1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Kim Lăng Thập Tam Thoa - Nghiêm Ca Linh

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      10

      Hơn chín giờ tối, linh mục Engman chầm chậm đứng dậy trong lầu An Lạc, nơi ông đọc sách. Mấy ngày nhịn ăn làm ông yếu . Ông đứng lên rất chậm để cho máu đủ thời gian đưa lên não tránh bị hôn mê. Ông cũng tinh giản số động tác, sao cho các động tác dễ dàng nhất, cần thiết nhất, lãng phí calo.

      Buổi tối ông toàn ở trong phòng đọc sách, bên kia tường là thư viện của nhà thờ, nơi cất giữ những cuốn sách do bảy vị linh mục sưu tầm được và những cuốn sách mua được rất rẻ ở hội “Bán vì đạo nghĩa”. Các sứ giả nước ngoài khi hết nhiệm kỳ đều tổ chức quyên góp và tổ chức hội bán sách vì đạo nghĩa. Những quà tặng và thư tịch mà họ cho rằng cần đem về nước đều được họ bán với giá rất rẻ hoặc cho , bán và cho chẳng khác nhau là mấy. trăm năm nay, qua thanh lọc phân loại, thư tịch của nhà thờ rất toàn diện và phong phú.

      Linh mục Engman đến gần lò sưởi, vịn tay vào mép lò ngồi xuống. Đây cũng là động tác mới có trong cơn đói, trước đây mấy ngày ông phải vịn tay như thế. Đầu gối của vị linh mục hơn sáu mươi tuổi kêu lách tách như than cháy. Ông cầm kẹp lật thanh củi cho cháy to lên. Hôm nay trời lạnh quá.

      Phòng ngủ của Fabbi ở bên kia tường thư viện. Lúc này chưa về. hiểu sao, giữa ông và Fabbi, những điểm rơi trong giao lưu thường trùng nhau, khi Fabbi đến chuyện với ông là lúc ông tận hưởng đơn. Đúng lúc ông vừa ra khỏi đơn, rất muốn chuyện Fabbi lại hời hợt hoặc biến đâu. Linh mục Engman buồn bã tổng kết, người đời đại để cũng như ông và Fabbi, dứt được ra cũng chẳng gắn được vào. A cần đến B đúng vào lúc B đầy đủ về tình cảm và muốn bị quấy rầy; trái lại khi B cần có A ở bên để hỏi han và giao lưu nhu cầu đó lại là gánh nặng đối với A. Gặp nhau và giao lưu đúng lúc là quấy nhiễu rất khó chịu. Khi muốn bị quấy rầy thích có mặt của người khác. Đến với nhau phải vì hợp mà vì hoàn cảnh rời được nhau là bị động và miễn cưỡng. Miễn cưỡng đến với người khác và miễn cưỡng chấp nhận người khác đến với mình đều là quấy nhiễu. có mặt trong tình huống như thế là có mặt cần thiết.

      Bây giờ ông gián tiếp chấp nhận có mặt cần thiết của đám lính và điếm dưới tầng hầm, có mặt hoàn toàn là quấy nhiễu.

      Đội viên đội chôn xác đưa hai thương binh đến nhà thờ được hôm linh mục Engman đến khu an toàn. Lính Nhật sục sạo vào khu an toàn ngày mấy lần, thanh niên trai tráng đều bị coi là lính Trung Quốc lẩn trốn và bị bắt . Mấy người phụ trách chạy đôn chạy đáo xin can thiệp cứu giúp đều mất công . Những người bị bắt nếu có chút kháng cự đều bị bắn tại chỗ. Thế là linh mục Engman dám hé răng cầu khu an toàn chấp nhận mấy thương binh nữa. Bác sĩ Wilson khám bệnh cho đoàn người rồng rắn xếp hàng. Ông kéo bác sĩ ra hỏi có thể dành giờ đến nhà thờ mổ cho ca . Ca thế nào? Bụng bị lưỡi lê đâm… Engman vừa đến đó, bác sĩ Wilson vội hỏi, phải tù binh Trung Quốc chứ? Engman hỏi tại sao ông biết. Bác sĩ bảo trong đám đội viên đội chôn xác có kẻ mất gốc, báo với người Nhật có số đội viên cứu tù binh Trung Quốc. Ngay sáng sớm lính Nhật chôn sống mấy chục đội viên. Từ đó việc xử lý xác chết tù binh đều có giám sát của lính Nhật. Bác sĩ Wilson khuyên linh mục, nếu nhà thờ có thu nhận tù binh thoát chết phải lập tức đưa họ chỗ khác. Từ khu an toàn trở về linh mục Engman đến ngay hầm kho. Chỗ ở tạm thời có thể coi là ngăn nắp, cái rèm cũ của phòng đọc sách ngăn căn hầm làm hai, đàn ông chiếm phần . Linh mục Engman chưa bao giờ ngửi thấy cái mùi hỗn tạp như ở đây, lương thực lưu cữu, mỹ phẩm, phó mát, rượu… Vật chất còn tồn tại nhưng phi vật chất vẫn còn lại dai dẳng, chỉ còn lại mà còn sinh sôi, chúng lên men phát mốc, nơi đây trở thành vương quốc của các mùi, nó dữ dội chống lại bất cứ kẻ nào xâm nhập. Khi theo bậc thang bước xuống, chút nữa linh mục Engman ngất . Vương quốc mùi vị được bổ sung mùi người của mười mấy người đàn bà và ba người đàn ông, hai thùng bài tiết, thêm vào đó là mùi nước hoa, mùi phấn son, thuốc chải đầu, bột chì than, thuốc lá… Linh mục Engman nhận ra rằng chỉ mũi mà mắt ông cũng chịu nổi, mắt cay, nước mắt đầm đìa. Lúc đó ông biết vết thương của viên sĩ quan họ Đới cũng hề , xương sườn bị trúng đạn, máu vẫn thấm ra. Thương binh nặng Vương Phố Sinh mới mười lăm tuổi. Thấy ông xuống, cậu ta giơ tay lên thái dương chào kiểu quân . ràng là cậu bé muốn lấy lòng ông sợ ông trục xuất để giữ tính trung lập của nhà thờ. Linh mục Engman đột nhiên thay đổi điều định . Khi đến, ông sắp xếp câu đầu tiên là: “Rất đáng tiếc, chúng tôi thể để các vị ở đây dưỡng thương.” Lúc này ông mỉm cười với cậu lính trẻ, câu biến thành: “Có đỡ chút nào ?” Ông biết, thế là vô cùng khó rồi, nếu câu đầu thay đổi sau đó khó mà câu từ biệt. Ông muốn thuyết phục họ lợi dụng đêm tối trốn vào rừng hay về nông thôn. Lương thực thuốc men ông lo đủ. Nhưng nhìn bộ mặt quấn đầy băng của Vương Phố Sinh, câu của ông đổi thành: “Nhà thờ có thể để các vị ở thêm vài ngày, nhưng để là người dân thường tị nạn ngài thiếu tá phải bỏ vũ khí xuống.”

      Hai thương binh im lặng, đưa mắt nhìn Đới Đào.

      Viên thiếu tá : “Xin cho tôi được giữ lại trái lựu đạn đó.”

      uy nghiêm vốn có của linh mục Engman xuất : “Nhà thờ chỉ tiếp nhận dân thường tấc sắt trong tay.”

      Đới Đào : “Trái lựu đạn phải để tấn công cũng phải để tự vệ.” ta đưa mắt nhìn mọi người.

      Tất nhiên linh mục Engman hiểu nó dùng để làm gì. Bọn họ có hai người từng bị bắt làm tù binh và bị hành quyết. Sử dụng lựu đạn có thể có kết cục nhàng thậm chí huy hoàng, đối với người lính thua trận, rút lui vĩnh cửu nào có thể vẻ vang hơn trang trọng hơn. Nếu may mắn còn kéo thêm vài tên địch để lót lưng.

      Lần đầu bị linh mục tước vũ khí, Đới Đào lén giữ lại trái lựu đạn của Đức đem xuống hầm. Mấy người đàn bà mách với A Cố, lúc ấy còn sống, vì ở chung với nó họ ngủ yên. A Cố lại tố với Engman.

      “Nếu ông giữ lựu đạn ông phải là dân tị nạn tấc sắt trong tay.”

      Viên thượng sĩ Lý Toàn Hữu : “Thiếu tá nghe linh mục .”

      Đới Đào lạnh lùng nhìn Lý Toàn Hữu: “Để cho bọn quỷ phương Đông tước vũ khí còn chưa đủ sao?”

      Engman biết câu chưa ra lời còn khó nghe hơn: bây giờ còn muốn để cho quỷ phương Tây tước vũ khí nữa sao.

      Đới Đào với Lý Toàn Hữu và Vương Phố Sinh: “Bây giờ các là hạ cấp của tôi, tôi là chỉ huy của các , các có bổn phận phải phục tùng tôi.”

      Khi đó người đàn bà tên Triệu Ngọc Mặc từ sau tấm rèm ngăn bước ra, dịu dàng nhìn từng người đàn ông, cứ như là bà chủ gia đình đứng ra dàn xếp bất hòa.

      Linh mục Engman nhớ rằng lúc đó ông nhìn người đàn bà đó và hơi gật đầu, trong giây lát ông quên thân phận hèn kém của ta. Ông cảm thấy ta xuất khí giữa những người đàn ông thay đổi, đối địch giảm . Thực ra ta chưa gì cả, chưa làm gì cả, mỉm cười cách vô cớ kiểu đàn bà, nhìn như trách móc: Hòa thuận chút có hơn , có gì đáng để gây với nhau đâu?

      Engman nhớ rằng khi đó ông còn , tiếng lựu đạn nổ, người Nhật quy kết nhà thờ che giấu lính Trung Quốc, hành động của nhà thờ vô tư tiếp nhận nạn nhân biến thành điều bịa đặt. Điều quan trọng nhất là chọc tức quân chiếm đóng, họ san phẳng nhà thờ, kể cả mười sáu bé. Các bé là những sinh linh yếu đuối nhất trong chiến tranh, khi họ phải hy sinh đó là hy sinh thể tưởng tượng nổi.

      Sau đó ông kể lại những gì ông tận mắt nhìn thấy đường trở về từ khu an toàn. Khi đó Fabbi lái xe vòng qua ngõ về nhà thờ gặp mấy người lính Nhật quây lại trước hiên nhà, chúng lột quần áo của bé chừng mười ba mười bốn tuổi. Ông bảo Fabbi dừng xe. Ông kéo kính xuống, thò nửa người mặc áo linh mục ra, dùng tiếng to: “Dừng lại, xin hãy nể mặt Chúa!…” Ông tường tận kể hết câu chuyện rồi : “Lẽ ra tôi kể cho các vị chuyện vui nhưng tôi muốn để các vị biết, tất cả những gì chúng tôi – hy vọng cũng có cả các vị – làm đều lấy việc bảo vệ an toàn của các em học sinh làm chuẩn mực, tiếp nhận các vị, phần nào đó nguy hiểm cho các em, huống hồ các vị còn cất giấu vũ khí.”

      Mấy người lính Trung Quốc im lặng. Ông cũng im lặng lát để cho lời của mình thấm sâu chút vào đầu họ rồi mới rời khỏi căn hầm. Chiều hôm đó Đới Đào giao lại quả lựu đạn cho ông. Nhân dịp đó ông và viên thiếu tá trẻ về chuyện rút lui khỏi Thượng Hải và Nam Kinh thất thủ. Kể cũng lạ lùng, người sĩ quan có tên Đới Đào xuất đúng vào lúc Engman thèm chuyện nhất. Trong nửa giờ chuyện, hai bên cư xử với nhau rất nồng nhiệt, hiếm thấy.

      Lúc này Engman quấn chặt tấm áo choàng lông ngỗng định quay về chỗ ngủ. Ông cầm khay nến theo thang gác xuống sảnh lớn nghe tiếng chuông gọi cổng. Ông lập tức quay lên, kéo rèm cửa lên, mở cửa sổ nhìn xuống sân.

      Fabbi ra cổng, chuyện với khách mời mà đến. Tiếng là chuyện nhưng để trả lời câu hỏi của Fabbi “Xin hỏi có việc gì ?… Đây là nhà thờ của nước Mỹ!… có lương thực, chất đốt!…” Người nọ cứ giật chuông. Fabbi câu tiếng chuông lại thêm giận dữ và nóng nảy, cứ như người nọ dùng tiếng chuông để chửi bới.

      Engman nhanh xuống gác, mở cửa xưởng đóng sách, kiểm tra xem khóa có chắc chắn . Nhưng ông nghĩ, chính khóa lại mới an toàn, kẻ xâm nhập cho rằng nơi phải khóa là nơi cất giữ đồ quí, tất nhiên càng đòi vào, như vậy càng nguy hiểm cho các em học sinh. Ông lấy chùm chìa khóa ở thắt lưng ra, tay run lẩy bẩy tra hết chìa này đến chìa khác cuối cùng mở được cửa mò mẫm vào. Ông ngẩng mặt vọng lên phía : “Các bé, bất kể xảy ra chuyện gì, được hé răng, được xuống dưới nhà!”

      Ông biết bọn trẻ nghe thấy rồi, ông chạy về phía nhà bếp.

      “Người Nhật đến rồi, được chuyện, mọi việc để tôi và Fabbi đối phó!”

      Ông nghe người đàn bà nửa câu muốn hỏi gì đó lại thôi ngay, phải bị bịt miệng mà bị tiếng khẽ ngăn lại.

      đường ra cổng, linh mục Engman nghĩ câu chữ và cách ăn . Cách cổng năm sáu bước, ông dừng lại hít hơi rồi với Fabbi: “Mở cửa ra.”

      Fabbi quay đầu lại nhìn, trấn tĩnh lại khi thấy dáng và giọng bình thản đĩnh đạc của vị linh mục. Hình như đây chính là khoảnh khắc ông chờ đợi, để thử xem, trước sức cảm hóa của ông, có trái tim nào bị chinh phục, có nhân tính nào quay trở lại.

      Vì vậy khi cổng mở ra, trước mặt kẻ xâm lược là ông già tiên phong đạo cốt râu tóc bạc phơ. Ông độ lượng với mọi lứa tuổi màu da, tính cách, vô tội hay có tội… tức giận của lính Nhật tích tụ lại khi ấn chuông cổng hình như được nụ cười của linh mục Engman tiếp nhận hết và xả hết ra.

      “Chúng tôi đói!” Tên hạ sĩ quan Nhật cầm đầu tiếng nghe ngồ ngộ.

      “Tôi cũng đói.” Engman với quan tâm đối với tất cả sinh mạng kêu đói dưới gầm trời này. Ông thêm: “Và còn khát nữa.”

      “Chúng tôi cần vào bên trong.” Tên sĩ quan .

      “Xin lỗi đây là nhà thờ của Mỹ. Xin ngài cư xử như đối với lãnh thổ Mỹ.” Engman vẫn mỉm cười.

      “Chúng tôi vào cả đại sứ quán Mỹ.”

      Engman có nghe , đại sứ quán Mỹ ở nơi an toàn nhất của khu an toàn thường xuyên bị cưỡng bức đón tiếp lính Nhật, chúng tự tiện vào trộm được gì trộm, cướp được gì cướp, lấy cả xe hơi của nhân viên ngoại giao và kiều dân Mỹ rút về nước. Xem ra tòa nhà hẻo lánh xa trung tâm thành phố này có vẻ an toàn hơn.

      “Chúng tôi vào tự tìm lấy cái ăn!” Tên hạ sĩ quan gào lên.

      Bảy tám tên phía sau như nghe thấy lệnh xung phong, chúng chen nhau vào cổng. Vị linh mục biết rằng thể đến mức này đành phó thác cho trời vậy.

      Linh mục Fabbi : “Mở cổng ra là hỏng hết!”

      Engman : “Tường thành Nam Kinh còn chặn được họ mà tường của ta đây đàn bà còn leo được vào.”

      Fabbi theo sát phía sau lính Nhật vào nhà thờ. đèn cũng nến, cái lạnh đông đặc bên trong còn gia buốt hơn bên ngoài. Tốp lính Nhật do dự chút ở cửa lớn, tên hạ sĩ quan dùng đèn pin chiếu lên bức tượng Giêsu tuẫn nạn bục giảng đạo, rồi chiếu lên trần nhà cao chót vót rồi lùi lại, có vẻ như sợ mai phục.

      Linh mục Engman với Fabbi: “Nếu họ vào xưởng đóng sách phải tìm cách giương đông kích Tây, kéo chú ý của họ sang hướng khác.” Fabbi : “Làm thế nào để giương đông kích tây?”

      Engman trầm ngâm. Vào thời khắc gay go này đành phải hy sinh cái ít quan trọng hơn.

      “Bảo George Trần khởi động ô tô.”

      Fabbi hiểu ý. Lính Nhật cướp được ô tô được thượng cấp thưởng, cũng có thể qua Hán gian đổi lấy cái ăn hoặc vật có giá trị.

      Tốp lính Nhật vừa đẩy cửa xưởng đóng sách nghe đâu đó có tiếng máy ô tô. Nghe biết ngay là động cơ già nua, vừa ho lục khục vừa thở hổn hển, dền dứ mãi nổ. Chúng lia đèn pin tìm tiếng máy nổ và dễ dàng tìm thấy gara và thấy George Trần nằm dưới gầm xe để “sửa chữa”.

      Lính Nhật đá chân vào đầu George Trần. này bằng tiếng : “Ai đấy? sửa xe!” Tiếng của George Trần khó nghe hơn cả của viên hạ sĩ quan Nhật.

      Engman : “George Trần. Xin ra.”

      Fabbi đạo diễn cho George Trần, đài từ cũng biên soạn đủ, toàn là tiếng cả. Bây giờ chui từ gầm chiếc xe Ford già nua ra quên hết lời kịch, bộ mặt nhem nhuốc cũng che hết được hoảng hốt.

      là ai?” Viên hạ sĩ quan hỏi.

      ấy là bạn tôi kiêm tạp vụ.” Engman đứng xen vào giữa và .

      George Trần tiếp tục lời kịch được học – cho dù thứ tiếng ấy có dở thế nào, cho dù tất cả những người tiếng trong thiên hạ hiểu nhưng ta làm cho viên hạ sĩ quan Nhật hiểu được rằng xe hỏng, sửa nhưng sửa mãi được. quay lại gì đó, mấy người lính đều hô lên “hây”. Viên chỉ huy quay sang với Engman: “Phải mượn chiếc xe này.”

      Linh mục Engman : “Đây phải tài sản cá nhân tôi, nó là tài sản của nhà thờ, tôi có quyền cho bất kỳ ai mượn cả.” Chiếc xe cũ kỹ và thân thương ông ném ra làm vật thế mạng, phải hy sinh nó để bảo vệ những sinh mạng gác và dưới hầm kia. Như vậy ông với nó lại càng gần gũi khó chia lìa. Ông những điều đó là để những người lính Nhật tin rằng ông dứt nó ra là việc bất đắc dĩ, ngoài nó ra nhà thờ chẳng còn gì đáng để chọ họ để mắt. Ông thêm câu: “Cho nên ông chỉ huy có thể cho cái giấy mượn được để tôi dễ ăn với bộ phận tài vụ của nhà thờ.”

      Người sĩ quan Nhật nhìn ông già như muốn : Ông sống cung trăng đến bây giờ à? biết chiến tranh nghĩa là gì nữa à? : “Đến bộ tư lệnh quân chiếm đóng lấy giấy mượn.”

      Bất kể linh mục Engman và Fabbi tỏ ý ngăn cản và phân trần thế nào, tốp lính Nhật vẫn đẩy chiếc xe Ford cũ kỹ ra ngoài gara. Viên sĩ quan ngồi ghế lái nhấn ga mấy lần, mò mẫm hồi, nổ được máy. Mấy người lính Nhật gào thét như những thổ dân săn được con mồi to, chúng lốc nhốc đuổi theo chiếc xe ra khỏi cổng.

      Fabbi thở hắt ra tiếng to. George Trần giương đôi mắt ếch, ta vẫn tin hẳn, chiến tranh lan vào tận sân nhà thờ và sượt qua ngay bên cạnh

      Engman : “Họ lấy của chúng ta vật đáng giá nhất, chắc rằng chúng ta yên ổn thêm được chút.”



      11

      Thư Quyên của tôi và các bạn chẳng hiểu bên ngoài xảy ra chuyện gì. Các chỉ nghe thấy tiếng quát của Engman: “ được chuyện, được ra ngoài.” ai gì, cũng chen nhau nhòm ra cửa sổ như mọi khi. Ánh sáng đèn pin lọt qua khe rèm, khua qua khua lại như những chiếc đèn chiếu nhưng ai cũng nằm im phăng phắc giường.

      Khi dưới sân rộ lên tiếng máy của chiếc xe Ford, vài bé bạo dạn bò dậy nhìn qua khe rèm. Nhìn nhưng nghe tiếng reo hò, tiếng to bằng tiếng Nhật, họ đoán người Nhật vào và lái chiếc xe của linh mục Engman rồi.

      Các bé ngồi trong chăn, bàn tán, lần sau họ đến lấy gì, làm gì. Thư Quyên nhớ lại những lời nghe được khi đứng bên lỗ thông hơi tầng hầm, : “Mấy mụ ấy bảo lính Nhật đến khu an toàn chỉ cốt lùng sục con .”

      Các bé hiểu “mấy mụ ấy” là ai.

      “Tại sao họ biết? Họ trốn ở đây kia mà.” Sô-phi .

      Thư Quyên “Người Nhật tìm thấy đàn bà là bắt đem , bà già hay bé con bảy tám tuổi đều bắt hết!”

      “Phịa!” Từ Tiểu Ngu .

      “Hỏi linh mục Engman xem ai phịa!” Thư Quyên : “Mấy hôm trước ông ấy và Fabbi đến khu an toàn trông thấy mười mấy lính Nhật cưỡng hiếp !”

      “Đúng là phịa!” Tiểu Ngu to, có vẻ như quát lên điều muốn tin bị phủ định.

      Thư Quyên chẳng gì nữa. biết và Tiểu Ngu chẳng còn gì nữa, đây là đổ vỡ cuối cùng. Nam Kinh thê thảm, kẻ sống người chết đều thê thảm nhưng giờ đây, đối với bé 13 tuổi, thê thảm vô biên ấy rất mơ hồ, còn mất tình bạn với Tiểu Ngu mới là thê thảm thực . Tiểu Ngu tàn nhẫn quá, những đứa con xinh đều tàn nhẫn. Như Triệu Ngọc Mặc dưới hầm kia, đa tình với ai kẻ đó khốn đốn, đa tình là cạn tình.

      Sau khi quát lên “phịa!” với Thư Quyên, Tiểu Ngu dứt khoát dọn chỗ khác, chen vào nằm cạnh Lưu An Na. Thư Quyên nằm lúc rồi ngồi dậy mặc quần áo. Khi mở nắp cửa lên xuống, Tiểu Ngu lại hỏi với ra: “Làm gì đấy Mạnh Thư Quyên?”

      việc gì đến mày.” Thư Quyên làm như vậy để lấy lại sĩ diện để cho các bạn coi, mày muốn làm bạn với tao cũng được thôi, tao làm bạn với mày như thế là đủ rồi. Mày lấy câu chuyện khoác lác bố đến cứu để lấy lòng bao nhiêu đứa? Cái bóng ma quỷ của bố mày chẳng thấy đâu! Cứ cho là bố mày có cứu được, cám ơn, đây thèm.

      Mấy : “Thư Quyên, đừng xuống!…”

      Tiểu Ngu cáu kỉnh ngăn các bạn: “Mặc kệ nó!”

      Mấy bé kia ngoan ngoãn nghe lệnh, mặc kệ Thư Quyên.

      Mạnh Thư Quyên hoàn toàn bị lập. được hưởng tự do của lập. lung tung trong sân, đến nhà bếp, biết đâu tìm được cái gì ăn, biết đâu trong lò còn than hồng, mình làm cái lò con con sưởi đôi chân lạnh như băng. Bao nhiêu ngày có nước nóng rửa chân, vùi trong chăn cả đêm mà chân vẫn lạnh ngắt. đến góc bếp nghe tiếng đôi nam nữ chuyện. Người đàn ông là George Trần, nhận ra ngay.

      “… được đâu, cho linh mục ném tôi ra ngoài.”

      “Chỉ luộc mấy củ khoai tây thôi mà, ông ấy biết đâu!” Người đàn bà .

      “Linh mục đuổi tôi ăn mày!”

      “Đuổi em nuôi .”

      Thư Quyên nhận ta tiếng Hồng Lăng.

      “Luộc năm củ được ?”

      được!”

      “Ba củ.”

      “… Ối, bẹo thủng cả má rồi đây này!”

      “Bẹo à, em còn cắn cho ấy chứ!”

      Thư Quyên nghe tiếng người biến thành tiếng mèo kêu, sợ quá lặng lẽ rút lui. Cái thây thối ở đây bán lấy tiền được, đổi lấy khoai được. Thư Quyên lùi bảy tám bước đến quãng giữa hai lỗ thông hơi của hầm kho. Thư Quyên nghe thấy tiếng khóc dưới hầm. ngồi xuống ngó vào.

      phải chỉ có người khóc. Nan Ni và hai người nữa. Người say khóc như thế, mặt ngây ngô, tiếng khóc cũng ngây ngô. Triệu Ngọc Mặc cũng say, tay cầm ba bát rượu dỗ dành ba . Ít rượu còn lại dưới hầm hành hạ các đến thế.

      Nan Ni : “… Tôi vừa nhìn thấy bọn lính Nhật rồi, hung hãn quá! Chúng đụng vào chỉ có chết thôi…”

      Ngọc Mặc dỗ: “Làm sao thấy được lính Nhật, thấy được giày của nó là cùng…”

      “Thấy rồi!…”

      “Thôi được, thấy rồi, thấy rồi…” Ngọc Mặc .

      “Tôi phải khỏi đây, tôi thể ở đây đợi chúng đến hãm hiếp tôi.” Nan Ni như người mất hồn.

      Thư Quyên để ý, thiếu người: Thiếu tá Đới Đào. Có thể như ta khi đến đây: ta định ở lâu. Bây giờ khoảng mười giờ đêm rồi, ta đâu?

      Lý Toàn Hữu : “Thuốc men làm đếch gì nữa! Vô ích thôi!”

      Thư Quyên vội chuyển sang lỗ thông hơi khác, nhìn thấy Đậu Hoàn quỳ bên cạnh Vương Phố Sinh. Cậu lính nửa thân để trần, bụng đắp cái tất bông của đàn bà, mắt mũi miệng tai đều như lại bộ mặt sưng húp rất đáng ngại.

      “Nó gì?” Lý Toàn Hữu hỏi Đậu Hoàn.

      “Cậu ấy kêu đau.”

      Lý Toàn Hữu : “Thối quá rồi, đổi thuốc làm gì nữa?! Thôi kệ cho nó đau!”

      Đậu Hoàn đứng dậy cầm cái bát trong tay Lý Toàn Hữu ngậm hớp rồi quỳ xuống mớm vào miệng Vương Phố Sinh.

      “Có rượu vào đỡ đau.” Đậu Hoàn rồi mớm từng miếng hết bát rượu. Mọi người im lặng như chịu đau hộ cậu bé.

      Thư Quyên nhìn thấy phần thân Vương Phố Sinh giãy giụa , hiểu là tránh rượu hay tránh môi Đậu Hoàn. Vương Phố Sinh thoi thóp vẫn quên xấu hổ.

      Đậu Hoàn cho Vương Phố Sinh uống thuốc xong, ôm chiếc tì bà lên. Chỉ còn mỗi dây, cái dây to nhất, trầm và đục. Đậu Hoàn vừa đàn vừa hát khe khẽ. Lát sau hỏi Vương Phố Sinh:

      “Có hay ?”

      “Hay.”

      “Hay ?”

      “Ừ.”

      “Từ nay ngày nào em cũng đàn cho nghe.”

      “Cám ơn.”

      Đậu Hoàn : “Đừng cám ơn em, lấy em .”

      Lúc ấy chẳng ai cười, chẳng ai bảo ta là chị cả hâm.

      “Em về làm ruộng với .” Đậu Hoàn như trẻ con diễn chuyện vợ chồng.

      “Nhà tôi có ruộng.” Vương Phố Sinh cười.

      “Thế nhà có gì?”

      “… Nhà tôi chẳng có gì.”

      “… Thế ngày ngày em đàn cho nghe. Em đàn, múa gậy kiếm ăn nuôi mẹ.” Đậu Hoàn . cơn mơ ngọt ngào.

      “Tôi có mẹ.”

      Đậu Hoàn sững người, hai tay ôm lấy Vương Phố Sinh, lát sau mọi người thấy đôi vai rung lên. Lần đầu tiên Đậu Hoàn khóc như người con trưởng thành.

      Nan Ni lúc đầu khóc như hóa dại, bây giờ lặng lẽ khóc theo Đậu Hoàn. Những người đàn bà xung quanh đều khóc.

      Đậu Hoàn khóc hồi rồi cầm cây đàn quẳng : “Cái của nợ này chẳng ra gì! Làm cho ai cũng phải khóc! Có mỗi sợi, khó nghe hơn cả bật bông.”

      Bây giờ Thư Quyên hiểu ra rằng, đột nhập của lính Nhật khiến đám đàn bà này thay đổi. Họ cảm thấy chẳng đâu an toàn cả, chẳng có nơi nào là vùng cấm đối với quân chiếm đóng. Lúc đầu họ biết nơi náu này là cái lỗ hổng có may mắn được chiến tranh bỏ sót, tuy nhiên chẳng ai biết được “bỏ sót” đến bao giờ. Hôm nay đột nhập của quân Nhật khiến họ hiểu rằng cái lỗ hổng đó được lấp kín bất cứ lúc nào. Ba chục vạn quân Nhật tràn ngập Nam Kinh tràn vào mọi ngõ ngách, mọi căn nhà, mọi lỗ hổng.

      Rời khỏi lỗ thông hơi, Thư Quyên phát mắt mình đẫm nước. bị đám đàn bà dưới hầm làm rơi nước mắt!

      Có thể hấp hối của Vương Phố Sinh làm cho Thư Quyên đau lòng, có thể cầu hôn kiểu trẻ con của Đậu Hoàn khiến cảm động, cũng có thể vì giai điệu trầm đục tấu lên của chiếc tì bà dây, đó là giai điệu bài “Hái chè” mà người Giang Nam ai cũng quen thuộc. Giờ đây Giang Nam còn nữa, chỉ còn điệu “Hái chè” run rảy sợi dây đàn.

      điệu bài “Hái chè” sợi dây đàn vẫn ngân nga mãi trong lòng Thư Quyên, điệu này hoàn toàn còn chút vui vẻ dí dỏm mà rầu rĩ như đưa tang. vào sảnh lớn trong cái lạnh buốt ruột buốt gan, ngồi trong bóng tối. Giai điệu kỳ lạ như đưa tang của bài “Hái chè” khiến nghĩ đến Giang Nam từng có, giang nam có gia đình mình, có bố mẹ cãi nhau liên miên… Khoảnh khắc này thấy mình hoàn toàn hòa hợp được với những người đàn bà dưới tầng hầm, trong khi với bố mẹ đột nhiên nỗi nhớ nhung như xé lòng và sợ rằng mãi mãi còn được gặp lại.

      Lúc này nghe thấy có tiếng người ở tầng hai. nhận ra giọng của Fabbi Atonado và viên sĩ quan họ Đới. Hai người đàn ông tranh cãi.

      Rất lâu sau, ông kể cho Thư Quyên nghe, cuộc tranh cãi tối ngày 18 năm 1937 xung quanh chuyện Đới Đào muốn xin lại khẩu súng lục và quả lựu đạn.

      Sau khi lính Nhật cướp chiếc xe Ford, viên thiếu tá quyết định rời khỏi nhà thờ. ta đến buồng ngủ Fabbi gõ cửa và : “Linh mục Atonado, tôi, Đới Đào đây.”

      Fabbi uống rượu mình trong bóng tối. Nghe tiếng gõ cửa, muốn mở. và linh mục Engman sống bên nhau hơn hai chục năm, người nào cũng phát minh ra vô số biện pháp để tránh quấy nhiễu của người kia. Vào lúc này có sưởi, linh mục Engman nhất định gõ cửa buồng .

      Viên thiếu tá vẫn gõ cửa: “Linh mục ngủ chưa?”

      “Ừ. Có chuyện gì mai .”

      “Mai muộn quá.” Viên thiếu tá .

      Fabbi đành phải cất chai rượu , đặt nó vào cái khe giữa giường và tủ con. Fabbi sở dĩ là Fabbi Dương Châu vì khi chỉ có mình nông dân Trung Quốc từ đầu tới chân. với linh mục Engman hơn hai chục năm vẫn uống được rượu tây như Bordeau, Brandy, Wishky. Tối đến, đóng cửa lại là quay về với cuộc sống nhà quê: Vài hớp rượu mạnh, đồ nhắm là khẩu vị của tiểu thị dân Trung Quốc: mấy miếng đậu phụ, nửa quả trứng vịt muối hay vài cái cánh vịt quay, rất tiếc bây giờ ngay cả đồ nhắm xoàng xĩnh thế cũng có, đành phải uống khan.

      Vừa vào cửa, Đới Đào ngửi thấy mùi rượu quê. ta : “Linh mục Atonado uống rượu mình à?”

      Fabbi ậm ừ, mời viên thiếu tá ngồi vào chiếc ghế tựa duy nhất. Thời buổi chiến tranh, người ta chẳng cần đến mắt vẫn hành động chính xác. Fabbi lấy chai rượu rót ít vào chén đưa cho Đới Đào. Về mặt này Fabbi cũng là nông dân Trung Quốc: Có khó chịu đến thế nào với vị khách mời mà đến khách vào nhà vẫn được mời ăn mời uống.

      Hai người uống mò trong đêm. Rượu có thể làm người ta dễ thổ lộ những điều khó .

      biết linh mục có thể cho tôi xin lại vũ khí mà linh mục Engman tịch thu của tôi hay . Tối nay tôi rời nhà thờ.”

      “Tối nay? đâu?”

      “Vẫn chưa biết.”

      “Bất kể đâu, mang vũ khí vẫn an toàn hơn là có vũ khí.”

      Đới Đào tranh luận với Fabbi thế nào an toàn hơn, ta cứ nhằm vào mục tiêu của mình: “Ông có giúp được tôi ?”

      “Giờ này linh mục Engman ngủ rồi.”

      “Tôi biết, tôi nghĩ nhất định ông biết linh mục Engman cất súng lục và lựu đạn của tôi ở đâu…”

      “Tôi biết… Hơn nữa nếu biết cũng thể đưa cho ông.”

      “Tại sao?”

      “Tôi làm sao có thể đưa cho ông được? Chính tay linh mục Engman nhận nộp, trả lại cho ông hay , do ông ấy quyết định.”

      “Được, thế tôi gặp linh mục Engman.” Đới Đào đặt chén xuống và đứng dậy.

      “Hãy để cho ông già được ngủ yên lành!” Trong đêm tối giọng của Fabbi là giọng của nông dân.

      “Ông ấy có ngủ yên lành được ? Ông có ngủ yên lành được ?”

      “Ông cũng biết ông ấy được ngủ yên lành ư? Từ lúc để các ông vào đây, ông ấy ngày nào yên lành cả! Chúng tôi cũng ngày nào yên lành cả!”

      Viên thiếu tá lạnh lùng: “Vì thế tôi phải .”

      “Ông mình, đem cả hai người hạ cấp của ông, chúng tôi càng yên lành! Ông muốn họ liên lụy chúng tôi? Liên lụy mười mấy học sinh của tôi?”

      Fabbi gay gắt, tư duy theo ngôn ngữ vùng Dương Châu lại có sắc sảo chặt chẽ của luật gia phương Tây.

      “Vương Phố Sinh qua nổi hai ngày nữa, Lý Toàn Hữu chân bị nặng như thế sao được?” Đới Đào nghe đuối lý.

      được vứt lại, mặc xác? Y như các đối với dân Nam Kinh, vứt là vứt phải ?” Fabbi hoa chân múa tay, từng chữ từng chữ thấm đẫm mùi rượu nặng bắn vào trung. “Chưa thấy quân đội quốc gia nào như các ông, địch chưa đến tự mình là kẻ thù của dân nước mình, phóng lửa đốt sạch làng mạc trong phạm vi dặm xung thành, là để cho địch còn chỗ nấp, để các dễ đánh hơn. Cuối cùng các đánh chưa? Các vứt bỏ dân mà chạy, sau khi đốt nhà người ta!”

      Suốt ba mươi năm nay chưa lúc nào như lúc này FabbiAtonado cảm thấy mình là người Mỹ thuần túy như thế, cảm thấy mình tách khỏi người Trung Quốc ràng đến như thế.

      “Bây giờ giống như chỉ huy của mình, ông cũng vứt lại thương phế binh của mình mà chạy!”

      Đới Đào nắm lấy cái chén trà bằng sứ, ngón tay biến thành những cái vuốt sắt. có lựu đạn dùng nó để giết chết con quỷ Tây dương miệng lưỡi độc địa này. ta đứng chỉ cách Fabbi hơn mét, xông lên, đập vỡ cái trán hói, để cho cái óc phía sau bộ mặt mũi lõ mắt sâu tự nhận là cao hơn người Trung Quốc đầu kia bao nhiêu trắng đỏ chảy tất cả ra. nhục nhã hơn trăm năm của Trung Quốc có liên quan chặt chẽ đến lũ quỷ Tây dương này, cũng như bọn Nhật, chúng coi người Trung Quốc là con người. Chúng nó chưa làm điều gì tốt lành ở Trung Quốc cả. ta nghe thấy thanh đặc biệt của chén sứ đập vỡ hộp sọ và cái giọng đặc biệt của sinh mạng sắp lìa đời, cái giọng xóa nhòa ranh giới ngôn ngữ, ranh giới con người và con vật, cái giọng khiến ta chuyển từ phẫn nộ sang khoái lạc, đến say sưa, cuối cùng đạt đến thang bậc xuất thần nhập hóa…

      Đới Đào từ từ buông chén trà, lần ra phía cửa. Rượu vừa bốc lên đầu, bàn tay nắm chén trà đến tê dại hồi phục tri giác.

      “Xin lỗi.” Fabbi phía sau ta.

      Đới Đào men theo hành lang, qua thư viện, phòng đọc sách. Vừa rồi sức lực bỏ ra để chế ngự hành động giết người vượt xa sức lực dùng để giết người. ta kiệt quệ còn chút sức lực nào để về cái hang cua thân nữa.

      Cả đêm đó Đới Đào ngủ ở chiếc ghế dài trong gian cầu nguyện. Bụng rỗng uống mấy hớp rượu khiến giấc ngủ của ta như chết mấy tiếng đồng hồ. Giêsu tuẫn nạn cây thánh giá, ánh mắt hấp hối lộ ra dưới mi mắt thạch cao chiếu vào ta.

      Đới Đào tỉnh dậy trời gần sáng. Toàn thân ta lạnh ngắt, như đông cứng và dính vào chiếc ghế. ta ra sân. Mấy ngày rồi mới lại nghe tiếng chim hót. Đây là thời kỳ bình thường, con người sống hay chết chẳng có gì chắc chắn hơn chúng. biết chúng có hiểu điều đó hay .

      Năm phút sau, ta thấy mình lang thang ở khu mộ. Cả nhà thờ đây là chỗ ta quen thuộc địa hình nhất. Khi chạy vào nhà thờ, ta hạ cánh ở đây. ta lấy cành cây quét cái mộ xi măng xây kiểu châu Âu. Đới Đào hiểu tại sao mình lang thang đến đây, mấy ngày nay toàn đây đó mục đích, làm những việc vô nghĩa. Chơi bài, đánh mạt chược với mấy làng chơi mãi cũng chán. Lúc nào cũng có đàn bà bên cạnh vẫn là việc chán đến phát điên phát rồ, chuyện lông gà lá tỏi cũng cãi nhau đến nửa ngày. Sau cái chết của Đậu Hoàn, đám đàn bà như mắc chứng bệnh thần kinh, buồn cũng như vui, đều là hysteric(22) cả. Lúc đầu ta khuyên các vài câu, về sau thấy khuyên cũng chẳng để làm gì, chính mình cũng chán đời đến cùng cực. Con đường phía trước phía sau đều mờ mịt, đường đường là người lính mà chui rúc giữa đám đàn bà son phấn, phải như mấy hôm trước chết quách lại sướng. buồn chán của ta chỉ lọt vào mắt người đàn bà, đó Triệu Ngọc Mặc.

      Đới Đào chắc có mục đích đến khu mộ để tìm vũ khí bị linh mục Engman tước mất. Để làm gì? Để báo thù người Nhật chăng? Làm hiệp sĩ độc hành, giết thằng nào được thằng đó, nếu bắt được sĩ quan cho nó mang bức thư về. Thư viết: “Chúng mày lừa hơn mười vạn lính Trung Quốc, bắn chết họ, chôn sống họ, từ nay trở chúng mày nên mọc thêm mắt đằng sau lưng…”

      Trẻ con quá.

      Nhưng phải tìm ra vũ khí.

      Khi đó ta nghe thấy tiếng sau lưng: “Xin chào.”

      Quay đầu lại, Đới Đào trông thấy linh mục Engman đứng dưới gốc cây như pho tượng người đá coi mộ. Linh mục mỉm cười tới.

      “Ở đây đào được thứ ông cần đâu.”

      Đới Đào ném cái cành cây : “Tôi chẳng đào gì ở đây cả.”

      “Tôi thấy ông đào cái gì.” Linh mục cười như trêu chọc. “Ông nên biết rằng, những người sống chúng ta nên lợi dụng những người chết đáng tôn kính, đem những thứ từng quấy rối yên nghỉ của họ chôn ngay bên cạnh họ.”

      Hay , tiếng Trung Quốc của ông phải là gần đến mức hoàn mỹ nhưng vẫn nghe ra tiếng nước ngoài. Hệ thống tư duy của dân tộc khác được ông diễn đạt bằng điệu của chữ Trung Quốc.

      Đới Đào đứng thẳng người, vết thương cánh tay trái khiến mặt ta giật cái. Linh mục Engman lo lắng nhìn ta.

      “Vết thương đau lắm ?”

      sao.” ta trả lời.

      Linh mục Engman nhìn lướt qua khu mộ với ánh mắt tự hào của ông chủ rồi ông giới thiệu với Đới Đào bảy vị linh mục nằm dưới mộ. Ông dùng giọng điệu mang chút trang trọng của buổi chiêu đãi khách quí. Vì đề nghị sắp đưa ra của mình, Đới Đào phải làm ra vẻ hứng thú và kiên nhẫn nghe ông già say sưa thuyết trình.

      “Ông có cảm thấy mấy người phương Tây này lẩn thẩn , nửa vòng trái đất cuối cùng được chôn ở đây?” Linh mục Engman hỏi.

      Đới Đào đâu có rỗi hơi mà nghĩ những chuyện đó.

      “Lần trước ông có với tôi, tổng cố vấn của các ông là người Đức, tên là Falkenhausen? Tôi có ấn tượng với ông ta.” Ông bật cười vì ý nghĩ kỳ lạ vừa nảy ra trong đầu. “ nhạc là sản phẩm của cảm tính, nhưng triết học và khoa học lại xây dựng cơ sở lý tính, nước Đức sinh ra cả ba: nhà soạn nhạc, nhà triết học và nhà khoa học. Họ lại có thể lý tính hóa cả kinh tế và quân đến mức độ triết học. Cho nên tôi nghĩ tướng Falkenhausen phải là nhà quân giỏi mà là nhà triết học quân giỏi. Cũng có thể tôi võ đoán,…”

      “Thưa linh mục,” Đới Đào .

      Linh mục Engman tưởng ta muốn phát biểu nhưng lập tức ông phát vừa rồi ta hề nghe diễn giải có tính tổng kết của ông; coi như ông độc thoại. Ông im lặng chờ đợi cho dù ông biết ta định gì.

      “Tôi phải khỏi đây rồi.”

      đâu?”

      “Xin ông trả lại vũ khí cho tôi.”

      “Ông xa được đâu. Khắp nơi đều có lính Nhật. Bây giờ Nam Kinh là doanh trại của 30 vạn lính Nhật. Nếu ông đem theo vũ khí càng khó xa.”

      “Tôi thể tiếp tục ở đây được.” Đới Đào ra điều muốn : ta cảm thấy ở dưới hầm, người chưa chết nhưng bắt đầu mốc và thối rữa rồi. Tinh thần thối rữa trước tiên.

      “Ông quê đâu?” Engman hỏi.

      Đới Đào ngạc nhiên nhìn ông.

      “Hà Bắc.”

      Bố ta là người lính cục mịch ra từ lò chiến tranh, người mười mấy vết thương, biết được vài con chữ, muốn lên quan chỉ có con đường: Dám chết. Người cả và ta đều tốt nghiệp trường quân , hai em cũng gả cho quân nhân…

      Nhưng ta chỉ muốn trả lời linh mục ngắn gọn vậy thôi.

      Linh mục Engman như nhìn thấy dòng dõi hiển hách của viên thiếu tá vì ông tiếp: “Tôi thấy ông giống với những quân nhân khác. Nhiều quân nhân khác khiến tôi coi thường, tòng quân để thăng quan phát tài, chiếm đoạt đàn bà.”

      “Ông có thể trả lại vũ khí cho tôi ?”

      “Ta chuyện đó sau, được ? Ông lập gia đình chưa?”

      “Ừ.” Câu trả lời càng ngắn.

      “Có con chứ?”

      “Có con trai.”

      đến con, tim ta nhói lên. Đứa con năm tuổi, con đường trưởng thành còn dài quá, có chăm sóc của người bố như mình ?

      “Khi mẹ tôi chết, tôi mới mười tuổi,” Engman . Giọng ông đầy ắp tình cảm khiến viên thiếu tá chú ý.

      Engman bỗng phát mép Đới Đào có vết trắng. Nhất định bị viêm lợi. Người Trung Quốc cho rằng đó là do tâm hỏa nặng quá. Người Mỹ cho rằng đó là do thiếu vitamin dẫn đến suy giảm miễn dịch và bị nhiễm trùng. Xem ra lúc này chẩn đoán của Mỹ và của Trung Quốc đều đúng với viên thiếu tá này. Hai bên mép nằm ngang nhau nữa, miệng hơi lệch, nếu khuôn mặt ngăm đen góc cạnh sắc nét này càng giàu nam tính. Đàn ông có khuôn mặt này văn có thể viết binh thư, võ có thể lãnh binh tác chiến, nhưng Engman hình dung được khi loài người có được hòa bình lâu dài đường nét như thế này vẽ ra bộ mặt của vai trò gì.

      “Cha tôi qua đời lúc tôi mười sáu tuổi.”

      “Sau khi cha ông qua đời ông theo đạo Thiên Chúa phải ?”

      “Cha mẹ tôi đều là tín đồ đạo Thiên Chúa.” Engman .

      Nhìn Engman lúc này ai cũng phải ngạc nhiên, con người đến chừng ấy tuổi vẫn còn nghĩ về cha mẹ.

      “Hai mươi tuổi tôi bắt đầu học Thần học. Khi đó tôi bị chứng bệnh ức tinh thần(23) rất nặng.”

      “Tại sao vậy?”

      “Ai biết được? Cứ thế bị bệnh thôi.”

      Thực ra Engman chưa . Nguyên nhân của bệnh đó là lần ông thất bại trong tình . Lúc đầu ông nghĩ rằng hai người đều kín đáo chia sẻ, cuối cùng ông phát chỉ có mình ông giữ mối tình đơn phương.

      “Khi bệnh của tôi trở nên nghiêm trọng, tôi gặp ông già lang thang nhiễm bệnh bạch hầu sắp chết. Khi đó tôi ở chung gia đình người . Tôi bí mật dìu ông ta đến chuồng gia súc ở trang trại, lấy rơm rạ che . Bởi vì tôi thay nuôi đàn gia súc cho nên ngoài tôi ra ai vào đó cả. Tôi mua thuốc cho ông ta, ngày ngày đưa thuốc đưa cơm. sinh mạng sống lay lắt cứ thế dần dần hồi phục. Ông già sống lại từng ngày cho tôi cảm giác mạnh mẽ, hình như chẳng có cái gì có thể khiến tôi cảm thấy mạnh mẽ như thế. Hết mùa đông ông mới khỏi hẳn.

      Ông già cám ơn tôi mãi vì được tôi cứu sống. Thực ra ông cứu sống tôi. Qua việc cứu ông tôi cứu chính tôi. Mùa đông năm ấy chứng bệnh ức tinh thần của tôi chữa mà khỏi. Cứu giúp người cần cứu giúp có thể khiến mình sung sướng.”

      Đới Đào nghe linh mục Engman kể chuyện qua bằng tư duy Mỹ, văn phạm , hiểu tại sao bỗng dưng ông lại về đề tài quá ư riêng tư như thế. Phải chăng ông muốn Trung Quốc có quá nhiều cuộc đời bi thảm cần ông cứu giúp cho nên ba mươi năm trước ông đến Trung Quốc? Hay là cũng như bảy vị linh mục nằm trong mộ kia, ông đến đây vì nơi đây là nguồn bất tận cung cấp những người Trung Quốc đáng thương để ông cứu giúp mà bản thân việc cứu giúp khiến các ông có cảm giác an lành.

      Hoặc giả ông muốn , ta Đới Đào nên học tập ông, hãy giúp hai đồng đội thương phế binh dưới hầm để cũng có được cảm giác an lành?

      “Tôi muốn với ông rằng, ông già lang thang đó là do Thượng đế sai đến.” Ông nhìn thấy giữa hai đầu lông mày của Đới Đào xuất nét chống lại nhưng ông vẫn tiếp: “Thượng đế dùng ông già nhắc nhở tôi, nên cứu người khác để cứu mình. Thượng đế muốn chúng ta cứu giúp lẫn nhau, nhất là trong thời khắc ai cũng có những hoạn nạn, ốm đau, bệnh tật. Tôi mong ông tin vào Thượng đế. Trong thời khắc con người còn sức lực và còn nắm chắc vận mệnh của mình – như lúc này, ông nên tin vào Thượng đế chứ phải tin vào vũ khí.”

      Đây nhất là buổi truyền giáo ít người nghe nhất trong đời vị linh mục già. Đới Đào lắng nghe và nghĩ vậy.

      “Ông còn tiếp tục tìm vũ khí ?”

      Đới Đào lắc đầu. Tất nhiên ta tiếp tục tìm và tìm gấp.

      Chú thích:

      (22) Ixteerri, chứng phát cuồng, rồ dại – ND.

      (23) Còn gọi là trầm cảm, mang nỗi bực dọc ra được và trở nên buồn phiền – ND.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      12

      Buổi sáng, những người đàn bà trong căn hầm tỉnh dậy, phát vắng Đậu Hoàn. George Trần lúc mờ sáng, ta dậy đun nước thấy Đậu Hoàn say bí tỉ lang thang ở sân. Thấy George Trần, ta giơ cái đàn tì bà lên nhờ kiếm cho ba sợi dây đàn. ta bảo đàn của chỉ còn dây, nghe chướng tai lắm. George Trần dỗ dành để trời sáng kiếm cho . Sao mà chờ đến sáng được? trời sáng Vương Phố Sinh rồi, chẳng nghe được đàn nữa. George Trần rằng mình thuộc đường. ta bảo sông Tần Hoài mà biết à? chỉ dẫn cho George Trần, dây đàn để ở trong ngăn kéo bàn trang điểm của ở Tần Hoài. George Trần bảo buồn ngủ quá, ngủ giấc rồi đến đó lấy dây đàn cho . Đậu Hoàn : “Vương Phố Sinh đợi được đâu.” Sau đó George Trần để ý ta đâu nữa.

      Đến trưa Đậu Hoàn vẫn về.

      Buổi sáng Fabbi đẩy chiếc xe cút kít đến khu an toàn chở lương thực, chiều về bảo mọi người, bác sĩ Wilson ở khu an toàn cấp cứu cho bé mười lăm tuổi nhưng cứu sống được. bé bị lính Nhật thay nhau hãm hiếp rồi đâm mấy nhát. bé lúc chết tay vẫn nắm chặt mấy sợi dây đàn.

      Theo lời kể của tôi và các ảnh tư liệu, tôi tưởng tượng ra cảnh tượng trước và sau khi Đậu Hoàn rời nhà thờ. Có ba tấm ảnh tư liệu: Mặt chính diện, nhìn ngang phần thân người, nhìn ngang phía bên kia. Ảnh tư liệu được ban chỉ huy khu an toàn chụp để làm bằng chứng tội phạm của quân Nhật. Đậu Hoàn có khuôn mặt nhìn ngang hoàn hảo, cho dù tóc rối tung, mặt sưng, vì khóc nhiều hoặc do bị lính Nhật đánh. Khi đó thoi thóp, bị lính Nhật coi là xác chết, bỏ lại phố. việc xảy ra lúc hơn sáu giờ sáng, trong cửa hàng tạp hóa rỗng , tốp lính Nhật khá đông xếp hàng trật tự để thay nhau hãm hiếp. Trong cửa hàng có chiếc ghế dài rất nặng là chỗ bé bị hành hạ. Bọn lính Nhật chỉ đóng khố, xếp hàng chờ đến lượt.

      Chân tay Đậu Hoàn bị kéo dang ra trói vào ghế. bé luôn miệng chửi và nhổ nước bọt. Bọn lính sôi gan vì cố tình làm bẩn, bèn tát . nằm im, phải bị khuất phục mà đột nhiên nhớ đến Vương Phố Sinh. Nhớ lại đêm qua hẹn với Vương Phố Sinh sống với nhau suốt đời, đánh đàn kiếm ăn. Trái tim tan nát khi nghĩ lại chuyện đó.

      Đậu Hoàn còn nhớ hẹn với Vương Phố Sinh: muốn có bốn sợi dây đàn để gảy bài Xuân giang hoa nguyệt dạ, Mai hoa tam lộng cho nghe. bảo: “Em còn biết hát Tô Châu bình đàn đấy nhé.” chỉ lo Vương Phố Sinh nhắm mắt tắt thở thực được lời hẹn.

      Bị trói chặt ghế Đậu Hoàn còn mơ mơ màng màng nhớ lại mình nhảy ra khỏi nhà thờ như thế nào, trong ánh sáng mờ mờ buổi sớm nhận ra hướng đông tây nam bắc. Từ bị giam trong kỹ viện, thực tế là nô lệ bị tù đầy, do đó lên phố là bị lạc, nhất là bây giờ Nam Kinh là đống đổ nát, khắp nơi lửa cháy, cửa hàng trống rỗng, chẳng mấy chốc Đậu Hoàn ân hận mình quá mạo hiểm. Định quay lại mới thấy mình quên cả đường về. Mùa đông năm giờ sáng trời vẫn tối như giữa đêm. Đậu Hoàn càng càng lạc lối. nghe thấy mấy lính Nhật đến, bỏ chạy vào ngõ , chúng đuổi theo, Đậu Hoàn rất nhanh, trong chốc lát chui vào ngõ và bỏ rơi chúng. Đúng lúc chui ra khỏi ngõ vướng phải vật gì mềm mềm ngã sấp xuống. Sờ thấy đống ruột gan. Đậu Hoàn kêu thét lên như gặp ma, buông xuôi đôi tay lạnh ngắt đứng tại chỗ mà kêu khóc đến nửa phút.

      Thế là chết rồi! Ba tên lính bỏ cuộc bây giờ vây lại. Tiếng kêu của còn đánh thức trung đội kỵ binh đóng trại gần đó, thế là lập tức chúng tìm chỗ có tiếng kêu kéo nhau đến.

      bé Đậu Hoàn mười lăm tuổi nằm chiếc ghế dài chỉ có ý nghĩ, chết , chết cho nhanh để biến thành ác quỉ quay lại bóp chết cắn chết từng con bầy dã thú hành hạ . Bị mấy cái tát, phun ra còn là nước bọt mà là máu, nhìn thấy từng đứa bị phun trúng người… dòng máu lớn nhất phun ra từ bụng rồi vai rồi đến bụng dưới. Bầy thú đội lốt người thích thứ đồ chơi vừa gào thét vừa nhổ bọt phun máu lên chúng bèn dùng lưỡi lê để bắt phải im.

      Năm 1994, tôi tìm thêm được tấm ảnh của Đậu Hoàn. Tấm ảnh gây sốc tìm thấy trong cuốn vở ghi của tên hàng binh Nhật. Trong ảnh, người con bị trói vào chiếc ghế, hai chân dang rộng, ống kính chiếu thẳng vào chỗ kín, mặt nhìn , chắc là vì bé giãy giụa mạnh, phần mặt nét nhưng tôi cho rằng đó chính là Đậu Hoàn. Lính Nhật những bạo hành với tuổi hoa mà như thế này là còn đóng đinh lên bức tường ô nhục truyền từ đời này sang đời khác.

      Tôi nhìn bức ảnh và nghĩ, việc đen tối đê tiện hết mức mà con người có thể làm. Chúng xâm phạm và làm nhục người con dân tộc khác kỳ thực làm nhục cả dân tộc đó. Chúng lấy tấm ảnh như thế làm chiến lợi phẩm là để xỉa nhát dao vào tâm linh của dân tộc bị làm nhục. Từ đó về sau tôi thường nghĩ, vết thương tâm linh sâu đến thế cần mấy thế kỷ để chữa lành? ký ức khắc cốt ghi xương cần bao nhiêu đời người để nó phai nhạt ?

      Vương Phố Sinh sốt cao, nhìn thấy ba sợi dây đàn, cậu hỏi: “Đậu Hoàn đâu?”

      Ngọc Mặc lắp dây vào đàn và gảy cho Vương Phố Sinh nghe khúc Xuân giang hoa nguyệt dạ như Đậu Hoàn hứa.

      Cậu lính trẻ hiểu chuyện gì xảy ra, nước mắt chảy ra đầm đìa từ trong đôi mắt đỏ như máu.

      Thư Quyên và các bạn được linh mục Engman cho biết tin về Đậu Hoàn. Ông bắt đầu như thế này: “Các em, chúng ta hãy cầu nguyện, cầu nguyện cho người hy sinh, cầu nguyện cho kẻ ác sớm trở lại tính người.”

      Ông và Fabbi cùng bước lên gác. Trong gian bé, hai thân hình cao lớn cúi lưng đúng tư thế cầu nguyện. Các bé nhìn nhau, muốn hiểu tại sao hai vị linh mục lại như thế, nét mặt các căng cứng như đổ thạch cao.

      Tiếp theo, Fabbi Atonado kể lại cách ngắn gọn về tai họa của Đậu Hoàn. Linh mục Engman hài lòng, ông với Fabbi: “Nên cho các em biết toàn bộ việc.” Fabbi kể lại, hết năm phút.

      Linh mục Engman đưa mắt nhìn khắp lượt: “Các em, sau này các em là nhân chứng, chẳng may người này còn nữa còn người khác có thể làm chứng, phải có người làm chứng mới được.”

      Nghe xong, các bé đều biến thành những bức tượng thạch cao. Chỉ khi hung hiểm xảy ra với người mình quen biết mới có cảm giác nó là , là chân thực. Trong đám nữ sinh có những người nhớ lại hôm Đậu Hoàn mới đến, chỉ vì bát súp mà họ xung đột với bé. Tội nghiệp Đậu Hoàn, mười lăm tuổi đầu bị bán bán lại mấy lần. Nếu còn đường sống bé có chọn cái nghề hèn mạt ấy , ai bảo là điếm có tình cảm? bé có mối tình sâu sắc đến thế với Vương Phố Sinh. Các nhớ lại đôi tay sưng đỏ vì lạnh của Đậu Hoàn giặt băng, phơi băng cho các thương binh, nhớ lại lần Đậu Hoàn ôm ấp con mèo hoang mới đẻ rơi từ xà nhà xuống, cuống quít tìm cái ăn cho nó, con mèo chết, khóc và chôn nó ở gốc cây đào… Các bé thấy thương quá, tại sao trong đám đàn bà ấy phải ai khác mà lại chính bé Đậu Hoàn mười lăm tuổi phải chịu bất hạnh đến thế?

      Linh mục Engman : “Bây giờ, các em thu dọn đồ đạc chuyển ngay xuống hầm kho, năm 1927, trong kiện Nam Kinh(24) tôi và Fabbi cùng mấy vị giáo sư thần học náu ở đó, thoát được qua mấy lần càn quét nhà thờ của quân Trực Lỗ và quân Giang Hữu. Cho nên ràng ở đó an toàn hơn gác này nhiều.”

      Fabbi hỏi ngay: “Có thích hợp hay ? đám người kia ăn cư xử rất phóng đãng …”

      có gì quan trọng bằng an toàn. Dọn , các em.”

      Trước bữa cơm chiều, mười sáu nữ sinh dọn xuống gian hầm bẩn thỉu hôi hám, ba quân nhân dọn lên xưởng đóng sách. Nếu lính Nhật có phát ra linh mục Engman hết sức giải thích rằng họ là thường dân bị thương, còn người Nhật có tin hay đành cậy nhờ số phận. Đây là đề nghị của Đới Đào, dụng ý của ta rất ràng, trong lúc này đàn ông ông có chọn lựa nào khác, phải bảo vệ đàn bà con .

      Bữa cơm tối, mọi người ăn bát mì loãng nghe tiếng Fabbi gọi qua lỗ thông hơi: “Từ Tiểu Ngu, lên đây lát.”

      dấu hiệu tin mừng khiến cặp mắt Từ Tiểu Ngu sáng rực trông đẹp khiến trong khoảnh khắc, Thư Quyên phải mê bạn thân trước kia. Tiểu Ngu lên rồi, các bạn túm tụm lại nơi lỗ thông hơi nhìn thấy đôi chân xinh xinh của Tiểu Ngu dừng lại trước đôi giày da đàn ông, đồng thời nghe tiếng kêu nghẹn ngào sung sướng: “Bố!…”

      Về sau Thư Quyên được biết, để về được đến Nam Kinh đón con, bố Tiểu Ngu bán dãy cửa hàng ở Áo Môn. Về đến nơi ông mới phát ra rằng đồng tiền chẳng còn mấy giá trị. Lính Nhật có thể chẳng cần đến tiền vẫn có khối thứ chúng muốn. Ông bán đủ thứ, bán cả thể diện cả lương tâm mới được cái giấy thông hành để đưa con . Vào Nam Kinh khó như lên trời, ra khỏi Nam Kinh khó như ra khỏi bầu trời.

      Tóm lại cảnh bố con nhà họ Từ gặp nhau cũng xúc động như tất cả những cuộc gặp gỡ của người thân trong cảnh loạn ly. Trong mấy phút Tiểu Ngu kể hết cho bố nghe phải chịu đựng nỗi sợ hãi, đói rét, rửa mặt rửa chân, nếu muốn phải rửa bằng nước ngâm xác A Cố đến trương lên.

      Thế rồi Từ Tiểu Ngu quỳ xuống rất thấp với các bạn chen chúc nhìn bố con : “Bố tớ đến đón tớ rồi!” nghe cứ như: “Thiên binh thiên tướng đến đón tớ rồi!”

      Ai cũng hâm mộ bé, hâm mộ đến mức căm ghét, cho nên chẳng ai gì, kể cả Lưu An Na, người mà Tiểu Ngu bằng lòng đưa theo cũng xị mặt xuống hé răng. Người ta sướng thế có còn nhớ đến lời hứa ? Đừng mơ hão.

      Lúc này ánh mắt của Thư Quyên và của Tiểu Ngu chạm nhau.

      Tiểu Ngu đứng lên, các bé nghe thấy: “Bố ơi, con muốn đưa bạn con cùng .”

      làm sao được!?” Bố gắt lên.

      “Con muốn đem theo.”

      Bố do dự. Hai mươi giây, các bé nín thở. “Được, con muốn đưa bạn nào ?”

      Khi Tiểu Ngu vào gian hầm, cả mười lăm bạn ai gì. Bây giờ Từ Tiểu Ngu nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Những người đàn bà Tần Hoài phía sau lớp rèm ngăn cách cũng im lặng. Cái may mắn ấy rơi vào ai đây, đối với họ cũng là đại ghê gớm lắm.

      Từ Tiểu Ngu nhìn từng bạn, hầu hết các bộ mặt đều khó coi, ai cũng có vẻ như sẵn sàng, cho dù được chọn làm đầu sai nhà Từ cũng bằng lòng.

      “Lưu An Na.” Tiểu Ngu .

      Lưu An Na xấu hổ quá mặt đỏ ửng đứng lên, đến đứng bên Từ Tiểu Ngu.

      Từ Tiểu Ngu nhìn những khuôn mặt còn lại, ai càng giương mắt nhìn, càng khó coi. Thư Quyên ngồi chỗ của mình nhìn lên lỗ thông hơi. vô cùng ân hận chịu cúi đầu trước Tiểu Ngu, bây giờ có cúi đầu cũng muộn rồi, cố tình tỏ ra thản nhiên. Từ Tiểu Ngu, mày cứ sống mà ra , còn tao sống chết việc gì đến mày.

      Sô-phi vo ve như con muỗi: “Tiểu Ngu ơi, cậu chả bảo là bố cậu đón cả tớ mà?”

      Lúc đó Thư Quyên muốn trừng mắt với Sô-phi: mày hạ mình cầu xin thế à? Nhưng thấy Tiểu Ngu nhìn mình, ánh mắt đầy thiện ý nhưng là thiện ý của kẻ mạnh, chỉ cần Thư Quyên mở miệng, cho dù chỉ hai chữ Tiểu Ngu là Tiểu Ngu thỏa mãn rồi, mọi giận hờn xóa hết, tình bạn trở lại như ngày xưa. Cho dù thế nào gia cảnh và phẩm chất của Thư Quyên đáng để làm người bạn thân thiết lâu dài với Tiểu Ngu.

      Lúc đó Thư Quyên rất bối rối, tài nào mở miệng được, mắt cứ đau đáu nhìn Tiểu Ngu. Lúc này hèn hạ thế nào, kém cỏi thế nào chỉ mình biết.

      Nhưng cuối cùng Tiểu Ngu thu ánh mắt lại, Tiểu Ngu lại lần nữa chơi Thư Quyên. vẫn tiếp tục vờn các bạn.

      “Rút thăm .”

      lấy tờ giấy trong cuốn sổ của mình, xé thành mười bốn mảnh rồi lấy ra mảnh, vẽ bông hoa mai lên đó.

      “Tớ cần. Các cậu rút .” Thư Quyên , đàng hoàng quay lưng về phía Tiểu Ngu.

      “Nào,” Tiểu Ngu như cầu xin Thư Quyên “Bố tớ thể đưa tất cả được…”

      Thư Quyên lắc đầu.

      Kết quả rút thăm, bạn từ trước đến nay chẳng mấy khi với Từ Tiểu Ngu câu theo bố con Tiểu Ngu, còn lại mười ba bạn chia nhau thỏi sôcôla bố Tiểu Ngu đem đến. đúng hơn là mười hai, Thư Quyên từ chối phần của mình. Tiểu Ngu muốn dùng chút quà để an ủi những bạn bị bỏ lại, Thư Quyên để được thỏa mãn.

      Hôm đó, trời tối lại từ lúc Từ Tiểu Ngu chọn bạn, , từ lúc các bạn nghe tiếng máy ô tô của bố Từ Tiểu Ngu khởi động ở cổng, chiếc xe con của ông Từ Đại Hưởng rồ máy phóng … Các bé nhận thấy bóng đêm trong căn hầm nuốt chửng mình.

      Bên kia rèm, Nan Ni hỏi rồi tự trả lời:

      “Chắc là bố bé ấy có tiền?… Đúng là có tiền . Có tiền bắt qủy đẩy cối xay.”

      “Nan Ni, ông chủ lò giết vịt của mày chẳng có vài đồng sao?”

      “Cặp đùi của Nan Ni quắp lão chặt, lão chuồn rồi!” Giọng Hồng Lăng.

      “Câm cái miệng thối của chúng mày lại!”

      Các bé nhận ra giọng Triệu Ngọc Mặc.

      “Năm kia lão bảo chuộc tao về làm vợ kế.” Nan Ni .

      “Chưa thấy đứa nào ngu như mày, với lão có phải bây giờ là Vịt Quí Phi ?”(25)

      “Biết đâu bây giờ cả vịt cả người bị lính Nhật thịt sạch cả! Bọn Nhật trông thấy con vịt Na Ni ngon lành thế sao nhỉ?…”

      “Hứ, thằng nào trèo lên tao kẹp chết thằng đó!” Giọng Na Ni nghe dữ dằn.

      “Nan Ni, mày im miệng có được ?” Ngọc Mặc lại can thiệp.

      Lát sau Na Ni thổn thức: “Đúng là chẳng có ai ngu như tôi! Theo lão ấy dù thế nào cũng còn hơn chui vào cái hang cua này, cuối cùng biết đâu lại giống như Đậu Hoàn!…”

      Các nữ sinh vốn ngồi sát nhau bây giờ càng dính lại với nhau. Tiếng khóc của Nan Ni đột ngột dừng lại, các bé đoán chắc có ai lấy chăn đè lên đầu Na Ni.

      Các bé nằm ép vào nhau ngủ thiếp . Cũng biết mấy giờ rồi, các nghe thấy phía bên kia rèm xao động, ai đó có người ấn chuông cổng. Lính Nhật?

      Chú thích:

      (24) Năm 1927 quân Giang Hữu thuộc quân đội Quốc dân đảng đánh đuổi quân Trực Lỗ chiếm Nam Kinh, ngày 24-3 xảy ra vụ cướp bóc và giết hại kiều dân và nhân viên các cơ quan và sứ quán nước ngoài ở Nam Kinh. Tàu chiến Mỹ đỗ sông Trường Giang trả đũa, bắn đại bác vào thành suốt giờ - ND.

      (25) Ví với mỹ nhân Dương Quí Phi của Đường Minh Hoàng đời nhà Đường – ND.



      13

      Linh mục Engman vẫn còn đọc sách trong phòng đọc, bây giờ ông đứng dậy xuống gác, đến gian hầm, ông vào lỗ thông hơi: “ sao đâu, tôi và cha Fabbi ứng phó được với họ, nhất thiết được gì.”

      Sau đó ông đến cửa xưởng đóng sách, đẩy cửa và giật mình. Đới Đào đứng ngay cửa, thái độ quyết tử. Phía sau, chiếc bàn làm giường, Vương Phố Sinh sốt cao, biết tỉnh hay ngủ. Lý Toàn Hữu để nguyên giày nằm dưới thảm, bên vai nghiêng như sắp trườn bò.

      “Chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối nên ra. Tôi và cha Fabbi xua họ .” Ông vỗ lên vai Đới Đào và còn mỉm cười.

      Linh mục Engman đến cổng, tiếng chuông vẫn liên hồi… Đêm hôm mở cửa cho người lạ là khôn, nhưng mở càng ngu. Ý nghĩ ấy cứ lượn qua lượn lại trong đầu như quả bóng bàn. Fabbi ra, miệng sặc hơi rượu.

      Linh mục Engman mở cánh cửa bằng quyển sách nhìn ra, đồng thời né mình sang bên, đề phòng chiếc lưỡi lê đâm vào. Quả nhiên chiếc lưỡi lê đâm vào , may mà mắt ông chờ sẵn đó. Bên ngoài ánh đèn ô tô lọt vào khe cửa. xe lính Nhật chăng?

      “Xin hỏi các vị cần gì?” Linh mục Engman hỏi bằng tiếng .

      “Mở cửa!” Câu tiếng Trung Quốc. Nghe lính Nhật đóng ở Nam Kinh năm sáu ngày thạo: “Mở cửa! Cút ra ngoài! Lương thực! Xăng! Con !” vì trong vài ngày họ lặp lại những từ đó hàng ngàn lần.

      “Xin hỏi tôi có thể giúp được gì ?” Giọng bình thản đơn điệu của linh mục Engman có thể làm yên những cái đầu điên.

      Báng súng trả lời. Mỗi nhát nện và khe cửa lại rộng ra chút, trong luồng sáng của đèn ô tô, có thể nhìn cái then giữa hai cánh cửa chỉ là thanh sắt .

      “Đây là nhà thờ Mỹ, mấy chục năm trước Người Mỹ mua mảnh đất này! Cho các ông vào đây coi như chúng tôi để các ông xâm nhập lãnh thổ nước Mỹ!” Fabbi hùng biện bằng giọng Dương Châu thay cho giọng ôn tồn của linh mục Engman, bọn này mềm muốn, thử cứng xem sao.

      Quả nhiên người Trung Quốc trả lời.

      “Quân đội hoàng gia Đại Nhật Bản có được tình báo chính xác là nhà thờ chứa chấp lính Trung Quốc!…”

      láo!” Fabbi cắt ngang câu của tên Hán gian: “Quân chiếm đóng lấy cớ tìm lính Trung Quốc để cướp lương thực! Cái trò đó còn mới mẻ gì với chúng tôi?”

      Bên ngoài yên chút.

      “Thưa ngài linh mục”, Hán gian : “Đừng nên dồn ép người có súng!”

      Linh mục Engman nghe thấy tiếng động phía sau, quay lại, ông thấy bóng người cầm súng đến. Xem ra lính Nhật biết cách vào nhà thờ mà cần phí sức phí lời.

      Linh mục Engman khẽ: “Họ vào rồi! Định làm điều xấu nhất đây.”

      “Các ông như vậy là xâm lược!” Fabbi chặn kẻ xông ra cổng. “ với các ông rồi, ở đây có lính Trung Quốc! Tôi đến khu an toàn tìm ông Rabbi!…”

      tiếng súng nổ, Fabbi kêu lên và ngã xuống. Ông chỉ cảm thấy bị lực rất mạnh xô vào bên vai. Ngã xuống nền đá lạnh ông mới thấy bên vai nóng bỏng đồng thời nghe thấy tiếng linh mục Engman gào thét: “Các người dám nổ súng vào chức sắc tòa thánh!” Ông lao đến: “Fabbi!…”

      sao thưa Cha,” Fabbi cảm thấy linh mục chạy đến y như hơn hai mươi năm trước Engman chạy từ bục giảng xuống: Hơn hai mươi năm trước linh mục Engman muốn tìm người trẻ tuổi để trông cậy suốt đời và ông tìm thấy Fabbi, hơn hai mươi năm qua ông thỏa nguyện.

      Cổng mở ra, hơn hai chục lính Nhật xông vào nhà thờ.

      Linh mục Engman chạy theo sau: “Ở đây hoàn toàn có binh sĩ Trung Quốc! Xin các ông ra ngay!”

      Fabbi thiết xem vết thương, chạy nhanh về phía cuối sân.

      Trong xưởng đóng sách, hai người lính Trung Quốc chuẩn bị chiến đấu. Lý Toàn Hữu đứng sau cửa, tay cầm chiếc búa kiếm được trong thùng dụng cụ. ta để tên lính vào rồi từ phía sau phang búa, cướp lấy súng. Sau đó cùng với thiếu tá Đới Đào biến nơi này thành lô cốt, dùng súng và lựu đạn cướp được để đánh trận.

      Đới Đào quì sau chiếc bàn, quay ra cửa, tay cầm chiếc cào vẫn dùng để cào than. ta tính để cho hai tên lính Nhật vào sập cửa lại, ta và Lý Toàn Hữu cùng tấn công, lấy bất ngờ làm ưu thế.

      ta nhớ lại tiếng hô vừa nãy của Fabbi và Engman: “Ở đây hoàn toàn có binh sĩ Trung Quốc!…” lạ, ta bắt đầu hiểu câu đó.

      “Lý Toàn Hữu, bỏ búa xuống.” Đới Đào khẽ đồng thời liệng bỏ đôi giày .

      “Thôi, chơi nữa à?” Lý Toàn Hữu hiểu.

      liều được. Nghĩ mà xem, nếu đánh có nghĩa là linh mục chứa chấp binh sĩ.”

      “Vậy làm sao?”

      Người Nhật lật tung cái nhà thờ này lên. Đám nữ sinh và đám đàn bà sao?”

      “… Bây giờ sao?”

      “Cởi quần áo ra, nằm ngủ. Đóng giả dân thường.”

      Lý Toàn Hữu vừa vứt cái búa, định ghép hai cái bàn làm giường cửa bị đạp tung, luồng đèn pin rọi vào.

      Lý Toàn Hữu suýt nữa vớ lấy cái búa.

      Linh mục Engman bình thản : “Họ là giáo dân, nhà bị cháy, chạy vào đây trú nhờ.”

      ra!” Tên Hán gian dịch câu chữ, dịch cả giọng điệu người Nhật.

      Đới Đào từ từ bò dậy, khó chịu như người ngủ bị đánh thức.

      “Mau lên!”

      Đới Đào khoác lên mình chiếc áo vét cũ của Fabbi, cũng như chiếc áo len bên trong, thoáng nhìn cũng biết phải của ta, quá dài quá rộng.

      Lý Toàn Hữu mặc cái áo bông dài của George Trần lại có vẻ ngắn, vạt chỉ đến đầu gối, đội chiếc mũ phớt của Fabbi, to quá, sụp đến mắt.

      “Kia là ai?” Ánh đèn chiếu vào Vương Phố Sinh nằm.

      “Đấy là thằng cháu ngoại tôi, nó ốm nặng quá, sốt cao mấy ngày rồi…”

      Lý Toàn Hữu chưa xong, hai tên lính xông đến, lôi Vương Phố Sinh ra khỏi chăn, Vương Phố Sinh bất tỉnh nhân bị lôi ra sân, hoàn toàn chống cự giãy giụa, chỉ có thở nặng nhọc và gấp gáp, tựa hồ như cậu bé mười lăm tuổi thoi thóp chờ chết bị hành hạ được kích thích sống lại.

      “Nó mới là đứa bé, lại ốm rất nặng!” Hai vị linh mục cầu xin.

      Hai tên lính bất chấp, cứ lôi Vương Phố Sinh ra sân. Engman theo định tiếp tục thuyết phục nhưng đầu lê cản lại, chiếc áo choàng lông ngỗng của ông rách toạc miếng, lông ngỗng bay ra trắng xóa. Linh mục Engman sững người lại, mũi lê đâm sâu chút nữa vào tim rồi. Nhát đâm hầu như chỉ để gợi trí tưởng tượng cho ông: Mũi lê có nhọn ? Vào tim cũng dễ như thế đó. Với mũi lê như thế, trái tim là vật mềm yếu và biết trốn chạy. Còn lúc này Engman coi mũi lê đó là hành động thách thức, đùa giỡn với phong thái uy nghiêm của ông, tại sao có thể dùng lưỡi lê để đáp lại thái độ mềm mỏng của ông? Ông càng buông xuôi, bước theo hai tên lính lôi Vương Phố Sinh: “Bỏ cậu ấy xuống!…”

      Hành động mãnh liệt của Engman khiến lông ngỗng bay tung như tuyết rơi, tạo nên cơn bão tuyết xung quanh ông.

      “Hãy nhìn lên Thượng đế, buông cậu ấy ra!”

      Ông lại cản hai tên lính, đồng thời bỏ áo khoác ra, cuốn vào cậu bé. Vương Phố Sinh nằm dưới đất hơi thở yếu ớt như sắp tắt.

      viên thiếu tá đến, lấy mũi giày ngựa thúc vào cậu bé, câu. Viên thông ngôn dịch câu đó: “Nó bị lưỡi lê đâm.”

      Engman : “Đúng vậy.”

      “Đâm ở đâu?”

      “Ở nhà.”

      đúng, pháp trường. Nó là tù binh Trung Quốc được cứu ra khỏi pháp trường.”

      “Pháp trường nào?” Linh mục Engman hỏi.

      “Pháp trường xử bắn tù binh Trung Quốc.” Viên thông ngôn diễn tả cả tức tối kìm lại được của tên chỉ huy.

      “Ồ các ông bắn tù binh à?” Linh mục Engman hỏi: “Xin lỗi tôi biết. ra quân đội Nhật đặt mình ra ngoài qui pháp Genève. Viên thiếu tá có dáng người thường thấy của đàn ông Nhật, vai rộng chân ngắn, mày rậm mắt , nếu giết người nhiều đến mức mờ mắt cũng thuộc loại khôi ngô. bị Engman dồn vào chỗ bí mấy giây rồi với thông ngôn câu.

      “Ngài thiếu tá , ngài lấy nhà thờ làm chỗ chứa chấp lính Trung Quốc, bây giờ ngài chẳng còn gì để nữa chứ?”

      “Họ làm sao có thể là lính được?” Engman chỉ vào Đới Đào và Lý Toàn Hữu đứng bên.

      Lúc này tên lính Nhật đẩy người đàn ông Trung Quốc chừng bốn mươi tuổi ra. Viên thông ngôn : “Đây là đội viên đội chôn xác mà người Nhật thuê, ông ta bảo có hai tù binh còn sống được đưa đến đây.” quay sang người đàn ông nọ” Ông có nhận ra hai người đó ?”

      Người đàn ông rất hăng hái: “Nhận ra được!” tay chỉ vào Đới Đào: “Người này là !”

      Fabbi quát lên: “Đồ chó! Mày cũng chẳng đáng là đồ chó!”

      Engman biết ngay là người này nhận ra hoặc nhớ hình dạng người được cứu.

      Hai lên lính Nhật quay sang Đới Đào, trong nháy mắt tóm lấy cánh tay ta. Đới Đào nhịn cái đau thấu tim, mặc kệ cho họ bẻ ra đằng sau. Engman với người đội viên chôn xác: “ láo, lần đầu tiên trong đời trông thấy ông này.”

      Viên thiếu tá hỏi qua phiên dịch: “ có nhận ra đúng là người này ?”

      Fabbi Atonado dùng tiếng tiếng Dương Châu lớn tiếng: “ nhận ra cái con khỉ! sủa bậy cốt giữ cái mạng sống!”

      Viên thiếu tá sai dẫn Đới Đào , linh mục Engman bước lên định can lại nhưng bị giáng cái tát, ông loạng choạng.

      “Nhận sai người rồi!” Lý Toàn Hữu vội, ta chống gậy kéo lê cái chân đau, cố gắng đứng thẳng người lên. Lý Toàn Hữu với người đàn ông: “Mày nhìn kỹ tao , tao có phải là người mày cứu ?”

      “Người ta cứu, tôi cứu!” Người này cuống lên để lộ chân tướng.

      “Mày là nhận ra hai người kia mà? Tại sao mày nhận ra bố mày đây?” Lý Toàn Hữu chỉ vào mình, thái độ rất lính tráng côn đồ.

      “Họ đều là dân thường!” Engman , ông cố vớt vát, sau đó ông đành buông xuôi như đối với chiếc xe Ford thân của ông. Tuy chỉ là vớt vát nhưng ông nề hà, ông tiến đến đỡ Đới Đào. Ông từng hàn huyên rất ý hợp tâm đầu với chàng trai này, ông còn muốn với ta nhiều nữa…Ông cảm thấy cái tát nữa, tai ông ong ong, ông nhìn thấy tên chỉ huy bóp bóp bàn tay, lắc lắc cổ tay, cái tay đánh người già cũng dễ chịu.

      George Trần từ bếp ra có vẻ như định lau máu mặt vị linh mục. Khi lính Nhật áp sát nhà thờ, ta làm trò vợ chồng với Hồng Lăng; trả với giá mỗi ngày ba củ khoai. Xong công việc tốt lành, hai người ngủ say bí tỉ. Tiếng súng lính Nhật bắn Fabbi đánh thức họ dậy, ta dặn Hồng Lăng tìm chỗ trốn, còn mình chạy ra sân nấp sau đống củi đốt lò sưởi nhìn ra.

      George Trần là người có chí, ta tin rằng mạng người quí lắm, phải cố mà sống. Gần đây kết với Hồng Lăng, ta cảm thấy cuộc sống thú vị.

      ta nhìn thấy áo linh mục Engman bị lưỡi lê đâm rách, lại nhìn thấy linh mục bị tát vào mặt, ta bất giác nắm lấy thanh củi. Vị linh mục đáng kính mà bị đối xử như thế, lũ quỷ Nhật lùn còn đáng bưng bô cho ông! Nhưng ta buông thanh củi xuống, vì hai chục tên lính Nhật có súng đạn trong tay, đùa được. ta ngồi nguyên đó, tiến được thoái xong, vừa để cho cái tín điều “cố mà sống” lớn dần lên, vừa chửi mình vong ân bội nghĩa, ra cái thá gì. Linh mục Engman nuôi George Trần từ khi ta mười ba tuổi, cho ăn cho mặc, dạy đọc chữ viết chữ, khi nhận ra rằng chẳng trông cậy được gì vào ta nhưng ông vẫn mệt mỏi dạy ta học hành. Cho dù linh mục là người vô tư nhưng đó phải lỗi của ông, đối với ta linh mục chán ghét nhiều hơn là hiền từ, ta còn kém xa con ngựa con rơi xuống giếng. Nhưng có linh mục Engman ta chỉ từ thằng ăn mày bé con trở thành người ăn mày to xác, nếu cao số thành người ăn mày già, sống đến hết đời, đâu có George Trần đầu bếp của nhà thờ? Lẽ nào trước mắt Hồng Lăng tuổi xuân mơn mởn, phải là George Trần đầu bếp có quyền có thế và chùm chìa khóa tủ thức ăn lủng lẳng nơi dây lưng? Nghĩ đến đây ta trông thấy linh mục Engman bị cái tát thứ hai, chắc là gãy răng rồi, răng ta cũng thấy đau thay cho ông.

      George Trần vừa đến gần bị tên lính bắt.

      ta là đầu bếp của nhà thờ!” Fabbi .

      Viên thiếu tá hỏi người đội viên chôn xác: “ có nhận ra người này ?”

      Người chôn xác nhìn mặt người thanh niên Trung Quốc mặt trắng bệch dưới ánh đèn pin như là cố nhớ lại rồi ấm ớ buông tiếng: “Ừ.”

      Engman : “ ta là trẻ mồ côi bảy năm trước tôi nhận về nuôi.”

      Viên thiếu tá hỏi người chôn xác: “Trong mấy người này, ai là lính Trung Quốc?”

      Người nọ cầm lấy đèn pin, soi mặt từng người.

      “Tôi những người tôi thu nhận đều là dân thường, là giáo dân của nhà thờ này.” Linh mục Engman .

      Người chôn xác chiếu đèn vào mặt Lý Toàn Hữu rồi : “Tôi nhận ra rồi, đúng người này.”

      Đới Đào : “ nhận ra tôi kia mà, tại sao lại thành ra ta?”

      Fabbi : “Cho nên là thằng chỉ bậy! chẳng nhận ra ai cả! Đầu bếp của nhà thờ cũng là lính, mắt chó của mù rồi…” George Trần dám động đậy, mắt dám chớp chỉ dám liếc ngang, liếc qua liếc lại như mưu gì.

      Viên thiếu tá tháo găng tay sờ lên trán George Trần. muốn sờ thấy vết lõm do đội mũ lính lâu ngày. Nhưng George Trần hiểu lầm là muốn chọn chỗ để chém, ta lùi lại theo bản năng, quay đầu . Viên thiếu tá tất nhiên chẳng sờ thấy gì, phân vân lại thấy thái độ George Trần như vậy, “soạt” cái rút kiếm ra, George Trần ôm đầu bỏ chạy. Tiếng súng nổ, George Trần gục xuống.

      Đới Đào : “Các ông giết người vô tội! Tôi là lính Trung Quốc, các ông bắt tôi !”

      Fabbi nâng George Trần dậy, George Trần giãy giụa ngày càng yếu, viên đạn xuyên thủng cuống họng.

      Sau khi ngã xuống ta giãy giụa cuối cùng đến sát lỗ thông hơi. Phía sau tấm lưới, mười mấy cặp mắt trẻ từ trong bóng tối nhìn ta. Người đầu bếp trẻ tuổi tay nghề cao nhưng tốt bụng, chẳng gì nhiều với các bé vậy mà khi chết lại gần các đến thế.

      Thư Quyên lấy tay bịt miệng, nếu lại gào lên như Sô-phi. Sô-phi được khác ghì chặt vào lòng và vỗ nhè . Mấy bạn bạo dạn bây giờ trở thành bậc đàn chị của các bé nhút nhát.

      Viên thiếu tá nhìn kỹ Đới Đào. Lính chuyên nghiệp có thể ngửi được mùi của nhau. cảm thấy người đàn ông Trung Quốc này toát lên lạnh lùng và khát máu của người lính.

      quay sang linh mục Engman: “Ồ, ông linh mục, vùng trung lập của người Mỹ còn trung lập nữa hả? Ông còn phủ nhận chứa chấp kẻ thù của quân Nhật nữa hay ?”

      Đới Đào : “Tôi tự ý nhảy tường vào, can gì đến ông linh mục cả.”

      Linh mục Engman ta phải kẻ thù của quân Nhật. tấc sắt trong tay tất nhiên là người dân vô tội.”

      Viên thiếu tá dung bàn tay đeo găng trắng ra hiệu đưa ba người Trung Quốc còn sống .

      Fabbi : “Các ông chỉ bắt hai người! DDã bắn chết của chúng tôi làm thuê.”

      Viên thiếu tá : “Nếu chúng tôi phát thấy bắt nhầm chúng tôi đem trả lại.”

      Fabbi kêu lên: “Thế còn người chết oan?”

      “Trong chiến tranh có nhiều người chết oan lắm.”

      Linh mục Engman đến trước mặt viên thiếu tá: “Tôi cảnh cáo các ông lần nữa, đây là địa bàn của nước Mỹ, trong lãnh thổ Mỹ ông nổ súng giết người, tùy tiện bắt bớ người tị nạn, ông có nghĩ đến hậu quả ?”

      “Ông có biết thượng cấp của chúng tôi giải quyết hậu quả thế nào . Họ : Đó chỉ là hành động mất kiểm soát của cá nhân trong quân đội, những người đó bị trừng trị theo quân pháp. Thực tế chẳng có ai truy cứu những “hành vi cá nhân” cả. Hiểu chưa, ông linh mục? Trong chiến tranh hành vi mất kiểm soát xảy ra từng giây đồng hồ.” Viên thiếu tá lưu loát, phiên dịch cũng lưu loát.

      Linh mục Engman cứng lưỡi. Ông biết chính phủ Nhật chối bay mọi tội ác.

      Đới Đào : “Thưa linh mục, xin lỗi, tôi tự ý leo tường vào gây cho ngài những lo lắng cần thiết.” ta giơ tay chào theo kiểu quân .

      Theo nhận xét của Triệu Ngọc Mặc, giọng của Đới Đào rất đẹp. quên hỏi quê ta ở đâu. Cũng có thể ta lính từ , bốn bể là nhà, giọng pha tạp, còn thuần khiết nữa.

      cứ thế giương mắt nhìn bị lôi . Ai nghĩ được lại chia tay theo cách như vậy…

      Chỉ mới tối hôm kia thôi, còn với rằng lẽ ra phải rời khỏi nhà thờ từ sớm kia, sở dĩ còn nấn ná là vì còn lặng lẽ tìm lại vũ khí. , người đàn ông nào quen đeo súng lục giống như người đàn bà quen đeo trang sức, có nó thấy mất tự tin. thế rồi nháy mắt với . hiểu, hẹn ra ngoài.

      Họ lần lượt ra khỏi căn hầm. Cứ y như là cuộc hẹn hò bí mật, mỗi cái đưa mắt đều có nghĩa. Hai người men theo chiếc cầu thang ọp ẹp leo lên cái gác chuông rệu rã. nhớ lại, trong bóng tối chìa tay cho , sợ ngã và : “Coi như thám hiểm phế tích cổ xưa.”

      Gió gác chuông cũng khác, lạnh hơn nhưng như là gió tự do. Vì kiến trúc bị sập xệ tạo ra gian méo mó cho nên con người cũng phải vặn vẹo khi đứng hoặc ngồi trong đó. Đới Đào lấy ra chiếc ống nhòm bỏ túi, đưa lên nhìn xung quanh rồi đưa cho . Phố xá mờ ảo dưới ánh trăng, tách ra những ngõ như nhánh cây rồi nối vào các ngôi nhà như lá cây. Có điều lúc này các ngôi nhà đều đen sì. Chỉ vì đây đó còn lẹt đẹt tiếng súng mới khiến người ta nghĩ rằng đây phải là ngôi thành vắng bóng con người từ ngàn năm trước mà hãy còn sinh mạng để cho cung cấp cho cuộc săn lùng bắn giết.

      “Nhà các ở phía nào?” Đới Đào thấy nhìn lâu thế mới lầm tưởng là tìm sông Tần Hoài.

      “Em tìm nó,” cười lạnh lùng, “mà đấy đâu phải nhà em.”

      Đới Đào gì nữa, hiểu rằng lạnh lùng của là do gây ra.

      Hai người ngồi im, lát sau hỏi nghĩ gì. nghĩ xem có nên hỏi quê ở đâu, có con chưa, vợ bao nhiêu tuổi. Nhưng nghĩ đây là câu hỏi của người định sống với nhau lâu dài. Nếu hỏi như vậy, cũng lơ trả lời.

      Vậy cho nên : “Em nghĩ… em muốn điếu thuốc.” Đới Đào mỉm cười: “Vừa khéo, tôi cũng muốn hút thuốc.”

      Hai người nhìn nhau rồi lại quay ra nhìn phố xá. Nếu bây giờ được nghe tiếng rao bán thuốc lá có nghĩa là thành phố hồi sinh, hai người có thể ra ngoài. Tiếng rao bán thuốc lá là khúc dạo đầu, tiếp theo là tiếng rao bánh bao, đậu rán… có thể tìm quán nào đó ăn bữa tối rồi đến vũ trường nhảy đến khuya.

      Có thể cũng nghĩ tương tự như vậy, : “Đó cũng là duyên số. Nếu cái cấp trung đoàn phó bé con con như tôi làm sao mà hẹn được tiểu thư Triệu Ngọc Mặc.”

      hẹn đâu mà biết là được.”

      “Tôi hẹn lên lên gác ngắm cảnh đấy thôi?” cười, đầu ngoẹo sang bên, ý đem cái gác chuông đổ nát này và thảm cảnh ngoài kia ra chiêu đãi .

      “Cái này cũng tính à?”

      “Sao lại tính?”

      đứng rất thoải mái, có thể vì thế mà vết thương đau hơn cho nên hơi dịch lên phía trước gần . Dưới ánh trăng mờ, nhìn . biết, cái nhìn của Triệu Ngọc Mặc là nghiêng nước nghiêng thành.

      “Tất nhiên là tính.” nhìn .

      điều khiển được trung đoàn sĩ quan binh lính bây giờ chẳng điều khiển nổi trái tim mình. sắp đổ gục nhưng vẫn đứng im, coi trái tim mình như người lính bướng bỉnh nhất của trung đoàn. phải sai khiến và sai khiến được.

      “Thôi vậy, tính nhé. Sau này hẹn ăn tối, nhảy mới tính.” .

      “Em nhớ rồi đấy nhé.” chậm rãi: “Nếu giữ lời, đến mời em là em ….” càng chậm lại.

      thế nào?”

      “Em đến mời .”

      bật cười: “Con mời con trai?”

      “Em lần đầu tiên mời con trai vậy nên coi chừng.” đưa tay xoa rất lên má . Đây là động tác của làng chơi, mà cũng chẳng muốn giả làm con nhà lành. Với con nhà lành, chẳng được hưởng đầy đủ rồi sao! Điều muốn nhớ là nợ buổi chiêu đãi thuần túy là kiểu gọi cao cấp. Vì cuộc chiêu đãi tình dục hừng hực sức sống đó, hãy sống, đừng có lao vào những cuộc chém giết đổ máu nữa.

      “Vậy tôi cũng nhớ.”

      “Nhớ cái gì? lại nghe nào.”

      “Nhớ rằng người đẹp Nam Kinh Triệu Ngọc Mặc hẹn, vì lời hẹn đó, tôi được chết.” cười, nửa đùa nửa . Đàn ông lính đều là cao thủ tán , cho thấy về khoản tán tỉnh chẳng hề kém chút nào.

      Hai người xuống gác, đến hành lang chia tay. cần gặp Fabbi. hỏi muộn rồi tìm ông ấy làm gì. cười vẻ thần bí.

      Bây giờ Ngọc Mặc nghĩ về nụ cười cuối cùng ấy của .



      Các nhìn qua lỗ thông hơi, thấy tên lính Nhật đá vào người Vương Phố Sinh, vừa đá vừa quát: “Đứng dậy! Đứng dậy!”

      Chú lính đau đớn quá, kêu lên thảm thiết, các run lên.

      quân đội tàn nhẫn như các ông, tôi chưa hề thấy bao giờ!” Linh mục Engman chạy đến định kéo tên lính đạp vào bụng Vương Phố Sinh, lại mũi lê xé rách áo ông, lông ngỗng bay ra theo sau ông: “Xin ông hãy vì thượng đế tha cho đứa bé!…”

      Viên thiếu tá lấy kiếm chặn ông lại. Lý Toàn Hữu đứng cách chỉ bước chân, ta đột nhiên phát lực, chồm đến viên sĩ quan trẻ tuổi. Chẳng ai kịp phản ứng, hai người ôm cứng lấy nhau. Lý Toàn Hữu tay trái khóa cổ, tay phải bóp chặt khí quản viên thiếu tá. Chân tay viên thiếu tá mềm oặt, thanh gươm rơi xuống đất. Lý Toàn Hữu đổi tư thế, tay trái vẫn siết cổ . Lính Nhật dám bắn, chúng tuốt lê đến giải cứu. Khi lưỡi lê cắm vào ngực Lý Toàn Hữu cũng là lúc cổ họng viên thiếu tá bị hai chiếc kìm tay của Lý Toàn Hữu bóp muốn vỡ ra. Bọn lính dùng lưỡi lê đâm nát người Lý Toàn Hữu, cứ mỗi cơn đau, bàn tay lại siết chặt hơn. Chân tay viên thiếu tá mềm nhũn, tri giác dần dần tê dại .

      Cuối cùng đôi tay của người lính Trung Quốc cứng lại, đôi mắt trừng trừng nhìn cũng dại , hàm răng nghiến lại bật ra câu nguyền rủa đủ khiến viên thiếu tá khó chịu.

      Tên này vận dụng tất cả sức lực còn lại mới cố đứng vững được. Máu miệng ộc ra, chân tay tê dại dần dần thức tỉnh. biết, chỉ cần đôi tay siết cổ thêm năm phút, có thể chỉ ba phút cùng về nơi chín suối với người lính Trung Quốc này rồi. cảm thấy cổ họng đau buốt, được rồi, biết đau thế là tốt.

      Viên thiếu tá ra lệnh bọn lính bắt đầu lục soát. Khắp nơi trong nhà thờ nhoang nhoáng bảy tám luồng sáng đèn pin. Linh mục Engman đứng tại chỗ chìm vào cầu nguyện đầy xúc động và thầm lặng. Ánh mắt Fabbi hoảng loạn nhìn theo luồng sáng sục vào xưởng đóng sách. Mười sáu chỗ nằm của các nữ sinh vẫn còn đó, mười sáu cái đệm cỏ, mười sáu cái chăn lại còn lễ phục của ban đồng ca là đầu mối lục soát của bọn Nhật. Nếu chúng giàu trí tưởng tượng, từng bộ từng bộ váy dạ thủy thủ màu đen khiến chúng liên tưởng đến những tấm thân non tơ… Ai biết được câu chuyện khủng khiếp đến mức nào!

      Phát ra cái lỗ lên gác hai là khó, Fabbi nhìn thấy luồng sáng lia đến căn gác, ánh sáng lọt qua khe rèm.

      Đám lính lục soát nhà ăn hầu như chẳng thu được gì, Fabbi thở phào, cái lò nướng mới kê chặn đường xuống hầm kho, cái lò phối hợp rất hài hòa với các tủ kệ khác trong nhà bếp.

      Thực ra lính Nhật vào bếp có động cơ khác; chúng cậy cái tủ khóa của George Trần, lấy ra túi khoai và nửa bao bột. Mấy chục vạn quân Nhật vào thành cũng phải chịu đói, cho nên tìm thấy lương thực là chúng reo ầm lên.

      Ngay ở dưới sàn gỗ các nữ sinh và các điếm đều chớp mắt nhìn trừng trừng lên trần hầm và nhìn ánh đèn lọt qua cửa lên xuống.

      Qua tấm rèm, các điếm nghe thấy hai ba nữ sinh rên rỉ. Ngọc Sênh rít răng: “Các mụ tiểu thư, còn ho he tao sang bóp chết!”

      Nan Ni bôi đất lên mặt. Ngọc Sênh trông thấy cũng lấy hai tay sờ xung quanh xoa bồ hóng bụi bẩn lên mặt! Ngọc Mặc chua chát cười thầm: Chúng mày nghe à? Trong tay bọn súc sinh bà già bảy mươi cũng thành tơ. Chỉ có Hồng Lăng nhìn cái cửa lên xuống hình chữ nhật. đờ đẫn trong bóng tối, chốc chốc lại nấc lên thổn thức, nhìn George Trần từ con người nhanh nhẹn hoạt bát đến lúc thành cái xác đầm đìa máu thịt, thể nào thể nào tin được đó là . qua tay vô số đàn ông nhưng trong thời khắc loạn lạc, sống nay chết mai này lại kết với George Trần, tình hiếm có nảy nở trong . Hồng Lăng nghĩ đời này bây giờ còn George Trần tai vểnh chưa cười nữa. thể tin được. vẫn thường nghe George Trần : “Thà sống hèn còn hơn là chết.” Con người lòng dạ cam chịu “sống hèn”, an phận giữ mình như vậy mà cũng được toại nguyện. Hồng Lăng tê tái nghĩ: Tội nghiệp cho George Trần của tôi.

      Hồng Lăng phát thấy trong tay Ngọc Mặc cầm cái gì đó, cái kéo dùng trong việc khâu vá, hơn bàn tay nhưng rất sắc. thấy Ngọc Mặc dùng nó cắt chỉ, cắt hoa ngày tết, sửa lông mi cho , cắt vài lần lông mi đen và dày. Lông mi của Hồng Lăng đen và dày như bây giờ là nhờ cái kéo này. Nó chưa bao giờ rời khỏi Ngọc Mặc, bao giờ cũng được để chung với mấy món đồ trang sức thiết thân. biết bây giờ chị cầm nó để làm gì. Có thể chị dùng để cắt họng, cắt động mạch, để giữ thân và để báo thù cho thiếu tá Đới Đào mà chị sắp phải rời xa. Bọn Nhật sục sạo căn bếp vẫn lật hòm phá tủ, chúng xì xồ, mỗi tiếng phát ra lại có hai bé co rúm lại.

      Nan Ni khẽ: “Chị Ngọc Mặc, chia cho em nửa cái kéo.”

      Ngọc Mặc thèm để ý, sức nào mà tách ra được, gây tiếng động để oan gia à? Ai cũng thích cái kéo đó, cho dù nó là cái răng của con thỏ sắp chết cũng được.

      Ngọc Sênh : “ có kéo dùng đầu gối cũng được. Miễn sao đầu gối chưa bị giữ chặt, thúc mạnh lên cái ấy của nó …”

      Ngọc Mặc suỵt tiếng, bảo họ im.

      Bố nuôi Ngọc Sênh là võ sĩ đánh tay , hồi bé có học ở ông mấy miếng võ tay võ chân. phút sau quên mất nhắc nhở của Ngọc Mặc, lại bắt đầu dạy “võ gia truyền”. bảo các bạn nếu hai tay chưa bị trói càng tốt, tóm vào cái ấy mà bóp cho nó đẻ được ra súc sinh Nhật bản con nữa.

      Ngọc Mặc dùng cùi chỏ thúc mạnh ta vì tiếng căn bếp đầu bỗng nhiên im ắng. Tựa hồ như ba tên lính Nhật nghe được tiếng các chuyện.

      Các ngồi im phăng phắc, chiếc kéo trong tay Ngọc Mặc ướt đẫm mồ hôi. chưa bao giờ nó như bây giờ, nó hơn cả chiếc nhẫn kim cương mà kẻ phụ tình tặng. có được cái kéo từ khi mới mười ba tuổi. Bà chủ kỹ viện mất chiếc kéo dùng để khâu vá, vu cho Ngọc Mặc lấy đánh trận nhừ tử. Về sau cái kéo được tìm thấy, bà chủ tặng nó cho như vật bồi thường vì sai trái của mình. Từ đó Ngọc Mặc thề vươn lên, rũ bỏ cái phận người rẻ mạt, chỉ vì cái kéo mà phải chịu nhục.

      nữ sinh thút thít. Ngọc Mặc vén rèm lên, nghiến răng : “Chúng mày khóc cái gì? Có chúng tao đây thí mạng cho còn sợ cái gì hả?”

      Từ trong bóng tối, Thư Quyên nhìn bóng dáng đôi vai tròn, cái eo thon. Nhiều năm sau Thư Quyên dịch phá cách câu của Ngọc Mặc thành: “Tao xuống địa ngục đứa nào xuống.”

      Trở lại sau rèm, qua lỗ thông hơi Ngọc Mặc nhìn thấy Vương Phố Sinh quần áo, mình quấn đầy băng bị lôi xềnh xệch ra phía cổng.

      Vương Phố Sinh đau quá kêu tiếng dài. Đới Đào quát lên: “Thằng bé này chẳng sống nổi hai ngày, sao lại còn….”

      Câu của Đới Đào bị nhát chém cắt đứt. Hai hôm trước Ngọc Mặc dùng lời hẹn ước ngọt ngào để giữ sống, nhớ rồi, vậy mà cái đầu chứa đựng lời hẹn ước đó rơi xuống đất ngay trước mắt !

      Vương Phố Sinh còn sức sống bỗng bật ta tiếng kêu quái dị: “Tao giết tám đời bọn Nhật Bản!”

      Viên thông ngôn dịch câu rủa này.

      Vương Phố Sinh tiếp tục la lên: “Tao giết tất cả bọn đàn bà con Nhật thối tha!”

      Viên thiếu tá bắt viên thông ngôn dịch đơn giản câu này.

      Nghe xong dùng thanh kiếm đẫm máu Đới Đào đâm ngay vào ổ bụng nát của Vương Phố Sinh.

      Ngọc Mặc láy tay úp chặt hai tai, tiếng kêu cuối cùng của Vương Phố Sinh thảm thiết quá. Mới hai ngày trước đây thôi, Đậu Hoàn còn hồn nhiên bảo gảy đàn kiếm ăn và sống với cậu lính này đến đầu bạc răng long, giờ đây hai người theo nhau làm đôi hồn ma trẻ tuổi.

      Ánh đèn pin tắt, tiếng giày đinh xa dần về phía cổng. Tiếp theo tiếng còi ô tô “bim…” hồi dài, cáo từ theo kiểu diễu võ giương oai của kẻ gây ác. Khi tiếng máy ô tô xa, những người đàn bà và các bé nhìn thấy đôi chân của linh mục Engman và của Fabbi bước chầm chậm, loạng choạng kinh hoàng. Hai người di chuyển mấy cái xác…

      Ngọc Mặc khóc rưng rức. lùi khỏi lỗ cửa, tay nắm chặt cái kéo tay quệt nước mắt, tay đầy đất khiến mặt mũi nhem nhuốc. thiếu tá Đới Đào, là người con đa sầu đa cảm, trái tim có thể nhiều đàn ông, cả ba người lính này, đến thắt ruột.

      Lúc này là hai giờ sáng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      14
      Sáu giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1937, hai vị linh mục dẫn đầu 13 nữ sinh tiễn đưa ba người lính, các bé hát khúc cầu siêu bằng giọng trầm trầm. Thư Quyên của tôi đứng ở hàng đầu. Sau khi lính Nhật rời , các lấy những tờ giấy trắng tinh làm mấy chục bông hoa trà, vòng hoa đơn sơ đặt trước bốn thi thể. Lúc nãy khi các bé nâng vòng hoa đến sảnh lớn Ngọc Mặc cùng các bạn ở trong sảnh, các vừa bận bịu mấy tiềng đồng hồ tắm rửa thay quần áo cho người chết, các còn cạo mặt cho họ. Đầu thiếu tá Đới Đào được ghép lại với thân thể, Ngọc Mặc lấy chiếc khăn quàng lông mịn quấn cổ cho . Thấy các bé đến, các đều đưa mắt chào.
      Khi đó chỉ có Thư Quyên vội vàng đưa mắt chỗ khác, vẫn hận lắm. nghĩ, đời này những sinh mạng rẻ mạt, hề cao quý sống dai như đám đàn bà chuyên nghề mua vui đứng kia, còn người cao quí như thiếu tá Đới Đào yểu mệnh và còn phải đón nhận cái chết thảm thương đến thế.
      thấy đám điếm mặc quần áo tang, mặt trắng xanh do thoa phấn, Triệu Ngọc Mặc mặc chiếc áo dài lụa nhung đen như góa phụ. này lắm trang phục , có cả áo tang. Thư Quyên muốn lườm ta cái nhưng lại thôi. Các điếm ai cũng cài mái tóc bông hoa trắng tết bằng sợi len tháo ra từ chiếc áo len.
      Linh mục Engman mặc chiếc áo choàng trang trọng nhất của ông nhưng vì lâu mặc cho nên bị bọ cắn thủng lỗ chỗ. Mái tóc bạc phơ chải ngược ra sau, ông đội chiếc mũ rất nặng, tay cầm chiếc gậy lễ cũng rất nặng bước lên bục giảng.
      Tang lễ bắt đầu, Thư Quyên rơi nước mắt. Thư Quyên của tôi phải là người mau nước mắt, khóc, chính cũng thấy lạ. nhiều lần kể với tôi về cái chết của ba người lính và đám tang của họ, bao giờ cũng : “ hiểu mình khóc cái gì mà khóc thảm thiết đến thế.” Về già, Thư Quyên là nhà văn lớn, có thể viết ra hàng đống chữ, phân tích rất sâu sắc chút cảm giác nho . , lúc đó khóc vì hoàn toàn vứt bỏ hy vọng đối với cái gọi là con người: Con người tại sao bỗng dưng gây ra cuộc chiến tranh để đánh nhau? Đánh vài ngày người chẳng là người nữa, thoái hóa thành con vật, mà con vật cũng tàn sát đồng loại. chịu đựng, trốn chạy, kinh hoàng của đồng loại… thấy được hết. Đứng giữa đám bạn bè hát khúc An Hồn, Thư Quyên đầm đìa nước mắt nhìn bốn thi hài bệ.
      Họ bị tàn sát như thế nào, chứng kiến từ đầu đến cuối. tàn nhẫn của con người đúng là có giới hạn, có điểm dừng. Thiên hạ hề có công lý, nếu có làm sao nhóm người có thể đến nước khác mà ngang ngược hành hạ người đàn bà nước khác tàn độc như vậy? Thư Quyên khóc rưng rức như muốn trút ra tất cả những oan khuất chứa chất trong lòng.
      Bảy giờ sáng, họ an táng những người xấu số ở khu mộ của nhà thờ.
      Sau đó linh mục Engman thay đôi giày đế cao su để bộ đến khu an toàn. Ông đến đó để báo cáo chuyện xảy ra đêm qua, nhân tiện nghe ngóng xem có thể tìm được phương tiện giao thông nào để bí mật đưa các em nữ sinh ra khỏi Nam Kinh. Chỉ cần có chiếc xe đưa các em đến nhà riêng ông Rabbi, hoặc nhà ông Robinson, chật chội chút cũng được. Cần có hai ủy viên của khu an toàn theo xe từ nhà thờ đến đó, khoảng năm kilômét, để dọc đường khỏi bị quân Nhật cướp xe. Sau chuyện tối qua, linh mục Engman hiểu rằng những nhà thờ còn an toàn mà hơn nữa bị quân Nhật để ý. Ông có cảm giác, sau khi lục soát căn gác, quân Nhật nhất định nghi ngờ các em học sinh vẫn còn trong nhà thờ, từ đó hoài nghi lời giải thích của Fabbi rằng: Trước khi Nam Kinh thất thủ, các em được cha mẹ đón rồi. Thậm chí ông còn kinh hoàng khi nghĩ đến, lính Nhật còn đánh hơi thấy mùi của các em. Ông nhớ lại tối qua có thoảng nghe thấy tiếng kêu thất thanh. Mong sao đó là ảo giác của ông do thần kinh quá căng thẳng.
      Đúng vào lúc ông lo ngại điều đó ở bên ngoài, nơi thành phố thành địa ngục, viên thiếu tá Nhật cũng suy nghĩ xem tiếng kêu non nớt nghe thấy tối qua là cái gì.
      Tất nhiên, tôi viết như vậy là gượng ép, là tưởng tượng. Nhưng căn cứ vào hành động của chiều hôm nay, tôi có cảm giác tâm lý viên sĩ quan này có lẽ đúng như vậy. Khi người đầu bếp bị bắn gục xuống, nghe thấy tiếng kêu, tiếng đứa bé như còn mùi sữa mẹ. Lại nữa, mấy tên lục soát căn gác báo cáo đó là buồng ngủ tập thể. Sau khi rời khỏi nhà thờ, kết hợp những tượng, tiếng kêu, hơn chục bộ chăn đệm, hơn chục bộ váy áo lễ phục, nghi ngờ rằng các nữ sinh vẫn còn ở trong nhà thờ. Viên thiếu tá nghĩ đến những thiếu nữ mặc váy dạ đen thủy thủ da thịt thơm tho đến thế nào, được nếm mùi chết cũng đáng. Ruột gan cồn cào như lửa đốt. Viên thiếu tá cũng như đa số đàn ông Nhật lúc này có thứ bệnh hoạn là thích giao cấu với vị thành niên, họ có thèm khát rất cổ lỗ và độc ác đối với con còn bé hoặc còn trẻ. Viên thiếu tá tưởng tượng tiếng kêu thoảng nghe như có như đó thành tiếng kêu gào trong đêm đầu tiên. càng nghĩ càng mê mẩn. Tiếng kêu đó là bông hồng trong toàn bộ kiện đẫm máu này. Nếu cái hưng phấn bệnh hoạn và tội lỗi đó có phần vạn là đẹp đẽ, nếu có chiến tranh cái phần vạn đẹp đẽ đó là trí tưởng tượng đen tối cũng mãi mãi được phép nảy nở sâu tận đáy lòng người đàn ông. Nhưng chiến tranh khiến nó khác rồi, cái trí tưởng tượng bệnh hoạn đó trong lòng viên thiếu tá và những người đàn ông đồng hương của lập tức trở thành nỗi khát vọng được thỏa sức bạo ngược. Là kẻ chiến thắng, nếu chiếm hữu đàn bà của quốc gia thù địch chưa gọi là chiến tranh cách an toàn và chiếm hữu đàn bà của quốc gia thù địch quan trọng nhất là chiếm hữu thành phần đẹp nhất – đó là các thiếu nữ. Do đó viên thiếu tá phải hoàn thành nốt phần cuối cùng của cuộc chiếm đóng, đó là chiếm hữu thiếu nữ của quốc gia thù địch, chiếm hữu cái đêm đầu tiên của họ.
      Tôi nghĩ viên thiếu tá chắc phải mất đến nửa ngày trời để tìm được chậu hoa Giáng sinh. định đem chậu hoa đến, dùng cách khác để ấn chuông cổng nhà thờ. Có chậu hoa, còn là sĩ quan của quân chiếm đóng buộc phải làm tên đồ tể bất đắc dĩ như tối hôm qua nữa.
      Ta hãy quay lại những chi tiết nhạt nhẽo khô khan của của cuộc thương thảo diễn ra trong chuyến của linh mục Engman đến khu an toàn để bàn việc đưa các em nữ sinh ra khỏi nhà thờ. Cứ mặc kệ cho viên thiếu tá tìm chậu hoa mà cho rằng thể thiếu được để làm cớ xâm nhập vào nhà thờ chiều nay. Tôi phải quay lại khu mộ nhà thờ chút, đó là lúc bảy giờ mười lăm, linh mục Engman vừa ra khỏi cổng.
      Các điếm và các em nữ sinh về căn hầm, chỉ còn mình Ngọc Mặc ở lại, đứng trước mộ Đới Đào.
      Fabbi quay lại trông thấy, : “Về thôi, sắp mưa rồi.”
      Ngọc Mặc lấy mu bàn tay quệt nhanh má muốn để cho Fabbi thấy mình khóc.
      Fabbi đứng nguyên tại chỗ chờ, thấy Ngọc Mặc có ý định về, quay lại và : “Về mau lên, ở ngoài an toàn đâu.”
      Ngọc Mặc quay lại, hai mắt đỏ và sưng húp vì khóc. Lúc này xinh, mà còn xấu . Nhưng Fabbi vẫn thấy hấp dẫn. còn nhìn thấy hai lăm tuổi này bỏ lỡ hàng ngàn hàng vạn cơ hội làm nữ giáo viên, nữ thư ký, nữ đại gia, bà lớn… Nhưng bây giờ tin rằng chính vì bỏ lỡ hàng ngàn hàng vạn cơ hội may mắn đó cho nên trông vô cùng hấp dẫn. trong hàng ngàn hàng vạn cơ hội may mắn là chàng trai hai mươi tuổi Fabbi từ nước Mỹ về tình cờ gặp bé hơn mười tuổi bị bán vào nhà chứa. Fabbi dốc hết số tiền dành dụm được trả cho người bán bé. bé bảo với Fabbi rằng tên là Triệu Ngọc Mặc. Đó là khả năng mà cả hai cùng bỏ qua mất.
      Do đó bây giờ Fabbi hỏi : “Nhà còn ai ?”
      “Chắc hãy còn.” lơ đãng trả lời: “Hỏi thế để làm gì?”
      “Sợ xảy ra chuyện gì… mất liên lạc, tôi cần tìm người nhà .”
      “Sợ chẳng may tôi chết ư?” Ngọc Mặc cười như mếu. “Đối với người nhà tôi, tôi chết hay tôi sống chẳng khác gì nhau.”
      Fabbi gì nữa, vết thương vai chốc chốc lại nhói lên.
      “Họ chỉ cần có thuốc phiện hút là xong, mấy người chị em đều bị bán lấy tiền mua thuốc hút.”
      có mấy chị em?”
      “Tôi là chị cả, còn hai em em trai. Khi mẹ chưa nghiện tôi hề kém các bạn, tôi học trường tốt, tôi học năm trường của giáo hội.”
      kể lại chuyện cha đem gán nợ cho chú họ , bà thím lại bán cho nhà chứa. kể với thái độ vô cùng dửng dưng, chính cũng cảm thấy quá ư bình thường, nhạt nhẽo. kể đến cả chuyện cái kéo khiến bị đánh đập nhục nhã, chuyện chiếc kéo khiến nghiến răng lại quyết chí, cho dù phải dùng cái nghề hèn mạt này, cũng phải có ngày mở mày mở mặt.
      Lúc này Fabbi và ngồi trong sảnh lớn, mùi thơm của hương và nến của lễ cầu siêu Misa vẫn chưa tan hết.
      Ngọc Mặc ngồi xuống hàng ghế đầu, cầm lấy cuốn kinh thánh để sẵn ở đó cho giáo dân, cười chua chát. mỉa mai chính mình.
      Do đau đớn vì vết thương, Fabbi cứng người đứng trước mặt . kể với nhiều thế khiến khó xử, có chút xấu hổ vì phải linh mục rửa tội, cũng phải con chiên xưng tội. Đối với Fabbi, con người suốt ngày lặng lẽ mình hiểu kỹ quá về người khác là gánh nặng khiến khó chịu. Biết đâu người đàn bà tên là Ngọc Mặc này tính toán điều gì đó chẳng lành.
      Đột nhiên chuyển sang chuyện khác: “Thế còn ông phó linh mục?” muốn biết đời tư của , chuyện đời tư đổi lấy chuyện đời tư.
      hiểu sao Fabbi cũng bắt đầu kể. kể cho nghe cha mẹ để ở lại Trung Quốc như thế nào, cha nuôi và bà vú nuôi lớn lên như thế nào. Vừa kể vừa nghĩ, hình như chưa từng có ai cần nghe chuyện của , chưa có ai lắng nghe kể chuyện như Triệu Ngọc Mặc. Trước chăm chú lắng nghe đó, bỗng nhiên trong bùng lên nhu cầu khao khát được thổ lộ; những tình tiết kể quay lại kể chi tiết hơn. nghĩ những chi tiết đó kể rất sinh động, bởi vì đôi mắt và gương mặt Triệu Ngọc Mặc nhập thần đến vậy. Khi kể đến căng thẳng và sợ hãi khi gặp những người thân thích ở Mỹ, Ngọc Mặc mỉm cười thương hại. Người đàn bà này có thể thấu hiểu tình cảnh con người sâu sắc đến vậy!
      Fabbi nghĩ, nếu có người chịu nghe tâm , có thể bỏ rượu. Gương mặt chăm chú lắng nghe đến thế đủ làm say.
      Ngọc Mặc : “Tôi chưa hề nghĩ, trong đời này lại có lúc chuyện với linh mục.”
      Fabbi càng nghĩ rằng, lại trao đổi chi tiết cuộc đời mình với điếm.
      “Vậy ông ở trong nhà thờ suốt đời?”
      Fabbi sững người, chưa bao giờ nghi ngờ việc gắn bó suốt đời với ngôi nhà thờ này và mộ của đặt cạnh mộ linh mục Engman. Bây giờ nghe Triệu Ngọc Mặc hỏi, bỗng thấy hoài nghi. Cũng có thể vẫn luôn luôn hoài nghi nhưng để ý, tuy vậy hoài nghi và hoài nghi luôn tồn tại song song với nhau, tựa như tồn tại của thượng đế cũng vậy, như có lại như .
      Nhất là trong kiện đêm qua, đấng sáng thế sao mà yếu đuối bất lực đến thế, sao mà cũng dễ bị bắt nạt như dân lành vậy? nhìn người đàn bà gợi cho hoài nghi. Miệng về những gì xảy ra sau khi gặp được linh mục Engman nhưng trong đầu lại nghĩ về cơ hội gặp hăm mốt tuổi bị bỏ qua, gặp thanh niên phương Tây tiếng Dương Châu, đưa vào trường Wilson, trường nữ học của giáo hội, lặng lẽ chờ lớn lên. Đợi tốt nghiệp trung học rồi trở thành người đỗ đạt cao, Fabbi đến trước mặt và tuyên bố mình hoàn tục… Bây giờ Fabbi nhìn đôi môi, đường nét tuyệt đẹp của cái cằm xinh xắn được vô số đàn ông hôn. Chiếc áo dài bó sát thân như lớp da của ; đó là cơ thể của người đàn bà Trung Quốc trong tranh thủy mặc, đường nét uyển chuyển cực kỳ huyền diệu, chỉ có người đàn ông phương Tây hiểu văn hóa Trung Quốc mới biết mơ đến cơ thể như thế – sau khi người đàn bà có tên Triệu Ngọc Mặc đau đáu nhìn , mơ mấy lần, mơ thấy Triệu Ngọc Mặc trút bỏ từng lớp áo, lộ ra làn da mịn màng, làn da trắng xanh của cuộc sống đêm, tỉnh ra và giận mình và càng giận .
      Có thể giận chính là . Nhưng căm ghét Fabbi dễ , tình nhục dục và thấp hèn đến thế.
      Điều Fabbi cảm thấy an toàn, đó là người đàn bà có tên Triệu Ngọc Mặc bao giờ . Cái nhìn đau đáu mang vô số hàm ý chỉ là xảo thuật, dùng nó để tìm kiếm thuận lợi cho mình, do đó càng thấy giận. bị lẫn rồi, nếu lòng có phải xong đời rồi ? Lẽ ra phải cám ơn , vì với , chỉ dùng xảo thuật thôi.
      “Tôi về đây.” đứng dậy, cặp mắt đỏ bớt sưng.
      chảy nước mắt quá nhiều vì viên thiếu tá họ Đới, thiếu tá có linh thiêng nên biết rằng mình có diễm phúc lắm, nếu Fabbi ở vào vị trí của viên thiếu tá thế nào nhỉ? thương cảm chút và nghĩ: Ồ, cái chàng Fabbi nửa tây nửa ta còn nữa. Nhưng còn sống hay chết có gì khác nhau nhỉ? Đối với , chẳng có gì khác nhau cả.
      “Thưa ông linh mục, ông nhớ rồi chứ ạ?”
      Fabbi ngơ ngác nhìn . ngoẹo đầu như cười, Fabbi hiểu rồi, hỏi có nhớ chuyện đời tư của . Con người tựa bụi hồng như , khi rời tựa hồ như chưa bao giờ đầu thai vào thế gian này. Bây giờ nếu như Fabbi có trí nhớ tốt nên nhớ như hạt bụi nhưng cũng có gốc có rễ.
      Fabbi bỗng thấy nhói đau trong lòng, nỗi đau chưa hề có bao giờ.


      15
      Hai giờ chiều, linh mục Engman bộ từ khu an toàn về đến nơi. Ông lôi ra từ trong áo choàng năm sáu cân gạo. Fabbi nấu cháo chín rồi gọi mọi người đến phòng ăn. Linh mục Engman bảo họ rằng, hôm kia lính Nhật ngang nhiên đến khu an toàn bắt mấy chục người đàn bà. Chúng dùng thủ đoạn cực kỳ đê tiện, trước hết bịa ra chuyện lùng bắt lính Trung Quốc, dùng kế điệu hổ li sơn, đưa mấy vị lãnh đạo khu an toàn đến cổng Học viện Nữ học Kim Lăng, đồng thời dùng xe tải bố trí sẵn đưa mấy chục người đàn bà ra cửa bên. Linh mục Engman điều kiện sinh hoạt ở khu an toàn còn tồi tệ hơn ở nhà thờ, quá chật chội phóng uế mọi chỗ mọi nơi, bệnh truyền nhiễm lan tràn, giữa nạn nhân với nhau luôn luôn xảy ra xung đột vì miếng ăn, cho nên lãnh đạo khu an toàn cho rằng mười mấy em mười bốn mười lăm tuổi ở đó hề an toàn hơn so với ở nhà thờ. Bà Whittlyn và linh mục Engman thoả thuận, đêm nay đưa xe cấp cứu đến nhà thờ chuyển các em nữ sinh đến nhà riêng bác sĩ Robinson.
      kiện xảy ra hồi bốn giờ chiều ngày 21 tháng 12 năm 1937 được Thư Quyên của tôi ghi chép lại sau khi thoát hiểm. Nhiều năm sau viết lại. Tôi được đọc bản ghi chép với văn chương điêu luyện. Tôi phải là nhà văn sử học như , tôi viết tiểu thuyết, đọc bản ghi chép đó tôi thể kìm lại được tưởng tượng theo tư duy tiểu thuyết. Bây giờ tôi dựa vào trí tưởng tượng để phục hồi kiện đó bằng ngôn ngữ tiểu thuyết.
      Nam Kinh tháng 12 trời chóng tối, bốn giờ chiều nhá nhem. Lại thêm có mưa, sáng sớm chưa kịp qua trưa ngả về chiều.
      Linh mục Engman ngủ gà gật trong phòng đọc sách – ông dọn vào ở trong phòng đọc sách để khỏi mất thêm củi lửa đốt lò phòng ngủ, cũng để nghe tiếng Fabbi lên xuống gác, ra vào cửa, những thanh khiến ông cảm thấy đỡ trống vắng, có cảm giác được Fabbi làm bạn cách gián tiếp, giúp ông can đảm hơn.
      Fabbi từ đầu cầu thang chạy đến kêu lên: “Thưa Cha!…”
      Đó là thứ thanh hồn siêu phách lạc.
      Linh mục Engman ngồi trong ghế bành đứng dậy, nhưng hai chân yếu quá lại ngồi phịch xuống. Fabbi đến cửa.
      “Có hai xe tải đến! Con đứng gác chuông nhìn thấy!”
      Fabbi tội nghiệp lúc này như đứa trẻ vô tâm, linh mục Engman đứng lên, tấm áo choàng lông ngỗng ngực bị xẻ miếng dài lộ ra lớp vải lót màu đỏ trông y như vết thương.
      “Bảo mọi người chuẩn bị. được gây tiếng động, nhà có sập cũng ra.” Ông vừa vừa đổi sang mặc áo tang màu đen, cầm lấy cây trượng.
      Ra đến ngoài, trước mắt linh mục Engman là mảng sân rộng vàng khè, lính Nhật mặc quân phục ngồi kín mít bờ tường, tựa như loài chim lạ lông vàng rơi từ trời xuống trong nạn dịch chim.
      Chuông cổng kêu. Lần này thanh có vẻ rụt rè, kêu tiếng lại dừng quãng lại kêu… Linh mục Engman trông thấy Fabbi từ trong bếp ra, ông biết đám đàn bà con được báo tin. Ông hất hàm ý đến lúc rồi đó, phải đối đáp rồi.
      Linh mục Engman và Fabbi Atonado sánh vai ra cổng, lần này ô cửa có lưỡi lê thọc vào mà là màu đỏ rực. Linh mục Engman nhìn rồi, viên thiếu tá tay trái nâng chậu hoa , tay phải nắm chuôi kiếm.
      “Tại sao phải bấm chuông? Các ông thích cửa chính mà.” Linh mục Engman .
      “Xin ông nhận lời xin lỗi của tôi.” Viên thiếu tá . Đôi giày ngựa dập gót nghe chói tai, cúi rạp người xuống để chào, “vì hôm qua quấy quả ngài linh mục.”
      Vì hai câu xin lỗi mà phải luyện tiếng đến khổ sở.
      “Mang hơn trăm binh lính lăm lăm súng ống đến xin lỗi ư?” Linh mục Engman .
      Viên thông ngôn xuất , Hán gian nho nhã chừng năm mươi tuổi đeo kính gọng vàng.
      “Sắp đến ngày Giáng sinh, sĩ quan binh lính chúng tôi đến chúc mừng ngày lễ.” Viên thông ngôn , chủ của y chỉ cười cười, đài từ do y soạn, có vẻ như y thuộc.
      “Cám ơn. Xin nhận tấm lòng tốt.” Linh mục Engman : “Bây giờ có thể xin binh lính của ông tường lui xuống được ?”
      “Xin ngài linh mục mở cổng cho ạ.” Viên thông ngôn truyền đạt câu lịch hết mức của viên thiếu tá.
      “Mở hay đối với các ông có khác gì đâu?”
      “Ngài linh mục đúng lắm, khác gì tại sao mở cho lịch ?”
      Linh mục Engman lắc đầu kéo Fabbi .
      “Ông linh mục, chọc tức những người khách như chúng tôi là khôn ngoan đâu ạ.” Viên thông ngôn bay bướm.
      “Tôi cũng tưởng thế,” Engman dừng chân, quay đầu với cánh cổng đóng: “nhưng sau mới biết đối với các ông, chọc tức hay chọc tức cũng thế thôi.”
      Fabbi : “Đừng để câu chuyện xấu thêm nữa.”
      Linh mục Engman : “Hãy còn có thể xấu thêm được hay sao?” Ông cương quyết để bọn chó dại mặc quân phục màu vàng này vào bằng cổng chính. Để chúng nó vào cổng chính là nâng chúng lên tầm con người rồi.
      Ông quay đầu lại, mảnh sân rộng trong ánh trời nhá nhem ngập trong cơn lũ màu vàng. tốp lính kiếm được cái rìu chặt đứt chốt cổng. Viên thiếu tá dẫn hơn chục tên lính sải chân bước tới như muốn tiếp quản nhà thờ.
      “Lần này tìm bắt ai đây?” Linh mục Engman hỏi.
      Viên thiếu tá lại cúi gập người. Dân tộc này lắm nghi lễ rắc rối . Viên thông ngôn dùng ngôn từ cao sang với linh mục Engman: “Thưa ngài linh mục, chúng tôi đến đây với tấm lòng thành.” Y tiếng cách khổ sở, viên thiếu tá cũng khổ sở vào vai: “Làm thế nào mới có thể hàn gắn được rạn nứt trong mối quan hệ giữa chúng ta?”
      Linh mục Engman mỉm cười, trong tròng mắt sâu, ánh mắt xanh xám lạnh như đóng băng.
      “Được, tôi tiếp nhận xin lỗi thành của các vị, và cũng tiếp nhận lời chúc của các vị, bây giờ tôi chỉ cho các vị cửa ra ở chỗ nào.” Linh mục Engman và quay đầu, tựa như dẫn họ ra cổng.
      “Đứng lại!” Viên thiếu tá bằng tiếng . đóng vai kịch câm, để cho viên thông ngôn thay, bây giờ ê a được nữa.
      Linh mục Engman dừng chân nhưng quay lại, tư thế ấy tỏ ra rằng “biết trước là như thế rồi.”
      Viên thiếu tá với viên thông ngôn, vẻ dữ tợn, tên này lại vẫn khách sáo cách trơ trẽn: “Lễ chúc mừng Giáng sinh của chúng tôi vẫn chưa bắt đầu mà!?”
      Linh mục Engman nhìn viên thiếu tá, lại nhìn những luồng đèn pin loang loáng khắp sân. Trời tối, sẫm dần thành đêm, phía sau ánh đèn là những bóng người đen hơn cả nền trời đêm.
      “Trước Giáng sinh, bộ tư lệnh chúng tôi tổ chức dạ hội, cấp cầu chúng tôi mời mấy vị khách quí.” nhận chiếc phong bì lớn từ tay viên sĩ quan xách cặp, đó ghi chữ Trung Quốc: “Thiếp mời.”
      “Xin nhận tấm lòng, nhưng tôi nhận lời mời.” Linh mục Engman chìa tay ra cầm, để cho cái thiếp mời in rất đẹp loay hoay giữa ông và viên thiếu tá.
      “Ngài linh mục hiểu lầm rồi, chỉ huy của chúng tôi mời ngài linh mục.”
      Linh mục Engman ngẩng mặt rất nhanh, nhìn viên thiếu tá cúi đầu, ánh mắt cung kính. Ông giật lấy tấm thiếp mở ra, dự cảm chẳng lành khiến bàn tay sớm bị chứng parkingson run lẩy bẩy. Viên thiếu tá bảo tên lính soi đèn cho ông. Thiếp mời gửi cho các thiếu nữ ban đồng ca.
      “Ở đây chúng tôi có ban đồng ca.” Linh mục Engman .
      “Ngài linh mục đừng quên, hôm qua ngài cũng bảo ở đây có lính Trung Quốc.”
      Fabbi giật lấy thiếp mời từ tay Engman và đọc, sững người rồi đọc lại. Đọc lần đầu tin ở mắt mình, đọc lần hai chẳng vào chữ nào. ném tấm thiếp xuống đất gào lên: “Đồ súc sinh!” Tiếng Giang Bắc lúc này là ngôn ngữ rất tốt để biểu . Fabbi quay sang viên thiếu tá, mặt xám lại: “Lần trước với các ông, nữ sinh trường Wilson được cha mẹ đón cả rồi!”
      “Chúng tôi nghiên cứu rất kỹ lịch sử của Wilson, trường nữ học nổi tiếng của giáo hội. số ít trong các nữ sinh có bố mẹ.” Viên thông ngôn dịch lại ý của viên thiếu tá cách chậm rãi và rành rọt, có vẻ như cởi mở để cùng tìm ra lẽ phải.
      “Các em đó được các giáo đưa tản cư rồi.” Fabbi .
      đâu, theo tình báo chính xác, ngày trước khi Nam Kinh thất thủ, buổi sớm còn nghe thấy các bé hát ở đây, quân đội hoàng gia đại Nhật Bản có rất nhiều bạn Trung Quốc, cho nên đừng tưởng chúng tôi điếc, chúng tôi mù.” Viên thiếu tá qua phiên dịch.
      Linh mục Engman vẫn lặng im, tựa như câu chuyện giữa Fabbi với viên thiếu tá chẳng làm ông để tâm, ông còn việc lớn hơn phải suy nghĩ.
      Ai bán rẻ các em? Cũng có thể khi cung cấp cái tin chết người này, người đó tưởng là bọn Nhật muốn nghe các em hát cho nên định lập công chuộc tội với chúng. Đúng là trong quân Nhật có tín đồ Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo. Kẻ bán rẻ các em có thể biết rằng quân Nhật là lũ cuồng điên bệnh hoạn đến thế nào, chúng tin rằng trinh bổ dưỡng tinh thần, chúng lấy lông mới mọc ở chỗ hiểm của tơ làm bùa hộ mệnh, đeo cổ có thể trừ tà, tránh được cái chết trong mưa bom bão đạn… Linh mục Engman mơ màng với những ý nghĩ đó, tỉnh ra thấy Fabbi dùng thân mình chặn lính của viên thiếu tá lại.
      “Các ông có quyền lục soát ở đây!” Fabbi : “Muốn lục soát hãy giẫm lên xác tôi!”
      Fabbi thành biểu tượng liệt sĩ.
      Sau những chiếc đèn pin, có tiếng động khẽ, hơn trăm lính, kiếm, súng đều ở trong trạng thái chiến đấu, sĩ khí bừng bừng, tất cả sẵn sàng. Linh mục Engman kêu lên và đến trước mặt viên thiếu tá: “Các em mới có mười mấy tuổi, chưa bao giờ tiếp xúc với xã hội, chưa tiếp xúc với đàn ông, với binh lính…”
      Trong bóng tối bộ mặt viên thiếu tá lên nụ cười: Nghe hợp khẩu vị quá, cái cần chính là trinh trắng như tuyết đầu mùa đó.
      : “Xin ngài linh mục yên tâm, tôi xin lấy danh dự quân nhân đế quốc đảm bảo, hát xong tự tôi đưa các em về đây.”
      “Thưa Cha, làm sao tin được lời lẽ ma quỷ của ?” Fabbi dùng tiếng địa phương Giang Bắc chất vấn linh mục Engman: “Con có chết cũng để chúng làm điều súc sinh đó!”
      “Các em nhận lời mời đâu.” Linh mục Engman .
      Viên thiếu tá : “Đối với các em đó là việc rất tốt lành, hoa tươi, đồ ăn, nhạc, tin rằng các ngốc nghếch từ chối lòng tốt của chúng tôi để cuối cùng gây ra chuyện vui.”
      “Ngài thiếu tá, mời quá đột ngột. Các em chưa chuẩn bị, nên cho các em ít thời gian để tắm rửa, chải đầu, mặc lễ phục. Hơn nữa cũng cho chúng tôi thời gian để chuyện có đầu có đuôi với các em, khuyên giải các em đừng có sợ. Các ông là thù địch của các em, việc phải với quân đội thù địch, đối với các em là điều quá ư khủng khiếp, chẳng may các em làm điều quá khích như tự thương, tự sát hậu quả thế nào?”
      Tài ăn nổi tiếng của linh mục Engman lúc này được phát huy tối đa, tựa như ông đứng lập trường của người ngoài cuộc, đưa ra thực có sức thuyết phục nhất, vừa thuận lợi cho vừa dễ dàng cho các em.
      “Cha nghĩ bọn súc sinh này muốn nghe hát sao?” Fabbi .
      “Thưa ngài linh mục, ngài nghĩ cần bao nhiêu thời gian để các bé chuẩn bị?”
      “Ba tiếng là đủ.”
      được, tiếng phải chuẩn bị xong.”
      “Ít nhất phải hai tiếng!”
      được!”
      “Hai tiếng là ít nhất. Chắc ông muốn nhìn thấy bầy em bé đói rét, mặt mũi nhếch nhác, tóc tai bù xù, run rảy sợ sệt với các ông chứ? Các ông muốn bọn trẻ sạch tinh khôi, yên tâm và tự nguyện, đúng ? Tôi cần thời gian khuyên giải các em, rằng các ông giết người, đốt nhà, cướp, hiếp, đúng ? Nếu các em tự sát tập thể tính sao?” Linh mục Engman .
      Lời thống thiết của vị linh muc già khiến viên thiếu tá suy nghĩ cẩn thận, : “Tôi cho ngài giờ hai mươi phút.”
      giờ bốn mươi phút.” Linh mục Engman với khẩu khí chắc nịch như lời thượng đế.
      Linh mục Engman thắng trong cuộc đàm phán.
      “Đồng thời tôi xin thiếu tá đưa binh lính , các ông bày binh bố trận thế này hy vọng gì tôi trấn an được các em, hy vọng gì giúp các em xua nỗi sợ hãi? Bọn trẻ phải những em bé bình thường trong xã hội. Ông nghĩ , trường các em rất gần nhà thờ, nhà trường là cái nôi của các em, các em chưa bao giờ rời xa cái nôi. Do đó các em rất nhạy cảm, rất e dè, nhút nhát. Khi tôi chưa chuẩn bị tâm lý cho các em, những binh lính quân chiếm đóng lăm le gươm súng thế này những lời thuyết phục của tôi trở nên vô nghĩa hết.
      Viên thiếu tá lạnh lùng câu, viên thông ngôn dịch ra: “Thỉnh cầu đó tôi thể đồng ý.”
      Linh mục Engman cười nhạt: “Lực lượng này của các ông đủ để bao vây tòa thành, còn sợ mấy đứa bé tay ư?”
      Lại câu phản bác cực kỳ sắc bén, viên thiếu tá đứng yên lát rồi ra lệnh binh lính rút ra khỏi sân nhà thờ.
      “Thưa Cha, con nghĩ cha lại tin lời ma quỷ của !…” Fabbi nổi nóng.
      “Ta tin chữ nào.”
      “Vậy tại sao cự tuyệt lời mời?”
      “Cự tuyệt chúng cũng tìm ra bọn trẻ.”
      “Nhỡ tìm được sao? Ít nhất ta có thể gặp may!”
      “Ta có thể gặp may muộn chút. Bây giờ ta có giờ bốn mươi phút, phải nắm chắc từng phút để tìm ra giải pháp.”
      “Giải pháp cứu mạng sống của Cha phải ?” Fabbi thực phản chủ.
      Linh mục Engman hề tức giận, tựa như ông nghe thấy câu của Fabbi. Khi quá xúc động, Fabbi chẳng làm chủ được tiếng của mình nữa, phát , ngữ pháp đều lộn xộn, ra khó mà hiểu nổi. Linh mục Engman có thể coi như hiểu ta gì.
      “Chúng ta có hơn giờ. So với có phút nào là khá lắm rồi.”
      “Con thà chết chứ thể nộp các em…”
      “Ta cũng thế.”
      “Vậy tại sao Cha liều chết cự tuyệt?”
      “Dù sao ta cũng có thể liều chết muộn chút, muộn hơn giờ… Bây giờ chỗ khác .”
      Bên ngoài tối đen như giữa đêm, Fabbi rời bỏ linh mục Engman. ta quay lại trông thấy linh mục Engman đến trước tượng Chúa tuẫn nạn và quỳ xuống. Fabbi lúc này biết rằng khi với viên thiếu tá ý tưởng lóe lên trong đầu vị linh mục. Bây giờ ông kéo ý tưởng đó lại, xem xét, phân tích nó bình tĩnh.


      16
      Khi linh mục Engman với viên sĩ quan Nhật rằng các em cần tắm gội chải chuốt để dự hội, Thư Quyên và các bạn giương mắt lên nghe. Linh mục lẩn thẩn rồi sao? phải ông kể cho các nghe kết cục của Đậu Hoàn hay sao? Ông lại muốn từng người từng người trong các chịu cực hình như Đậu Hoàn hay sao? việc mà người đàn ông dùng để hủy diệt đàn bà nó như thế nào? Làm sao dùng nó để tàn phá những Sô-phi, Thư Quyên thành Hồng Lăng, Ngọc Mặc, Na Ni, cuối cùng là tấm thân tan nát như Đậu Hoàn, các hiểu và chính vì hiểu mà cuộc hủy diệt sắp tới đây càng trở nên khủng khiếp.
      “Có là người Nhật đưa chúng mình về ?” bé hỏi. Bây giờ mà hãy còn ngu ngơ như thế.
      Các bạn chẳng ai đáp lời. bé này học dưới Thư Quyên lớp, nhà ở vùng quê An Khánh, mẹ là quả phụ giàu có, hiểu lấy đâu ra ý nghĩ kỳ quặc là đưa con về Nam Kinh để được giáo dục kiểu phương Tây.
      nghe à? Có đồ ăn ngon, có hoa,” bé ngốc nghếch .
      “Thế cậu !” Sô-phi . Đó là câu chửi.
      “Cậu tớ .” bé An Khánh đáp lại.
      “Cậu tớ cũng thèm !”
      gì nữa.
      “Cậu mà!” Sô-phi hét lên. Lúc này tìm được chỗ để trút cái bực dọc dễ.
      “Bọn Nhật có đồ ăn thức uống ngon, có cả chỗ ngủ ấm nữa đấy!”
      biết bé An Khánh chồm đến cạnh Sô-phi từ lúc nào, giáng cho Sô-phi cái tát. Sô-phi thấy đau lại còn muốn cám ơn vì có được chỗ để trút giận. Thế là nắm đấm, móng tay, chân, toàn thân đồng loạt trút giận. bé An Khánh bật khóc, Sô-phi cũng lập tức khóc theo, khóc cách oan ức như là bé đánh người ta đánh bị thương luôn cả mình, các bé đến can, can mãi, can mãi rồi khóc cả lượt.
      “Đồ đĩ rạc, đồ điếm!” Sô-phi vừa đấm đá vừa chửi. bé đánh trúng ai người đó chịu. Cục giận của lớn quá, có cả nỗi giận Từ Tiểu Ngu, nó coi Sô-phi là con ngốc nó chơi xấu thảm quá, chơi đúng vào lúc tính mạng treo sợi tóc này…. “Đồ đĩ rạc!…” Những câu chửi của Sô-phi bị những cú đấm cú của chính làm đứt từng đoạn.
      “Này, mày chửi ai?” Tấm rèm vén lên, xuất Hồng Lăng, đằng sau là Na Ni và Ngọc Sênh.
      “Đĩ cũng là người nhá.” Hồng Lăng có vẻ như chán ngấy chuyện các nữ sinh cãi nhau: “Đừng có thối mồm nữa.”
      Ngọc Mặc : “Trước đây ăn tử tế cả, học đâu ra cái thói dã man thế hả? Học ai thế hả?”
      Na Ni : “Bắt chước chúng tao phải ?… Tại sao chúng mày lại bắt chước loại người như chúng tao?”
      Đám nữ sinh thôi đánh nhau, ngồi im lau nước mắt, sửa sang quần áo đầu tóc.
      bé An Khánh vẫn khóc hu hu.
      Tấm rèm lại vén lên, Ngọc Mặc tới, hai cánh tay nuột nà chống eo, dáng người ghê gớm.
      “Có câm miệng ?” Ngọc Mặc dùng giọng chợ búa Nam Kinh : “Khóc nữa con mẹ mày nghe thấy đâu nhưng bọn Nhật nghe thấy đó, mấy đứa chúng mày,” chỉ tay vào Hồng Lăng: “Lắm mồm.”
      xong vào phía bên kia rèm, nơi của đám đàn bà.
      Các bé im thin thít. Cũng lạ, Triệu Ngọc Mặc bình thường, như người mẹ trẻ trách mắng các con, hay như giám quản nhà trường ngăn chặn những nữ sinh nghịch ngợm phá phách.
      Lúc này các nữ sinh rất cần lời như thế, vô tư, hơi thô lỗ, chẳng coi việc gì là ghê gớm cả.
      Khi linh mục Engman đứng dậy, tư duy và tri giác bỗng chốc bay hết, ông biết mình ở bên bờ suy sụp. Mệt mỏi, đói khát, buồn đau suốt hơn năm trời vắt kiệt con người ông, chút sức lực còn lại hầu như đủ để thực được những điều ông phải , phải làm. Những điều ông phải , phải làm nó quá ư tàn nhẫn, để bảo vệ số sinh mạng ông phải hy sinh số khác. Sở dĩ những sinh mạng phải chịu hy sinh là bởi vì họ thuần khiết, là những sinh mạng cấp thấp hơn, đáng để ông phải bảo vệ, đáng được nhận bảo hộ của nhà thờ và của thượng đế của ông. Ông buộc phải đưa ra lựa chọn này, đưa những sinh mạng thuần khiết lắm, những sinh mạng cấp thấp hơn lên đài tế thần để bảo vệ những sinh mạng thuần khiết hơn, đáng bảo vệ hơn.
      Phải vậy ? Trước mặt thượng đế, có phải ông có quyền quyết định cuối cùng sống và cái chết, có quyền thay mặt thượng để chọn lựa cái nào tốt cái nào xấu?…
      Ông qua khoảng sân xuống nhà bếp.
      Ông gọi “Các con…” để bắt đầu bài diễn thuyết về lựa chọn, như hàng ngàn hàng vạn lần ông gọi các nữ sinh: “Các con của ta”. Lẽ nào những người đàn bà kia cũng là các con của ông? Lạ , ông cảm thấy xúc động dâng trào, gọi họ là các con mà ông hề cảm thấy giả tạo và gượng ép. Vậy từ lúc nào ông thay đổi cách nhìn của ông đối với những người đàn bà đó? Tất nhiên hoàn toàn thay đổi, nếu ông chẳng chọn họ làm vật hy sinh và đưa cung phụng. Ông vẫn tôn trọng họ nhưng còn ghét họ.
      Ông phải tỏ ra đau lòng: tình phải là như thế, người Nhật bắt chỉ có thể là họ. Chỉ có thể hy sinh họ mới có thể cứu các nữ sinh. Ông với họ: “Các con của ta, hy sinh mình để cứu người khác có thể khiến nhân cách đạt đến thang bậc thần thánh nhất. Qua hy sinh, các con trở nên người đàn bà thuần khiết nhất…”
      Nhưng khi bước chân đến cửa nhà bếp, ông bỗng thấy những lời đó vô cùng vớ vẩn, vô cùng sống sượng và giả dối, thậm chí khiến ông khó xử.
      Vậy cái gì?
      Thậm chí ông mong họ chống lại ông, trở mặt với ông, mạt sát ông, như vậy ông đủ sức xẵng với họ: “Rất tiếc, các phải theo người Nhật, lập tức rời khỏi nhà thờ.”
      thể lãng phí giây nhưng linh mục Engman lòng dạ như lửa đốt vẫn lãng phí thời gian.
      “Thưa Cha!” Fabbi chạy từ sân sau đến: “Khu mộ đầy những lính Nhật! Chúng nhảy qua tường mai phục ở đó!”
      Engman lập tức đẩy cửa bếp. Trong đầu ông chỉ còn ý nghĩ: Mong sao những người đàn bà này được như tất cả những người đàn bà con nhà lành Trung Quốc, bằng lòng chấp nhận số phận của mình.
      Nhưng ông đứng sững lại.
      Những người đàn bà vây quanh cái bàn, giữa có ngọn nến sắp tắt như có cuộc hội nghị bí mật.
      “Tại sao các lại ở đây?”
      “Tôi gọi các ấy đến ạ.” Ngọc Mặc .
      “Mười mấy lính Nhật theo chỉ huy về mà phục ở khu mộ!” Fabbi .
      Ngọc Mặc dửng dưng nhìn ta, ánh mắt quay sang linh mục Engman: “Chị em chúng tôi vừa bàn nhau…”
      Ngọc Sênh : “Chị bàn với ai nào?!”
      Ngọc Mặc tiếp: “Chúng tôi theo người Nhật. Để các em học sinh ở lại.”
      Linh mục Engman bỗng cảm thấy người, nhưng ông bị cắn rứt bởi chính người đó và giận mình quá tàn nhẫn.
      Fabbi xen vào: “Các nghĩ có rượu có thịt ư?”
      Nan Ni : “Có rượu có thịt chúng tôi cũng .”
      Ngọc Mặc : “Tôi ép các , bản thân tôi thay được người nào hay người ấy.”
      Hồng Lăng uể oải đứng dậy và : “Chúng mày tưởng chúng mày quí giá hơn chị Triệu Ngọc Mặc? Thối hơn bùn dưới ao, còn tự coi mình là báu lắm!” đến bên Triệu Ngọc Mặc, tay vòng sau lưng đàn chị và : “Em kết với chị, em với chị.”
      Ngọc Sênh to: “Hèn và sang đều là mạng người, ai nên !…”
      Mấy người khác lầu bầu: “Tôi còn phải nuôi mẹ nuôi em.”
      “Chẳng điểm danh tôi, việc gì tôi phải ?”
      Triệu Ngọc Mặc giận dữ : “Các cứ ở đây mà trốn đến cùng, chiếm chỗ của người ta, ăn tranh của người ta, giương mắt nhìn bọn Nhật lôi lũ nhãi con hành hạ! Thế còn các trốn ở lại để dành cho ai? Ở lại để có người thương có người ư?” Lúc này Triệu Ngọc Mặc như người đàn bà quê mùa đanh đá, lời ra mấy người bị chửi nhưng lại chẳng biết chửi người nào. “Cứ trốn , trốn đến đổi đời đầu thai, đầu thai cho tốt, cũng làm học sinh, làm đệm cho bọn Nhật chó má của các !”
      Những điều Triệu Ngọc Mặc , linh mục Engman hiểu lắm. Có chỗ hiểu chữ, có chỗ hiểu chữ nhưng hiểu nghĩa. Nhưng Fabbi hiểu hết, lớn lên ở vùng quê Giang Bắc, có rất nhiều đàn bà bất hạnh, họ thường giận cá chém thớt, mượn chuyện dạy con để kể khổ. Điều khiến người ta cảm thấy buồn cho họ là chịu để cho số phận an bài, chống lại của họ trước mọi bất công cuối cùng đều kết thúc bằng việc chấp nhận nó, và chấp nhận với vẻ cam phận. Lời của Ngọc Mặc quả nhiên khiến hầu hết những người đàn bà ở đây đều cam phận, họ ngồi yên lặng.
      “Các nhất thiết phải thay nữ học sinh.” Fabbi với Ngọc Mặc.
      Ngọc Mặc ngỡ ngàng, Fabbi cảm thấy ánh mắt của linh mục Engman đâm vào bên má. “ ai cả.”
      Engman bằng tiếng : “Hãy những câu có ích, Fabbi!”
      “Hãy giấu họ dưới hầm, có thể người Nhật tìm ra.” Fabbi .
      mạo hiểm đó chúng ta làm được!”
      “Sau kiện Nam Kinh, quân Trực Lỗ và quân Giang Hữu mấy lần vào nhà thờ, chúng ta đều trốn được kia mà?” Fabbi gợi ý linh mục Engman.
      “Nhưng người Nhật biết có nữ sinh trốn trong nhà thờ…”
      “Đó là khi thừa nhận với họ, Cha nghĩ hy sinh những người này.” Fabbi quá xúc động, phát nhưng rất nhanh. thấy vị linh mục già nghe khá vất vả để hiểu gì, nhắc lại những lời buộc tội vừa rồi. chưa bao giờ như thế này, cảm thấy mình là người đàn ông Trung Quốc từ đầu tới chân, đó là bài ngoại, phong kiến, muốn ngăn chặn tất cả những người đàn ông nước ngoài ức hiếp đàn bà dân tộc mình.
      “Fabbi Atonado, việc này tôi bàn với !” Giọng trầm của linh mục Engman chặn đứng giọng cao của Fabbi.
      Chuông cổng vang lên. Ngọn nến lay động cái.
      “Xuống hầm mau!” Fabbi với đám đàn bà: “Tôi còn sống ai có thể nghĩ đến chuyện lôi các người làm đệm cả!”
      ai lôi cả, chúng tôi tự nguyện.” Ngọc Mặc nhìn Fabbi. Vì ánh mắt này mà Fabbi phải chờ bao ngày bao đêm, ánh mắt khiến Fabbi nhiễm độc và bị nghiện, giờ đây đôi mắt phát ra ánh sáng đó cùng thân thể rời đây mà , để lại cơn nghiện cho Fabbi.
      “Tôi với viên thiếu tá, xin thêm mười phút nữa.” Engman .
      “Hai mươi phút. Đóng giả nữ sinh, ít nhất phải hai mươi phút.” Ngọc Mặc .
      Linh mục Engman mắt sáng lên, ông nghĩ Ngọc Mặc lại còn giỏi hơn ông, thông thạo hơn ông, đóng giả luôn nữ sinh!
      thấy đóng có giống được ?” Ông hỏi.
      Hồng Lăng : “Linh mục cứ yên tâm, chúng em đóng chính vai mình giống còn đóng vai ai cũng giống hết!”
      Ngọc Mặc : “Fabbi, hãy mang trang phục học sinh đến đây, phải đồ hàng ngày mặc, lấy thứ trang trọng nhất đó, mau lên!”
      Fabbi chạy đến xưởng đóng sách, khi lên gác bỗng nhớ lại vừa rồi Ngọc Mặc gọi ta là “phó linh mục” mà gọi “Fabbi”, phát Fabbi theo đúng tên Trung Quốc.
      cầu của linh mục Engman được viên thiếu tá chấp thuận. Lính của đứng yên trong giá lạnh hai mươi phút. Lý do ông đưa ra nghe xuôi tai: Lễ phục để mặc khi hát đồng ca lâu ngày chưa mang ra dùng, có cái phải đính cúc, có cái phải khâu lại, rồi phải là cho phẳng phiu. Binh lính sát vai nhau đứng phía ngoài tường, lưỡi lê chĩa lên trời. Hai mươi phút hai mươi phút, của ngon vật lạ cũng đáng để chờ. Người Nhật trọng nghi thức lắm. đĩa cá nóc bày lên bàn cũng trang điểm thành tác phẩm nghệ thuật huống chi món mỹ vị trinh.
      Sau hai mươi phút, cửa nhà bếp mở ra, bầy thiếu nữ mặc váy đen thủy thủ, đầu đội mũ lễ thánh xuất , những gương mặt hơi cúi xuống, nào cũng kẹp cuốn sách thánh ca, cánh tay khép lại, tựa như các trinh trắng khó chịu với khuôn ngực đầy đặn của mình.
      Các bầy “nữ sinh” xinh đẹp nhất thành Nam Kinh. Đó là tôi tưởng tượng ra thế, bởi vì với các , nữ sinh luôn luôn chỉ là giấc mơ, các trang điểm, ăn mặc nữ sinh theo giấc mơ của mình cho nên lại thêm cái đẹp của mộng mơ.
      Lại nữa, thành cổ Nam Kinh từ xưa thu hút vô số mỹ nữ Giang Nam, biến họ thành giai nhân tuyệt sắc chốn lầu xanh, rất hiếm khi để lọt ra những làng chơi xấu xí. Con xấu trước tiên qua được sát hạch nhập môn, nếu hạ thấp tên tuổi của kỹ viện, làm mất lòng khách hàng. Vì vậy Giang Nam trong thời kỳ điện ảnh còn manh nha, con đẹp nghèo khổ chỉ có hai lối ra, là nhà hát, hai là lầu xanh.
      Thư Quyên của tôi tận mắt nhìn thấy Triệu Ngọc Mặc và các ra như thế nào. Sau này nghe Fabbi , nào cũng lộng lẫy.
      Triệu Ngọc Mặc cao nhất cho nên sau cùng.
      Linh mục Engman đầu, làm dấu thánh cầu xin may mắn cho các . Đến Triệu Ngọc Mặc, cười bẽn lẽn, nhún đầu gối y hệt nữ sinh.
      Linh mục Engman : “Các đến đây ban đầu là để lánh nạn.”
      “Cám ơn linh mục lúc đó thu nhận chúng em. Nếu bọn con chúng em bây giờ thành cái gì rồi.”
      Fabbi xán đến, nhìn Ngọc Mặc chớp mắt. Ngọc Mặc tiếp: “Chúng em sống chỉ gây họa cho người ta.” ranh ma liếc nhanh hai vị linh mục.
      Fabbi mở cánh cổng nặng nề cho các . Bên ngoài ánh đèn pin chiếu sáng lớp lớp lưỡi lê dày đặc như rừng. Viên thiếu tá đứng ngay như tượng gỗ, khuôn mặt khuất trong bóng tối, nhưng đôi mắt và hàm răng trắng có vẻ hân hoan ra mặt. Fabbi bao giờ nghĩ rằng mình lại mở toang cánh cửa trực tiếp đưa người ta vào đường cùng.
      Fabbi nghĩ, tất cả những vận may mà Ngọc Mặc bỏ lỡ lẽ ra còn có hy vọng lấy lại, cho dù chỉ hai, cho dù hy vọng lấy lại là rất , nhưng ra lần này chẳng còn gì để lấy lại nữa. Nghĩ thế, ruột gan đau thắt lại. nhiễm bệnh đa sầu đa cảm của người Trung Quốc từ vì bà vú hay dẫn xem kịch. Bà vú cấy hạt giống đa sầu đa cảm trong tâm hồn . Hạt giống cấy rồi nhưng hạt giống cũng có thể biến dị.
      chiếc xe tải đỗ ở bên cái cây bị cháy, phía cuối xe có hai tên lính. Khi “nữ sinh” tới chúng mỗi đứa tay nắm lấy cánh tay giúp bước lên thang. muốn giúp cũng được, chúng lập tức giơ súng chặn đường lui.
      Viên thiếu tá cạnh Ngọc Mặc.
      Fabbi theo hai người, cách ba bước chân.
      Linh mục Engman đứng nơi cổng, bộ râu nhiều ngày chưa cạo khiến dung mạo ông như người cổ đại, hay là ông thoát ly loài người để biến thành thần?
      Tôi tưởng tượng ông đứng đó, đầu óc trống rỗng, chỉ mong sao vở kịch suôn sẻ cho đến khi hạ màn, đừng có xảy ra chuyện gì bất thường, ông thể chịu nổi bất kì trục trặc nào nữa.
      Ông đưa mắt tiễn từng “nữ sinh” bước lên bậc thang của chiếc xe và khuất trong mui bạt, qua dáng người và động tác của họ, ông có thể phân biệt được ai với ai nhưng biết hết tên. Ông ân hận vì hỏi câu tên của các – tên cha mẹ đặt cho chứ phải tên ở lầu xanh. Ông chỉ nhớ cái tên, đó là Triệu Ngọc Mặc. Chắc đây là tên bố mẹ đặt cho. Ông bao giờ biết được rằng, Triệu Ngọc Mặc chỉ muốn quên cái tên này .
      Bữa tối hôm đó là súp khoai tây. Sau khi George Trần chết, Fabbi nấu cho mọi người ăn món cháo, món súp gạo.
      Chỉ có khác là mỗi em được ăn hai suất vì khi chuẩn bị bữa chiều, nghĩ thừa ra mười ba suất. Cuối cùng, các em học sinh thực được điều cầu nguyện: Xin cho con được ăn bữa no nê, đừng cho các ả điếm tranh mất phần. Các em tưởng tượng rằng lời cầu nguyện được đáp ứng, đáp ứng theo cách tàn khốc đến thế. Các em xúc từng thìa súp, Thư Quyên nhìn trộm Sô-phi ngồi đối diện, má Sô-phi có vết máu, vết móng tay trong cuộc hỗn chiến, vết máu đó là chỗ sinh động nhất gương mặt tê dại của bé. Chẳng ai thốt lên: Ôi, những người đàn bà đó cứu chúng ta. Cũng có ai : biết các chị ấy có sống sót được hay ? Nhưng Thư Quyên cũng như các bạn đều day dứt nỗi ân hận: lúc đó mình chỉ muốn được ăn no, đâu có biết lời cầu nguyện của mình lại biến thành lời nguyền rủa độc địa đối với họ.
      Phải cần nhiều thời gian, cần quãng đời trường thành, các mới nhìn được cái tối hôm đó và những người đàn bà bị các coi là loại mạt hạng.
      Trước bữa tối, Fabbi Atonado hướng dẫn các em cầu nguyện rồi hấp tấp ra khỏi nhà thờ.
      Mười hai giờ đêm Fabbi quay về, dẫn theo phụ nữ người châu Âu cao lớn. Các em quen biết bà, khẽ gọi “bà Whittlyn”. Bà cũng như Fabbi, thông thạo tiếng Trung Quốc, cái đưa tay cái nhìn đều giống người Trung Quốc. Bà đưa thợ đến cắt tóc cho các em. Sau hai giờ bầy bé biến thành con trai hết. Bà chiếc xe cứu thương đến, gần sáng rời , trong xe đầy những “bệnh nhân” tuổi mặc quần áo sọc, em nào cũng hốc hác vàng vọt, đôi mắt vô hồn. Những bộ quần áo sọc thùng thình như bên trong có gì cả.
      tôi và các bạn đóng giả các bé trai bị bệnh truyền nhiễm, náu ở phòng bệnh Y học Viện Kim Lăng hai ngày, sau đó được bí mật đưa về vùng quê sát Nam Kinh, từ đó tàu thủy đến Vu Hồ rồi Hán Khẩu. Fabbi Atonado theo suốt dọc đường, từ linh mục biến thành bác sĩ giám hộ. Chẳng ai ngờ được, cái nghề ngụy trang tạm thời đó vĩnh viễn thay đổi cuộc đời Fabbi. Nửa năm sau quay lại Nam Kinh, rời bỏ chức vụ trong nhà thờ và dạy môn Lịch sử thế giới và lịch sử tôn giáo ở trường đại học giáo hội Wilson và kiêm đứng lớp ở số trường đại học khác. Trong các bé được mười ba người đàn bà Tần Hoài cứu đêm đó, chỉ có mỗi mình Mạnh Thư Quyên của tôi vẫn còn thư từ với Fabbi.


      17
      Tại phiên tòa quốc tế xét xử tội phạm, Mạnh Thư Quyên của tôi cho rằng gặp người đàn bà khuôn mặt hoàn toàn khác nhưng vóc dáng hề thay đổi, người đó đúng là Triệu Ngọc Mặc. Khi đó Mạnh Thư Quyên viết bức thư cho Fabbi Atonado, báo tin rằng Triệu Ngọc Mặc còn sống. Bà ngoại của Fabbi ở Mỹ chết tháng 10 năm 1945, để lại cho Fabbi mồ côi chút gia sản. Fabbi Mỹ để bán . Trong thư gửi Fabbi, tôi kể lại Triệu Ngọc Mặc phủ nhận mình là Triệu Ngọc Mặc như thế nào. Thư trả lời của Fabbi đến sau tháng, có thể Triệu Ngọc Mặc phải biến thành người khác mới có thể sống sót được.
      Cùng với kiện quân Nhật hủy diệt cướp bóc hãm hiếp tại Nam Kinh bị tố giác mỗi ngày nhiều, qui mô của nó ra càng ngày càng , cuộc bám đuổi Triệu Ngọc Mặc của tôi cũng ngày càng ráo riết. cho rằng bảy ngày của tháng 12 năm 1937 biến đổi cuộc đời . kể với tôi, sau khi rời nhà thờ, và các bạn phát mình thường buột miệng những từ của làng chơi hoặc buột miệng hát những câu hát của họ, những câu hát đầy sức sống nhưng bẩn thỉu được các nữ sinh bắt chước hoàn toàn vô thức. Nếu có cãi nhau các còn là những ngoan nết nữa mà cũng thô bạo, chẳng ai nhường ai, người này văng tục người kia văng tục hơn. khi phá bỏ điều cấm kị, các bỗng cảm thấy chẳng có gì ghê gớm cả, con trai con cũng thế, ai chẳng mỗi chuyện đó? Khi cần trút giận chẳng ngôn từ nào trút giận hiệu quả bằng ngôn từ của làng chơi. Sau đó mấy tháng Fabbi Atonado bỏ ra bao nhiêu công sức cũng thể biến các trở lại như các bé hát đồng ca ngày xưa.
      đến đây, tôi cười: “Fabbi làm sao biết được đó là giải phóng lớn lao của chúng tôi, chúng tôi học được ở những người đàn bà bị bán làm con nô tỳ thấp hèn cách giải phóng bản thân.”
      Năm tôi hăm chín tuổi, Mạnh Thư Quyên của tôi hoàn thành việc điều tra về tung tích của mười ba sông Tần Hoài.
      Triệu Ngọc Mặc là người duy nhất sống sót, cũng chính là người làm chứng lần đó các sĩ quan cao cấp của quân đội Nhật Bản chia sẻ với nhau thân xác của và mười hai “nữ sinh” khác. Trong đó có hai định dùng dao ăn (lấy ở phòng ăn của nhà thờ Wilson) chống lại, bị giết tại chỗ. Còn lại mười sau khi bọn sĩ quan sử dụng, bị ném vào Sở phục vụ mới thành lập. Trong hai ba năm, các liên tiếp theo nhau lìa đời, có bị bắn chết vì định bỏ trốn, có chết vì nhiễm bệnh, cá biệt có chết vì tự sát. sống sót của Triệu Ngọc Mặc có thể là do diện mạo và dáng điệu khác thường của , những kẻ hành hạ thân xác là sĩ quan hạng trung và hạng dưới, cho nên canh gác dần dần nới lỏng, cuối cùng trốn thoát được. Có thể trốn sau khi ở Sở phục vụ bốn năm. Còn tại sao thay đổi diện mạo, tôi tìm được câu trả lời và tôi cũng tìm được câu trả lời.
      HẾT

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :