31 Ban đêm, họ nghe thấy tiếng bà la hét. Những cơn đau nửa đầu hành hạ và cho bà ngủ. Từ giờ, ngay cả morphin cũng thể làm dịu chúng. Bà vùng vẫy giường và la hét cho đến khi tắt tiếng. Vẻ đẹp ngày trước mà bà từng bỏ công gìn giữ trước tàn phá ngừng của thời gian nay tàn lụi. Bà trở nên dễ bị tổn thương. Bà, người từng rất để ý đến ngôn từ và ăn chừng mực, nay lại thành ra thô tục tưởng tượng nổi. Bà chửi rủa tất cả mọi người. Chửi chồng, người chết quá sớm. Chửi con , đứa bỏ chạy khỏi bà. Và cả Chúa nữa, vì làm bà ra nông nỗi này. Chỉ mới xoa dịu được bà. vào phòng bà, trói hai tay bà vào giường bằng chiếc khăn lụa, để bà tự làm đau mình. Bà rứt sạch cả chỗ tóc đầu, khuôn mặt đầy các vệt máu khô sau những lần bà chọc móng tay vào da thịt. “Joseph”, bà gọi tên khi được vuốt trán. “Con hãy mẹ là người mẹ tốt . , mẹ xin con đấy”. Và vừa nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của bà vừa những gì bà muốn nghe. Joseph B. Rockford ba mươi hai tuổi. chỉ còn mười tám năm trước khi về chầu Diêm Vương. Ít lâu trước đó, nhờ đến nhà di truyền học tên tuổi để xem mình có phải chịu chung số phận với cha và ông nội hay . Do hiểu biết hạn hẹp thời đó về di truyền của các loại bệnh tật, câu trả lời khá là mơ hồ: khả năng bị mắc hội chứng bẩm sinh hiếm gặp đó dao động trong khoảng từ bốn mươi đến bảy mươi phần trăm. Từ lúc đó, Joseph sống với bản án tử của mình. Tất cả mọi thứ khác chỉ là những “giai đoạn” để tiến đến kết thúc. Giống như căn bệnh của mẹ . Hằng đêm, ngôi nhà lớn bị rúng động bởi những tiếng la hét dị thường của bà, chúng vang dội khắp các gian phòng mênh mông. Sau nhiều tháng trời bị mất ngủ, Joseph quen ngủ với hai cái nút tai, để khỏi phải chịu cái cực hình đó. Nhưng như vậy cũng đủ. hôm, vào khoảng bốn giờ sáng, thức dậy. có giấc mơ nhưng sao nhớ lại được. Nhưng phải chuyện đó. ngồi giường, cố tìm hiểu xem điều gì lôi ra khỏi giấc ngủ. Cả ngôi nhà chìm trong im lặng lạ thường. Joseph hiểu ngay. đứng dậy, mặc chiếc quần dài, áo thun cổ lọ và áo khoác Barbour màu xanh lá. Sau đó rời phòng, ngang qua căn phòng đóng cửa của bà mẹ và tiếp. bước xuống cầu thang đồ sộ bằng cẩm thạch, và sau đó vài phút, ra bên ngoài. hết lối dài trong khuôn viên nhà cho đến cánh cổng phía tây, là nơi thường dành cho các nhà cung cấp và các gia nhân. Thế giới của giới hạn tại đây. Hồi còn , khám phá đến tận đây, cùng với Lara. Mặc dù hơn nhiều tuổi, Lara vẫn muốn xa hơn, minh chứng của lòng can đảm đáng ghen tỵ. Nhưng Joseph luôn khước từ. Lara bỏ từ gần năm nay. Sau khi đủ mạnh để vượt qua giới hạn này, em bặt tăm bặt tích. thấy nhớ Lara. Trong cái lạnh lẽo của buổi sáng tháng Mười này, Joseph đứng yên vài phút trước cánh cổng, rồi bắt đầu leo lên. Khi bàn chân tiếp đất phía bên kia cổng, cảm giác mới mẻ tràn qua người , cái rùng mình lan từ lồng ngực ra toàn bộ cơ thể . Lần đầu tiên biết đến niềm vui. bước dọc theo con đường trải nhựa. Hừng đông bắt đầu với vệt sáng yếu ớt nơi chân trời. Cảnh vật xung quanh giống hệt như trong khuôn viên nhà, tới mức trong thoáng tự hỏi liệu mình ra khỏi đó hay chưa, và phải chăng cái cổng kia chỉ là cái cớ, vì toàn bộ thế giới khởi đầu và chấm dứt tại đó, mỗi khi vượt qua giới hạn lại quay về điểm xuất phát, hề thay đổi, và tiếp tục như thế cho đến vô cùng. chuỗi vô hạn những vũ trụ song song giống hệt nhau. Sớm muộn gì cũng trông thấy ngôi nhà của mình mọc lên đường, và biết chắc tất cả chuyện này chỉ là ảo tưởng. Nhưng điều đó xảy ra. Càng xa, càng nhận ra mình có thể làm được. có bóng người nào ở chung quanh . chiếc xe hơi, hay ngôi nhà nào. Tiếng bước chân lớp nhựa đường là dấu hiệu duy nhất của con người giữa tiếng chim hót chào ngày mới. có cơn gió nào lay động đám cây cối giương mắt nhìn như kẻ lạ mặt. cảm thấy như muốn chào chúng. Bầu khí rất sinh động và mang hương vị của sương giá, lá khô cùng cỏ xanh. Lúc này mặt trời hé rạng. Nó trượt qua thảm cỏ, trải mỏng và loang ra như biển dầu. Joseph mình bao nhiêu cây số. chẳng có mục đích nào, nhưng như thế mới hay: cóc cần. Acid lactic rần rật chảy qua các bắp thịt ở chân . ngờ cơn đau nhức lại có thể dễ chịu như thế. có năng lượng trong người và khí để thở. Hai yếu tố đó quyết định mọi thứ còn lại. Lần đầu tiên trong đời muốn suy nghĩ gì hết. Cho đến ngày hôm nay, đầu óc của vẫn luôn thắng thế và tìm ra những nỗi sợ hãi khác nhau để ngăn cản . Và ngay cả khi cái biết còn nằm phục đâu đó quanh đây, chút thời gian ngắn ngủi này cũng đủ để hiểu được rằng, ngoài nguy hiểm, nó có thể che giấu thứ gì đó quý giá. Như là kinh ngạc, hoặc thán phục. Đó chính là điều cảm nhận được khi nghe thấy tiếng động mới mẻ. Nó rất và xa xôi, nhưng tiến lại gần từ phía sau . nhận ra thanh của chiếc xe hơi. quay người và trông thấy mui xe lộ ra sau quả đồi . Tiếp đó, chiếc xe thụp xuống dốc, rồi trồi lên trở lại. Đó là chiếc break cũ màu be. Nó tiến lại gần . Kính chắn gió cáu bẩn cho phép quan sát người ngồi trong xe. Joseph quyết định phớt lờ chiếc xe và bước tiếp. Khi chiếc xe đến gần, có vẻ như nó chạy chậm lại. - Ê! ngập ngừng muốn quay đầu lại. Biết đâu ai đó đến để chấm dứt chuyến phiêu lưu của . Phải rồi. Mẹ thức giấc và gào thét tên . tìm thấy giường, bà sai đám gia nhân truy tìm cả bên trong lẫn bên ngoài khuôn viên nhà. Có thể người đàn ông vừa gọi là trong số các thợ làm vườn. Ông ta dong xe tìm , hau háu trước món tiền thưởng. - Ê, em giai, đâu đấy? Có muốn nhờ xe ? Câu hỏi làm yên tâm. Đây thể là người trong nhà. Chiếc xe giảm tốc độ. Joseph thể nhìn thấy người cầm lái. ngừng bước. Chiếc xe hơi cũng dừng lại. - Tôi lên phía bắc. - Người lái xe . - Tôi có thể cho cậu nhờ đoạn. Chỉ vài cây số thôi, nhưng cậu có nhiều cơ may trong khu vực này đâu. thể xác định được tuổi của ta. ta có lẽ tầm bốn mươi, hoặc ít hơn. ta có bộ râu màu hung dài và xồm xoàm. Tóc ta cũng dài, chải lật ra sau và rẽ ngôi giữa. ta có đôi mắt xám. - Thế cậu định thế nào? Lên xe chứ? Joseph suy nghĩ lúc rồi đáp: - Vâng, cám ơn . ngồi vào ghế bên cạnh người lạ mặt và chiếc xe liền lăn bánh. Ghế ngồi được bọc nhung nâu, đôi chỗ bị sờn để lộ lớp vải bên dưới. Trong xe có mùi kỳ quặc, hỗn hợp của những túi thơm khử mùi tiếp nối nhau qua năm tháng nơi chiếc gương chiếu hậu. Ghế sau được gập xuống để chừa chỗ cho các thùng giấy, túi xách, đủ thể loại dụng cụ và can nhựa. Tất cả được sắp xếp rất gọn gàng. Bảng đồng hồ bằng nhựa sẫm màu có mấy vết băng dính cũ. Máy nghe nhạc cổ lỗ sĩ dùng băng cátxét phát nhạc đồng quê. Người lái xe bật nhạc to lên sau khi vặn thanh để bắt chuyện với lúc nãy. - Cậu cuốc bộ lâu chưa? Joseph tránh nhìn ta, vì sợ bị phát mình sắp dối. - Lâu rồi ạ, từ hôm qua. - Sao cậu vẫy xe nhờ? - Có chứ. Em được tài xế xe tải cho nhờ, nhưng rồi ta rẽ sang hướng khác. - Thế, cậu định đâu? bị bất ngờ trước câu hỏi, và luôn. - Em biết nữa. Người đàn ông bật cười. - Nếu biết tại sao cậu ngồi lại xe tải? Joseph quay sang nhìn người lái xe, tỏ vẻ nghiêm túc. - Tại ông ta hỏi quá nhiều. Người đàn ông cười phá lên. - Chúa ơi, tôi thích cái kiểu bí hiểm của cậu rồi đấy, cậu em ạ. Chiếc áo gió đỏ của người lái xe có tay rất ngắn. ta mặc chiếc quần tây màu nâu nhạt, chiếc áo len chui đầu có các môtíp trang trí hình thoi và đôi giày công nhân có đế cao su được gia cố. ta cầm lái bằng hai tay. Cổ tay trái của ta đeo chiếc đồng hồ rẻ tiền. - Này, tôi biết cậu định thế nào, tôi cũng muốn ép cậu ra, nhưng nếu cậu muốn , nhà tôi ở gần đây, cậu có thể ghé vào ăn sáng. Cậu thấy thế nào? Joseph định từ chối. quá khinh suất khi đồng ý trèo lên xe, bây giờ theo ta đến chỗ nào đó để bị trấn lột hoặc tệ hơn. Nhưng rồi nhận ra đó chỉ là nỗi sợ hãi khác trong vô số sợ hãi của mình. Tương lai chỉ bí , chứ đe dọa. vừa mới phát ra điều đó trong buổi sáng sớm này. Và để thưởng thức thành quả của nó phải đánh liều thôi. - Được ạ. - Trứng, thịt muối và cà phê đấy nhá. - Người lạ mặt hứa hẹn. Hai mươi phút sau, hai người rời con đường lớn để rẽ vào con đường đất. Họ chạy xe rất chậm qua các ổ gà ổ trâu trước khi đến ngôi nhà gỗ mái dốc. Màu sơn trắng bị hư hỏng nhiều chỗ. Cánh cửa ở trong tình trạng thảm hại và các khe ván bị cỏ dại mọc lung tung. Họ đậu xe cạnh nhà. Tay này là ai mới được? Joseph tự hỏi trong khi quan sát nơi ở của người lạ mặt, nhưng đối với lời đáp cho câu hỏi đó thú vị bằng việc được khám phá thế giới của ta. - Mời vào. - Người đàn ông khi cả hai băng qua ngưỡng cửa. Gian phòng đầu tiên có kích thước trung bình. Đồ đạc chỉ có cái bàn và ba chiếc ghế, tủ buýpphê thiếu vài ngăn và cái trường kỷ cũ mèm rách nát nhiều chỗ. bức tường có treo bức tranh phong cảnh vớ vẩn thiếu khung. Bên cạnh ô cửa sổ độc nhất là lò sưởi bằng đá nhem nhuốc bồ hóng với các súc củi đen nhẻm lạnh tanh. khúc cây thế chỗ cho ghế đẩu có chồng xoong chảo dính đầy mỡ cháy. Ở cuối phòng là hai cánh cửa đóng kín. - Tôi xin lỗi, ở đây có nhà vệ sinh. Nhưng ngoài kia cây cối đấy. - Người lạ vừa vừa cười. Điện nước cũng có, nhưng tay chủ nhà dỡ từ xe xuống mấy chiếc can mà Joseph trông thấy trước đó. Nhờ vài tờ báo cũ và mớ củi nhặt được bên ngoài, ta châm lửa trong lò. Sau khi đánh sạch hết mức cái chảo, ra thắng bơ rồi bắt đầu chiên trứng cùng với thịt muối. Chỗ thức ăn tầm thường đó tỏa ra thứ mùi ngon lành. Joseph bối rối quan sát người đàn ông và đặt cho ta hàng đống câu hỏi, hệt như những đứa trẻ thắc mắc với người lớn khi chúng đến tuổi tò mò tìm hiểu thế giới. Nhưng người lạ mặt có vẻ bực bội, mà ngược lại, ta thích trò chuyện. - ở đây từ bao lâu rồi? - Từ hơn tháng nay, nhưng căn nhà này phải của tôi. - vậy là sao? - Nhà thực của tôi ở ngoài kia. - ta vừa vừa chỉ vào chiếc xe hơi đậu bên ngoài. - Tôi thích chu du thiên hạ. - Vậy sao dừng lại? - Vì tôi thích nơi này. ngày nọ, tôi đường trông thấy lối mòn này. Tôi rẽ vào và đến đây. Căn nhà bị bỏ hoang từ bao lâu biết nữa. Có lẽ nó là của đám nông dân vì đằng sau nhà có cái chòi cất dụng cụ. - Chuyện gì xảy ra với bọn họ? - Tôi biết. ràng là họ hành động giống như nhiều người khác: khi khủng hoảng gia tăng, họ bỏ tìm cuộc sống tốt đẹp hơn thành phố. Trong vùng này có ít trang trại bỏ hoang đâu. - Tại sao bọn họ tìm cách bán đất? - Ai mà mua chỗ như thế này? - Người đàn ông mỉm cười đáp. - Chỗ đất này chẳng đáng giá xu, em ạ. ta ngừng nấu nướng và trút thức ăn từ chảo vào thẳng hai cái đĩa đặt bàn. chần chừ, Joseph cắm ngay nĩa vào chỗ thức ăn màu vàng ươm. rất đói. Thức ăn ngon tuyệt. - Cậu thích chứ, hả? Cứ từ từ, muốn ăn bao nhiêu cũng được. ăn ngấu nghiến. Rồi khi trong mồm vẫn đầy thức ăn, hỏi: - ở lại đây lâu chứ? - Tôi định cuối tuần này : mùa đông vùng này khắc nghiệt lắm. Tôi tích trữ lương thực và quanh các nông trại bỏ hoang với hy vọng nhặt nhạnh được mấy món đồ vẫn còn dùng được. Sáng nay tôi tìm thấy cái máy nướng bánh. Chắc nó hỏng rồi, nhưng tôi có thể sửa lại. Joseph ghi nhận lại mọi thứ, tuồng như muốn làm cuốn cẩm nang tổng hợp: từ làm thế nào chuẩn bị bữa sáng ngon lành chỉ với trứng, bơ và thịt muối, cho đến làm sao tìm được nước uống. nghĩ có lẽ nó có ích cho mình trong cuộc đời mới sau này. Cuộc sống của người lạ mặt khiến háo hức. Mặc dù khắc nghiệt và khó khăn, nó vẫn làm hài lòng hơn hẳn so với những gì sống cho đến tại. - Cậu có biết chúng ta vẫn chưa giới thiệu tên cho nhau ? Joseph khựng lại, cái nĩa lơ lửng trong khí. - Nếu cậu muốn cho tôi biết tên, cũng chẳng sao. Dù sao cậu cũng rất dễ mến. Joseph tiếp tục ăn. Người lạ nài ép, nhưng cảm thấy cần phải bù đắp cho ta bằng cách này hay cách khác, vì ta quá hiếu khách. quyết định tự mình tiết lộ điều gì đó. - Em chết vào năm năm mươi tuổi, đó là điều gần như chắc chắn. Sau đó giải thích lời nguyền đè nặng lên những người đàn ông trong gia đình mình. Người lạ mặt lắng nghe chăm chú. Tuy để lộ tên tuổi, Joseph với ta giàu có và kể lại nguồn gốc tài sản của mình. nhắc đến người ông nội táo bạo và có tầm nhìn xa, người gieo mầm cho gia sản khổng lồ, rồi cha , người biết cách làm cho di sản đó nhân lên nhiều lần nhờ năng khiếu kinh doanh. Cuối cùng về mình, về việc còn mục tiêu gì, bởi tất cả đều đạt được. ra đời chỉ để truyền lại hai thứ: gia tài đáng kể và cái gen chết người. - Tôi hiểu căn bệnh giết chết cha và ông nội cậu là thể tránh khỏi, nhưng với tiền bạc ta luôn có giải pháp: tại sao cậu từ bỏ giàu có của mình nếu như cậu cảm thấy đủ tự do? - Bởi vì em lớn lên cùng với nó và em biết cách tồn tại mà có tiền, dù chỉ là ngày. Như thấy đấy, dù lựa chọn thế nào rốt cuộc em cũng chết cả thôi. - Tào lao! - Người lạ mặt rồi đứng dậy rửa bát. Joseph cố thử giải thích hơn cho ta: - Em có thể có được mọi thứ mình muốn. Nhưng cũng chính vì thế mà em còn biết ham muốn là gì nữa. - Vớ vẩn! Tiền mua được tất cả. - Ngược lại, nó mua được đấy. cứ tin em . Nếu em muốn chết, em có thể trả tiền cho người khác để bọn họ giết mà ai hay biết. - Cậu từng làm thế rồi hả? - Người lạ hỏi, đột ngột trở nên nghiêm trọng. - Làm gì cơ? - Cậu từng trả tiền cho ai đó để họ giết người thay mình hả? - Em chưa, nhưng bố và ông em có đấy. Em biết mà. Im lặng bao trùm. - Nhưng còn sức khỏe, cậu thể mua được nó. - Phải. Nhưng khi biết trước mình chết, vấn đề trở nên nhàng. thấy : những người giàu có cảm thấy bất hạnh vì họ biết rằng sớm muộn gì họ cũng phải từ bỏ những gì mình sở hữu. Nào có ai mang được của cải xuống mồ đâu. Còn em ngược lại, em cần phải mất thời gian nghĩ đến cái chết của mình, nó được thu xếp hộ em rồi. Người lạ mặt dừng lại suy nghĩ. - Cậu cũng phải. Nhưng ham muốn gì hết buồn chết. Chắc chắn phải có gì đó thực làm cậu thỏa mãn chứ? Vậy ta hãy bắt đầu từ đó. - Ờ ... em thích bộ. Từ sáng nay, em cũng thích ăn trứng với thịt muối. Và em thích bọn con trai. - Cậu muốn là cậu... - Em biết, đấy. Em với chúng, nhưng thể là ham muốn. - Vậy tại sao cậu thử với phụ nữ? - Chắc có lẽ em phải thử. Nhưng trước hết em cần phải ham muốn điều đó, hiểu ? Em biết phải giải thích thế nào. - Tôi hiểu mà. Tôi thấy cậu giải thích rất ràng rồi đó. ta gác cái chảo cùng với những thứ khác lên chiếc ghế đẩu, rồi nhìn đồng hồ đeo tay. - mười giờ rồi. Tôi phải vào thị trấn. Tôi cần các món phụ tùng để sửa cái máy nướng bánh. - Vậy em cũng đây. - , sao phải thế? Cậu cứ ở đây và nghỉ ngơi chút đỉnh, nếu muốn. Tôi về sớm, nên ta có thể cùng ăn và tán gẫu thêm chút. Cậu rất dễ thương, cậu biết ? Joseph quan sát cái trường kỷ cũ rách. Trông nó đầy vẻ mời gọi. - Thôi được. - . - Em ngủ chút, nếu phiền. Người đàn ông bật cười: - Tuyệt! Rồi ta thêm khi chuẩn bị ra khỏi cửa: - Mà này, cậu muốn thứ gì cho bữa tối? - Em biết. - Joseph nhìn ta. - Làm em ngạc nhiên . bàn tay nhàng lay . Joseph mở mắt và nhận ra trời tối. - Mệt quên đời, hả! - Người bạn mới vừa cười vừa với . - Cậu ngủ suốt chín tiếng đồng hồ đấy. Joseph ngồi dậy duỗi người. lâu rồi cảm thấy thư giãn như thế. Dạ dày kêu réo. - đến giờ ăn tối rồi ạ? - hỏi. - Tôi bắt đầu làm bữa tối: đùi gà nướng than dùng với khoai tây. Cậu thấy thực đơn ổn chứ? - Tuyệt hảo. Em chết đói đến nơi rồi đây. - Trong khi chờ đợi, cậu lấy bia mà uống. Ở bậu cửa sổ ấy. Joseph chưa bao giờ uống bia, ngoại trừ chỗ bia mà mẹ bỏ vào trong món punch Giáng sinh. lấy lon từ trong lốc sáu và mở nắp, rồi kề môi vào gờ nhôm của nó tu hơi dài. Món đồ uống lành lạnh nhanh chóng chạy xuống thực quản . Cảm giác dễ chịu và mát mẻ. Sau khi làm hơi thứ hai, ợ cái. - Chúc sức khỏe! - Người đàn ông hô to. Bên ngoài trời khá lạnh, nhưng ở trong nhà ngọn lửa tỏa ra hơi ấm dễ chịu. Ánh sáng từ cây đèn bão đặt bàn nhè chiếu lên căn phòng. - Ông già bán đồ đồng nát bảo là cái máy nướng bánh có thể sửa được. Ông ta thậm chí còn chỉ cho tôi vài chỗ. Càng tốt, tôi có thể sửa rồi bán lại nó ngoài chợ. - Vậy ra sống bằng nghề này? - Ừ, thỉnh thoảng cũng nhờ đến nó. Người ta vứt khối thứ còn dùng được. Tôi nhặt chúng, sửa chữa rồi bán kiếm tiền. Tôi cũng giữ lại vài món, chẳng hạn như bức tranh này... ta giơ tay chỉ bức tranh phong cảnh có khung treo tường. - Tại sao là bức tranh này? - Joseph hỏi. - Tôi biết, tôi thích nó. Tôi nghĩ nó nhắc tôi nhớ đến nơi tôi sinh ra, hoặc có thể là nơi tôi chưa từng đến, ai có thể dám khẳng định là mình hết... - nhiều đến thế kia à? - Ừ, nhiều lắm. - đoạn ta trầm ngâm suy nghĩ, trước khi tiếp lời. - Món gà của tôi rất đặc biệt. Rồi cậu thấy. À mà này, tôi có bất ngờ dành cho cậu. - Bất ngờ á? Bất ngờ nào? - phải bây giờ. Để sau bữa tối cái . Hai người ngồi vào bàn. Món gà và khoai tây được nêm nếm rất vừa miệng. Joseph lấy thức ăn hết lần này đến lần khác. Người đàn ông - từ bây giờ đó là cách Joseph gọi ta trong đầu - ăn ngậm miệng và uống ba lon bia. Sau bữa tối ta rút cái tẩu đẽo bằng tay và gói thuốc lá ra. Trong khi nhồi tẩu, ta : - Cậu biết , tôi nghĩ rất nhiều đến điều cậu ban sáng. - Điều gì cơ? - Những gì cậu về “ham muốn” ấy. Nó làm tôi rất ấn tượng. - ạ? Tại sao? - Cậu biết đấy, tôi tôi nghĩ việc biết chính xác thời điểm chết của mình là điều tồi tệ. Ngược lại tôi thấy đó là đặc quyền. - Sao có thể như vậy được? - Dĩ nhiên, nó tùy thuộc vào cách cậu nhìn nhận việc. Cái ly vơi nửa hay đầy nửa. Tóm lại: cậu có thể làm bảng liệt kê những thứ mình thiếu. Hoặc cậu có thể ấn định phần còn lại của đời mình theo hạn định đó. - Em chưa hiểu. - Tôi cho rằng việc biết mình phải chết lúc năm mươi tuổi khiến cậu nghĩ cậu có chút quyền lực nào cuộc đời của bản thân. Nhưng đó chính là chỗ cậu nhầm đấy, bạn ạ. - định nghĩa chữ “quyền lực” thế nào? Người đàn ông lấy nhánh củi trong lò và châm tẩu. ta rít hơi dài trước khi trả lời: - Quyền lực và ham muốn luôn với nhau. Chúng được hình thành từ cùng chất liệu đáng nguyền rủa. Cái sau phụ thuộc vào cái trước, và ngược lại. Đó phải là thứ triết lý vớ vẩn đâu, mà chính là thiên nhiên định đoạt như vậy. Sáng nay cậu rất đúng: chúng ta chỉ có thể ham muốn thứ mà chúng ta có được. Cậu nghĩ cậu có đủ quyền lực để có mọi thứ nên cậu chẳng ham muốn gì nữa. Nhưng điều đó là do quyền lực của cậu bắt nguồn từ tiền bạc. - Vậy còn có những dạng quyền lực khác sao? - Dĩ nhiên, quyền lực của ý chí chẳng hạn. Để hiểu được cần phải đặt nó vào trong thử thách. Nhưng tôi sợ cậu muốn làm điều đó... - Sao lại như thế? Em có thể làm được. Người đàn ông quan sát . - Cậu chắc chứ? - Chắc. - Tốt. Trước khi dùng bữa tối, tôi là có bất ngờ dành cho cậu. Thời điểm tiết lộ nó đến. Cậu với tôi. ta đứng dậy và tiến đến trong số những cánh cửa khép kín ở cuối phòng. Joseph loạng choạng theo. - Nhìn này. bước qua ngưỡng cửa vào trong bóng tối và nghe thấy thứ gì đó trong phòng thở gấp. nghĩ ngay đến con thú và lùi lại. - Can đảm lên. - Người đàn ông . - Nhìn cho kỹ vào. Joseph mất vài giây để quen với bóng tối. Ánh sáng yếu ớt từ ngọn đèn bão ở bàn chỉ vừa đủ rọi sáng khuôn mặt của thằng bé. Nó nằm giường, tay và chân bị trói vào thành giường bằng những sợi thừng to. Nó mặc cái áo sơmi kẻ ô và quần jean, chân trần. cái khăn tay buộc ngang miệng làm cho nó được, nên chỉ phát ra những thanh khó hiểu giống như tiếng kêu của động vật. Chỗ tóc trán nó ướt đẫm mồ hôi. Thằng bé vùng vẫy như con thú bị nhốt, mắt nó mở to đầy sợ hãi. - Ai đây? - Joseph hỏi. - món quà tặng cậu. - Em phải làm gì với nó đây? - Bất cứ điều gì cậu muốn. - Nhưng em biết nó là ai. - Tôi cũng thế. Nó bắt xe quá giang, tôi cho nó lên xe trong khi quay về đây. - Ta nên cởi trói và tha cho nó. - Nếu đó là điều cậu muốn. - Tại sao em phải muốn chuyện gì khác kia chứ? - Bởi vì đây là minh chứng cho cái gọi là quyền lực, và việc nó liên quan như thế nào với ham muốn. Nếu cậu muốn thả tự do cho thằng nhóc cứ việc. Nhưng nếu cậu muốn điều gì khác từ nó, cậu có toàn quyền lựa chọn. - Ý là chuyện tình dục, đúng ? Người đàn ông lắc đầu ra vẻ thất vọng. - Tầm nhìn của cậu hạn hẹp quá. Cậu nắm trong tay sinh mạng người, tạo vật vĩ đại và đáng kinh ngạc nhất của Chúa trời, vậy mà điều duy nhất cậu nghĩ đến là chuyện ấy... - Em phải làm gì với mạng người trong tay? - Hôm nay cậu chẳng rồi đấy thôi: nếu cậu muốn giết ai đó, cậu chỉ cần trả tiền cho người khác để ra tay hộ mình. Nhưng cậu thực tin là việc đó đem lại cho cậu quyền cướp sinh mạng của người khác à? Tiền của cậu có cái quyền đó, chứ nào phải cậu. Chừng nào cậu còn chưa tự mình làm chuyện đó, cậu còn chưa biết được nó có ý nghĩa như thế nào. Joseph lại nhìn thằng bé hoảng hốt thấy . - Nhưng em muốn biết. - . - Tại vì cậu sợ. Sợ hậu quả, sợ bị trừng phạt hoặc sợ cảm thấy có tội. - Có sợ những chuyện đó cũng bình thường thôi mà. - , phải vậy, Joseph à. thậm chí nhận ra người đàn ông vừa gọi tên mình: còn mải lia mắt nhìn từ ta sang thằng nhóc. - Vậy nếu như tôi bảo cậu có thể làm việc đó, việc tước sinh mạng của người mà ai hay biết sao? - à? Vậy còn ? - Tôi là người bắt cóc thằng bé và mang nó về đây, cậu quên rồi sao? Ngoài ra tôi cũng là người chôn cái xác. Joseph cụp mắt xuống. - có ai biết việc này chứ? - Nếu tôi bảo là cậu bị trừng phạt, liệu như thế có khơi lên ham muốn thử làm chuyện đó trong cậu ? Joseph nhìn hai bàn tay mình lúc lâu, nhịp thở của tăng dần trong lúc thấy khoái cảm trong mình dâng lên, điều hoàn toàn mới mẻ đối với . - Em muốn con dao. - . Người đàn ông vào trong bếp. Trong lúc chờ đợi, Joseph nhìn thằng nhóc khóc lóc van xin mình qua ánh mắt. nhận ra mình vô cảm trước những giọt nước mắt câm lặng kia. chẳng có ai khóc thương cho cái chết của khi căn bệnh của cha và ông nội mang vào năm năm mươi tuổi. Đối với mọi người, vẫn luôn giàu có và cần thương xót dưới bất kỳ hình thức nào. Người đàn ông quay lại với con dao sắc. ta đặt con dao vào trong tay . - có gì vui sướng cho bằng việc tước mạng sống. - ta với . - phải của người đặc biệt như kẻ thù hoặc người hại cậu. Mà là của người bất kỳ. Điều đó cho cậu quyền lực như Chúa trời. ta để mặc ở đó và bước ra ngoài, khép cửa phòng lại sau lưng. Ánh trăng sượt qua những khe cửa chớp hỏng, làm con dao trong tay sáng loáng. Thằng nhóc cựa quậy, và Joseph cảm thấy lo lắng, nỗi sợ hãi của nó thông qua cả tiếng động phát ra lẫn mùi cơ thể của nó. Hơi thở chua nồng, mồ hôi dưới nách nó. tiến lại gần giường, chậm rãi, để mặc ván sàn kêu cọt kẹt dưới chân, nhằm làm cho thằng nhóc ý thức được điều diễn ra. chạm lưỡi dao vào ngực nó. Liệu có phải gì đây? Trong đầu trống rỗng. cơn rùng mình chạy qua cơ thể và điều ngờ tới xảy ra: cương lên. nhấc con dao lên vài centimet, rồi chầm chậm rê nó dọc theo thân người xuống đến bụng thằng nhóc, và dừng lại. hít hơi rồi chầm chậm ấn đầu nhọn của con dao qua lớp vải áo sơmi, cho đến khi nó chạm vào da thịt. Thằng nhóc cố hét lên, nhưng những gì phát ra chỉ là mô phỏng khốn khổ của tiếng thét đau đớn. Joseph ấn con dao thêm vài centimet, lớp da toạc ra như thể bị xé rách. nhận ra màu trắng của lớp mỡ. Nhưng vết thương chưa chảy máu. Vậy nên ấn dao mạnh hơn, cho đến khi cảm thấy máu ấm tay mình và mùi hăng từ trong ruột xộc lên. Thằng nhóc ưỡn người, vô tình làm cho công việc của thuận lợi hơn. ấn nữa, cho đến khi cảm thấy lưỡi dao chạm vào xương sống. Thằng nhóc giờ chỉ còn là mớ cơ và xương căng cứng dưới tay . Nó giữ nguyên tư thế ưỡn người trong vài giây. Rồi nó nặng nề rơi trở xuống giường, như đồ vật vô tri. Và đúng lúc đó, chuông báo động... ... bắt đầu kêu toáng lên. Bác sĩ và y tá chạy bổ đến bên cạnh người bệnh cùng với thiết bị cấp cứu đặt xe đẩy. Bà Nicla cúi gập người, cố lấy lại hơi thở: cú sốc từ những gì trông thấy lôi bà ra khỏi trạng thái lên đồng. Mila đặt tay lên lưng Nicla, cố giúp bà thở. Bằng động tác dứt khoát, bác sĩ mở phanh áo ngủ của Joseph B. Rockford ngay chỗ lồng ngực, làm các cúc áo bay tung tóe sàn. Boris suýt nữa ngã nhào khi lao đến giúp Mila. Tay bác sĩ đặt hai tấm điện cực mà y tá vừa đưa lên ngực bệnh nhân, rồi hét lớn: “1... 2... 3!” trước mỗi lần sốc điện. Goran tiến lại gần Mila. - Chúng ta đưa bà ấy ra khỏi đây thôi. - Ông trong lúc giúp đỡ bà tu sĩ dậy. Trong khi họ cùng Rosa và Stern rời khỏi phòng, Mila quay lại nhìn lần cuối Joseph B. Rockford. Toàn thân rung chuyển theo từng hồi sốc điện, nhưng bên dưới tấm chăn, nhận thấy hình như cương cứng. Đồ khốn nạn, nghĩ bụng. Tiếng bíp của máy theo dõi nhịp tim kéo thành hồi dài liên tục. Đúng vào lúc đó, Joseph B. Rockford mở mắt. Đôi môi mấp máy nhưng thốt ra tiếng. Các dây thanh quản của bị tổn hại khi bị người ta mở khí quản để giúp thở dễ hơn. chết. Mớ thiết bị xung quanh cho biết chỉ còn là đống thịt vô hồn hơn. Thế nhưng vẫn cố . Tiếng lào phào của nghe giống như người chết đuối cố gắng hít khí lần cuối. Việc đó kéo dài. Rốt cuộc, bàn tay vô hình lại lôi , và linh hồn của Joseph B. Rockford như bị chiếc giường nuốt chửng, bỏ lại thân xác trống rỗng.
32 Khi hoàn hồn trở lại, Nicla tự nguyện hợp tác với trong những nhân viên phác họa của cảnh sát liên bang để vẽ hình ảnh nhận dạng của người đàn ông mà bà thấy cùng với Joseph. Người lạ mặt mà gọi là “người đàn ông”, kẻ mà họ cho là Albert. Hàm râu dài và mái tóc bù xù cho phép bà miêu tả các đường nét của gương mặt cách chính xác. Bà biết cung hàm của gã như thế nào, chiếc mũi chỉ là cái bóng lờ mờ. Hình dạng chính xác của đôi mắt cũng nằm ngoài nắm bắt của bà. Bà chỉ có thể cách chắc chắn rằng chúng có màu xám. Dẫu vậy kết quả cũng được phân phát cho tất cả các đơn vị cảnh sát, các bến cảng, sân bay và cửa khẩu. Roche nghĩ đến khả năng cung cấp bản sao cho báo giới, việc đòi hỏi phải giải thích cách thức họ làm để có được hình ảnh nhận dạng. Nếu họ tiết lộ chuyện nhờ đến bà đồng, các phóng viên suy ra rằng cảnh sát chẳng có gì trong tay, phải mò mẫm và nhờ đến bà trong tình cảnh tuyệt vọng. - Đó là nguy cơ ta phải đối mặt. - Goran . Ngài chánh thanh tra quay lại cùng nhóm điều tra ở nhà Rockford. Ông ta muốn gặp bà tu sĩ, vì ngay từ đầu thẳng là muốn dính dáng đến cuộc thử nghiệm: như mọi khi, tất cả trách nhiệm bị đổ lên đầu Goran. Nhà tội phạm học sẵn lòng chấp nhận điều đó vì ông tin ở linh cảm của Mila. - Cháu à, bà nghĩ ra chuyện. - Bà Nicla với Mila trong chiếc xe cắm trại di động của cảnh sát, trong khi quan sát Gavila và ngài chánh thanh tra thảo luận bãi cỏ phía trước ngôi nhà. - Chuyện gì vậy ạ? - Bà muốn món tiền thưởng. - Nhưng nếu đó là người mà bọn cháu tìm, bà có quyền hưởng số tiền đó. - Bà muốn có nó. - Bà hãy nghĩ đến những gì có thể làm được cho những người mà bà chăm sóc hàng ngày. - Họ còn cần thứ gì nữa chứ? Họ có thương, chăm sóc của bọn bà, cháu tin bà , khi sinh vật của Chúa trời đến điểm kết thúc của tồn tại, sinh vật đó cần gì thêm đâu. - Nếu bà nhận khoản tiền đó theo cháu nghĩ, điều tốt đẹp có thể nảy sinh từ tất cả chuyện này... - Cái ác chỉ sản sinh ra cái ác. Đó luôn là đặc trưng của nó. - Có người với cháu là cái ác luôn có thể được chứng tỏ. Còn điều thiện bao giờ. Bởi cái ác để lại dấu vết những gì nó qua. Còn điều thiện, ta chỉ có thể chứng kiến thôi. Rốt cuộc bà Nicla cũng mỉm cười. - Vớ vẩn. - Bà . - Cháu biết , thực ra là cái thiện rất chóng qua nên thể ghi nhận lại được. Và nó để lại rác rưởi gì sau khi qua. Cái thiện rất sạch , cái ác dơ bẩn... Nhưng bà có thể chứng tỏ là cái thiện tồn tại, vì bà nhìn thấy nó mỗi ngày. Khi trong số những con người nghèo khổ của bà gần đất xa trời, bà cố dành nhiều thời gian với họ hết sức có thể. Bà cầm tay người đó, lắng nghe người ta chuyện, nếu có thú nhận điều gì phải bà cũng phán xét. Khi họ hiểu điều sắp xảy ra với mình, nếu họ sống tốt và làm gì sai trái, hoặc từng làm nhưng sửa chữa... họ vẫn luôn mỉm cười. Bà biết tại sao, nhưng nó là như thế, bảo đảm với cháu đấy. Bằng chứng của cái thiện là nụ cười cùng họ khi đối diện với cái chết. Mila yên tâm gật đầu. muốn cố ép bà Nicla nhận món tiền thưởng. Biết đâu bà đúng. năm giờ chiều, bà tu sĩ khá mệt mỏi, nhưng vẫn còn việc phải làm. - Bà có chắc là nhận ra được cái lán bỏ hoang đó ? - hỏi. - Có, bà biết nó nằm ở đâu. Họ chỉ cần làm cuộc kiểm tra đơn giản trước khi quay lại studio là có thể xác nhận thông tin do bà Nicla cung cấp. Nhưng dù thế cả nhóm vẫn lên đường. Trong xe, Sarah Rosa làm theo các chỉ dẫn của bà Nicla. Dự báo thời tiết cho biết vẫn còn nhiều trận tuyết rơi mới. mặt, trời quang mây và mặt trời lặn nhanh chóng. Nhưng mặt khác, các đám mây tích tụ ở chân trời và nhiều ánh chớp đầu tiên đến gần. Họ ở ngay chính giữa nó. - Ta phải nhanh chóng hơn. - Stern giục. Trời sắp tối rồi. Khi đến lối rẽ, họ rời con đường chính. Những viên sỏi kêu lạo xạo dưới bánh xe. Sau chừng ấy năm tháng, cái lán gỗ vẫn còn nằm đó. Lớp sơn trắng bong tróc hoàn toàn và chỉ còn sót lại ở đôi chỗ. Những miếng ván bị phơi bày dưới mưa nắng thối mục, khiến cho cái lán nom như chiếc răng sâu. Họ xuống xe và tiến đến cửa. - Coi chừng, nó có thể sập đấy. - Boris cảnh báo. Goran bước lên bậc thềm đầu tiên. Địa điểm rất trùng khớp với các mô tả của bà tu sĩ. Phía bên trong, sàn nhà bị phủ bởi lớp đất và họ có thể nghe thấy lũ chuột bị đánh động chạy nhốn nháo bên dưới. Gavila nhận ra cái trường kỷ, dù nó chỉ còn là đống những lò xo han gỉ. Chiếc tủ buýpphê vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lò sưởi bằng đá sụp phân. Ông lấy từ trong túi ra chiếc đèn pin để xem xét hai căn phòng phía sau. Trong lúc đó, Boris và Stern cũng bước vào và xem xét căn nhà. Goran mở cánh cửa đầu tiên. - Đây là phòng ngủ. Nhưng chiếc giường biến mất. diện của nó được đánh dấu bởi khu vực nhạt màu hơn sàn. Đây là nơi Joseph B. Rockford được nhập môn giết chóc. Chúa mới biết ai là thằng bé bị kết liễu trong căn phòng này hai mươi năm về trước. - Cần phải đào quanh chỗ này để tìm kiếm các phần còn sót lại của thi thể. - Gavila . - Tôi báo cho các thợ đào huyệt và đội của Chang ngay khi chúng ta tìm ra vị trí. - Stern . Trong lúc đó, ở phía bên ngoài của cái lán gỗ, Sarah Rosa bồn chồn rảo bước, hai tay đút trong túi áo cho đỡ lạnh. Bà Nicla và Mila ngồi trong xe quan sát ta. - Cháu thích chị ta. - Bà . - đúng hơn là chị ta thích cháu. - Cháu thử tìm hiểu lý do chưa? Mila nhìn xéo bà tu sĩ. - Bà định đây là lỗi của cháu đấy à? - , bà chỉ muốn trước khi buộc tội ai phải chắc chắn cái . - Chị ta ưa cháu ngay từ khi cháu mới đến. Bà Nicla giơ tay đầu hàng. - Thôi được, cháu đừng có cáu. Khi cháu ra mọi chuyện đâu lại vào đấy thôi. Mila lắc đầu. Đôi khi tốt bụng của bà Nicla đúng là chịu đựng nổi. Ở bên trong, Goran bước ra khỏi phòng ngủ và tiến đến cánh cửa đóng còn lại. Bà tu sĩ đề cập đến căn phòng thứ hai này. Ông chiếu đèn vào tay nắm rồi mở cửa. Nó rộng đúng bằng căn phòng bên cạnh, và trống rỗng. Hơi ẩm tấn công các bức tường, lớp mốc xuất ở trong các góc phòng. Goran quét đèn pin quan sát. Khi lia đèn qua trong các vách tường, ông nhận thấy có thứ gì đó phản chiếu lại ánh sáng. Ông dừng đèn pin tại điểm đó và trông thấy năm ô sáng, mỗi cái rộng chừng tấc. Ông bước lại gần và sững người. Được găm tường là các tấm ảnh. Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline. Trong các bức ảnh, các bé vẫn còn sống. Albert đưa bọn trẻ đến đây trước khi giết chúng, và gã chụp ảnh chúng trong căn phòng này, ngay trước bức tường. Đầu tóc các em bù xù, quần áo nhàu nát. ánh đèn flash lạnh lùng gây bất ngờ cho những đôi mắt đỏ hoe vì khóc. Khuôn mặt chúng đầy sợ hãi. Chúng cười và vẫy tay chào. Gã bắt bọn trẻ làm động tác kỳ cục đó trước ống kính máy ảnh. Niềm vui bị ép buộc bởi nỗi sợ hãi nom kinh khủng. Đôi môi của Debby méo xệch bởi hoan hỉ giả tạo. Có cảm tưởng như nó sắp sửa òa khóc bất cứ lúc nào. Anneke giơ tay lên, trong khi tay còn lại buông xuôi theo thân mình trong tư thế nhẫn nhục và quy phục. Sabine được chụp đúng vào khoảnh khắc bé nhìn quanh, cố hiểu điều mà trái tim non trẻ của con bé thể nắm bắt được. Melissa căng thẳng và chống đối. Nhưng ràng là con bé cũng nhanh chóng bị khuất phục. Caroline đứng bất động, đôi mắt mở to dù cười. nụ cười hoài nghi. Sau khi xem lại hết các tấm ảnh, Goran mới gọi những người khác. phi lý. thể hiểu nổi. Tàn nhẫn cách cần thiết. thể nhìn nhận việc theo cách khác được. ai dám phá vỡ yên lặng trong suốt chuyến trở về studio. Đêm nay dài. ai hy vọng ngủ được sau ngày như thế. Mila ngủ suốt bốn mươi tám giờ qua, quá nhiều việc liên tiếp diễn ra trong những giờ phút ấy. Vụ phát ra hình dáng của Albert tường căn biệt thự của bà Yvonne Gress. Cuộc chuyện của với Goran ở nhà ông tối qua, khi báo cho ông biết mình bị theo dõi, cũng như giả thiết của về việc thủ phạm có kẻ đồng lõa. Tiếp đến là thắc mắc về màu mắt của Sabine, dẫn đến việc phát ra lừa dối của thanh tra Roche. Chuyến viếng thăm dinh thự gia đình Rockford. Hố chôn tập thể. Lara Rockford. can thiệp của bà Nicla Papakidis. Vụ khám phá sâu trong đầu của tên giết người hàng loạt. Và sau cùng, những tấm ảnh. Mila từng thấy nhiều tấm ảnh trong quá trình công tác. Hình ảnh của những em , được chụp ngoài bãi biển, hoặc trong buổi liên hoan văn nghệ cuối năm học. Các bậc phụ huynh hoặc người thân cho xem chúng khi đến gặp họ. Những đứa trẻ mất tích để rồi tái xuất trong những tấm ảnh khác, thường là trong tình trạng trần truồng hoặc mặc quần áo của người lớn. Những tấm ảnh thuộc bộ sưu tập của bọn ấu dâm hoặc trong hồ sơ của nhà xác. Thế nhưng, năm tấm ảnh được tìm thấy tại căn nhà bỏ hoang, còn có điều gì đó rất khác lạ. Albert biết họ lần đến tận đấy. Gã đợi họ. Có khi nào gã tiên liệu được việc họ nhờ đến bà đồng để điều tra tên học trò Joseph của gã hay ? Gã quan sát chúng ta ngay từ đầu. Goran bình luận ngắn gọn như thế. Gã luôn trước chúng ta bước. Mila tin rằng mọi động thái của họ đều bị gã đoán trước và vô hiệu hóa. Giờ đây họ buộc phải cảnh giác phía sau lưng. Đó là gánh nặng đè lên các đồng đội ngồi cùng xe với đường quay về trụ sở. Và vẫn còn hai nạn nhân cần được phát . Nạn nhân đầu tiên chắc chắn chết. bé thứ hai sớm muộn rồi cũng như thế. ai có đủ can đảm thú nhận điều đó, nhưng họ tuyệt vọng trong nỗ lực ngăn chặn vụ giết hại bé số sáu. Về phần Caroline, ai có thể biết nỗi kinh hoàng nào được hé lộ. Biết đâu nó còn tồi tệ hơn những gì họ phát được cho đến thời điểm này? Nếu vậy Albert chuẩn bị cho kết thúc rất hoành tráng với nạn nhân số sáu. Khi Boris dừng xe phía dưới studio quá mười giờ tối. để mọi người xuống xe, đóng cửa xe lại, và chợt nhận ra họ đợi lên cùng. Họ muốn để mình. kinh hoàng mà mọi người đối mặt thắt chặt hơn tình đoàn kết của họ. Bởi tất cả những gì còn lại với họ là các đồng đội. Mila cũng nằm trong số đó, giống như Goran. Hai người bị gạt ra trong thời gian, nhưng điều đó kéo dài lâu, và nó chỉ xảy ra do toan tính kiểm soát mọi chuyện của Roche. Kể từ lúc này, khoảng cách bị xóa và sai lầm được tha thứ. Nhóm điều tra chậm rãi bước lên các bậc thang. Stern vòng tay ôm lấy vai Rosa. - Tối nay về nhà . - . Nhưng chỉ cương quyết lắc đầu. Mila hiểu: Rosa thể phá vỡ sợi xích liên kết này. Nếu ta làm vậy, cả thế giới sụp đổ, những rào chắn bảo vệ nó vỡ tung, để mặc cho ma quỷ tràn vào. Họ là thành lũy cuối cùng trong cuộc chiến này, cho dù thua họ vẫn hề có ý định bỏ cuộc. Họ cùng bước vào căn hộ. Boris nấn ná lại sau để đóng cánh cửa, trước khi quay lại và thấy mọi người chết sững trong hành lang như thể bị thôi miên. hiểu chuyện gì xảy ra, cho đến khi nhìn thấy qua vai các đồng đội cái xác nằm sàn. Sarah Rosa hét lên. Mila quay vội vì thể nhìn được nữa. Stern làm dấu thánh. Còn Gavila lặng thinh. Caroline, nạn nhân số năm. Lần này, thi thể của bé được dành sẵn cho họ. Nhà tù tối mật, quận xxxx Trại giam số 45 Báo cáo số 2 của giám đốc, Alphonse Bérenger Ngày 16 tháng 12 năm hành Kính gửi: Phó biện lý Matthew Sedris Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin Tiêu đề: Kết quả điều tra - Mật Thưa ông Sedris, Tôi xin thông báo với ông rằng việc khám xét buồng biệt giam của phạm nhân số hiệu RK-357/9 được thực cách bất ngờ tối hôm qua. Các quản giáo đột ngột ập vào phòng giam để thu thập các vật chất hữu cơ bị “rơi rớt ngẫu nhiên” hoặc “tự đối tượng bỏ lại”, nhằm mục đích xác định dấu vết di truyền của , theo thư khuyến nghị từ văn phòng ông. Người của tôi chứng kiến buồng giam “sạch bóng”, đến mức có cảm giác như tù nhân RK-357/9 đón lõng chúng tôi. Tôi cho rằng ta luôn ở trong trạng thái báo động thường trực và trù tính sẵn mọi động thái của chúng tôi. Tôi e rằng, nếu có sai sót nào của đối tượng hoặc thay đổi tình hình bất ngờ, rất khó để cuộc điều tra này có thể thu được kết quả. Có lẽ chúng ta chỉ còn khả năng duy nhất để phá vỡ bí mật. Chúng tôi nhận thấy nghi phạm RK-357/9 thỉnh thoảng chuyện mình, chắc chắn là do ảnh hưởng của việc bị biệt giam. Có vẻ chỉ lẩm bẩm linh tinh, nhưng dù sao, theo chúng tôi, và dưới chấp thuận của ông, nên chăng ta giấu chiếc micro trong phòng giam để thu lời của . Lẽ đương nhiên, chúng tôi từ bỏ việc thực lại những cuộc kiểm tra đột xuất nhằm thu được mẫu ADN của đối tượng này. Còn ghi nhận cuối cùng tôi phải báo với ông: đối tượng luôn bình thản và dễ tính. bao giờ phàn nàn, và cũng tỏ ra khó chịu trước những mưu toan khiến phạm sai lầm của chúng tôi. Thời gian còn nhiều. Sau 86 ngày nữa, ta còn lựa chọn nào khác ngoài việc trả lại tự do cho đối tượng. Xin trân trọng kính chào. Giám đốc Alphonse Bérenger 33 Căn hộ được biết đến với tên “studio” Và từ bây giờ được gọi là “ trường số năm” Ngày 22 tháng 2 Mọi thứ bao giờ trở lại như trước đây được nữa. Với bóng ma ám ảnh ấy, họ rút vào phòng ngủ tập thể trong khi chờ đội của Chang và Krepp đến tìm dấu vết trong căn hộ. Sau khi nhanh chóng được báo cáo, thanh tra Roche trao đổi với Goran từ gần tiếng đồng hồ nay. Stern nằm chiếc giường gấp, tay kê sau đầu, hai mắt nhìn đăm đăm lên trần nhà. Nom như gã cao bồi. Các nếp là thẳng thớm bộ comlê của hề hấn gì sau những giờ căng thẳng vừa qua, thậm chí cũng cảm thấy cần phải nới lỏng nút thắt càvạt. Boris nằm nghiêng, nhưng ràng là chàng ngủ. Chân trái của bồn chồn gõ nhịp tấm vải phủ giường. Rosa cố gọi điện thoại cho ai đó, nhưng bắt được sóng. Mila lần lượt quan sát đồng đội của mình, trước khi nhìn xuống màn hình máy tính xách tay đặt đầu gối. cầu gửi các tấm ảnh chụp trong buổi hội chợ mà Sabine bị bắt cóc. Chúng đều được xem xét, nhưng muốn quan sát lần nữa, dưới ánh sáng của giả thiết mà trình bày với Goran, trong đó kẻ bắt cóc nhiều khả năng là phụ nữ. - Tôi rất muốn biết làm thế quái nào gã mang được thi thể của Caroline đến tận đây... - Stern buột miệng thốt ra câu hỏi ám ảnh tất cả bọn họ. - Phải, tôi cũng muốn biết điều đó. - Rosa đồng tình. Tòa nhà gần như trống rỗng và các hệ thống an ninh bị tháo gỡ, nhưng lối duy nhất vào căn hộ là cánh cửa chính, và nó được bọc thép. - qua cửa chính. - Boris vỏn vẹn có thế sau khi thoát ra khỏi tình trạng uể oải giả tạo của mình. Nhưng có điều khiến họ tức tối hơn hẳn những thứ khác. Lần này thông điệp mà Albert muốn gửi đến là gì? Tại sao gã lại quyết định phủ bóng ma nặng nề đến thế lên vai những người truy lùng gã? - Theo tôi, gã chỉ muốn làm chúng ta chậm bước. - Rosa . - Chúng ta đến quá gần, nên gã xáo trộn các lá bài thêm lần nữa. - , Albert làm điều gì cách ngẫu nhiên. - Mila xen vào. - Gã dạy chúng ta rằng tất cả mọi điều gã làm đều có căn nguyên của nó. Sarah Rosa liếc xéo . - Vậy sao? Ý là thế nào? trong số chúng ta là con quỷ à? - Đó phải là điều ấy muốn . - Stern đáp. - Mila chỉ là nguyên do của chuyện này phải gắn liền với kế hoạch của Albert: nó là phần của trò chơi mà gã buộc chúng ta chơi cùng ngay từ khi bắt đầu… Nguyên nhân có thể gắn với chỗ này, với công năng của nó trong quá khứ. - Nó có thể liên quan tới vụ án cũ. - Mila thêm khi nhận thấy giả thiết đưa ra được hiểu đúng. Trước khi cuộc chuyện tiếp diễn Goran bước vào, khép cửa lại sau lưng. - Tôi cần tập trung chú ý của mọi người. Giọng điệu của ông có vẻ khẩn cấp. Mila rời mắt khỏi màn hình. Tất cả đều nhìn về phía nhà tội phạm học. - Theo lý thuyết, chúng ta vẫn còn phụ trách cuộc điều tra này, nhưng tình hình phức tạp lên. - Nghĩa là sao? - Boris thốt lên. - Các bạn hiểu ra sớm thôi, nhưng từ bây giờ tôi cầu mọi người giữ bình tĩnh. Tôi giải thích sau... - Sau cái gì chứ? Goran chưa kịp đáp cánh cửa bật mở. Thanh tra Roche bước vào phòng. Tháp tùng ông ta là người đàn ông vạm vỡ, tuổi trạc năm mươi, áo vét nhàu nhĩ, chiếc càvạt quá mỏng manh so với cái cổ đồ sộ. môi ông ta là điếu xì gà cháy. - Bình tĩnh ngồi xuống nào. - Thanh tra Roche , mặc dù chưa ai kịp đứng lên chào. Ông cố nặn ra nụ cười đáng lẽ mang tính trấn an nhưng lại chỉ càng gây thêm lo lắng. - Các bạn, tình hình rất phức tạp, nhưng chúng ta tháo gỡ được nó. Tôi để cho gã điên gieo rắc nghi ngờ vào nhóm điều tra của tôi! - Ông và nhấn khá mạnh ở hai chữ cuối cùng, như thường lệ. - Chính vì lẽ đó mà tôi dùng biện pháp đề phòng, vì lợi ích của mọi người, và đưa thêm người vào cuộc cùng các bạn. - Ông thông báo mà hề giới thiệu người đứng bên cạnh. - Hãy hiểu cho tôi, vì những lý do hiển nhiên tôi định rút mọi người ra khỏi vụ này. Tình hình còn gì rối rắm hơn: chúng ta tài nào tìm ra được Albert, trong khi gã mò được đến tận đây! Vậy nên, theo nhất trí của giáo sư Gavila, tôi giao phó cho đại úy Mosca đây trách nhiệm hỗ trợ các bạn cho đến khi cuộc điều tra kết thúc. ai gì, dù họ thừa hiểu “hỗ trợ” mà họ nhận được ở đây là gì. Mosca nắm quyền kiểm soát và chỉ để cho họ lựa chọn duy nhất: hoặc theo phe ông ta và cố vớt vát phần nào tin tưởng, hoặc là biến . Terence Mosca là người khá nổi danh trong ngành cảnh sát. Ông ta được biết đến sau chiến dịch nằm vùng trong ổ buôn ma túy kéo dài sáu năm. Bảng thành tích của ông ta có hàng trăm cuộc bắt bớ và nhiều chiến dịch nằm vùng khác. Tuy nhiên, ông ta chưa bao giờ phụ trách các vụ giết người hàng loạt, hay các tội ác bệnh hoạn khác. Roche nhờ đến Terence Mosca chỉ vì lý do duy nhất: nhiều năm trước đây, Mosca tranh giành chiếc ghế chánh thanh tra với ông. Căn cứ vào diễn biến tình hình, ông thấy đây là cơ hội để ép đối thủ hứng lấy phần nào gánh nặng của thất bại khá rệt. quyết định liều lĩnh, cho thấy ông cảm nhận được tình thế cấp bách, của mình đến mức nào: nếu như Terence Mosca phá được vụ Albert này, thanh tra Roche phải nhường cho ông ta thâu tóm quyền lực. Trước khi lên tiếng, ngài đại úy tiến lên bước như thể muốn gạt Roche qua bên và chứng tỏ chủ động của mình. - Phía bệnh học và cảnh sát khoa học vẫn chưa tìm được điều gì có ý nghĩa. Điều duy nhất mà ta biết là để vào được trong căn hộ này, thủ phạm phải mở được cánh cửa bọc thép kia. Khi mở cửa lúc quay trở về studio, Boris nhận thấy dấu vết phá hoại nào. - Gã cẩn thận xóa sạch mọi dấu vết: gã muốn làm hỏng ngạc nhiên của mọi người. Mosca tiếp tục nhay nhay điếu xì gà trong lúc dò xét mọi người, hai tay vẫn đút túi. Xem vẻ ông đại úy này phải là người sẵn sàng tính sổ ai, nhưng ông ta vẫn tạo ra được ấn tượng đó. - Tôi cử nhiều cảnh sát viên điều tra quanh vùng với hy vọng tìm được nhân chứng. Biết đâu chúng ta thu được số đăng ký xe... Còn về động cơ thúc đẩy đối tượng đem cái xác đến đây, chúng ta buộc phải tự nghĩ ra. Nếu các chị nghĩ được điều gì đừng ngần ngại. tại tôi chỉ được có thế thôi. Terence Mosca quay gót, và để cho ai kịp phản ứng hay đối đáp gì, ông ta thẳng ra trường. Thanh tra Roche nhúc nhích. - Các bạn còn nhiều thời gian. Cần phải tìm ra được suy đoán, nhanh. Rồi đến lượt mình ông cũng rời phòng. Goran đóng cửa lại, những người khác vây quanh ông. - Tin sốt dẻo này là thế nào đây? - Boris hỏi đầy nghi hoặc. - Tại sao chúng ta cần phải có con chó giữ nhà ngay lúc này? - Rosa hùa theo. - Bình tĩnh nào, mọi người hiểu rồi. - Goran . - Đại úy Mosca là người thích hợp nhất tại thời điểm này. Chính tôi là người đề nghị can thiệp của ông ta. Mọi người tin nổi ở tai mình. - Tôi biết tất cả nghĩ gì, nhưng với cách này, tôi cho thanh tra Roche lối thoát và giữ lại được vai trò của chúng ta trong cuộc điều tra. - Chính thức ra chúng ta vẫn còn tham gia, nhưng ai cũng biết là Terence Mosca thích đơn thương độc mã. - Stern nhận xét. - Vì thế mà tôi tiến cử Mosca: do biết ông ta, chúng ta bị ngáng trở, ông ta thể biết những gì chúng ta làm. Chúng ta chỉ cho ông ta biết những điều cần biết, thế thôi. Đây có vẻ là giải pháp tối ưu, nhưng nó loại bỏ được mối nghi ngờ đè nặng mỗi người. - Mọi người dồn mắt vào chúng ta. - Stern vừa lắc đầu vừa , vẻ khó chịu. - Còn ta, ta để cho Mosca tiếp tục tìm kiếm Albert trong lúc ta tập trung vào nạn nhân số sáu... chiến thuật hay, có vẻ như vậy: nếu họ tìm ra bé còn sống, họ xua tan nghi ngờ vây quanh mình. - Tôi cho rằng Albert đặt thi thể của Caroline tại đây để chơi xỏ chúng ta. Bởi lẽ, dù chưa có gì chống lại chúng ta, mối nghi ngờ nhắm vào chúng ta vẫn tồn tại. Mặc cho ông tìm mọi cách để giữ vẻ bình tĩnh, Goran vẫn thừa biết những nhận định của ông đủ để xoa dịu tình hình: kể từ lúc thi thể thứ năm được phát , từng người trong số họ bắt đầu nhìn người kia bằng con mắt khác. Họ biết nhau lâu, nhưng ai có thể loại trừ việc mỗi người trong số họ đều che giấu bí mật nào đó. Đây chính là mục đích thực của Albert: gây chia rẽ nội bộ. Nhà tội phạm học tự hỏi còn bao lâu trước khi hạt giống nghi ngờ nảy mầm trong bọn họ. - bé cuối cùng còn nhiều thời gian. - Ông cách quả quyết. - Albert gần như hoàn thành kế hoạch của mình. Gã chuẩn bị cho hồi kết. Nhưng gã cần được rảnh tay, nên gã gạt chúng ta khỏi cuộc đua. tại ta chỉ có cơ may duy nhất để tìm thấy gã, cơ may đó ở trong tay cá nhân nằm ngoài mọi mối nghi ngờ, vì người này tham gia vào nhóm khi Albert lập kế hoạch xong. Đột ngột nhận mọi ánh mắt đổ dồn vào mình, Mila cảm thấy thoải mái. - có thể hành động tự do hơn chúng tôi nhiều. - Stern khích lệ . - Nếu - Phải nghe theo linh cảm của mình, làm gì? ra Mila có suy đoán, nhưng muốn giữ nó cho riêng mình. - Tôi biết tại sao gã chỉ chọn các bé . Họ từng đặt ra câu hỏi đó trong phòng suy tưởng, khi vụ việc chỉ mới bắt đầu. Tại sao Albert bắt cóc các cậu bé trai? Hành vi của gã nhằm mục đích tính dục, vì gã xâm hại các bé . “, gã chỉ dừng lại ở việc giết chúng”. Vậy tại sao gã có lựa chọn như vậy. Mila tin là có giả thiết. - Các nạn nhân đều phải là nữ, do nạn nhân số sáu là nữ. Tôi gần như chắc chắn gã chọn bé này đầu tiên, chứ phải cuối cùng như gã muốn chúng ta tin. Việc những đứa còn lại là bé chỉ để che đậy chi tiết này. Số sáu là đối tượng đầu tiên ám ảnh của gã. Vì sao ta chưa biết. Có thể số sáu có đặc điểm nào đó nổi bật hơn những đứa khác. Chính vì thế mà gã muốn che giấu tung tích của bé đến cùng. Việc cho chúng ta biết trong các bé vẫn còn sống vẫn chưa đủ với gã. , ta cần phải hoàn toàn biết bé đó là ai. - Bởi điều đó có thể cho phép ta lần ra gã. - Goran kết luận. Nhưng phỏng đoán thú vị này chẳng giúp ích gì cho ai trong đội. - Trừ phi... - Mila , dường như đoán trước suy nghĩ của mọi người. - Trừ phi vẫn luôn có mối liên hệ giữa chúng ta và Albert. Bây giờ còn gì để mất nữa, nên Mila ngần ngại với mọi người rằng từng bị theo dõi. - Việc đó xảy ra hai lần. Mặc dù tôi chỉ tuyệt đối chắc chắn ở lần thứ hai. Tại nhà nghỉ, nó giống với ảo giác hơn... - Vậy sao? - Stern thắc mắc. - Chuyện đó có liên quan gì ở đây? - Ai đó theo dõi tôi. Có lẽ nó diễn ra nhiều lần khác mà tôi biết và nhận ra… Nhưng vì sao? Để kiểm soát tôi à? Với mục đích gì kia chứ? Tôi nắm giữ bất cứ thông tin gì có tầm quan trọng cốt yếu, tôi luôn là cái bánh xe thừa trong nhóm. - Có thể để làm ta lạc lối. - Boris phỏng đoán. - Cũng vậy cả thôi: ra làm gì có lối nào, trừ phi tôi tiến rất gần đến phát gì đó, và tôi tự nhiên trở thành quan trọng mà hề hay biết. - Nhưng lúc ở khu nhà nghỉ, chỉ vừa mới đến. - Goran . - Điều này phủ nhận giả thiết . - Tôi chỉ còn cách giải thích... Kẻ theo dõi tôi muốn dọa cho tôi sợ. - Vì lẽ gì? - Sarah Rosa hỏi. Mila phớt lờ ta. - Trong cả hai lần, kẻ bám theo tôi phải vô tình để lộ mình. Ngược lại, tôi cho rằng cố tình làm thế. - Thôi được, chúng tôi hiểu. - Rosa . - Nhưng làm thế được gì? Chuyện này vô nghĩa. Mila đột ngột quay sang Rosa, dùng chiều cao của mình để áp đảo đối phương. - Bởi vì ngay từ đầu, tôi là người duy nhất trong số các chị có thể tìm ra được nạn nhân số sáu. Đừng hiểu lầm tôi, nhưng những kết quả mà tôi có được cho đến ngày hôm nay cho thấy tôi có lý. Mọi người rất giỏi trong việc chặn đứng những tên sát nhân hàng loạt. Còn tôi, tôi chuyên tìm người mất tích: tôi luôn tìm được và tôi biết cách để làm điều đó. ai phản bác Mila. Đứng ở góc độ này, Mila là nguy cơ ràng nhất đối với Albert, vì là người duy nhất có khả năng làm đổ bể kế hoạch của gã. - Ta tóm tắt lại nhé: gã bắt cóc bé số sáu đầu tiên. Nếu tôi phát ra ngay bé đó là ai, kế hoạch của gã sụp đổ tan tành. - Nhưng đâu có tìm được. - Rosa . - Có lẽ giỏi đến thế. Mila phớt lờ câu xóc của Rosa. - Khi tiếp cận tôi ở khoảng cách gần như vậy, tại khu nhà nghỉ, Albert có thể phạm sai lầm. Chúng ta cần phải quay lại khoảnh khắc đó. - Bằng cách nào? Đừng có là có máy quay ngược thời gian nhé! Mila mỉm cười: dù biết, Rosa ở rất gần . Vì có cách để quay về quá khứ. lần nữa phớt lờ hơi thở nồng mùi thuốc lá của ta để quay sang Boris. - giỏi ở mức nào, trong việc thẩm vấn bằng phương pháp thôi miên? - thư giãn nào... Giọng của Boris chỉ còn là lời thầm. Mila nằm chiếc giường gấp, tay xuôi theo thân mình, hai mắt khép lại. Boris ngồi bên cạnh . - Bây giờ, tôi muốn đếm đến trăm. Stern phủ cái khăn lên ngọn đèn để khiến cho căn phòng chìm trong ánh sáng mờ ảo. Rosa tách ra, ngồi giường mình. Goran cũng ngồi trong góc và quan sát tỉ mỉ những gì diễn ra. Mila chậm rãi đếm từng số. Hơi thở của bắt đầu đều đặn. Khi đếm đến trăm, hoàn toàn thả lỏng cơ thể mình. - Bây giờ, tôi muốn quan sát trong đầu. sẵn sàng chưa? Mila gật đầu. - ở thảo nguyên. là buổi sáng, mặt trời sưởi ấm khuôn mặt , khí tràn ngập mùi hương hoa cỏ. bước với đôi chân trần: có thể cảm nhận được mặt đất mát mẻ dưới chân mình. Tiếng suối róc rách mời gọi . tiến đến và cúi xuống mặt đất mềm nhão. nhúng tay xuống nước, rồi vốc ngụm lên uống. Nước có vị rất ngon. Hình ảnh này được lựa chọn là có lý do của nó: Boris đánh thức các cảm quan này để làm chủ năm giác quan của Mila. Như vậy dễ dàng hơn trong việc đưa quay trở lại thời điểm ở nhà nghỉ. - Bây giờ thỏa cơn khát, tôi muốn làm việc. Hãy quay lại vài ngày trước đây, vào buổi tối... - Được. - Mila đáp. - là ban đêm, chiếc xe hơi vừa đưa trở lại nhà nghỉ. - Trời lạnh. - ngay. Goran có cảm giác rùng mình. - Còn gì nữa ? - Người cảnh sát đưa tôi về gật đầu chào, rồi quay xe. Tôi chỉ còn mình tại chỗ đó. - Chỗ đó như thế nào? hãy miêu tả . - Trời khá tối. Chỉ có tấm bảng đèn kêu kèn kẹt trong gió. Trước mắt tôi là những căn nhà nghỉ, nhưng có ô cửa nào sáng đèn. Tôi là khách trọ duy nhất đêm nay. Phía sau dãy nhà là hàng cây rất cao xào xạc. Mặt đất được rải sỏi. - Tiến lên ... - Tôi chỉ nghe thấy tiếng bước chân của mình. gần như nghĩ mình có thể nghe thấy tiếng sỏi lạo xạo. - Giờ ở đâu? - Tôi tiến về nhà nghỉ của mình, tôi ngang qua chốt gác của bảo vệ. có ai ở đó, nhưng ti vi bật. Tôi cầm tay túi giấy có hai cái bánh kẹp phô mai. Đó là bữa tối của tôi. Tôi thở ra khói trong bầu khí lạnh lẽo. Thế nên tôi tăng tốc. Nhà nghỉ của tôi là căn ở xa nhất. - Rất tốt, tiếp tục . - Tôi chỉ còn cách đó vài mét, tôi nghĩ ngợi rất nhiều. Có cái lỗ mặt đất, tôi nhìn thấy và bị hụt chân... Thế là tôi nghe thấy. Bất giác Goran nghiêng người về phía chiếc giường Mila nằm, như thể ông có thể đến tận chỗ đó cùng và bảo vệ khỏi mối nguy mà gặp phải. - nghe thấy gì? - bước chân lớp sỏi, phía đằng sau. Ai đó bắt chước các bước chân tôi. muốn tiến đến gần mà để tôi phát . Nhưng lỡ nhịp. - làm gì? - Tôi cố giữ bình tĩnh, nhưng tôi sợ. Tôi tiếp tục giữ nguyên tốc độ khi tiến về phía nhà nghỉ, mặc dù tôi chỉ muốn chạy. Trong lúc đó, tôi suy tính. - suy tính chuyện gì? - Việc rút súng chỉ vô ích bởi lẽ, nếu có vũ khí, có thừa thời gian để khai hỏa trước. Tôi nhớ đến cái ti vi mở trong chòi gác, tự nhủ nhân viên bảo vệ bị hạ thủ. Và giờ đến lượt tôi... Tôi phát hoảng. - Phải, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh. - Tôi lục trong túi tìm chìa khóa, vì khả năng duy nhất là vào trong phòng... Nếu để tôi làm thế. - tập trung vào cánh cửa. Nó chỉ còn cách vài mét, đúng ? - Đúng. Đó là thứ duy nhất trong tầm mắt của tôi, những thứ còn lại biến mất. - Nhưng bây giờ, cần phải đem chúng trở lại... - Tôi cố... - Mạch máu đập nhanh, adrenaline chảy mạnh, tất cả mọi giác quan của trong trạng thái báo động. Tôi muốn tả lại vị giác... - Miệng tôi khô khốc, nhưng tôi có thể cảm thấy vị chua của nước bọt. - Xúc giác… - Độ lạnh của chùm chìa khóa phòng trong bàn tay phải của tôi. - Khứu giác... - Gió mang theo mùi rác rưởi. Ở bên phải tôi có mấy cái thùng rác. Có cả mùi lá thông, và mùi nhựa cây. - Thị giác... - Tôi nhìn thấy bóng mình đất. - Và rồi? - Tôi thấy cửa nhà nghỉ, nó vàng và bị tróc sơn. Tôi thấy bậc tam cấp dẫn lên đó. Boris cố tình để dành giác quan cốt yếu nhất lại sau cùng, vì cảm nhận duy nhất của Mila về kẻ theo dõi mình là thanh. - Thính giác... - Tôi nghe thấy gì, ngoại trừ tiếng những bước chân của mình. - Lắng nghe kỹ hơn . Goran nhìn thấy nếp nhăn xuất ngay giữa hai mắt Mila, do cố nhớ lại. - Tôi nghe thấy chúng! Giờ tôi nghe thấy từng bước chân mình mồn ! - Tốt lắm. Nhưng tôi muốn tập trung hơn nữa... Mila làm theo. Rồi lên tiếng: - Cái gì vậy nhỉ? - Tôi biết. - Boris đáp. - Ở đó chỉ có mình , tôi nghe thấy gì. - Nhưng có cái gì đó! - Cái gì vậy? - Tiếng động này. - Tiếng động nào? - tiếng... kim loại. Phải rồi! thứ bằng kim loại vừa rơi xuống đất, lớp sỏi! - Cố gắng hơn . - Tôi biết... - Cố lên... - Đó là... đồng xu! - đồng xu à? có chắc ? - Chắc! đồng tiền vàng! làm rơi nó, nhưng nhận ra! Đó là dấu vết ngờ tới. Nếu tìm được đồng tiền, họ có được dấu vân tay và lần ra kẻ theo dõi. Với hy vọng đó là Albert. Mila vẫn nhắm nghiền mắt, nhưng miệng cứ nhắc nhắc lại: - đồng xu! đồng xu! Boris lại kiểm soát tình hình. - Tốt rồi, Mila. Giờ , tôi đánh thức . Tôi muốn đếm đến năm, rồi tôi vỗ tay và mở mắt nhé. , hai, ba, bốn... và năm! Mila mở mắt. có vẻ bối rối và ngơ ngác. cố ngồi dậy, nhưng Boris nhàng đặt tay lên vai cản lại. - Chưa được đâu. - . - chóng mặt đấy. - Có kết quả ? - hỏi. Boris mỉm cười. - Dường như ta có manh mối. Mình cần phải tìm cho ra nó, nhủ thầm trong lúc sục tay vào lớp sỏi. tín nhiệm của mình phụ thuộc vào nó... và cả cuộc sống của mình nữa. dồn mọi chú ý vào mặt đất, nhưng phải làm nhanh. còn nhiều thời gian nữa. chỉ phải tìm có vài mét vuông thôi. Diện tích nằm giữa và nhà nghỉ tối hôm đó. bò đất, mặc kệ chiếc quần jean bị bẩn. sục tay vào giữa những viên sỏi trắng, các khớp tay bắt đầu bị trầy xước vì lớp bụi bám chúng. Nhưng cơn đau làm khó chịu, thậm chí nó còn giúp tập trung hơn. đồng xu, tiếp tục nhắc lại trong đầu. Sao mình lại nhận ra nhỉ. Rất có thể ai đó tìm thấy nó. khách trọ, hoặc là người bảo vệ. đến khu nhà nghỉ trước những người khác, vì thể tin ai. có cảm giác các đồng đội cũng còn tin mình. Mình phải làm nhanh! hất tung các viên sỏi, ném chúng ra sau lưng, răng cắn chặt môi. rất cuống. căm tức bản thân, và tức bực với mọi người. hít thở mạnh nhiều lần, cố trấn át cơn kích động. Lạ điều là nhớ đến chuyện xảy ra khi mới rời trường cảnh sát. có tính cách khép kín và khó tiếp xúc với người khác. Người ta ghép vào cùng đội với đồng nghiệp nhiều tuổi hơn, và người này thể chịu nổi . Họ bám theo nghi can trong các hẻm hóc của khu phố Tàu. chạy rất nhanh, họ thể bắt kịp , nhưng đồng đội của cho rằng vứt cái gì đó vào bể hàu khi chạy vòng ra đằng sau nhà hàng. Vậy là ta bắt quỳ xuống trong chỗ nước tù đọng đó và lục tìm giữa những con hàu nhớp nháp. Dĩ nhiên là chẳng có gì. Có lẽ ta bắt làm chuyện mà tân binh nào cũng phải học qua. Từ lúc đó, ăn món hàu nữa. Nhưng học được bài học quan trọng hơn. Và những viên sỏi nhám mà điên cuồng vứt qua bên cũng là phép thử. điều gì đó để tự chứng tỏ mình vẫn còn khả năng tháo gỡ mọi chuyện. Điều đó từng là tài nghệ của trong thời gian dài. Nhưng trong khi tự chúc mừng mình, ý nghĩ chợt xẹt qua đầu . Cũng như lần ấy, hôm nay người khác chơi xỏ . Chẳng có đồng tiền nào, là thế. Đó chỉ là chiêu lừa đảo. Ngay khi Sarah Rosa hiểu ra điều đó, ta ngước mắt lên và trông thấy Mila tiến đến gần mình. Bị lột mặt nạ và hoàn toàn bất lực trước nữ đồng nghiệp ít tuổi hơn mình, tức giận của rơi rụng mất và đôi mắt nhòa lệ. - Gã bắt con chị, có phải thế ? Con bé chính là nạn nhân số sáu.
34 Trong cơn mê của con bé, mẹ nó diện ở đó. Mẹ chuyện với nó kèm theo nụ cười “màu nhiệm” - nó dùng chữ đó, bởi nụ cười ấy rất đẹp, những khi mẹ cáu, mẹ trở thành người dễ thương nhất đời, nhưng chuyện đó ngày càng trở nên hiếm. Trong cơn mê của nó, mẹ kể về mình, và cả về bố nó nữa. Bây giờ bố mẹ nó lại hòa thuận và cãi nhau nữa. Mẹ nó kể chuyện bố mẹ làm gì, về công việc và chuyện nhà cửa khi nó vắng mặt, mẹ thậm chí còn liệt kê các bộ phim bố mẹ xem. Nhưng phải là những phim nó thích. Hai người chờ nó về để cùng xem những bộ phim đó. Nó thấy sung sướng khi nghe mẹ như vậy. Nó muốn hỏi khi nào nó có thể về được. Nhưng trong cơn mê của nó, mẹ nó thể nào nghe thấy nó được. Tựa như nó với mẹ qua màn hình. Nó rất cố gắng, nhưng vô ích. Và nụ cười khuôn mặt mẹ nó chợt có chút gì đó tàn nhẫn. cái vuốt ve tóc khiến nó tỉnh dậy. Bàn tay nhắn vuốt từ đầu nó xuống đến cái gối, và chất giọng êm dịu khe khẽ hát bài. - Là cậu! Nó mừng đến nỗi quên mất mình ở đâu. Điều quan trọng lúc này là bé kia tồn tại . - Tớ đợi cậu mãi. - Nó . - Tớ biết, nhưng tớ thể đến sớm hơn. - Cậu được phép à? Bé nhìn nó với đôi mắt nghiêm nghị: - , là do tớ bận. Nó tự hỏi chuyện gì làm bé bận đến nỗi thể đến thăm nó. Nhưng lúc này, chuyện đó quan trọng. Nó có hàng đống câu hỏi để đặt ra với bé. Nó bắt đầu bằng câu hỏi bức thiết nhất: - Bọn mình làm gì ở đây vậy? Với nó ràng là bé kia cũng bị cầm tù, mặc dù chỉ có nó bị trói vào giường, trong khi bé kia được tự do lại tùy ý trong bụng con quái vật. - Đây là nhà tớ. Câu trả lời khiến nó bối rối. - Vậy còn tớ? Tại sao tớ lại ở đây? bé gì, chỉ cắm cúi vuốt tóc nó. Nó hiểu bé lảng tránh câu hỏi, nên nó nài ép, rồi đến lúc thôi. - Cậu tên là gì? bé mỉm cười với nó. - Gloria. Nó quan sát bé kỹ hơn. - ... - gì cơ? - Tớ biết cậu... phải cậu tên là Gloria... - Có chứ. Nó gắng nhớ lại. Nó từng nhìn thấy bé, từng thấy rồi, nó chắc chắn như thế. - Cậu ở hộp sữa. bé nhìn nó, hiểu nó muốn gì. - Đúng rồi, hình khuôn mặt cậu cũng có cả các tờ quảng cáo. Đầy thành phố ấy. Trong trường của tớ, ở siêu thị. Chuyện này... ( bao lâu rồi nhỉ? Hồi ấy nó mới lớp bốn). Cách nay ba năm rồi. bé vẫn hiểu. - Tớ ở đây chưa lâu. Cùng lắm mới có bốn tuần lễ. - Tớ bảo là phải mà! Ít nhất cũng ba năm rồi. bé tin. - phải như thế. - Có, và bố mẹ cậu lên cầu cứu truyền hình. - Bố mẹ tớ mất rồi - , họ còn sống! Còn cậu, cậu tên là... Linda! Tên cậu là Linda Brown! bé cứng giọng: - Tên tớ là Gloria! Bạn Linda mà cậu là người khác. Cậu nhầm rồi. Nghe thấy thay đổi trong giọng điệu, nó quyết định cố ép nữa: nó muốn bé bỏ và lại bỏ nó mình. - Thôi được rồi, Gloria, như cậu muốn. Chắc tớ nhầm. Tớ xin lỗi. bé gật đầu hài lòng. Rồi như thể chưa có gì xảy ra, bé lại vừa vuốt tóc nó vừa hát. Thế là nó thử chuyện khác. - Gloria này, tớ thấy mệt lắm. Tớ thể nào nhúc nhích cánh tay được. Tớ bị sốt. Tớ thường hay bị ngất ... - Rồi mọi chuyện ổn thôi - Tớ cần được khám bác sĩ. - Các bác sĩ chỉ toàn là lang băm thôi. Cái câu này nghe tức cười khi phát ra từ miệng bé. Như thể bé nghe nhiều lần đến nỗi trở thành quen miệng. Và giờ bé chỉ lặp lại. - Tớ chết, tớ cảm thấy thế. Hai giọt lệ to tướng trào ra từ mắt nó, Gloria lau chúng . Rồi bé nhìn các ngón tay mình, để ý đến nó. - Cậu có hiểu tớ gì , hở Gloria? Tớ chết, nếu cậu giúp tớ. - Steve là cậu khỏi. - Steve là ai? bé có vẻ lơ đãng, những vẫn đáp: - Steve, đó là người mang cậu đến đây. - Người bắt cóc tớ, ý cậu là như thế chứ gì! bé lại nhìn nó. - Steve bắt cóc cậu. Mặc dù nó sợ làm bé giận lần nữa, nhưng nó vẫn thể đồng ý về điểm này: sống còn của nó phụ thuộc vào điều đó. - Có, và Steve cũng bắt cóc cậu. Tớ chắc chắn như vậy. - Cậu nhầm rồi. Steve cứu bọn mình. Nó muốn, nhưng câu trả lời khiến nó phát cáu: - Cậu cái quái gì vậy? Cứu bọn mình khỏi chuyện gì? Gloria ngập ngừng. Nó trông thấy đôi mắt bé thất thần, nhường chỗ cho nỗi sợ hãi kỳ lạ. bé lùi lại bước nhưng bị nó tóm lấy cổ tay giữ lại. Gloria muốn bỏ chạy và cố giằng tay ra, nhưng nó để bé ra mà trả lời. - Khỏi ai? - Frankie. Gloria cắn môi. Lẽ ra bé muốn . Nhưng lỡ mất rồi. - Frankie là ai? bé giằng tay ra được, nó quá yếu nên thể ngăn được chuyện đó. - Chúng ta còn gặp lại nhau chứ? Gloria lảng . - , chờ . Đừng ! - Bây giờ cậu cần phải nghỉ ngơi. - , tớ xin cậu đấy! Cậu quay lại. - Có chứ. Tớ quay lại. bé bỏ . Nó òa khóc. nỗi tuyệt vọng cay đắng chẹn ngay cổ họng và lan dần xuống ngực nó. Nó nức nở, nghẹn ngào thốt vào thinh lặng: - Tớ xin cậu đấy! Frankie là ai? Nhưng ai trả lời nó cả. 35 - Con bé tên là Sandra. Terence Mosca viết cái tên lên đầu xấp giấy của mình. Rồi ông lại ngước mắt nhìn Sarah Rosa. - Nó bị bắt cóc khi nào? Sarah ngồi lại cho thoải mái ghế, trước khi trả lời, cố gắng sắp xếp lại cho mạch lạc các suy nghĩ trong đầu: - bốn mươi bảy ngày nay. Mila có lý: Sandra bị bắt cóc trước năm nạn nhân còn lại. Sau đó Albert dùng bé để dụ Debby Gordon, chị em kết nghĩa của Sandra. Hai bé gặp gỡ ở ngoài công viên vào buổi chiều, trong khi quan sát lũ ngựa. Hai đứa trao đổi vài câu và nhanh chóng kết thân. Debby buồn vì phải xa nhà, còn Sandra buồn vì bố mẹ ly thân. Do có cùng tâm trạng, hai đứa trở thành bạn bè. Cả hai đều nhận được món quà là phiếu cưỡi ngựa. Đó phải là tình cờ. Albert đạo diễn cuộc gặp gỡ đó. - Sandra bị bắt cóc như thế nào? - Lúc nó ở trường. - Rosa trả lời. Mila và Goran thấy Mosca gật đầu. Tất cả mọi người đều có mặt - kể cả Boris và Stern - trong gian phòng lưu trữ nằm ở tầng của tòa trụ sở cảnh sát liên bang. Ông đại úy chọn nơi khác thường này để tránh bị rò rỉ thông tin và để cho cuộc đối thoại mang màu sắc thẩm vấn. Vào thời điểm này, gian phòng vắng tanh. Họ ở nơi hội tụ của các dãy kệ chất đầy tài liệu. Nguồn sáng duy nhất là từ chiếc bàn mà tất cả mọi người ngồi quanh. thanh và tiếng vang mất hút trong bóng tối. - có thể gì về Albert? - Tôi chưa bao giờ nhìn thấy hay nghe thấy gã. Tôi biết gã là ai. - Dĩ nhiên rồi... - Terence Mosca bình luận, như thể đó là tình tiết làm nặng thêm tội cho Sarah Rosa. Chính thức ra Sarah Rosa vẫn chưa bị áp vào bất cứ biện pháp hạn chế quyền tự do nào. Nhưng ta sớm bị điều tra vì tội đồng lõa trong việc bắt cóc và giết hại trẻ vị thành niên. Chính Mila là người phát ra Sarah khi nghiên cứu lại vụ bắt cóc Sabine ở hội chợ. Sau cuộc trò chuyện với mẹ nạn nhân, tự nhủ có thể Albert sử dụng phụ nữ để cho ai phát vụ bắt cóc. Nhưng phải kẻ bất kỳ, mà phải là người gã có thể đe dọa. Mẹ của nạn nhân số sáu chẳng hạn. Mila có được khẳng định khi xem qua các tấm ảnh chụp trong buổi tối hôm đó. Ở phía xa trong tấm ảnh được ông bố chụp, để ý đến mái tóc và phần của khuôn mặt nhìn nghiêng, thứ khiến gáy nhột nhạt, và cái tên bật lên chút do dự: Sarah Rosa! - Tại sao là Sabine? - Mosca hỏi. - Tôi biết. - Rosa đáp. - Gã đưa cho tôi tấm ảnh của con bé và cho biết tôi tìm thấy nó ở đó, có thế thôi. - Và ai nhận thấy gì hết. Ở Phòng suy tưởng, Sarah từng : “ thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình”. Mila vẫn còn nhớ câu đó như in. Sarah biết điều đó, bản thân ta trải qua chuyện đó. Mosca tiếp: - Vậy là gã nắm được lại của các gia đình. - Tôi nghĩ là vậy. Các chỉ dẫn của gã luôn rất chính xác. - Gã chuyển các mệnh lệnh đến chỗ như thế nào? - Luôn luôn qua thư điện tử. - chưa bao giờ tìm cách truy nguyên xuất xứ các bức thư đó à? Câu hỏi của viên đại úy thực ra là thừa: Sarah Rosa là chuyên viên tin học. Nếu ta làm được điều đó, có nghĩa là nó bất khả thi. - Dù sao , tôi cũng lưu lại tất cả. Gã rất ranh ma, ông biết ? Và gã rất giỏi. - Rồi ta thêm như thể muốn thanh minh. - Ngoài ra, gã có con tôi trong tay. Ánh mắt Rosa chiếu vào Mila. từng chứng kiến thù địch ấy ngay ngày đầu tiên, bởi lẽ ta sợ phát ra danh tính của nạn nhân số sáu, và như vậy khiến sinh mạng con bé lâm nguy. - Gã là người ra lệnh cho lập tức loại bỏ Mila Vasquez à? - , đó là ý của tôi. Ai biết được, Mila có thể gây cản trở. Thêm lần nữa, Sarah bộc lộ thái độ khinh miệt. Nhưng Mila tha thứ cho ta. nghĩ đến Sandra, bé phải chịu các rối loạn ăn uống, theo lời kể của Goran, và giờ đây nằm trong tay của gã tâm thần, với cánh tay bị cắt đứt và chịu đau đớn khôn tả. Trong suốt những ngày qua, thôi nghĩ tới danh tính của bé. Bây giờ rốt cuộc có cái tên. - Vậy nên bám theo cảnh sát Vasquez hai lần, để khiến ấy sợ và từ bỏ cuộc điều tra. - Phải. Mila còn nhớ là sau khi bị chiếc xe hơi bám theo, về studio, và có ai ở đó. Boris nhắn tin báo với là mọi người đều ở chỗ Yvonne Gress. đến đó, và thấy Sarah Rosa sửa soạn bên cạnh chiếc xe cắm trại của đơn vị lưu động. tự hỏi tại sao lúc đó Sarah ở cùng với mọi người trong biệt thự. nghi ngờ gì chậm trễ của ta. Hoặc cũng có thể Sarah rất khôn lanh và tấn công ngay khiến kịp suy nghĩ bằng việc gieo mối nghi ngờ về giáo sư Goran. “Mà này, ông ấy cho vào tròng đấy... Vì tôi bỏ phiếu chống lại mà”. thực tế, ta làm vậy, vì nếu thế ta bị chú ý. Terence Mosca vội vã. Ông ghi lại các câu trả lời của Sarah Rosa tập giấy ghi chú và ngẫm nghĩ trước khi bước sang câu hỏi kế tiếp: - còn làm chuyện gì khác cho gã ? - Tôi lén vào phòng nội trú của Debby Gordon. Tôi lấy cuốn sổ nhật ký trong cái hộp thiếc, sau khi mở khéo ổ khóa. Sau đó tôi gỡ các tấm ảnh có dính đến con tôi tường xuống. Và tôi đặt thiết bị phát sóng định vị toàn cầu để dẫn mọi người đến chỗ của cái xác thứ hai, trong nhi viện... - có bao giờ nghĩ là sớm muộn gì cũng có người biết chuyện ? - Mosca hỏi. - Tôi còn quyền lựa chọn sao? - Chính là người đưa thi thể bé số năm đến studio. - Phải. - dùng chìa khóa mở cửa studio, và làm giả các chỗ hư hại cửa. - Để ai nghi ngờ gì. Mosca nhìn Sarah hồi lâu. - Tại sao gã ra lệnh cho đem cái xác tới studio? - Tôi biết. Đó là câu trả lời mà tất cả mọi người nghĩ đến. Mosca hít hơi sâu. Cử chỉ này cho thấy cuộc chuyện kết thúc. Sau đó viên đại úy quay sang phía Goran : - Tôi nghĩ thế là đủ rồi. Trừ phi ông còn thắc mắc điều gì đó… - . - Nhà tội phạm học đáp. Mosca với Sarah Rosa: - Cảnh sát Sarah Rosa, trong mười phút nữa tôi gọi điện cho văn phòng chánh biện lý, họ chính thức ra các cáo buộc chống lại . Như dự kiến, cuộc chuyện này chỉ chúng ta biết với nhau, nhưng tôi khuyên chỉ nên mở miệng khi có diện của luật sư. câu hỏi sau cùng: ngoài ra, còn ai khác dính líu trong vụ này ? - Nếu ông nghĩ đến chồng tôi, ta hay biết gì. Chúng tôi chờ quyết định ly dị. Khi Sandra mất tích, tôi kiếm cớ đuổi ta ra khỏi nhà, để giữ ta tránh xa tất cả chuyện này. Thời gian vừa rồi chúng tôi thường xuyên cãi vã vì chồng tôi muốn gặp con và cứ nghĩ tôi cố tình ngăn cản chuyện đó. Mila từng nhìn thấy hai người cãi cọ dưới đường, trước studio. - Thôi được. - Mosca thốt lên trong khi đứng dậy, trước khi với Boris và Stern, tay chỉ vào Rosa. - Tôi lập tức gọi điện để có lệnh bắt chính thức. Hai cảnh sát viên gật đầu. Viên đại úy cúi người nhặt chiếc túi da. Mila thấy ông ta nhét xấp giấy ghi chú cạnh hồ sơ màu vàng, ngoài bìa có vài chữ cái đánh máy: “w” ... “on” và “p”. Wilson Pickett, nghĩ bụng. Terence Mosca chậm rãi bước ra cửa, theo sau là Goran. Mila ở lại với Boris và Stern cạnh Rosa. Hai người đàn ông gì và tránh nhìn nữ đồng nghiệp, người tin họ. - Tôi xin lỗi. - ta trong nước mắt. - Tòi còn lựa chọn… Boris đáp. khó lắm mới nổi đóa lên. Còn Stern chỉ buông câu gọn lỏn: - sao đâu. Nhưng nghe chừng có vẻ mấy tin tưởng. Sarah Rosa bèn nhìn hai chàng, khẩn khoản: - Xin hãy tìm ra con tôi, tôi van các ... Nhiều người có suy nghĩ sai lầm rằng bọn sát nhân hàng loạt luôn có động cơ tình dục. Mila cũng từng nghĩ như vậy, trước khi đụng phải vụ Albert. thực tế, tùy theo mục đích cuối cùng, có nhiều loại sát nhân hàng loạt khác nhau. Bọn “mộng tưởng” bị chi phối bởi bản ngã thứ hai, chuyên đối đáp và ra những chỉ thị cho chúng, đôi khi dưới dạng ảo ảnh hoặc những “giọng ” đơn thuần. Hành vi của chúng thường được xem như loạn thần. Bọn “hành đạo” có mục đích vô ý thức và bị chi phối bởi trách nhiệm mà chúng tự áp đặt cho mình. Đó là việc cải thiện thế giới chung quanh mình, và nhiệm vụ này luôn gắn với việc loại bỏ số loại người: người đồng tính, mại dâm, những kẻ bội tín, các luật , nhân viên thuế vụ và vân vân. Bọn “khát quyền” lại có đánh giá thấp về bản thân. thỏa mãn của chúng bắt nguồn từ việc kiểm soát sinh mạng và cái chết của các nạn nhân. Hành vi giết người kèm với việc xâm hại tình dục, nhưng hãm hiếp chỉ là công cụ để làm nhục nạn nhân. Cuối cùng là bọn “tầm lạc”. Chúng giết người vì khoái trá khi làm chuyện đó. Nằm trong số này là những kẻ có động cơ tình dục. Benjamin Gorka cùng lúc thuộc về cả bốn thể loại . bị những ảo giác thúc đẩy đến chỗ giết hại các điếm sau khi hành hung họ, bởi thể quan hệ tình dục, và hành vi đó gây cho khoái cảm đặc biệt. có ba mươi sáu nạn nhân được cho là bị giết hại, mặc dù chỉ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cái chết của tám trong số họ. Người ta e rằng còn giết nhiều hơn thế nhưng phi tang rất khéo. ra tay trong hai mươi lăm năm trước khi bị bắt. Khó khăn trong việc xác định vị trí của chủ yếu là do đa dạng và khoảng cách giữa các nơi mà gây án. Gavila và nhóm điều tra xác định được sau ba năm truy đuổi. Họ nhập dữ liệu của các vụ giết người vào máy tính để lập nên sơ đồ tuần hoàn. Khi chồng nó lên bản đồ đường bộ, họ nhận ra các nét vẽ của nó trùng khớp với chu trình phân phối hàng hóa. Benjamin Gorka là tài xế xe tải. bị tóm cổ vào đêm Noel tại trạm dừng xa lộ. Nhưng do sơ suất trong tố tụng, được tuyên miễn trách nhiệm hình do bị tâm thần và chỉ phải vào nhà tù cho bệnh nhân tâm thần. Gã chưa bao giờ rời khỏi đó. Khi bắt được gã, cả đất nước khám phá ra tên tuổi của trong những tên tội phạm khát máu nhất trong lịch sử. Nhưng dù sao , với Goran và “người của ông”, vẫn luôn là Wilson Pickett. Khi hai viên cảnh sát đến để đưa Sarah Rosa , Mila đợi cho Boris và Stern khỏi để được ở mình trong kho lưu trữ. tra cứu các tài liệu và tìm thấy bản sao của hồ sơ. Trong khi lật xem hồ sơ, phát ra nguyên nhân tại sao nhà tội phạm học lại đặt cho tên sát nhân cái tên của người ca sĩ nổi tiếng. Nhưng tìm thấy tấm ảnh của trẻ mà từng nhìn thấy tường vào ngày đầu tiên đặt chân tới studio. ta tên là Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của Gorka. Ngoài ra trong hồ sơ cũng có gì nhiều. Mila tự hỏi tại sao vụ án này vẫn còn là vết thương dai dẳng đối với các thành viên trong nhóm, và nhớ lại câu trả lời của Boris, khi hỏi . “Vụ án đó diễn ra suôn sẻ. Chúng tôi phạm sai lầm, người ta đe dọa giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc”. sai sót gì đó xảy ra. Nhưng hồ sơ có trong tay đề cập đến bất cứ sai lầm nào, ngược lại vụ việc còn được mô tả như là chiến dịch “mẫu mực” và “thành công tuyệt đối”. Chắc là phải vậy khi Terence Mosca có lý do để quan tâm tới nó. Mila lấy ra biên bản lời làm chứng của Goran trong phiên tòa xét xử tên giết người. Nhà tội phạm học khi đó định nghĩa Gorka là “ kẻ tâm thần tuyệt đối, cũng hiếm gặp trong cuộc sống như con cọp bạch tạng”. Sau đó ông thêm vào: “Những kẻ này khó bị lật mặt. Nhìn bên ngoài, chúng có vẻ hoàn toàn bình thường. Nhưng khi cạo lớp vỏ bình thường đó, ‘cái tôi’ bên trong của chúng lộ ra, cái mà đa phần chúng gọi là ‘con quỷ’. Gorka tiếp tế cho nó bằng những mộng tưởng của , nuôi dưỡng nó bằng những ham muốn của . Đôi khi phải thỏa hiệp với nó. Có lẽ thậm chí đánh bại nó ở vào những thời điểm nhất định trong đời. Tuy nhiên cuối cùng chịu thua. hiểu mình chỉ có cách duy nhất để làm cho nó thôi đòi hỏi: phải thỏa mãn nó. Nếu , nó gặm sạch từ bên trong”. Khi đọc những dòng này, Mila gần như nghe thấy giọng của Goran vang lên trong đầu. “Cho đến ngày, bỗng xuất khe nứt giữa thực và mộng tưởng. Benjamin bắt đầu trù tính những việc ấp ủ cho đến lúc đó. Bản năng sát thủ diện trong mỗi chúng ta. Nhờ trời, tất cả mọi người đều có chốt an toàn để kiểm soát và ức chế. Tuy nhiên, luôn tồn tại điểm vỡ”. Mila ngẫm nghĩ chút về điểm tới hạn này. Sau đó đọc tiếp, và dừng lại ở đoạn khác. “… nhưng rất nhanh chóng, hành vi phạm tội cần phải được lặp lại. Bởi hiệu quả bắt đầu giảm sút, kỷ niệm trong đầu là đủ nữa, cảm giác thỏa mãn và chán ngấy tăng gần. Những mộng tưởng là đủ, cần phải lặp lại hành động. Nhu cầu cần phải được thỏa mãn. Đến vô cùng”. Đến vô cùng! trông thấy Stern ở bên ngoài. ngồi bậc thang bằng thép của chiếc thang thoát hiểm. châm điếu thuốc và đưa lên môi. Điếu thuốc nằm cân bằng các ngón tay của . - Đừng mách vợ tôi nhé. - Stern khi nhìn thấy Mila bước qua cửa chống cháy. - đừng lo. Tôi biết giữ miệng mà. - Mila vừa trấn an vừa bước đến ngồi xuống bên cạnh Stern. - Thế nào, tôi giúp được gì cho đây? - Sao biết tôi định hỏi ? Stern chỉ đáp bằng cách nhướng bên lông mày. - Albert bao giờ để cho bị bắt, cũng biết thế mà. - Mila . - Tôi nghĩ gã vạch lộ trình sẵn cho cái chết của mình. Nó là phần của kế hoạch. - Gã chầu Diêm Vương thế nào tôi quan tâm. Tôi biết như vậy được phải đạo cho lắm, nhưng là thế. Mila nhìn cách nghiêm túc. - Gã biết các , Stern ạ. Gã biết nhiều điều về nhóm điều tra, nếu gã bao giờ sai Sarah đưa thi thể số năm đến studio. Gã theo các vụ điều tra trước đây của nhóm . Gã biết các làm việc như thế nào, do đó gã luôn trước các . Tôi tin là gã đặc biệt hiểu Gavila... - Điều gì làm nghĩ như vậy? - Tôi đọc biên bản tố tụng của vụ án cũ, và Albert hành động y như thể gã muốn bác bỏ lý thuyết của Goran. Gã là kẻ giết người hàng loạt độc nhất vô nhị. Có vẻ gã bị chứng tự đề cao bản thân quá mức, vì gã muốn lôi kéo chú ý vào những tên tội phạm khác, hơn là vào chính mình. Gã cũng bị chi phối bởi bản năng quá mạnh, gã rất biết tự kiềm chế. Việc gã làm vì khoái cảm, mà đúng hơn, gã thích thú với thử thách mà gã đặt ra cho chúng ta. giải thích chuyện này như thế nào? - Rất đơn giản: tôi thể. Và tôi cũng hứng thú. - Sao lại như thế được? - Mila thốt lên. - Tôi là tôi quan tâm, mà là tôi hứng thú. Đó là hai điều khác biệt. Về phần mình, chúng tôi bao giờ nhận lời “thách đấu” với gã. Chúng tôi lo sốt vó là bởi còn bé cần được cứu sống. gã có tính tự cuồng là đúng, vì gã muốn chú ý của chúng ta, chứ phải của ai khác: chỉ của chúng ta, hiểu ? Đám nhà báo phát rồ lên nếu như được gã phất cờ, nhưng Albert quan tâm. Ít nhất là cho tới lúc này. - Bởi chúng ta chưa biết gã chuẩn bị gì cho hồi kết. - Đúng vậy. - Nhưng tôi tin là ở thời điểm này, Albert tìm cách thu hút chú ý vào các . Tôi muốn tới vụ Benjamin Gorka. - Wilson Pickett. - Tôi muốn kể với tôi... - cứ việc đọc hồ sơ. - Boris bảo tôi là có chuyện gì đó hay xảy ra... Stern vứt điếu thuốc hút dở . - Đôi khi Boris chẳng biết mình cái gì. - Thôi nào Stern, kể cho tôi nghe ! Tôi phải là người duy nhất quan tâm tới vụ này mà... kể cho về tập hồ sơ nằm trong chiếc túi đeo chéo của Terence Mosca. Stern trở nên ngờ vực. - Thôi được. Nhưng thích chuyện này đâu. Tin tôi . - Tôi sẵn sàng nghe mọi thứ. - Khi bắt Gorka, chúng tôi rà soát lại cuộc đời . sống hầu hết thời gian chiếc xe tải, nhưng, nhưng chúng tôi tìm thấy hóa đơn mua số thức ăn đóng hộp. Chúng tôi cho rằng nhận ra vòng vây siết lại và chuẩn bị trốn đến nơi an toàn trong lúc chờ cho mọi chuyện lắng xuống... - Nhưng phải vậy... - Khoảng tháng sau ngày bắt giữ , chúng tôi khám phá ra đơn cầu cứu có liên quan đến mất tích của điếm. - Rebecca Springher. - Chính xác. Vụ việc xảy ra vào thời điểm gần với dịp Giáng sinh... - Tức là lúc Gorka bị bắt. - Phải. Và nơi điếm hành nghề cũng nằm đường của chiếc xe tải. Mila có thể tự hiểu ra ngay. - Gorka bắt cóc ta, chỗ thức ăn là để dành cho ta. - Chúng tôi biết ta ở đầu, cũng như khoảng thời gian cầm cự của ta còn được bao lâu. Nên chúng tôi trực tiếp tra hỏi . - Và đương nhiên là chối. - hề. - Stern lắc đầu. - thú nhận tất cả. Nhưng để đổi những tiết lộ về nơi giam giữ, đặt ra điều kiện: muốn có mặt của giáo sư Gavila lúc cung khai. Mila ngơ ngác. - Vậy rắc rối ở đâu? - Rắc rối là Gavila biết ở đâu lúc đó. - Làm sao Gorka biết được việc? - Thằng khốn nạn ấy đâu có biết! Chúng tôi tìm giáo sư, trong khi thời gian trôi qua dần với ả điếm kia. Boris bắt Gorka phải trải qua đủ các thể loại thẩm vấn. - ấy thành công à? - , nhưng khi nghe lại các băng ghi những lần thẩm vấn trước, Boris nhận ra Gorka từng nhắc tới nhà kho cũ nơi có cái giếng. Chính Boris là người mình tìm ra Rebecca Springher. - Và ta chết đói. - . ta tự cắt mạch máu mình bằng cái mở hộp mà Gorka để lại cùng với chỗ đồ hộp. Nhưng tức nhất là điều... Theo bác sĩ pháp y, ta tự sát chỉ hai giờ trước khi được Boris tìm thấy. Mila rùng mình ớn lạnh. Nhưng vẫn hỏi tiếp: - Vậy còn Gavila, trong thời gian đó ông ấy làm gì? Stern mỉm cười để che giấu cảm xúc thực. - tuần sau đó, chúng tôi tìm ra ông ấy trong nhà vệ sinh của trạm dừng xa lộ. Các tài xế gọi xe cứu thương: ông ấy bị hôn mê do ngộ độc cồn. Goran phó mặc con trai mình cho bà vú em và bỏ lang thang để lãng quên ra của vợ. Khi chúng tôi đến thăm Goran tại bệnh viện, khó mà nhận ra ông ấy. Câu chuyện này cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa cảnh sát chính quy và người dân thường như Goran. Bởi theo lẽ thông thường chính các thảm kịch tạo ra mối liên hệ giữa các cá nhân với nhau, Mila nghĩ bụng. Và nhớ đến câu của Goran khi đến nhà ông sau khi phát ra trò lừa dối của thanh tra Roche trong vụ Joseph B. Rockford: “Có những người ta tưởng hiểu cặn kẽ, nhưng ra chẳng biết gì về bọn họ...” Đúng vậy, nghĩ. Cho dù có cố đến đâu, Mila cũng bao giờ có thể tưởng tượng nổi Goran trong tình trạng tồi tệ như thế lúc được tìm thấy. Say bét nhè và bất tỉnh. Suy nghĩ đó khiến bối rối. bèn đổi chủ đề: - Tại sao các gọi vụ này là Wilson Pickett? - biệt danh hay, đúng ? - Theo những gì tôi hiểu, Gavila vẫn thích đặt tên cho đối tượng truy lùng, để khiến trở nên hơn. - Thường là vậy. - Stern . - Nhưng lần này là ngoại lệ. - Tại sao? Stern quan sát . - Chẳng bõ công nát óc tìm kiếm đâu, tôi bảo đảm đấy. Tôi có thể tiết lộ. Nhưng nếu thực muốn biết, phải tự tìm hiểu lấy thôi... - Tôi sẵn sàng làm điều đó. - biết đấy, trong vụ Gorka, xảy ra việc hiếm thấy... có bao giờ gặp nạn nhân sống sót dưới tay tên sát nhân hàng loạt chưa?
36 Người ta sống sót dưới tay kẻ giết người hàng loạt. Có khóc lóc van xin cũng chẳng ích gì. Ngược lại, làm như thế chỉ càng tăng thêm khoái cảm cho . Khả năng duy nhất dành cho con mồi là trốn chạy. Nhưng nỗi sợ hãi, hoảng loạn và việc nắm được những gì diễn ra khiến ưu thế nghiêng về kẻ thủ ác. Tuy vậy, trong số vụ hiếm hoi, tên sát nhân hàng loạt được đến cùng. Đó là khi mà chuẩn bị ra tay, bỗng cử chỉ hoặc câu của nạn nhân, giống như chiếc phanh khiến dừng ngay lại. Đó chính là điều giúp Cinthia Pearl sống sót. Mila đến gặp ta trong căn hộ thuê trọ ở gần sân bay. Nội thất khá giản dị, nhưng đó là thành công lớn nhất của Cinthia mới. Cinthia cũ trải qua nhiều kinh nghiệm tiêu cực, vô số lỗi lầm và lựa chọn tai hại. - Tôi từng làm điếm để có tiền mua thuốc. Cinthia chẳng chút ngập ngừng, như thể kể về người khác. Mila thể tin nổi người phụ nữ trẻ trước mặt mình phải trải qua thời kỳ đáng sợ như vậy. Cinthia chỉ mới có hai mươi tư tuổi. ta tiếp Mila trong bộ đồng phục nhân viên. Từ vài tháng nay, Cinthia làm thu ngân tại siêu thị. Dáng điệu khiêm nhường, mái tóc hung buộc đuôi ngựa và khuôn mặt mộc hề làm mất vẻ đẹp hoang dã, quyến rũ tự nhiên. - Vợ chồng đặc vụ Stern kiếm giúp cho tôi căn hộ này. - Cinthia cách hãnh diện. Mila nhìn quanh để cho Cinthia vừa lòng. Chỗ đồ đạc cọc cạch dù nhằm để lấp đầy khoảng trống và phục vụ những nhu cầu thiết yếu hơn là để bày biện theo đúng nghĩa. Nhưng có thể thấy Cinthia quan tâm và chăm chút cho căn hộ của mình. Tất cả đều sạch và ngăn nắp. bày chỗ này chỗ nọ vài món đồ mỹ nghệ, đa phần là những con giống bằng sứ. - Chúng là niềm đam mê của tôi. Tôi sưu tập chúng đấy, chị thấy ? Ngoài ra cũng có các tấm ảnh của đứa trẻ. Cinthia làm mẹ từ khi còn trẻ. Con trai bị sở bảo trợ xã hội mang cho gia đình tiếp nhận. Để giành lại con mình, Cinthia cai nghiện. Ngoài ra, còn thường xuyên nhà thờ, nơi Stern và vợ vẫn lui tới. Trải qua nhiều thăng trầm, cuối cùng tìm đến với Chúa. Và thấy tự hào về đức tin mới đây của mình, chiếc mặt dây chuyền hình thánh Sebastian đeo ở cổ Cinthia chứng tỏ điều đó. Nó là món trang sức duy nhất của Cinthia ngoài chiếc nhẫn hình chuỗi hạt đeo ở ngón áp út. - Pearl này, tôi muốn ép phải kể lại những việc mà Benjamin Gorka gây ra... - sao, bây giờ tôi ra những chuyện đó tương đối dễ dàng. Hồi đầu khó đấy, nhưng giờ ổn rồi. Thậm chí tôi gửi cho ta bức thư, có biết ? Mila thể biết Gorka có phản ứng như thế nào với lá thư, nhưng những tên như tin chắc sử dụng nó để tạo cảm hứng cho những lần tự sướng ban đêm của mình. - có hồi cho ? - . Nhưng tôi muốn nhấn mạnh là người đàn ông này rất cần được ân xá. Vừa , Cinthia vừa kéo ống tay áo bên phải xuống. Mila nghĩ ta muốn che hình xăm nào đó giờ thuộc về quá khứ. Có lẽ Cinthia chưa tiết kiệm đủ tiền để xóa nó. - việc diễn ra như thế nào? Cinthia sầm mặt. - Chúng tôi gặp nhau sau chuỗi những trùng hợp. Lúc đó tôi còn đứng đường nữa, tôi thích vào quán bar tìm khách hơn. Nó an toàn hơn, và ít nhất tôi cũng được sưởi ấm. Bọn chúng tôi luôn biết để lại ít tiền cà phê cà pháo cho tay phục vụ. Tôi sinh ra tại thị trấn , nơi sắc đẹp là tai họa. Tôi sớm hiểu ra mình có thể sử dụng vốn tự có để ra , trong khi rất nhiều bạn bè tôi bao giờ rời khỏi đó, tụi nó lấy nhau để rồi bất hạnh cả đời. Tụi nó nhìn tôi như thể tôi là người đặc biệt và đặt tất cả kỳ vọng vào tôi. Tôi là niềm hy vọng của tụi nó. Mila thấy thông cảm cho Cinthia, có lẽ đoán được diễn biến tiếp theo của cuộc đời điếm này. Cinthia ra sau khi tốt nghiệp trung học và đến thành phố lớn, nhưng tìm thấy điều mình mong đợi ở đó. Ngược lại, làm quen với cả đống có hoàn cảnh giống mình, với cùng vẻ ngơ ngác và nỗi lo lắng trong lòng. Nghề mại dâm phải là khúc ngoặt xui xẻo, mà là kết cuộc tất yếu cho con đường của . Điều làm Mila thấy đáng tiếc nhất khi nghe những lời thổ lộ kiểu này, đó là chỉ mới hai mươi tư tuổi đầu mà như Cinthia phí hoài toàn bộ tuổi thanh xuân của mình. nhanh chóng trượt dốc và Benjamin Gorka chỉ đơn thuần đứng đợi ở cuối con dốc. - Tối hôm đó, tôi câu được gã. đeo nhẫn và có vẻ bình thường. Chúng tôi leo lên xe hơi của , ra khỏi thành phố. Khi xong việc, chịu trả tiền, thậm chí còn đánh tôi nữa. bỏ tôi lại đó, ngay đường. Tôi thể bắt được xe nhờ. ai cho con điếm quá giang cả. Vậy là tôi đứng mời chào khách, với hy vọng tay khách hàng tiếp theo đưa tôi trở lại thành phố. - Và Gorka xuất ... - Tôi vẫn còn nhớ lúc chiếc xe tải to tướng của dừng lại. Trước khi lên xe, chúng tôi thỏa thuận giá cả đôi chút. có vẻ tốt bụng. : “ làm gì ngoài này? Lên xe , trời lạnh đó”. Cinthia cụp mắt xuống. có vẻ khó chịu khi phải kể về công việc mình từng làm để nuôi thân. Nhưng cũng xấu hổ vì ngây thơ đến thế. - Chúng tôi trèo ra sau, vào trong cabin nơi ngủ. Đó là ngôi nhà , biết ? Có đủ hết mọi thứ. Ngay cả mấy tấm áp phích bậy bạ... Cũng có gì lạ, đám lái xe ai mà chẳng có. Nhưng những hình ảnh đó có thứ gì đó rất kỳ lạ... Mila nhớ lại chi tiết đọc được trong hồ sơ: Gorka chụp ảnh các nạn nhân trong những tư thế tục tĩu rồi làm thành các tấm áp phích . Điểm đặc biệt của những hình ảnh đó là các nhân vật chính đều chết. Nhưng Cinthia đâu biết điều đó. - cưỡi lên người tôi, và tôi để mặc cho hành . hôi hám lắm. Tôi hy vọng làm nhanh chóng. vùi mặt vào cổ tôi, nên tôi cần phải diễn nhiều. Tôi chỉ việc rên la vài tiếng. Trong lúc đó, mắt tôi mở thao láo... (Cinthia ngừng hồi để lấy lại hơi thở). Tôi biết sau bao lâu đồng tử của tôi trở nên quen với bóng tối, nhưng vào lúc tôi nhìn ra hàng chữ đó trần cabin... Nó được viết bằng sơn dạ quang. Mila trông thấy tấm ảnh của nó. Tao giết mày. - Tôi bắt đầu hét lên... Còn bắt đầu cười. Tôi cố đá chân để thoát ra, nhưng khỏe hơn tôi. rút dao ra và đâm tôi. Tôi lấy tay đẩy được nhát dao đầu tiên, nhát thứ hai trúng vào hông tôi, nhát thứ ba xuyên vào bụng. Tôi cảm thấy máu trào ra và tự nhủ mình thế là xong đời. - Nhưng dừng lại... Vì sao? - Bởi vì, đột nhiên tôi ra điều... Nó cứ thế bật ra, có lẽ là do quá kinh hoàng, tôi chẳng biết nữa. Tôi : “Tôi xin , khi tôi chết, hãy chăm sóc con trai tôi. Nó tên là Rick. Nó lên năm...” (Cinthia cười cay đắng và lắc đầu). Chị có hiểu ? Tôi cầu tên sát nhân đó chăm sóc con mình... Tôi hiểu cái gì diễn ra trong đầu mình lúc đó nữa, tôi sẵn sàng đầu hàng, nhưng phải đền bù theo cách nào đó. dở hơi: tôi nghĩ nợ tôi! - Có thể dở hơi , nhưng nó dập tắt cơn hung bạo của . - Tôi biết, nhưng dù sao tôi cũng thể tha thứ cho mình điều đó. - Cinthia nuốt nước mắt. - Wilson Pickett. - Đúng rồi, tôi còn nhớ... Tôi sống dở chết dở trong cabin, còn ngồi vào ghế lái. đem tôi bỏ lại bãi đỗ xe. Nhưng tôi chưa biết ý định đó của . Tôi tê bại và lả vì mất máu. Dọc đường , đài người ta phát cái bài hát đáng nguyền rủa ấy... In the Midnight Hour... Sau đó tôi ngất và tỉnh lại ở trong bệnh viện, còn nhớ gì nữa. Cảnh sát hỏi tôi bị thương như thế nào, nhưng tôi thể trả lời. Tôi ra viện và nương nhờ nhà người bạn thời gian. tối nọ, bản tin thời , tôi thấy người ta đưa tin về vụ bắt giữ Gorka. Nhưng ngay cả khi hình ảnh của được đưa lên, tôi cũng nhận ra... Cho đến buổi chiều, khi tôi ở nhà mình và nghe đài. Họ phát bài hát đó của Wilson Pickett. Tôi chợt nhớ ra. Mila hiểu biệt danh này được nhóm điều tra đặt cho Gorka sau khi họ tóm được . Nó được chọn để ghi nhớ những sai lầm của họ. - Nó kinh khủng lắm. - Cinthia tiếp. - Giống như sống lại khoảnh khắc đó lần thứ hai vậy. Hơn nữa, tôi nghĩ tới chuyện đó, chị biết ? Nếu tôi nhớ ra sớm hơn, biết đâu tôi có thể cứu được những khác... Câu cuối cùng này chẳng qua để cho có vẻ, Mila nhận thấy điều đó qua giọng điệu của Cinthia. phải số phận của các kia có ý nghĩa gì đối với ta, nhưng ta đặt màng lọc giữa mình và số phận của họ. Đó là trong nhiều cách để tiếp tục sống sau khi phải đối mặt với trải nghiệm như thế. - Cách đây tháng, tôi gặp cha mẹ của Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của . - Cinthia thêm, qua đó khẳng định suy nghĩ của Mila. ta bị giết, nghĩ bụng. Còn tệ hơn thế: đẩy ta đến chỗ tự sát. - Chúng tôi tham dự buổi lễ cầu siêu cho các nạn nhân của Benjamin Gorka. Chị biết , họ ở cùng trong giáo đoàn với tôi. Họ quan sát tôi trong suốt buổi tưởng niệm, và tôi cảm thấy mình tội lỗi. - Tại sao? - Mila hỏi, dù quá hiểu. - Vì sống sót, tôi nghĩ thế. Mila cám ơn và ra về. Lúc tiễn ra cửa, Cinthia im lặng cách lạ lùng, như thể muốn hỏi điều gì đó nhưng biết phải mở lời thế nào. Vậy nên Mila quyết định dành thêm ít phút cho ta và hỏi xem liệu mình có thể sử dụng nhà vệ sinh được . Cinthia chỉ chỗ cho . Phòng vệ sinh được thông thoáng cho lắm. Trong buồng tắm có treo mấy đôi vớ. Màu hồng chiếm ưu thế, và mấy con giống bằng sứ cũng có cả ở trong này. Mila cúi xuống lavabo rửa mặt. cảm thấy rất mệt mỏi và kiệt sức. mua thuốc sát trùng và những thứ cần thiết để tự làm mình bị thương. phải tưởng nhớ đến cái chết của bé số năm. hoãn chuyện đó lại, nhưng tối nay thực điều đó. Cơn đau đó là cần thiết với . Khi lau tay và mặt bằng cái khăn bông, trông thấy lọ thuốc trị bệnh tưa lưỡi chiếc kệ. Màu của chất lỏng khá sậm. hít thử: nó có mùi rượu. Cinthia Pearl cũng có bí mật của mình. thói quen xấu, còn sót lại của cuộc đời trước đây. Mila tưởng tượng ra ta khép mình trong buồng vệ sinh này, ngồi bệt xuống nắp bồn cầu và nhấp hai, ba ngụm rượu, mắt đờ đẫn nhìn xuống sàn gạch. ta thay đổi rất nhiều theo chiều hướng tích cực, nhưng dù sao cũng vẫn còn giữ góc khuất cho riêng mình. là con người ai cũng như thế, Mila nghĩ thầm. Nhưng bí mật của mình sâu xa hơn... Khi rốt cuộc có thể ra về, ngưỡng cửa, Cinthia lấy hết can đảm hỏi liệu hai người có thể gặp lại nhau để cùng mua sắm hoặc xem phim hay . Mila nhận ra Cinthia rất khao khát người bạn, nên nỡ lòng nào từ chối. Để làm cho Cinthia vừa lòng, lưu số điện thoại của ta lại, dù biết họ gặp lại nhau nữa. Hai mươi phút sau, Mila về đến trụ sở cảnh sát liên bang. nhìn thấy nhiều đặc vụ mặc thường phục giơ thẻ ở cửa vào, đồng thời các đội tuần tra cũng vào. Ai đó triệu tập họ. Chắc hẳn có chuyện gì đó xảy ra. leo thang bộ để khỏi mất thời gian đứng vào hàng người chờ trước thang máy. nhanh chóng lên tầng ba, nơi nhóm điều tra dời về sau khi cái xác được tìm thấy. - Mosca triệu tập mọi người. - nghe thấy thanh tra vào điện thoại. tiến đến phòng họp. Đám đông chen chúc nhau qua cửa để giành chỗ ngồi. Ai đó lịch nhường cho qua trước. Mila tìm thấy chỗ trống ở hàng ghế cuối cùng. Ngồi phía trước , hơi chếch ra rìa chút là Boris và Stern. Stern nhận thấy vào và gật đầu chào. Mila cố ra dấu để kể lại cuộc gặp gỡ với Cinthia, nhưng ra hiệu để chuyện đó lại sau. Tiếng rít của loa phóng thanh làm cho mọi người ngừng tán gẫu trong giây lát: kỹ thuật viên cân chỉnh micro bục phát biểu và gõ gõ mấy cái để kiểm tra nó. Tấm bảng đèn và máy pha cà phê được cất để kê thêm ghế, nhưng vẫn đủ, nên nhiều cảnh sát đành phải đứng dọc các vách tường. Cuộc họp này có vẻ bình thường, Mila tự nhủ chắc phải có chuyện gì nghiêm trọng lắm. Hơn nữa, nhìn thấy cả Goran lẫn thanh tra Roche. hình dung ra họ cùng với Mosca họp bàn trong văn phòng nào đó để thống nhất về những gì sắp được công khai. chờ đợi thể chịu đựng nổi. Nhưng cuối cùng cũng nhìn thấy ngài chánh thanh tra xuất ngưỡng cửa. Ông ta vào nhưng tiến đến bục phát biểu, mà chỉ ngồi xuống hàng ghế đầu, lấp vào chỗ ngồi được cảnh sát viên mau mắn nhường lại. Gương mặt Roche kín như bưng. Ông ta có vẻ bình thản, chỉ bắt chéo chân và chờ đợi giống như những người khác. Goran và Mosca cùng vào lượt. Các đặc vụ đứng gần cửa dồn sát vào nhau trong khi hai người tiến đến bục phát biểu. Nhà tội phạm học đến tựa người vào chiếc bàn kê sát tường, trong khi ông đại úy gỡ micro ra khỏi giá đỡ và tuyên bố: - Thưa quý vị, xin vui lòng chú ý... (Trật tự được vãn hồi). Được rồi... Là thế này... Chúng tôi cho triệu tập mọi người lại vì có tin quan trọng cần thông báo. (Mosca dùng chữ “chúng tôi” dù ông ta giữ vai chính). Nó có liên quan đến bé được tìm thấy xác tại studio. Rất đáng tiếc, như lường trước, trường hoàn toàn sạch . Nhưng chúng ta quen với cẩn thận của thủ phạm. có dấu vân tay nào, có dịch cơ thể, cũng như các dấu vết bên ngoài... ràng là Mosca vội. Mila phải là người duy nhất nhận thấy điều đó: xung quanh , mọi người tỏ ra sốt ruột. Người duy nhất tỏ ra bình thản là Goran. Hai tay khoanh lại, ông chỉ đưa mắt nhìn cử tọa. Từ lúc này, diện của ông chỉ để làm nền. Mosca giành quyền làm chủ tình hình. - Tuy vậy, chúng tôi có thể hiểu lý do vì sao tên sát nhân hàng loạt mang cái xác đến đó. Điều này có liên quan đến vụ án mà tất cả chúng ta đều nhớ : vụ Benjamin Gorka... Tiếng xì xầm lan khắp gian phòng như làn sóng. Mosca dang tay ra hiệu cho mọi người yên lặng để ông cho hết. Rồi ông đút tay vào túi và đổi giọng: - Có vẻ như cách đây vài tháng chúng ta nhầm lẫn. sai lầm trầm trọng xảy ra. Mosca cách chung chung, chỉ ra cụ thể người phải chịu trách nhiệm, nhưng nhấn nhá khá mạnh câu của mình. - Đáng mừng là chúng ta vẫn còn có khả năng sửa chữa nó... Đúng lúc này, Mila nhận ra việc khác lạ. Stern vẫn nhìn thẳng trước mặt, nhưng bàn tay chầm chậm lăn xuống hông, mở bao súng. Lập tức đoán ra mọi chuyện và phát hoảng. - Rebecca Springher, nạn nhân cuối cùng của Gorka, bị giết phải bởi ta... mà bởi người trong số chúng ta. Tiếng xì xầm biến thành náo loạn, và Mila nhìn thấy viên đại úy giơ tay chỉ người trong đám đông cử tọa. Stern. ta đứng dậy và rút súng. Giữa lúc bối rối, Mila suýt nữa làm theo, nhưng rồi Stern quay sang trái và chĩa súng vào Boris. - Này, bị sao thế? - Boris ngạc nhiên hỏi. - Tôi muốn cậu giơ hai tay lên, sao cho tôi nhìn thấy . Và đừng buộc tôi phải nhắc lại. 37 - nên cho chúng tôi biết thực mọi việc diễn ra như thế nào. Họ cho mời ba chuyên viên thẩm vấn của quân đội thay phiên nhau quần đảo Boris. biết mọi kỹ thuật moi thông tin, nhưng ý đồ của ba người khiến kiệt sức vì các câu hỏi ngừng nghỉ. Việc thiếu ngủ có tác động lên Boris còn hơn cả bất cứ chiến thuật nào. - Tôi là tôi biết gì hết rồi mà. Mila quan sát đồng nghiệp của mình qua tấm gương tráng thủy. Chỉ có mình trong căn phòng . Bên cạnh là chiếc camera kỹ thuật số gửi hình ảnh cuộc thẩm vấn vào hệ thống khép kín, tránh để cho các nhân vật chóp bu của ban điều tra - trong đó có Roche - được tham dự cách trực tiếp vào vụ xử lý trong những người giỏi nhất mà họ có. Họ có thể theo dõi vụ việc trong khi vẫn ngồi chễm chệ trong văn phòng của mình. Riêng phần Mila, muốn có mặt tại chỗ. Bởi lẽ chưa thể tin nổi cáo buộc nặng nề nhằm vào Boris. “Chính Boris là người mình tìm ra Rebecca Springher”. Stern kể với rằng, trong phòng thẩm vấn tương tự như phòng nhìn thấy, Benjamin Gorka vô tình tiết lộ cho Boris những manh mối dẫn tới nhà kho cũ, nơi có cái giếng. Theo báo cáo chính thức Boris mình tới địa điểm đó và tìm thấy nạn nhân chết. “ ta tự cắt mạch máu mình bằng cái mở hộp mà Gorka để lại cùng với chỗ đồ hộp. Nhưng tức nhất là điều... Theo bác sĩ pháp y, ta tự sát chỉ hai giờ trước khi được Boris tìm thấy”. Stern kể như thế. Hai giờ. Nhưng Mila xem hồ sơ. Ngay từ hồi đó, khi phân tích chỗ thức ăn còn lại trong dạ dày điếm và dừng đột ngột của quá trình tiêu hóa sau khi tử vong, bác sĩ pháp y cho rằng, họ thể xác định cách chính xác thời điểm tử vong của nạn nhân. Và do vậy, cái chết có thể xảy ra muộn hơn hai tiếng đồng hồ. Hôm nay, nghi ngờ được dỡ bỏ hoàn toàn. Người ta buộc tội Boris đến nơi lúc Rebecca Springher còn sống và đứng trước hai lựa chọn. Hoặc cứu điếm và trở thành hùng. Hoặc làm điều tưởng mà mọi kẻ sát nhân đều mong muốn. tội ác hoàn hảo. Nó bị trừng phạt, bởi hề có động cơ. Được lần được cảm nhận quyền năng kiểm soát sống chết của đồng loại. Đồng thời hoàn toàn chắc ăn là mình thoát tội, vì tội lỗi được đổ lên đầu kẻ khác. Suy nghĩ ấy cám dỗ Boris, theo những người buộc tội lập luận. Khi làm chứng trong phiên tòa xét xử Benjamin Gorka, giáo sư Gavila khẳng định: “Bản năng sát thủ diện trong mỗi chúng ta. Nhờ trời, tất cả mọi người đều có chốt an toàn để kiểm soát và ức chế. Tuy nhiên, luôn tồn tại điểm vỡ”. Boris đạt đến điểm này khi đối diện với tội nghiệp thể tự vệ kia. Xét cho cùng, ta chỉ là ả điếm. Nhưng Mila thể tự thuyết phục mình tin vào điều đó. Tuy nhiên, thứ mà lúc đầu chỉ là hướng điều tra được khẳng định sau đó, bằng việc khám xét nhà Boris và tìm thấy vật chứng. món đồ kỷ niệm để chàng nhớ lại việc : chiếc quần lót của , bị lấy từ trong kho tang vật sau khi cuộc điều tra kết thúc. - có đường thoát đâu, Boris. Chúng tôi ở lại đây cả đêm nếu cần. Và cả ngày mai, ngày kia nữa. Tay điều tra viên phun cả nước bọt trong khi . Việc này cũng góp phần làm sa sút tinh thần của đối tượng bị thẩm vấn. Cánh cửa phòng bên bật mở. Mila thấy Terence Mosca bước vào. ve áo ông ta có vệt mỡ, chắc là rơi rớt từ đồ ăn nhanh của bữa trưa. - Mọi thứ thế nào rồi? - Viên đại úy hỏi, hai tay vẫn đút túi như thường lệ. Mila trả lời, mắt nhìn ông ta. - Vẫn có gì. - đầu hàng thôi. Ông ta có vẻ rất tự tin. - Điều gì làm ông tin chắc như vậy? - Sớm muộn gì tất cả bọn họ cũng làm cho phải thú nhận thôi. thừa biết chuyện đó. Có lẽ cần thêm ít thời gian, nhưng rốt cuộc phải chọn cái ít đau đớn nhất. - Tại sao ông bắt Boris trước chứng kiến của mọi người? - Để cho khả năng hành động. Mila quên đôi mắt ngân ngấn nước của Stern khi bập còng vào tay người coi như con trai mình. Khi được biết kết quả vụ khám xét căn hộ của Boris, đề nghị tự mình bắt giữ Boris, và cương quyết nghe khi Roche tìm cách thuyết phục đổi ý. - Vậy nếu Boris vô can trong vụ này sao? Mosca đứng vào giữa Mila và tấm gương, rút hai tay ra khỏi túi. - Trong hai mươi lăm năm điều tra, tôi chưa từng bắt lầm người nào. Mila bật cười mỉa mai. - Lạy trời, vậy ông là cảnh sát giỏi nhất thế giới rồi còn gì. - Các chánh án luôn luôn chốt lại những vụ mà tôi điều tra bằng bản cáo trạng. phải vì tôi làm tốt công việc của mình. có muốn biết lý do ? - Có chứ. - Thế giới này kinh tởm lắm, cảnh sát Vasquez ạ. - khẳng định của ông bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân à? Thực tôi rất muốn biết... Mosca nổi cáu, kiểu châm chọc này làm ông khoái trá. - Điều diễn ra trong những ngày này, điều mà chúng ta được phép khám phá nhờ... Các gọi gã ta là gì nhỉ? - Albert. - Phải rồi. , điều mà gã cuồng tín đó thực cách hoàn hảo, nó rất giống với khúc khải huyền nho ... biết khải huyền là gì chứ, cảnh sát Vasquez? Trong kinh thánh, đó là thời điểm tận thế, khi mà mọi tội lỗi của con người bị phơi bày để phán xét. Gã Albert dở hơi này cho chúng ta được chứng kiến nỗi kinh hoàng đến mức cả thế giới, chứ chỉ riêng đất nước này, lẽ ra phải dừng lại để suy nghĩ, chí ít là thế... Nhưng ngược lại, biết chuyện gì xảy ra ? Mosca tiếp, nên Mila hỏi: - Chuyện gì kia chứ? - có gì. Hoàn toàn có gì. Những con người ngoài kia tiếp tục giết chóc, trộm cắp, đè đầu cưỡi cổ đồng loại như thể có gì xảy ra! nghĩ bọn giết người dừng tay, lũ trộm cắp tự vấn lương tâm à? Để tôi cho ví dụ cụ thể nhé: sáng nay, hai quản giáo gõ cửa nhà phạm nhân mới được ân xá cách đây chưa lâu nhờ có thái độ cải tạo tốt. Họ đến vì đối tượng quên ra trình diện tại đồn cảnh sát địa phương theo như hạn định. Và biết kẻ đó làm gì ? bắt đầu xả súng. Thế đấy, chẳng có cơn cớ gì. làm trong hai quản giáo bị thương nặng và cố thủ tại nhà, vãi đạn vào bất cứ người nào đến gần. Theo tại sao nào? - Tôi biết. - Mila thừa nhận. - Tôi cũng . Nhưng người đồng nghiệp của chúng ta vật lộn giữa sống và cái chết tại bệnh viện; còn tôi, trước sáng ngày mai, tôi phải nặn ra lời giải thích cho người góa phụ cật vấn tôi tại sao chồng mình phải chết cách xuẩn ngốc đến thế! Thế giới này kinh tởm lắm, cảnh sát Vasquez ạ. Và Klaus Boris là kẻ có tội. Chấm hết. Nếu tôi là , tôi chấp nhận chuyện đó. Terence Mosca quay lưng, đút hai tay vào túi rồi bước ra khỏi phòng, sập cửa lại sau lưng. - Tôi biết, chuyện này vớ vẩn. - Boris lên tiếng. Nhưng Boris có vẻ bình thản và biết tiết kiệm sức lực cho những giờ phút khó khăn trước mặt sau cơn giận dữ ban đầu. Mila quá mệt khi chứng kiến cảnh tượng này. mệt mỏi vì liên tục phải thay đổi quan điểm của mình về những người khác. Chính Boris là người cưa cẩm lúc vừa mới đến. Người mang bánh sừng bò và cà phê nóng cho , và tặng chiếc áo khoác khi bị lạnh. Ở bên kia tấm kính, vẫn là người đồng nghiệp cùng với giải quyết phần lớn những bí mật của Albert. chàng cao to hoạt bát rất dễ thương và hơi phiền phức, người rất dễ mủi lòng khi về người khác. Nhóm điều tra của Goran hoàn toàn tan vỡ, kéo theo cuộc điều tra và hy vọng cứu sống bé Sandra kiệt dần sức lực ở nơi nào đó. Rốt cuộc em chết phải vì tên sát nhân hàng loạt danh, mà bởi vị kỷ và tội lỗi của những người khác. Đó là cái kết hoàn hảo nhất mà Albert có thể nghĩ ra. Trong lúc suy nghĩ, Mila nhìn thấy khuôn mặt của Goran xuất tấm kính. Ông đứng ngay sau . Nhưng ông nhìn sang phòng thẩm vấn. Ông tìm ánh mắt trong hình ảnh phản chiếu. Mila quay lại. Họ yên lặng nhìn nhau hồi lâu. Họ gặp nhau ở cùng trạng thái buồn bã và đau đớn. Bất giác ngả người về phía ông, nhắm mắt lại và tìm đến đôi môi ông. ấp môi mình vào đó, và cảm thấy ông đáp lại. Cơn mưa tồi tệ đổ xuống thành phố. Nó làm ngập các con đường, nghẹt các miệng cống, các máng xối hết hút vào lại khạc nước ra ngừng. Chiếc taxi đưa họ đến khách sạn gần nhà ga. Mặt tiền của khách sạn đen nhẻm vì khói bụi. Các lá sách cửa sổ luôn đóng im ỉm, bởi những người dừng chân ở đây có thời gian để mở chúng. Người ta đến rồi lại . Những chiếc giường được dọn lại cả ngày lẫn đêm. Trong hành lang, các bà dọn phòng mệt mỏi đẩy mấy chiếc xe cọt kẹt chất đầy khăn và xà bông. Bữa ăn được phục vụ mọi lúc. số khách hàng tạt vào đây để nghỉ ngơi và thay quần áo. Số khác đến để làm tình. Người trực ban đưa cho họ chìa khóa phòng số 23. Họ vào thang máy, lời, tay trong tay. Nhưng phải như đôi tình nhân, mà giống như hai con người sợ để mất nhau. Phòng khách sạn toàn những món đồ nội thất lẻ bộ, sực nức mùi thuốc xịt phòng pha lẫn mùi thuốc lá. Họ ôm hôn nhau lần nữa, lần này mạnh bạo hơn, như thể muốn gạt bỏ mọi suy nghĩ trước khi cởi bỏ quần áo. Ông đặt tay lên bên ngực . nhắm mắt. Ánh sáng nhập nhoạng qua màn mưa từ tấm bảng hiệu của nhà hàng Trung Hoa lọt vào phòng, khắc họa bóng hình của hai người trong tối. Goran cởi đồ cho . Mila để yên cho ông làm điều đó, chờ đợi phản ứng của ông. Ông khám phá chiếc bụng phẳng của trước tiên, sau đó hôn dần lên ngực . Vết sẹo đầu tiên xuất ở hông . Ông tuột chiếc áo thun chui đầu của cách khéo léo. Rồi ông nhìn thấy những vết sẹo khác. Nhưng mắt ông dừng lại ở đó, mà để cho đôi môi làm nhiệm vụ. Trước ngạc nhiên của Mila, ông lần lượt đặt những nụ hôn dài lên từng vết sẹo. Tựa hồ như ông muốn chữa lành cho chúng theo cách nào đó. Khi cởi chiếc quần jean của , ông lặp lại những cử chỉ thương đó đôi chân . Nơi vết thương vẫn còn tươi máu hoặc chỉ vừa mới đông. Nơi lưỡi dao cạo vừa cứa vào da thịt của gần đây. Mila lại cảm thấy nỗi đau đớn mỗi khi khắc ghi hình phạt kia vào tâm hồn thông qua thể xác. Nhưng cả cơn đau cũ là điều gì đó rất đỗi dịu dàng. Giống như cảm giác hơi ngứa ngáy khi vết thương lên da non, vừa châm chích lại vừa dễ chịu. Đến lượt cởi quần áo cho ông. làm điều đó giống như người ta gỡ từng cánh mỏng của bông hoa. Ông cũng có những dấu ấn đau khổ của riêng mình. Hai bên sườn quá gầy do nỗi tuyệt vọng chầm chậm hằn dấu. Và những chiếc xương nhô ra ở nơi các bắp thịt bị nỗi buồn gặm mất. Họ làm tình với mãnh liệt khác thường. Cuồng dại, nóng bỏng, nhưng cũng rất gấp gáp. Như thể qua đó người này muốn hòa nhập vào thân thể người kia. Và sẵn sàng quên ngay lập tức. Khi mọi thứ trôi qua, họ nằm cạnh nhau - tuy rời nhau ra nhưng vẫn còn nhập làm - và lắng nghe nhịp thở của mỗi người. Rồi thắc mắc đến trong im lặng. Mila có thể cảm thấy nó lởn vởn bên hai người như con chim màu đen. Nó gắn với cội nguồn đau khổ của họ, của và của ông. Điều mà khắc sâu da thịt để rồi phải cố dùng trang phục để che . Tất nhiên, câu hỏi đó liên quan mật thiết với số mệnh của bé . Sandra. Trong khi họ cùng chia sẻ cảm xúc này, ở nơi nào đó, rất rất xa, bé ấy chết dần chết mòn. Mila đáp trước khi Goran đặt câu hỏi: - Công việc của em là tìm người mất tích. Đặc biệt là trẻ con. số mất tích hàng mấy năm trời và còn nhớ gì được nữa. Em liệu như thế là tốt hay là xấu. Nhưng ràng khía cạnh này của công việc làm em gặp rắc rối nhiều nhất... - Tại sao vậy? - Bởi vì khi em lặn sâu xuống vực tối để lôi ai đó lên, em luôn cần phải có lý do, lý do mạnh để đưa em trở lại với ánh sáng. Nó giống như là sợi dây an toàn để kéo em lên vậy. Nếu có điều em học được, đó là bóng tối luôn mời gọi chúng ta, quyến rũ chúng ta bằng hun hút chóng mặt của nó. Rất khó để cưỡng lại nó... Khi em thoát ra khỏi bóng tối cùng với những người mà em cứu được, em nhận thấy bọn em ra khỏi đó mình. Luôn luôn có thứ gì đó từ cái lỗ đen ấy bám theo bọn em, bám riết rời. Khó mà rũ bỏ nó được. Goran nhìn vào mắt . - Sao em lại đến chuyện này? - Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng, em phải quay lại với bóng tối.
38 Con bé tựa người vào tường, tay để sau lưng, trong bóng tối. bé kia quan sát nó được bao lâu rồi? Nó quyết định gọi tên bé. - Gloria ơi... bé tiến lại gần. bé luôn có cái vẻ tò mò ấy, nhưng lần này hơi khác. chút hoài nghi. - Tớ nhớ ra điều... Trước đây tớ từng có con mèo. - bé . - Tớ cũng thế. Con mèo của tớ tên là Houdini. - Nó có xinh ? - Nó xấu tính lắm. - Nhận ra đó phải là câu trả lời bé kia chờ đợi, nên nó vội sửa lại. - À, nhưng nó cũng khá xinh. Nó có bộ lông màu đen và nâu, ban ngày nó ngủ suốt, và lúc nào nó cũng đói. Gloria ngẫm nghĩ lúc, rồi hỏi: - Thế theo cậu, sao tớ lại quên mất con mèo của mình được nhỉ? - Tớ biết. - Tớ nghĩ... nếu tớ quên mất nó, tức là tớ cũng nhớ những chuyện khác. Có khi ngay cả tên của tớ cũng nên. - Tớ thích cái tên Gloria. - Nó động viên, trong bụng thầm nghĩ đến phản ứng của bé khi nó tên của bé là Linda Brown. - Gloria này... - Ừ? - Cậu có muốn về Steve cho tớ nghe ? - Steve quý tụi mình lắm. Rồi cậu cũng thích Steve cho mà xem. - Tại sao cậu lại bảo là Steve cứu tụi mình? - Vì là như thế mà. Steve cứu tụi mình. - Nhưng tớ đâu có cần được Steve cứu? - Cậu biết đấy thôi, cậu gặp nguy hiểm. - Frankie là mối nguy hiểm à? Gloria sợ cái tên đó. bé do dự, biết liệu có nên ra hay . bé cân nhắc tình hình, rồi tiến lại gần giường con bé và thào khẽ. - Frankie muốn làm hại hai đứa mình. truy lùng tụi mình. Chính vì thế mà mình phải trốn ở đây. - Tớ chẳng biết ai là Frankie, cũng hiểu thù ghét tớ vì chuyện gì. - thù hằn gì với tụi mình, mà với bố mẹ tụi mình kia. - Bố mẹ tớ á? Sao lại thế? Con bé tin, chuyện này nghe vớ vẩn. Nhưng Gloria lại có vẻ rất chắc chắn. - Bố mẹ cậu và tớ lừa , chuyện này có liên quan đến tiền nong. Lại lần nữa, câu của bé nghe như được ai đó ra và bé chỉ học thuộc lòng cách thụ động. - Bố mẹ tớ thiếu nợ ai cả. - Bố mẹ tớ chết rồi. Frankie giết hai người họ. Giờ tìm tớ để thanh toán nốt. Nhưng Steve tin rằng bao giờ tìm được tớ nếu tớ trốn trong này. - Gloria, cậu nghe này... Thỉnh thoảng Gloria lại có vẻ lơ đãng và cần phải được lôi ra khỏi dòng suy nghĩ. - Gloria, tớ bảo... - Ừ, chuyện gì thế? - Bố mẹ cậu vẫn còn sống. Tớ còn nhớ nhìn thấy họ truyền hình cách đây lâu. Họ tham dự chương trình đối thoại, và họ kể về cậu. Họ chúc cậu sinh nhật vui vẻ. bé có vẻ xúc động mấy trước tiết lộ của nó. Nhưng bé cũng bắt đầu tự hỏi liệu tất cả những chuyện này có phải là hay . - Tớ xem ti vi được. Chỉ xem toàn băng của Steve thôi. - Steve. Chính Steve mới là kẻ xấu, Gloria ơi, Frankie tồn tại đâu. Đó chỉ là nhân vật được dựng lên để giữ cậu ở lại đây mà thôi. - có . - Cậu nghĩ cho kỹ vào. Cậu nhìn thấy chưa? - Chưa. - bé công nhận. - Vậy làm thế nào cậu tin là có ? Gloria cũng tầm tuổi nó, nhưng có vẻ trẻ con hơn cái tuổi mười hai rất nhiều. Như thể bộ não của bé ngừng phát triển từ năm lên chín, tức là trùng với thời điểm Steve bắt cóc Linda Brown. Chính vì thế mà bé luôn cần nhiều thời gian hơn đôi chút để ngẫm nghĩ. - Steve rất tớ. - bé lặp lại, nhưng có vẻ để tự thuyết phục đúng hơn. - phải vậy. quý gì cậu đâu. - Vậy cậu định là nếu tớ tìm cách ra khỏi đây Frankie giết tớ à? - Chuyện đó bao giờ xảy ra. Hơn nữa, chúng ta cùng nhau. Cậu đơn độc. - Cậu cùng tớ à? - Phải. Nhưng tụi mình phải tìm ra cách thoát khỏi Steve. - Nhưng cậu ốm. - Tớ biết. Và tớ thể cử động cánh tay được. - Tay cậu bị gãy. - Chuyện xảy ra thế nào? Tớ nhớ được... - Cậu ngã ở cầu thang lúc Steve đưa cậu vào đây. Steve giận lắm: Steve muốn cậu chết. Nếu cậu chết, Steve thể dạy cho cậu cách thương ông ấy. Chuyện đó quan trọng lắm, cậu biết ? - Tớ bao giờ thương . Gloria ngẫm nghĩ lúc. - Tớ thích cái tên Linda. - Tớ thấy mừng là cậu thích nó, vì đó là tên của cậu. - Vậy cậu có thể gọi tớ bằng cái tên đó... - Tớ đồng ý, Linda... - Con bé phát rành rọt, làm bé mỉm cười. - Giờ chúng ta là bạn. - chứ? - Khi gọi nhau bằng tên, người ta trở thành bạn bè, ai bảo với cậu chuyện đó à? - Tớ biết tên cậu rồi... Cậu tên là Maria Eléna. - Ừ, nhưng bạn bè gọi tớ là Mila. 39 - Thằng khốn nạn ấy tên là Steve, Steve Smitty. Mila phát cái tên đó với thái độ ghê tởm. Goran nắm lấy tay chiếc giường mét rưỡi trong khách sạn. - chỉ là thằng du côn vô tích . nhảy hết việc này sang việc khác, luôn luôn bị sa thải trong vòng tháng. Phần lớn thời gian thất nghiệp. Khi bố mẹ qua đời, được thừa kế căn nhà - nơi nhốt hai đứa bọn em - và tiền bảo hiểm nhân thọ. nhiều, nhưng cũng đủ để thực “kế hoạch lớn” của . Mila nhấn mạnh ba chữ “kế hoạch lớn”. Rồi lắc đầu quầy quậy khi nhớ đến phi lý của câu chuyện. - Steve thích phụ nữ, nhưng dám tiếp cận họ vì cái của nợ của chỉ to bằng ngón tay út và sợ bị họ chế giễu. - Nụ cười mỉa mai và hả hê khuôn mặt Mila trong thoáng. - Thế nên chuyển sang quan tâm các bé , tin rằng mình thành công hơn. - còn nhớ vụ Linda Brown. - Goran . - Lúc đó vừa kiếm được việc làm đầu tiên tại trường đại học. nghĩ cảnh sát phạm sai lầm trong vụ đó. - Sai lầm á? Phải, bọn họ sai lè lè ra ấy chứ! Steve chỉ là gã ăn may non kinh nghiệm, để lại cả đống dấu vết và nhân chứng! Nhưng cảnh sát thể tìm ra ngay và biện bạch rằng rất ranh ma. Nhưng đó chỉ là thằng ngu! thằng ngu gặp may... - Thằng ngu đó thuyết phục Linda thành công... - bỏ bùa Linda bằng cách lợi dụng nỗi sợ hãi của ấy. dựng lên gã Frankie xấu xa và cho đóng vai ác để mình trở thành người tốt bụng, “vị cứu tinh”. thậm chí còn chẳng có óc sáng tạo: lấy cái tên Frankie, bởi vì đó là tên của con rùa nuôi hồi bé! - Và thành công. Mila trấn tĩnh lại. - Với bé hốt hoảng và sốc nặng trong hoàn cảnh như thế rất dễ bị mất đầu óc thực tế. Em bị nhốt trong căn hầm kinh tởm, mà vẫn cứ gọi nó là “cái bụng của con quái vật”. Bên chỗ đó là căn nhà, nằm trong vùng ven đô với nhiều nhà cửa xung quanh, tất cả đều từa tựa và bình thường như nhau. Người ta qua trước nhà mà hề biết em bị nhốt bên dưới. Tệ nhất là Linda, hay còn được gọi bằng cái tên Gloria, tên của đầu tiên từ chối , có thể lại tự do nhưng thậm chí nghĩ tới việc ra khỏi nhà, dù cửa ra vào gần như lúc nào cũng mở! khóa trái cửa ngay cả khi vắng. rất chắc ăn với câu chuyện về Frankie! - Em rất may khi thoát được ra khỏi chỗ đó. - Tay em bị hoại tử. Trong thời gian dài, các bác sĩ tuyệt vọng cứu chữa nó. Hơn nữa, em bị suy dinh dưỡng nặng. Gã điên đó chỉ cho em ăn thức ăn đóng hộp của trẻ con và uống những thứ thuốc quá hạn mà nhặt được trong thùng rác của hiệu thuốc. chẳng cần phải chuốc thuốc cho em: máu em bị nhiễm độc nặng bởi những thứ rác rưởi đó đến nỗi việc em còn tỉnh táo được là điều thần kỳ. Ngoài trời mưa như trút nước, cuốn trôi những cụm tuyết còn đóng lại. Màn mưa đột ngột quất túi bụi vào những cánh cửa chớp. - lần nọ, em thoát ra khỏi cơn mê sảng vì nghe thấy ai đó gọi tên mình. Em cố gây chú ý, nhưng lúc đó Linda xuống thuyết phục em ngừng lại. Thế là em đánh đổi cơ hội thoát nạn bằng hạnh phúc nhoi là bị độc. Nhưng hóa ra em nhầm: ở đầu em lúc đó có hai cảnh sát rà soát khu vực. Họ vẫn còn tìm kiếm em! Nếu em hét to hơn, có lẽ họ nghe thấy. Giữa họ và em chỉ có lớp ván sàn mỏng. cùng họ còn có phụ nữ, chính bà là người gọi tên em. Nhưng bà gọi thành tiếng, mà chỉ gọi thầm trong đầu. - Là bà Nicla Papakidis phải ? Vậy ra em quen bà ấy như thế... - Vâng. Nhưng dù em đáp lại, bà ấy vẫn nghe được điều gì đó. Thế là trong những ngày tiếp theo bà quay lại, đảo quanh nhà với hy vọng cảm nhận được chút gì đó... - Vậy phải Linda là người cứu em sao? - Linda á? - Mila thở dài. - Linda kể lại tất cả mọi chuyện với Steve, và vô tình trở thành đồng lõa của . Trong suốt ba năm trời, là cả thế giới đối với Linda. Trong nhận thức của Linda, Steve là người lớn duy nhất mặt đất. Và trẻ con luôn đặt niềm tin vào người lớn. Nhưng khác với Linda, Steve nghĩ đến việc thanh toán em: tin là em sắp chết đến nơi, nên đào sẵn cái hố trong căn chòi cất dụng cụ ở sau nhà. Những bức ảnh chụp cái hố khiến Mila chấn động hơn hết thảy những thứ còn lại. - Khi ra khỏi căn nhà đó em ở trong tình trạng mười phần chết chín. Em nhận ra các y tá khiêng mình chiếc cáng và ngược lên những bậc thang mà Steve đẩy em ngã xuống. Em thấy hàng chục cảnh sát tập hợp lại quanh nhà. Em nghe thấy những tràng pháo tay của đám đông kéo đến chúc mừng cho tự do của em. Nhưng giọng của bà Nicla theo em, trong đầu em giọng ấy tả lại mọi thứ và luôn bảo em đừng về hướng có ánh sáng... - Ánh sáng nào? - Goran tò mò hỏi. - Bà ấy tin rằng có nguồn sáng đâu đó. - Mila mỉm cười đáp. - Có lẽ đó là do đức tin của bà. Em nghĩ bà đọc được ở đâu đó rằng, khi con người ta chết, linh hồn thoát ra khỏi thân xác, và sau khi qua đường hầm, họ nhìn thấy ánh sáng diệu kỳ đó... Em chưa bao giờ với bà là em hề nhìn thấy nó. Chỉ toàn màu đen. Em muốn làm bà thất vọng. Goran nghiêng người qua hôn vào vai Mila. - Chuyện này chắc kinh khủng lắm. - Em gặp may. - Mila , trong đầu chợt nghĩ đến Sandra, bé số sáu. - Lẽ ra em phải cứu thoát bé. Nhưng em làm. bé còn bao nhiêu cơ may sống sót đây? - Đó phải là lỗi của em. Có chứ. Đây là lỗi của mình. Mila nhỏm người ngồi dậy ở cạnh giường. Goran lại vươn tay về phía , nhưng muốn đụng vào . Cái vuốt ve chỉ dừng lại ở bề mặt da mà chạm đến nơi, bởi lại trở thành xa cách. Ông nhận ra điều đó và thả cho . - tắm cái. - Ông . - phải về, Tommy cần . Mila ngồi yên, mặc quần áo, cho đến khi nghe thấy tiếng nước chảy trong phòng tắm. muốn xóa sạch khỏi đầu những hồi ức kinh tởm ấy để lại có cái đầu trống rỗng, nhàng tinh khôi như của đứa trẻ, đặc quyền mà bị tước mất cách thô bạo. Cái hố trong lán dụng cụ sau nhà Steve hoàn toàn trống rỗng. Mila chôn xuống đó khả năng thấu cảm của mình. vươn tay cầm lấy điều khiển ti vi bàn đầu giường. bật ti vi với hy vọng là những mẩu đối thoại và các hình ảnh vô nghĩa giống như nước vòi sen cuốn trôi mọi thứ tồi tệ trong đầu mình. màn hình, phụ nữ ghì chặt chiếc micro trong khi gió và mưa rắp tâm giật nó . Bên góc phải là logo bản tin thời . Còn bên dưới chạy các tít của chương trình đặc biệt. Hậu cảnh của bản tin là ngôi nhà vây quanh bởi hàng chục xe cảnh sát bật đèn lấp loáng trong đêm tối. “… trong vòng giờ nữa thôi, ngài chánh thanh tra ra thông cáo chính thức. Trong khi chờ đợi, chúng tôi có thể xác nhận rằng việc là có : danh tính của tên cuồng sát các bé và làm cả đất nước hoảng loạn được xác định...” Mila nhúc nhích, mắt dán vào màn hình. “... đó là phạm nhân vừa được tại ngoại có quản thúc, kẻ sáng nay bắn vào hai quản giáo khi họ đến nhà để kiểm tra…” Chuyện này Terence Mosca kể cho nghe trong căn phòng cạnh buồng thẩm vấn Boris. Thậm chí vẫn còn chưa tin nổi. “... sau cái chết của quản giáo tại bệnh viện, các đơn vị đặc nhiệm được cử đến quyết định xông vào. Sau khi hạ gục tên cuồng sát và tiến vào nhà , họ có phát bất ngờ mong đợi…” bé, về bé nhanh lên! “… chúng tôi xin nhắc lại cho những ai chưa kịp theo dõi: tên của kẻ tấn công là Vincent Clarisso...” Albert, Mila thầm sửa lại trong đầu. “... các nguồn tin nội bộ cho biết, nạn nhân số sáu vẫn còn ở trong ngôi nhà sau lưng tôi: tại bé được đội cứu hộ thực các chăm sóc ban đầu. Chúng tôi vẫn chưa có được khẳng định chắc chắn, nhưng có vẻ như bé Sandra vẫn còn sống”. Biên bản ghi số 7 Ngày 23 tháng 12 năm hành Lúc 3h25’ sáng Độ dài: 1 phút 35 giây Phạm nhân RK-357/9 “... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị hiểu được]... những thứ đáng hứng chịu cơn giận dữ của ta... làm điều gì đó... niềm tin trước hết... [câu tiếp theo thiết bị hiểu được] quá tốt, chiếu cố... được để bị lừa... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị hiểu được] luôn có ai đó lợi dụng ta... hình phạt cần thiết... thi hành án phạt của kẻ đó... chỉ hiểu chuyện thôi chưa đủ, đôi khi cần phải hành động... biết, sẵn sàng, chuẩn bị cho [câu tiếp theo thiết bị hiểu được]... ngay cả khi phải giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết, giết.” 40 Ban khoa học hành vi, 25 tháng 2 Vincent Clarisso là Albert. Kẻ vừa mới rời nhà tù chưa đầy hai tháng, sau thời gian bóc lịch vì phạm tội cướp có vũ trang. Sau khi ra tù, bắt đầu kế hoạch của mình. có tiền án hình . có dấu hiệu bệnh thần kinh. có gì khiến người ta nghĩ là kẻ có khả năng trở thành tên giết người hàng loạt. Vụ cướp có vũ trang là “tai nạn” theo như các luật sư bào chữa cho tại tòa. ngớ ngẩn của thanh niên nghiện ma túy nặng. Clarisso xuất thân từ gia đình khá giả, bố là luật sư và mẹ là giáo viên. học xong và có bằng y tá. Trong thời gian, làm công việc chuẩn bị dụng cụ mổ tại bệnh viện. Có thể đó là nơi học được các kiến thức cần thiết để duy trì sống cho Sandra sau khi cắt bên tay của bé. Giả thiết của nhóm điều tra cho rằng Albert là bác sĩ hóa ra quá sai biệt. Vincent Clarisso cho tất cả những kinh nghiệm đó ngủ yên sau lớp kén, trong con người mình, trước khi lột xác thành con quỷ. Nhưng Mila tin chuyện này. phải , thầm lặp lặp lại trong chiếc taxi chở đến trụ sở cảnh sát liên bang. Sau khi biết tin qua truyền hình, Goran chuyện trong khoảng hai chục phút với Stern và được cập nhật các kiện vừa diễn ra. Nhà tội phạm học qua lại trong căn buồng khách sạn dưới ánh mắt lo ngại của Mila. Sau đó hai người chia tay. Goran gọi cho bà Runa để bảo bà ở lại với Tommy đêm nay, rồi ông nhanh chóng đến địa điểm mà Sandra được tìm thấy. Mila cũng muốn theo, nhưng diện của là cần thiết. Do vậy hai người hẹn gặp nhau sau đó tại ban khoa học hành vi. quá nửa đêm, nhưng thành phố vẫn bị tắc đường nghiêm trọng. Mọi người ra khỏi nhà, mặc kệ cơn mưa, để ăn mừng kết thúc của cơn ác mộng. Tưởng như đây là đêm giao thừa, với những tiếng còi xe inh ỏi trong khi mọi người ôm hôn nhau chặt. Tình hình giao thông càng phức tạp hơn do các chốt kiểm soát được dựng lên để chặn đường những kẻ đồng lõa của Clarisso nếu có, đồng thời để ngăn cho những người hiếu kỳ kéo đến trường kết thúc của vụ việc. Trong xe taxi nhích từng mét , Mila nghe được báo cáo mới đài. Terence Mosca trở thành người hùng. Vụ án được giải quyết nhờ may mắn. Nhưng như thường khi, kẻ duy nhất hưởng lợi là người đứng đầu chiến dịch hành động. Mệt mỏi vì phải chờ đợi hàng xe hơi nối đuôi nhau, Mila quyết định xuống xe, đương đầu với cơn mưa nặng hạt. Tòa nhà của trụ sở cảnh sát liên bang chỉ còn cách đó hai khối nhà. trùm chiếc mũ áo khoác lên đầu và bước , chìm trong suy nghĩ. Con người Vincent Clarisso khớp với chân dung của Albert được Gavila vẽ nên. Theo nhà tội phạm học, đối tượng của họ sử dụng thi thể của các nạn nhân như những dấu mốc. Gã đặt chúng tại những địa điểm đặc biệt, để hé lộ những tội ác kinh khủng mà gã biết. Họ cho rằng là kẻ cộng tác mặt của những thủ phạm kia, và tất cả đều gặp mặt gã trong đời. “Đó là những con sói. Bọn sói thường săn theo bầy đàn. Mỗi đàn có con thủ lĩnh. Đây là điều mà Albert muốn với chúng: gã chính là con sói đầu đàn”, Goran từng khẳng định như thế. Mila càng tin rằng, Vincent phải là Albert khi căn cứ vào tuổi của : ba mươi. Quá trẻ để biết đến Ronald Dermis ở nhi viện ngày xưa, cũng như Joseph B. Rockford. Quả vậy, nhóm điều tra rút ra kết luận rằng, Albert phải ở tầm từ năm mươi đến sáu mươi tuổi. Ngoài ra, Vincent cũng giống với các mô tả của bà Nicla chút nào. Trong khi bộ dưới trời mưa, Mila tìm thấy lý do nữa để củng cố ngờ vực của mình: Clarisso ở trong tù khi Feldher thảm sát gia đình bà Yvonne trong ngôi biệt thư của Capo Alto, như vậy làm sao gã có mặt chứng kiến việc đó và để lại hình dáng của mình giữa đám máu bắn tường? phải . Họ phạm sai lầm nghiêm trọng. Nhưng chắc Goran cũng nhận ra điều đó và giải thích với họ. Lúc đến trụ sở cảnh sát, Mila nhận ra khí sảng khoái tràn ngập khắp các hành lang. Các cảnh sát vỗ vào lưng nhau, nhiều người vừa từ trường về, người vẫn mặc trang phục chống đạn, và kể cho nhau nghe những thông tin mới nhất. Tin tức sau đó được truyền khẩu và thêm thắt những chi tiết mới. Mila được nữ cảnh sát thông báo là Roche muốn gặp khẩn cấp. - Tôi á? - ngạc nhiên hỏi lại. - Phải, ông ấy đợi ở trong văn phòng. Trong lúc leo lên cầu thang, Mila tự nhủ Roche cho gọi mình bởi ông ta nhận ra có điều gì đó ăn khớp. Có lẽ khí vui mừng sớm bị giải tỏa và lắng xuống. Tại ban khoa học hành vi, chỉ có vài đặc vụ trong bộ đồng phục, và ai ăn mừng. Bầu khí giống như ngày làm việc bình thường, trừ việc là ban đêm mà mọi người vẫn làm nhiệm vụ. đợi lúc lâu trước khi thư ký của Roche đưa vào văn phòng của ông ta. Lúc đứng bên ngoài, Mila nghe thấy tiếng của ngài chánh thanh tra, có lẽ ông trao đổi qua điện thoại. Nhưng khi bước qua ngưỡng cửa, bất ngờ nhận thấy ông ta ở mình. Goran Gavila cũng có mặt tại đó. - Vào , đặc vụ Vasquez. Roche mời ngồi. Goran và ông đứng ở đầu kia của chiếc bàn làm việc. tiến lại gần Gavila. Ông chỉ khẽ nghiêng người về phía , gật đầu. thân mật trước đó giờ đồng hồ hoàn toàn biến mất - Tôi vừa mới với Goran là tôi muốn cả hai người có mặt tại buổi họp báo diễn ra sáng mai. Đại úy Mosca cũng đồng ý với tôi. Chúng tôi bao giờ tìm ra được thủ phạm nếu có giúp đỡ của . Chúng tôi rất muốn cảm ơn . Mila giấu nổi ngỡ ngàng. Đến lượt Roche bối rối trước phản ứng của . - Thưa ngài, với tất cả kính trọng của tôi… Tôi nghĩ chúng ta phạm phải sai lầm nghiêm trọng. Roche với Goran: - Nhưng nàng này cái quái gì thế? - Mila, mọi thứ đều ổn. - Nhà tội phạm học cách điềm tĩnh. - , hề ổn chút nào. Gã này phải là Albert, có quá nhiều điểm phù hợp, tôi thấy… - những lời lẽ như thế ở cuộc họp báo chứ? - Ngài chánh thanh tra bác bỏ. - Nếu , tham dự của được miễn trừ. - Stern đồng ý với tôi. Thanh tra Roche vẫy tờ giấy nãy giờ nằm bàn ông. - Đặc vụ Stern vừa mới nộp đơn xin thôi việc có hiệu lực tức thời. - Cái gì? Chuyện gì diễn ra thế này? - Mila hỏi, tin ở tai mình. - Tay Vincent này hề trùng khớp với mô tả về thủ phạm. Goran cố gắng giải thích cho nghe, và trong thoáng thấy lại dịu dàng trong mắt ông khi ông hôn lên những vết sẹo của . - Hàng chục bằng chứng khẳng định rằng đó là đối tượng chúng ta truy lùng. Các cuốn sổ đầy những ghi chú về những vụ bắt cóc các bé, và cách thức sắp đặt các thi thể, bản sao của sơ đồ hệ thống camera an ninh khu Capo Alto, sơ đồ trường nội trú mà Debby Gordon theo học, cùng với những cuốn sách về điện tử và thông tin mà Clarisso bắt đầu nghiên cứu lúc ở trong tù... - Và mọi người cũng tìm thấy tất cả những mối liên hệ giữa với Alexander Bermann, Ronald Dermis, Feldher, Rockford lẫn Boris sao? - Mila nổi đóa. - nhóm điều tra làm việc trong căn nhà đó, và chúng tôi tiếp tục thu thập các chứng cứ. Rồi thấy những bằng chứng về các mối liên hệ. - Nhưng như thế đủ, tôi tin là... - Sandra nhận diện . - Goran ngắt lời . - Con bé với chúng tôi chính là kẻ bắt cóc mình. Mila nguôi đôi chút. - Con bé thế nào rồi? - Các bác sĩ tỏ ra lạc quan. - Giờ hài lòng rồi chứ? - Thanh tra Roche xen vào. - Nếu có ý định gây rắc rối nữa tốt hơn nên về nhà. Đúng lúc đó, thư ký thông báo với Roche qua điện thoại là ngài thị trưởng muốn gặp ông ngay, và ông cần phải khẩn trương lên. Roche cầm lấy áo comlê treo ở lưng ghế và cảnh báo Goran: - Hãy giải thích cho ấy nghe đây là kết luận chính thức. Hoặc ấy chấp thuận, hoặc là biến cho khuất mắt! rồi ông ra, sập cửa lại sau lưng. Mila cứ tưởng khi chỉ còn hai người, Goran điều gì khác. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh: - Đáng tiếc thay, chính chúng ta là người phạm sai lầm. - Sao có thể như thế được kia chứ? - Đây là thất bại hoàn toàn, Mila à. Chúng ta dựng nên hướng điều tra sai lầm và mù quáng, theo nó. Và chính là kẻ chịu trách nhiệm chính: tất cả những phỏng đoán theo hướng đó đều là của . - Tại sao tự hỏi làm thế nào Vincent Clarisso biết được tất cả những người kia? Chính là kẻ giúp chúng ta bắt họ! - Đó phải là vấn đề... Vấn đề nằm ở chỗ, chính chúng ta mất quá nhiều thời gian để phát ra họ. - Em thấy giờ đủ khách quan, em biết tại sao. Hồi xảy ra vụ Wilson Pickett, Roche cứu vớt danh tiếng của , và giúp duy trì nhóm điều tra, trong khi cấp của ông ta muốn giải tán bọn . Bây giờ, trả ơn ông ta bằng điều tương tự: nếu chấp thuận kết luận điều tra này, hạ thấp đôi chút uy tín của Terence Mosca, và Roche giữ được cái ghế của mình! - Đủ rồi đấy! - Goran gầm lên. Trong vài giây, hai người lời. Sau đó nhà tội phạm học tiến ra cửa. - hãy cho em biết chuyện... Boris thú nhận rồi hay sao? - Mila chỉ kịp hỏi ông có thế. - Chưa. - Ông đáp mà buồn quay lại. Mila bị bỏ lại mình, chống hai tay vào hông, tự nguyền rủa mình. Mắt nhìn xuống tờ đơn từ chức của Stern. cầm nó lên đọc. Mấy dòng đầu tiên chẳng đả động gì đến nguyên nhân xin thôi việc. Nhưng với , ràng là Stern cảm thấy bị phản bội, trước hết bởi Boris, sau đó là bởi Goran. Đặt tờ giấy xuống bàn, trông thấy danh sách các cuộc gọi, đó có tên của Vincent Clarisso. Roche có lẽ cầu kiểm tra xem trong số những kẻ quen biết , có người nào cần phải được che giấu hay . Vụ án dính líu đến cả những người tầm cỡ như Joseph B. Rockford, nên ai mà biết được. Nhưng tên giết người hàng loạt có nhiều mối quan hệ xã hội, vì chỉ có cú điện thoại duy nhất trong danh sách. Cuộc gọi diễn ra vào ngày hôm qua. Nhìn số điện thoại, Mila thấy nó quen cách lạ lùng. rút di động ra, bấm thử số điện thoại. cái tên xuất màn hình.