Kế hoạch hoàn hảo - Sidney Sheldon [Trinh Thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 9
      Trở thành Thống đốc quả là hấp dẫn hơn những gì Oliver từng tưởng tượng. Quyền lực giống như ả nhân tình xinh đẹp và khêu gợi, khiến mê đắm trong vòng tay nó. Mỗi quyết định của ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm ngàn người ở đây. trở nên say mê công việc thông qua các đạo luật, và ảnh hưởng cũng như tiếng tăm của chẳng mấy chốc nổi lên như cồn. Mình ngồi vào chỗ phải ai cũng được ngồi. Oliver sung sướng nghĩ. Trong đầu chẳng lúc nào quên câu của Nghị sĩ Davis. "Đây mới chỉ là bước đầu, Oliver ạ, hãy từng bước vững chắc".

      Và Oliver luôn cẩn thận. có khá nhiều vụ áp-phe, nhưng tất cả đều nằm trong bóng tối. biết nó ra sao nếu bị lộ ra.

      Thỉnh thoảng Oliver lại gọi điện đến bệnh viện hỏi thăm tình hình Miriam.

      "Thưa thống đốc, ấy vẫn bất tỉnh".

      "Thông báo ngay cho tôi nếu có gì đặc biệt nhé".

      trong những trách nhiệm khi làm thống đốc bang là phải tổ chức những bữa tiệc. Quan khách của Oliver chủ yếu là các nhà tài trợ, những ngôi sao thể thao và nghệ thuật, các ông bầu giải trí, những người có tên tuổi ở chính trường và loạt các vị khách danh dự khác. Jan đáng mặt là bà chủ nhà hoàn hảo và Oliver thích kiểu mà người ta cư xử với .

      hôm, Jan với chồng. "Em vừa chuyện với cha xong. Cha bảo tuần tới tổ chức bữa tiệc tại nhà riêng. Cha muốn chúng mình tới đó, có vài người quan trọng mà cha muốn gặp".

      Thứ bảy đó, tại toà nhà sang trọng của Nghị sĩ Davis ở Georgetown, Oliver được bắt tay với những nhân vật nổi tiếng nhất trong giới chính khác ở Washington. Đó là bữa tiệc tuyệt vời, và thấy tự thoả mãn với chính mình.

      "Vui vẻ chứ, Oliver?" Peter hỏi.

      "Tôi thể ước điều gì hơn thế. bữa tiệc cực kỳ".

      "Đấy, nhân về những điều ước, lại làm tôi nhớ hồi cháu Elisabeth nhà tôi mới sáu tuổi, hôm mặt mũi cứ nhăn nhó nhất định chịu dậy mặc quần áo học. Betsy rất khó chịu. Con bé nhìn mẹ và hỏi: "Mẹ ơi, mẹ nghĩ gì thế?". Betsy bảo nó. "Mẹ ước gì bây giờ con nhăn nhó nữa, mặc quần áo và ăn sáng như bé ngoan". Thế là Elisabeth . "Mẹ ơi, mẹ được ban điều ước ấy". thấy có tuyệt ? Bọn trẻ có thông minh cơ chứ. Gặp lại sau nhé, Thống đốc".

      cặp vợ chồng tiến vào cửa và Nghị sĩ Davis ra đón họ.

      Vị đại sứ Italia, Atilio Picone, trông nghiêm trang đúng với cái tuổi sáu mươi của ông ta. Hàng lông mày đen rậm giấu được những nét điển hình của người dân đảo Sicil. Bà vợ, Sylva là trong những người phụ nữ đẹp nhất mà Oliver từng gặp. Bà từng là diễn viên điện ảnh trước khi lấy Atilio và đến giờ vẫn còn nổi tiếng tại ý. Lý do dễ hiểu với Oliver. Sylva có cặp lông mày nâu, cong và rộng, khuong mặtt kiểu Madonna, và thân thể của thần vệ nữ. Bà vợ kém ông chồng đến hai lăm tuổi.

      Nghị sĩ Davis dẫn vợ chồng đại sứ đến giới thiệu với Oliver.

      "Tôi rất hân hạnh được làm quen với ông bà", Oliver , mắt rời khỏi Sylva.

      Bà ta mỉm cười. "Tôi có được hân hạnh nghe nhiều chuyện về ông".

      "Hy vọng là có gì quá tệ".

      "Tôi..."

      Ông chồng cắt ngang. "Nghị sĩ Davis đánh giá ông rất cao".

      Oliver vẫn nhìn Sylva và : "ồ, tôi lại được tôn lên rồi".

      Nghị sĩ Davis đưa họ tới nhóm khác. Khi quay lại, ôn gta với Oliver. "Quá lắm, thống đốc ạ. Bà ta là quả cấm đấy. mà động vào cứ là tan tành nghiệp".

      "Ôi, Todd, cha đùa ạ, con đâu có...".

      "Tôi nghiêm túc đấy. có thể biến hai nước thành cừu địch ngay bây giờ".

      Cuối buổi tối hôm đó, khi Sulva và chồng sắp ra về, Atilio với Oliver. " là vui được gặp ảnh hưởng".

      "Đó là niềm hân hạnh cho tôi".

      Sylva cầm lấy tay . "Chúng tôi mong được gặp lại ".

      "Đôi mắt họ gặp nhau. "Vâng".

      Và Oliver nghĩ, Mình phải cẩn thận mới được.

      Hai tuần sau đó, khi làm việc ở Frankfort, Oliver nghe thư ký thông báo.

      "Thưa thống đốc, ngài Nghị sĩ Davis ở đây và muốn gặp ông".

      "Nghị sĩ Davis ở đây ư?"

      "Vâng, đúng vậy".

      "Mời ông ấy vào. Oliver hiểu bố vợ mình đến dây làm gì trong khi biết rằng ông ta vụ tranh cãi rất căng thẳng ở Washington về luật thuế mới. Cửa bật mở, ngài Nghị sĩ bước vào. Theo sau là Peter Tager.

      Nghị sĩ Davis mỉm cười và vỗ vai chàng rể. "Thống đốc ạ, tôi rất mừng được gặp đấy".

      "Con cũng rất mừng được gặp cha, Todd ạ". Rồi quay sang Peter. "Chào , Peter".

      "Xin chào, Oliver".

      "Hy vọng là tôi làm phiền chứ?" Nghị sĩ Davis hỏi.

      "ồ, đâu, thưa cha. Có chuyện ổn ạ?"

      Nghị sĩ Davis nhìn Peter và mỉm cười. "ồ, tôi nghĩ lại hỏi tôi có điều gì đó ổn, Oliver ạ. Thực tế tôi có thể rằng mọi việc rất tốt đẹp".

      Oliver nhìn cả hai người, trong lòng bối rối. "Con hiểu gì cả".

      "Tôi có vài tin tốt cho đây, con rể ạ. Chúng tôi có thể ngồi chứ?

      "Ôi, tha lỗi cho con. Hai người uống gì đây? Cà phê? Hay Wiskey..."

      ", chúng tôi bị kích thích đủ rồi".

      Oliver lại thấy bối rối, hiểu điều gì xảy ra.

      "Tôi vừa mới từ Washington đến đây. Có nhóm người rất có ảnh hưởng ở đó cho rằng xứng đáng là Tổng thống tương lai của chúng ta".

      Oliver cảm thấy như luồng gió mát thổi qua. "Con ư?"

      "Đúng vậy, lý do để tôi bay đến đây là vì đến lúc chúng ta phải nghĩ tới việc tung ra chương trình lăng xê . Cuộc bầu cử còn đầy hai năm nữa".

      " là khớp thời gian". Peter hào hứng . "Trước khi qua vòng đầu tiên, tất cả mọi người thế giới biết được chúng ta là ai".

      Nghị sĩ Davis bổ sung. "Peter lo cho chiến dịch quảng cáo này. sắp xếp mọi thứ. biết là thể tìm được ai tốt hơn Peter đâu".

      Oliver nhìn Peter và nồng nhiệt .
      "Con biết từ lâu rồi".

      "Đấy là niềm hân hạnh của tôi, chúng ta còn có nhiều chuyện vui nữa, Oliver ạ".

      Oliver quay sang Nghị sĩ Davis. "Con hy vọng là chiến dịch tranh cử quá tốn kém".

      "Đừng lo chuyện đó. phải luôn là người dẫn đầu. Tôi thuyết phục nhiều bạn bè để họ nhận lời tài trợ cho ". Ông ta tựa vào ghế. "Đừng có tự coi mình thấp như vậy, Oliver. Theo điều tra cách đây khoảng hai tháng, được đánh giá đứng thứ ba trong số các vị Thống đốc bang làm việc hiệu quả nhất đấy. Song có vài điểm mạnh mà hai ngưoiừ kia có. Trước đây tôi có lần với về chuyện này - đó là năng lực cuốn hút. Nó là cái mà tiền bạc thể mua được. Người ta thích , và người ta bỏ phiếu cho ".

      Oliver càng nghe càng thấy phấn chấn. "Khi nào chúng ta bắt đầu?"

      "Chúng tôi bắt đầu", Nghị sĩ Davis , "chúng ta xây dựng đội ngũ chuyên về việc quảng cáo và đánh thức các đại biểu ở tất cả các bang dậy".

      " may mắn của con có bao nhiêu phần trăm thực?"

      "Trong cuộc bầu cử để chọn ứng viên của Đảng, dễ dàng đánh gục được tất cả những người khác. Peter đáp. "Còn đến cuộc tổng tuyển cử, Tổng thống Norton còn rất phong độ, xứng đáng là địch thủ đáng gờm của đấy. Nhưng dĩ nhiên vẫn có điều tốt lành, đây lại là nhiệm kỳ thứ hai rồi, ông ta có muốn cũng đành chịu. Phó Tổng thống Cannon như vệt sáng yếu ớt. Chỉ có tia nắng cũng đủ sức làm ông ta biến mất".

      Cuộc gặp kéo dài đến bốn giờ đồng hồ. Cuối cùng, Nghị sĩ Davis với Peter Tager "Peter này, xin lỗi có thể để cha con tôi chuyện riêng chút ?". Vâng, thưa ngài".

      Khi ông ta ra và khép cửa lại, Nghị sĩ Davis bảo Oliver. "Tôi chuyện này với Jan sáng nay".

      Oliver bỗng hơi hoảng. "Dạ!".

      Nghị sĩ Davis nhìn và mỉm cười. "Nó hạnh phúc lắm".

      Oliver thở phào như trút gánh nặng. "Con rất vui được nghe cha thế".

      "Tôi cũng vậy, con rể ạ, tôi cũng rất vui. Đừng quên giữ cho gia đình mình luôn là tổ ấm. hiểu ý tôi muốn chứ?".

      "Xin cha đừng lo lắng về chuyện đó. Con...".

      Nghị sĩ Davis mỉm cười. "Tôi phải lo lắng chứ, Oliver. Tôi bảo tuyệt đối được nhăng nhít, nhưng nhớ là đừng để chuyện đó biến thành thằng ngốc".

      Khi Todd Davis và Peter dọc theo hành lang Toà thị chính, Nghị sĩ : "Tôi muốn dựa ngay cho tôi là đội quân chuyên dụng cho chiến dịch vận động này. Đừng ngại chuyện chi phí. Song song với nó, tôi muốn có những văn phòng chuyên trách về việc này đặt tại số nơi trọng yếu như New York, Washington, Chicago và San Francisco. Cuộc bầu cử chọn ứng cử viên Đảng bắt đầu sau 12 tháng tới đây. Hội nghị bỏ phiếu còn 18 tháng nữa. Sau đó chúng ta chẳng còn phải lo lắng gì". Họ tiến lại gần chiếc xe, " cùng chúng tôi ra sân bay, Peter".

      "Oliver vị Tổng thống tài giỏi". Peter nhận xét.

      Nghị sĩ Davis gật đầu. Và ta có nó trong tay đây. Nó là con rối của ta. Ta giật dây cái, thế là Tổng thống Hoa Kỳ nhảy múa.

      Ngài nghị sĩ rút trong túi ra hộp xì gà. "Xì gà chứ?"

      Chiến dịch quảng cáo cho cuộc bầu cử chọn ứng cử viên của Đảng khắp nước Mỹ bắt đầu tốt đẹp. Nghị sĩ Davis quả nhìn nhầm người. Peter Tager là trong những nhà sắp đặt chính trị tài giỏi nhất thế giới, các tổ chức mà ông ta sáng lập ra chê vào đâu được. Trong mắt mọi người, Tager là người chồng, người cha mẫu mực và con chiên ngoan đạo. Ông ta chiếm được cảm tỉnh của nhà thờ Thiên chúa giáo. Bởi vì biết điều hành những công việc chính trị, do vậy Tager còn có thể thuyết phục được những người theo Đảng tự do bỏ qua những khác biệt của họ mà cùng hợp tác hành động. Khuôn mặt với dải băng đen che bên mắt hỏng giờ đây trở nên quen thuộc với tất cả mọi người.

      Lịch làm việc do Peter lập cho Oliver kín đặc các chuyến bay cho đến tất cả các bang của Mỹ. Oliver nhìn mà phát hoảng, . "... thể được Peter".

      " có đơn phương độc mã đâu" Peter trấn an. "Chúng ta di chuyển bằng chiếc máy bay Challenger của bố vợ cho mượn. Biết bao nhiêu người đỡ từng bươc chân của . Rồi còn có tôi ở bên cạnh đây".

      Nghị sĩ Davis giới thiệu Sim Lombardo với Oliver. Lombardo là gã đàn ông to cao, lực lưỡng, đen cả về mặt hình thức cũng như tâm hồn. Gã rất ít .

      " ta hoà hợp thế nào với chúng con được?" Oliver hỏi bố vợ khi chỉ còn lại hai người.

      "Sin là người chuyên giải quyết các vấn đề ngáng trở chúng ta. Đôi khi, có những kẻ phải thêm tí thuyết phục mới chịu nghe. Sim là người giỏi thuyết phục lắm".

      Oliver thể còn nghĩ ngợi gì thêm.

      Khi chiến dịch tranh cử Tổng thống đến gần hơn, Peter bắt đầi cho Oliver biết những điều cần , khi nào cần , và như thế nào. Ông ta thấy Oliver luôn gây được ấn tượng ở những bang chủ chốt. Đến bất kỳ nơi nào, cũng trúng những điều người ta muốn nghe.

      Tại Pennsylvania: "sản xuất là dòng máu nóng của cả nước. Chúng ta được quên điều đó. Chúng ta mở cửa lại các công xưởng, và đưa cả nước Mỹ vào guồng máy sản xuất".

      Hoan hô.

      Tại California: "công nghiệp máy bay là trong những thế mạnh nhất của Mỹ. Khôn có lý do gì để xưởng sản xuất máy bay của chúng ta phải đóng cửa. Chúng ta mở lại chúng".

      Hoan hô.

      Tại Detroit: "Chúng ta sản xuất ô tô, song lại để người Nhật trước chúng ta về mặt công nghệ. Chúng ta giành lại vị trí số này. Detroit lại là trung tâm ô tô của cả thế giới".

      Hoan hô.

      Tại sân bãi của các trường đại học, về việc cho sinh viên vay tiền với lãi suất giảm.

      Tại các trại lính đóng quanh đất nước, về tinh thần vô địch của quân đội Hoa Kỳ.

      Lúc đầu Oliver còn là cái tên chưa nổi, những kẻ đối nghịch với còn coi thường . Nhưng khi chiến dịch vào guồng, tỉ lệ tín nhiệm đối với ngày càng tăng.

      Trong tuần đầu tiên của tháng bảy, hơn bốn nghìn đại biểu và thành viên dự khuyết của hàng trăm đảng phái khác nhau, và các ứng cử viên, cùng dồn về dự hội nghị ở Cleveland, khiến thành phố này tràn ngập khí ngày hội với những cuộc diễu hành, những xe chăng cờ hoa và các yến tiệc. Camera truyền hình ở hầu hết các nơi thế giới dều tụ tập về đây. Peter và Sim bố trí để Oliver luôn ở trong tầm ngắm của các phóng viên.

      Có khoảng nửa tá người là đối thủ của Oliver nhưng Nghị sĩ Davis khéo léo làm việc ở hậu trường để loại bỏ dần từng người trong số đó. Ông ta gọi điện thoại đến số những người chịu ơn mình, có những chuyện cách đây hàng chục năm.

      "Toby đấy à, Todd đây, Emma và Suzzy thế nàoA?... Tốt, tôi muốn về cậu con trai của các , Andrew ấy. Tôi lo cho lắm đấy, Toby ạ. biết , theo ý kiến của tôi, hơi tự do quá. Phía nam chấp nhận đâu. tôi gợi ý với thế này nhé...

      "Alfred à, Todd đây. Roy dạo này thế nào?...

      cần phải cám ơn tôi. Tôi rất vui vì được giúp được nó mà. Tôi muốn với về ứng viên của các , Jerry ấy. Theo tôi quá hữu khuynh đấy. Nếu ủng hộ , ta mất miền bắc đấy, tôi thử gợi ý thế này nhé...

      "Kenneth đấy à, Todd đây. Tôi rất vui khi với là cái vụ nhà đất ấy giải quyết êm thấm. Tất cả chúng ta chơi đẹp, đúng ? Nhân tiện, tôi nghĩ chúng mình nên chút về Staler. Tên này yếu quá. bại mất. Mà mình thể ủng hộ người bại trận được, tôi cho là..."

      Cứ thế, cho đến khi người duy nhất có khả năng đoạt vị trí ứng cử viên cho đảng là Thống đốc Oliver Russell.

      Trong đợt bỏ phiếu kín lần thứ nhất, Oliver kiếm được 700 phiếu: hơn 200 phiếu so với đại diện của 6 bang công nghiệp phía bắc, 150 phiếu so với sáu tháng New England, 40 phiếu so với bốn bang miền Nam, 180 phiếu với hai bang trang trại, và cân bằng với ba bang Thái Bình Dương.

      Peter làm việc cật lực để chiến dịch quảng cáo cho Oliver luôn diễn ra rầm rộ và hiệu quả. Lần kiểm phiếu cuối cùng két thúc, Oliver là người chiến thắng. được bầu là chủ tịch đảng Cộng hoà trong tiếng vỗ tay vang trời.

      Bước tiếp theo là chọn phó chủ tịch. Melvin Wicks là chọn lựa lý tưởng. Ông là chính khách gốc California, tài chủ sung sức, và là người theo chính kiến cộng hoà.

      "Họ bổ sung cho nhau", Peter . "Bây giờ công việc chính mới bắt đầu đây. Chúng ta thuận lợi lớn với số phiếu vừa có, 700 phiếu". Số phiếu đại biểu đủ để chiếm ghế Tổng thống.

      Tager với Oliver, "Người dân muốn có vị Tổng thống trẻ trung... đẹp trai, hài hước chút và phải có cái nhìn xa trông rộng. Họ muốn với họ là họ vĩ đại như thế nào, và họ muốn tin vào điều đó... Hãy để họ thấy thông minh, nhưng đừng quá... Nếu tấn công đối thủ của mình, hãy làm như phải vì ... Đừng bao giờ coi thường nhà báo. Cứ đối xử với bọn này như bạn bè, và họ cũng coi là người bạn... Cố gắng tránh mọi chuyện xầm xì. Nên nhớ rằng là môt người của mọi người".

      Chiến dịch quảng cáo vẫn chưa dừng lại. Chiếc máy bay của Nghị sĩ Davis cần mẫn chở Oliver đến Taxas trong ba ngày, đến Massachusetts trong sáu giờ. Mỗi phút đều được tính toán. Có những ngày Oliver phải đến mười thành phố và đọc khoảng mười bài diễn văn. Mỗi đêm lại là khách sạn khác. Khách sạn Drạke ở Chicgo, St. Regis ở Detroit, Carlyle ở New York, Place D armes ở New Orleans, đến nỗi, cuối cùng Oliver thấy cái nào cũng giống cái nào. Bất cứ nơi nào Oliver đến, cũng đều được đón rước bằng xe dẫn đường của cảnh sát, đám đông và những cử tri cuồng nhiệt.

      Jan tháp tùng Oliver trong hầu hết các chuyến , và phải công nhận người tuyệt vời. Jan hấp dẫn và thông mình, đám nhà báo rất thích . Thỉnh thoảng, Oliver cũng đọc được báo về những cuộc mua bán gần đây nhất của Leslie: tờ báo ở Madrid, trạm truyền hình ở Mexico, đài phát thanh ở Kansas. mừng cho thành công của nàng, nó khiến bớt dằn vặt về những gì gây ra cho nàng.

      ở tất cả những nơi Oliver tới, các phóng viên chụp hình , phỏng vấn ... Có khoảng hơn trăm nhân viên phục vụ chiến dịch quảng cáo cho , nhiều người trong số họ đến từ những miền xa nhất của trái đất. Càng về cuối, tỉ lệ tín nhiệm càng chỉ ra Oliver là người dẫn đầu. Nhưng, điều chờ đợi là đối thủ của , phó tổng thổng Cannon, bắt đầu tấn công .

      Peter thấy lo lắng. "Tỉ lệ tín nhiệm của Cannon tăng. Chúng ta phải chặn ông ấy lại mới được.

      Hai cuộc khẩu chiến trực tiếp truyền hình giữa phó tổng thống Cannon và Oliver Russell được lên lịch.

      "Cannon về vấn đề kinh tế", Peter bảo Oliver, "và đó là thế mạnh của ông ấy. Nhưng chúng ta biến ông ấy thành trò cười. Đây là kế hoạch của tôi..."

      Buổi tối diễn ra cuộc khẩu chiến thứ nhất, trước camera truyền hìn, phó Tổng thống Cannon phát biểu về vấn đề kinh tế. "Nước Mỹ chưa bao giờ có nền kinh tế sung sức như nay. Các nghành công nghiệp nở hoa..." Ông trình bày khoảng mười phút, cố gắng thuyết phục mọi người bằng dẫn chứng và số liệu.

      Đến lượt Oliver đứng trước máy, , " kinh ngạc. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều hài lòng vì nền kinh tế nước nhà hưng thịnh", quay sang đối thủ, "nhưng ngài quên đề cập đến lý do khiến các công ty của chúng ta làm ăn phát đạt. Đó mà cái mà người ta gọi cách hoa mỹ là hậu quả của công nghệ. Để cho ràng, tôi xin được giải thích: hậu quả công nghệ có nghĩa là hàng loạt con người bị sa thải để nhường chỗ cho máy móc. Chúng ta có số người thất nghiệp nhiều hơn bao giờ hết. Đó chính là khía cạnh phi nhân bản bức tranh kinh tế sáng lạn mà chúng ta thấy. Tôi chia sẻ với ngài đây quan điểm cho rằng thành công về mặt tài chính quan trọn hơn con người..."

      Khi phó tổng thống Cannon về kinh tế, Oliver bàn về khía cạnh con người, tình cảm và các cơ hội.

      Trong bài của mình, Oliver như biến phó Tổng thống Cannon thành chính khách máy móc lạnh lùng, chẳng quan tâm gì đến người dân Mỹ và cuộc sống của họ.

      Sau hôm khẩu chiến đầu tiên, tỉ lệ tín nhiệm của Olver vọt hẳn lên, dẫn trước ngài phó tổng thống đáng thương ba điểm. Nhưng vẫn còn cuộc đọ sức nữa.

      Athur Cannon được bài học nhớ đời. Tại lần đọ sức thứ hai này, ông đứng trước micro và "Đất nước của chúng ta là nơi mà mọi người đều có những cơ hội như nhau. Nước Mỹ là thánh địa của tự do nhưng thế thôi chưa đủ. Người dân chúng ta còn phải có quyền lao động và quyền tận hưởng thành quả lao động của mình...".

      Ông ta bắt chước cái kiểu đề cao con người của Oliver và tất cả những gì mà ông ta dự định phát biểu cũng chỉ nhằm vào chủ đề đó. Nhưng Peter trước bước. Khi Cannon kết thúc bài của mình, Oliver bước lên hùng hồn. " gần gũi. Tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều mủi lòng trước những điều ngài đây về những cảnh ngộ khó khăn của những người thất nghiệp, và, như ngài gọi họ là "những người quên đến việc chúng ta phải phải làm thế nào để đem lại hạnh phúc cho những người đó..."

      Và cứ như thế, khi phó Tổng thống Cannon về tình cảm con người, Oliver chỉ trích ông ta bằng các vấn đề chính trị, bằng kế hoạch phát triển kinh tế khiến ngài phó Tổng thống trở nên độc như con người lạc lõng.

      Oliver, Jan và Nghị sĩ Davis cùng ăn tối tại nhà riêng của Nghị sĩ ở Georgetown. Ngài nghị sĩ mỉm cười với Jan. "Cha vừa xem kết quả tín nhiệm gần đây nhất. Cha nghĩ là con sắp được vào trang trí lại Nhà trắng đấy".

      Khuôn mặt Jan rạng rỡ. "Cha có thực nghĩ rằng chúng con thắng ?"

      "Cha sai lầm về nhiều chuyện, con ạ, nhưng chưa bao giờ cha sai lầm về chính trị. Nó ăn vào máu của cha rồi. Tháng Mười này, chúng ta Tổng thống mới, và người đó ngồi cạnh con đấy".

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 10
      “Xin thắt dây lưng lại.”

      “Thế là chúng ta lên đường!” Dana vui vẻ nghĩ. Nàng nhìn Benn Alberson và Wally Newman, hai đồng của nàng trong chuyến này. Benn Alberson, phụ trách sản xuất băng cho Dana, là người đàn ông râu ria đầy mồm, cực kỳ năng động, khoảng 40 tuổi. làm vài chương trình tin tức được xếp hạng nhất và rất được vị nể. Wally Newman, phụ trách quay camera, mới qua tuổi 50, vừa có tài, vừa rất nhiệt tình, luôn hăm hở đón nhận những công việc được giao.

      Dana nghĩ về mạo hiểm mà họ sắp đối đầu. Họ hạ cánh xuống Paris rồi bay Zagreg, Croatia và cuối cùng là Sarajevo.

      Trong tuần cuối ở Washington, Dana cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Shelley McGuire, trưởng ban biên tập phần tin nước ngoài.

      cần có chiếc xe phát sóng ở Sarajevo để chuyển bài của mình lên vệ tinh.” Mc Guire . “Chúng ta có trạm vệ tinh tại đó nên phải thuê của công ty Yugoslavi. Nếu mọi việc xuôn sẻ, chúng tôi gửi xe đến sau. có nhửng cảnh phải trực tiếp có mặt ở trận địa đấy. Benn Alberson với ấy muốn gì. chọn cảnh để quay và sau đó dựng phim, làm tiếng tại phòng thu địa phương. Tôi tặng hai chuyên gia sản xuất và quay phim giỏi nhất của công ty đấy. Yên tâm, có chuyện gì đâu.”

      Dana nhớ như in những lời lạc quan đó.

      Mười ngày trước khi Dana lên đường, Matt Baker gọi điện tới và bảo nàng đến văn phòng gặp ông ta ngay.

      “Mình phải đến đó.” Dana gác máy với linh cảm kỳ lạ, “ông ta thay đổi ý định và cho mình nữa. Sao ông ấy lại có thể làm thế với mình? Mình bắn chết ông ta ngay.”

      Mười phút sau, Dana bước vào văn phòng của Matt.

      “Tôi biết ông sắp gì rồi”, nàng phủ đầu, “nhưng như thế là hay đâu. Tôi ! Tôi chờ đợi ngày này từ khi còn là đứa trẻ. Tôi hy vọng mình có thể làm được việc gì có ý nghĩa ở đó. Ông cho tôi cơ hội để thử thách.” Nàng hít hơi sâu. “ Thôi được, ông muốn gì đây?”

      Matt Baker nhìn nàng và với vẻ trìu mến, “Bon voyage”.

      Dana nhìn ông ta cách ngạc nhiên. “Cái gì kia?”

      “Bon voyage, tiếng Pháp có nghĩa là chúc chuyến tốt lành.”

      “Tôi biết nó có ý nghĩa gì chứ. Nhưng tôi... ngờ ông lại chúc tôi...”

      “Tôi chúc điều đó vì tôi trò chuyện với số phóng viên thường trú ở những nước có hoàn cảnh tương tự. Họ cho tôi số lời khuyên để tôi chuyển đến ...”

      Dana tin nổi vào tai mình nữa. Người đàn ông khô khan và thô lỗ này lại chịu mất thời gian và công sức hỏi kinh nghiệm của những phóng viên thường trú ở nước ngoài để mách bảo cho nàng ư?

      “Tôi... Tôi biết cám ơn ông...”

      “Đừng có làm vậy”, ông nhanh, “ sắp vào nơi chiến . có nổi 1% đảm bảo là có thể tự bảo vệ được mình, bởi vì bom đạn có mắt để tránh những người vô tội. Nhưng khi ở giữa khung cảnh ác liệt, lượng adrenaline trong dâng cao. có thể bị kích động, làm những điều ngu ngốc mà bao giờ lường trước được. phải chú ý đến điều này. Đừng lang thang ở những đường phố vắng lặng. tin tức giật gân nào giá trị bằng mạng sống của cả. điều nữa là...”

      Những lời dặn dò kéo dài khoảng tiếng đồng hồ. Cuối cùng, ông . “Thế đấy, bảo trọng lấy mình. Nếu có rủi ro gì xảy ra với , tôi sẽkhông thể tự than thứ cho mình được.”

      Dana bước đến hôn lên má ông.

      “Đừng có làm cái trò đó lần nữa đấy”, ông nạt nộ rồi đứng đậy. “ khốc liệt đấy, Dana ạ. Bất kỳ lúc nào muốn trở về, hãy báo tôi biết, tôi lo cho.”

      “Tôi đâu,” Dana với vẻ tự tin.

      Sau này, nàng mới biết là mình nhầm.

      Chuyến bay tới Paris xảy ra chuyện gì. Họ hạ cánh ở sân bay Charles de Gaulle, rồi chiếc xe chở họ đến phòng chờ của hãng Hàng Croatia Airlines, trễ mất 3 tiếng đồng hồ. 10 giờ tối hôm đó, máy bay đáp xuống sân bay Butmir tại Sarajevo. Hành khách được đưa vào khu nhà bảo vệ, nơi họ bị những ngươì gác mặc quân phục kiểm tra hộ chiếu. Khi Dana ra gần đến cửa, người đàn ông lùn tịt vẻ rất khó chịu, mặc đồ dân , chặn nàng lại. “Hộ chiếu đâu?”

      “Tôi trình họ hộ...”

      “Tôi là đại tá Gordan Divjak. Hộ chiếu của đâu?”

      Dana đưa cho ông ta hộ chiếu cùng với tấm thẻ ưu tiên dành cho nhà báo.

      Ông nhìn lướt qua. “Nhà Báo hả?” rồi ngửng lên nhìn nàng, cái nhìn sắc như dao cạo. “ đứng về phía nào?”

      “Tôi chẳng ở bên nào cả”, Dana bật lên tự nhiên.

      “Thế ghi chép phải cẩn thận đấy, chúng tôi tay với gián diệp đâu.” Đại tá Gordan Divjak răn đe trước.

      ĐÓN CHÀO BẠN ĐẾN SARAJEVO!

      Chiếc xe Land Rover lỗ chỗ vết đạn chờ họ ở sân bay. Lái xe là chàng chỉ mới qua tuổi 20 chút, khá vui tính. “Tôi là Jovan Tolj, tôi làm tài xế cho các vị ở Sarajevo này.”

      Jovan nhấn nút ga, cho xe rẽ vào qua các khúc cua và phi như bay những phố vắng như thể bị săn đuổi.

      “Xin lỗi”, Dana thấy lo lắng, “tại sao chúng ta phải vội vàng thế?”

      “Là vì nếu chị muốn còn sống sót để đến khách sạn.”

      “Nhưng...”

      Đúng lúc đó, Dana nghe thấy những thanh rền vang như tiếng sấn từ xa, và có vẻ như tiến đến gần.

      Tiếng động mà nàng nghe thấy đó phải là sấm.

      Trong bóng tối, Dana vẫn thấy được những tòa nhà sạt hết mặt tiền, những căn hộ mái, những nhà hàng còn cửa kính... Nàng thấy khách sạn Holiday Inn ở trước mặt. Phía trước khách sạn chỉ còn là đống đổ nát. cái hô sâu, đen sì nằn chình ình đường vào. Chiếc xe lao qua cửa.

      “Chờ chút, đây là khách sạn của chúng tôi”, Dana kêu lên, “ còn phóng đâu nữa?”

      “Cửa trước nguy hiểm lắn,” Jovan . cho xe rẽ vào con đường , “mọi người đều ra vào bằng cửa hậu.”

      Môi Dana khô lại. “Ồ, ra thế à?”

      Phòng chính của khách sạn Holiday Inn đầy những người túm tụm trò chuyện. người đàn ông Pháp còn trẻ trông khá hấp dẫn, tiến lại phía Dana.

      “A, chúng tôi chờ chị đây. Chị là Dana Evans, đúng ?”

      “Vâng.”

      “Tôi là Jean Paul Hubert, phóng viên của M6 Métropole Télévision.”

      “Rất vui được gặp . Đây là Benn Albertson và Wally Newman.” Mấy người đàn ông bắt tay nhau.

      “Chào mừng các bạn đến với những gì còn sót lại của thành phố nhanh chóng biến mất.”

      Những người khác cũng tiến đến chào họ. Từng người giới thiệu mình.

      “Steffan Mueller, phóng viên Kabel Network.”

      “Roderick Munn, BBC 2.”

      “Marco Benelli, Italia I.”

      “Akihiro Ishihara, TV Tokyo.”

      “Juan Santos, Kênh 6, Guadalajara.”

      “Chun Qian, Truyền Hình Thượng Hải.”

      Dana cảm tưởng như tất cả các nước thế giới đều gửi phóng viên của mình đến đây. Màn giới thiệu tưởng như bao giờ hết. Cuối cùng là người đàn ông Nga, béo lùn, miệng nở nụ cười, để hởp lấp lánh mấy cái răng vàng.

      “Nikolai Petrovich, Gorizont 22.”

      “Có bao nhiêu phóng viên ở đây?” Dana hỏi Jean Paul.

      “Khoảng hơn 250 người. có mấy trận chiến lại tập trung nhiều màu cờ sắc như thế này đâu. Đây là chuyến công tác đầu tiên của chị à?”

      Giọng ta như kiểu bình luận về trận tennis.

      “Vâng.”

      Jean Paul . “Nếu tôi giúp được gì cứ cho biết nhé.”

      “Cám ơn,” nàng ngập ngừng, “thế cái gã đại tá Gordan Divjak ấy là ai vậy?”

      “Chị cần phải biết làm gì. Tất cả chúng tôi đều thấy như dạng Gestapo của phía Séc, nhưng chắc lắm. Tôi khuyên chị nên tránh xa con người đó ra.”

      “Tôi nhớ.”

      lúc sau, khi Dana lên giường, bỗng có tiếng nổ dữ dội ở gần ngay đó, rồi lại tiếng nữa. Căn phòng rung lên bần bật. Có cái gì đó, như thể hình dung được, nằm ngoài cả phim ảnh. Dana thức cả đêm, nằm nghe tiếng động của những cỗ máy giết người khủng khiếp và nhìn qua cửa sổ những luồng sáng vụt lóe ngang bầu trời.

      Buổi sáng, Dana trở dậy, mặc vào người quần bò, ủng lính, áo jacket chống đạn. Nàng cảm thấy khá yên tâm, nhưng bỗng có tiếng của Matt vang lên trong đầu, “đừng coi thường những khu phố người. tin tức giật nào bằng mạng sống của đâu.”

      Dana, Benn và Wally gặp nhau tại phòng lớn của khách sạn, họ chuyện về gia đình. “Tôi quên chưa thông báo cho hai bạn tin mừng của tôi.” Wally . “Tôi có cháu ngoại vào tháng tới.”

      tuyệt vời.” Dana reo lên, rồi nàng nghĩ, “ biết mình còn sống được đến lúc có con rồi có cháu nhỉ? Thôi cái gì phải đén đến.”

      “Tôi có ý tưởng đây,” Benn , “Chúng ta làm chương trình đầu tiên về ngay những gì xảy ra ở đây, cho thấy cuộc sống của con ngườibị ảnh hưởng như thế nào. Tôi và Wally trinh sát địa điểm để ghi hình. Còn thuê giờ vệ tinh, được Dana?”

      “Được.”

      Jovan đợi ở cửa, trong chiếc xe Land Rover, “Doboro Jutro, chúc buổi sáng tốt lành.”

      “Xin chào, Jovan, tôi muốn đến nơi người ta cho thuê thời gian sử dụng vệ tinh.”

      Xe lăn bánh, lần đầu tiên Dana có thể thoải mái ngắm nghía Sarajevo. Nàng có cảm tưởng rằng thành phố này còn ngôi nhà nào gọi được là lành lặn. Tiếng súng như bao giờ ngớt.

      “Họ bao giờ dừng à?” Dana hỏi.

      “Họ dừng khi nào hết đạn.” Jovan với vẻ tức giận, “mà họ bao giờ hết đạn cả.”

      Đường phố vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng mới thấy vài gã đồng tính dập dờ. Tất cả các hiệu cà phê đều đóng cửa. Vỉa hè bị cày xớikỹ kưỡng. Họ qua tòa nhà Oslobodjenje.

      Jovan tự hào giới thiệu. “Đây là tòa báo của chúng tôi, bọn Séc cố phá hủy nó, nhưng được.”

      Vài phút sau, họ đến trung tâm vệ tinh, Jovan . “Tôi đợi chị.”

      Đằng sau chiếc bàn đón tiếp ở cửa ra vào là ông già chừng 80 tuổi. “Ông có được tiếng ạ?” Dana hỏi.

      Ông già ngước nhìn nàng, khinh khỉnh. “Tối được 9 thứ tiếng, thưa , cần gì và thích bằng tiếng nước nào?”

      “Tôi là phóng viên của WTE, tôi muốn thuê thời gian sử dụng vệ tinh và thương lượng về...”

      “Lên tầng 3.”

      Tấm bảng cửa viết “Trạm phân phối vệ tinh Yugoslavia.” Phòng chờ chật người, lố nhố đứng ngồi những thanh gỗ dài chống vào tường như ghế.

      Dana len vào gặp trẻ tại bàn đón tiếp. “Tôi là Dana Evans, phóng viên của WTE, tôi muốn thuê thời gian sử dụng vệ tinh.”

      “Xin mời chị ngồi, và đợi đến lượt mình.”

      Dana nhìn quanh căn phòng. “Tất cả những người này là đều đến thuê thời gian sử dụng vệ tinh đấy ư?”

      ngửng lên nhìn Dana, đáp. “Đúng thế đấy.”

      Phải đến gần 2 giờ sau Dana mới lê đến được phòng của người quản lý. Đó là người đàn ông béo lùn, phì phèo điếu xì gà môi, trông rất giống những ông bầu phim ảnh Holywood khoảng giữa thế kỷ. Giọng của ông ta nghe rất nặng. “Tôi giúp được cái gì đây?”

      “Tôi là Dana Evans, phóng viên truyền hình WTE. Tôi muốn thuê trong những chiếc xe của ông và đặt trước thời gian để sử dụng vệ tinh, khoảng 30 phút thôi. Vào 6 giờ sáng, giờ ở Washington, liên tục tất cả mọi ngày.” Nàng dò xét thái độ của ông ta. “Có vấn đề gì ạ?”

      thôi. có chiếc xe nào dành cho bây giờ cả. Tất cả đều được trước rồi. Tôi gọi điện cho nếu có ai hủy.”

      Dana như tin vào tai mình. “ ư...? Nhưng tôi cần phải truyền về vệ tinh, tôi...”

      “Những người khác cũng vậy, thưa . Trừ những người có xe riêng của họ.”

      Dana quay lại phòng đón tiếp. Nó còn đông hơn ban nãy, chật kín người.

      “Mình phải làm gì chứ nhỉ.” Nàng nghĩ.

      Ngồi vào xe, Dana với Jovan. “Tôi muốn đưa tôi quanh thành phố.”

      Chàng trai quay lại nhìn nàng rồi gật gù. “Nếu chị muốn.”

      Chiếc xe lao như bay. “Làm ơn chậm lại được , tôi muốn có chút cảm nhận về nơi này.”

      Sarajevo như thành phố của thời kỳ đồ đá, có điện, nước và cứ mỗi giờ trôi qua lại có thêm vài ngôi nhà bị bom phá hủy. Tiếng bom đạn thường xuyên đến nỗi người ta buồn để ý đến nữa. khí tang tóc như bao trùm lấy toàn thành phố.

      Hầu như góc phố nào cũng có những tốp người; đàn ông, đàn bà, và trẻ con, đủ cả, chia nhau nhúm thức ăn ít ỏi còn giữ được.

      “Họ là những người chạy trốn khỏi Bosnia và Croatia,” Jovan giải thích, “ cố kiếm lấy ít tiền để mua thức ăn.”

      Lữa cháy ở khắp nơi. có bóng dáng của bất kỳ người chữa cháy nào.

      có đội xe cứu hỏa ở đây à?” Dana hỏi.

      Jovan lắc đầu. “Có, nhưng dám đến. Họ là những mục tiêu ngon lành đối phương.”

      Lúc đầu, Dana cho rằng cuộc chiến Bosnia và Herzegovina cũng có chút ý nghĩa nào đó. Nhưng chỉ sau tuần ở Sarajevo, nàng nhận thấy rằng nó vô nghĩa, cái cuộc chiến tranh tương tàn này. ai có thể giải thích được nguyên do. Ai đó nhắc tới giáo sư đại học, vốn là sử gia nổi tiếng. Ông bị thương và nằm diều trị tại nhà. Dana quyết định tới gặp ông ta.

      Jovan đưa nàng tới trong những khu phố lâu đời nhất của thành phố. Giáo sư Mladic Staka người bé, tóc bạc, vẻ hiểu biết gương mặt. Ông bị thương vào sống lưng và phải nằm bất động giường.

      “Cám ơn đến thăm tôi,” ông , “những ngày này mấy ai còn nghĩ tới chuyện thăm viếng nhau. là cần chuyện gì với tôi?”

      “Vâng, tôi làm chương trình truyền hình về cuộc chiến này.” Dana trả lời. “Nhưng để lên , tôi cần phải hiểu nó .”

      “Lý do rất đơn giản, ạ. Cuộc chiến này là điều thể hiểu được rồi. Từ hàng thập kỷ nay, người Séc, người Croatia, người Bosnia và Hồi giáo từng sống hòa bình bên nhau, dưới thời Tito. Họ là bạn bè, là hàng xóm của nhau. Họ cùng lớn lên, cùng làm việc, cùng tới trường và lấy nhau.”

      “Thế còn bây giờ?”

      “Những người em ấy bắn giết nhau. Họ làm với nhau những việc mà tôi thể ra được nữa.”

      “Tôi có được nghe vài chuyện,” Dana . Những chuyện nàng nghe được đó tưởngnhư thể tin nổi: những hố chôn người tập thể, những đứa trẻ và bóp cổ, những người dân vô tội bị lùa vào nhà thờ rồi bị thiêu sống. “Bên nào bắt đầu trước?”

      Vị giáo sư lắc đầu. “Điều này còn tùy thuộc vào việc hỏi người nào. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng trăm nghìn người Séc, ở bên phía Allies, bị người Croatia giết, ở phía Nazis. Giờ đây, người Séc đòi nợ máu. Họ bắt giữ con tin và rất tàn bạo. Hàng trăm bức tường ở Sarajevo sập xuống. Ít nhất có 10 000 người bị chết và hơn 60 000 bị thương. Những người Bosnia và Hồi giáo cũng phải chịu trách nhiệm vì họ tham gia vào việc tra tấn và bắn giết. Rồi tất cả những người căm ghét chiến tranh cũng buộc phài lao vào cuộc. Người ta còn biết tin vào cái gì nữa. Điều duy nhất mà họ còn là lòng hận thù, là những đám lửa lớn liên tục cháy, mà nhiên liệu của nó là xác những người dân vô tội.”

      Khi Dana quay về khách sạn, chiều hôm đó, Benn Alberson chờ nàng, rằng họ chiếc xe phát sóng và thời gian là 6 giờ chiều mai.

      “Tôi tìm được chỗ lý tưởng để chúng ta ghi hình.” Wally Newman . “Đó là khu quảng trường với nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Hồi giáo, nhà thờ Tin Lành và giáo đường Do Thái. Tất nhiên, riêng biệt nhau. Tất cả đều bị đánh bom. có thể viết rằng ngay cơ bị hủy diệt là như nhau, và đó cũng là điều hoàn toàn có khả năng xảy ra đối với những người dân sống ở đây, những người hề đón chào chiến tranh nhưng phải chịu đựng nó.”

      Dana gật đầu, vui mừng “Tuyệt vời. gặp lại nhau vào buổi tối. Tôi phải làm việc đây,” rồi nàng chạy về phòng.

      Đúng 6 giờ tối hôm sau, Dana, Wally và Benn tụ họp tại quảng trường Benn đến hôm trước. Wally đặt camera chiếc giá 3 chân, còn Benn đợi tín hiệu nhận từ Washington. Tiếng súng ở đâu đó vẫn dội tới. Dana mừng vì mình khoác chiếc áo chống đạn. “Chẳng việc gì phải sợ. Họ bắn chúng ta. Họ bắn nhau cơ mà. Họ cần chúng ta để cho thế giới biết về câu chuyện của họ.”

      Dana nhìn thấy wally vẫy tay. Nàng hít hơi sâu, nhìn vào ống kính camera, và bắt đầu. “Những ngôi nhà thờ bị trúng bom mà các bạn nhìn thấy ở sau lưng tôi là hình ảnh tiêu biểu cho những gì diễn ra tại đất nước này. còn bức tường nào nguyên vẹn để che chở cho con người ở đây, còn chốn an toàn. Chỉ mới đây thôi, họ còn đến xưng tội tại nhà thờ của tôn giáo mình. Nhưng giờ đây, quá khứ, tại và tương lai như hòa quyện vào nhau và...” Đúng lúc đó, Dana nghe thấy tiếng rít của viên đạn. Nàng ngửng lên và thấy đầu của Wally vỡ ra, loang loáng đỏ, chắc là thủ thuật của ánh sáng đây mà, nhưng khi nhìn lại, nàng thấy thân hình to lớn của ông đổ sập xuống vỉa hè. Dana lạnh toát người, thể tin vào mặt mình. Tiếng la ầm ĩ vang lên.

      Tiếng súng mỗi lúc càng nổ gần hơn và Dana bắt đầu run rẩy như thể kiểm soát được bản thân. Có những cánh tay túm lấy nàng và đẩy nàng nằm xuống. Nàng giãy dụa, đấm đạp họ, cố gắng giải thoát mình. , phải về thôi. Chúng ta cần phải tốn dù chỉ 10 phút nữa ở đây... Cũng chẳng cần gì nữa. là sai lầm khi cứ phải lãng phí sức lực, tinh thần và cả tính mạng nữa ở đây. Đừng mơ nữa, bé ngốc nghếch ạ. Những đứa trẻ ở Trung Quốc chết đói kìa. Mày nghĩ mày là Chúa Trời chắc. Này, để ta cho mày biết điều này. Mày là con dở hơi. Chúa Trời bao giờ, bao giờ, bao giờ để cho đầu của Wally vỡ toang ra thế kia. Wally chờ đứa cháu ngoại cuả ông ấy ra đời. Mày có nghe thấy gì ? Hả? Có nghe thấy gì ?

      Dana trong 1 cú sốc khủng khiếp. Nàng hề biết rằng mình được đưa qua đường để trở lại xe.

      Khi mở mắt, nàng thấy mình nằm giường. Benn và Jean Paul bên.

      Dana nhìn họ. “ xảy ra rồi phải ?” Nàng nhắm chặt mắt lại.

      “Tôi xin lỗi,” Jean Paul . “ khủng khiếp khi phải tận mắt chứng kiến. may mắn vì sống sót.

      Chuông điện thoại vang lên. Benn cầm máy. “Xin Chào.” nghe lát. “Vâng có đây.” quay sang Dana. “Matt Baker đấy. chuyện được với ông ta ?”

      “Được,” Dana bước xuống, về phía điện thoại. “Xin chào,” cổ họng nàng khô khốc, rất khó phát .

      Giọng Matt Baker đầy vẻ lo lắng. “Tôi muốn về ngay, Dana.”

      Tiếng Dana giờ chỉ như những lời thầm. “Vâng tôi muốn về nhà.”

      “Tôi sắp đặt cho chuyến bay đầu tiên rời khỏi đó.”

      “Xin cám ơn.” Nàng rồi đặt máy.

      Jean Paul và Benn giúp nàng ngồi xuống giường.

      “Tôi xin lỗi,” Jean Paul , “mọi người đều biết gì...”

      Nước mắt trào ra, lăn xuống má Dana. “Tại sao họ lại giết Wally? Ông ấy có bao giờ hại ai đâu. Chuyện gì xảy ra ở đây? Con người bị bắn giết như súc vật mà ai quan tâm. ai quan tâm!”

      Benn , “Dana, chúng ta thể làm gì lúc này về việc...”

      “Phải có chứ,” giọng Dana chợt trào lên nỗi tức giận. “Cháung ta phải làm cho họ quan tâm. Cuộc chiến này chỉ phá hủy nhà thờ, phố xá, trường học... mà nó còn giết hại bao nhiêu con người, những con người hoàn toàn vô tội. Chúng ta cần phải kể lại câu chuyện này. Đó là cách tố cáo duy nhất để thế giới biết và lên án nó.” Nàng quay về phía Benn và hít hơi sâu. “Tôi ở lại, Benn ạ. Tôi để bất kỳ ai nghĩ rằng tôi chạy trốn.”

      nhìn nàng, vẻ lo lắng. “Dana, có chắc là mình...”

      “Tôi chắc. Tôi biết bây giờ mình phải làm gì rồi. có thể gọi điện cho Matt và bảo ông ấy đừng sắp lịch bay cho tôi nữa.”

      “Nếu như đó là điều thực muốn.”

      “Đó là điều thực tôi muốn.” Nàng nhìn Benn rời khỏi phòng.

      Jean Paul . “Có lẽ tôi nên để chị...”

      ,” trong phút chốc, Dana lại nhớ tới cái đầu của Wally vỡ ra đầy máu và thân hình ông đổ xuống đất. “,” nàng , nhìn Jean Paul “làm ơn ở lại, tôi cần có .”

      Jean Paul ngồi bên giường, và Dana kéo lại gần mình hơn.

      Sáng hôm sau, Dana với Benn. “ có thể kiến được người quay camera ? Jean Paul với tôi về nhi viện ở Kosovo vừa mới bị ném bom. Tôi muốn đến đó làm chương trình.”

      “Tôi cố tìm ra ai đó.”

      “Cám ơn . Tôi đến trước và gặp ở đó.”

      “Cẩn thận đấy.”

      “Đừng lo.”

      Jovan đợi nàng ở cửa. “Chúng ta đến Kosovo.” Dana với chàng lái xe.

      Jovan quay hẳn lại nhìn nàng. “Nguy hiểm lắm, thưa . Con đường duy nhất đến đó phải qua cánh rừng và...”

      “Chúng ta cùng nhau chia sẻ rủi ro, Jovan. ổn thôi.”

      “Nếu muốn.”

      Họ băng qua thành phố, và khoảng 15 phút sau đến cánh rừng khá rậm.

      “Còn khoảng bao xa nữa?”

      xa nữa đâu. Chúng ta chỉ nên ở đó trong...”

      Đúng lúc đó, chiếc Land Rover rơi vào bãi mìn.

      Chương 11
      Ngày bầu cử càng đến gần, cuộc đua tranh chiếc nghế Tổng thống càng ác liệt.

      - Chúng ta thắng ở Ohio rồi - Peter Tager , "tại đó chúng ta được 21 phiếu đại biểu.

      Tại Alabama cũng ổn, 9 phiếu. Florida, chúng ta được 25 phiếu. ông ta hua hua bảng tổng kết,

      Illinois 22 phiếu... New York 38, và Califomia 44 phiếu. Thực ra thế cũng chưa phải là nhiều.."

      Mọi người đều lo lắng, trừ Nghị sĩ Davis. "Tôi có cái mũi thính" - chúng ta thắng.

      Tại bệnh viện Frankfort, Minam Frilandan trong tình trạng hôn mê.

      Vào ngày bầu cừ, thứ ba đầu tiên của tháng Mười ? Leslie ở nhà mlnh ngồi xem tivi.

      Ollver Russell đă kiếm được hơn hai triệu phiếu thường và đa số phiếu đại biểu. ta trở thành Tổng thống của nước Mỹ. trong những con người quyền lực nhất thế giới.

      ai theo dõi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng kỳ này sát sao hơn Leslie Stewart Chambers. Mặc dù nàng luôn bận rộn với việc xây dựng đế chế của mình và liên tục mua bán nhứng tờ báo mới, những trạm truyền hình, phát thanh khắp nước Mỹ, cũng như cả nước , hay châu á và brazil..

      - lúc nào bà mới thấy là đủ ? - Tổng biên tập của nàng, bà Daml Solana hỏi.

      - "Sắp rồi, sắp rồi mà".

      Chỉ còn bước nữa mà nàng phải : và cái bước cuối cùng đó đến với nàng vào bữa tiệc tối ở Scottsdale.

      vị khách .

      - "Tôi nghe margaretportman sắp li dị.

      Margaret là chủ của Tập đoàn Viễn thông Washington Tribune.

      Leslie gì vào lúc đó, nhưng sang hôm sau, nàng gọi điện cho Chad Morton, trong những luật sư của mình.

      - "Tôi muốn tim hiểu xem có đúng là Washington Tribune rao bán ?.

      Câu trả lời đến ngay vào ngay hôm sau

      - "Tôi hiểu tại sao bà biết tin này, bà Chambers, nhưng có vẻ như bà đúng đấỵ Bà Portman và chồng vừa li dị trong im lặng. HỌ chia tài sản. Tôi nghĩ là Tribune sắp bị rao bán đấy".

      - "Tôi muốn mua nó".

      đến vụ động trời đấỵ Tập đoàn WTE này chỉ bao gồm hệ thống báo và tạp chi mà còn cả đài truyền hình liên mạng, và...".

      - "Tôi vẫn muốn mua".

      Buổi chiều hôm đó, Leslie và Chad Morton lên đường đến Washington, D.C.

      Leslie gọi điện cho Margaret Portman, người mà nàng giao thiệp từ mấy năm naỵ

      - "Tôi ở Washington", Leslie , "và tôi..".

      - Tôi biết.

      đúng là bức vách có tai, Leslie nghĩ.

      - "Tôi nghe chị có ý định bán Tribune.?

      - có thể.

      - biết liệu chị có ý định gạt lại phần báo chí cho tôi ?".

      - quan tâm đển việc này hả, Leslie ?".

      - CÓ thể. .

      Margaret hỏi Matt Baker.

      - có biết gì về Leslie Chambers ?.

      - "Nàng công chúa tuyết đấy".

      - ấy đến đây trong vài phút nữa. Tôi muốn đưa ấy xem phần báo chí".

      Tất cả mọi người trong Tribune biết là Tập đoàn của họ sắp bị bán.

      - là sai lầm nếu bán Trlbune cho Leslie Chambers".

      Matt Baker kêu lên.

      - Tại sao lại thế ?".

      - đầu tiên, tôi chắc là bà ta có hiểu biết gì về việc kinh doanh báo chí. Bà có biết Leslie Chambes làm gì với những tờ báo đầy uy tín mà bà ta mua về ? Biến chúng thành những tờ lá cải rẻ tiền. Bà ta huỷ diệt Tribune. Bà ta ...",

      ông dừng lại. Leshe Chambers đứng ở cửa, im lặng.

      Margaret xởi lởi

      - Ô Leslie, được gặp tôi vui quá

      - đây là Matt Baker, Tổng biên tập của Tnbune.

      HỌ chào nhau bằng cái nhìn lạnh giá.

      - "Matt sê đưa xem vòng".

      - Tôi cũng chờ việc đó.

      Matt Baker thở dài . "Thôi được, chúng ta nào".

      MỞ đầu cho chuyến thăm thú, Matt Baker lạnh lùng giới thiệu

      - "Cấu trúc của chúng tôi như thế này: cao nhất là Tổng biên tập...".

      - Là ông đấy phải , ông Baker ?".

      - Phảị Dưới tôi là hai người phụ trách, về kinh doanh và về nhân . dưới nữa lả các Trưởng Ban biên tập về các mục như : Thể Thao, Văn Hóa, Cuộc Sống, Kinh doanh. Du Lịch , v..vv... Tôi bớt số mục cần thiết lắm".

      "Tuyệt vời quá. Thế WTE này có bao nhiêu nhân viên ?".

      Khoảng năm nghìn".

      HỌ qua bàn làm việc.

      - đấy là nơi các tin tức được trình bày lên báo. Ngươi kia phụ trách việc đặt tranh ảnh như thế nào cho phù hơp và tin nào lên trang nào. Ban này làm việc viết tựa đề cho các tin.

      - Hay quá.

      - Bà có muốn xem qua xưởng in ?

      - ồ có chứ, tôi muốn xem tất cả.

      Matt cảm thấy đăng đắng trong cổ họng. "Tôi xin lỗi !".

      - Tôi là tôi muốn xem.

      HỌ thang máy xuống và đến toà nhà khác. Xưởng in tổng thể chừng bằng khoảng bốn cái sân bóng đá. Tất cả mọi thứ trong khoảng vĩ đại này đều được tự động hoá. CÓ 30 ró-bót làm việc. chúng vác những cuộn giấy to tướng và xếp vào những trạm quanh đó.

      Baker giải thich.

      - Mỗi cuộn giấy này nặng khoảng 2 tấn. Nếu trải ra, nó dài khoảng tám dặm. Những cuộn giấy này được đưa vào máy in với vận tốc khoảng 21 dặm giờ. con ró-bót lớn có thể mang được mười sáu cuộn lúc.

      Có SÁU máy in ở đó; mỗi bên ba cáị Leslie và Matt Baker đứng ở giữa, nhìn những tờ báo tuồn từ trong máy in ra, được cắt, được đóng vào với nhau, được bó lại rồi được bỏ vào những cái thùng và cuối cùng là được chuyển tớì các xe tải chờ để chở chúng .

      - Trước kia, chúng tôi phải dùng tới ba mươi người để làm những việc mà bây giờ chỉ cần ngưòi làm". Matt . "Thờí đại của công nghệ mà".

      Leslie nhìn ông lúc.

      - Thời đại của hậu quả công nghệ.

      - Tôi biết bà có thực quan tâm đến tình hình kinh tế của công nghiệp báo chí ?"

      Matt Baker hỏi cách khô khan.

      - có thể bà nghe luật sư hay kế toán của bà ...".

      - Tôi thực quan tâm, thưa ông Baker. Ngân sách in ấn của tờ báo này là 15 tnệu đô la. Lượng ấn bản hàng ngày của các ông là 816 ngàn, 474 ngàn, 1 triệu, 140 ngàn, 498 ngàn vào chủ nhật, và lượng quảng cáo của các ông là 68,2 phần trăm".

      Matt nhìn nàng ngạc nhiên.

      - Nếu tính cả việc sở hữu toàn bộ dây chuyền báo chí, lượng ấn bản của các ông mỗi ngày là hai triệu, và hai triệu tư vào chủ nhật.

      - Tất nhiên, Tribune chưa phải là tờ báo lớn nhất thế giới, phải ông Baker ? Hai tờ chiếm giữ vị trí đó đều được in tại London. Tờ Sun, với lượng ấn bản ngày là bốn triệu. TỜ Daily Mirror, hơn ba triệu.

      Matt ngỡ ngàng, ông hít hơi sâu

      - Tôi xin lỗi, tôi ngờ là bà.....

      Tại Nhật Bản có 200 tờ nhật báo ra mỗi ngày, bao gồm Asahi Shimbun, Mainchi Shimbun, và Yomiun Shimbun, ông có nghe tôi , ông Baker ?".

      - có thưa bà, tôi xin lỗi vì có thái độ thiện chí.

      - đồng ý, ông Baker, bây giờ chúng ta quay lại với bà Margaret Portman chứ ?.

      Buổi sáng hôm sau, Leslie đối mặt với Margaret Portman và khoảng nửa tá luật sư trong phòng họp của Tribune.

      - Nào, chúng ta bàn về vấn đề giá cả.

      Leslie . Cuộc thảo luận diễn ra trong khoảng bốn tiếng, cuối cùng, Leslie là chủ mới của WTE.

      Tập đoàn này đắt hơn là nàng nghĩ. Nhưng đó chẳng phải là vấn đề.

      Còn có những điều quan trọng hơn thế.

      Sau hôm đó, Leslie cho gọi Matt Baker lên phòng làm việc của nàng.

      - ông có dự định gì ?- Nàng hỏi.

      - Tôi .

      Nàng nhìn ông cách tò mò. "Tại sao ?".

      - Bà cũng có chút tai tiếng đấỵ Người ta thich làm việc cho bà, người ta bà thường biến những tờ báo có uy tín thành những tờ lá cải chỉ đăng tin chó cán xe !

      - ông làm việc ở đây bao lâu rồi ?.

      - Mười lăm năm.

      - và bây giờ ông sẵn sàng vứt bỏ tất cả ư ?.

      - Tôi vứt bỏ cái gì hết. Chỉ là....

      - Nghe tôi đâỵ Tôi cũng nghĩ Tribune là tờ báo tốt, nhưng tôi còn muốn nó thành tờ báo vĩ đại cơ. ông có thể giúp tôi được ?

      - , tôi thể...

      - Sáu tháng. Hãy thử làm việc ở đây với tôi trong sáu tháng. Chúng ta bắt đầu bằng việc tăng lương ông lên gấp đôi nay.

      Matt nhìn nàng lúc lâu. Trẻ trung. xinh đẹp và thông minh. Nhưng... ông vẫn có cảm giác là thích nàng.

      - ..Thế ai lãnh đạo ở đây ?".

      Leslie mỉm cườị

      - ông từng là Tổng biên tập của Tribune, bây giờ cũng vẫn vậy thôi.

      Và ông tin nàng.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 12

      sáu tháng trôi qua kể từ ngày chiếc Land Rover của Dana bị rơi vào bãi mìn. cú nhớ đờị Nàng thoát chết và bị gì nặng hơn ngoài chiếc xương sườn gãy, cổ tay sai khớp, những vết bầm tím và chút chấn động. Jovan bị gãy chân, bị rách vài chỗ nặng lắm và cũng đầy những vết bầm tím. Matt Baker gọi điện cho Dana ngay đêm hôm đó và ra lệnh cho nàng lập tức quay về Washington. Nhưng tai nạn này khiến Dana quyết tâm ở lại hơn giờ hết. "Mọi người ở đây thất vọng", nàng với ông, "tôi thể chạy trốn như thế được. Nếu ông buộc tôi phải về, sau đó tôi cũng bỏ việc".

      " ra điều kiện với tôi đấy hẳn?".

      "Phải".

      "Thế để tôi cho biết điều này nhé. Tôi chưa từng để ai ra điều kiện với tôi đâu, hiểu ?".

      Dana gì.

      " nghĩ thế nào nếu tôi cho cái giấy phép vắng mặt?"

      "Tôi cần cái giấy đó", nàng nghe tiếng ông thở dài trong máỵ

      "Thôi được, cứ ở đó, Dana, nhưng...".

      "Vâng?"

      "Hứa với tôi là cẩn thận".

      Từ cửa sổ khách sạn, Dana có thể nghe thấy tiếng nhạc của những cỗ máy chết chóc, nàng nóị "Vâng, tôi hứa".

      Suốt đêm đó, thành phố phải chịu cuộc tấn công khủng khiếp. Dana tài nào ngủ được. Mỗi tiếng pháo nổ có nghĩa là ngôi nhà sập xuống, là gia đình tan nát, kẻ mất người còn...

      Sáng sớm hôm sau, Dana cùng nhóm của mình xuống đường, sẵn sàng lên hình. Benn chờ cho tiếng pháo và súng bớt , gật đầu với Danạ "Mười giây nữa".

      "Sẵn sàng", nàng nóị

      Benn nhấn nút, Dana quay nhìn đống đổ nát sau lưng rồi đối mặt với camerạ

      "Đây là thành phố dần biến mất khỏi mặt đất. có điện, thành phố này còn con mắt... Các trạm truyền hình và phát thanh bị đóng cửa, thành phố này mất tai... Toàn bộ hệ thống giao thông công cộng còn nữa, thế là nó mất nốt chân...".

      ống kính camera chuyển dịch theo lời nàng nóị Còn nguyên vẹn dấu vết đổ nát, và mới tinh khôị

      "Và ở cuộc sống khác, bọn trẻ vẫn chơi đùa, tiếng cười hồn nhiên của chúng vẫn vang lên".

      Tiếng pháo kích nghe có vẻ gần hơn. Còi báo động đột nhiên rú lên. Những người qua lại đường phố phía sau Dana vẫn cắm cúi như chẳng hề nghe thấy gì.

      " thanh mà các bạn vừa nghe thấy là còi báo động báo cho người ta phải chạy tìm chỗ trú . Nhưng những người dân của thành phố Sarajevo này còn tìm nổi chỗ nào khả dĩ an toàn nữa, nên họ đành cứ tiếp tục trong im lặng. Những người có thể, chạy trốn khỏi đất nước của mình, từ bỏ nhà cửa và tài sản. Những người ở lại chết dần. lựa chọn đau lòng. Cũng có phong phanh những lời đồn đại về hoà bình. Có quá nhiều lời đồn nhưng lại có quá ít hoà bình. Liệu hoà bình có đến đây ? Và nếu đến khi nàỏ Liệu trẻ em có được ra khỏi hầm để lên mặt đất chơi đùa ? ai biết được câu trả lờị Họ chỉ có thể hy vọng. Đây là Dan Evans, chương trình làm từ Sarajevo cho WTE".

      Nút đỏ camera tắt.

      "Chúng ta khỏi đây thôi", Benn nóị

      Anday Casarez, người quay camera mới của họ vội vàng thu xếp đồ nghề.

      cậu bé đứng ở bên kia đường nhìn Dana chằm chằm. Cậu mặc bộ quần áo rách rưới và đôi giầy há mõm. Đôi mắt nâu rất sáng khuôn mặt nhem nhuốc. Cánh tay phải của cậu bé còn nữạ

      Dana thấy cậu bé cứ chăm chú nhìn mình, bèn mỉm cười chàọ "Xin chào".

      có câu trả lờị Dana quay lại phía Benn. "Chúng ta thôi".

      vài phút sau, họ lên đường trở về khách sạn Holyday Inn.

      Khách sạn đầy chật nhà báo của các hãng thông tấn, phát thanh và truyền hình ở khắp quốc gia thế giới hội tụ lại và tạo nên gia đình lớn. Họ ở những nước đối lập nhau về mặt chính trị, nhưng trong hoàn cảnh nguy hiểm này, họ cùng chia sẻ với nhau mọi thứ và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhaụ Họ cùng viết những bài về chiến xảy rạ

      trận pháo kích ở Motenegrọ..

      trận đánh bom ở Vukovar...

      bệnh viện ở Petrovo Selo bị phá huỷ...

      Jean Paul ra đị phải thuyên chuyển tới nơi khác và Dana nhớ đến se sắt.

      buổi sáng, khi Dana rời khách sạn, cậu bé hôm nọ nàng nhìn thấy đứng ở bên đường. Jovan mở cửa chiếc xe Land Rover mới cho Danạ "Xin chào chị".

      "Xin chào", cậu bé vẫn đứng đó, nhìn như dán vào Danạ Nàng lại gần cậu bé, "xin chào".

      Vẫn có câu trả lờị Dana quay sang hỏi Jovan. " xin chào bằng ngôn ngữ ở đây như thế nàỏ"

      Cậu bé con đáp luôn, "Dobro, Jutro".

      Dana quay lại cậu tạ "Vậy là cháu hiểu tiếng ?"

      "Có thể".

      "Thế tên cháu là gì?".

      "Kemal".

      "Cháu bao nhiêu tuổi hả Kemal?"

      Cậu bé chạy biến đị

      "Chắc nó sợ người lạ", Jovan nóị

      Dana nhìn theo cậu bé, "Tôi trách nó. Vì đúng tôi là người lạ".

      Bốn tiếng sau, khi chiếc Land Rover quay lại khách sạn. Kemal đứng đợi họ ở lối ra vàọ

      Chờ Dana ra khỏi xe, cậu , "Mười hai".

      "Cái gì cơ?" Rồi nàng sực nhớ ra, "ồ". Cậu bé hơi còi so với tuổị Nàng nhìn bên tay phải còn nữa của cậu bé và định hỏi, nhưng kịp dừng lạị "Cháu sống ở đâu, Kemal? đưa cháu về nhà nhé". Cậu bé lại bỏ chạỵ

      Jovan nóị "Thằng bé này đúng là được dạy dỗ".

      Dana , :"Có thể điều đó mất cùng với cánh tay nó!"

      Buổi tối hôm đó, tại phòng ăn tối của khách sạn, các phóng viên bàn tán về tin đồn lệnh ngừng bắn. "Cuối cùng Liên hiệp quốc cũng tham gia vào", Gabrella Orsi nóị

      "Vừa đúng lúc đấy".

      "Nếu mà hỏi tôi, là quá muộn rồi".

      " bao giờ là quá muộn cả". Dana .

      Buổi sáng hôm sau, có hai thông tin đến theo đường điện báọ Tin thứ nhất về thoả ước hoà bình của hai bên có chứng kiến của Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc. Tin thứ hai thông báo rằng, Oslobodjenje, tờ báo của Sarajevo, trúng bom và bị xoá sổ khỏi mặt đất. "Các tờ báo ở Washington hả hê với tin thoả ước hoà bình, vậy chúng ta làm chương trình Oslobodjenje". Dana với Benn.

      Dana đứng trước đống đổ nát, nơi từng là trụ sở của Oslobodjenjẹ Nút đỏ camera loé sáng.

      " ngày nào là có người chết", Dana nhìn thẳng vào ống kính, "và có nhà cửa bị phá huỷ". Như toà nhà này, nó vừa bị ném bom ngày hôm quạ Đây là trụ sở của tờ báo tự do duy nhất tại Sarajevo, tờ Oslobodjenje, tờ báo dám lên . Từ khi thành phố rơi vào cuộc chiến tàn khốc này, người ta phải chuyển tờ báo xuống tầng hầm, để giữ cho nó được sống.
      Khi còn cửa hàng để bán báo, chính các phóng viên phải ra đường và bán từng tờ báo cho những người qua lạị Họ bán được thứ lớn hơn tờ báo đó là tự dọ Với cái chết của Oslobodjenje, mảnh của tự do chết ở đâỵ

      Trong văn phòng của mình, Matt Baker xem chương trình của Danạ

      "Mẹ kiếp, còn khá quá". Ông quay sang viên trợ lý. "Tôi muốn ấy phải có xe phát vệ tinh riêng. lo vụ đó ".

      "Vâng, thưa ông".

      Khi Dana về đến phòng riêng, vị khách ngồi sẵn sàng đợi nàng. Đại tá Gordan Divjak.

      Dana dừng lại bất ngờ. " ai báo cho biết là tôi có khách".

      "Đây phải là chuyến thăm viếng thông thường", con mắt đen của gã chiếu thẳng vào nàng. "Tôi xem chương trình của về Oslobodjenje".

      Dana nhìn gã. "Vâng".

      " được phép vào đất nước của chúng tôi để làm báo, chứ phải đưa ra nhận định".

      "Tôi có đưa rạ..".

      "Đừng có ngắt lời tôị ý tưởng về tự do của các người cần thiết cho bọn nàỵ có hiểu ?"

      ", e là tôị.."

      "Thế để tôi giải thích cho nhé, Evans. vị khách ở đất nước tôị Cũng có thể là điệp viên của chính phủ ".

      "Tôi phải là...".

      "Đừng có ngắt lời tôị Tôi cảnh cáo ở sân bay rồị Chúng tôi phải chơi đùa đâu nhé. Chúng tôi chiến đấụ Bất kỳ ai là gián điệp cũng bị xử tử. "Từng lời của gã lạnh như băng giá".

      Gã gườm gườm nhìn nàng rồi đứng dậỵ "Đầy là lần cảnh cáo cuối cùng".

      Dana nhìn gã rạ Mình để doạ mình, nàng nghĩ quả quyết như vậỵ

      Nhưng thực là nàng sợ.

      Matt Baker gửi cho Dana gói bưu phẩm. Đó là hộp to khủng khiếp đầy kẹo, sôcôla thanh, bánh bích quy và nhiều thứ đồ ăn linh tinh khác. Dana mang cho cả xuống phòng lớn của khách sạn và chia cho các phóng viên khác. Tất cả đều vui vẻ.

      "Sếp thế mới gọi là sếp chứ", Santomi Asaka nóị

      "Này, làm thế nào để tôi cũng kiếm được việc gì đó ở Tribune nhỉ?" Juan Santos đùạ

      Kemal lại đợi họ ở lối ra vàọ Chiếc áo jaket rách mà cậu mặc tả tơi đến mức người ta có cảm giác như nó sắp rời ra từng mảnh...

      "Xin chào, Kemal".

      Cậu bé đứng đó, gì, nhìn nàng dưới chiếc mũ phớt mất chỏm, gần như che sụp xuống mặt.

      " sắp chợ đây, cháu có muốn với ?"

      có câu trả lờị

      "Để tôi thử cách khác nhé, Dana với Jovan, nàng mở cửa sau của chiếc xe và , vẻ mời mọc. "Nào, cháu vào xe ".

      Cậu bé đứng lặng , vẻ ngạc nhiên, rồi chậm chạp tiến lại gần.

      Dana và Jovan nhìn cậu chui vào ghế saụ

      Dana với Jovan. " có biết cửa hàng quần áo nào còn mở ?".

      "Tôi biết chỗ".

      " đến đó". Họ ngồi im lặng trong vài phút đầụ

      "Cháu có mẹ hay cha , Kemal?"

      Cậu bé lắc đầụ

      "Thế cháu sống ở đâủ".

      Cậu bé nấc lên.

      Và rồi Dana thấy cậu ngồi sát vào hơn như để cảm nhận hơi ấm từ thân thể nàng.

      Cửa hàng bán quần áo nằm ở Bascarrsija, nơi từng là khu chợ sầm uất của Sarajevọ Mặt tiền bị trúng bom, nhưng cửa hàng vẫn phục vụ khách. Dana nắm lấy cánh tay trái Kemal và dần nó vào trong cửa hàng/

      Người bán hàng ra đón họ.

      "Tôi có thể giúp gì được đâỷ"

      "Vâng, tôi muốn mua chiếc áo jaket cho cậu của tôi". Nàng nhìn Kemal. "Phải vừa mới cỡ cậu ấy".

      "Xin mời theo lối này".

      Khu bán quần áo cho trẻ em bay la liệt các loại jaket. Dana quay lại hỏị "Cháu thích cái nàỏ"

      Kemal đứng im, đáp. Nàng với người bán hàng. "Lấy cho chúng tôi cái màu nâu", và rồi nàng nhìn xuống quần của Kemal. "Chúng tôi muốn mua hai cái quần và đôi giầy nữa".

      Họ rời khỏi cửa hàng khoảng giờ sau, Kemal mặc bộ quần áọ Nó ngồi vào ghế sau xe và vẫn lờị

      "Mày biết mở mồm lời cảm ơn à?" Jovan giận dữ mắng.

      Cậu bé oà khóc. Dana choàng tay qua người nó. "Thôi mà, ổn rồi, ổn rồi mà". Hãy xem cuộc chiến này làm gì với những đứa trẻ.

      Khi họ quay về khách sạn. Dana nhìn theo Kemal ra khỏi xe và chạy biến , lờị

      " biết những đứa trẻ như vậy sống ở đâu nhỉ? Nàng hỏi Jovan.

      " đường phố, chị ạ. Có hàng trăm những đứa trẻ mồ côi như nó ở cái thành phố Sarajevo nàỵ Chúng có gia đình, nhà cửạ..".

      "Làm thế nào mà chúng sống được?".

      ta nhún vaị "Tôi biết".

      Ngày hôm sau, khi Dana ra khỏi khách sạn, Kemal đứng đợi ở cửa, mặc bộ đồ nàng mua cho hôm qua, và rửa mặt.

      Tin về hiệp ước hoà bình đến vào giờ ăn trưa hôm đó. Dana quyết định lại tới thăm giáo sư Mladic Staka và hỏi xem ông nghĩ gì về chuyện nàỵ

      Trông giáo sư còn tiều tuỵ hơn cả lần trước.

      "Tôi rất vui được gặp lại , Evans ạ. Tôi nghe làm được số chương trình rất tuyệt, nhưng..." ông ngừng lại ấp úng, "rất tiếc là nhà tôi lại có điện thoại để bật ti vị Tôi có thể giúp được việc gì đâỷ"

      "Tôi muốn biết ý kiến của giáo sư về hiệp ước hoà bình mới đây, thưa giáo sư".

      Ông ta ngả người vào lưng ghế và chậm rãi : "Tôi thấy thú vị khi ở những nơi như Dayton, Ohio, người ta lại ra được quyết định liên quan đến tương lai của Sarajevo này".

      "Họ thống nhất cơ sở tay ba, cuộc họp của ba vị lãnh tụ, bao gồm lãnh tụ của người hồi giáo, người Croatia, và người Serbiẹ Giáo sư nghĩ gì về chuyện nàỷ"

      "Chỉ khi nào tin vào điều kỳ diệu mà thôi", ông cau mày, " chính thể quốc gia với 18 vị thủ lĩnh và 109 chính quyền địa phương nữạ Đó là thứ mà người ta gọi là tháp Balel chính trị. Còn người Mỹ gọi đó là hôn nhân gượng ép đấỵ ai trong số họ muốn rời bỏ quyền tự trị của mình. Họ tạo ra quốc kỳ riêng, tiền tệ riêng, và luật pháp riêng". Ông lắc đầụ " kiểu sáng hoà bình, chiều chiến tranh thôi".

      Dana Evans còn làm phóng viên vô danh tiểu tốt nữa mà trở thành huyền thoại quốc tế. Những chương trình truyền hình của nàng chất chứa niềm quý nhân loại sâu sắc. Và bởi vì Dana quan tâm, nên những khán giả của nàng cũng quan tâm, và chia sẻ cùng nàng những tình cảm nóng bỏng.

      Matt Baker bắt đầu nhận được điện thoại của những hãng truyền thông khác xin được phát chương trình của Danạ Ôngthấy hãnh diện thay cho nàng. Con bé bắt đầu làm việc cần mẫn và bây giờ là làm việc tốt.

      Với chiếc xe truyền vệ tinh riêng. Dana bận rộn hơn bao giờ. Nàng còn phải chịu kiểm soát của công ty vệ tinh Yogoslavie nữạ Dana và Benn cùng quyết định làm chương trình gì mà họ muốn. số chương trình họ làm ngay tại trường, và số khác họ thu sẵn vào băng. Dana, Benn len lỏi khắp phố xá và quay phim chụp ảnh bất kỳ cái gì mà họ cần, rồi Dana thu lời bình luận của nàng trong phòng thu địa phương, sau đó gửi chúng về Washington.

      Vào giờ ăn trưa, tại phòng ăn của khách sạn, có rất nhiều đĩa lớn đựng bánh xăng-đuých đặt ở giữa bàn. Các phóng viên đều tự phục vụ lấỵ Roderick Munn phóng viên đài BBC bước vào phòng ăn, tay vung vẩy mảnh bảo AP bị cắt rạ "Mọi người nghe đây", gào to, "Dana Evans, phóng viên thường trú của WTE, giờ đây được phát chương trình của mình khoảng tá các đài truyền hình. Và Evans còn được chỉ định nhận giải thưởng Vì hoà bình...".

      Lời bình luận nổi lên theo đó. "Chúng mình may mắn vì được làm việc cùng với người nổi tiếng như vậy". phóng viên , vẻ hoan hỉ.

      Đúng lúc đó, Dana bước vào phòng ăn. "Xin chào mọi ngườ. Tôi có thời gian ăn trưa cùng các vị hôm naỵ Tôi lấy theo vài cái bánh xăng-đuých". Nàng lấy khá nhiều bánh và gói chúng lại bằng giấy bạc. "Gặp lại mọi người sau nhé". Họ im lặng nhìn nàng rạ

      Kemal đợi nàng.

      "Xin chào, Kemal".

      trả lời

      "Cháu vào xe ".

      Kemal ngồi vào ghế saụ Dana đưa cho cậu bé chiếc bánh và im lặng nhìn cậu nhai nghiến ngấụ Nàng đưa thêm chiếc nữa, cậu bé tiếp tục gần như nuốt chửng nó.

      "Cháu ăn chầm chậm thôi", Dana nóị

      " đâu đây chị?" Jovan hỏị

      Dana quay lại Kemal. " đâu đâỷ". Nó ngước lên nhìn nàng tỏ vẻ hiểụ " đưa cháu về nhà, Kemal ạ. Cháu sống ở đâủ".

      Nó lắc đầụ

      " muốn biết là cháu ở đâu".

      Hai mươi phút sau đó, chiếc xe dừng lại trước bãi trống gần nhà Mijackạ Khoảng tá những cái lều được dựng bằng giấy bồi và chặn bằng đủ loại gạch vỡ xung quanh.

      Dana ra khỏi xe và quay về phía Kemal. "Đây là nơi cháu sống saỏ".

      Cậu bé miễn cưỡng gật đầụ

      "Và cả những bạn khác cũng vậy, đúng ?"

      Nó lại gật đầụ

      " muốn quay những cảnh này, Keml ạ".

      Nó lắc đầu, "".

      "Tại sao ?"

      "Bọn cớm đến và đuổi chúng cháu mất. đừng làm như thế".

      Dana nhìn cậu bé lúc, "Thôi được, hứa là ".

      Sáng hôm sau, Dana chuyển khỏi khách sạn Holyday Inn. Khi thấy nàng xuất ở bữa ăn sáng, Gabriella Orsi từ đài phát thanh Altre Station của Italia hỏi, "Dâ đâu nhỉ?"

      Roderick Munn trả lờị " ấy rồị Thuê nhà dân để ở. ấy bảo thích ở mình".

      Nikolai Ptrovich, phóng viên đài Gorizont của Nga nóị "Tất cả chúng ta đều thích ở mình. Thế là đủ tử tế với ta saỏ"

      Có cảm giác chúng là hài lòng.

      Chiều hôm đó, lạic có gói bưu phẩm lớn gửi cho Danạ Nikolai Petrovich nóị " ta có ở đâỵ Chúng mình cứ chia nhau dùng chứ nhỉ?"

      Nhân viên giữ đồ của khách sạn từ chốị "Tôi xin lỗị Evans cho người đến nhận".

      Mấy phút sau, Kemal đến. Các phóng viên nhìn cậu nhận gói đồ rồi luôn. " ấy chia cho chúng ta nữa đâu". Joan Santos lầm bầm. "Tôi cho là ấy trở nên kiêu ngạo mất rồi".

      Trong tuần tiếp theo đó, Dana vẫn có chương trình phát truyền hình, nhưng nàng hề xuất tại khách sạn nữạ Những lời bàn tán hay về nàng ngày càng nhiềụ

      Dana và chú bạn của nàng trở thành đề tài chủ yếu cho những cuộc đối thoạị Sau đó mấy ngày, gói bưu phẩm to tướng, như mọi lần lại đến khách sạn. Nicolai Petrovich hỏi nhân viên giữ đồ. " Evans có cho người đến lấy nó bây giờ ?"

      "Có thưa ông".

      Vị người Nga vội vàng quay vào phòng ăn. "Lại gói bưu phẩm nữa đến rồi". Ông ta , "ai đó đến lấỵ Tại sao chúng ta theo người đó và với Evans tất cả những gì chúng ta nghĩ về ấy". Mọi người đều đồng ý.

      Khi Kemal đến lấy gói đồ, Nicolai với cậu bé. "Cháu đem đến cho Evans à?".

      Kemal gật đầụ

      "Evans muốn gặp chúng tôi, cháu dẫn chúng tôi đến chỗ ấy nhé?" Kemal nhìn ông ta lúc rồi nhún vaị

      "Chúng tôi có xe đưa cháu , cháu chỉ đường cho chúng tôi nhé?".

      Mấy phút sau, đoàn ô tô lên đường. Khi ra đến ngoại thành, Kemal chỉ khu trang trại bị đánh bom. Đoàn xe dừng lạị

      "Cháu hãy trước và đưa cho ấy cái gói này, Nicolai , "chúng ta cùng làm cho ấy ngạc nhiên".

      Họ nhìn Kemal vào khu trang trại đổ nát. Họ chờ chút rồi theo và đẩy cửa rạ Tất cả dừng lại vì quá bất ngờ. Căn phòng đầy chật những đứa trẻ với nhiều lứa tuổi, màu dạ Đa phần chúng đều bị tàn tật, thương vong, què hoặc cụt. Khoảng hơn ba chục cái võng nhà binh được chăng ngang tường. Dana phân phát gói quà cho bọn trẻ cửa bật mở. Nàng ngửng lên nhìn, hoảng hốt khi thấy cả nhóm ùa vàọ

      "Các vị... làm cái gì ở đâỷ".

      Rodevich Munn nhìn quanh, ngượng ngùng. "Tôi xin lỗi Danạ Chúng tôi nhầm. Chúng tôi cứ nghĩ là..."

      Dana quay về phía họ. "Tôi hiểụ Bọn chúng đều là những trẻ mồ côị Chúng có chỗ nào để ở và cũng có ai chăm sóc. Phần lớn đều cần chữa trị trong khi bệnh viện mới bị thả bom. Nếu cảnh sát tìm thấy, chúng bị đưa vào những nơi mà người ta gọi là trại trẻ mồ côi và chết dần chết mòn tại đó. Còn cứ để chúng sống ở đây, rồi chúng cũng chết. Tôi cố nghĩ xem làm cách nào để cứu bọn trẻ ra khỏi nơi này".

      Nàng nhìn đám đông vẻ cầu cứụ "Các bạn có cách gì ?"

      Rodevich . "Tôi cho là có đấỵ Có chiếc máy bay của tổ chức Chữ thập đỏ từ Paris đến đây vào tối naỵ Người phi công là bạn tôi".

      Dana hỏi, vẻ tràn trề hy vọng. " có thể với ấy được ?"

      Munn gật đầụ "Được".

      Nicolai Petrovich nóị "Hãy xem, chúng ta mà dính vào chuyện này, họ quẳng chúng ta ra khỏi đây ngay".

      " buộc phải tham gia", Munn , "chúng tôi giải quyết vụ này".

      "Tôi phản đối", Nicolai gắng sức thuyết phục, "chuyện này đưa tất cả chúng ta vào nguy hiểm".

      "Thế còn bọn trẻ saỏ Dana hỏi ông tạ "Chúng ta về cái sống và cái chết của chúng đấy".

      Chiều hôm ấy, Munn đến chỗ Danạ "Tôi vừa chuyện với bạn tôị ấy rất sung sướng được giúp chúng ta đưa bọn trẻ đến Paris, ở đó chúng an toàn. ấy cũng có hai cậu con trai".

      Dana mừng run lên. " tuyệt vờị Rất cám ơn , Munn".

      Munn nhìn nàng. "Chính chúng tôi phải cám ơn ".

      Vào 8 giờ tối hôm đó, chiếc xe tải có biểu tượng của hội chữ thập đỏ bên sườn xe đỗ lại trước khu trang trại đổ nát đó. Người lái xe tắt đèn, và dưới ánh sáng của vầng trăng non, Dana cùng bọn trẻ nhanh chóng trèo lên xẹ

      Mười lăm phút sau, chiếc xe chuyển bánh về phía sân bay Butmir. Sân bay ngừng hoạt động và chỉ dành phục vụ cho chuyến bay của hội chữ thập đỏ đến cung cấp đồ cứu tế. Con đường ra sân bay là con đường dài nhất mà Dana từng đị Tưởng như dài vô tận. Khi nhìn thấy ánh đèn đỏ của máy bay đằng trước, nàng với lũ trẻ. "Chúng ta gần đến rồi".

      Kemal nắm chặt lấy tay nàng. "Cháu ổn thôi", Dana trấn an nó. "Tất cả các cháu được chăm sóc" và nàng nghĩ mình nhớ nó. ở cổng sân bay, người gác cổng vẫy tay ra hiệu cho quạ

      Xe chạy thẳng đến bên chiêc máy bay chở hàng có ký hiệu của hội chữ thập đỏ. Người phi công đứng cạnh đó.

      chạy vội về phía Danạ "Vì chúa, tại sao tới muộn thế. Đưa bọn trẻ vào trong , nhanh lên. Chúng tôi buộc phải bay từ cách đây hai mươi phút rồi".

      Dana đẩy bọn trẻ vào trong máy bay, Kemal là người cuối cùng.

      Nó quay lại nhìn nàng môi run run, "Cháu còn được gặp nữa ?"

      " tin là còn, cháu ạ". Nàng ôm lấy nó, lòng thầm cầu chúa điều tốt lành. "Vào , cháu".

      Cửa khoang đóng lạị Tiếng động cơ rú lên và máy bay bắt đầu lăn đường băng. Dana và Munn đứng đó, nhìn theo chiếc máy bay cất cánh vào bóng đêm, về hướng bắc, hướng tới Paris.

      " chị làm được điều tuyệt vời," người lái xe , "tôi muốn chị biết rằng"...

      Tiếng phanh gấp của chiếc xe phía sau làm họ quay lạị Đại tá Gordan nhảy ra khỏi xe và tức tối nhìn lên bầu trời, chiếc máy bay biến mất, bên cạnh gã là Nikolai Petrovick, nhà báo người Ngạ

      Đại tá Gordan nhìn Danạ " bị bắt. Tôi cảnh cáo là tội gián điệp phải trả giá bằng mạng sống".

      Dana hít hơi sâụ "Đại tá, nếu ông muốn bắt tôi để xét xử trước toà vì tội làm gián điệp...".

      Gã nhìn sâu vào mắt nàng, lạnh lùng ngắt lờị "Ai với là xét xử trước toà?"

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 13
      Lễ nhậm chức, diễu hành, tuyên thệ, tất cả rồi cũng qua , Oliver háo hức bước vào nhiệm kỳ Tổng thống của mình. Washington D.C là thành phố duy nhất trái đất thấm đẫm chất chính trị. Đây là cái rốn quyền lực của thế giới và Oliver là trung tâm của cái rốn đó. Có vẻ như tất cả mọi người ở đây đều ít nhiều liên quan tới bộ máy của chính phủ. Tại đây có liên quan tới bộ máy của chính phủ. Tại đây có tới 15 ngàn người hoạt động ngoài nghị viện và hơn năm nghìn nhà báo. Tất cả họ đều được bú chung bầu sữa bà mẹ chính quyền. Oliver Russell vẫn còn nhớ câu nổi tiếng của John Kennedy "Washington, D.C là thành phố mang vẻ duyên dáng của miền Bắc và tính hiệu quả của miền Nam.

      Ngày đầu tiên làm Tổng thống, Oliver quanh Nhà Trắng cùng với Jan. Họ thuộc lòng từng chi tiết trong đó: Nhà Trắng là quần thể với 132 phòng ngủ, 32 phòng tắm, 29 lò sưởi, 3 cầu thang máy, bể bơi, phòng tập thể dục buổi sáng, bãi đua ngựa, sân bóng, bãi đua ngựa, sân bóng rổ, ophòng chiếu phim cùng 18 acres đất trồng cỏ và hoa. Họ từng mơ ước tới cuộc sống nơi đây biết bao nhiêu lần, nhưng giờ đây, khi mơ ước thành thực, họ vẫn choáng ngợp.

      "Cứ như giấc mơ ấy, nhỉ?". Jan thào.

      Oliver cầm tay vợ". " rất vui là chúng mình cùng nhau chia sẻ giấc mơ này, em ạ". Và đúng như Oliver nghĩ như vậy . Jan trở thành người bạn đời tuyệt vời, càng ngày Oliver càng Jan.

      Khi Oliver ra khỏi phòng bầu dục, Peter Tager ngồi chờ ỏ dó. Ngay sau ngày nhậm chức, Oliver cử ông ta làm thư ký riêng cho mình. "Tôi thực chưa tin nó là thực, Peter ạ".

      Peter mỉm cười. "Dân chúng tin điều đó và họ bỏ phiếu cho ngài, thưa Tổng thống".

      Oliver ngửng lên nhìn ông ta. "Cứ gọi tôi là Oliver như cũ".

      "Thế cũng được. Nhưng chỉ khi có hai chúng ta thôi. Và luôn nhớ cho, bắt đầu từ giờ phút này, bất cứ điều gì , việc gì làm cũng có thể ảnh hưởng đến thế giới này".

      Cửa phòng bật mở, "Thưa Tổng thống, Nghị sĩ Davis đợi ở ngoài ạ".

      "Để ông ấy vào , Heather".

      Peter đứng dậy. "Tôi nên hơn. Bàn làm việc của tôi còn cả đống giấy tờ cần giải quyết".

      Nghị sĩ Davis bước vào. "Ôi, Peter...".

      "Xin chào nghị sĩ". Hai người bắt tay nhau.

      Peter quay lại . "Xin gặp lại ngài sau, thưa Tổng thống".

      NGhị sĩ Davis tiến đến bên bàn của Oliver và gật đầu. "Cái bàn này hợp với lắm, Oliver ạ. Tôi thể là tôi thực vui như thế nào khi thấy ngồi ở đây".

      "Cảm ơn cha, con cố để làm quen với nó. Con muốn là Adams từng ngồi ở đây... Licoln... và cả Roosevlt nữa...".

      Nghị sĩ Davis cười phá lên. "Đừng để những bóng ma đó doạ . Trước khi họ trở thành những huyền thoại họ cũng là người trần mắt thịt như tôi và thôi. Họ cũng ngồi ở đó và cố gắng làm những việc đáng phải làm. Lần đầu tiên đặt cái mông vào đó họ cũng phát hoảng lên ấy chứ. Tôi vừa chuyện với Jan xong, con bé cứ như mây gió. Nó Đệ nhất phu nhân tuyệt vời đấy".

      "Con biết ạ".

      "Nhân đây, tôi cũng có danh sách muốn bàn cùng , thưa Tổng thống, cái giọng ông ta nhấn vào câu thưa Tổng thống nghe có vẻ như đùa cợt.

      "Vâng, thưa cha".

      Nghị sĩ Davis trải tờ giấy lên mặt bàn.

      "Cái gì đó ạ?"

      "Đây là vài gợi ý mà tôi muốn dành cho văn phòng của ".

      "Ô, thưa cha, con quyết định rồi..."

      "Tôi nghĩ cứ xem qua cái này chút".

      "Nhưng có..."

      "Cứ nhìn qua , Oliver", giọng ngài Nghị sĩ trở nên lạnh lùng.

      Mắt Oliver tròn xoe. "Cha..."

      Nghị sĩ nắm lấy tay , "Oliver, tôi muốn đừng có trong đầu, dù chỉ giây, cái ý nghĩ cho rằng tôi áp đặt lên những ý muốn của tôi. Thế là sai rồi đấy. Tôi đưa cho bản danh sách này vì tôi nghĩ họ là những người tốt nhất giúp điều hành đất nước. Tôi là người nước. Oliver ạ, và tôi chút xấu hổ vì điều đó. Đất nước này là tất cả với tôi". Ông ta ngừng lại chút, "Phải, tất cả đấy. Nếu cho rằng tôi giúp vào được nhà trắng chỉ vì là con rể tôi nhầm to rồi. Tôi đưa vào đây vì tôi nghĩ là người thích hợp nhất cho vị trí này. Đó là điều tôi quan tâm hơn cả". Ông ta gõ ngón tay lên tờ giấy. "Và đây là những người giúp làm tốt công việc của mình".

      Oliver ngồi đó, lặng im. "Tôi ở thành phố này hàng chục năm nay rồi Oliver ạ. Và có biết tôi học được điều gì ? Đó là gì buồn hơn bằng việc làm Tổng thống có nhiệm kỳ. có biết tại sao ? Bởi vì trong bốn năm đó, mới chỉ có chút khái niệm về việc mình cần phải làm gì để đất nước tốt đẹp hơn. có biết bao giấc mơ cần biến thành thực. Và vào lúc vừa sẵn sàng làm điều đó, vừa khi muốn làm điều gì đó đặc biệt", ông ta nhìn quanh căn phòng, " người khác vào đây thế chỗ cho , và những giấc mơ của tan biến. là buồn khi phải nghĩ đến cảnh tượng đó, đúng ? Biết bao nhiêu người phải giã từ giấc mơ ấy chỉ vì họ có mỗi nhiệm kỳ Tổng thống. có biết là từ khi McKinley vào ngồi đây, năm 1897, hàng loạt vị Tổng thống sau ông ta chỉ có nhiệm kỳ ? Nhưng , Oliver, tôi muốn nhìn thấy là Tổng thống với hai nhiệm kỳ. Tôi muốn thực được tất cả những giấc mơ của mình. Tôi chứng kiến việc tái cử"

      Nghị sĩ Davis liếc nhìn đồng hồ và đứng dậy. "Tôi phải đây. Chúng tôi có buổi họp ở Nghị viện. Tôi gặp lại vào bữa tối nay". Ông ta ra.

      Oliver nhìn theo lúc lâu. Rồi ngài ngồi xuống đọc bản danh sách mà ông ta để lại.

      mơ thấy Miriam tỉnh dậy và ngồi dậy ngay ngắn giường. viên cảnh sát đến bên, nhìn và hỏi. "Bây giờ có thể cho chúng tôi biết ai làm như vậy đối với ?"

      "Được".

      tỉnh dậy, người ướt đẫm mồ hôi.

      Sáng sớm hôm đó, Oliver gọi điện đến bệnh viện, nơi Miriam điều trị "Tôi e là có cơ may nào cho ấy hêt, thưa Tổng thống". Vị trưởng khoa thần kinh trả lời. " ra, trong sắc diện ấy tốt tí nào".

      Oliver ngập ngừng giây lát rồi : " ấy có gia đình gì cả. Nếu ông cho là ấy có cơ may hồi phục để cho ấy được giải thoát có nhân đạo hơn ?".

      "Tôi cho là chúng ta nên đợi thêm thời gian nữa, biết đâu lại có điều kỳ diệu xẩy ra sao?".

      Trưởng ban lễ tân, Jay Perkins, báo cáo. "Có 147 nhà ngoại giao làm việc tại Washington, thưa Tổng thống. Quyển sách màu xanh da trời này là danh sách ngoại giao, bao gồm tên tuổi tất cả các đại diện nước ngoài và vợ con họ. Quyển sách màu xanh lá cây kia là danh sách xã hội, trong đó có tên tất cả các chính khách đứng đầu và thành viên đảng cộng hoà".

      Ông ta đưa cho Oliver tập giấy nữa. "Đây là danh sách các đại sứ của các nước mà ngài đón tiếp".

      Oliver nhìn lướt qua bảng danh sách và tìm thấy ngay tên của vị đại sứ người Italia và vợ ông ta: Atilio Picone và sylva. Ôi Sylva. Oliver hỏi như vô tình. "Thế họ có mang vợ cùng ?".

      ". Vợ họ giới thiệu sau. Tôi cho là ngài nên bắt đầu gặp gỡ những người này càng sớm càng tốt".

      "Được".

      Perkins . "Tôi bố trí việc này vào tuần tới. Tất cả các đại sứ đều được mời. Ngài nên tổ chức bữa tiệc tại nhà trắng để ra mắt họ".

      "ý kiến hay đấy". Oliver lại liếc nhìn bản danh sách đặt bàn. Atilio và Sylva Picone.

      Tối thứ bảy, phòng ăn tối nhà trắng treo đầy quốc kỳ của các nước thế giới. Oliver gặp Atilio Picone hai ngày trước, khi ông ta đến trình quốc thư.

      "Phu nhân Picone có được khoẻ ?" Oliver hỏi.

      chút ngập ngừng. "Vợ tôi vẫn khoẻ, xin cảm ơn Tổng thống"

      Bữa tiệc thành công. Oliver từ bàn nọ sang bàn kia, trò chuyện vui vẻ với các quan khách. vài nhân vật đặc biệt nhất thế giới cũng có mặt tại bữa tiệc.

      Oliver tới chỗ ba người phụ nữ kết hôn với những những người đàn ông hết sức quan trọng nhưng vẫn làm chủ được cuộc sống của mình: Leonore... Delores... Carol...

      Khi Oliver ngang qua phòng, Sylva Picone đến bên cạnh ông và chìa tay ra. "Đây là giờ phút tôi mong đợi từ lâu, thưa Tổng thống". Đôi mắt bà sáng rực lên.

      "Tôi cũng vậy". Oliver thầm.

      "Tôi biết thế nào rồi ngài cũng đắc cử", gần như thầm.

      "Chúng ta có thể chuyện sau được ?" chút ngập ngừng. "Tất nhiên rồi".

      Sau bữa tiệc, tất cả chuyển xuống phòng khiêu vũ. Oliver nhìn Sylva trong vũ điệu cổ điển, và thầm nghĩ đúng là phụ nữ đẹp, thân hình mới quyến rũ làm sao.

      Tiệc nhảy còn thành công hơn cả tiệc ăn.

      Tuần sau đó, trang nhất của tờ Washington Tribune, chạy ngang dòng tít lớn: Tổng thống bị buộc tội tranh cử gian lận.

      Oliver nhìn chằm chằm mà tin nổi vào mắt mình? Đây là điều tệ hại nhất có thể xảy ra. Tại sao nó lại xảy ra nhỉ? Và rồi Oliver bất chợt hiểu được lý do. Câu trả lời nằm ngay trước mặt, ở góc tờ báo. "Chủ bút: Leslie Stewart". Tuần tiếp theo, lại có hàng chữ trang đầu tờ Washington Tribune Tổng thống bị nghi ngờ làm sai lệch thuế lợi tức của bang Kentucky khi còn là thống đốc bang này

      Hai tuần sau, lại có chuyện khác đăng trang đầu Washington Tribune: Cựu trợ lý của Tổng thống Rusell dự định kiện Tổng thống vì tội quấy rối tình dục.

      Cửa phòng bầu dục bật mở và Jan bước vào. " xem báo sáng nay chưa?".

      "Rồi, ...".

      "Tại sao lại làm những chuyện đó hả, Oliver? ...".

      "Chờ chút . Em thấy điều gì xảy ra ư? Jan? Leslie Stewart đứng sau tất cả những vụ này. tin chắc là ấy muốn trả thù . ấy hẳn quên chuyện cũ. Được rồi, coi như ấy thắng lần này, mọi chuyện qua rồi em ạ".

      Nghị sĩ Davis gọi điện. "Oliver, tôi muốn gặp trong giờ nữa".

      "Con ở đây thưa cha".

      Oliver trong phòng đọc sách Davis đến. Ông đứng lên đón bố vợ.

      "Xin chào cha".

      "Đúng là buổi sáng chết tiệt". Giọng nghị sĩ chứa đầy tức tối. "Người đàn bà kia phá đổ mọi thành quả của chúng ta mất".

      ", ấy định làm vậy đâu, ấy chỉ...".

      "Tất cả mọi người đọc cái tờ báo rác rưởi đó, và người ta tin vào cái mà người ta đọc".

      "Todd, chuyện đó qua rồi và...".

      “Chuyện đó chưa qua đâu. có nghe bài bình luận sáng nay của kênh WTE ? Nó bàn về việc ai là người có khả năng làm Tổng thống tiếp theo của nước Mỹ đấy. đứng cuối danh sách, Oliver ạ. Leslie cố tìm cách hạ bệ . phải dừng ta lại, bằng mọi giá".

      "Nhưng điều đó là thể, cha biết mà. Họ được bảo vệ bằng quyền tự do báo chí. Chúng ta thể làm gì được họ cả".

      Nghị sĩ nhìn Oliver vẻ thăm dò. "Có đấy".

      "Cha định về cái gì?".

      "Ngồi xuống ", hai người cùng ngồi xuống. "Người đàn bà đó ràng là còn , Oliver ạ. Đây là cách ta trừng phạt bỏ rơi ta. Lời khuyên của tôi là nên giải quyết trong hoà bình".

      "Con phải làm gì bây giờ?".

      Nghị sĩ Davis nhìn Oliver lâu. "Hãy dùng cái đầu của ".

      ”Chờ chút nào, Todd. Có phải cha khuyên con là...“.

      ”Điều mà tôi khuyên là làm nguội con bé lại. Để cho nó thấy là rất hối hận. Tôi vừa là nó còn . Nếu còn nữa, nó làm vậy“.

      ”Chính xác, cha bảo con phải làm gì?“.

      ”Quyến rũ nó, con rể ạ. làm được lần cũng có thể làm lại lần nữa. nắm lại được nó trong tay. sắp có bữa chiêu đãi vào tối thứ sáu tới, mời nó . có thể thuyết phục nó đối đầu với nữa“.

      ”Con biết là mình làm như thế nào...“.

      ”Tôi cần biết làm thế nào. Có thể đưa nó đâu đó, nơi chị tha hồ trò chuyện riêng với nhau. Tôi có căn nhà nghỉ ở Virginia. Rất biệt lập. Tôi về Florida mấy ngày cuối tuần, và đưa Jan cùng“. Ông ta móc túi và đưa cho Oliver mảnh giấy gấp cùng chùm chìa khóa. ”Đây là vị trí ngôi nhà và chìa khóa“.

      Oliver nhìn bố vợ chằm chằm. ”Chúa ơi, cha sắp xếp tất cả rồi sao? Thế nếu Leslie ... à giả sử ấy đồng ý sao? Nếu ấy từ chối sao?“.

      Nghị sĩ đứng dậy. ”Nó đồng ý, nó . Gặp lại vào thứ hai nhé, Oliver. Chúc may mắn“.

      Oliver đứng đực ra hồi lâu và nghĩ. , mình thể lần nữa xử xấu với Leslie. Mình thể.

      Buổi tốm hôm đó, khi chuẩn bị ngồi vào bàn ăn, Jan . ”Oliver này, cha đưa em Florida vào kỳ nghỉ cuối tuần này. Cha được trao giải thưởng gì đó, em nghĩ là ông muốn khoe quý phu nhân của Tổng thống đấy mà. có muốn em ? Em biết là có bữa tiệc vào tối thứ sáu này, nếu cần em ở nhà...“.

      , , em cứ , rất nhớ em đấy, ”và đúng là mình nhớ ấy . Khi nào giải quyết xong vụ này, mình dành nhiều thời gian hơn cho Jan.

      Leslie nghe điện thoại thư ký chạy vào thông báo. ”Thưa bà...“.

      thấy là tôi ...“.

      ”Tổng thống Russell ở đường dây số 3“.

      Leslie nhìn rồi mỉm cười. ”Thôi được“, nàng qua điện thoại. ”Tôi gọi lại cho sau“. Nàng bấm nút số 3.

      ”Xin chào“.

      ”Leslie đấy à?“.

      ”Chào , Oliver, hay là tôi phải gọi là ngài Tổng thống đây?“.

      ”Em muốn gọi là gì cũng được“, ông trả lời mềm mỏng, ”và có...“, đột nhiên ông dừng lại ”Leslie, muốn gặp em“.

      có chắc đó là ý kiến hay ?“.

      chắc chắn“.

      là Tổng thống, liệu tôi có thể chối từ lời đề nghị của Tổng thống nhỉ?“.

      , nếu em là người Mỹ nước. Có bữa tiệc tại Nhà Trắng vào tối thứ sáu này. Em đến nhé“.

      ”Lúc mấy giờ?“.

      ”Tám giờ tối“.

      ”Được, tôi đến“.

      Trông nàng lộng lẫy trong chiếc váy kiểu Thượng Hải bó sát người với những chiếc khuy vàng nặng tới 22 karat, và đường xẻ dài bên trái.

      Khi Oliver nhìn thấy nàng, những kỷ niệm xưa lại ào ạt dội về trong ông.

      ”Leslie...“.

      ”Vâng, thưa Tổng thống“.

      Ông nắm lấy tay nàng, cảm nhận được mềm mại lẫn ẩm ướt. tín hiệu đây. Oliver nghĩ. Nhưng nó là cái gì? căng thẳng? Tức giận?

      Hay nàng cũng hồi tưởng lại kỷ niệm xưa? ” rất mừng vì em đến, Leslie ạ“.

      ”Tôi cũng vậy“.

      ”Chúng minh chuyện sau nhé“. Nụ cười của nàng làm ông thấy ấm cả lòng.

      ”Vâng“.

      Ngồi cách Oiver hai bàn là nhóm các nhà ngoại giao người Arập. người trong số họ, với những nét rất sắc sảo, đôi mắt đen, có vẻ như rời mắt khỏi Oliver.

      Tổng thống quay sang Peter Tager và hất đầu về phía người Arập kia. ”Ai đấy?“.

      Tager nhìn lướt theo hướng đó. ”Ali tất cả Fulani. Ông ta là thư ký của các Tiểu vương quốc Arập thống nhất. hỏi ông ta làm gì?“.

      ”Chẳng để làm gì cả“. Oliver ngửng lên lần nữa. Đôi mắt kia vẫn chằm chằm nhìn ông.

      Oliver là chủ nhà tuyệt vời, ông khiến cho tất cả các quan khách cảm thấy thoải mái. Sylva ngồi ở bàn, Leslie ngồi ở bàn kia. Khi bữa tiệc sắp kết thúc, Oliver cố gắng gặp riêng Leslie.

      ”Chúng ta cần chuyện với nhau. còn nhiều điều phải với em. Chúng ta có thể gặp nhau ở đâu đó được ?“.

      chút ngập ngừng trong giọng của nàng. ”Oliver, có lẽ tốt hơn là chúng ta ...“.

      có ngôi nhà ở Manassas, bang Virginia, cách Washington khoảng tiếng xe hơi. Em tới đó chứ?“.

      Nàng nhìn thẳng vào mắt ông, lần này chút do dự. ”Nếu muốn em đến“.

      Oliver tả qua đường đến đó. ”Ngày mai, lúc tám giờ tối“.

      Giọng Leslie khàn khàn hẳn . ”Em đến“.

      Tại cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia sáng hôm sau, giám đốc CIA James Frisch, trình bày vấn đề khá nóng bỏng.

      ”Thưa Tổng thống, sáng nay chúng tôi vừa nhận được tin báo rằng Liby mua rất nhiều vũ khí nguyên tử của Iran và Trung Quốc. Có tin đồn rất đáng chú ý là họ chuẩn bị tấn công Israel. Khoảng hay hai ngày nữa chúng tôi chính thức trình lên ngài tin này“.

      Lou Werner, Bộ trưởng Ngoại giao, . ”Tôi thấy chúng ta nên chờ đợi. Cứ phản ứng ngay từ bây giờ, vào thời điểm nhanh nhất mà chúng ta có thể làm được“.

      Oiver với Werner. ”Thôi, chúng ta cứ chờ thêm hai ngày để xem có tin gì mới “.

      Cuộc họp kéo dài cả buổi sáng. Thỉnh thoảng Oliver lại nhận ra rằng ông bị phân tâm bởi cuộc hẹn với Leslie tối nay. ”Quyến rũ nó , con rể, con lại nắm được nó trong tay“.

      Tối thứ bảy, Oliver dùng chiếc xe dành cho nhân viên của Nhà Trắng, do nhân viên mật vụ điều khiển, thẳng tới Manasas. Ông rất muốn bãi bỏ cuộc hẹn này, nhưng quá muộn rồi. Mình chẳng có lý do gì để lo ngại cả. Chắc chắn là Lelie đến.

      Đúng tám giờ tối, Oliver nhìn qua cửa sổ thấy chiếc xe của Leslie lăn bánh vào tòa nhà của Nghị sĩ Davis. Ông thấy nàng ra khỏi xe, bèn chạy tới đón. Họ đứng nhìn nhau, gì. Thời gian như ngừng trôi và tưởng như họ chưa hề xa nhau.

      Oliver là người lên tiếng trước. ”Chúa ơi, tối qua, khi nhìn em... gần như quên mất là em đẹp thế nào rồi“. Oliver nắm lấy tay nàng. Họ cùng bước vào phòng khách. ”Em muốn uống gì đây?“.

      ”Em cần gì đâu, cảm ơn “.

      Oliver ngồi cạnh nàng chiếc ghế phôtơi. ” phải hỏi em điều này, Leslie ạ. Em có căm ghét ?“.

      Nàng chậm chạp lắc đầu. ”, nhưng em từng nghĩ là em căm ghét “, rồi nàng nhếch mép cười. ”Phần nào đó, em cũng coi đấy là nguyên nhân cho thành đạt của em hôm nay“.

      hiểu“.

      ”Em muốn theo đuổi để trả hận, Oliver ạ. Em mua các tờ báo, trạm truyền hình và phát thanh là để tấn công . là người đàn ông duy nhất mà em . Và khi ... bỏ em , em... em thể chịu đựng nổi“, khuôn mặt nàng giàn giụa nước mắt.

      Oliver choàng tay qua người nàng. ”Leslie...“. Sau đó, môi họ gắn chặt vào nhau, họ hôn nhau cuồng nhiệt.

      ”Ôi, Chúa ơi“, nàng , ”em ngờ chuyện này lại xảy ra“. Và Oliver đưa nàng vào phòng ngủ. Họ cởi quần áo cho nhau.

      ơi, nhanh lên “, Leslie rên rỉ, ”nhanh lên , ...“.

      Họ ở giường, ôm chặt lấy nhau, thân thể dính vào nhau như . Cuộc tình của họ nhàng và thấm đượm, tựa như mới bắt đầu. Và nó luôn luôn như mới bắt đầu. Rồi hai người nằm lăn ra, hạnh phúc, thỏa mãn.

      ”Buồn cười quá nhỉ?“ Leslie .

      ”Gì cơ em?“.

      ”Tất cả những chuyện tồi tệ về đăng báo ấy. Em muốn phải chú ý đến em“, nàng nép vào người tình cũ, ”và em đạt được mục đích, đúng ?“.

      Oliver cười to, ”Đúng rồi“.

      Leslie ngửng lên và nhìn ông. ”Em rất tự hào về , Oliver ạ. Tổng thống của nước Mỹ“.

      cố gắng để làm vị Tổng thống tốt. Đó là điều thực quan trọng với . muốn làm cái gì đó khác người“. Oliver nhìn đồng hồ. ” e là mình phải về thôi“.

      ”Tất nhiên rồi, em để trước“.

      ”Khi nào lại được gặp em nữa đây, Leslie?“

      ”Bất kỳ lúc nào muốn“.

      ”Chúng mình phải cẩn thận đấy“.

      ”Em biết, chúng mình rất cẩn thận“. Leslie vẫn nằm đó, lim dim mắt nhìn Oliver mặc quần áo.

      Khi chuẩn bị ra về, ông cúi xuống nàng và . ”Em của tuyệt vời“.

      ”Và của em cũng tuyệt vời. hãy luôn luôn như vậy đối với em“.

      Ông hôn nàng. ”Ngày mai gọi điện cho em“.

      Oliver nhanh ra và quay về Washington. Biết bao nhiêu điều đổi thay, nhưng chúng mình vẫn như ngày xưa. Mình phải cẩn thận để làm nàng đau khổ nữa. Ông nhấc điện thoại và bấm dẫy số mà Nghị sĩ Davis đưa cho.

      Nghị sĩ Davis cầm ngay máy. ”Xin chào“.

      ”Con, Oliver đây“.

      ở đâu thế?“.

      ”Con đường trở về Washington. Con muốn báo cho cha tin vui. Chúng ta cần phải lo lắng gì về chuyện đó nữa. Mọi việc ở trong vòng kiểm soát“.

      ”Tôi thể cho biết là nghe được tin đó tôi vui như thế nào đâu“. Có tin tưởng trong giọng của Nghị sĩ Davis.

      ”Con biết vậy mà, thưa cha“.

      Sáng hôm sau, khi Oliver mặc quần áo, ông tiện tay cầm tờ Washington Tribune lên xem. trang nhất của tờ báo là hình ngôi nhà của Nghị sĩ Davis ở Manassas. Dòng chữ chú thích ở dưới làm ông choáng váng: Đây là lâu đài tình bí mật của Tổng thống Russell.

      Chương 14
      Leslie tham gia vào mọi việc trong tờ báo: biên tập, viết bài, trình bày... hôm nàng bảo người phụ trách ban quảng cáo, "Tại sao ta kiếm được hợp đồng quảng cáo nào của Gleason s nhỉ? Đó là cửa hàng số của Georgtown".

      "Tôi thử, nhưng...".

      "Tôi biết người chủ của nó, tôi gọi điện cho ông ta".

      Nàng gọi ngay, và . "Allan này, ông ký hợp đồng quảng cáo nào với Tribune cả, tại sao vậy?".

      Ông ta cười vang. "Leslie, độc giả của toàn đến cửa hàng toi ăn trộm thôi".

      Trước khi đến cuộc họp, Leslie thường đọc tất cả những thông tin về những con người ở đó. Nàng biết điểm yếu và điểm mạnh của từng người và nàng trở thành người thương thuyết cực kỳ cứng rắn và khéo léo.

      Matt Baker cảnh cáo nàng.

      "Đôi khi bà có thể cứng rắn. Nhưng đôi lúc cũng nên để lại cho người ta cái gì đó chứ, Leslie".

      "Quên . Tôi là người tin tưởng vào chính sách "tiêu thổ"

      Trong năm tiếp theo đó, tập đoàn Washington Tribune mua thêm tờ báo, trạm phát thanh ở úc, đài truyền hình ở Denver và tờ báo ở Hammond, ấn độ. Cứ khi nào có cuộc mua bán mới là nhân viên của những nơi đó lại lo lắng về những gì đến với họ. Leslie ngày càng nổi danh.

      Leslie Stewart có ganh tỵ nực cười với Katharine Graham.

      "Bà ta may mắn ", nàng , "và bà ta nổi tiếng là kẻ đáng ghét".

      Matt Baker định hỏi rằng nàng có biết mình danh tiếng gì , nhưng rồi ông lai thôi.

      buổi sáng, Leslie đến văn phòng và phát ra có ai đó đặt bàn làm việc của nàng hộp gỗ bên trong có hai quả bóng bằng đồng thau.

      Matt Baker rất bối rối. "Tôi xin lỗi, tôi mang..."

      ", để nó đấy".

      "Nhưng..."

      "cứ để lại".

      Matt Baker cuộc họp trong văn phòng của mình có tiếng Leslie qua bộ đàm.

      "Matt, đến đây ngay".

      " hề "mời ông", cũng có "xin chào". Chắc bà ta lại cáu kỉnh gì đây. Matt ngán ngẩm nghĩ. Nàng công chúa Tuyết ngọc thể bất an. "Giờ tôi phải lên đấy lát", Matt với mọi người.

      Ông rời khỏi văn phòng, dọc theo hành lang, nơi có hàng trăm nhân viên bận rộn với công việc. Ông thang máy lên Tháp Ngà và bước vào phòng làm việc sang trọng, rộng rãi của Leslie.
      Khoảng nửa tá Trưởng ban biên tập tụ hội đông đủ ở đó.

      Leslie ngồi sau chiếc bàn to tướng của nàng ngửng lên khi Matt bước vào và , "Nào chúng ta bắt đầu thôi".

      Nàng triệu tập cuộc họp các biên tập viên. Matt vẫn còn nhớ như in lời nàng . "Ông điều hành tờ báo, còn tôi nhúng tay vào". Đáng lẽ ông phải biết hơn cả nàng chứ. Nàng có quyền triệu tập cuộc họp như thế này. Đây là việc của ông cơ mà. Nhưng mặt khác, nàng lại là chủ bút và chủ sở hữu và Washington Tribune, và nàng có quyền làm bất cứ điều gì mình thích.

      Matt Baker . "Tôi muốn chuyện với bà về bài báo viết về tổ ấm tình bí mật của Tổng thống Russel ở Washington Post, tờ báo cạnh tranh với họ. "Các xem nó chưa?".

      Matt xem. "Rồi, nhưng chỉ là..."

      "thời gian gần đây tờ này được mọi người gọi là người mang tin sốt dẻo đấy. Ông và các phóng viên của ông ở đâu khi tờ Post săn được tin hả?".

      Dòng chữ nổi bật trang nhất của tờ Post: Người vận động hành lang thứ hai bị phát hối lộ bộ trưởng nội vụ. "Tại sao phải là chúng ta có tin này?"

      "Bởi vì đó là tin chính thức, tôi kiểm tra nó. Chỉ là..."

      "Tôi muốn là kẻ chạy sau đít người khác".

      Matt Baker thở dài và ngồi xuống. Người đàn bà này sắp gieo sấm sét đây.

      "Chúng ta là tờ báo số , hoặc là chúng ta là gì cả". Leslie tuyên bố. "Và nếu là gì cả chúng ta cũng có việc cho bất kỳ ai ở đây, đúng vậy ?"

      Leslie quay sang Arnie Cohn, Trưởng ban biên tập của Đặc san chủ nhật. "Khi người ta tỉnh dậy vào sáng chủ nhật, chúng ta muốn họ đọc đặc san này chứ muốn họ ngủ tiếp. Bài vở của tuần vừa rồi nhạt nhẽo lắm".

      Cohn nghĩ thầm, bà ta là đàn ông ta ... "Xin lỗi", ông , lần tới tôi cố gắng".

      Leslie quay lại Jeff Connors, Trưởng ban biên tập thể thao. Connors khá đẹp trai, khoảng 35 tuổi, cao lớn, có dáng dấp của vận động viên điền kinh, tóc vàng, đôi mắt xám, thông mình. là người luôn biết mình phải làm gì cho tốt.

      " viết rằng Fielding sắp bị bán cho Pirates".

      "Người ta bảo tôi là..."

      "Người ta bảo gì cũng nghe ư? Nó sai hoàn toàn. Tờ Tribune cho đăng tin bao giờ là cả".

      "Tôi kiếm được tin đó từ người quản lý của Fielding", Jeff Connors , hề bối rối, "ông ta bảo tôi rằng..."

      "Lần sau phải kiểm tra kỹ nguồn tin, và phải kiểm tra kiểm tra lại". Leslie quay lại và chỉ tờ báo ố vàng, được đóng khung treo trang trọng tường. Đó là trang nhất tờ Chicago Tribune, ra ngày 3 tháng mười năm 1948. Dòng tít rất chạy qua mặt tờ báo: DEWAY đánh bại TRUMAN.

      "Đây là điều tồi tệ nhất mà tờ báo có thể gây ra", Leslie , "là việc tạo nên tin giả. Chúng ta làm cái công việc đòi hỏi luôn phải đăng tin chính xác".

      Nàng liếc nhìnđồng hồ. "Thôi, chỉ có vậy. Tôi mong là các chị làm công việc của mình tốt hơn".

      Khi họ đứng dậy chuẩn bị ra ngoài, Leslie với Matt Baker. "Tôi muốn ông ở lại".

      "Được thôi", ông ngồi xuống ghế và nhìn những người khác rời khỏi phòng.

      "Tôi có quá khắc nghiệt với họ ?". Nàng hỏi ông.

      "Bà cứ làm những gì mình muốn. Tất cả bọn họ đều là những người làm thuê".

      "Ông biết rằng chúng ra đến đây phải là để kết bạn, mà là để làm báo". Nàng ngẩng đầu lên nhìn lại tờ báo đóng khung treo tường. "Ông tưởng tượng xem, chủ bút của tờ báo kia cảm thấy thế nào khi nó ra mắt bạn độc và Truman trở thành Tổng thống nước Mỹ? Tôi bao giờ muốn có cảm giác đó, Matt. bao giờ".

      "Cứ cho là sai ". Matt . "Câu chuyện về Tổng thống Russell trang nhất thích hợp hơn với tờ báo lá cải đấy. Sao bà cứ chăm chăm moi móc ông ta vậy? Thử cho ông ta cơ hội ".

      Leslie với vẻ mơ màng bí mật. "Tôi cho ông ấy cơ hội rồi". Nàng đứng bật dậy và trở lại tỉnh táo. "Tôi có linh cảm là Tổng thống thông qua luật thuế mới đánh vào viễn thông. Điều này có nghĩa là chúng ta thể thanh toán đựơc hai cái trạm ở San Diego và Omaha".

      "Chúng ta chẳng thế làm được gì chuyện này".

      " đúng vậy chứ sao. Tôi mốn ông ta bị bật ra khỏi văn phòng đó. Matt. Tôi muốn người khác vào nhà trắng, người biết mình phải làm gì".

      Matt muốn vào bất kỳ cuộc tranh luận nào với Leslie về chuyện Tổng thống. Nàng là người vô cùng quyết liệt trong vấn đề này.

      "Ông ta xứng đáng với vị trí đó. Và tôi làm tất cả những gì có thể để chắc chắn rằng ông ta thể tái cử ở nhiệm kỳ sau".

      Philip Cole, trưởng ban tin tức quốc tế, chạy vội vàng đến phòng làm việc của Matt Baker khi ông chuẩn bị về. Nét ông ta đầy vẻ lo lắng: "Chúng ta có chuyện rồi. Matt ạ".

      "Có thể để đến ngày mai ? Tôi muộn giờ..."

      "Chyện về Dana Evans".

      Matt hỏi giật. "Chuyện gì về ấy?"

      "Bị bắt rồi".

      "Bị bắt?" Ông hỏi cách ngờ vực. "Nhưng vì sao cơ?"

      "Vì tội làm gián điệp. Ông có muốn tôi...

      ", tôi tự mình lo vụ này". Matt Baker chạy vội đến bàn làm việc và bấm số, số điện thoại của văn phòng chính phủ.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 15
      Nàng bị lôi sềnh sệch từ xà lim đến khoảng sân tối om và lạnh lẽo. Nàng chống trả điên cuồng, cố thoát khỏi hai người đàn ông lôi tay mình, nhưng chẳng kết quả gì. Sáu tên lính chờ sẵn, tay lăm lăm súng trường và mặc nàng gào thét, chúng kéo nàng đến cột gỗ được chôn sẵn dưới đất. Đại tá Gordan đứng nhìn bọn lính trói nàng vào cột.

      "Sao ông dám làm nhục tôi, tôi phải là gián điệp". Nàng la hét, nhưng tiếng la của nàng bị nuốt chửng bởi tiếng súng cối ở đâu đó.

      Gã đại tá bước ra xa và gật đầu ra lệnh cho bọn lính. "Chuẩn bị, nhằm...".

      "Câm mồm ".

      Có bàn tay thô ráp lắc mạnh. Dana mở mắt, tim đập như trống thúc. Nàng nằm giường, trong cái xà lim chật hẹp và tối tăm. Đại tá Divjak đứng sững trước mặt.

      Dana hoảng sợ, ngồi bật dậy, cố giũ khỏi cơn ác mộng. "Ông... định làm gì tôi?"

      Đại tá Divjak lạnh lùng. "Đáng lẽ phải bị xử bắn, nhưng may tôi được lệnh thả ra".

      Tim Dana đập mạnh.

      " phải rời khỏi đây trong chuyến bay đầu tiên", gã dừng lại nhìn sâu vào mắt , gằn giọng, "và đứng bao giờ quay trở lại nữa".

      Bộ Ngoại giao và thậm chí cả tổng thống Mỹ phải tạo sức ép để Dana Evans được thả ra. Khi Peter Tager biết được vụ bắt giữ Dana, ông ta tìm gặp tổng thống.

      "Bộ ngoại giao vừa thông báo cho tôi. Dana Evans bị bắt vì họ cho rằng ấy là gián điệp. Chúng định hành hình ấy".

      "Chúa ơi, kinh khủng, chúng ta được để chuyện đó xảy ra".

      "Đúng vậy, cho phép tôi sử dụng danh nghĩa của ".

      "Được, hãy làm bất cứ điều gì mà cho là cần thiết".

      "Tôi làm việc với bộ ngoại giao. Nếu chúng ta gỡ được vụ này, có thể Tribune nhàng hơn với ".

      Oliver lắc đầu. "Tôi chẳng trông mong gì chuyện ấy. Chúng ta phải tìm mọi cách để đưa Dana ra khỏi đó ngay".

      Sau hàng tá những cú điện thoại khẩn cấp cộng với sức ép từ phòng bầu dục, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ và cả thậm chí Tổng thư ký liên hiệp quốc, bon bắt Dana mới miễn cưỡng thả nàng ra.

      Biết được tin này, Peter chạy vội báo cho Oliver. "Dana được thả rồi. ấy đường về Mỹ".

      "Tuyệt vời".

      nghĩ về Dana đường dự cuộc họp vào buổi sáng hôm đó. Mình vui vì cứu được ấy.

      hề biết rằng sau này phải trả giá bằng cả cuộc sống bằng hành động này.

      Khi biết chuyến bay của Dana hạ cánh xuống sân bay quốc tế Dulles, Matt Baker cùng hàng tá phóng viên từ các hãng thông tấn, báo chí, phát thanh và truyền hình chờ sẵn để chào đón nàng. Dana hề tin nổi khi nhìn thấy đám đông. "Chuyện gì...?"

      " lối này, Dana, cười lên nào".

      " bị đối xử ra sao? Có thô bạo ?"

      " cảm thấy thế nào khi trở về nhà?"

      "Hãy cho chúng tôi chụp bức ảnh"

      " có ý định quay lại đó ?"

      Tất cả như cùng lúc. Dana đứng đó, chìm ngập trong những câu hỏi dồn dập.

      Matt Baker xô đẩy đám đông, đưa Dana vào chiếc xe limousine chờ sẵn và phóng .

      "Có... chuyện gì xảy ra vậy?" Dana hỏi.

      " là nhân vật nổi tiếng đấy".

      Nàng lắc đầu. "Tôi cần, Matt. Rồi nàng nhắm nghiềm mắt lại lúc lâu. "Cảm ơn ông cứu tôi ra khỏi đó".

      " phải cám ơn tổng thống và ngài Peter Tager. Họ là người gỡ nút cho toàn bộ chuyện này. cũng nên cám ơn Leslie Stewart nữa".

      Khi Matt cho Leslie biết tin Dana bị bắt, nàng với ông. "Bọn chó má, chúng dám đối xử thô bạo như thế đối với phóng viên của Tribune à. Tôi muốn phải làm mọi cách, mọi giá để chúng thả ấy ra. Cứ làm mọi việc có thể đưa ấy ra khỏi nơi đó".

      Dana nhìn ra ngoài cửa xe. Người ta lại cười đường phố. thanh của súng nổ, có tiếng bom đầy chết chóc. kỳ lạ.

      "Trưởng ban biên tập chương trình Nhà đất tìm được căn hộ cho . Giờ tôi đưa tới đó. cứ nghỉ ngơi, bao lâu cũng được. Khi nào khoẻ hẳn, bọn tôi lại đón trở lại làm việc". Ông nhìn vào mắt . " khoẻ chứ? Nếu muốn khám bệnh, bọn tôi sắp xếp..."

      ", tôi khoẻ, tôi được khám bệnh ở Paris rồi".

      Căn hộ nằm đường Calvert, nội thất được bài trí hài hoà với phòng ngủ, phòng khách, bếp, nhà tắm và cả phòng làm việc .

      "Được chứ?", Matt hỏi.

      "Rất đầy đủ, cảm ơn ông, Matt".

      "Rôi còn phải họp báo để tường thuật lại mọi chuyện đấy. Tôi lo vụ đó cho ".

      Nàng đứng chiếc cầu, nghe thấy tiếng súng nổ và nhìn những thân thể trương phình trôi lập lờ phía dưới. Nàng tỉnh giấc và khóc nức nở. Đó là giấc mơ của nàng ở nơi đây nhưng lại là thực tế xảy ra ở nơi kia. Những con người vô tội bị tàn sát dã man, bất kể họ là ai, đàn ông, đàn bà, hay người già, trẻ em. Nàng nhớ lại lời giáo sư Staka. "Cuộc chiến này bản chất là thể hiểu được". Và điều nàng tưởng như thể tin nổi là người ta hầu như quan tâm đến nó. Nàng dám ngủ nữa, sợ nhưng cơn ác mộng có cơ hội ập đến với mình. Nàng đứng dậy, bước lên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Thành phố yên tĩnh, súng đạn, có những người la hét, nó có vẻ như tự nhiên. Nàng tự hỏi biết bây giờ Kemal ra sao và liệu nàng còn được gặp cậu bé nữa . Biết đâu giờ này nó quên mất mình rồi.

      Cả buổi sáng hôm sau Dana mua sắm quần áo. Tại bất cứ nơi nào nàng đến, mọi người đều nhìn nàng chằm chằm. Dana nghe thấy họ thầm với nhau: "Đấy, ấy đấy, Dana Evans". Những người bán hàng cũng nhận ra nàng, nàng nổi tiếng, và nàng ghét điều đó.

      Dana bỏ ăn sáng và cũng chẳng ăn trưa. Nàng đói nhưng sao nuốt được. Nàng thấy quá căng thẳng, như chờ đợi tai họa nào đó rơi xuống đầu. Khi phố, nàng cố gắng thu người lại, lẩn tránh ánh mắt của những người lạ vì thấy nghi ngờ tất cả. Trong tai nàng như luôn có tiếng súng nổ. Mình ghể cứ sống mãi thế này được. Dana nghĩ.

      Buổi trưa, Dana đến văn phòng của Matt Baker.

      " làm gì ở đây thế? trong thời gian nghỉ mà".

      "Tôi muốn trở lại làm việc, Matt ạ".

      Matt nhìn Dana và nhớ lại người con trẻ trung ông gặp cách đây vài năm. "Tôi làm việc ở đây. Tất nhiên, tôi chỗ ở đây rồi. Nó giống như cuộc chuyển giao, phải ?... Tôi có thể bắt đầu ngay bây giờ...". Và ấy còn làm được nhiều hơn cả lời hứa lúc đầu. Giá mà mình có được đứa con ...

      "Sếp của chúng ta muốn gặp đấy". Matt bảo nàng.

      Họ cùng đến văn phòng của Leslie Stewart.

      Hai người phụ nữ gặp nhau. "Chúc mừng trở về, Dana".

      "Cảm ơn bà".

      "Hai người ngồi xuống ". Dana va Matt kéo ghế ngồi đối diện với Leslie.

      "Tôi tới để cảm ơn bà vì cứu tôi ra khỏi chỗ đó".

      "Chắc ở đó kinh khủng lắm nhỉ. Tôi xin lỗi", nang quay sang Matt Baker, "chúng ta xếp ấy vào chỗ nào bây giờ hả Matt?"

      Ông quay sang Dana. "Chúng tôi muốn bổ nhiệm lại vị trí phóng viên của chuyên mục Nhà Trắng. thích việc đó , Dana?"

      Đó là vị trí uy tín nhất trong truyền hình.

      Khuôn mặt Dana bừng sáng. "Có, tôi rất thích".

      Leslie gật đầu. "Được, vậy là theo dõi ở đó".

      Dana đứng dây. "Xin lần nữa cảm ơn bà".

      "Chúc may mắn".

      Dana và Matt rời văn phòng của Leslie. "Chúng ta xem chỗ làm việc mới của nhé". Ông dẫn nàng đến toà nhà số 4, nơi mọi người chờ để chào đón nàng. Phải mất đến mười lăm phút Dana mới rời được đám đông những người đầy thiện chí ấy.

      "Dana là phóng viên mới ở mục nhà trắng của đấy". Matt với Philip Cole.

      "Tuyệt, tôi chỉ cho xem văn phòng của ".

      " ăn trưa chưa?" Matt hỏi.

      "Chưa, tôi..."

      "Tại sao chúng ta cùng ăn nhỉ?"

      Phòng ăn dành cho nhân viên nằm ở tầng sáu. Nó rộng rãi, thoáng đãng và kê rất nhiều bàn ghế.

      Matt đưa Dana đến bàn ở góc phòng. "Bà Stewart có vẻ dễ thương nhỉ?" Dana .

      Matt định điều gì đó, nhưng lại thôi.

      "à, ừ, chúng ta gọi món ".

      "Tôi đói".

      " ăn rồi à?".

      "Chưa".

      "Thế có ăn sáng ?".

      "".

      "Dana... thế ăn bữa gần nhất là lúc nào?".

      Nàng lắc đầu. "Tôi nhớ, nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng cả".

      " được. Tôi thể để phóng viên mới của chuyên mục nhà trắng lại chết vì đói được".

      Người phục vụ đến bên bàn. "Ông sẵn sàng gọi món chưa, ôn Baker?"

      "Rồi". Ông lướt nhìn thực đơn. " Evans đây dùng thịt hun khói, rau diếp và bánh nhân thịt, cà chua", ông quay sang nàng, " dùng bánh ngọt hay kem?"

      "Kh...ô..ng".

      "Còn tôi cho món bò chiên".

      "Vâng, thưa ông".

      Dana ngó xung quanh. "Mọi thứ ở đây như phải là . Mọi chuyện ở kia mới là cuộc sống. Matt ạ. kinh khủng. ai ở đây thèm quan tâm đến nơi đó".

      "Đừng vậy, Dana. Mọi người ở đây tất nhiên là có quan tâm. Nhưng chúng ta phải là tên sen đầm quốc tế. Chúng ta chỉ cố gắng ở mức có thể mà thôi".

      "Thế chưa đủ", Dana giận dữ la to.

      "Dana..." Matt khựng lại. ấy hình như ở đây, mà ở nơi rất xa, rất xa; như nghe thấy những thanh mà ông thể nghe, nhìn thấy những cảnh tượng mà ông thể nhìn. Họ cứ ngồi lặng như thế cho đến khi người phục vụ mang đồ ăn tới.

      "Đây rồi".

      "Matt, tôi thực đói mà..."

      " ăn hết", Matt ra lệnh.

      Jeff Connors tiến lại gần bàn. "Chào Matt"

      "Ô, chào Jeff".

      Jeff nhìn Danna. "Xin chào ".

      Matt với nàng. "Dana, đây là Jeff Connors. Cậu ta là trưởng ban biên tập mục Thể thao".

      Dana gật đầu.

      "Tôi là người rất hâm mộ , Evansa. Rất mừng là được cứu thoát".

      Dana gật đầu lần nữa.

      Matt mời. "Cậu có muốn nhập bọn ?"

      "ồ, rất hân hạnh". ta kéo ghế với Dana. "Tôi bỏ lỡ chương trình nào của cả. Chúng xuất sắc".

      Dana lầm bầm. "Cảm ơn".

      Jeff là vận động viên nổi tiếng ở công ty chúng ta đấy, Dana. Cậu ấy chơi trong đội bóng chày".

      Lại cái gật đầu .

      "Nếu rỗi, Jeff , "thứ sáu này, đội Orioles chơi với đội Yankees ở Baltinmore đấy. Nó..."

      Và lần đầu tiên Dana quay sang nhìn thẳng vào ta. "Nghe sôi động nhỉ. Mục đích của cuộc chơi chỉ là đánh quả bóng và sau đó chạy vòng quay sân trong khi đội kia cố gắng chặn lại phải ?"

      Jeff nhìn nàng bối rối. "Vâng, nhưng..."

      Dana đứng bật dậy, giọng nàng run lên. "Tôi nhìn thấy người ta chạy vòng quanh cái sân, nhưng phải vì trờ chơi, mà vì chính mạng sống của mình, bởi có kẻ nhả đạn vào họ. Nàng như bị kích động. "Đó phải là trò chơi và càng phải là trò bóng chày ngu ngốc của các ".

      Mọi người trong phòng đều quay lại cả nhìn nàng.

      " cút ". Dana nức nở lao ra khỏi phòng.

      Jeff quay sang Matt Baker. "Tôi... tôi thành xin lỗi. Tôi có ý..."

      "Đó phải là lỗi của . ấy vẫn chưa bình tĩnh lại được. Chỉ có Chúa mới biết ấy phải chịu đựng những gì".

      Dana lao về văn phòng mình và đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống, cố gắng giữ cho mình bình tĩnh lại. Ôi trời ơi! Mình cư xử như con điên. Họ mắng mình, và thế cũng đáng. Tại sao mình lại gay gắt với ta. Tại sao mình lại gây nên chuyện tồi tệ như thế. Đây phải là chỗ của mình nữa rồi. Chẳng còn chỗ nào dành cho mình nữa rồi. Nàng gục đầu xuống bàn, khóc nức nở.

      Vài phút sau, có ai đó mở cửa bước vào. Dana ngước lên. Đó là Jeff Connors. ta bưng khay đựng thịt hun khói, rau diếp, lát bánh kẹp thịt, cà chua và khoanh pho mát.

      quên bữa trưa này", nháng. Dana lau nước mắt, gắng sức .

      Tôi... tôi xin lỗi. Tôi thực xin lỗi. Tôi có quyền..."

      " có quyền", khẽ, "dù sao nữa, ai cần xem cái trò bóng chày cổ lỗ kia làm gì, phải ?" đặt khay lên bàn. "Tôi ăn trưa cùng nhé".

      "Cám ơn, nhưng tôi đói".

      thở dài. " lại đặt tôi vào thế khó xử rồi, Evans. Matt phải ăn, muốn làm tôi mất việc đấy chứ?"

      Dana cố tạo nên nụ cười. " đâu", nàng bẻ nửa chiếc bánh xăng-đuých và cắn miếng .

      "To hơn nào". Dana cắn miếng nữa.

      "To hơn nữa ". Nàng ngước mắt nhìn .

      " thực lòng muốn tôi ăn bánh này à?"

      "Đúng thế đấy", ngắm nàng cắn miếng to hơn nữa. "Tốt rồi, à, tiện đây, nếu làm gì tối thứ sau, tôi biết mình chưa, nhưng có trận giữa Oriles và Yankees. chứ?"

      Dana nhìn và gật đầu. "Vâng".

      Ba giờ chiều hôm đó, khi Dana bước vào cổng Nhà trắng, người hướng dẫn bảo nàng. "Ngài Tager muốn gặp , Evans. Tôi cho người đưa đến văn phòng của ông ấy".

      Dana theo người dẫn đường qua hành lang dài hun hút đến văn phòng của Peter Tager. Ông ta chờ nàng. "Ngài Tager..."

      "Tôi ngờ được gặp sớm thế, Evans. Người ta cho nghỉ ngơi chút sao?"

      " phải, mà vì tôi muốn nghỉ", Dana . Tôi... tôi cần phải làm việc".

      "Mời ngồi", nàng ngồi xuống ghế đối diện, "Tôi có thể mời uống gì đây?"

      ", cám ơn ngài, tôi vừa ăn trưa". Nàng thầm cười khi nghĩ đến chàng Jeff Connors. "Ngài Tager, tôi muốn cảm ơn ngài và Tổng thống Russell vì cứu tôi thoát chết".

      Nàng ngập ngừng. "Tôi biết là Tribune được thiện chí lắm với Tổng thống, và tôi..."

      Peter khoát tay. "Chà, đó là chuyện chính trị. Tổng thống tha thứ cho bọn chúng vụ này đâu. có biết chuyện về nàng Helen thành Troy ?"

      "Có ạ".

      Ông ta mỉm cười. "ờ, mà có lẽ chúng tôi cũng gây chiến với đấy. người quan trọng".

      "Tôi thấy thế".

      "Tôi muốn biết rằng cả tôi và Tổng thống đều rất hài lòng khi biết làm việc tại Nhà trắng".

      "Cảm ơn ngài".

      Peter tiếp. "Tiếc là Tribune hoà hợp với Tổng thống Russell và lại chẳng làm được gì để thay đổi tình hình đó. Nhưng dù vậy, ở cấp độ cá nhân, nếu có gì Tổng thống hoặc tôi có thể giúp... chúng tôi đánh giá rất cao".

      "Cảm ơn ngài, tôi xin ghi nhớ".

      Cửa phòng mở. Oliver bước vào. Dana và Peter đứng dậy.

      "Ôi, ngồi xuống ". Tổng thống . Ông bước về phía Dana. "Mừng trở về".

      "Cảm ơn Tổng thống, và tôi thực muốn cảm ơn ngài".

      Oliver cười. "Nếu bảo vệ được sinh mạng của con người làm Tổng thống mà làm gì. Tôi thẳng với nhé, Evans, ai trong chúng tôi hâm mộ tờ báo của đâu, nhưng chúng tôi lại hâm mộ đấy".

      "Xin cảm ơn ngài".

      "Peter dẫn vòng quanh đây. Nếu có vướng mắc gì, chúng tôi giúp ".

      "Ngài tốt quá".

      "Nếu ngại, tôi muốn gặp ông Werner, bộ trưởng bộ ngoại giao. Tôi muốn kể cho ông ta nghe tình hình ở Sarajevo rồi ông ta làm báo cáo vắn tắt cho tôi".

      "Tôi rất vui được làm điều đó".

      Khoản tá người ngồi trong phòng họp riêng của bộ trưởng bộ ngoại giao, lắng nghe Dana kể lại những gì nàng biết.

      "Hầu hết nhà cửa ở Sarajevo đều bị phá hỏng hoặc huỷ hoại... điện, nước. Người ta tháo bình ắc quy ô tô để chạy tivi..

      "Đường xá trong thành phố bị nghẽn lại bởi những chiếc ô tô, xe thồ, xe đạp bị trúng bom. Phương tiện giao thông duy nhất là đôi chân.

      "Khi có mưa, mọi người lấy nước từ những cống rãnh đường phố và trữ trong thùng...

      " có bất kỳ tôn trọng nào đối với hội chữ thập đỏ hay các nhà báo. Trong cuộc chiến này có hơn bốn mươi nhà báo thiệt mạng và hàng tá người bị thương. biết liệu cuộc khởi nghĩa chống lại Slobodan Milosevic có thành công hay , nhưng cảm nhận chung là thái độ của ông suy sụp thảm hại do chính cuộc sống của những người dân ở đây quá tồi".

      Cuộc họp kéo dài khoảng hai tiếng. Đối với Dana, nàng vừa có cảm giác đau buồn lại vừa thấy phấn chấn. Bởi nàng miêu tả đựoc chân thực những gì xảy ra tại đó, nàng thấy như mình sống lại khung cảnh sinh động ấy, nhưng đồng thời, nàng cũng thấy nhàng vì được kể nó ra.

      Bộ trưởng ngoại giao . "Cảm ơn nhiều, Evans, vì cho chúng tôi rất nhiều thông tin, ông ta mỉm cười. "Mừng trở về an toàn".

      "Tôi cũng vậy, thưa bộ trưởng".

      Tối thứ sau, Dana ngồi cạnh Jeff Connors trong khu vực dành cho giới báo chí, theo dõi trận bóng chày. Đây là lần đầu tiên kể từ khi trở về, nàng có thể nghĩ tới cái gì đó phải là chiến tranh. Vừa theo dõi diễn biến sân, nàng vừa nghe tiếng người tường thuật. "Đây là giờ phút gay go của trận đấu... Nelson ném bóng. Adomar đánh dọc xuống bên trái sân. Palmeiro lại gần ta. Tỷ số là 2 và 1. Nelson ném bóng vào giữa rồi... Palmeiro lao tới đón bóng... cú đánh tuyệt vời! Cứ như cả bức tường bay theo trái bóng... kết thúc... Palmeiro ...".

      ở lượt đấu thứ bảy, Jeff hỏi. " có thích trận đấu này?".

      Dana ngước mắt lên nhìn . "Vâng, tôi thích".

      Sau trận đấu, họ trở lại D.C. và dùng bữa tối ở quán "Hai mươi - mười lăm".

      Tôi muốn xin lỗi lần nữa vì cách cư xử hôm trước". Dana . "Chỉ vì tôi trải qua cuộc sống ở nơi mà...", nàng dừng lại vì biết phải thế nào, "nơi mà người ta phải đối mặt giữa sống và chết. Tất cả kinh khủng, bởi ai ngăn cản cuộc chiến đó cả, người dân còn biết hy vọng vào cái gì nữa".

      Jeff nhàng. "Dana, đừng để mình quá bị ám ảnh bởi cuộc chiến đó nữa. phải tiếp tục sống, và sống ở đây".

      "Tôi biết chỉ là ... dễ dàng lắm".

      "Tất nhiên là vâyl Tôi muốn giúp , cho phép tôi nhé?"

      Dana nhìn lúc lâu rồi đáp. "Xin hãy giúp em".

      Hom sau, Dana lại hẹn ăn trưa với Jeff.

      "Em tới đón nhé", đề nghị và cho nàng địa chỉ.

      "Được thôi". Dana tự hỏi biết Jeff làm gì ở đó. Vùng này nổi tiếng là địa danh lấy gì làm tốt đẹp cho lắm. Dana tìm được câu trả lời khi họ tới nơi. Hai đội bóng vây lấy Jeff, toàn những cầu thủ con nít từ 9 tuổi đến 13 tuổi trong những trang phục nhiều màu sắc Dana đậu xe ngoài rìa để xem.

      Jeff hướng dẫn lũ trẻ. "Nhớ là đừng có vội vàng. Khi người ta ném bóng, hãy tưởng tượng là quả bóng đến ta rất chậm, vì thế nên ta có thừa thời gian để đánh. Hãy để cái đầu chỉ đạo cánh tay nhé...".

      Jeff ngó ra và thấy Dana. vẫy vẫy. "Thôi nhé, các chàng trai, hôm nay tạm thế nhé".

      cậu bé hỏi. "Người của chú đấy à, chú Jeff".

      "ồ, nếu chú may mắn". Jeff mỉm cười. "Tạm biệt nhé". bước đến bên xe Dana.

      " khác gì câu lạc bộ", nàng nhận xét.

      "Chúng khá lắm. đến đây hướng dẫn chúng tuần lần".

      Nàng mỉm cười. "Em cũng thích thế", và nàng đột nhiên tới Kemal. biết giờ này cậu bé có khoẻ làm gì.

      Dần dần Dana nhận thấy mình mỗi ngày thích Jeff Connors hơn. nhạy cảm, thông minh và hài hước. Nàng luôn được vui vẻ bên . Ký ức kinh hoàng về Sarajevo dần nhạt nhoà . buổi sáng, nàng thức dậy và còn thấy ác mộng nữa. Khi nàng kể cho Jeff nghe điều này, cầm tay nàng thầm. "Đó mới chính là người con của ".

      Dana băn khoăn biết có nên hiểu xa hơn câu đó .

      bức thư viết tay chờ Dana tại văn phòng.

      " Evans, đừng lo lắng cho cháu, cháu hạnh phúc, đơn chút nào. Cháu nhớ ai cả. Và cháu gửi trả lại những bộ quần áo mua cho cháu vì cháu cần đến nữa. Cháu có quần áo của mình rồi. Tạm biệt . Bức thư ký tên "Kemal".

      Thư có dấu bưu điện ở Paris, đầu bì thư có dòng chữ "Ngôi nhà Xavier cho các cậu bé". Dana đọc đọc lại. Rồi nàng nhấc điện thoại. Phải đến bốn tiếng sau Dana mới gặp được Kemal.

      Giọng cậu bé có vẻ dò xét. "Xin chào".

      "Kemal, là Dana Evans đây. có tiếng trả lời. " nhận được nhận được thư của cháu". Im lặng. " chỉ muốn nó là mừng khi thấy cháu hạnh phúc và sống cuộc sống tốt đẹp". Dana chờ lúc rồi tiếp tục. " ước gì mình cũng được hạnh phúc như cháu. Cháu có biết tại sao hạnh phúc ? Vì nhớ cháu, nghĩ về cháu rất nhiều".

      ", nhớ cháu", Kemal kêu lên, " thèm quan tâm đến cháu".

      " đúng thế, vậy cháu có muốn đến Washington để sống với ?"

      Im lặng lâu. " có... có ý định đó sao?"

      "Đúng, thế cháu có thích vậy ?"

      "Cháu... cậu bé bật khóc.

      "Cháu có thích ? Kemal?"

      "Có... có, ạ".

      " thu xếp nhé".

      " Evans?"

      "Gì hả cháu?"

      "Cháu "

      Dana và Jeff bên nhau trong công viên West Potomac. "Em nghĩ là mình sống với người nữa", và nàng thông báo với , "cậu ta sống ở đây với em trong tuần tới".

      Jeff nhìn nàng ngạc nhiên. "Cậu ta?"

      Dana thấy mình hài lòng trước phản ứng của . "Vâng, tên cậu ấy là Kemal, mười hai tuổi".

      Và nàng kể cho nghe câu chuyện.

      "Cậu bé cậu có vẻ tuyệt vời đấy nhỉ?"

      "Đúng thế, nó trải qua địa ngục trần gian, Jeff ạ, em muốn nó quên ".

      nhìn nàng và . " cũng muốn giúp nó".

      Đêm đó, lần đầu tiên họ ngủ cùng nhau.

      Chương 16

      Có hai Washington D.C. là thành phố của vẻ đẹp kỳ diệu: những công trình kiến trúc, bảo tàng thế giới, các tượng đài kỷ niệm những nhân vật vĩ đại trong quá khứ: Lincoln, Jefferson, Washington... thành phố của những công viên xanh mướt, những bông hoa tươi thắm và khoảng trời êm dịu.

      Còn Washington D.C khác là nơi của những kẻ vô gia cư, thành phố, với tỉ lệ tội phạm cao nhất đất nước, mê cung của nạn cướp của và giết người.

      Monroe Arms là khách sạn trang nhã, nằm kín đáo, xa ngã tư đường 27 và đường K. Khách sạn quảng cáo. Nó sống chủ yếu nhờ những khách quen. chủ hãng bất động sản tên là Lard Cameron xây dựng khách sạn này từ vài năm trước.

      Jeremy Robinson, giám đốc điều hành khách sạn xem xét sổ đăng ký khách trọ với vẻ lúng túng . Ông kiểm tra lại họ tên những khách thuê các phòng hạng sang để chắc chắn là xảy ra sơ suất nào.

      ở phòng 325, diễn viên tên tuổi lu mờ diễn tập cho vở kịch được trình diễn ở nhà hát quốc gia. Theo tờ Washington Post, bà ta hy vọng được nổi danh trở lại.

      ở phòng 425, nằm đúng đầu phòng nữ diễn viên kia, thương gia nổi tiếng, đến Washington rất đều đặn. Tên ở sổ đăng ký của ông ta là J.L Smith, nhưng vẻ ngoài ông lại khiến người ta liên tưởng đến sắc dân nào đó ở vùng Trung Cận Đông. Ông là vị khách vô cùng hào phóng.

      Phòng 525 là ngài William Quint, nghị sĩ đảng Cộng hoà, hành tung rất bí .

      Bên nữa, phòng 625, là người bán hàng của công ty phần mềm máy tính, đến Washington mỗi tháng lần.

      Đăng ký tại phòng 725 là Pat Murphy, chuyên gia vận động hành lang cỡ quốc tế.

      Gần đây, mọi việc đều tốt đẹp, Jeremy Robinson nghĩ. Những người khách quen thuộc đối với ông. Nhưng phòng 825, phòng hạng nhất nằm ở tầng cao nhất, hơi khó hiểu. Đó là căn phòng được dành cho những khách quen lại vừa quan trọng nhất. Nó chiếm trọn tầng, được bài trí bằng vô số đồ cổ giá trị, những bức tranh quý, và có thang máy riêng dẫn thẳng đến gara ở tầng hầm. Vì thế, những vị khách muốn giấu tên và có thể đến và ai hay biết.

      Đeieù làm Jeremy Robinson bối rối là cái tên vị khách trong phòng này ghi ở sổ đăng ký của khách sạn: Eugenne Gant. Thực có ai mang tên như vậy , hay chỉ là người thích đọc Thomas Walfe chọn nó làm bí danh?

      Carl Gorman, nhân viên trực ngày, người tiếp nhận vị khách tên Gart nghỉ vài giờ trước đây và ai tìm thấy ta đâu. Robinson rất ghét khó hiểu. Ai là Eugene Gant và tại sao lại được ở dãy phòng sang trọng bậc nhất này.

      ở phòng 325 tầng ba, Dame Gisella Barrett mình tập vở. ở tuổi 60, bà có vẻ ngoài khá bắt mắt. Đó là diễn viên sân khấu từng được khán giả ngưỡng mộ và các nhà phê bình đề cao suốt dải, từ phía Tây London đến Manhattan. Vẻ đẹp rực rỡ của thời vẫn còn vương lại gương mặt thoáng vài nét nhăn của chua xót.

      Dame Bisella đọc bài báo tờ Washington Post, rằng bà trở lại Washington để tái tạo danh tiếng. nổi danh trở lại! Dame Barrett cảm thấy phẫn nộ. Sao họ dám? Mình mất nó đâu.

      Thực là vậy, lần cuối cùng bà xuất sân khấu cách đây hơn 20 năm. diễn viên vĩ đại phải có đạo diễn cùng nhà sản xuất tài ba lẫy lừng. Cánh đạo diễn ngày nay quá non nớt đối với uy quyền tối cao của sân khấu thực thụ. Còn các nhà sản xuất lừng danh của quốc như H.M Tenant, Binkie, Beaumont, C.B. Cochran đều còn nữa. Thậm chí những nhà sản xuất được coi là tài năng của Mỹ như Helburn, Belasco và Golden cũng ra . Còn gì để khi nhà hát bây giờ nằm trong tay những kẻ nhiều tiền va chỉ sử dụng nó như công cụ kiếm tiền. Những ngày xa xưa đáng để nuối tiếc. Đâu cả rồi những người viết kịch bản với ngòi bút toả ánh hào quang? Dame Bisella ngôi sao thể thay thế với vai Ellie Dunn trong vở "Ngôi nhà có trái tim tan vỡ" của Berna Shaw.

      Các nhà phê bình sân khấu tiếc lời khen ngợi mình. tội nghiệp George. ấy thích bị gọi George. Phải là Bernard cơ. Mọi người cứ nghĩ về ấy như về biểu tượng của chua chát, đắng cay. Nhưng họ đâu biết, sau cái vẻ ngoài đó lại là tâm hồn Ai-len đầy lãng mạn. luôn gửi cho mình những bông hồng nhung tươi thắm. Mình cho là ấy quá nhút nhát nên thể tiến xa hơn được. Có thể ấy sợ mình từ chối.

      chuẩn bị đóng vai quyền lực nhất - Lady Machbeth - cho xuất trở lại này. Đó là lựa chọn hoàn hảo.

      Dame Bisella đặt ghế sau bức tường nhìn ra ban công. Như thế bà bị dòm ngó từ bên ngoài.

      Bà ngồi xuống, hít hơi dài, bắt đầu nhập vào nhân vật. nhân vật của Shakespeare. Chỉ bà mới xứng đáng với tầm vóc của vai diễn này.

      ... "Vì chúa, sao lại ngu ngốc đến vậy? Sau bao nhiêu năm tôi ở khách sạn này, lẽ ra các người phải biết..."

      Giọng gay gắt phát ra từ cửa sổ căn phòng tầng .

      Trong phòng 425, J.L. Smith, tay buôn vũ khi lớn tiếng mắng người phục vụ.

      "... Món ăn tôi đặt luôn là món trứng cá Beluga, Beluga, chưa!". Ông ta chỉ vào đĩa trứng cá bàn xe đẩy. "Món này chỉ đáng cho bọn xếp cảng cá ăn".

      "Tôi thành xin lỗi, ngài Smith. Tôi xuống bếp và..."

      " phải bận tâm nữa". J.L. Smith ngắm nghía cái khuy tán Rolex bằng kim cương của mình. "Tôi còn thời gian. Tôi có cuộc hẹn quan trọng chờ". Ông ta tiến ra cửa và sau ít phút nữa có mặt ở văn phòng của ngài chưởng lí. Hôm qua chính ngài ta kết tội ông mười lăm lần hối lộ cho Bộ trưởng bộ quốc phòng. Nếu họ đủ chứng cứ buộc tội ông bị ba năm tù giam kèm theo mức phạt là triệu đô la.

      ở phòng 525 ngài nghị sĩ William Quint, thuộc thế thệ thứ ba của gia đình danh giá ở Washington có cuộc gặp gỡ với ba thành viên khác trong nhóm điều tra của ông.

      "Việc mua bán và sử dụng ma tuý ở thành phố này hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát". Quint , "Chúng ta phải đưa nó trở lại khuôn khổ". Quay sang Dalton Isaak, ông hỏi. "Theo , bọn nào tiếp nhận ma tuý?"

      "Các băng nhóm của các lãnh địa. Bọn Brentwood trả giá cao hơn bọn Fouteeth Street và bọn Simple City, dẫn đến vụ thanh toán hồi tháng trước với bốn cái xác nằm lại..."

      "Ngừng lại. Và ngay lập tức". Quint nhấn mạnh, giấu vẻ giận dữ xen lẫn lo lắng". FBI gọi cho tôi còn viên cảnh sát trưởng hỏi tôi về kế hoạch tảo thanh đợt này".

      "Ngài trả lời họ ra sao?"

      "Như mọi lần thôi. Rằng chúng ta ngập đầu ngập cổ vào việc điều tra". Ông ta quay sang viên trợ lý. "Sắp xếp cuộc gặp với bọn Brentwood. Bảo chúng, nếu còn muốn chúng ta chống lưng phải san sẻ công bằng mối hàng với bọn khác". Ông ta lại quay sang viên trợ lý khác. "Chúng ta thu được bao nhiêu tháng trước".

      "Mười triệu tại chỗ và mười triệu từ ngoài vào".

      "Phải tăng lên nữa. Cái thành phố này trở nên ngày càng đắt đỏ".

      ở phòng 625, Norman Haff trần truồng chiếc giường tối om xem phim con heo phát kênh ti vi mạch kín của khách sạn. Gã có màu da xanh rớt cùng vòng eo khổng lồ đầy bia, da thịt bèo nhèo. Gã chồm lên bạn tình.

      "Hãy nhìn họ làm gì kìa, Irma", gã thào. "Em có muốn làm như thế ?" Gã sờ nắn xung quanh vòng eo bạn tình, mắt vẫn dán chặt vào màn hình....

      Gã tắt pin và nằm vật ra, thở hổn hển, cảm thấy tuyệt. Gã cùng Irama lần nữa vào buổi sáng, trước khi tháo hơi và xếp "nàng" vào va li.

      Normal là người chào hàng, cái nghề luôn phải rong ruổi đến những nơi lạ lẫm, nơi mà gã có ai làm bầu bạn. Và gã "tìm ra" Irma cách đây vài năm. "Nàng" là tất cả những gì đàn bà mà gã cần. Những đồng nghiệp ngốc nghếch của gã vòng quanh nước Mỹ, mất biết bao nhiêu tiền cho đám đĩ rạc cũng chỉ để đạt tới cái kết quả gã vừa đạt được. Song, hơn hẳn bọn họ, gã có thể thoả mãn bất kỳ lúc nào gã muốn, lại khỏi phải lo chuyện bệnh tật gì.

      ở tầng , phòng 725, gia đình Pat Murphy vừa ăn tối về. Tim Murphy, mười tuổi, đứng ban công nhìn ra công viên. "Ngày mai mình trèo lên đỉnh đài tưởng niệm, bố nhé?" Cậu bé nài nỉ.

      Em trai Tim phản đối. ". Em muốn đến Viện Smithsonian.

      "Trụ sở Smithsonian", ông bố sửa lại.

      "Gì cũng được. Con muốn tới đó".

      Đây là lần đầu tiên bọn trẻ được đến thủ đô, dù bố chúng, mỗi năm có tới hơn 6 tháng sống ở đây. Pat Murphy là chuyên gia vận động hành lang và sắp tới trong những nhân vật quan trọng hàng đầu ở Washington.

      Ông bố của Murphy là thị trưởng thị trấn ở Ohio và Pat lớn lên với niềm say mê chính trị. Pat có cậu bạn thân tên là Joey. Họ học cùng nhau, trại hè cùng nhau và cũng chia sẻ mọi thứ. Nghĩa là thể còn gì thân thiết hơn. Nhưng tất cả thay đổi trong kì nghỉ, khi bố mẹ Joey vắng nhà và Joey đến ở cùng Pat Murphy. Nửa đêm, Joey mò đến phòng Pat, chui vào giường. "Pat", cậu ta thầm, "dậy ".

      Pat mở mắt. "Chuyện gì? Chuyện gì xảy ra thế?"

      "Mình thấy đơn", Joey thầm. "Mình... muốn cậu".

      Pat Murphy bối rối. "Để làm gì?"

      "Cậu hiểu à? Mình cậu. Mình muốn cậu". Và cậu ta hôn môi Pat.

      Pat kinh hãi vì phát ra điều khủng khiếp là Joey mắc bệnh đồng tính. bao giờ Pat chuyện với Joey nữa.

      Pat Murphy ghê tởm đồng tính; họ là những kẻ đồng dâm, là quái vật. Chúa nguyền rủa chúng khi chúng dụ dỗ những đứa trẻ ngây thơ. Ông biến nỗi căm ghét và ghê tởm thành chiến dịch lớn, lâu dài, chống lại đến cùng các ứng cử viên mà ông chắc chắn là biết họ mang bệnh đồng tính, rao giảng về những tội ác, những nguy hiểm mà nó mang đến cho con người.

      Hồi trước, ông ta thường đến Washington mình, nhưng lần này vợ ông cứ nhất định đòi cho bà và lũ trẻ theo.

      "Em muốn cuộc sống của ở đó ra sao", bà ta và cuối cùng Pat đành phải nhượng bộ.

      Giờ đây, ông ta đứng nhìn bà vợ và lũ trẻ, thầm nghĩ, đây là lần cuối ta nhìn thấy chúng bay. Sao ta lại có thể phạm sai lầm ngu dốt thế nhỉ? Thôi được, nó cũng sắp kết thúc rồi. Gia đình ông bàn kế hoạch ngày mai, nhưng làm gì có cái ngày mai đó. Trước khi họ thức dậy ông đường đến Brazil rồi.

      Alan chờ ông ta.

      ở phòng 825, căn phòng đế vương, là im lặng tuyệt đối. Thở, tự nhủ. Mình phải thở... thở chậm hơn nữa... chậm hơn nữa... sắp rơi vào cơn hoảng loạn và cứ đứng nhìn chăm chăm vào thân hình mảnh dẻ, mảnh vải che thân của trẻ sóng sượt nền nhà, nghĩ. Đó phải là lỗi của mình. ta bị trượt ngã.

      Đầu bị vỡ khi va vào góc bạn bịt sắt, máu tràn xuống trán. bắt mạch cổ tay , nhưng có dấu hiệu gì. tin nổi khi bé mới sung sướng, quằn quại trong tay ...

      Mình phải thoát khỏi đây. Ngay bây giờ! nhanh chóng mặc quần, áo. Chuyện này chỉ là vụ scandal bình thường mà nó làm rung chuyển cả thế giới. Họ chắc thể lần ra mình ở đây.

      Mặc xong quần áo, vào phòng tắm, nhúng ướt chiếc khăn và lau chùi tất cả mọi chỗ mà có thể chạm đến.

      Khi chắc chắn mình để lại dấu vết nào, nhìn quanh lần cuối. Chiếc xắc tay của bé! nhặt lên rồi đến cuối phòng, nơi có thang máy riêng.

      bước vào trong, gắng trấn tĩnh lại. bấm nút "G", và vài giây sau ở trong gara. có ai. bước tới chiếc ôtô của mình, đột nhiên nhớ ra và nhanh chóng quay lại thang máy. Rút chiếc khăn tay, lau những cái nút bấm. đứng khuất trong bóng tối, nhìn quanh lần nữa để chắc chắn chỉ có mình . Cuối cùng, khi thấy an tâm, bước tới ôtô, mở cửa và ngồi vào. Động cơ nổ êm. Chiếc xe phóng ra khỏi garage.

      hầu buồng Filipina phát ra xác chết nằm sõng soài nền nhà.

      “Odios ko, Kawawa naman iyong babae!” (tiếng địa phương – tỏ ý sợ hãi, kinh hoàng) ta làm dấu thánh, lao ra khỏi phòng, la hét ầm ĩ.

      Ba phút sau, giám đốc điều hành Jeremy Robinson và Thom Peters, quản lý khách sạn có mặt tại 825, căn phòng sang trọng hạng nhất. Họ đứng nhìn chằm chằm vào cái xác lõa lồ của .

      “Chúa ơi,” Thom , “ ta chỉ 16, 17 là cùng.” Ông ta quay sang người giám đốc. “Tốt hơn hết là ta gọi cảnh sát?”

      “Đợi !” Cảnh sát. Báo chí. Dư luận. Trong thoáng suy nhĩ, Robinson băn khoan biết có thể đưa cái xác cách im lặng ra khỏi khách sạn hay .

      “Thôi dược, hãy làm như vậy.” Cuối cùng Jeremy Robinson đồng ý với vẻ miễn cưỡng.

      Thom Perters rút ra chiếc khăn tay và dùng nó để lót bàn tay nhấc điện thoại.

      “Cậu làm cái gì vậy?” Robinson kêu lên. “Đây phải là án mạng mà chỉ là tai nạn.”

      “Chúng ta chưa biết là gì cơ mà?” Peters trả lời.

      ta quay số và chờ.

      “Cảnh sát phải ? Có xác chết ở khách sạn Monroe Arms.”

      Thanh tra Nick Reese có vẻ ngoài như viên cảnh sát đường phố: cao lớn, vạm vỡ, cái mũi gẫy, dấu tích cho người ta biết ông từng là võ sĩ quyền . Nick bắt đầu nghiệp là nhân viên trong cảnh sát thủ đô Washington, sau tiến dần lên, từ hạ sĩ tới trung úy, rồi sĩ quan tuần tra cao cấp. Ông được bổ nhiệm là thanh tra D2 rồi D3 và trong 10 năm qua là người phá được nhiều vụ án nhất của phòng.

      Thanh tra Reese lặng lẽ quan sát trường. Trong phòng còn có 6 người đàn ông khác. “ ai động vào cái xác chưa?” Ông rùng mình, hỏi.

      Robinson nhún vai. “Chưa.”

      ta là ai?”

      “Tôi biết.”

      Reese quay sang nhìn viên giám đốc. “ trẻ chết trong căn phòng hạng nhất của ông mà ông lại chẳng biết gì về ta? Thế khách sạn này có sổ đăng ký khách ?”

      “Tất nhiên là có, ông thanh tra ạ, nhưng trường hợp này...” Robinson ngập ngừng.

      “Trường hợp này...?”

      “Ông Eugene Gant đăng ký phòng này.”

      “Ông ta là ai?”

      “Tôi biết.”

      Thanh tra Reese thể kiên nhẫn được nữa.

      “Thử xem nhé. Người đặt phòng này bắt buộc phải trả tiền... tiền mặt, thẻ tín dụng hay là cái quái gì đó nữa. Và người tiếp nhận ông Gant này vào chắc hẳn phải nhìn thấy ông ta. Ai tiếp nhận?

      “Gorman, nhân viên trực ngày.”

      “Tôi muốn chuyện với ta.”

      “Tôi... tôi sợ là thể.”

      “Hả? Sao thế?”

      “Hôm qua ta nghỉ rồi.”

      “Gọi ta ngay.”

      Robinson thở dài. “ ta nào có với ai là mình đâu.”

      “Khi nào ta quay về?”

      “Hai tuần nữa.”

      “Tôi coi ông là người muốn hợp tác. Tôi có ý định đợi đến 2 tuần mà muốn có những câu trả lời ngay bây giờ. Chắc hẳn ai đó phải nhìn thấy có người ra vào phòng này chứ?”

      chắc thế!” Robinson có vẻ hối lỗi. “Bên cạnh thang máy chung, phòng này còn có thang máy riêng dẫn thẳng xuống gara ở tầng trệt. Tôi hiểu nổi những chuyện này. Đó... ràng là tai nạn. Có thể ta là con nghiện dùng thuốc quá liều rồi bị ngã...”

      viên thám tử tiến đến gần thanh tra Reese. “Tôi kiểm tra tủ quần áo. Váy ta mặc là của hãng GAP, giày hãng Wild Pais. Chẳng lên điều gì cả.”

      có gì để nhận biết ta là ai à?”

      . Nếu ta có xắc tay nó cũng biến mất rồi.”

      Thanh tra Reese xem xét lại xác chết lần nữa. Ông ta quay qua viên cảnh sát gần đó. “Lấy cho tôi miếng xà phòng. Nhớ nhúng vào nước.”

      Viên cảnh sát tròn mắt nhìn. “Gì ạ?”

      miếng xà phòng ướt.”

      “Vâng thưa ngài.”

      Thanh tra Reese quỳ xuống cạnh cái xác và quan sát chiếc nhẫn tay . “Nó giống như chiếc nhẫn của học sinh thường đeo...”

      Reese nhàng chà miếng xà bông ướt dọc theo ngón tay và cẩn thận tháo chiếc nhẫn ra. Ông xoay xoay chiếc nhẫn, vừa quan sát nó vừa lẩm bẩm. “Đây là chiếc nhẫn của trường trung học Denver. Có những chữ cái đó, P.Y.” Ông quay sang bảo người đứng cạnh. “Kiểm tra . Gọi cho trường trung học Denver để tìm hiểu bé là ai. Phải nhanh. nhanh. Thắng thua là ở nhanh chậm đó.”

      Thám tử Ed Nelson, người giám định vân tay, với Reese. “ ràng là có vấn đề, Nick ạ. Chúng tôi cố hết sức nhưng thể lấy nổi dấu vân tay nào ở đây. Ai đó cố tình xóa hết .”

      “Vậy ai đó phải ở đây khi bé bị chết. Tại sao ta gọi bác sĩ? Sao ta phải lau dấu vân tay ? Và còn nữa, bé con này làm cái quái gì ở căn phòng đắt tiền này?”

      Ông quay sang Robinson. “Phòng này được thanh toán bằng gì?”

      “Nó được trả bằng tiền mặt theo như sổ sách của chúng tôi ghi lại. người được ủy thác mang tiền đến còn việc đặt phòng qua điện thoại.”

      ai đó lên tiếng. “Bây giờ chúng ta có thể mang xác dược hứa Nick?”

      “Đợi chút. Có tìm thấy dấu hiệu bạo lực nào ?”

      “Mới chỉ thấy chấn thương trán. Nhưng tất nhiên chúng tôi làm khám nghiệm pháp y.”

      “Có dấu vết gì nữa ?”

      . Tay chân bé rất sạch.”

      “Có bị hãm hiếp ?”

      “Chúng tôi kiểm tra.”

      Thanh tra Reese thở dài. “Vật tất cả những gì chúng ta có ở đây là nữ sinh từ Denver đến Washington để rồi bị giết trong khách sạn sang trọng bậc nhất thành phố. Ai đó lau hết những dấu tay rồi biến mất. Mọi thứ đều chúng tỏ là mờ ám. Tôi muốn biết ai thuê phòng này?”

      Ông ra lệnh. “Giờ có thể đưa được.” rồi quay sang thám tử Nelson. “ kiểm tra dấu tay ở thang máy riêng chưa?”

      “Rồi. Thang máy từ phòng này dẫn thẳng xuống gara. Chỉ có hai nút bấm và đều được lau sạch.”

      “Kiểm tra gara chưa?”

      “Cũng rồi. có gì đặc biệt cả.”

      “Kẻ làm việc này chứng tỏ rất có kinh nghiệm trong việc che xóa dấu vết. kẻ đầy tiền án tiến , hoặc VIP thích tham giavào các trò tiêu khiển bệnh hoạn.” Ông quay sang Robinson. “Ai thường thuê phòng này?”

      Robinson miễn cưỡng đáp. “Phòng này thường dành cho những khách quan trọng nhất. Vua, thủ tướng...” Ông ngập ngừng, “...các tổng thống.”

      “Trong vòng 24 giờ qua có cuộc điện thoại nào từ phòng này ?”

      “Tôi biết.”

      Reese rất bực bội. “Nhưng các ông ghi lại chứ, nếu có?”

      “Tất nhiên rồi.”

      Thám tử Reese nhấc máy. “Tổng đài, tôi là thanh tra Nick Reese. Tôi muốn biết có cuộc gọi nào từ phòng 825, phòng bậc nhất, trong vòng 20 tiếng qua... Tôi đợi.”

      Ông quan sát viên thám tử phủ tấm vải lên xác rồi đặt lên chiếc giường đẩy. “Chúa ơi,” Reese nghĩ. “ bé thậm chí còn chưa bắt đầu cuộc sống.”

      Ông nghe tiếng người trực tổng đài. “Thanh tra Reese?”

      “Tôi đây.”

      “Hôm qua có cú gọi từ phòng đó. cuộc gọi nội hạt.”

      Reese rút sổ và bút chì ra. “Đọc số máy .” Ông lẩm nhẩm nhắc theo . “4-5-6-7-0-4-1...”

      Reese vừa đặt bút xuống bỗng sững lại. Ông nhìn chằm chằm vào quyển sổ. “Ôi khỉ !”

      “Chuyện gì vậy?” thám tử Nelson hỏi.

      Reese ngước lên. “Đó là số điện thoại của Nhà Trắng.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :