng.

      Ngẩng lên nhìn đội phá án qua cặp kính lồi màu da cam, Cooper báo cáo: “Có các dấu tay tờ hóa đơn, và các dấu tay các đồ vật. Tất cả đều là . Chỉ có vấn đề là, các dấu tay , quá để có thể là dấu tay của người đàn ông cao gần mét tám. Đây là dấu tay của người phụ nữ mảnh mai nhắn, hoặc của nữ sinh tuổi vị thành niên, người bán hàng, tôi như vậy. Tôi cũng nhìn thấy vết lau. Tôi cho rằng nghi phạm lau sạch dấu tay của rồi”.

      Trong khi rất khó để xóa dấu vết các chất dầu của bàn tay, các dấu tay có thể bị bay biến cách dễ dàng sau khi được chùi sạch.

      “Kiểm traì chúng ta có với IAFIS.”

      Cooper lấy những mẫu dấu tay và đưa lên máy scan. Mười phút sau, hệ thống nhận dạng vân tay tự động của FBI xác nhận rằng dấu vân tay thuộc về ai có hồ sơ trong cơ sở dữ liệu chính của thành phố, tiểu bang và liên bang. Cooper đồng thời cũng gửi chúng tới vài cơ sở dữ liệu địa phương mà kết nối với hệ thống của FBI.

      “Dấu giày”, Rhyme lớn.

      Sachs in ra các tấm phim bản. Các dấu giày sờn, vậy chiếc giày cũ.

      “Cỡ mười ”, Cooper .

      tương quan giữa kích thước bàn chân và cấu trúc xương cũng như chiều cao, dù nó vẫn có thể là bằng chứng chưa được thuyết phục trước tòa. Kích cỡ bàn chân cho thấy Geneva khá đúng trong việc ước lượng rằng nghi phạm cao khoảng mét tám.

      “Còn nhãn hiệu sao?”

      Cooper kiểm tra bức ảnh qua hệ thống dữ liệu về dấu giày và tìm ra. “Giày hiệu Bass, kiểu dành cho người bộ. Ít nhất được ba năm rồi. Họ ngừng sản xuất kiểu này từ ba năm trước.”

      Rhyme . “Vết mòn giày cho chúng ta biết bàn chân phải của hơi hướng ra ngoài chút, nhưng có dấu hiệu bước khập khiễng hoặc cà nhắc và có biến dạng về xương chân chỗ ngón cái, móng mọc trong hoặc các vấn đề về chân khác[2]”

      [2] Nguyên văn tiếng Pháp: Malades dé pieds.

      “Tôi biết là được tiếng Pháp đấy, Lincoln”, Cooper .

      Chỉ trong trường hợp mà nó có ích cho cuộc điều tra. biết cụm từ đặc biệt này khi điều tra vụ án Mất tích chiếc giày bên phải và có cơ hội chuyện hàng chục lần với cảnh sát người Pháp. “Tình trạng dấu vết thế nào?”

      Cooper mải mê nghiền ngẫm chiếc túi đựng vật chứng thu thập được có chứa những mẩu vụn xíu dính chặt với dụng cụ thu thập dấu vết của Sachs, đó là con lăn dính, giống như cái lăn dùng để hút lông chó mèo và sợi vải. Những con lăn thay thế chiếc máy hút bụi chân DustBuster như lựa chọn dành riêng cho sợi vải, lông tóc và chất lắng.

      Đeo chiếc kính lúp vào lần nữa, nhà khoa học hình sử dụng những chiếc nhíp mảnh để nhặt các chất liệu lên. chuẩn bị tấm nhựa trong và đặt nó bên dưới kính hiển vi, rồi điều chỉnh độ phóng và tiêu điểm. Đồng thời, hình ảnh ra vài chiếc máy tính màn hình phẳng ở quanh căn phòng. Rhyme xoay chiếc xe lăn và kiểm tra kỹ những bức ảnh. có thể nhìn thấy những hạt rất như là bụi, vài sợi vải, những vật thể phồng lên màu trắng, và những thứ mà nhìn giống như những chiếc vỏ côn trùng được lột ra - “bộ xương ngoài”. Khi Cooper di chuyển bàn soi của chiếc kính hiển vi, vài hạt từ chất liệu vải mềm, mềm xốp như bọt biển có màu trắng ngà ra.

      “Những thứ này đến từ đâu?”

      Sachs xem xét. “Có hai nguồn: sàn nhà gần chiếc bàn mà Geneva ngồi và bên cạnh chiếc thùng rác lớn mà đứng khi bắn ông Barry.”

      Lần theo dấu vết từ những vật chứng ở những nơi công cộng thường có tác dụng bởi có quá nhiều khả năng những người lạ liên quan để lại các dấu vết. Nhưng nếu như cùng dấu vết được tìm thấy ở hai địa điểm tách biệt mà hung thủ có mặt cho thấy ràng nó chắc chắn phải là dấu vết để lại.

      “Cảm ơn Chúa”, Rhyme lẩm bẩm: “vì thông minh trong việc tạo ra những chiếc giày có đế sâu”. Sachs và Thom liếc nhìn nhau.

      hiểu cái tâm trạng tốt của tôi à?” Rhyme hỏi, tiếp tục nhìn chằm chằm vào màn hình. “Đó có phải là lý do cho ánh mắt của hai người ? Đôi khi có thể tôi rất vui vẻ.”

      “Cả năm được lần”, người phụ tá lẩm bẩm.

      thành ngữ nữa, Lon. Cậu biết câu này ? Nào, bây giờ quay lại với các dấu vết. Chúng ta biết đó là dấu vết để lại. Đó là cái gì? Và liệu nó có thể dẫn dắt chúng ta đến sào huyệt của ?”

      Các nhà khoa học pháp y đối mặt với những nhiệm vụ tạo thành hình kim tự tháp trong việc phân tích vật chứng. Công việc khởi đầu - và thường là công việc đơn giản dễ dàng nhất - là xác định chất liệu (ví dụ như, tìm ra vết loang màu nâu là máu và liệu nó là của người hay của động vật, hay mẩu vật gì đó là mảnh vỡ của viên đạn).

      Nhiệm vụ thứ hai là phân loại các vật mẫu đó, như là, đặt nó vào nhóm phân loại hơn (ví dụ như xác định vết máu đó là máu nhóm O dương tính, hay là cái mảnh vỡ từ viên đạn đó là viên đạn cỡ 38 ly). Biết được rằng vật chứng nằm trong nhóm riêng biệt có giá trị nhất định đối với cảnh sát và những công tố viên nếu như kẻ tình nghi có thể có liên quan đến vật chứng ở cùng loại như thế - chiếc áo của có vết máu nhóm O dương tính, và có khẩu súng sử dụng đạn cỡ 38 ly - mặc dù những tình tiết có liên quan như vậy chưa thực

      Nhiệm vụ cuối cùng, và mục tiêu sau cùng của tất cả các nhà khoa học pháp y, đó là cá nhân hóa những bằng chứng - liên kết cách thể nghi ngờ được cái bằng chứng riêng biệt này với địa điểm hay con người duy nhất (mẫu DNA từ vết máu chiếc áo sơ mi của kẻ tình nghi khớp với máu của nạn nhân, viên đạn có những dấu vết riêng duy nhất mà chỉ có thể được tạo ra khi bắn bằng khẩu súng của ).

      Đội phá án lúc này ở tầng thấp của chiếc kim tự tháp pháp y này. Ví dụ như những cái mẩu đó là loại sợi vải, mà họ biết. Nhưng hàng ngàn loại sợi vải khác nhau được tạo ra nước Mỹ hằng năm và có hơn bảy ngàn loại màu được sử dụng để nhuộm chúng. Và cũng như thế, đội phá án có thể thu hẹp được phạm vi. Những phân tích của Cooper hé lộ ra rằng những mẩu vài được bỏ lại bởi tên giết người là loại từ thực vật tự nhiên - hơn là được làm từ động vật hay khoáng chất - và chúng dày.

      “Tôi cá đó là dây thừng sợi bông”, Rhyme đưa ra suy đoán.

      Cooper gật đầu khi đọc dữ liệu về các loại vải làm từ thực vật. “Đúng thế. Mặc dù, rất chung chung. có nhà sản xuất.”

      sợi vải có màu gì nhưng những mẩu vải khác có các vệt ố của vật gì đó. Nó có màu nâu và Cooper nghĩ rằng đó có thể là vết máu. xét nghiệm với phenolphthalein dành cho những dấu vết được cho là vết máu xác định kết quả.

      “Máu của ?”, Sellito băn khoăn.

      “Ai biết?”, Cooper đáp lại, tiếp tục xét nghiệm mẫu vật. “Nhưng đó chắc chắn là của người. Với hai đầu bị xoắn chặt và đứt, tôi có thể suy luận rằng sợi thừng là dây dùng để thắt cổ. Chúng ta từng nhìn thấy trước đây. Nó có thể là vũ khí giết người có chủ đích.”

      Cái vật cứng dùng có thể đơn giản với mục đích đánh ngất nạn nhân, hơn là được dùng để giết bé (Đánh ai đó đến chết là công việc khó khăn và gây ra vụ lộn xộn). ta cũng có súng, nhưng nó phát ra tiếng quá to trong khi muốn thực vụ giết người cách im lặng để còn trốn thoát. sợi thừng thắt cổ nạn nhân là lựa chọn hợp lý.

      Geneva thở dài. “Chú Rhyme? Bài kiểm tra của cháu.”

      “Bài kiểm tra?”

      “Ở trường.”

      “À, chắc chắn rồi. Đợi chú phút... Tôi muốn biết cái vỏ lột ra này là của loại côn trùng hay bọ nào”, Rhyme

      cảnh sát”, Sachs với Pulaski.

      “Vâng, thưa b... Thanh tra?”

      “Cậu có thể giúp chúng tôi chút ở đây ?”

      “Chắc chắn rồi.”

      Cooper in ra bức ảnh màu về mẩu xác và đưa nó cho lính trẻ. Sachs đưa ta ngồi xuống chiếc máy tính và gõ lệnh để nhập vào kho dữ liệu côn trùng của sở - Sở cảnh sát New York là trong số ít sở cảnh sát thế giới có chỉ thư viện chuyên sâu đầy đủ thông tin về côn trùng mà còn có cả đội ngũ chuyên gia về côn trùng làm việc. Sau chút tạm dừng, màn hình máy tính bắt đầu ngập đầy những bức ảnh về các bộ phận côn trùng.

      “Trời, có rất nhiều loại. Mọi người biết đấy, tôi thực chưa bao giờ làm cái công việc này trước đây.” ta nheo mắt nhìn khi những tập tin lướt qua.

      Sachs giấu nụ cười. “ hoàn toàn giống với CSI (Điều tra trường), đúng ?”, hỏi. “Hãy lướt chuột chậm rãi và tìm thứ mà cậu nghĩ rằng nó khớp. ‘Chậm - chắc’ là bí quyết.”

      Rhyme : “Ngày càng có nhiều sai lầm trong các phân tích pháp y bởi vì tính vội vội vàng vàng của các kỹ thuật viên hơn bất cứ lý do nào khác”.

      “Tôi biết điều đó.”

      Sachs : “Giờ cậu biết”.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 6

      “Phân tích bằng máy sắc ký khí những chấm màu trắng ở đó.” Rhyme ra lệnh. “Chúng là cái quỷ gì thế nhỉ?”

      Mel Cooper lấy ra vài mẫu vật từ con lăn và đưa chúng qua hệ thống sắc ký khí, công cụ có thể làm được cả núi công việc cần thiết khó nhằn trong mọi phòng xét nghiệm pháp y. Nó phân tích các vật chứng chưa thành các thành phần cấu tạo và sau đó xác định chúng. Mất mười lăm phút hoặc hơn để có kết quả phân tích, và trong khoảng thời gian chờ đợi ấy Cooper ghép những mảnh đạn mà các bác sĩ trong phòng cấp cứu lấy ra khỏi chân của người phụ nữ mà hung thủ bắn trúng. Sachs khẩu súng phải là khẩu côn, phải loại tự động, bởi nó có các vỏ đạn đồng rơi ra ở trường vụ nổ súng bên ngoài bảo tàng.

      “Ồ, là kinh khủng”, Cooper với kinh ngạc, khi kiểm tra những mảnh vỡ với chiếc nhíp. “Khẩu súng này loại , sử dụng đạn 22 ly. Nhưng đó là những viên đạn loại có ổ thuốc nổ lớn.”

      “Tốt”, Rhyme . tỏ vẻ vui mừng vì phiên bản ổ thuốc nổ lớn đầy uy lực của loại đạn 22 ly với hạt kích nổ ở vành chân là loại đạn khá hiếm và do đó dễ dàng hơn để lần tìm dấu vết. thực tế, nếu đó là khẩu côn thôi cũng vẫn là hiếm rồi. Điều đó có nghĩa là họ có khả năng tìm ra nhà sản xuất loại súng này cách dễ dàng.

      Sachs, vốn là xạ thủ súng ngắn đầy tính hơn thua, thậm chí cần phải truy tìm câu trả lời.

      “Hãng sản xuất vũ khí Bắc Mỹ - North American Arms - là nhà sản xuất loại này duy nhất mà tôi biết. Có thể đó là mẫu Black Widow của họ, nhưng tôi đoán đó là mẫu Mini Master. Nó có nòng súng dài khoảng mười centimet. Như thế chính xác hơn và có thể tập trung các phát bắn khá sát nhau.”

      Rhyme hỏi nhà khoa học hình , ta nghiền ngẫm chiếc bảng xét nghiệm: “Ý là sao khi ‘kinh khủng’?”.

      “Hãy nhìn xem.”

      Rhyme, Sachs và Sellito tiến lên phía trước. Cooper nhấn nhấn xung quanh những mẩu kim loại dính máu bằng chiếc nhíp. “Nhìn có vẻ như là tự làm ra những thứ này.”

      “Đạn nổ?”

      , hoàn toàn hay. Có thể còn tồi tệ hơn. Cái vỏ ngoài của đầu đạn làm bằng chì mỏng, ở bên trong, được nhồi đầy những thứ này.”

      Có đến nửa tá những chiếc kim xíu, vào khoảng ba phần tám chiều dài của inch[1]. Khi trúng mục tiêu, đầu đạn nổ và những chiếc kim này bắn tung tóe theo hình chữ V bên trong cơ thể. Dù những viên đạn nhưng có thể tạo ra sức phá hoại lớn hơn nhiều với viên đạn nổ bình thường. Nó được thiết kế phải để ngăn chặn kẻ tấn công hay để phòng thù, mục đích của nó chỉ đơn giản là để phá hoại những mạch máu, tế bào bên trong. Nếu như có ảnh hưởng tê cứng mất cảm giác do tác động của viên đạn cỡ lớn, những viên đạn này mang lại những vết thương đau đớn vô cùng.

      [1] inch = 2.54 cm

      Lon Sellito lắc đầu, đôi mắt vẫn dán chặt vào những cái kim, và gãi vệt máu vô hình mặt ta, hẳn là nghĩ tới việc ta suýt bị bắn trúng bởi trong những viên đạn này. “Lạy Chúa”, ta lẩm bẩm. Tiếng vỡ ra và hắng giọng, cười để giấu nó, rồi ra khỏi chiếc

      cách kỳ lạ, phản ứng của viên trung úy có nhiều vấn đề phiền phức hơn là phản ứng của bé. Geneva có vẻ như ít quan tâm tới những chi tiết về những phát súng khủng khiếp của kẻ tấn công . lại nhìn vào đồng hồ của mình và ngồi thườn thượt cách thiếu kiên nhẫn.

      Cooper quét mảnh lớn nhất của viên đạn và chạy những thông tin về loại đạn này thông qua Hệ thống nhận dạng đạn đạo tích hợp (IBIS), hệ thống có gần ngàn sở cảnh sát khắp đất nước đăng ký, cũng như hệ thống DRUGFIRE của FBI. Những cơ sở dữ liệu khổng lồ này có thể ghép viên đạn, những mảnh vỡ hoặc những vỏ đạn bằng đồng với những viên đạn hoặc vũ khí có trong dữ liệu. Ví dụ như, khẩu súng được tìm thấy ở kẻ tình nghi ngày hôm nay, có thể nhanh chóng được tìm ra khớp với viên đạn được ghép lại từ nạn nhân năm năm trước đây.

      Mặc dù kết quả những viên đạn này, được khả quan lắm. Chính những chiếc kim trong viên đạn này được bẻ ra từ đuôi của những chiếc kim khâu, loại mà ta có thể mua ở bất cứ đâu. thể tìm được dấu vết.

      bao giờ dễ dàng, đúng ?”, Cooper lẩm bẩm. Theo hướng của Rhyme, cũng tìm kiếm thông tin về những người có đăng ký sở hữu súng loại Mini Master và khẩu Black Widow hơn, với cỡ nòng 22 ly, đưa ra kết quả gần ngàn người và ai trong số họ từng có hồ sơ phạm tội. Về mặt luật pháp, các cửa hàng được cầu lưu giữ thông tin của những người mua súng đạn và do đó, họ bao giờ làm việc này. Lúc này đây , thứ vũ khí đó vẫn dẫn tới ngõ cụt.

      “Pulaski?”, Rhyme lớn. “Có được gì với con bọ rồi?”

      “Cái xác - có phải đó là cách ngài gọi nó ? Ý ngài là thế phải ạ?”

      “Đúng, đúng, đúng. Có gì về nó?”

      “Chưa có dữ liệu trùng. Chính xác cái xác côn trùng có ý nghĩa gì?”

      Rhyme trả lời. nhìn vào màn hình và nhìn thấy chàng trai trẻ mới được đoạn tới bộ Bọ cánh nửa trong dữ liệu về côn trùng. ta vẫn còn cả chặng đường dài phía trước. “Tiếp tục làm .”

      Chiếc máy tính của máy sắc ký khí kêu tiếng bíp; nó hoàn thành việc phân tích những đốm trắng, ở màn hình là biểu đồ nhấp nhô, bên dưới là những khối chữ.

      Cooper nghiêng về trước và : “Chúng ta có

      Curcumin[2], demethoxycurcumin[3], bis Demethoxycurcumin[], loại tinh dầu nguyên chất, acid amin, lizin[4] và tryptophan[4], theronine[4] và isoleucine[4], clorua, loạt các loại protein có thể để lại dấu vết và tỷ lệ lớn các tinh bột, dầu, các chất béo trung tính, natri, các glucid phức... Chưa bao giờ thấy hợp chất nào như thế này”.

      [2] chất trong củ nghệ thuộc họ gừng.

      [3] dẫn chất của Curcumin.

      [4] loại acid amin.

      Phương pháp sắc ký khí GC/MS[5] thực phép màu trong việc tách và nhận dạng vật chất, nhưng cần thiết phải tuyệt đến mức cho ta biết những gì thêm vào đó. Rhyme thường có thể suy luận được những vật chất hay gặp, như xăng hay các chất nổ, chỉ dựa vào danh sách các thành phần của nó. Nhưng những thứ này lại mới đối với . gõ đầu mình và bắt đầu xếp loại những chất này vào danh sách mà, là nhà khoa học, biết rằng có thể và thể được tìm thấy cùng nhau cách logic. “Chất curcumin, những thành phần của nó và các gluxít phức ràng là hợp với nhau.”

      [5] Phương pháp phân tích sắc ký khí kết hợp với khối phổ - thường được dùng để định danh các chất chưa biết – giúp nhận biết chất nổ, chất cháy, ma túy,...

      ràng”, câu trả lời với cái nhăn mặt của Amelia Sachs, người vẫn thường trốn lớp học Khoa học ở trường trung học để chơi trò đua xe siêu tốc.

      “Chúng ta gọi nó là Nhóm chất số . Rồi đến acid amin, các protein khác, tinh bột và chất béo tự nhiên - chúng cũng thường được tìm thấy với nhau. Chúng ta gọi nó là Nhóm chất số hai. Clorua..

      “Chất độc, đúng ?” Pulaski hỏi.

      “... và Natrium”, Rhyme lầm bẩm: “Gần như là giống với muối.” cái liếc nhìn sang chàng cảnh sát trẻ. “Chỉ nguy hiểm với những người có huyết áp cao. Hoặc nếu như cậu là con ốc sên.”

      Chàng trai trẻ quay trở lại với kho dữ liệu về côn trùng.

      “Như vậy - với acid amin và tinh bột cộng với dầu - Tôi nghĩ Nhóm chất số hai là loại thực phẩm, đồ ăn mặn. Lên mạng, Mel, và hãy tìm ra xem curcumin có trong cái thứ khỉ gì nào.”

      Cooper làm điều đó. “ đúng. Đó là chất nhuộm có nguồn gốc tự nhiên được sử dụng trong sản xuất thực phẩm. Thường được tìm thấy có liên quanứ nằm trong Nhóm chất số . Các tinh dầu nguyên chất nữa.”

      “Các loại thực phẩm thuộc loại nào?”

      “Có hàng trăm thức ăn loại này.”

      “Cho vài ví dụ xem nào!”

      Cooper bắt đầu đọc tên danh sách dài lê thê. Nhưng Rhyme cắt ngang. “Khoan , bắp rang bơ có trong danh sách ?”

      “Để xem nào... À, đúng thế.”

      Rhyme quay sang và gọi Pulaski: “Cậu có thể dừng lại rồi”.

      “Dừng lại?”

      “Đó phải cái vỏ xác côn trùng. Nó là cái vỏ ngoài của hạt ngô.”

      Muối, dầu và bắp rang. Đáng lẽ phải nghĩ ra nó ngay trước rồi. Chết tiệt.” Tuy nhiên, câu chửi thêm vào lại là tiếng hân hoan. “Viết lên biểu đồ, Thom. Nghi phạm của chúng ta thích ăn đồ ăn vặt.”

      “Tôi có nên viết điều đó lên ?”

      “Tất nhiên là . có thể ghét bắp rang. Có thể làm việc cho công ty bắp rang bơ hoặc rạp chiếu phim. Chỉ cần thêm vào chữ “bắp rang”. Rhyme nhìn vào biểu đồ. “Giờ hãy lần theo những dấu vết khác nào. Những thứ có màu trắng ngà.” Cooper lại chạy thí nghiệm GC/MS lần nữa. Kết quả chỉ ra rằng đó là đường mía và acid uric.

      “Acid đặc”, ta . “Đường mía nguyên chất - có thực phẩm nào khác - và cấu trúc kết tủa như pha lê rất độc đáo. Tôi chưa từng nhìn thấy nó bị nghiền lại như thế này.

      Rhyme cảm thấy hay với thông tin này. “Gửi nó tới những chuyên gia bom mìn của FBI.”

      “Bom?”, Sellito hỏi.

      Rhyme : “Chưa từng đọc sách của tôi à? Hừm”.

      “Chưa”, viên thanh tra to béo đáp lại. “Tôi bận tóm cổ những kẻ xấu xa.”

      “Chịu thua. Nhưng nó có ích nếu ít nhất nhìn vào cái tiêu đề lần này qua lần khác. Như trong quyển ‘Những thiết bị nổ tự tạo’. Đường thường là thành phần trong đó. Trộn lẫn nó với Natrium Nitrate và ta quả bom khói. Với thuốc tím, đó là trái bom nho - nhưng vẫn có thể tạo ra sức phá hoại nếu như nhồi nó vào trong cái ống. Tôi biết chắc bằng cách nào mà mà acid uric xuất , nhưng Cục điều tra liên bang FBI có cơ sở dữ liệu tốt nhất thế giới. Họ s trả lời cho chúng ta.”

      Phòng thí nghiệm của FBI sẵn sàng xử lý những vật chứng phân tích cho các sở cảnh sát bang và địa phương, mà tính phí, điều kiện là các cơ quan cầu đồng ý với hai điều: chấp nhận kết quả của FBI là kết luận cuối cùng và đưa nó cho luật sư của bị cáo thấy. Bởi vì hào phóng của Cục - và cả tài năng nữa – các nhân viên nhận được quá nhiều cầu giúp đỡ; họ thực hơn bảy trăm ngàn phân tích trong năm.

      Ngay cả viên cảnh sát thuộc Sở cảnh sát New York cũng đứng xếp hàng như bao người khác để loại đường này được đưa vào phân tích. Nhưng Lincoln Rhyme tay trong - Fred Dellray, đặc vụ thuộc văn phòng FBI Manhattan, thường làm việc với Rhyme và Sellito đồng thời có tầm ảnh hưởng rất lớn trong Cục. điều quan trọng kém là rằng Rhyme giúp FBI thiết lập hệ thống PERT[6] của họ. Sellito gọi cho Dellray, người làm việc cho lực lượng cảnh sát đặc nhiệm điều tra những báo cáo về các nguy cơ đánh bom khủng bố ở New York. Dellray gọi cho Sở chỉ huy FBI ở Washington D.C., và chỉ trong vài phút, chuyên gia kỹ thuật được triệu tập để giúp đỡ trong chuyên án Nghi phạm 109. Cooper gửi cho những kết quả của các phân tích và nén những bức ảnh kỹ thuật số của các bằng chứng thông qua email an toàn.

      [6] Hệ thống trung tâm xử lí bằng chứng thực.

      quá mười phút trôi qua trước khi điện thoại reo lên.

      “Lệnh, trả lời”, Rhyme mở hệ thống điều khiển nhận dạng giọng của mình lên.

      “Thanh tra Rhyme...”

      “Tôi nghe đây.”

      “Tôi là chuyên gia xét nghiệm Phillips phố 9.” Phố 9 ở Washington, ý ta là như vậy. Sở chỉ huy FBI.

      có gì cho chúng tôi nào?”, Rhyme hỏi cách nhanh chóng.

      “Và cảm ơn vì hồi đáp nhanh như vậy”, Sachs nhanh. Đôi khi phải xen vào bởi bất lịch của .

      vấn đề gì, thưa bà. Ừm, tôi nghĩ rằng nó khá là lạ, những gì mà các ngài gửi xuống. Bởi vậy tôi gửi chúng tới Trung tâm Phân tích chất liệu. Họ thực thủ thuật phân tích. Theo như chất đó, chúng tôi có được kết quả chắc chắn đến 97%.”

      Chất nổ này nguy hiểm tới mức nào? Rhyme tự hỏi. : “Tiếp tục . Nó là cái gì vậy?”.

      “Kẹo bông

      Đó phải là tên phố mà biết. Nhưng có hàng đống loại chất nổ thế hệ mới có tốc độ kích nổ lên tới hơn chín cây số giây, gấp mười lần vận tốc của viên đạn. Liệu đây có phải là trong số đó hay ? hỏi: “Những đặc tính của nó là gì?”.

      Dừng lại chút. “Nó có vị dễ chịu.”

      “Đó là gì?”

      “Ngọt. Và dễ chịu.”

      Rhyme hỏi: “Ý là nó là kẹo bông thực , giống như loại ta có thể mua ở chợ?”.

      “Vâng, vậy ông nghĩ rằng tôi ám chỉ cái gì?”

      cần quan tâm đâu.” Thở dài, nhà tội phạm học hỏi: “Và cái acid uric là đôi giày của khi giẫm phải bãi nước đái của con chó nào đó vỉa hè chăng?”.

      thể trả lời được giẫm vào ở đâu”, chuyên viên xét nghiệm , thể chính xác cao mà Cục vốn nổi tiếng về điều đó. “Nhưng mẫu vật này có phản ứng dương tính dành cho xét nghiệm thử với nước đái chó”.

      cảm ơn người chuyên gia và ngắt máy. Rồi quay lại với đội phá án. “Bắp rang bơ và kẹo bông ở đôi giày của cùng lúc?” Rhyme trầm ngâm. “Nó dây vào ở đâu được?”

      trận bóng?”

      “Các đội New York chưa có trận sân nhà nào gần đây. Tôi nghĩ rằng có thể nghi phạm của chúng ta qua khu gần nhà mà ở đó mới có hội chợ hay hội tiệc ngày hôm qua hoặc gì đó.” hỏi Geneva: “Cháu có vừa vào hội chợ nào ? có thể nào thấy cháu ở đó?”.

      “Cháu á? . Cháu hề tới hội chợ.” Rhyme với Pulaski: “Bởi cậu xong việc với những con bọ, Cảnh sát tuần tra, cậu hãy gọi bất cứ ai cậu cần và tìm từng giấy phép được cấp cho hội chợ, đám tiệc, lễ hội, yến tiệc tôn giáo, bất cứ gì”.

      “Tôi làm việc đó”, chàng cảnh sát trẻ .

      “Chúng ta còn có những gì nữa?” Rhyme hỏi. “Những mảnh vụn từ tấm đựng vi phim trong chiếc máy đọc vi phim, những chỗ mà ta đập bằng vật cứng.”

      “Mẩu vụn?”

      “Những mẩu vernis , tôi đoán vậy, từ bất cứ thứ gì đó mà sử dụng.”

      “Được rồi, kiểm tra chúng thông qua Maryland.” Cục điều tra Liên bang có cơ sở dữ liệu khổng lồ về những mẫu sơn tại và trước đây, được đặt ở trong những cơ sở của Cục ở Maryland. Nơi này hầu như được dùng để khớp các vật chứng bằng màu sơn với những chiếc ôtô. Nhưng cũng có đến hàng trăm mẫu vernis. Sau cuộc gọi khác từ Dellray, Cooper gửi phân tích thành phần cấu thành từ xét nghiệm GC/MS và các dữ liệu khác những mảnh vụn gỗ sơn tới Cục. Chỉ trong vòng vài phút, điện thoại đổ chuông, và chuyên gia xét nghiệm của FBI báo cáo rằng mẫu vernis khớp với sản phẩm được bán riêng cho các nhà sản xuất thiết bị liên quan tới võ thuật, giống như côn và dùi cui. thêm vào thông tin được vui vẻ lắm đó là cái chất màu đó có bất kỳ dấu hiệu của nhà sản xuất nào và được bán ra với số lượng lớn - có nghĩa rằng nó hoàn toàn để lại dấu vết nào.

      “Được rồi, chúng ta có tên hiếp dâm với khẩu côn, những viên đạn khiếp đảm, sợi dây thừng dính máu... gã này quả là cơn ác mộng biết .”

      Tiếng chuông cửa vang lên và chỉ lát sau Thom dẫn vào người phụ nữ khoảng hai mươi tuổi, tay choàng quanh vai .

      “Nhìn xem ai đây nào”, người phụ tá lớn.

      Người phụ nữ mảnh khảnh có mái tóc ngắn màu tím dựng đứng và khuôn mặt xinh xắn. Chiếc quần dài bó sát và cái áo len cho thấy thân hình khỏe mạnh - thực tế, đó là thân hình của diễn viên, Rhyme biết điều đó.

      “Kara”, Rhyme . “ tốt được nhìn thấy . Tôi suy luận rằng chính là chuyên gia mà Sachs gọi đến.”

      “Chào.” Người phụ nữ trẻ ôm choàng Sachs, chào những người khác và vòng tay quanh Rhyme. Sachs giới thiệu với Geneva, nhìn với khuôn mặt e dè.

      Kara (đó là nghệ danh; hé lộ tên của mình) là nghệ sĩ ảo thuật và biểu diễn, người từng giúp Rhyme và Sachs với vai trò cố vấn trong vụ giết người gần đây, trong đó tên giết người sử dụng những kỹ năng của như là ảo thuật gia và nghệ sĩ với bàn tay ma thuật để tới gần nạn nhân, giết họ và biến mất.

      sống ở làng Greenwich, nhưng thăm mẹ tại cơ sở chăm sóc y tế ngay khu ngoại ô thành phố khi Sachs gọi, giải thích. Họ mất vài phút để trò chuyện - Kara kết hợp chuyến với show diễn cho Trung tâm biểu diễn ở Soho, và hẹn hò với diễn viên xiếc nhào lộn - rồi Rhyme : “Chúng tôi cần những ý kiến chuyên môn”.

      “Chắc chắn rồi”, trẻ đáp. “Bất cứ điều gì mà tôi có thể làm được”.

      Sachs giải thích về vụ án. cau mày và thầm “Tôi rất tiếc” với Geneva khi nghe kể về ý đồ đen tối của tên hung thủ.

      bé chỉ nhún vai cái.

      có thứ này”, Cooper , giơ lá bài tarot hình Người treo ngược từ trong gói đựng đồ gây án.

      “Chúng tôi nghĩ rằng có thể cho chúng tôi biết đôi điều về nó.”

      Kara từng giải thích với Rhyme và Sachs rằng thế giới ảo thuật được chia làm hai phe phái, những người chỉ là ảo thuật gia tại các hộp đêm, các show diễn, hề có ý muốn sở hữu những khả năng siêu nhiên và thứ hai là những người quả quyết rằng mình có những quyền năng huyền bí. Kara chẳng có chút kiên nhẫn nào với những người thuộc nhóm thứ hai - chỉ là người biểu diễn đơn thuần mà thôi - nhưng bởi vì kinh nghiệm làm việc trong các cửa hàng đồ ảo thuật của để trả tiền thuê nhà và tiền ăn, biết chút ít về tiên đoán vận mệnh.

      giải thích: “Được rồi, bộ bài tarot là phương pháp bói toán ở Ai Cập cổ đại. bộ bài tarot được chia thành arcana[7] phụ - tương đương với bộ bài năm mươi hai quân - và arcana chính, từ số đến hai mươi mốt. Những lá bài này kiểu như đại diện cho chuyến xuyên suốt cuộc đời. Người treo ngược là lá bài thứ mười hai trong nhóm arcana chính”. lắc lắc đầu. “Nhưng có điều gì đó hợp lý ở đây.”

      [7] Arcana: Từ dùng để chia nhóm các quân bài trong bộ tarot, là số nhiều của từ Aracnum mang nghĩa “Điều huyền bí”.

      “Gì vậy?”, Selitto hỏi, khẽ chà tay lên da.

      “Đó phải là lá bài xấu chút nào. Hãy nhìn vào bức tranh.”

      “Nhìn ta khá bình thản”, Sachs : “Nên nhớ là ta bị treo ngược”.

      “Hình ảnh trong bức tranh dựa hình ảnh về vị thần Odin của Na uy. Ông ta treo ngược trong vòng chín ngày với mong muốn tìm kiếm những kiến thức bên trong tâm trí. Nếu ta bốc được lá bài này trong lần bói, điều đó có nghĩa rằng ta bắt đầu sứ mệnh theo đuổi khai sáng tâm hồn.” hất đầu về phía chiếc máy tính. “ phiền chứ?”

      Cooper vẫy về phía chiếc máy. gõ vào trang tìm kiếm Google và vài giây sau thấy địa chỉ trang web. “Làm sao để tôi in cái này ra nhỉ?”

      Sachs giúp , và lát sau tờ giấy cuộn mình ra khỏi chiếc máy in laze. Cooper đính nó lên chiếc bảng ghi chứng cứ. “Đó là ý nghĩa của lá bài”. .

      Người treo ngược ám chỉ tới việc ai đó bị trừng phạt. diện của nó ám chỉ rằng tìm kiếm về mặt tâm linh đưa tới quyết định, thay đổi về phương hướng. Lá bài thường dự báo khuất phục trước những kinh nghiệm, kết thúc tranh đấu, và chấp nhận nó. Khi lá bài này xuất với bạn, bạn phải lắng nghe chính nội tâm mình, dù cho cái thông điệp ấy có vẻ như trái ngược với logic.

      Kara : “Nó có gì liên quan tới bạo lực hay chết chóc cả. Nó về tạm dừng về mặt ý chí và chờ đợi”. lắc lắc đầu. “Nó phải thứ mà kẻ giết người bỏ lại - nếu như biết tất cả mọi thứ về những quân bài tarot. Nếu như muốn để lại thứ gì có tính chất phá hủy, nó phải là Ngọn tháp hoặc là trong những lá bài từ bộ kiếm trong arcana phụ. Đó mới là những lá bài mang tin xấu.”

      “Vậy chọn lá bài này chỉ bởi vì nhìn nó đáng sợ”, Rhyme kết luận. Và bởi vì lên kế hoạch định thắt cổ Geneva, hoặc là “treo lên”.

      “Đó là những gì mà tôi đoán.”

      “Điều đó có ích lắm đấy”, Rhyme .

      Sachs cũng cảm ơn .

      “Tôi cần phải quay lại thôi, cần phải luyện tập.” Kara bắt tay Geneva. “Mong là mọi việc tốt cho em!”.

      “Cảm ơn chị.”

      Kara về cánh cửa. dừng lại và nhìn Geneva. “Em có thích các show ảo thuật và ảo giác ?”

      “Em hay ra ngoài lắm”, . “Khá là bận ở trường.”

      “Ừm, chị show diễn trong vòng ba tuần nữa. Nếu em quan tâm, mọi thông tin có tấm vé rồi.”

      “Tấm...”

      “Vé.”

      “Em có tấm vé nào cả.”

      “Có, em có.” Kara . “Nó nằm trong ví của em. À, còn bông hoa nữa? Hãy xem đó như là vật may mắn.”

      bước , và họ nghe thấy tiếng cửa sập lại.

      “Chị ấy về điều gì vậy?”, Geneva hỏi, nhìn xuống chiếc túi của mình, nó vẫn đóng.

      Sachs cười. “Mở nó ra xem.

      bé kéo khóa ra và đôi mắt chớp chớp trong ngạc nhiên. Nằm bên trong là tấm vé tới trong những buổi biểu diễn của Kara. Ở bên cạnh là bông hoa violet ép khô. “Làm sao chị ấy làm được nhỉ?” Geneva thầm.

      “Chúng tôi chưa bao giờ có thể bắt được ấy”, Rhyme . “Tất cả những gì chúng tôi biết, ấy quá giỏi”.

      “Ồ, cháu cũng thế.” bé giơ bông hoa tím ép khô lên.

      Đôi mắt của nhà tội phạm học lướt về phía quân bài tarot, mà Cooper đính lên tấm bảng bằng chứng, ở bên cạnh tờ giấy ghi ý nghĩa của nó. “Vậy nó có vẻ như là thứ mà kẻ giết người bỏ lại trong cuộc tấn công mang vẻ huyền bí. Nhưng lại hề biết ý nghĩa của nó là gì. chọn quân bài để gây ấn tượng. Vậy điều đó có nghĩa là...” Nhưng tiếng của dần khi nhìn vào phần còn lại của cái biểu đồ ghi chép bằng chứng. “Chúa ơi”.

      Những người khác nhìn .

      “Gì thế?”, Cooper hỏi.

      “Chúng ta nhầm hết rồi.”

      Sellito chà tay lên mặt nữa, hỏi: “Ý là sao?”.

      “Nhìn vào các dấu tay đồ vật ở trong cái gói đồ. Hẳn xóa hết những dấu tay của mình, đúng chứ?”

      “Đúng”, Cooper xác nhận.

      “Nhưng có những dấu tay”, nhà tội phạm học đưa ra suy luận của mình. “Và nhiều khả năng đó là dấu tay của nhân viên thu ngân, bởi nó trùng khớp với những dấu tay hóa đơn.”

      “Phải”, Sellito nhún vai. “Vậy ?”

      “Vậy xóa sạch dấu tay của mình trước khi đến quầy thanh toán. Trong khi vẫn còn trong cửa hàng.” Im lặng bao trùm lên căn phòng. Phát cáu vì ai hiểu ý của mình, nhà tội phạm học tiếp tục: “Bởi muốn dấu tay của nhân viên thu ngân có ở mọi thứ”.

      Sachs hiểu ra vấn đề. “ chủ ý để cái bọc đồ lại. Để ta có thể thấy nó.”

      Pulaski gật gù. “Nếu , đáng ra phải xóa sạch tất cả mọi thứ sau khi về đến nhà.”

      “Chính xác”, Rhyme với giọng có chút vui sướng. “Tôi nghĩ rằng đó là bằng chứng được dàn dựng. Để chúng ta nghĩ rằng đó là vụ cưỡng hiếp, với ngụ ý huyền bí. Được rồi, được rồi... Hãy bước lùi lại thích thú với ánh nhìn thoải mái của Pulaski vào đôi chân của Rhyme khi sử dụng cách như vậy. “ kẻ tấn công đuổi theo Geneva trong bảo tàng công cộng. phải là bối cảnh cho cuộc tấn công về tình dục. Rồi đánh bé - ừm, là bức tượng ma nơ canh – đủ mạnh để giết chết bé, nếu như phải là làm bé bất tỉnh lúc lâu. Nếu như đó là vụ án vậy cần con dao cắt giấy và cuộn băng dính để làm gì? Vứt lại lá bài tarot mà nghĩ rằng nhìn đáng sợ nhưng nó thực ra chỉ là về kiếm tìm về mặt tâm linh? , nó phải vụ chủ ý cưỡng hiếp chút nào.”

      “Vậy ý đồ của là gì?”, Sellito hỏi.

      “Đó là điều mà chúng ta tốt hơn là phải tìm ra.” Rhyme nghĩ lúc rồi : “Và rằng Tiến sĩ Barry thấy gì hết à?”.

      “Đó là những gì ông ấy với tôi”, Sellito đáp lại.

      Nhưng hung thủ vẫn quay lại và giết ông ấy.” Rhyme cau mày. “Và quý ngài 109 đập vỡ chiếc máy đọc vi phim. kẻ chuyên nghiệp, nhưng cơn thịnh nộ lại chẳng hề chuyên nghiệp chút nào. Nạn nhân của chạy thoát - phí thời gian đập phá đồ vật bởi vì buổi sáng xui xẻo.” Rhyme hỏi bé: “Cháu rằng mình đọc vài tờ báo cũ?”.

      “Tạp chí”, bé chỉnh lại.

      chiếc máy đọc vi phim?”

      “Đúng.”

      “Kia à?” Rhyme hất đầu về phía chiếc túi nhựa lớn đựng vật chứng mà bên trong là cái hộp có những tấm vi phim Sachs mang về từ thư viện. Có hai ổ, số và số ba, trống rỗng.

      Geneva nhìn vào chiếc hộp. bé gật đầu. “Vâng. Đây là những ổ có đựng bài báo cháu đọc, những cái ổ trống ý.”

      “Có phải lấy tấm vi phim ở trong đầu đọc?” Sachs trả lời: “ hề thấy chúng đâu. chắc là lấy rồi”.

      “Và đập nát chiếc máy để chúng ta chú ý rằng tấm vi phim biến mất. Ừm, chuyện này bắt đầu thú vị đây. định làm gì? Động cơ của là cái quái gì nhỉ?”

      Sellito cười. “Tôi nghĩ rằng quan tâm đến động cơ. Chỉ bằng chứng mà thôi.”

      cần phải rút ra khác biệt, Lon, giữa việc sử dụng động cơ để chứng minh vụ án trước tòa - mà đó là suy luận tốt nhất - và sử dụng động cơ để đưa đến bằng chứng, mà nó có tính quyết định việc buộc tội hung thủ: người đàn ông giết đối tác làm ăn bằng khẩu súng giúp ta lần ra ga ra của được nạp đầy những viên đạn mua với tấm hóa đơn chứa đầy những dấu vân tay đó. Trong vụ này, ai quan tâm tới việc giết đối tác vì nghĩ rằng con chó biết bảo làm vậy hay bởi vì cái gã đối tác ấy ngủ với vợ của ? Bằng chứng chỉ vụ án.”

      “Nhưng thế nào nếu có đạn, súng, hóa đơn hay vết bánh xe? Thế câu hỏi hoàn toàn hợp lí là tại sao nạn nhân bị giết? Trả lời câu hỏi này có thể chỉ ta tới bằng chứng giúp buộc tội hung thủ. Xin lỗi vì lên lớp”, chêm vào với giọng có chút thành khẩn nào.

      “Niềm vui biến mất, phải ?”, Thom hỏi. Rhyme làu bàu: “Tôi bỏ qua thứ gì đó ở đây và tôi thích điều đó”.

      Geneva cau mày. Rhyme nhận thấy điều đó và hỏi: “Sao vậy?”.

      “Ừm, cháu nghĩ... Tiến sĩ Barry với cháu rằng có ai đó cũng quan tâm đến chủ đề của tạp chí đó. Người đó muốn đọc nó, nhưng tiến sĩ Barry với người đó rằng ông ấy có thể đợi đến khi cháu đọc xong.”

      “Ông ấy có ai ?”

      .”

      Rhyme chú ý tới điều này. “Vậy hãy đưa ra suy đoán: Người thủ thư với kẻ nào đó rằng cháu quan tâm tới cái tạp chí đó. Nghi phạm muốn lấy trộm nó và muốn giết cháu bởi cháu đọc nó hoặc đọc nó.” Tất nhiên, nhà tội phạm học được thuyết phục với tình huống này lắm. Nhưng trong những điều khiến thành công là bởi sẵn sàng cân nhắc tới cả những giả thuyết ngược lại, đôi khi là trái khoáy. “Và lấy chính cái bài báo cháu đọc, đúng ?”

      bé gật đầu.

      “Nó giống như là biết chính xác phải tìm cái gì... Cái bài báo đó viết về gì vậy?”

      có gì quan trọng cả. Chỉ là trong những ông tổ của cháu thôi. Giáo viên của cháu quan tâm tới chủ đề Nguồn gốc và chúng cháu phải viết về vị tổ tiên nào đó của mình trong quá khứ.”

      “Ông ấy là ai, ông tổ này của cháu?”

      “Đó là cụ tổ gì đó, nô lệ được trả tự do. Cháu đến bảo tàng tuần trước và phát ra có bài báo về ông ấy trong chủ đề của Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Họ có bài này trong thư viện nhưng bác Barry rằng bác ấy có thể lấy tấm vi phim trong kho lưu trữ. Chỉ việc cắm nó vào là xong

      “Câu chuyện về việc gì?” Rhyme chăm chú.

      bé do dự chút rồi nhanh và dứt khoát: “Charles Singleton, tổ tiên của cháu, là nô lệ ở bang Virginia. Ông chủ của ông ấy có những thay đổi trong trái tim và giải phóng tất cả nô lệ của mình. Bởi vì Charles và vợ của ông ở cùng với gia đình rất lâu, dạy dỗ những đứa trẻ trong gia đình đó đọc và viết, ông chủ cho họ trang trại ở tiểu bang New York. Charles là quân nhân trong thời Nội chiến. Sau đó, ông trở về nhà và bị buộc tội ăn trộm khoản tiền từ quỹ giáo dục của người da đen năm 1868. Đó là tất cả những gì được viết đến trong bài báo. Cháu mới chỉ đọc đến phần ông ấy nhảy xuống dòng sông để trốn khỏi cảnh sát khi kẻ tấn công cháu xuất ”.

      Rhyme chú ý thấy rất ràng nhưng giật cục, như thể chúng là những chú chó con lóng ngóng cố chạy trốn. mặt bé có phụ huynh là những người tri thức uyên bác và mặt khác lại làm bạn thân với như Lakeesha, cũng là lẽ tự nhiên khi Gevena nhiễm chứng đa nhân cách về mặt ngôn ngữ.

      “Vậy cháu biết điều gì xảy ra với ông ấy?”, Sachs hỏi.

      Geneva lắc đầu.

      “Tôi nghĩ chúng ta phải giả định rằng hung thủ có để ý tới những gì mà cháu nghiên cứu. Ai biết được chủ đề bài luận của cháu? cho rằng chỉ có giáo viên của cháu biết.”

      , cháu bao giờ với ông ấy chi tiết. Cháu nghĩ rằng mình với bất kỳ ai khác ngoài Lakeesha. Bạn ấy có thể kể việc này với ai đó nhưng cháu tin điều đó lắm. Các bài tập nghiên cứu khiến bạn ý quan tâm nhiều lắm, hiểu cháu gì chứ? Ngay cả bài tập của bạn ý nữa. Tuần trước, cháu đến văn phòng luật ở Harlem để xem họ có bất cứ ghi chép cũ nào về tội phạm trong những năm 1800 nhưng hề nhiều lắm với các luật sư. Tất nhiên, tiến sĩ Barry phải biết rồi.”

      “Và ông ấy hẳn là với người cũng quan tâm tới tờ tạp chí đó nữa”, Rhyme chỉ ra điều đó. “Giờ , để cân nhắc khả năng này, chúng ta hãy giả thiết rằng có điều gì đó trong bài báo mà hung thủ muốn nó được biết đến - có thể là về ông tổ của cháu, có thể là vấn đề gì khác hoàn toàn.” nhìn sang Sachs. “Có ai vẫn còn ở trường ?”

      “Có cảnh sát. ”

      cầu ta thẩm tra các nhân viên. Tìm ra xem liệu ông Barry có đến việc có ai quan tâm tới tờ tạp chí cũ đó . Hãy đưa họ tới bàn làm việc của ông ấy nữa.” Rhyme có ý tưởng khác nữa. “Và tôi muốn danh sáchcuộc gọi trong điện thoại của ông ta trong vòng tháng qua.”

      Sellito lắc lắc đầu. “Linc, ... nghĩ rằng nghe điều này có vẻ kỳ cục à? Chúng ta về, cái gì nhỉ? Những năm 1800 á? Đây phải là vụ án khó nuốt. Nó là vụ thể nhai được.”

      kẻ chuyên nghiệp dàn dựng trường, gần như giết người, và giết người khác - ở ngay trước mặt hàng tá cảnh sát – chỉ để lấy bài báo đó? Nó hề kỳ cục chút nào, Lon. Nó phải có nguyên nhân sâu xa cho tất cả.”

      Viên cảnh sát to lớn nhún vai và gọi tới sở cảnh sát để truyền mệnh lệnh tới viên cảnh sát thực nhiệm vụ tại trường rồi gọi tới bộ phận cấp giấy phép để họ thông qua cầu về các cuộc gọi từ điện thoại trong thư viện và điện thoại cá nhân của Barry.

      Rhyme nhìn bé mảnh khảnh và quyết định rằng mình còn lựa chọn nào khác, phải đưa ra tin hay lắm. “Cháu biết rằng tất cả những điều này có thể là gì, đúng ?”

      Dừng lại chút, mặc dù có thể thấy trong ánh mắt đầy băn khoăn của Sachs về phía Geneva rằng ít nhất người nữ cảnh sát biết chính xác ý là gì. Và chính điều đó với bé: “Lincoln rằng có lẽ vẫn còn săn lùng cháu”.

      “Đúng là kẻ kỳ dị mà.” Geneva , lắc lắc đầu của mình.

      Dừng lại chút, Rhyme trả lời cách nghiêm nghị: “Chú sợ rằng điều này hề kỳ lạ chút nào”.

      Ngồi trong quầy Internet tại cửa hàng photocopy nằm ở trung tâm Manhattan, Thompson Boyd đọc tin trang web của đài truyền hình địa phương, thông tin đó được cập nhật từng phút.

      Tiêu đề của bản tin mà đọc là: NHÂN VIÊN BẢO TÀNG BỊ GIẾT; NHÂN CHỨNG TRONG VỤ TẤN CÔNG NHẰM VÀO HỌC SINH.

      Huýt sáo, gần như là ra tiếng, quan sát bức tranh kèm, trong đó là hình ảnh người quản lý thư viện mà vừa mới giết chuyện với cảnh sát mặc thường phục con phố ở trước bảo tàng. Dòng chú thích viết, Tiến sĩ Donald Barry chuyện với cảnh sát ngay trước khi bị bắn chết.

      Bởi vì tuổi của mình, Geneva Settle được nêu ra danh tính, mặc dù bé được miêu tả là học sinh trung học sống ở Harlem. Thompson rất biết ơn với thông tin này; biết bé sống ở quận nào của thành phố. cắm điện thoại của mình vào cổng USB chiếc m tính và chuyển tải bức ảnh về bé mà chụp sang máy tính. Rồi up nó lên tài khoản email vô danh.

      tắt máy, trả tiền - tất nhiên là bằng tiền mặt - và lững thững phố Broadway, nằm ở trung tâm khu tài chính. mua cốc cà phê từ quầy hàng rong, uống hết nửa, rồi lia tấm vi phim mà lấy ra vào chiếc cốc, đặt lại chiếc nắp và thả nó xuống cái thùng rác.

      dừng lại ở trạm điện thoại, nhìn quanh và thấy ai khác chú ý đến mình. quay số. có tin nhắn nào trong hộp thư thoại, chỉ có tiếng bíp. “Là tôi. Gặp phải vấn đề với trường hợp của Settle. Tôi cần tìm ra xem con bé học ở trường nào hoặc nó sống ở đâu. Nó là học sinh trung học ở Harlem. Đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi gửi bức ảnh con bé tới tài khoản mail của ... À, còn điều nữa - nếu như có cơ hội tự mình xử lý con bé, khoản năm mươi ngàn cho . Gọi điện cho tôi khi nhận được tin nhắn này. Chúng ta bàn bạc.” Thompson đọc số của chiếc điện thoại mà vừa sử dụng để gọi rồi dập máy. quay trở lại, khoanh tay trước ngực và chờ đợi, huýt sáo nhè . mới chỉ tới nhịp thứ ba bài hát của Stevie Wonder Em là ánh sáng của đời trước khi chuông điện thoại reo.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 7

      Nhà tội phạm học nhìn Sellito: “Roland đâu rồi?”.

      “Bell? Cậu ấy đưa người vào chương trình bảo vệ nhân chứng ở khu phía bắc của bang nhưng cậu ấy hẳn phải quay lại lúc này. Có nghĩ rằng chúng ta nên gọi cho cậu ấy ?”

      “Ừ.” Rhyme .

      Sellito gọi tới số điện thoại của viên cảnh sát và qua cuộc hội thoại, Rhyme suy ra rằng Bell rời Sở chỉ huy Cảnh sát New York ngay lập tức và hướng về phía khu bắc thành phố.

      Rhyme để ý thấy cái cau mày của Geneva. “Thanh tra Bell bảo vệ cháu. Giống như vệ sĩ. Cho đến khi chúng ta giải quyết được tất cả mọi việc... Giờ , cháu có biết Charles bị buộc tội ăn trộm cái gì ?”

      “Bài báo đó là vàng hoặc tiền hoặc gì đó.”

      “Vàng bị mất. À, thú vị đấy. Lòng tham - trong những động lực của chúng ta.”

      “Liệu bác của cháu có biết gì về việc này ?”, Sachs hỏi.

      “ cháu á? Ồ, , bác ấy là trai của mẹ cháu. Cụ tổ Charles là bên bố cháu. Và bố chỉ biết chút thôi. Bà - em của ông bà nội cháu đưa cho cháu xem vài bức thư của cụ tổ Charles. Nhưng bà ấy cũng chẳng biết gì nhiều hơn về cụ tổ.”

      “Chúng ở đâu? Những bức thư ấy?”, Rhyme hỏi.

      “Cháu có tờ đây.” thò tay vào trong túi và lôi nó ra. “Còn những lá thư khác ở nhà. Bà của cháu nghĩ rằng có thể bà ấy có vài hộp gì đó đựng đồ của cụ tổ Charles nhưng bà ấy chắc chắn nó ở đâu nữa.” Geneva im lặng khi đôi lông mày khuôn mặt tròn của bé nhíu lại và với Sachs: “Có điều? Nếu như nó có thể có ích?”.

      .” Sachs trả lời.

      “Cháu nhớ từ trong các bức thư. Cụ tổ có về bí mật mà ông ấy biết.”

      “Bí mật?”, Sachs hỏi.

      “Vâng. Ông ấy mình cảm thấy dằn vặt về việc ra . Nhưng có thể thảm họa, bi kịch, nếu như ông ra. điều gì đó kiểu như thế.”

      “Có thể đó là vụ trộm mà ông ấy đến.” Rhyme .

      Geneva khẳng định ràng. “Cháu nghĩ ông ấy làm việc đó. Cháu nghĩ rằng ông ấy bị mưu hại.”

      “Tại sao?”, Rhyme hỏi.

      cái nhún vai. “Hãy đọc bức thư.” bé đưa nó cho Rhyme rồi giật mình vì nhớ ra bị liệt và quay sang đưa cho Mel Cooper, biện giải cho câu hớ của mình.

      Người chuyên viên đặt nó chiếc đầu đọc quang học và lát sau những dòng chữ viết tay đẹp như in từ thế kỷ XIX chạy dọc qua màn hình phẳng của chiếc máy tính thế kỷ XXI.

      Bà Violet Singleton

      trú tại địa chỉ của ông bà William Dodd

      Đường Essex Farm,

      Harrisburg, Pennsylvania

      Ngày 14 tháng 7 năm 1863

      Violet thương của ,

      Có lẽ là em nhận được tin dữ về việc khủng khiếp ở New York vừa qua. Giờ đây có thể thông bá việc yên ổn, nhưng cái giá phải trả quá lớn.

      Khí hậu nơi này trở nên nóng bỏng, với hàng trăm ngàn những người dân kém may mắn vẫn quay cuồng bời cơn khủng hoảng kinh tế vài năm trước - Ngài Greeley’s Tribune cho biết rằng việc đầu cơ tích trữ thị trường chứng khoán quá đáng và những vụ cho vay thận trọng dẫn đến nợ xấu tạo nên “những bong bóng nổ" trong thị trường chứng khoán thế giới.

      Trong cái khí ấy, chỉ cần tia lửa cũng đủ để làm bùng lên cuộc nổi loạn gần đây: Chế độ quân dịch ép buộc những người đàn ông vào Quân đội Liên bang, điều được rất nhiều người coi là cần thiết trong cuộc chiến đấu chống lại Quân phiến loạn, do sức mạnh và bền bỉ đáng kinh ngạc của kẻ địch. Tuy vậy, chống đối với chế độ quân dịch vẫn trở nên quyết liệt và đầy chết chóc hơn, hơn bất cứ thứ gì được dự báo. Và chúng ta, những người da màu, những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người ủng hộ Đảng cộng hòa, trở thành mục tiêu thù địch của họ, cũng giống như người đứng đầu chế độ quân dịch và những người lính của ông ta, nếu muốn là hơn.

      Quân nổi loạn, phần lớn là người Ireland, càn quét khắp thành phố, tấn công bất cứ người da màu nào mà chúng thấy, cướp phá những ngôi nhà và công xưởng. vô tình ở trong công ty của hai giáo viên và giám đốc của Trại mồ côi dành cho trẻ em da màu khi nhóm du thủ du thực tấn công tòa nhà và nhấn chìm nó trong biển lửa! Tại sao, có hơn hai trăm đứa trẻ ở bên trong đó! Nhờ ơn của Chúa, bọn mới có thể đưa những đứa trẻ bé tới sở cảnh sát gần đó an toàn, nhưng quân nổi loạn đáng lẽ giết tất cả bọn nếu như chúng muốn làm.

      Cuộc chiến đấu tiếp tục kéo dài cả ngày. Chiều tối hôm đó, buổi hành hình những người da đen bắt đầu. Sau khi người đàn ông da đen bị treo cổ, xác của ông ấy bị ném vào ngọn lửa, còn những kẻ nổi loạn nhảy múa xung quanh trong buổi liên hoan chè chén say sưa. vô cùng kinh hãi!

      chạy trốn về trang trại của chúng ta ở phía bắc và từ nạy về sau tập trung hoàn toàn vào nhiệm vụ giáo dục lũ trẻ trong ngôi trường của bọn , chăm sóc những vườn cây và hơn nữa, đẩy mạnh nghiệp giải phóng người của chúng ta.

      Vợ thương nhất của , hậu quả của tất cả những kiện khủng khiếp này là cuộc sống với dường như trở nên mong manh và phù du, nếu em sẵn sàng với cuộc hành trình này, khao khát của đồng hành của em và con trai chúng ta. gửi kèm ở đây vé cho cả hai và mười đô la để trang trải dọc đường. gặp hai mẹ con tàu ở New Jersey và chúng ta lên chiếc thuyền tới trang trại của mình. Em có thể giúp đỡ trong việc dỗ, còn Joshua có thể tiếp tục được học hành đồng thời giúp đỡ chúng ta và James ở xưởng cũng như cửa hàng rượu táo. Nếu như có ai đó hỏi em về công việc và nơi em định đến, hãy trả lời như : Chỉ rằng chúng ta là những người chăm sóc và trông coi trang trại cho ông chủ Trilling vắng nhà. Nhìn vào thù hận trong đôi mắt của những kẻ nổi loạn, thấy có nơi đâu an toàn, ngay cả tại nơi mà chúng ta ở; đốt phá, trộm cắp và cướp bóc vẫn có khả năng xảy ra, liệu nó có cần phải biết rằng chủ nhân của trang trại đó là những người da đen.

      trở về từ nơi bị giam cầm, nơi được coi như chỉ có ba phần năm của con người. hy vọng rằng di chuyển lên phía bắc có thể thay đổi điều này. Nhưng, than ôi, điều đó đúng như vậy. Các thảm kịch trong những ngày qua với rằng em, và những người như chúng ta chưa được đối xử như là những người đàn ông và những người phụ nữ thực , do đó cuộc chiến của chúng ta để giành lấy trọn vẹn trong đôi mắt của những người khác cần phải được tiếp tục với lòng quyết tâm hề mệt mỏi.

      Gửi lời hỏi thăm thân ái tới chị của em và William, tất nhiên cả các cháu nhà chị ấy. với Joshua rằng tự hào với những thành tích của con về môn Địa lý.

      cầu nguyện cho cái ngày đó đến sớm, ngày được gặp em và con trai của chúng ta lần nữa.

      em,

      Charles

      Geneva lấy bức thư khỏi chiếc đầu đọc quang học. bé nhìn lên và : “Những cuộc nổi loạn chống quân dịch trong thời kỳ Nội chiến năm 1863. hỗn loạn tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ”.

      “Ông ấy chẳng gì đến bí mật của mình cả.” Rhyme chỉ ra.

      “Nó nằm trong số những bức thư cháu có ở nhà. Cháu đưa cho mọi người xem cái này để mọi người biết rằng ông ấy phải là tên trộm.”

      Rhyme cau mày. “Nhưng vụ trộm là việc xảy ra năm năm sau khi ông ấy viết bức thư này? Tại sao cháu lại nghĩ rằng nó có nghĩa là ông ấy hề phạm tội?”

      “Quan điểm của cháu”, Geneva : “là ông ấy có vẻ gì giống với tên trộm, đúng ạ? Người có ý định trộm cắp phải là người được tin tưởng giáo dục cho những cựu nô lệ”.

      Rhyme cách đơn giản: “Đó phải là minh

      “Cháu nghĩ rằng có.” bé nhìn qua bức thư lần nữa, rồi vuốt nó phẳng phiu.

      “Cái ‘ba phần năm con người’ là gì?”, Sellito hỏi.

      Rhyme nhớ lại vài điều từ trong lịch sử nước Mỹ. Nhưng ngoại trừ những thông tin có liên quan đến công việc của nhà tội phạm học, bỏ qua nó như lộn xộn vô nghĩa. lắc lắc đầu.

      Geneva giải thích: “Trước Nội Chiến, vì mục đích giành ghế đại biểu Quốc hội, nô lệ chỉ được tính như là ba phần năm của con người. Đó phải là mưu của Liên bang xấu xa như ta nghĩ; miền Bắc đưa ra quy tắc đó. Họ hề muốn nô lệ được coi trọng chút nào, bởi điều đó có thể mang lại cho miền Nam nhiều đại biểu hơn trong Quốc hội và Đại cử tri đoàn Hoa Kỳ. Miền Nam muốn họ được coi trọng như con người đầy đủ. Quy ước ba phần năm là thỏa hiệp”.

      “Họ được phép làm đại biểu,” Thom chỉ ra: “nhưng vẫn thể bầu cử”.

      “Ồ, tất nhiên là rồi”, Geneva .

      “Cũng kiểu như phụ nữ thôi”, Sachs đế thêm vào.

      Lịch sử xã hội của nước Mỹ hề thú vị với Rhyme lúc này. “Tôi muốn xem những lá thư khác. Và muốn tìm bản khác của cái tạp chí đó, Tuần báo Minh họa dành cho người da màu, ấn bản nào?”

      “Ngày 23 tháng 7 năm 1868”, Geneva . “Nhưng cháu rất khó khăn mới tìm ra nó.”

      “Tôi làm hết sức”, Mel Cooper . Rhyme nghe thấy tiếng lách cách của những ngón tay bàn phím.

      Geneva nhìn vào chiếc đồng hồ chạy pin hiệu Swatch của mình. “Cháu thực ...”

      “Hey, chào mọi người”, tiếng người đàn ông từ phía cửa vào. Với chiếc áo khoác thể thao màu nâu bằng vải tuýt, áo sơ mi và quần bò xanh, thanh tra Roland Bell bước vào phòng thí nghiệm, vốn là sĩ quan cảnh sát ở quê hương Bắc Carolina, Bell chuyển tới New York vài năm trước vì những lý do cá nhân. có mái tóc màu nâu, đôi mắt dịu dàng và vô tư lự đến nỗi đôi khi những bạn đồng nghiệp thành thị của cảm thấy mất kiên nhẫn khi làm việc với , mặc dù Rhyme ngờ vực cái lý do mà đôi khi di chuyển chậm chạp phải do kế thừa nét đặc trưng của người miền Nam mà là bản chất tỉ mỉ của , có lẽ được tôi luyện bởi tầm quan trọng của công việc ở trong NYPD. Công việc của Bell là bảo vệ những nhân chứng và những người có nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân. Đội của phải là đơn vị chính thứcNYPD nhưng nó vẫn có cái tên: ‘SWAT’ Mặc dù đây phải là từ viết tắt của những vũ khí truyền thống hay đơn vị đặc nhiệm; nó là rút gọn của “Đội bảo vệ nhân chứng”[1]

      [1] Saving Witness’s Ass Team.

      “Roland, đây là Geneva Settle.”

      “Xin chào, bé”, dài giọng và bắt tay bé. “Cháu cần người bảo vệ”, cách cương quyết.

      “Cháu đừng lo - Chú can dự vào công việc của cháu đâu”, Bell . “Cháu có lời hứa danh dự của chú về điều đó. Chú để cháu nhìn thấy giống như là dấu chữ V trong bãi cỏ cao”. liếc nhìn Sellito. “Nào, giờ chúng ta phải đối mặt với thứ gì nào?”

      Viên thanh tra với thân hình chắc khỏe điểm qua những chi tiết quan trọng của vụ án và những gì họ biết cho đến lúc này. Bell hề cau mày hay lắc đầu nhưng Rhyme có thể thấy được đôi mắt của nín lặng, bộc lộ mối quan ngại. Nhưng khi Sellito xong việc, Bell lại diện khuôn mặt đặc trưng bình dị của miền Nam và hỏi Geneva đống câu hỏi về bé và gia đình để có được biện pháp tạo dựng bảo vệ. bé trả lời cách ngập ngừng, như thể bị ép buộc như vậy.

      Cuối cùng Bell cũng xong việc và Geneva cách thiếu kiên nhẫn: “Thực cháu cần phải rồi. Ai đó có thể làm ơn đưa cháu về nhà ạ? Cháu lấy những bức thư của cụ tổ cho mọi người. Nhưng sau đó cháu phải đến trường ạ”.

      “Thanh tra Bell đưa cháu về nhà”, Rhyme rồi kèm theo đó nụ cười: “nhưng còn ở trường, chú nghĩ chúng ta nhất trí rằng cháu ngày nghỉ. Hãy đồng ý với sắp xếp này”.

      ”, cách cương quyết. “Cháu hề đồng ý với điều đó. Chú rằng ‘Hãy dẹp những câu hỏi sang bên và sau đó chúng ta xem xét.’”

      có nhiều người trích nguyên những lời của Lincoln Rhyme lại với . cằn nhằn: “Dù có nữa, chú nghĩ rằng cháu phải ở nhà, bởi chúng ta biết hung thủ có thể vẫn còn săn đuổi cháu. Nó an toàn”.

      “Thưa ông Rhyme, cháu cần phải làm những bài kiểm tra đó. Các bài kiểm tra lại ở trường cháu, chúng đôi khi được lên kế hoạch, sổ kiểm tra thất lạc, cháu được ghi điểm.” Geneva giận dữ nắm chặt con đỉa trống rỗng chiếc quần bò của mình. gầy gò. tự hỏi liệu có phải bố mẹ bé quá khắt khe về chuyện ăn uống, ép ăn kiêng chỉ với món yến mạch và đậu phụ. Có vẻ như là có nhiều vị giáo sư nghiêng theo xu hướng này.

      “Tôi gọi đến trường ngay bây giờ”, Sachs . “Chúng tôi với họ rằng có vấn đề xảy ra và...”

      “Cháu nghĩ mình thực muốn học”, Geneva sụt sịt , đôi mắt nhìn Rhyme cách kiên quyết. “Bây giờ.”

      “Hãy ở nhà nghỉ hoặc hai ngày cho đến khi chúng ta tìm ra được nhiều thông tin hơn. Hoặc”, Rhyme chêm vào nụ cười: “cho đến khi chúng ta gông cổ được ”.

      Nụ cười và câu ấy hề có ý nhấn mạnh, để thuyết phục bé bằng cách của giới trẻ. Nhưng ngay lập tức hối tiếc vì những lời . hề với bé – chỉ hoàn toàn vì còn quá trẻ. Nó giống như những người đến gặp làm ầm ĩ lên cách thái quá và bỡn cợt bởi người tàn tật. Họ làm phải tức điên lên.

      Giống như bực mình với lúc này.

      : “Nếu chú phiền, cháu rất biết ơn nếu ai đó cho cháu nhờ xe. Hoặc là cháu tàu điện. Nhưng cháu phải bây giờ, nếu như chú muốn những lá thư đó”.

      Bực mình vì bị lôi vào cuộc chiến này với bé, Rhyme với quả quyết: “Chú phải ”.

      “Cháu có thể mượn điện thoại của chú được ?”

      “Sao lại thế?”, hỏi.

      “Có người cháu muốn gọi.”

      người?”

      “Đó là người luật sư mà cháu đến. Wesley Goades. Ông ta từng làm việc cho công ty bảo hiểm lớn nhất nước, và tại ông ấy điều hành văn phòng luật ở Harlem.”

      “Và cháu muốn gọi cho ông ấy?”, Sellito hỏi. “Tại sao?”

      “Bởi vì cháu muốn hỏi xem liệu các chú có thể cho cháu đến trường ?”

      Rhyme chế giễu. “Điều đó là tốt cho chính bản thân cháu.”

      “Nó là quyền do cháu quyết định nữa, đúng ?”

      “Bố mẹ cháu, hoặc bác cháu.”

      “Họ phải là người phải thi tốt nghiệp hết lớp mười khi mùa xuân tới.”

      Sachs cười khoái trí. Rhyme bắn tia nhìnẽo về phía .

      “Chỉ trong hoặc hai ngày thôi bé.” Bell .

      Geneva lờ ta và tiếp tục: “Ông Goades giúp John David Colson được trả tự do từ Sing Sing[2] sau khi ông ấy nằm trong tù mười năm vì vụ án mạng mà ông ấy hề thực . Và ông ta kiện New York, ý cháu là, tiểu bang ý, hai hay ba lần rồi. ông ấy thắng mọi vụ kiện. Và ông ấy cũng vừa thực vụ kiện ở Tòa án Tối cao. về quyền lợi của những người vô gia cư”.

      [2] Nhà tù của tiểu bang New York được xây dựng năm 1925 bởi chính những tù nhân, đây là nơi có luật lệ rất cứng rắn và chuyên giam giữ những kẻ tội phạm đặc biệt nguy hiểm.

      “Ông ấy cũng thắng nốt vụ ấy chứ?”, Rhyme hỏi cách nhăn nhó.

      “Ông ấy thường thắng. Thực ra, cháu nghĩ rằng ông ấy từng thua.”

      là điên rồ”, Sellito lẩm bẩm, đưa tay chùi cách vô thức chấm máu chiếc áo khoác của mình. càu nhàu: “Cháu là đứa trẻ...”

      điều nên .

      Geneva nhìn chằm chằm và ngắt lời: “Các chú cho cháu gọi điện đúng ? Có phải tù nhân phải thế ạ?”.

      Viên cảnh sát to lớn thở hắt ra. ra hiệu chỉ về chiếc điện thoại.

      về phía nó, nhìn vào sổ địa chỉ của mình và nhấn dòng số.

      “Wesley Goades”, Rhyme .

      Geneva cốc đầu mình khi cuộc gọi được kết nối. với Rhyme: “Ông ấy Havard rồi. Ôi, và ông ấy kiện cả quân đội nữa. Quyền lợi của gay, cháu nghĩ vậy”.

      vào điện thoại, “Ông Goades, làm ơn... có thể báo với ông ấy là Geneva Settle gọi ? Cháu là nhân chứng vụ án, và bị giữ bởi cảnh sát.” đưa địa chỉ của Rhyme rồi thêm vào: “Nó trái với mong muốn của cháu và...”.

      Rhyme nhìn Sellito, tròn xoe mắt và : “Được rồi”.

      “Khoan ”, Geneva vào trong điện thoại. Rồi quay sang viên cảnh sát to béo, to cao hơn rất nhiều. “Cháu có thể đến trường chứ?”

      “Để kiểm tra. Chỉ có thế thôi.”

      “Có hai bài.”

      “Được rồi. Cả hai cái bài kiểm tra quỷ quái của cháu”, Sellito lẩm bẩm. với Bell: “Ở bên cạnh bé”.

      “Giống như chú chó Flat-coated Retriever, được rồi.”

      Geneva vào điện thoại: “ với ông Goades phải bận tâm nữa. Chúng cháu giải quyết vấn đề này rồi”. bé dập máy.

      Rhyme : “Nhưng trước tiên chú muốn những bức thư đó ”.

      “Nhất trí.” bé quăng chiếc túi sách qua vai mình.

      “Cậu”, Sellito quát lớn với Pulaski: “ với họ”.

      “Vâng, thưa ngài.”

      Sau khi Bell, Geneva và chàng cảnh sát trẻ khỏi, Sachs nhìn về phía cánh cửa và cười. “Quả là nóng nảy.”

      “Wesley Goades.” Rhyme mỉm cười. “ nghĩ rằng bịa ra người đó. Hẳn là nó gọi cho số của tổng đài để hỏi giờ và nhiệt độ.”

      hất đầu về phía tấm bảng bằng chứng. “Hãy tiếp tục với những thứ này. Mel, kiểm tra lại chi tiết về các hội chợ đường phố. Và tôi muốn các số liệu và tổng hợp dữ liệu về những gì chúng ta gửi tới VICAP và NCIC cho đến lúc này. Tôi muốn tất cả các thư viện và trường học trong thành phố được điều tra để xem liệu cái gã chuyện với Barry này có gọi cho họ và cũng hỏi thông tin về Singleton hoặc cái tạp chí Tuần báo Minh họa dành cho người da màu đó. À, và tìm ra ai làm ra những chiếc túi có hình mặt cười.”

      “Mệnh lệnh tối cao”, Cooper .

      “Này, đoán được ? Cuộc đời đôi khi là mệnh lệnh tối cao đấy. Vậy hãy gửi mẫu máu chiếc dây thừng tới CODIS.”

      “Tôi tưởng rằng cho nó là vụ hiếp dâm.” CODIS là cơ sở dữ liệu chứa đựng mẫu DNA của những kẻ tấn công tình dục được lưu hồ sơ.

      “Những từ có nghĩa nhất là ‘Tôi tưởng’, Mel. Chứ phải là ‘Tôi biết với chắc chắn’.”

      “Quá nhiều đối với tâm trạng của ngài”, Thom .

      điều khác nữa...” lái chiếc xe lăn lại gần và kiểm tra những bức ảnh chụp xác của thủ thư và sơ đồ của trường vụ bắn súng Sachs vẽ ra. “Người phụ nữ đứng cách nạn nhân bao xa?”, Rhyme hỏi Sellito.

      “ cơ? Người đứng gần ư? Tôi ước chừng khoảng năm mét.”

      “Ai trúng đạn trước?”

      “Người phụ nữ.”

      “Và những vết bắn tập trung khá gần nhau? Loạt đạn trúng người thủ thư ấy?”

      “Rất sát. Chỉ cách nhau vài centimet. biết bắn súng đúng cách.”

      Rhyme lẩm bẩm: “Đó phải là bắn trượt, người phụ nữ. chủ ý bắn vào ấy”.

      “Gì cơ?”

      Nhà tội phạm học hỏi tay súng tốt nhất trong phòng: “Sachs, khi em bắn loạt nhanh gọn, phát nào là phát chắc chắn chính xác nhất?”.

      “Phát đầu tiên. Khi đó ta bị ảnh hưởng bởi việc súng giật từ viên đạn trước.”

      Rhyme : “ có chủ ý làm bị thương ấy - nhắm vào mạch máu chính - để thu hút càng nhiều cảnh sát càng tốt và tạo ra cơ hội cho trốn thoát”.

      Cooper lầm bầm: “Chúa ơi”.

      với Bell. Cả Bo Haumann và người của ta tại đội Phản ứng nhanh. Hãy cho họ biết về kẻ tội phạm mà ta theo đuổi - kẻ mà còn khoái trá hơn khi nhắm vào những người vô tội.”

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 8

      Người đàn ông to lớn bước xuống vỉa hè ở Harlem, nghĩ tới cuộc chuyện điện thoại cách đây tiếng đồng hồ. Nó làm vui, làm lo sợ, và khiến thận trọng hơn. Nhưng hầu như chỉ nghĩ rằng: Cuối cùng , mọi việc khả quan hơn.

      À, xứng đáng có khích lệ, chỉ cần thứ gì đó để giúp vượt qua tất cả.

      Jax may mắn lắm trong thời gian qua.

      Chắc chắn là vậy rồi, rất vui sướng khi thoát ra khỏi trại giam. Nhưng hai tháng từ khi được phóng thích khỏi nhà tù thực là quãng thời gian hết sức khó khăn: độc và có nổi dù chỉ chút xíu vận may rơi vào vạt áo. Nhưng ngày hôm nay khác. Cú điện thoại về Geneva có thể thay đổi cuộc đời mãi mãi.

      bộ dọc khu phía của Đại lộ 5, nhằm thẳng hướng Công viên St. Ambrose, với điếu thuốc mép, tận hưởng cái khí mát lạnh của mùa thu, tận hưởng ánh mặt trời. Tận hưởng rằng mọi người xung quanh đây đều giữ khoảng cách với . vài là do vẻ mặt lạnh tanh cười của . vài là vì những hình xăm tù. Và cả dáng khập khiễng của nữa. (Mặc dù là cái chân khập khiễng chẳng có vẻ gì là của tay chơi cứng đầu, cũng chẳng phải của tay gangster kiểu biết-nể- tao-chưa, đó lại là cái dáng khập khiễng kiểu “Chết cha, tao bị bắn trúng rồi”. Nhưng chẳng ai ở đây biết điều đó cả.)

      Jax mặc kiểu quần áo vẫn thường mặc: quần bò và chiếc áo khoác dã chiến tả tơi và đôi giày da nặng trịch gần như cũ mòn cả đế. Trong túi áo đựng cục tiền khá dày, hầu hết là tờ hai mươi đô, trong đó có cả con dao găm, bao thuốc lá và gắn với cái móc treo là chiếc chìa khóa căn hộ của phố 136. Đó là căn hộ hai phòng với chiếc giường, cái bàn, và hai cái ghế, máy vi tính qua sử dụng và bộ xoong chảo mua hai tặng từ cửa hàng tạp hóa. Nó chỉ đơn giản là chỗ chui ra chui vào hơn là chỗ ở tại của ở Sở quản giáo tiểu bang New York.

      khựng lại và nhìn quanh.

      Kẻ đó kia rồi, gã đàn ông gầy giơ xương với làn da nâu bụi - tầm từ ba mươi lăm đến sáu mươi tuổi. Gã dựa vào hàng rào lung lay được nối với nhau bằng sợi xích quanh công viên nằm ở trung tâm Harlem. Ánh mặt trời phản chiếu lóe lên từ miệng chai ẩm ướt chứa mạch nha hoặc rượu chìm nửa bên dưới lùm cỏ úa vàng phía sau gã.

      “Gì vậy?”, Jax hỏi, rồi châm điếu thuốc khác khi sải bước rồi dừng lại.

      cái chớp mắt từ gã đàn ông gầy gò. Gã nhìn vào gói thuốc mà Jax đưa ra mời. Gã dám chắc đây là vì cái gì nhưng vẫn rút điếu thuốc. Và nhét nó vào túi áo.

      Jax tiếp tục: “Ralph phải ?”.

      là ai?”

      “Bạn của DeLisle Marshall. Cùng nhà S với .”

      “Lisle?” Gã gầy gò thoải mái hơn. chút. nhìn ra chỗ khác khỏi gã đàn ông to lớn có thể bẻ làm đôi và nhìn ngó xung quanh từ cái chỗ ngồi ngất ngưởng hàng rào. “Lisle ra rồi?”

      Jax cười. “Lisle nhồi bốn viên đạn vào đầu thằng khốn nạn nào đó. Đợi đến khi có người da đen ở Nhà Trắng được ra ngoài.

      “Họ có luật cam kết thả sớm.” Ralph , phẫn nộ thể che giấu việc thử Jax. “Vậy Lisle gì?”

      “Chuyển lời của ta. Bảo tôi kiếm . ta giúp cho tôi.”

      giúp cho , giúp cho . Được rồi, tôi biết, hình xăm của nhìn thế nào?” Ralph gầy guộc thó với chòm râu dê mảnh lấy lại được cái vẻ khệnh khạng nửa mùa của mình. Lại thử Jax.

      “Cái nào?” Jax đáp lại. “Bông hồng hay lưỡi dao? Và tôi đoán biết là ta có cái khác ở gần cái của quý. Nhưng tôi chả bao giờ ở gần đến mức có thể thấy nó cả.”

      Ralph gật đầu, cười. “Tên là gì?”

      “Jackson. Alonzo Jackson. Nhưng hãy gọi tôi là Jax.” Biệt danh thường có tiếng tăm nhất định cùng nó. tự hỏi liệu Ralph từng nghe tới tên của chưa. Nhưng ràng là chưa - chính xác là đôi lông mày hề nhướn lên. Điều này khiến Jax như bị chọc giận. “ muốn dùng DeLisle kiểm tra tôi, cứ làm , chỉ đừng nhắc đến tên tôi qua điện thoại, hiểu tôi gì chứ? Hãy chỉ với ta rằng vua Graffiti tạt qua và tán phét với thế thôi.”

      “Vua Graffiti.” Ralph lặp lại, ràng băn khoăn nó ám chỉ điều gì. Liệu đó có phải là Jax phết máu của những thằng khốn nạn ra xung quanh như xịt sơn? “Được rồi, có thể tôi kiểm tra. Còn tùy. Vậy ra tù?”

      “Tôi ra rồi.”

      “Vậy vào vì lý do gì?”

      “Cướp tài sản và có vũ khí.” Rồi nhấn mạnh với giọng trầm hơn: “Họ muốn gán cho tôi bản án hai mươi lăm năm. Nó được rút xuống còn là tội hành hung mà thôi”. Bản án hai mươi lăm năm ám chi đến điều khoản trong Bộ luật hình về tội giết người, phần 125.25.

      “Và giờ lại có tự do. tuyệt.”

      Jax nghĩ rằng điều này buồn cười - Ralph đáng thương e sợ khi Jax tới cùng với điếu thuốc và hỏi “gì vậy”. Nhưng rồi lại bắt đầu thấy thoải mái khi biết rằng Jax ngồi tù vì cướp có vũ trang, tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và có hành vi giết người, cùng với xịt máu như sơn.

      Harlem. Bạn chỉ nó thôi sao?

      Ở trong tù, chỉ ngay trước khi được thả, nhờ đến giúp đỡ của DeLisle Marshall và người em đó với là hãy gặp và làm việc với Ralph. Lisle gi thích tại sao cái gã ăn bám loắt choắt này là kẻ cần phải biết. “ lang thang khắp nơi. Như kiểu sở hữu những con phố. Biết mọi thứ. Hoặc có thể tìm ra bất cứ gì.”

      Giờ, Vua Graffiti rít sâu điếu thuốc và thẳng vào vấn đề. “Tôi cần giúp đỡ.” Jax giọng .

      sao? cần gì nào?”

      Ý rằng cần gì và tôi kiếm được gì từ việc đó?

      Tốt bụng vừa đủ.

      Khẽ liếc quanh. có ai khác ngoài họ trừ những con chim bồ câu và hai Dominica thấp, ưa nhìn sải bước qua. Ngược lại với cái khí giá rét, họ mặc những chiếc áo thiếu vải và những chiếc quần soóc bó sát cơ thể tròn trĩnh và khêu gợi kiểu hãy- lôi-em-xuống. “Này, cưng”, với Jax kèm nụ cười và tiếp tục bước . Hai bước sang đường và rồi rẽ hướng đông vào khu vực của họ. Đại lộ 5 là ranh giới giữa khu Harlem dành cho người da đen và khu dành cho những người tiếng Tây Ban Nha trong nhiều năm rồi. khi bạn bước vào phía đông của Đại lộ 5, đó là phía Bên kia rồi. Có thể vẫn ổn, nhưng đó phải là cùng Harlem.

      Jax nhìn họ biến mất. “Mẹ kiếp.” ở trong trại thời gian dài.

      “Đồng ý”, Ralph . Gã chỉnh lại dáng đứng dựa vào hàng rào và khoanh tay trước ngực giống như những Hoàng tử Ai cập.

      Jax đợi phút rồi cúi xuống, thầm vào tai của vị Pharaoh: “Tôi cần khẩu súng”.

      có hồ sơ sạch”, Ralph trả lời sau giây lát. “ lại bị bắt với khẩu súng, nó khiến hồ sơ của đen tối trở lại trong phút. Và lại bóc lịch hằng năm ở Rikers vì khẩu súng. Tại sao lại tìm đến cơ hội kiểu như thế?”

      Jax hỏi cách kiên nhẫn: “ có thể làm được hay ?”.

      Người đàn ông gầy gò điều chỉnh góc dựa của mình và ngẩng lên nhìn Jax. “Tôi nghĩ là chúng ta đều hiểu rồi. Nhưng tôi chắc chắn rằng mình biết ở đâu có cái thứ gì đó cho . Ý tôi là, khẩu súng.”

      “Vậy tôi chắc là mình phải đưa cái này cho ai cả.” Hẳn lôi cuộn tiền ra, rút vài tờ hai mươi đô la, giơ về phía Ralph. Tất nhiên, phải cẩn thận. người da đen đưa tiền cho người khác những con phố ở Harlem có thể khiến viên cảnh sát phải nhíu mày, ngay cả khi ta mới chỉ là nộp tiền thuế ủng hộ cho mục sư ở nhà thờ của giáo phái Tin lành Baptist.

      Nhưng đôi lông mày duy nhất nhướn lên lúc này là của Ralph khi ta nhét những đồng tiền vào trong túi áo và nhìn vào phần còn lại của cọc giấy. “ có nhiều tiền ở đó nhỉ.”

      “Chính xác. Và giờ có cho mình ít rồi. còn cơ hội để có nhiều hơn nữa. ngày vui vẻ.” cất tập tiền .

      Ralph càu nhàu. “Kiểu súng như thế nào?”

      . Làm sao mà tôi có thể giấu nó cách dễ dàng, hiểu những gì tôi chứ?”

      “Năm trăm nhé.”

      “Hai trăm thôi, tôi cố được.”

      “Thế thôi?”, Ralph hỏi.

      Như thể Jax muốn khẩu súng với số đăng kiểm vẫn còn khung. “ nghĩ sao?”

      “Quên cái giá hai trăm ”, người Ai Cập . ta chịu mạo hiểm hơn; bởi biết ta

      giết người mà có thể đưa cho ta thứ ta cần.

      “Ba”, Jax đề nghị.

      “Ba trăm năm mươi.”

      Jax suy nghĩ lúc. nắm tay lại và chạm vào nắm tay của Ralph. cái nhìn quanh nữa.

      “Giờ, tôi cần thứ khác. có thông tin nào về các trường học chứ?”

      vài. về cái trường nào? Tôi biết gì ở Queens hay Brooklyn hay là Bronx. Chỉ trong lãnh thổ của tôi ở đây thôi.”

      Jax cảm thấy giễu cợt trong lòng, nghĩ: “Lãnh thổ của tôi ở đây”, mẹ kiếp. lớn lên ở Harlem và chưa bao giờ sống ở bất cứ đâu khác trừ những trại lính và nhà tù. Bạn có thể gọi nơi là “khu vực”, nếu bạn phải gọi, nhưng nó phải là “lãnh thổ”. Ờ L.A., ở Newark, họ có phân chia lãnh thổ. vài khu vực của BK nữa. Nhưng Harlem lại là thế giới khác, và Jax nổi cáu với Ralph vì dùng từ đó, mặc dù cho rằng Ralph phải tôn trọng nơi này; gã này chắc hẳn xem quá nhiều chương trình ti vi ra gì.

      Jax : “Chỉ ở đây thôi”.

      “Tôi có thể dò hỏi quanh đây.” Ralph với chút thoải mái - có gì đáng ngạc nhiên lắm, nên nhớ là gã chuyện với người từng là phạm nhân mới ra tù với lệnh bắt giữ 25-25 có hứng thú với khẩu súng và trường trung học. Jax nhanh cho gã bốn mươi đô nữa. Nó dường như khiến cho lương tâm của gã đàn ông thó giãn ra cách đáng kể.

      “Được rồi, xem tôi phải tìm kiếm cái gì nào?” Jax lôi tờ giấy ra khỏi túi của chiếc áo khoác dã chiến. Đó là bài báo mà tải trang web của tờ New York Times. đưa bài báo, nằm trong mục Tin nổi bật cập nhật, về phía Ralph.

      Jax nhấn vào tờ báo với ngón tay dày mập. “Tôi cần tìm con bé. Mà họ đến trong này.”

      Ralph đọc bài báo bên dưới tiêu đề, CÁN BỘ BẢO TÀNG BỊ BẮN CHẾT TRONG THÀNH PHỐ. ngẩng lên nhìn. “Nó chẳng gì về con bé cả, nơi sống, trường học, chả có gì cả. Thậm chí còn chẳng cho biết tên nó là gì.”

      “Tên con bé là Geneva Settle. Còn với tất cả những thông tin khác” - Jax hất đầu về phía túi áo của gã đàn ông thó chỗ những đồng tiền biến mất. - “là lý do mà tôi trả công cho để tìm kiếm.”

      “Tại sao muốn con bé này?”, Ralph hỏi, nhìn chằm chằm vào bài báo.

      Jax dừng lại phút rồi nghiêng xuống gần cái tai bụi bặm của gã. “Đôi khi người ta hỏi, nhìn xung quanh, và thấy có nhiều phiền phức rắc rối hơn những gì họ chỉ cần biết.”

      Ralph mở miệng định hỏi điều gì đó nhưng rồi hiểu ra rằng, mặc dù Jax có thể về điều gì đó mà con bé làm, ông Vua Graffiti máu me này cũng có thể ám chỉ rằng gã quá tọc mạch. “Cho tôi hoặc hai tiếng.” đưa cho Jax số điện thoại của mình. Vị pharaoh bé đẩy người ra khỏi sợi xích, nhặt lên chai rượu mạch nha từ bãi cỏ và bắt đầu xuôi xuống phố.

      Roland Bell thận trọng lái chiếc Crown Vic mới cáu cạnh xuyên qua trung tâm Harlem, xen lẫn những tòa nhà chung cư và trung tâm thương mại. Những quần thể trung tâm mua sắm - Pathmark, Duane Reade, Popeyes, McDonald’s - nằm san sát với những cửa hàng kinh doanh cá thể, nơi mà ta có thể đổi tiền, thanh toán các hóa đơn và mua những bộ tóc giả được làm từ tóc hay những tác phẩm nghệ thuật châu Phi, từ rượu cho đến đồ nội thất. Rất nhiều những tòa nhà cũ kỹ hơn còn được sử dụng và số bị đóng ván kín mít hoặc bị đóng chặt bởi những tấm kim loại được vẽ đầy những hình graffiti. Bên dưới những con phố đông đúc hơn, vài thiết bị hư hỏng vỡ nát chờ đợi những người thu gom phế thải, rác chất đống bên những tòa nhà và rãnh thoát nước, cả cỏ dại và những mảnh vườn mọc hoang lấp đầy mảng đất trống. Những tấm bảng quảng cáo được vẽ theo kiểu graffiti cho những diễn viên của vũ đoàn Apollo và các sân khấu lớn khác ở khu thành phố, trong khi hàng trăm tờ rơi quảng cáo dán kín những bức tường và tấm gỗ dán, tuyên truyền về những M, DJ và những diễn viên hài kịch có chút tiếng tăm. Những cậu trai trẻ túm tụm thành các nhóm, vài trong số đó nhìn chiếc xe cảnh sát phía sau Bell với cảnh giác và khinh khỉnh xen lẫn chút thách thức.

      Nhưng khi Bell, Geneva và Pulaski tiếp tục về hướng tây, khí thay đổi. Những tòa nhà bị bỏ hoang được phá sập hoặc nâng cấp lại; những tấm biển quảng cáo ở phía trước những công trường cho thấy hình ảnh những ngôi nhà mới bình dị sớm thay thế những ngôi nhà cũ kỹ già nua. Khu nhà của Geneva khá đẹp, quá xa Đại học Colombia và công viên Momingside đầy sỏi đá, với vỉa hè sạch và có hàng cây thẳng tắp. Những dãy nhà cũ kỹ được tu sửa khá tốt. Những chiếc xe có thể được gắn mác Clubs bánh lái nhưng cũng có những chiếc có các thanh sắt bảo vệ bao gồm cả Lexus và Beemers.

      Geneva chỉ về phía tòa nhà bốn tầng sạch bằng đá nâu, được trang trí với bề ngoài được chạm khắc, những phần bằng sắt ánh lên màu đen bóng dưới mặt trời cuối buổi sáng. “Đó là tòa nhà của cháu.”

      Bell vượt lên quá hai ngôi nhà và dừng xe, đỗ ngay bên cạnh chiếc xe khác.

      “Ừm, Thanh tra”, Ron Pulaski : “Tôi nghĩ rằng bé muốn tới căn nhà phía sau kia”.

      “Tôi biết”, . “ điều tôi luôn làm là lộ liễu vạch ra cho người khác biết địa chỉ của những người chúng ta phải bảo vệ.”

      Viên cảnh sát trẻ gật gật đầu, như để ghi nhớ điều này. Quá trẻ, Bell nghĩ. Còn phải học quá nhiều.

      “Chúng tôi vào trong vài phút. Hãy canh chừng bên ngoài.”

      “Vâng, thưa ngài. Chính xác là canh chừng cái gì ạ?”

      Viên Thanh tra thực có thời gian để giáo dục chàng về những điểm cần thiết trong nhiệm vụ cảnh giới; có mặt của ta thôi đủ để làm chướng ngại cho cái công việc nhặt này. “Kẻ xấu”, .

      Chiếc xe cảnh sát cùng đến đây với họ dừng lại ở chỗ Bell chỉ, phía trước chiếc Crown Vic. Viên cảnh sát bên trong có thể nhanh trở về chỗ Rhyme với những bức thư mà cần. chiếc xe khác đến ngay sau đó lúc, chiếc Chevy cáu cạnh. Nó chở tới hai sĩ quan từ đội bảo vệ nhân chứng SWAT của Bell, những người này có thể ở lại bên trong và xung quanh ngôi nhà. Sau khi rút kinh nghiệm rằng hung thủ có thể nhắm vào những người đứng xung quanh đơn giản chỉ để đánh lạc hướng, Bell ra lệnh củng cố thêm lực lượng. Đội bảo vệ chọn cho nhiệm vụ lần này là Luis Martinez, điều tra viên trầm lặng và rắn rỏi, và Barbe Lynch, sĩ quan trẻ, sắc sảo mặc thường phục, là người mới vào nghề nhưng lại được ban tặng trực giác nhạy bén để nhận biết những mối đe dọa.

      Viên thanh tra người Caroline nhấc thân thể chắc nịch ra khỏi chiếc xe và nhìn quanh, cài lại chiếc áo khoác thể thao mặc để giấu hai khẩu súng ngắn đeo ở bên hông. Bell từng là cảnh sát tốt ở thị trấn và là điều tra viên có năng lực ở thành phố lớn nhưng thực phát huy sở trường của mình khi đến với công việc bảo vệ nhân chứng. Đó thực tài năng, giống như cách đánh hơi thấy con mồi khi săn và trưởng thành những cánh đồng. Bản năng. Những gì mà có thể cảm giác thấy còn hơn cả những thứ rành rành - giống như phát ra ánh đèn flash nằm ngoài tầm nhìn của chiếc kính thiên văn hoặc nghe thấy tiếng “cách” lên đạn của khẩu súng ngắn hay phát ra ai đó dõi theo nhân chứng trong ánh phản chiếu từ cánh cửa sổ ở tiền sảnh của cửa hàng. Bằng tất cả các lập luận của mình, có thể khi nào người đàn ông bước với mục đích nào đó hay khi nào chẳng có mục tiêu nào cả. Hoặc là khi người hoàn toàn vô ý đậu chiếc xe ở vị trí hoàn hảo để tạo điều kiện cho kẻ giết người dễ dàng chạy thoát mà hề phải lùi hay tiến. có thể nhìn vào tổng thể của tòa nhà, con phố và cửa sổ rồi nghĩ: Giờ , đó là nơi mà kẻ nào đó có thể mình để làm điều mờ ám.

      Nhưng tại thấy mối đe dọa nào và thúc Geneva Settle ra khỏi xe rồi vào bên trong ngôi nhà, ra hiệu cho Martinez và Lynch theo. giới thiệu Geneva với họ, rồi hai viên sĩ quan quay ra bên ngoài để kiểm tra khu vực xung quanh. bé mở khóa cánh cửa an toàn bên trong và họ vào, bước lên tầng hai, theo sau là những viên cảnh sát mặc sắc phục.

      “Bác Bill”, gọi, đập tay lên cánh cửa. “Là cháu đây.”

      Người đàn ông to lớn khoảng năm mươi tuổi với vệt những cái bớt má ra mở cửa. Ông mỉm cười và gật đầu với Bell. “Rất vui được gặp . Tôi là William.”

      Viên thanh tra giới thiệu mình và bắt tay.

      “Cháu , cháu ổn chứ? Những gì xảy ra với cháu là khủng khiếp.”

      “Cháu sao. Ở bên ngoài lúc này chỉ có những cảnh sát vòng quanh mà thôi. Họ nghĩ rằng kẻ tấn công cháu có thể thử làm điều đó lần nữa.”

      Khuôn mặt tròn của người đàn ông nhăn lên vì lo lắng. “Chết tiệt.” Rồi ông vẫy tay chỉ về phía chiếc ti vi. “Bản tin về cháu ở đó.”

      “Họ nhắc đến tên bé rồi à?” Bell hỏi, cau mày, khó chịu với bản tin.

      . Bởi vì tuổi của con bé. Và cũng có bức ảnh nào hết.”

      “À, đó là điều gì đó...” tự do của báo chí cũng tốt nhưng có những lần Roland Bell ngần ngại kiểm duyệt sát sao - khi nó có khả năng hé lộ danh tính và địa chỉ của những nhân chứng. “Nào, tất cả mọi người ra đợi ở sảnh. Tôi muốn kiểm tra bên trong.”

      “Vâng, thưa ngài.”

      Bell bước vào bên trong và xem xét căn hộ. Cửa trước được bảo đảm an toàn bằng hai thanh chốt cố định và thanh chốt an toàn bằng sắt. Cửa sổ phía trước nhìn thẳng qua bên kia đường là những ngôi nhà thành thị. kéo các tấm rèm xuống. Những cửa sổ bên hông ngôi nhà mở ra phía con hẻm và nhìn ra tòa nhà ở phía bên kia đường. Mặc dù bức tường đối diện là những viên gạch đặc và có cửa sổ để có thể tạo ra vị trí đứng lý tưởng cho tay bắn tỉa, vẫn đóng và khóa những cửa sổ lại, rồi hạ những tấm màn che xuống.

      Căn hộ khá rộng - có hai cửa lối ra sảnh, ở phía trước, trong phòng khách và cái thứ hai ở phía sau, phía phòng giặt đồ. kiểm tra chắc chắn rằng những chiếc khóa được chốt và quay trở lại sảnh. “Được rồi”, . Geneva và bác của bé bước vào. “Nhìn nó khá ổn. Chỉ cần giữ khóa cửa chắc chắn và những chiếc rèm che được kéo xuống.”

      “Vâng, thưa ngài”, người đàn ông . “Chắc chắn tôi làm thế.”

      “Cháu lấy những bức thư”, Geneva . bé biến mất vào trong những phòng ngủ.

      Bởi kiểm tra an toàn của căn nhà, Bell nhìn quanh căn phòng ở. Nó mang lại cho cảm giác lạnh lẽo. Những đồ nội thất màu trắng chấm màu, bằng da và vải lanh, tất cả đều được che phủ bằng những lớp nylon bảo vệ. Có rất nhiều sách, những bức tượng và tranh vẽ châu Phi và Caribe, chiếc tủ kiểu Trung Quốc chất đầy những thứ giống như những chiếc đĩa và ly rượu đắt tiền. Những chiếc mặt nạ châu Phi. Có rất ít đồ cá nhân hay tình cảm. Khó mà thấy bức ảnh gia đình nào.

      Ngôi nhà của Bell treo đầy những bức ảnh của gia đình - đặc biệt là hai cậu con trai của , cũng như tất cả những chị em họ của chúng trong gia đình ở phía bắc Carolina. Và cả số bức ảnh của người vợ mất, nhưng vì tôn trọng dành cho người phụ nữ mới của - Lucy Kerr, là cảnh sát trưởng ở tiểu bang Tarheel - có bức ảnh nào của và vợ cũ, chỉ có ảnh của người mẹ cùng với những cậu bé. (Lucy, có được vị trí quan trọng những bức tường của , từng nhìn thấy những bức ảnh của người vợ quá cố cùng với các con và thẳng thắn rằng tônh vì giữ lại những bức ảnh đó tường. Và điều về Lucy: Luôn thẳng những gì muốn .)

      Bell hỏi bác của Geneva xem liệu ông ấy có nhìn thấy ai đó lạ mặt xung quanh ngôi nhà thời gian gần đây .

      thưa ngài. Chẳng có ma nào.”

      “Khi nào bố mẹ bé trở về?”

      thể trước được, thưa ngài. Geneva với họ chưa”.

      Năm phút sau bé quay lại. đưa cho Bell chiếc phong bì có đựng hai mẩu giấy úa vàng, khô cứng. “Đây thưa chú.” bé do dự. “Hãy cẩn thận với chúng. Cháu có bản sao nào hết.”

      “Ồ, cháu biết chú Rhyme rồi. Chú ấy gìn giữ những vật chứng như thể đó là chén Thánh vậy.”

      “Cháu quay lại trường.” Geneva với bác mình. Rồi với Bell: “Cháu sẵn sàng rồi”.

      “Nghe này, bé”, người đàn ông . “Bác muốn cháu phải thể lịch , theo cách ta với cháu. Cháu hãy ‘vâng, thưa ngài’ khi chuyện với các sĩ quan cảnh sát.”

      bé nhìn bác mình rồi cách thẳng thắn: “Bác nhớ cha cháu những gì à? Rằng mọi người cần phải đấu tranh để giành quyền được gọi là ‘ngài’? Đó là những gì cháu tin tưởng”.

      Người bác cười. “Quả là cháu của ta. Có cách nghĩ của riêng mình. Đó là lý do chúng ta rất cháu. Ôm ta cái chặt nào, bé.”

      Ngượng ngùng, giống như những cậu bé của Bell khi vòng tay quanh chúng ở những nơi đông người, bé đón nhận cái ôm cách ngúng nguẩy.

      lối ra sảnh, Bell đưa cho viên cảnh sát mặc sắc phục những lá thư. “Đưa những cái này tới chỗ Lincoln càng nhanh càng tốt.”

      “Vâng, thưa ngài.”

      Sau khi ta khỏi, Bell gọi Martinez và Lynch chiếc điện đàm. Họ báo cáo rằng con phố an toàn. giục xuống và bước vào trong chiếc Crown Vic. Pulaski chạy tới và nhảy vào ngồi trong ghế sau.

      Khi khởi động chiếc xe, Bell nhìn bé. “À, cần phải , Geneva này, nếu cháu có được phút, cháu có thể nhìn vào trong cái ba lô đó của mình và nhấc quyển sách cháu cần cho ngày hôm nay cho ta mượn .”

      “Sách?”

      quyển sách học của cháu ở trường ý.”

      bé lấy ra quyển. “Nghiên cứu xã hội? Hơi chán.”

      “Ồ, nó phải để đọc. Chỉ là để đóng giả giáo viên thay thế thôi.”

      bé gật đầu. “Giả vờ chú là giáo viên. Hay đấy.”

      “Ta cũng nghĩ thế. Giờ cháu kéo cái dây an toàn vào . Tốt nhất là phải như vậy. Cả nữa, chàng lính trẻ.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :