41 Điện thoại đổ chuông, nhưng ai nhấc máy. Thức dậy nào, trời ơi! Bốn bánh xe taxi hất văng chỗ nước đọng mặt đường nhựa, nhưng may thay mưa ngừng rơi. Con đường lấp lánh như trong bối cảnh của vở nhạc kịch, tưởng như những vũ công mặc trang phụ dạ hội, mái tóc vuốt gel láng mượt có thể xuất vào bất kỳ lúc nào. Điện thoại reo mãi cũng ngừng. Mila lại bấm số. Đây là lần thử thứ ba của . Ở hồi chuông thứ năm, có người nhấc máy. - Ai gọi đó? Có biết mấy giờ rồi hả? Giọng của Cinthia nghe rất ngái ngủ. - Tôi là Mila Vasquez. còn nhớ chứ? Chúng ta gặp nhau ngày hôm kia... - À, tôi nhớ ra chị rồi... Nhưng chuyện này để mai được ? Chị biết đấy, tôi vừa mới uống liều thuốc ngủ. có gì ngạc nhiên khi người sống sót qua tay tên sát nhân hàng loạt, cộng thêm tác hại của rượu, lại phải cần đến thuốc men để có được giấc ngủ. Nhưng Mila thể chờ thêm được giây nào nữa. cần có ngay câu trả lời cho những thắc mắc của mình. - . Tôi xin lỗi , nhưng tôi cần gặp ngay lúc này. mất nhiều thời gian đâu. - Thôi được. - Hôm qua, vào buổi sáng, nhận cuộc gọi... - Phải, lúc tôi rời nhà làm. Tại ta mà tôi bị sếp mắng cho vì cái tội muộn. - Ai gọi cho thế? - ta bảo là điều tra cho bên bảo hiểm. biết đấy, tôi cầu được bồi thường, vì những chuyện xảy ra… - ta có cho biết tên ? - Spencer phải. Đáng lẽ tôi phải ghi lại. Vô ích thôi: Vincent Clarisso lấy tên giả và tạo cớ để cho Cinthia nghi ngờ gì. Mila tiếp tục: - sao. ta muốn gì vậy? - Muốn tôi kể lại vụ việc qua điện thoại. Tôi kể cho ta nghe về Benjamin Gorka. Mila ngỡ ngàng. Tại sao Vincent Clarisso lại muốn tìm hiểu về vụ Wilson Pickett? là người đặt thi thể số năm tại studio để tiết lộ rằng chính Boris chứ phải Benjamin Gorka mới là người giết chết Rebecca Springher kia mà? - ta cần biết chuyện của để làm gì? - Để hoàn thành bản báo cáo, ta bảo thế. Bọn bảo hiểm ấy mà, tỉ mỉ lắm. - ta còn hỏi chuyện gì khác hay ? Cinthia đáp ngay. Mila sợ nàng ngủ thiếp mất, nhưng ra Cinthia nhớ lại. - , có gì nữa. ta rất dễ thương. Cuối cuộc gọi, ta bảo tôi là hồ sơ của tôi tiến triển. Có thể tôi được nhận tiền đấy, chị biết ? - Tôi thấy mừng cho . Xin lỗi vì quấy quả vào giờ khuya khoắt như thế này. - Nếu những gì tôi có thể giúp cho các chị tìm ra được bé nạn nhân mất tích kia, tôi thấy phiền gì cả. - ra, bé được tìm ra rồi. - Sao cơ? chứ? - xem ti vi à? - Tối nay tôi ngủ từ lúc chín giờ. Cinthia muốn nghe thêm, nhưng Mila có thời gian. vờ như có cuộc gọi khác chờ mình, rồi gác máy. Trước khi chuyện với Cinthia, nhận ra điều. Có thể Boris bị gài bẫy. - Đến chỗ này là tôi tiếp được nữa đâu. - Người tài xế quay lại với . - sao, tôi đến nơi rồi. thanh toán tiền rồi xuống xe. Trước mặt là hàng rào cảnh sát và hàng chục chiếc xe nháy đèn xanh đỏ. Mấy chiếc xe kỹ thuật của các đài truyền hình nối đuôi nhau thành hàng dài đường. Cánh quay phim đặt thiết bị sao cho luôn thấy được hình ảnh ngôi nhà ở hậu cảnh. Mila đến nơi mọi chuyện bắt đầu. trường được đánh số 0. Ngôi nhà của Vincent Clarisso. thậm chí còn chưa biết mình qua được hàng rào an ninh bằng cách nào. chỉ biết lấy thẻ ra đeo vào cổ, với hy vọng ai nhận ra là kẻ đột nhập. Trong khi tiến lên, Mila nhận ra những khuôn mặt những người đông nghiệp mà từng thấy trong hành lang của trụ sở cảnh sát. số người tụ họp nhau quanh cốp chiếc xe hơi. Số khác nghỉ giải lao ăn uống tí chút. cũng nhận ra chiếc xe của bác sĩ pháp y: Chang ngồi bệt ở bậc cửa xe viết báo cáo. chỉ ngước mắt lên nhìn khi qua trước mặt mình. - Ê, đâu đấy? Mila quay lại và trông thấy cảnh sát to béo cố bắt kịp mình, hơi thở phì phò. chưa kịp chuẩn bị lý do. Đáng lẽ phải làm từ trước, nhưng làm, và bây giờ có lẽ quá muộn. - ấy cùng tôi. Krepp tiến đến chỗ họ. Ông có miếng băng ngay cổ, nơi cái đầu và mấy chiếc gai của con rồng có cánh ló ra, chắc đó là hình xăm mới nhất. Ông với tay cảnh sát: - Để cho ấy qua, ấy được cho phép rồi. Tay cảnh sát tin ngay và lập tức quay gót. Mila nhìn Krepp, biết phải gì. Ông nháy mắt với , rồi tiếp. ra ông ấy giúp cũng có gì là lạ, Mila nghĩ thế. Cả hai người đều có phần câu chuyện riêng của mình khắc da thịt, dù là bằng những cách khác nhau. Lối lên nhà dốc thoai thoải. lớp đá lát, người ta vẫn còn nhìn thấy vỏ đạn của các phát súng hạ gục Vincent Clarisso. Cánh cửa ngôi nhà được gỡ ra khỏi bản lề để tiện cho việc ra vào. Ngay khi bước chân vào bên trong, Mila thấy rợn người vì mùi thuốc tẩy trùng nồng nặc. Đồ đạc trong nhà làm bằng formica, kiểu dáng thập niên sáu mươi. chiếc trường kỷ có hoa văn Ả Rập vẫn còn được bọc ni lông. Lò sưởi với ngọn lửa giả. quầy bar có cùng tông màu với tấm thảm vàng. Giấy dán tường trang trí những bông hoa cách điệu to tướng màu nâu giống như hoa mõm chó. Thay cho những ngọn đèn halogen thường thấy là những bóng đèn có chụp. dấu hiệu khác của phong cách được Terence Mosca áp đặt. Đối với ông đại úy có khái niệm “ trường”. Tất cả phải được thực cách vừa mức. Phong cách của cảnh sát thời trước, Mila nghĩ bụng. Vừa lúc đó nhận ra Mosca ở trong bếp và có cuộc họp với những người thân cận. tránh hướng khác: cần phải để cho ai chú ý đến , trong chừng mực có thể. Mọi người đều đeo túi bảo vệ cho giày và găng tay cao su. Mila đeo chúng vào rồi quan sát quanh mình, trà trộn vào đám đông những người có mặt. cảnh sát bận lôi tất cả những cuốn sách trong thư viện ra. Từng cuốn . Ông lật nhanh chúng rồi đặt xuống đất. người khác lục lọi mấy ngăn kéo tủ commốt. người nữa phân loại các món đồ trang trí. Những nơi mà các đồ vật còn chưa bị xê dịch và kiểm tra có vẻ cực kỳ ngăn nắp, đến mức gần như bệnh hoạn. có lấy hạt bụi. Chỉ cần nhìn là phân loại được mọi thứ, như mọi món đồ đều được sắp vào đúng chỗ của nó. Tưởng như đứng trước bức tranh ghép hình hoàn thành. Mila biết phải tìm gì. đến đây vì đương nhiên nó là điểm xuất phát. càng có thêm động lực sau khi biết thông tin về cú điện thoại mà Vincent Clarisso gọi cho Cinthia Pearl. Nếu muốn được nghe kể lại vụ việc từ nhân chứng sống sót duy nhất, có thể biết Benjamin Gorka là ai, và nếu như vậy, có thể cái xác đặt trong studio phải dành cho Boris. Lập luận này đủ để minh oan cho chàng đồng nghiệp của , vì dẫu sao cũng có vật chứng nặng ký chống lại Boris: chiếc quần lót của Rebecca Springher, được tìm thấy khi lục soát căn hộ của . Nhưng dù sao cũng có điều gì đó khớp. Mila nhận ra mùi thuốc tẩy trùng phát ra từ căn phòng nằm ở cuối hành lang. khí rất sạch , giống như giường bệnh đặt trong lồng oxy. Có rất nhiều thuốc men, áo blu và thiết bị y tế. Đây là phòng phẫu thuật mà Vincent sử dụng để chặt cánh tay các nạn nhân tuổi và sau đó biến nó thành phòng bệnh cho Sandra. Khi bước sang căn phòng khác, Mila nhận thấy cảnh sát quan sát màn hình ti vi plasma nối với chiếc camera kỹ thuật số. Trước màn hình có đặt ghế bành, chung quanh là hệ thống loa thanh vòm. Hai bên cạnh của chiếc ti vi là bức tường đầy băng hình, sắp xếp theo ngày tháng. Viên cảnh sát nhét từng chiếc băng vào trong camera để xem nội dung. tại màn hình lên những hình ảnh của sân chơi. Những tiếng cười trẻ thơ vang lên dưới ánh mặt trời mùa đông. Mila nhận ra Caroline, bé cuối cùng bị Albert bắt cóc và giết chết. Vincent Clarisso nghiên cứu rất tỉ mỉ các nạn nhân của mình. - Ê, có ai đến giúp tôi tay với mấy thứ này ? Đồ điện tử tôi mù tịt! - Tay cảnh sát to trong lúc cố gắng cho đoạn phim ngừng lại. Khi nhận thấy diện của Mila ngưỡng cửa, ta thoáng mừng rỡ vì tưởng có người đến hỗ trợ, nhưng rồi nhận ra mình chưa bao giờ nhìn thấy này. Trước khi ta kịp lên tiếng Mila tiếp. Căn phòng thứ ba quan trọng nhất. Trong phòng, có cái bàn bằng thép cao chân. Các vách tường phủ kín những tấm bảng gắn các mảnh giấy ghi chú đủ màu sắc và các giấy tờ khác. Tưởng như ở trong Phòng suy tưởng. Tất cả các kế hoạch của Vincent Clarisso được phơi bày đến từng chi tiết. Những tấm bản đồ đường bộ, thời gian biểu và lịch trình di chuyển. Sơ đồ trường nội trú của Debby Gordon, cũng như của nhi viện. Có cả bảng số xe của Alexander Bermann, cùng lịch trình công tác của . Những bức ảnh chụp bà Yvonne Gress với các con, và tấm ảnh chụp bãi phế liệu của Feldher. Các bài báo về Joseph B. Rockford. Và đương nhiên có cả những tấm ảnh chụp các nạn nhân tuổi. chiếc bàn thép là những sơ đồ khác với nhiều ghi chú lung tung, giống như thể công việc bị gián đoạn cách bất ngờ. Được giấu trong mớ giấy tờ này, có thể là mãi mãi, có kế hoạch cho màn kết thúc của tên giết người hàng loạt. Mila quay lại và lạnh người. Bức tường mà nãy giờ chưa nhìn thấy được dán kín những tấm ảnh chụp các thành viên của nhóm điều tra hình trong lúc làm nhiệm vụ. Có cả ảnh của . Vậy là mình thực ở trong bụng con quái vật rồi. Vincent theo dõi mọi động tĩnh của họ. Nhưng ở đây có gì gợi liên tưởng đến vụ Wilson Pickett và Boris. - Mẹ kiếp! Có ai đến giúp tôi vậy? - Tay cảnh sát ở phòng bên cạnh kêu lên. - Có chuyện gì vậy Fred? Cuối cùng cũng có ai đó đến giúp chàng. - Tôi phải làm thế nào để biết mình xem cái gì? Hơn nữa, tôi sắp xếp chúng như thế nào, nếu chẳng biết đây là cái quái gì? - Để tôi xem nào... Mila thôi nhìn bức tường đầy hình chụp và chuẩn bị ra khỏi căn phòng. thấy hài lòng, nhưng chủ yếu vì cái mình nhìn thấy, hơn là những gì nhìn thấy nãy giờ. hề có Benjamin Gorka. Lẫn Boris. Như vậy là đủ với . Lần phát thi thể nạn nhân số năm, họ bị lừa. Hoặc có thể đó là trò đánh lạc hướng. Bằng chứng là Vincent Clarisso gọi cho Cinthia Pearl để tìm hiểu thêm khi nhận ra cuộc điều tra theo hướng khác với dự tính của . Mila nghĩ đến việc cung cấp manh mối này cho thanh tra Roche. tin chắc ông chánh thanh tra có cách để khai thác thông tin này và gỡ tội cho Boris, đồng thời triệt bớt vinh quang của Terence Mosca. Lúc ngang qua căn phòng để ti vi, nhận ra hình ảnh màn hình. Đó là địa điểm mà Fred và người đồng nghiệp tài nào xác định được. - Đây là căn hộ, chứ còn gì nữa? - Ừ, nhưng tôi ghi thế nào trong báo cáo đây? - Cứ ghi là địa điểm xác định. - chắc chứ? - Chắc. người khác phụ trách việc tìm ra nó. Nhưng Mila biết căn hộ đó nằm ở đâu. Nhận ra có mặt của , hai cảnh sát quay lại và thấy thể nào rời mắt khỏi màn hình ti vi. - Chúng tôi giúp gì được cho ? Mila đáp, chỉ lảng . Vừa bước vội qua phòng khách, vừa rút di động ra khỏi túi và tìm số điện thoại của Goran trong danh bạ. Khi ông nghe máy ở ngoài đường. - Có chuyện gì vậy? - ở đâu? Giọng đầy kích động. Nhưng ông nhận ra. - còn ở văn phòng. cố thu xếp cho Sarah Rosa đến thăm con tại bệnh viện. - nay ai ở nhà ? Goran bắt đầu trở nên lo lắng. - Bà Runa và Tommy. Tại sao? - phải về đó ngay lập tức! - Tại sao? - Ông hỏi lại, giọng lo ngại. - Vincent có cuốn phim quay căn hộ của . - Chuyện này là thế nào? Phim gì? - có những thước phim để xác định địa điểm... Nếu có đồng lõa sao? Goran im lặng lúc. - Em vẫn còn ở trường à? - Phải. - Vậy em ở gần nhà hơn . Hãy bảo Mosca phái hai cảnh sát cùng em đến nhà . Trong lúc đó, gọi cho bà Runa để bảo bà ấy khóa chặt cửa nẻo. - Đồng ý. Mila gác máy, rồi quay ngược trở vào trong nhà để chuyện với Mosca. Hy vọng ông ta đặt quá nhiều câu hỏi. 42 - Mila, bà Runa trả lời điện thoại! Bình minh dần ló rạng. - đừng lo, bọn em sắp đến nơi rồi. - đường . gặp em sau vài phút nữa. Lái xe phanh kít chiếc xe cảnh sát con đường vắng lặng của khu nhà xinh xắn. Hàng xóm vẫn còn ngủ say. Chỉ có lũ chim hót chào bình minh các nhánh cây và gờ tường. Mila chạy vội đến cửa tòa nhà. bấm chuông gọi nhiều lần, nhưng ai trả lời. thử nhà khác. - Ai đó? - Thưa ông, chúng tôi là cảnh sát. Xin ông vui lòng mở cửa ngay. Cánh cửa bật mở. Mila chạy bổ lên tầng ba, theo sau là hai cảnh sát cùng. Họ sử dụng thang máy chuyển hàng mà leo cầu thang bộ cho nhanh. Hy vọng có chuyện gì xảy ra... cầu trời cho thằng bé bình an vô ... Mila cầu xin đấng tối cao mà ngừng tin từ lâu, mặc dù cũng chính Chúa trời là người giải thoát khỏi tên đao phủ thông qua bà Nicla Papakidis. Chẳng qua vì gặp quá thường xuyên những đứa trẻ kém may mắn hơn mình nhiều, đến nỗi thể giữ nguyên lòng tin của mình với Chúa nữa. Cầu trời chuyện này xảy ra lần nữa, cầu trời nó xảy ra lần này... Khi họ lên đến nơi, Mila gõ mạnh vào cánh cửa đóng kín. Chắc bà Runa ngủ quá say, nghĩ bụng. Bà ấy ra mở cửa ngay thôi mà, mọi thứ ổn thôi... Nhưng ai mở cửa. trong hai cảnh sát tiến lại gần Mila. - muốn chúng tôi phá cửa ? nổi nên lời, Mila chỉ biết gật đầu. nhìn họ lấy đà rồi cùng đá vào cánh cửa. Cửa căn hộ bật mở. Im lặng như tờ. Nhưng phải là im lặng bình thường. Mà là im lặng trống rỗng và nặng nề. im lặng chết chóc. Mila rút súng ra, theo hai viên cảnh sát. - Bà Runa! Tiếng gọi của vang dội trong các căn phòng, nhưng có ai đáp lại. ra hiệu cho hai viên cảnh sát thủ thế, rồi từ từ tiến đến phòng ngủ. cảm thấy bàn tay phải cầm súng của mình run lên. Đôi chân nặng trĩu, các cơ mặt co cứng và đôi mắt nóng ran. đến căn buồng của Tommy. Cánh cửa chỉ khép hờ. dùng tay mở nó ra đủ rộng để quan sát bên trong. Các cửa chớp đóng kín, ngọn đèn hình chú hề bàn ngủ hắt lên tường hình ảnh của những con thú làm xiếc. chiếc giường kê sát tường có thể nhìn thấy hình hài bé nằm bên dưới các lớp chăn. Thằng bé nằm co quắp trong tư thế bào thai. Mila rón rén đến gần. - Tommy. - khẽ gọi. - Tommy, dậy con... Nhưng thằng bé nhúc nhích. Khi đến bên giường, Mila đặt khẩu súng xuống cạnh ngọn đèn. thấy nôn nao khó chịu. muốn giở tấm chăn lên. muốn khám phá điều biết. chỉ muốn buông xuôi và ra khỏi căn phòng này. thể nào chịu nổi chuyện này, và tất cả những gì qua! Bởi lẽ chứng kiến quá nhiều lần, và giờ lần nào cũng sợ rằng mọi việc diễn ra như thế. Nhưng buộc mình vươn tay đến mép tấm chăn. giật mạnh nó. sững người lúc với tấm chăn trong tay, mắt nhìn trừng trừng vào đôi mắt của con gấu bông mỉm cười hạnh phúc và nằm bất động. - Tôi xin lỗi... Mila giật nảy người. Hai viên cảnh sát đứng ở cửa phòng quan sát . - Ở đằng này có căn phòng bị khóa trái. Mila định ra hiệu cho họ phá cửa nghe thấy tiếng Goran vừa bước vào căn hộ vừa gọi cậu con trai: - Tommy! Tommy ơi! bước ra gặp ông. - Thằng bé có trong phòng. Goran tỏ ra tuyệt vọng. - Sao lại thế? Nó ở trong phòng ở đâu mới được? - Có cánh cửa đóng kín ở đằng kia, như vậy có bình thường ? rối trí và lo lắng, Goran hiểu ra ngay. - Cái gì chứ? - Căn phòng bị khóa trái… Nhà tội phạm học dừng lại. - Em có nghe thấy ? - Nghe thấy gì? - Nó đấy! Mila hiểu gì cả. Goran bước vội vào trong phòng làm việc. Khi nhìn thấy con trai mình nấp dưới chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ, ông thể cầm được nước mắt. Ông cúi xuống ôm con, siết chặt thằng bé vào lòng. - Bố ơi, con sợ... - Ừ, bố biết, cục cưng của bố. Nhưng giờ hết rồi. - Bà Runa về rồi. Khi con dậy bà ấy còn ở đây nữa… - Nhưng có bố ở đây rồi, con ơi. Mila vẫn đứng ngưỡng cửa, khẩu súng nhét lại vào trong bao. yên lòng khi nghe thấy những lời Goran trong lúc ông quỳ sau bàn làm việc. - Bố cho con ăn sáng nhé. Con muốn ăn gì nào? Bánh rán nhé? Mila mỉm cười. Mối sợ hãi trôi qua. Goran tiếp: - Để bố bế con lên nào. nhìn thấy ông chui ra khỏi gầm bàn, hơi vất cả chút để đứng lên. Nhưng trong tay ông có đứa bé nào cả. - Bố giới thiệu với con người bạn của bố. ấy tên là Mila... Goran hy vọng con trai ông thích Mila. Thường thằng bé hơi nhát người lạ. Tommy gì và giơ tay chỉ vào khuôn mặt cảnh sát. Goran nhìn theo. Ông thấy Mila nước mắt giàn giụa. Những giọt nước mắt cứ thế tuôn tràn, hề báo trước. Nhưng lần này, nỗi đau dẫn đến nó mang tính chất máy móc. Vết thương mở toác ra nằm trong da thịt của . - Có chuyện gì vậy? Chuyện gì xảy ra vậy? - Goran hỏi . Ông vẫn hành động như thể có vật nặng tay mình. biết phải thế nào. Có vẻ như ông giả vờ. Goran thực nghĩ là ôm con trai mình trong tay. Hai cảnh sát viên vừa bước đến nhìn họ kinh ngạc. Cả hai chuẩn bị tư thế để can thiệp. Mila ra hiệu cho họ được động thủ. - Các đợi tôi dưới nhà. - Nhưng... - xuống dưới đó và báo về trụ sở. Bảo họ cử đặc vụ Stern đến đây. Nếu nghe thấy tiếng súng đừng lo: đó là do tôi bắn. Hai cảnh sát viên miễn cưỡng chấp thuận. - Có chuyện gì vậy, Mila? Giọng của Goran nghe có vẻ tuyệt vọng. Có vẻ như ông hốt hoảng đến mức thể phản ứng được nữa. - Tại sao em muốn Stern đến đây? Mila giơ ngón tay lên môi, ra hiệu cho ông giữ im lặng. Rồi quay ra hành lang. tiến về phía căn phòng khóa trái. bắn phát vào ổ khóa làm nó vỡ tung. đẩy cửa. Căn phòng tối mò. Mùi thối rữa xộc lên. chiếc giường lớn có hai thi thể. lớn, . Hai bộ xương đen thui bọc trong phần còn lại của lớp da rũ xuống như vải mục quấn lấy nhau trong cái ôm ghì chặt. Goran bước vào trong phòng. Ông ngửi thấy mùi xú uế. Và trông thấy hai thi thể. - Lạy Chúa tôi… - Ông , nhận ra hai cái xác là của ai. Ông quay về phía hành lang để ngăn cho Tommy bước vào... nhưng ông thấy thằng bé đâu cả. Ông lại nhìn chiếc giường. Thi thể bé kia. tàn nhẫn đổ ập xuống ông. Và ông nhớ ra mọi chuyện. Mila tìm thấy Goran đứng cạnh cửa sổ. Ông nhìn ra ngoài. Sau bao nhiêu ngày mưa tuyết, mặt trời chiếu sáng trở lại. - Vậy ra đây là điều Albert muốn với chúng ta, thông qua thi thể bé số năm. Goran đáp. - Và lái cuộc điều tra vào Boris. chỉ cần gợi ý cho Terence Mosca hướng : chính đưa cho ông ta tập hồ sơ vụ Wilson Pickett mà em nhìn thấy trong chiếc túi của ông ta... Và cũng chính là người có quyền tiếp cận các bằng chứng của vụ Gorka, nên lấy chiếc quần lót của Rebecca Springher khỏi kho tang vật và đưa đến nhà Boris trước khi diễn ra cuộc khám xét. Goran gật đầu. Từng hơi thở của nghe giống như tiếng thủy tinh vỡ, khi cố sức đẩy nó lên từ trong buồng phổi. - Tại sao? - Mila , cổ họng nghẹn lại. - Bởi vì, sau khi bỏ , bà ấy quay lại căn nhà này. Bởi vì bà ấy quay về để ở lại. Bởi vì bà ấy muốn lấy của thứ duy nhất còn sót lại để mà thương. Và bởi vì thằng bé, nó muốn ra cùng mẹ nó. - Tại sao? - Mila lặp lại, nước mắt rơi lã chã. - sáng nọ, thức dậy và nghe thấy tiếng Tommy gọi từ trong nhà bếp. vào trong đó và thấy thằng bé ngồi ở vị trí thường lệ. Nó đòi dọn bữa sáng. mừng đến nỗi quên mất là nó còn nữa… - Tại sao? - Mila khẩn khoản. Lần này, ông nghĩ kỹ trước khi trả lời. - Vì cả hai mẹ con họ. Trước khi kịp ngăn lại, ông mở toang cửa sổ và ném mình vào khoảng mênh mông. 43 Trước đây luôn muốn có con ngựa lùn. còn nhớ mình làm tình làm tội bố mẹ để được mua cho con. Nơi họ ở thậm chí còn chẳng có chỗ để giữ con ngựa. Sân sau quá bé, bên cạnh nhà để xe chỉ có rẻo đất để ông trồng rau. Nhưng cứ nằng nặc vòi vĩnh. Bố mẹ cứ tưởng quên sách phi lý đó , nhưng cứ đến dịp sinh nhật hay viết thư cho ông già Noel là lại chỉ đòi mỗi con ngựa. Khi Mila rời khỏi bụng con quái vật về nhà sau hai mươi mốt ngày giam cầm và ba tháng nằm viện, con ngựa lùn màu trắng và nâu đợi trong sân. Mong ước của được đáp ứng. Nhưng tài nào thấy thích nó được. Bố phải kỳ kèo, cầu cạnh những người ít ỏi mà ông quen biết để có được con ngựa với giá rẻ. Gia đình chẳng khá giả gì, và chính lý do kinh tế là điều khiến mãi là con độc nhất của bố mẹ. Hai người thể cho đứa em hay em trai, nhưng bù lại họ mua cho con ngựa. Nhưng lại cảm thấy sung sướng vì điều đó. nhiều lần mơ ước có được món quà này. về nó suốt, tưởng tượng mình chăm sóc nó, cột những cái nơ đủ màu sắc lên bờm nó, chải chuốt lông mượt mà cho nó. thường xuyên bắt con mèo phải chịu đựng những trò chăm sóc đó. Có lẽ cũng vì thế mà Houdini ưa và luôn giữ khoảng cách với . Còn lý do nữa khiến loài ngựa lùn làm bọn trẻ thích mê mệt. Chúng bé mãi và bao giờ lớn. điều đáng ghen tỵ. Thế nhưng sau khi được tự do trở lại, Mila chỉ mơ được lớn lên để tạo khoảng cách giữa và những gì trải qua. Nếu cộng thêm chút may mắn nữa, có lẽ hoàn toàn quên được nó. Con ngựa lùn có cơ hội lớn thêm đối với tựa như giao kèo thể chấp nhận được với thời gian. Khi được đưa ra khỏi căn hầm thối tha của Steve, cuộc đời mới bắt đầu với . Sau ba tháng nằm viện để phục hồi cánh tay trái, phải lấy lại niềm tin vào mọi thứ đời, chỉ với cuộc sống thường nhật ở nhà, mà kể cả với những cảm xúc của bản thân. Graciela, bạn thân thiết mà từng cắt máu ăn thề trước khi mất tích, giờ cư xử với như người xa lạ. Graciela còn là bạn mà chia sẻ đến miếng kẹo cao su cuối cùng và vô tư vệ sinh cùng, còn là người trao nụ hôn “kiểu Pháp” để luyện tập trước khi thử với bọn con trai. , Graciela giờ khác. Graciela chuyện với cùng nụ cười giả lả thường trực khuôn mặt, đến nỗi Mila đâm sợ là nếu bạn mình cứ tiếp tục như thế bị đau hai bên má. Graciela cố ép mình tỏ ra tử tế, thậm chí dám tục nữa, trong khi cho đến trước đó chưa lâu, bé bao giờ gọi bằng tên , mà toàn bằng những biệt danh đại loại như “bò cái”, hoặc “heo con tàn nhang”. Hai bé chích đầu ngón tay bằng chiếc đinh gỉ để kết nghĩa trọn đời, để thằng con trai nào có thể chia lìa cả hai. Nhưng thực tế, chỉ cần vài tuần là đủ để đào cái hố ai san lấp nổi giữa hai đứa. Nghĩ cho cùng, mũi chích đầu ngón tay đó là vết thương đầu tiên của Mila. Nhưng nó khiến còn đau hơn sau khi lành hoàn toàn. “Đừng có cư xử như thể tôi vừa từ cung trăng quay về nữa!” chỉ muốn hét to như thế với mọi người, trước biểu gương mặt của họ. thể chịu được chuyện đó. Cái kiểu nghiêng đầu, bặm môi đó. Ngay cả khi ở trường, nơi chưa bao giờ có điểm số xuất sắc, các sai sót của bây giờ đều được thoải mái cho qua. phát mệt vì chiều chuộng của những người khác. thấy như mình ở trong bộ phim đen trắng, giống như thứ mà người ta phát ti vi ban đêm, trong đó các cư dân của trái đất bị thay thế bằng bọn người hỏa tinh vô tính, và là người còn sót lại duy nhất vì bị mắc kẹt trong cái sào huyệt ấy. Như vậy là có hai khả năng: hoặc cả thế giới thay đổi, hoặc là sau hai mươi mốt ngày thai nghén trong bụng con quái vật, Mila mới ra đời. Xung quanh , ai về những gì xảy ra. Họ bắt sống trong quả cầu, như thể được làm bằng thủy tinh và có thể vỡ bất cứ lúc nào. Họ hiểu điều muốn là chút thành , sau tất cả những gian dối mà phải chịu. Mười tháng sau, phiên tòa xử Steve bắt đầu. đợi khoảnh khắc đó từ rất lâu. Báo chí và truyền hình đều đưa tin, mặc dù bố mẹ cho xem - họ là để bảo vệ . Nhưng vẫn lén lút cập nhật tin tức những khi có thể. Linda và phải làm chứng. Công tố viên chủ yếu dựa vào nhiều hơn, vì Linda vẫn tiếp tục khăng khăng bảo vệ tên bắt cóc. bé cứ muốn mọi người gọi mình là Gloria. Các bác sĩ cho rằng Linda bị tổn thương nặng nề về thần kinh. Vậy là chỉ mình Mila đương đầu với Steve. Trong những tháng sau khi bị bắt giữ, Steve làm tất cả để được miễn trách nhiệm hình . vẽ ra những câu chuyện đầy phi lý về những kẻ đồng lõa giả định mà buộc phải nghe lời. cũng cố dựa vào câu chuyện về Frankie, gã cộng độc ác mà kể với Linda. Nhưng nó bị bác bỏ khi cảnh sát phát ra đó là tên con rùa nuôi hồi . Tuy thế, nhiều người vẫn muốn tin vào câu chuyện đó. Steve quá “bình thường” để là con quái vật. Quá giống với họ. Nghịch lý thay, việc tin rằng còn ai khác đứng sau , kẻ bí hơn nhiều, con quái vật , lại khiến họ an tâm. Mila đến phiên tòa với dự định buộc Steve phải gánh chịu mọi tội lỗi gây ra, cũng như phần đau đớn mà bắt phải chịu. vào tù, và vì điều đó, sẵn sàng đóng vai nạn nhân tội nghiệp mà cho đến lúc đó vẫn cương quyết từ chối. ngồi ghế nhân chứng, đối mặt với cái chuồng mà Steve bị còng tay bên trong, với dự định kể tất cả mà rời mắt khỏi . Nhưng khi nhìn thấy - chiếc áo sơmi xanh lá gài nút đến tận cằm quá rộng vì chỉ còn da bọc xương, đôi bàn tay run rẩy khi cố gắng ghi chép, mái tóc xéo lệch mà tự cắt, cảm thấy điều mà ngờ tới: vừa thấy thương , lại vừa căm giận kẻ đáng thương đó, bởi khiến mủi lòng thương. Đó là lần cuối cùng Mila cảm thấy thấu cảm ai đó. Khi phát ra bí mật của Goran, bật khóc. Tại sao? hồi ức nằm đâu đó trong mách bảo rằng đó là những giọt nước mắt của thấu cảm. Đột nhiên con đập bị vỡ ở đâu đó, giải phóng lượng xúc cảm bất ngờ. Giờ đây thậm chí còn có cảm giác như mình hiểu được những gì người khác cảm thấy. Khi Roche đến nơi, nhận ra ông ta hiểu giờ của mình sắp điểm, bởi lẽ người giỏi nhất của Roche, “mũi khoan kim cương” của ông ta, cho ông ta ăn thứ bả độc nhất. Còn về Terence Mosca, ông đại úy có vẻ như bị kẹt giữa niềm vui của thăng tiến và nỗi khó xử gần với nguyên nhân của thăng tiến đó. cảm nhận ràng thái độ bối rối và buồn bã của Stern khi bước qua ngưỡng cửa căn hộ. hiểu ra ngay bắt tay vào giải quyết vụ việc kinh khủng này. thấu cảm. chỉ cảm thấy gì đối với người. Người đó là Goran. như Linda, bị rơi vào cái bẫy của Steve: chưa bao giờ tin vào tồn tại của Frankie. Ngược lại, tin là có đứa trẻ thực sống trong căn hộ này. nghe kể về thằng bé. chứng kiến những cú điện thoại của bố nó gọi cho bà giúp việc, để bảo đảm nó vẫn ổn và ra các chỉ thị cho bà. Thậm chí có cảm tưởng như nhìn thấy nó lúc Goran cho nó ngủ. tài nào tha thứ được cho ông tất cả những điều này, vì chúng biến thành con ngốc. Goran Gavila sống sót sau cú ngã từ độ cao mười hai mét. ông thoi thóp giường chăm sóc đặc biệt. Căn hộ của ông được theo dõi, nhưng chỉ từ bên ngoài. Ở bên trong, chỉ có hai nhân viên điều tra làm việc. Đặc vụ Stern, người tạm hoãn quyết định nghỉ việc của mình, và Mila. Họ tìm gì, chỉ cố sắp xếp các kiện theo trình tự thời gian và tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi. Vào thời điểm nào con người cân bằng và điềm tĩnh như Goran Gavila thực kế hoạch giết người? Tư tưởng trả thù của ông ta xuất khi nào? Ông ta biến thù hận thành kế hoạch từ lúc nào? Mila ở trong phòng làm việc. nghe thấy tiếng của Stern lục soát trong căn phòng bên cạnh. Trong đời cảnh sát của mình, nhiều lần khám xét nhà người khác. thấy tất cả những gì mình có thể khám phá về cuộc đời của kẻ khác khó tin. Trong khi kiểm tra nơi mình của Goran, suy nghĩ và cố gắng giữ thái độ dửng dưng, ghi lại các chi tiết, những thói quen có thể vô tình tiết lộ manh mối quan trọng. Goran cất những cái ghim kẹp giấy trong gạt tàn. Ông trực tiếp gọt bút chì miệng sọt rác. Và ông để khung ảnh trống bàn. Chiếc khung ảnh trống đó giống như ô cửa sổ nhìn xuống vực thẳm của người đàn ông mà Mila tưởng mình có thể thương. nhìn vội chỗ khác, như thể sợ mình bị nuốt chửng vào đó. Tiếp theo mở ngăn kéo tủ. Bên trong, chỉ có tập hồ sơ duy nhất. lấy nó ra và đặt lên chồng hồ sơ xem xét xong. Tập hồ sơ này có khác biệt, vì căn cứ theo ngày tháng nó là vụ án cuối cùng của Goran trước khi xảy ra vụ các bé . Ngoài các giấy tờ, trong tập hồ sơ còn có loạt băng ghi . đọc chỗ giấy tờ. nghe băng nếu thấy cần. Giấy tờ bao gồm các công văn liên hệ giữa giám đốc nhà tù - ông Alphonse Bérenger nào đấy - và văn phòng công tố. Chúng đề cập đến hành vi khác thường của phạm nhân chỉ được nhắc đến qua số hiệu tù. RK-357/9. Đối tượng được tìm thấy vài tháng trước đó bởi hai cảnh sát khi lang thang mình giữa đêm trong tình trạng mảnh vải che thân, ở vùng thôn quê. từ chối khai báo danh tính của mình. Kết quả kiểm tra dấu vân tay cho thấy chưa từng có tiền án. Nhưng chánh án buộc tội cản trở pháp luật. vẫn trong thời hạn án tù. Mila cầm cuốn băng lên xem. nhãn của nó chỉ ghi ngày giờ. gọi Stern và tóm tắt nhanh cho những gì mình vừa đọc. - nghe tay giám đốc nhà tù miêu tả này... “Kể từ khi vào tù, phạm nhân RK-357/9 chưa bao giờ tỏ ra vô kỷ luật và luôn tuân thủ các quy định của nhà tù. Thêm vào đó, ta có bản tính độc và ít hòa đồng... Có lẽ cũng vì lý do này mà ai để ý đến hành vi lạ lùng của , cho đến gần đây, khi nó bị trong các quản giáo của chúng tôi nhận ra. Phạm nhân RK-357/9 lau chùi mọi đồ vật mà tiếp xúc bằng miếng dạ, nhặt tất cả lông và tóc rụng hàng ngày của mình, rửa kỹ lưỡng các đồ dùng ăn uống và vệ sinh sau mỗi lần sử dụng”. thấy thế nào? - Tôi biết. Vợ tôi cũng bị ám ảnh bởi việc lau dọn như thế. - nghe tiếp này: “Như vậy chúng ta gặp phải hoặc là tay cuồng sạch , hoặc rất có thể là kẻ muốn bằng mọi giá tránh để lại các ‘dấu vết sinh học’. Do đó, chúng tôi rất nghi ngờ rằng phạm nhân số hiệu RK-357/9 gây ra tội ác cực kỳ nghiêm trọng, và muốn ngăn cản chúng ta thu được mẫu ADN của đem xác định danh tính...” nghĩ sao? Stern cầm tờ giấy lên tay và đọc. - Chuyện xảy ra vào tháng Mười ... Nhưng thấy ghi liệu cuối cùng họ có tìm được gì về ADN của . - Có vẻ như họ thể buộc làm test kiểm tra hoặc tùy tiện lẫy mẫu, vì nó vi phạm quyền hiến pháp của ... - Vậy họ làm gì? - Họ cố tìm cọng lông, hoặc sợi tóc bằng cách đột ngột ập vào xà lim của . - bị biệt giam à? Mila lướt mắt qua tờ giấy để tìm đọc đoạn mà vừa . - Đây này, ở đây tay giám đốc có viết: “Cho đến hôm nay, đối tượng được giam cùng phòng với tù nhân khác, kẻ chắc chắn giúp tiêu hủy các dấu vết sinh học. Tuy nhiên, xin thông báo để ông được biết, biện pháp xử lý đầu tiên của chúng tôi là đưa đối tượng ra khỏi buồng giam chung và biệt giam ”. - Vậy họ có lấy mẫu ADN của được hay ? - Có vẻ như nghi phạm khôn ranh hơn họ, họ luôn thấy buồng giam sạch bóng. Nhưng họ cũng nhận ra luôn chuyện mình và cho cài micro để tìm hiểu những gì … - Có liên quan gì với Gavila ? - Chắc hẳn họ xin ý kiến của Goran, tôi biết... Stern ngẫm nghĩ lát. - Chúng ta cần phải nghe mấy cái băng này. Họ tìm thấy máy ghi cũ cái tủ, có lẽ từng được Goran dùng để ghi lại các nhận xét của mình. Mila đưa cuộn băng cho Stern. bước đến gần cái máy, nhét cuộn băng vào trong hộc và giơ tay định ấn nút chạy. - Đợi . Bị bất ngờ, Stern quay lại nhìn Mila. Mặt tái xanh. - Chết rồi! - Có chuyện gì thế? - Cái tên. - Tên nào? - Tên của tù nhân từng ở cùng xà lim với trước khi bị biệt giam ấy... - sao chứ? - ta tên là Vincent… Vincent Clarisso.
44 Alphonse Bérenger là ông già sáu mốt với sắc diện như đứa trẻ. Khuôn mặt hồng hào của ông trông như được gắn bằng mạng lưới mao mạch chằng chịt. Khi cười, đôi mắt ông nheo lại thành hai đường chỉ. Ông lãnh đạo nhà tù từ hai mươi lăm năm nay, và chỉ còn vài tháng nữa là về hưu. Ông rất thích câu cá. cần câu cùng hộp mồi và lưỡi câu nằm trong góc văn phòng của ông. Chẳng bao lâu nữa, chúng là mối quan tâm duy nhất trong cuộc sống của ông. Bérenger được nhìn nhận là người tốt. Trong những năm tháng dưới quyền lãnh đạo của ông, nhà tù chưa từng nếm mùi kỷ luật sắt. Ông rất tử tế với các tù nhân, và các quản tù của ông cũng hiếm khi cậy nhờ đến vũ lực. Alphonse Bérenger đọc Kinh thánh và theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng ông tin vào cơ hội thứ hai. Ông cho rằng mỗi cá nhân nếu muốn đều đáng được ân xá. Bất luận ta phạm tội ác gì. Ông nổi tiếng là người chính trực và luôn hòa nhã với mọi người. Tuy nhiên, thời gian gần đây, ông tài nào ngủ được. Vợ ông bảo với ông nguyên nhân là do ông sắp về hưu, nhưng phải thế. Điều quấy rầy ông trong cơn buồn ngủ là việc phải trả lại tự do cho phạm nhân mang số hiệu RK-357/9 mà hề biết là ai và liệu có từng gây tội ác tày đình nào hay . - Gã này rất… quái gở. - Ông với Mila trong khi hai người bước qua cổng kiểm soát để tiến vào khu biệt giam. - Quái gở thế nào ạ? - hoàn toàn điềm tĩnh. Chúng tôi cắt nước, với hy vọng thôi cọ rửa mọi thứ. tiếp tục lau chùi bằng giẻ. Chúng tôi tước luôn giẻ. chuyển sang dùng quần áo tù. Chúng tôi ép phải dùng muỗng nĩa của nhà giam. Thế là ngừng ăn. - Vậy các ông làm thế nào? - Đương nhiên chúng tôi thể để chết đói được! Tất cả mọi ý đồ của chúng tôi đều vấp phải cứng đầu vô phương tháo gỡ... hoặc đấu tranh trong ôn hòa, tùy nhìn nhận. - Thế còn cảnh sát khoa học? - Họ dành ba ngày xem xét xà lim của nhưng thể tìm được thứ gì cho phép phân tích mẫu ADN của . Tôi cứ tự hỏi làm sao có thể thế được? Chúng ta mất hàng ngàn tế bào mỗi ngày, dưới dạng lông tóc, hoặc mảnh da chết... Bérenger chứng tỏ toàn bộ sức kiên nhẫn của người câu cá tội nghiệp, với hy vọng như thế là đủ. Nhưng vẫn đủ. Lần thử sức sau cùng của ông là cảnh sát bất ngờ xuất sáng hôm nay, với câu chuyện khó tin nhưng có của mình. Họ theo hành lang dài đến cánh cửa kim loại sơn màu trắng. Đó là buồng biệt giam số mười lăm. Ông giám đốc nhà tù nhìn Mila. - chắc chắn chứ? - Trong ba ngày nữa, gã ta ra tù, và tôi có cảm giác ta bao giờ thấy lại gã nữa. Thế nên, tôi tuyệt đối chắc chắn. Cánh cửa nặng nề mở ra rồi lập tức đóng lại sau lưng Mila. bước vào trong thế giới của nghi phạm số hiệu RK-357/9. Gã trông khá khác với những hình dung của dựa chân dung được dựng lại bởi bà Nicla Papakidis, sau khi bà chui sâu vào trong đầu của Joseph B. Rockford. Ngoại trừ chi tiết. Đôi mắt xám. Gã có vóc người , đôi vai hẹp, xương đòn nhô ra. Bộ đồng phục tù nhân màu cam tỏ ra quá rộng so với gã, tới mức gã phải xắn tay áo và gấu quần lên. Tóc gã ít và chỉ tập trung ở hai bên đầu. Gã ngồi giường, cái tô sắt đặt đầu gối. Gã lau nó bằng miếng giẻ màu vàng nhạt. giường, bên cạnh gã, có mấy bộ muỗng nĩa, bàn chải đánh răng và cái lược nhựa. Có lẽ gã vừa mới chùi chúng xong. Gã chỉ hơi ngước mắt lên nhìn Mila, trong lúc tay vẫn ngừng lau chùi. Mila có cảm giác chắc chắn là gã biết lý do đến đây. - Chào ông. - . - Tôi ngồi xuống được chứ? Gã lễ độ gật đầu, tay chỉ cái ghế đẩu kê sát tường. Mila ngồi xuống đó. Tiếng cọ xát đều đặn của miếng giẻ kim loại là thanh duy nhất trong căn buồng. Những thanh đặc trưng của nhà tù hoàn toàn vắng bóng trong khu biệt giam, nhằm làm nặng nề thêm độc về mặt tinh thần. Nhưng hình như nó chẳng mảy may ảnh hưởng tới nghi phạm RK-357/9. - Ở đây tất cả đều tự hỏi ông là ai. - Mila mở lời. - Thắc mắc đó gần như trở thành nỗi ám ảnh, tôi nghĩ thế. Ít ra là đối với ông giám đốc nhà tù. Và cả với văn phòng công tố nữa. Các phạm nhân khác truyền tai nhau câu chuyện của ông. Gã tiếp tục nhìn trơ trơ. - Tôi thắc mắc điều đó. Tôi biết câu trả lời. Ông là kẻ mà chúng tôi gọi là Albert. Đối tượng chúng tôi truy lùng. Gã phản ứng gì. - Ông ngồi chiếc ghế bành của Alexander Bermann trong hang ổ khiêu dâm của . Ông gặp Ronald Dermis ở nhi viện, khi còn là đứa trẻ. Ông có mặt trong biệt thự của bà Yvonne Gress trong lúc Feldher thảm sát bà ta và hai đứa con. Hình dáng ông rành rành chỗ máu bắn lên tường. Ông ở cùng với Joseph B. Rockford khi lần đầu tiên giết người trong cái lán bỏ ... Bọn họ là đồ đệ của ông. Ông xúi bẩy phần con người hèn hạ trong họ, khơi gợi độc ác trong họ, và luôn mình trong bóng tối… Gã đàn ông tiếp tục lau chùi mảy may suy suyển. - Cách đây hơn bốn tháng, ông quyết định để cho mình bị bắt. Ông cố tình làm điều đó, tôi tin chắc như vậy. Trong tù, ông gặp Vincent Clarisso, bạn tù cùng xà lim của ông. Ông có gần tháng để huấn luyện , trước khi ra tù. Sau đó, ngay khi được trả lại tự do, Clarisso thực thi kế hoạch của ông: bắt cóc sáu bé , cắt cánh tay trái của chúng, sắp đặt tử thi của chúng để tiết lộ tất cả những tội ác kinh hoàng chưa từng bị phát ... Trong khi Vincent hoàn thành công việc ông ngồi đây. Như vậy là ai có thể buộc tội ông được. Bốn bức tường này là bằng chứng ngoại phạm quá lý tưởng… Nhưng kiệt tác của ông là Goran Gavila. Mila rút từ trong túi ra cuộn băng ghi tìm thấy trong văn phòng của nhà tội phạm học rồi quẳng nó lên giường. Gã đàn ông quan sát quỹ đạo parabol mà nó vạch ra trước khi đáp xuống cạnh chân trái của mình. Gã nhúc nhích, thậm chí chẳng buồn tránh. - Giáo sư Gavila chưa bao giờ nhìn thấy ông, ông ta cũng biết ông. Nhưng ông biết ông ta. Tim Mila bắt đầu đập mạnh. Đó là do cơn giận, nỗi đau xót, và cả thứ khác nữa. - Ông tìm ra cách tiếp cận ông ta trong khi vẫn ngồi trong này. Ông tài tình: khi người ta biệt giam ông, ông bắt đầu lảm nhảm mình như thằng điên, thừa biết người ta cài micro để sau đó đưa các đoạn băng ghi cho chuyên gia nghe. phải bất kỳ người nào, mà chính là người giỏi nhất trong lĩnh vực này... Mila chỉ cuộn băng. - Tôi nghe tất cả, ông biết ? Hàng giờ ghi ... Những thông điệp này phải để ném vào khoảng . Tất cả là dành cho Goran... “Giết, giết, giết”... Ông ta nghe lời ông và giết hại vợ con mình. Đó là công trình dài hơi tác động lên tinh thần của ông ta. Nhưng hãy cho tôi nghe chuyện: ông làm điều đó như thế nào? Làm sao ông thành công được? Ông giỏi lắm. Gã đàn ông đáp lại câu mỉa mai, hoặc là biểu ra. Nhưng gã có vẻ tò mò muốn nghe phần tiếp theo của câu chuyện, vì gã rời mắt khỏi . - Nhưng ông phải là kẻ duy nhất biết chui sâu vào trong đầu người khác... Gần đây tôi tìm hiểu rất nhiều về những tên sát nhân hàng loạt. Tôi biết chúng được chia làm bốn loại: mộng tưởng; hành đạo, khát quyền và tầm lạc... Nhưng còn loại thứ năm nữa. Người ta gọi chúng là những tên sát nhân hàng loạt trong tiềm thức. lục trong túi và lôi ra tờ giấy gấp tư. mở nó ra. - Kẻ nổi tiếng nhất là Charles Manson, người xúi giục các thành viên trong “Gia đình” của mình thực cuộc thảm sát ở đường Cielo. Nhưng tôi tin có hai trường hợp còn điển hình hơn. ( đọc tờ giấy.) “Vào năm 2005, gã người Nhật tên là Fujimatzu thuyết phục thành công mười tám người ở nhiều nơi thế giới mà gặp qua chat, để khiến họ tự tử vào đúng ngày lễ Tình nhân. Tuổi tác, giới tính, tình hình tài chính và nguồn gốc xã hội của họ khác nhau. Họ là những người đàn ông và phụ nữ hoàn toàn bình thường, và có vẻ như hề có vấn đề gì”. ( ngước mắt lên nhìn nghi phạm). Làm thế nào thuyết phục được họ, điều này cho đến giờ vẫn là bí mật... Nhưng ông nghe nhé, đây là những vụ tôi thích nhất: “Năm 1999, Rocher Glest ở Akron, bang Ohio, giết sáu phụ nữ. Lúc bị bắt, bảo với các điều tra viên là được ‘nhắc tuồng’ bởi gã Rudolf Migby nào đó. Chánh án và bồi thẩm đoàn cho rằng tìm cách giả điên. Họ tuyên án tử hình bằng biện pháp tiêm thuốc độc. Vào năm 2002, tại New Zealand, công nhân mù chữ tên là Jerry Hoover giết hại bốn phụ nữ, sau đó khai với cảnh sát là tay Rudolf Migby ‘nhắc tuồng’ mình. Bác sĩ tâm thần của bên công tố nhớ lại vụ việc năm 1999 - vụ án mà rất khó có khả năng Hoover biết được - và phát ra đồng nghiệp của can phạm quả thực tên là Rudolf Migby và hồi năm 1999, lưu trú tại Akron, Ohio”. Ông thấy sao? Ông thấy giống nhau ở đây chứ? Gã đàn ông gì. Cái tô của gã sáng bóng, nhưng có vẻ như gã vẫn chưa hài lòng về kết quả này. - tên “sát nhân trong tiềm thức” thực gây án. thể bị quy trách nhiệm và bị trừng phạt. Để xét xử Charles Manson, người ta phải dùng đến tiểu xảo tố tụng, ngoài ra án tử hình của được giảm xuống thành nhiều án chung thân... số nhà tâm thần học gọi các ông là “những kẻ dụ dỗ”, vì khả năng tác động lên những nhân cách yếu đuối nhất. Còn tôi, tôi thích gọi các ông là “những con sói”… Lũ sói hành động theo bầy đàn. Mỗi bầy có con thủ lĩnh, và thường những con khác săn mồi cho nó. Nghi phạm RK-357/9 lau xong cái tô và đặt nó xuống bên cạnh mình. Gã để tay lên đầu gối và chờ nghe đoạn tiếp theo. - Nhưng ông, ông là kẻ giỏi nhất... (Mila bật cười). gì có thể chứng minh liên đới của ông trong các vụ án do bọn đồ đệ của ông gây ra. có bằng chứng chống lại, nên ông lại sớm được làm người tự do... Mà ai có thể làm gì được. Mila thở hơi rất dài. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau. - Tiếc quá: giá như chúng tôi biết được danh tính của ông ông trở nên nổi tiếng và vào sử sách, ông tin tôi . chồm người về phía gã đàn ông, đổi giọng đe dọa: - Dù sao nữa, tôi khám phá ra được ông là ai. đứng dậy, phủi hạt bụi vô hình khỏi tay mình rồi dợm bước ra ngoài. Nhưng trước đó muốn dành thêm vài giây cho gã đàn ông. - Đồ đệ cuối cùng của ông thất bại rồi: Vincent Clarisso hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé số sáu vẫn còn sống... Điều đó có nghĩa là ông cũng thất bại. dò xét phản ứng của đối tượng. Trong tích tắc, có cảm tưởng như điều gì đó đổi khác gương mặt từ nãy đến giờ hề lay chuyển của gã. - Chúng ta gặp lại nhau ở bên ngoài! chìa tay về phía gã. Gã hơi bất ngờ, như thể gã chờ đợi cử chỉ này. Gã quan sát lúc. Rồi gã nhè giơ cánh tay lên bắt tay . Khi chạm vào những ngón tay mềm mại, Mila cảm thấy ghê tởm. để tay mình trượt khỏi tay . quay gót, tiến đến cánh cửa sắt. gõ ba tiếng và chờ đợi, ý thức được cái nhìn của gã đàn ông vẫn găm vào điểm nằm giữa hai bả vai mình. Ở bên ngoài, người nào đó mở chốt cửa. Trước khi cánh cửa kịp mở ra, nghi phạm RK-357/9 lần đầu tiên cất tiếng: - Nó là con . Mila quay lại nhìn gã, ngỡ mình nghe lầm. Gã lại cầm giẻ lên và tỉ mỉ lau chùi cái tô khác, bước ra để cánh cửa sắt khép lại sau lưng. Bérenger tiến đến chỗ . Krepp cùng ông ta. - Thế nào... thành công chứ? Mila gật đầu. chìa bàn tay vừa bắt tay nghi phạm ra. Krepp cầm lấy cái kẹp và cẩn thận gỡ từ lòng bàn tay lớp chất liệu mỏng mà ông gắn vào để lưu giữ các tế bào biểu bì của gã đàn ông. Để bảo quản nó, ông lập tức đặt nó vào trong dung dịch kiềm. - Bây giờ ta xem gã con hoang này là ai. Ngày 5 tháng 9 Bầu trời điểm xuyết vài cụm mây trắng, chúng càng làm nổi bật màu xanh thuần khiết. Nếu co cụm lại, có lẽ chúng che được mặt trời. Nhưng chúng chỉ để mặc cho cơn gió cuốn mình . Mùa hè năm nay rất dài. Mùa đông nhường chỗ cho mùa hè mà có bước chuyển tiếp nào cả. Trời vẫn còn ấm. Mila quay hết kính xe xuống trong lúc lái, để tận hưởng gió trời mái tóc. nuôi tóc dài, nhưng đó chỉ là trong những thay đổi của thời gian vừa rồi. mới mẻ nữa là trang phục của . thay chiếc quần jean bằng cái váy hoa. ghế ngồi cạnh là chiếc hộp thắt ruy băng màu đỏ. chọn quà ngay suy nghĩ nhiều, bởi từ giờ trở đặt niềm tin vào bản năng của mình. khám phá ra tính chất thể đoán định trước của cuộc sống. mới mẻ trong cách nhìn nhận mọi thứ làm hài lòng. Nhưng vấn đề tại là cảm xúc thất thường của . Đôi khi có thể ngừng lại ngay giữa cuộc đối thoại, hoặc giữa lúc bận rộn, chỉ để khóc. Vô duyên vô cớ, hoài niệm lạ lùng và dễ chịu xâm chiếm lấy . Trong thời gian dài tự hỏi, những cảm xúc đều đặn trùm lên mình như những đợt sóng đó đến từ đâu. Giờ hiểu ra. Nhưng thậm chí muốn biết giới tính của đứa trẻ. “Nó là con ”. Mila tránh nghĩ đến điều đó. cố quên chuyện đó . còn những ưu tiên khác. Những cơn đói thường xuyên xâm chiếm lấy báo trước và trả lại cho chút dáng vóc nữ tính. Rồi , những cơn buồn tiểu tiện bất ngờ và khẩn cấp. Cuối cùng là những cú đạp trong bụng mà cảm thấy được thời gian. Nhờ vào tất cả những điều đó, học được cách chỉ nhìn về phía trước. Thế nhưng, điều thể tránh khỏi, ký ức về những chuyện vừa qua thỉnh thoảng lại xâm chiếm lấy đầu óc . Phạm nhân RK-357/9 ra khỏi tù vào ngày thứ Ba trong tháng Ba. Gã vẫn vô danh. Tuy vậy tiểu xảo của Mila thành công. Krepp trích được ADN từ các tế bào biểu bì của gã và đưa vào tất cả những kho dữ liệu có. Ông thậm chí tìm cách khớp chúng với những dữ liệu chưa định được danh tính trong các vụ án tồn đọng. Nhưng ông tìm được gì. Có lẽ chúng ta vẫn chưa khám phá được toàn bộ mưu đồ của gã. Mila tự nhủ. Ý nghĩ đó khiến thấy sợ. Khi gã được thả tự do, lúc đầu các cảnh sát liên tục theo dõi gã. Gã sống trong ngôi nhà được cơ quan bảo trợ xã hội cung cấp, và mỉa mai thay, gã làm công việc quét dọn trong trung tâm thương mại lớn. Gã để lộ bất kỳ điều gì về mình, ngoại trừ những gì được biết. Dần dần, công tác theo dõi của cảnh sát được gỡ bỏ. Cấp của họ thể trả thêm tiền làm ngoài giờ được nữa, và các chuyến theo dõi tình nguyện cũng chỉ kéo dài thêm được vài tuần. Mila cũng tiếp tục giám sát gã, nhưng rồi ngay cả với , chuyện đó cũng trở nên ngày mệt mỏi hơn. Sau khi biết mình có mang, mức độ kiểm soát của với gã thưa dần. Rồi hôm, khoảng giữa tháng Năm, gã biến mất. Gã để lại bất kỳ dấu vết nào, cũng có gì tiết lộ về điểm đến của gã. Lúc đầu Mila đùng đùng nổi giận, nhưng rồi chợt nhận ra mình nhõm cách kỳ lạ. Suy cho cùng, cảnh sát chuyên tìm người mất tích chỉ muốn gã ta mất tích hẳn. Bảng chỉ đường cho thấy phải rẽ để vào khu dân cư. làm theo. Đó là khu khá đẹp. Những con đường hai bên toàn cây xanh phủ xuống những cái bóng y hệt nhau, như thể muốn làm hại ai. Những ngôi biệt thự tương tự nằm gần nhau, mỗi cái có khu vườn xinh xắn phía trước. Các chỉ dẫn tờ giấy mà Stern đưa kết thúc ở ngã ba trước mặt Mila. - Stern, ở chỗ quái quỷ nào vậy? - vào điện thoại. Trước khi kịp trả lời, nhận ra cầm di động ra hiệu cho ở phía xa. đậu xe ở chỗ chỉ rồi bước xuống. - khỏe ? - Ngoại trừ những cơn buồn nôn, đôi chân phù nề và những lần chạy vội vào nhà vệ sinh ... tôi khỏe. vòng tay ôm lấy vai . - nào, mọi người ở sân sau. buồn cười khi nhìn thấy Stern càvạt lẫn comlê, thay vào đó là chiếc quần đùi màu xanh và áo sơmi hoa hòe phanh ngực. Nếu có viên kẹo bạc hà bất ly thân trong miệng thể nào nhận ra . Mila để mình được dắt vào vườn, ở đó vợ của người cựu cảnh sát bày muỗng nĩa. chạy đến ôm hôn chị. - Chào chị Marie, trông chị đẹp lắm. - Phải thế chứ, chị có tôi ở nhà cả ngày mà! - Stern vừa cười vừa . Marie đấm vào lưng chồng. - lo đồ ăn . Trong khi Stern tiến lại lò nướng để nướng xúc xích và bắp ngô, Boris bước lại gần, chai bia cạn nửa trong tay. ôm chầm lấy Mila bằng đôi cánh tay vạm vỡ và nhấc bổng lên. - lên cân nhiều quá đấy! - Lên cái mồm ấy! - Mà, mất bao lâu mới đến được đây? - lo cho tôi cơ à? - , chẳng qua vì tôi đói quá thôi. Họ cùng cười. Boris vẫn luôn chú ý đến , phải chỉ bởi là người tránh cho khỏi phải vào tù. Dạo gần đây chàng có hơi lên cân do cuộc sống ru rú ở nhà sau khi được Terence Mosca cất nhắc. Ông chánh thanh tra mới ngay lập tức sửa chữa “sai sót” của mình, và cho đề nghị thể nào từ chối được. Roche từ chức ngay sau khi cuộc điều tra chính thức khép lại, quên thu xếp với ban điều tra lộ trình hạ cánh bao gồm buổi lễ trao huy chương và bài diễn văn long trọng. Nghe ông ta nghĩ đến việc chuyển sang làm chính trị. - Ôi tôi ngu quá mất thôi. Tôi để quên cái hộp quà trong xe rồi! - Mila sực nhớ. - lấy nó giúp tôi được ? - Tất nhiên rồi, tôi ngay đây. Khi thân hình vạm vỡ của Boris rời , mới nhận thấy những người khác. Sandra ngồi trong chiếc xe lăn dưới tán cây đào. Con bé thể bước được. Việc này xảy ra tháng sau khi Sandra rời bệnh viện. Các bác sĩ cho rằng tắc nghẽn thần kinh của nó có liên quan đến chấn động tinh thần. Con bé phải theo chương trình phục hồi chức năng rất nghiêm ngặt. cánh tay giả được lắp vào bên tay bị mất của Sandra. Đứng bên cạnh Sandra là Mike, bố con bé. Mila biết khi đến thăm Sandra và thấy là người tử tế. Mặc dù hai vợ chồng ly thân, vẫn tiếp tục chăm sóc vợ con cách tận tụy và trìu mến. Sarah ở bên hai bố con. thay đổi rất nhiều. sụt cân trong khi ở tù và mái tóc bạc trắng chỉ trong thời gian ngắn. Án phạt dành cho khá nặng: bảy năm tù và bị sa thải khỏi ngành do phạm lỗi nghiêm trọng và mất luôn chế độ hưu trí. được ở đây là nhờ lệnh cho phép đặc biệt. Mila nhìn thấy cách đó xa là Doris, người quản giáo kèm Sarah. Chị gật đầu chào . Sarah Rosa đứng dậy đến chỗ Mila. cố gắng mỉm cười. - khỏe ? Đứa bé ổn chứ? - Điều bất tiện nhất là quần áo: tôi liên tục thay đổi kích cỡ, nhưng lại đủ tiền để mua quần áo thường xuyên. ngày nào đó tôi quấn áo choàng tắm để ra đường! - Tin tôi , hãy tận hưởng thời gian này, vì điều tồi tệ nhất còn chưa đến đâu. Trong ba năm đầu đời, Sandra cho chúng tôi chợp mắt. Phải Mike? Mike gật đầu. Dạo này mọi người từng gặp nhau trong số dịp khác, nhưng người nào hỏi Mila bố đứa bé là ai. Họ phản ứng thế nào khi biết mang trong mình đứa con của Goran? Nhà tội phạm học vẫn chìm trong hôn mê. Mila đến thăm ông lần. nhìn thấy ông qua tấm kính, nhưng chỉ chịu nổi vài giây là bỏ chạy. Điều cuối cùng ông với trước khi gieo mình xuống đất là ông giết vợ con bởi vì ông họ. Đó là thứ lôgíc thể chối cãi của việc nhau lắm cắn nhau đau. Mà Mila thể chấp nhận chuyện đó. lần Goran khẳng định với : “Có những người ta tưởng hiểu cặn kẽ, nhưng ra chẳng biết gì về bọn họ...” nghĩ ông về vợ mình, và xem câu đó như tầm thường, là gì đối với đầu óc của ông. Cho đến khi thấy điều ông vận vào chính bản thân . Lẽ ra phải hiểu ra từ trước đó. từng với Goran: “Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng, em phải quay lại với bóng tối”. Goran cũng từng thường xuyên lặn xuống bóng tối sâu thẳm ấy. Nhưng ngày, khi ông chui ra khỏi bóng tối, thứ gì đó bám theo ông. Và nó buông tha ông nữa. Boris quay lại cùng với món quà. - lâu thế. - Tôi tài nào đóng cửa chiếc xe đồng nát của được. nên thưởng cho mình chiếc mới là vừa. Mila cầm lấy món quà và đưa cho Sandra. - Mừng sinh nhật cháu! cúi xuống ôm hôn con bé. Sandra luôn vui mừng mỗi khi gặp . - Bố mẹ tặng cháu cái iPod. Con bé giơ món quà ra khoe. Mila đáp: - Đỉnh ! Phải nạp nhiều nhạc rock vào nhé. Mike đồng tình: - Tôi thích nhạc Mozart hơn. - Con thích Coldplay cơ. - Sandra . Họ cùng nhau mở gói quà của Mila. Đó là chiếc áo khoác nhung, với những chiếc đinh tán và họa tiết trang trí đủ kiểu. - Wow! - Sandra thốt lên khi nhận ra nhãn hiệu của nhà thiết kế nổi tiếng. - Chữ “wow” này có nghĩa là cháu thích phải ? Con bé gật đầu, miệng nhoẻn cười, mắt rời khỏi chiếc áo khoác - Ta ăn thôi! - Stern tuyên bố. Họ cùng ngồi vào bàn dưới bóng của cái chòi . Mila nhận thấy Stern và vợ thường xuyên tìm nhau và đụng chạm nhau như đôi tình nhân trẻ. thấy phát ghen với họ. Sarah Rosa và Mike sắm vai cặp bố mẹ tốt trước mặt con . Nhưng Mike cũng rất quan tâm tới Sarah. Boris luôn miệng pha trò khiến họ cười nhiều tới mức Doris bị mắc nghẹn. Hôm nay là ngày dễ chịu và vô lo. Sandra chắc tạm quên tình trạng của mình. Con bé nhận được rất nhiều quà và thổi mười ba ngọn nến cắm chiếc bánh sôcôla dừa. Khi họ ăn trưa xong quá ba giờ. cơn gió thổi đến, mời gọi họ ngồi xuống bãi cỏ đánh giấc. Cánh phụ nữ dọn dẹp bàn, nhưng vợ Stern cho Mila tham gia vì bụng khá lớn. nhân cơ hội ở lại cùng Sandra dưới bóng cây đào. xoay xở ngồi bệt xuống đất bên cạnh chiếc xe lăn. - Ở đây đẹp quá. - Con bé vừa vừa nhìn mẹ dọn dẹp bàn ăn. - Cháu chỉ muốn ngày hôm nay kéo dài mãi. Cháu từng nhớ mẹ lắm... - Sandra mỉm cười thêm. Chữ “từng” mà Sandra sử dụng cho thấy Sandra muốn đến cảm giác nhớ nhung khác với điều mà nó cảm thấy khi mẹ ở tù. Nó muốn nhắc đến kiện xảy ra với mình. Mila hiểu đó là phần nỗ lực nhằm sắp xếp lại quá khứ của con bé. Sandra phải điều chỉnh lại các cảm xúc của mình, và chấp nhận nỗi sợ dù trôi qua nhưng còn rình rập bé trong những năm tháng phía trước. ngày nào đó, hai cháu về những chuyện diễn ra. Mila nghĩ đến việc kể cho con bé nghe chuyện của mình trước. Có lẽ điều này giúp ích cho nó. Hai cháu có rất nhiều điểm chung. Đầu tiên hãy tìm từ ngữ để ra, cháu ạ, chúng ta có nhiều thời gian lắm... Mila cảm thấy rất quý mến Sandra. Trong tiếng đồng hồ tới, Sarah Rosa phải quay về trại giam. Lần nào cũng cảm thấy chia tay rất khó khăn đối với hai mẹ con. - quyết định chia sẻ với cháu bí mật. - Mila với con bé để quên ý nghĩ vừa rồi . - chỉ với mình cháu thôi... muốn cho cháu biết ai là bố đứa trẻ mang trong bụng. Sandra buột miệng cười. - Mọi người biết rồi ơi. Mila sững người vì bất ngờ, rồi cả hai cháu cùng cười. Boris đứng từ xa nhìn họ, hiểu chuyện gì xảy ra. - Phụ nữ ấy mà. - chàng với Stern. Khi thôi cười, Mila cảm thấy khá hơn hẳn. lần nữa, đánh giá thấp những người quý mến mình, và tự tạo nên những rắc rối cần thiết. ra mọi chuyện thường đơn giản vô cùng. - đợi người... - Sandra cách nghiêm túc. - biết. - Mila đáp. - Kẻ đó lẽ ra đến nhập bọn với . - Gã bị ngồi tù. Nhưng bọn hay biết. Bọn thậm chí còn đặt cho gã cái tên, cháu biết ? Bọn gọi gã là Albert. - , Vincent gọi kẻ đó như vậy... Cơn gió khẽ lay động những chiếc lá của cây đào, nhưng nó khỏi khiến Mila đột nhiên thấy cơn ớn lạnh dọc theo sống lưng. chầm chậm quay sang Sandra và bắt gặp đôi mắt to của con bé nhìn mình, hoàn toàn ý thức được những điều mà nó sắp ra có sức nặng như thế nào. - . - Sandra điềm tĩnh . - gọi tên kẻ đó là Frankie... Nắng rực rỡ giữa buổi chiều đẹp trời. Lũ chim hót trong đám cây cối, khí đượm mùi thơm và phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì mời mọc. Mila bao giờ quên khoảnh khắc này, khi mà khám phá ra giữa và Sandra có nhiều điểm chung hơn tưởng. Vậy mà chúng vẫn luôn ở đó, sờ sờ ngay trước mắt . Gã chỉ chọn các bé , chọn các bé trai. Steve cũng thích bọn con . Gã lựa chọn các gia đình. cũng giống như Sandra, là đứa con độc nhất trong nhà. Gã cắt cánh tay trái của nạn nhân. bị gãy tay trái khi ngã xuống cầu thang nhà Steve. Hai nạn nhân đầu tiên là chị em kết nghĩa. Sandra và Debby. Cũng giống như và Graciela trước đây nhiều năm. “Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe câu chuyện”, Goran từng như vậy. Và câu chuyện ở đây chính là chuyện của . Tất cả mọi chi tiết đều nhắc nhớ đến chuyện ngày xưa và buộc phải nhìn thẳng vào khủng khiếp. “Đồ đệ cuối cùng của ông thất bại rồi: Vincent Clarisso hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé số sáu vẫn còn sống... Điều đó có nghĩa là ông cũng thất bại”. ra có gì là ngẫu nhiên cả. Chính đó mới là hồi kết thực mà Frankie sắp đặt. Tất cả tấn tuồng này là để dành cho . cú quặn trong bụng khiến phải ngửa người ra sau. Mila cụp mắt xuống nhìn bụng mình. cố tự đặt câu hỏi liệu điều này có nằm trong kế hoạch của Frankie hay . Chúa trời im lặng, thầm nghĩ. Quỷ dữ thầm... ra, nắng vẫn tiếp tục rực rỡ trong buổi chiều đẹp trời. Lũ chim vẫn hót mệt mỏi trong đám cây cối, và khí vẫn nồng đượm mùi thơm cùng với phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì vẫn luôn mời gọi. Quanh , ở khắp mọi nơi, vạn vật có cùng thông điệp. Rằng tất cả đều giống như trước. Tất cả. Kể cả Frankie. Kẻ quay lại, để rồi lại biến mất lần nữa trong bóng tối sâu thẳm mênh mông. Lời tác giả Văn học trinh thám bắt đầu nhắc tới “những kẻ nhắc tuồng” khi trào lưu của các giáo phái nổi lên, nhưng gặp nhiều khó khăn khi phải tìm định nghĩa của “kẻ nhắc tuồng” khả dĩ chấp nhận được trong các phiên tòa, bởi rất khó có thể chứng minh cái gọi là “ nhắc tuồng” ấy. Khi có mối liên hệ nhân quả giữa bị cáo và kẻ nhắc tuồng, chúng ta thể hình dung ra loại tội ác nào mà kiểu tội phạm này có thể bị cáo buộc. “Xúi giục hành động phạm tội” thường đủ mạnh để cấu thành tội trạng. Bởi lẽ trong trường hợp của những kẻ nhắc tuồng, việc đơn giản chỉ là ra lệnh và tuân lệnh. Những tên tội phạm này sử dụng phương thức giao tiếp bằng tiềm thức, và “nhồi” ý đồ phạm tội trong đầu thủ phạm, mà “khơi dậy” mặt tối vốn dĩ tồn tại trong mỗi chúng ta. Chính điều này dẫn thủ phạm đến việc gây ra hay nhiều tội ác. Vụ Offelbeck năm 1986 thường được nhắc tới như trường hợp điển hình: bà nội trợ nhận được hàng loạt cú điện thoại nặc danh để rồi ngày nọ, bỗng dưng đầu độc cả gia đình mình bằng cách bỏ thuốc diệt chuột vào món súp. Cần thêm là tác giả của những vụ án tàn bạo thường có khuynh hướng chia sẻ trách nhiệm với giọng , ảo ảnh, hoặc những nhân vật tưởng tượng. Do đó rất khó có thể kết luận được hành vi phạm tội chỉ là kết quả của bệnh lý tâm thần hay là tác phẩm của kẻ nhắc tuồng. Trong số các nguồn tư liệu được sử dụng trong tiểu thuyết này, ngoài các sách giáo khoa về tội phạm học, về môn giám định tâm thần và các văn bản pháp y, tôi còn dẫn ra số vụ điều tra của FBI, tổ chức có công tập hợp kho dữ liệu đáng giá về những kẻ giết người hàng loạt và phạm tội ác nghiêm trọng. Nhiều vụ trong số những tội ác được nêu trong truyện thực xảy ra ngoài đời. Tên và địa điểm của chúng được thay đổi vì đa phần các cuộc điều tra vẫn chưa kết thúc và việc xét xử còn chưa diễn ra. Các biện pháp điều tra và giám định mô tả trong tiểu thuyết này là hoàn toàn có , dù trong số trường hợp, tôi biến đổi chúng cho phù hợp với cầu nội dung của câu chuyện. Lời cảm ơn Nhiều người nghĩ rằng viết lách là cuộc phiêu lưu độc. ra có rất nhiều người đóng góp vào ra đời của câu chuyện, dù họ nhận ra. Họ là những người nuôi ý tưởng, hỗ trợ và khuyến khích tôi trong suốt những tháng thai nghén nên cuốn tiểu thuyết này và là phần cuộc đời của tôi, bằng cách này hay cách khác. Với hy vọng họ ở bên cạnh tôi trong cả tương lai dài phía trước, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới họ. Cảm ơn Luigi và Daniela Bernabò vì thời gian và tận tâm mà họ dành cho câu chuyện này cũng như tác giả của nó. Vì những lời khuyên đáng giá cho phép tôi trưởng thành hơn trong tư cách nhà văn, giúp tôi định hình phong cách và tính hiệu quả của những trang viết này. Và vì đặt cả trái tim họ vào đó. Nếu bạn đọc được những dòng chữ này, phần lớn là nhờ ở công lao của họ. Xin cám ơn, cám ơn rất nhiều. Cảm ơn Stefano và Cristina Mauri, những người đầu tư tên tuổi vào tôi và tin tưởng vào điều đó cho đến tận cùng. Cảm ơn Fabrizio, “người nhắc tuồng” của tôi, vì những lời khuyên tàn nhẫn của , vì thái độ cứng rắn đầy tử tế của , vì tình dành cho từng trang viết, từng câu chữ của tôi. Cảm ơn Ottavio, người bạn mà ai cũng muốn có bên cạnh mình suốt đời. Cảm ơn Valentina, người đặc biệt. Cảm ơn hai bé Clara và Gaia vì thương chúng dành cho tôi. Cảm ơn Gianmauro và Michela, với hy vọng tôi được ở bên họ những khi thực cần. Và cảm ơn Claudia, nguồn sáng của tôi. Cảm ơn Massimo và Roberta vì ủng hộ và tình bạn chân thành của họ. Cảm ơn Michele. Người bạn đầu tiên và thân thiết nhất của tôi. Cần phải là luôn có mặt mỗi khi tôi cần. Và biết tôi cũng luôn ở đó. Cảm ơn Luisa, vì nụ cười dễ tiêm nhiễm và những bài hát vang mãi trong xe hơi những phố phường Roma. Cảm ơn Daria và định mệnh dành cho tôi. Vì cách nhìn nhận thế giới và khiến tôi nhìn nó qua đôi mắt . Cảm ơn Maria De Bellis, người canh chừng cho những giấc mơ trẻ con của tôi. Việc tôi trở thành nhà văn cũng là nhờ ở bà. Cảm ơn Uski, “cộng ” có hai của tôi. Cảm ơn Alfredo, bạn đồng hành sôi nổi trong hàng ngàn chuyến phiêu lưu. Cảm ơn Achille, người có ở đó... nhưng luôn diện. Cảm ơn Pietro Valsecchi và Camilla Nesbit, và toàn bộ hãng phim Taodue. Cảm ơn mọi người ở Bernabò Agency, những người dõi theo từng bước phát triển của cuốn tiểu thuyết này. Cùng với những người bạn đọc câu chuyện này ngay từ ban đầu và giúp tôi hoàn thiện nó qua những đóng góp xác đáng. Cảm ơn gia đình lớn của tôi. Những người , và góp mặt vào đó. Cảm ơn Vito, em trai tôi. Người đầu tiên được đọc câu chuyện này, và nhiều câu chuyện khác, luôn là như thế. Ngay cả khi bạn thể nghe thấy, nhạc trong những trang viết này thuộc về cậu ấy. Và cảm ơn Barbara, người làm cho cậu ấy hạnh phúc. Cảm ơn bố mẹ tôi. Vì những điều họ dạy dỗ tôi và những gì họ để cho tôi tự tìm hiểu. Vì con người tại và trong tương lai của tôi. Cảm ơn em tôi, Chiara. Người luôn tin vào các giấc mơ của ấy và của tôi. có ấy, cuộc sống của tôi trống trải kinh khủng. Cảm ơn tất cả những ai đọc đến hết những trang sách này. Với hy vọng là tôi mang lại cảm xúc cho các bạn. Donato CARRISI [1] Cytofix: tên thương mại của loại hóa chất dùng để tạo ra các lỗ thấm màng tế bào, cho phép thuốc nhuộm vào được bên trong tế bào. [2] loại bệnh lệch lạc tình dục, đàn ông mắc bệnh này thích quan hệ tình dục với trẻ chưa hoặc mới dậy . [3] Tiếng Ý trong nguyên bản. [4] Tiếng Pháp: Chúc ngon miệng. [5] Thành phần cấu tạo của hồng cầu. [6] liên tưởng.