Kẻ Nhắc Tuồng - Donato Carrisi(44c)(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      22








      - Hệ thống điện của chúng tôi bị quá tải. - Chỉ huy đội bảo vệ cho biết khi Sarah Rosa cầu giải thích về ba tiếng đồng hồ ngừng hoạt động của các camera an ninh diễn ra trước đó tuần, đúng vào thời điểm Albert được cho là đem xác bé tới biệt thự của gia đình Kobashi.


      - Chuyện đó đặt các ông vào tình trạng báo động sao?


      - , thưa ...


      - Tôi hiểu rồi.


      Rosa gì thêm mà chỉ đưa mắt nhìn quân hàm đại úy mà ta gắn bộ đồng phục. cấp bậc cũng ảo như chức năng của ta. Đội bảo vệ là để bảo đảm an ninh cho dân cư, nhưng thực tế họ chỉ là những gã cơ bắp mặc đồng phục. huấn luyện của họ chỉ gói gọn trong đợt đào tạo trả phí kéo dài ba tháng, thực bởi mấy tay cảnh sát về vườn, tại trụ sở của công ty tuyển dụng họ. Họ được trang bị tai nghe nối với bộ đàm và bình xịt hơi cay. Như vậy Albert chẳng gặp khó khăn gì trong việc qua mặt đám bảo vệ. Ngoài ra người ta phát lỗ hổng khoảng mét rưỡi ở tường rào, sau hàng giậu vốn được dùng để che chắn cho bức tường. Ý đồ thẩm mỹ rốt cuộc lại vô hiệu hóa phương tiện bảo vệ thực duy nhất của Capo Alto.


      Giờ vấn đề là cần phải tìm hiểu vì sao Albert chọn địa điểm và gia đình này.


      Nỗi sợ hãi phải đối mặt với Alexander Bermann khác khiến Roche cho phép sử dụng mọi phương thức điều tra đối với ngài Kobashi và bà vợ, kể cả những thứ có tính xâm phạm nhất.


      Boris được phân công khai thác ông nha sĩ.


      Kobashi có lẽ biết gì về đặc sủng được dành cho mình trong những giờ sắp tới. Bị thấm vấn bởi chuyên gia giống chút nào với những gì thường diễn ra tại các đồn cảnh sát, nơi mọi thứ đều dựa kiệt quệ của đối tượng sau hàng giờ chịu dồn ép tâm lý và được ngủ, đồng thời phải trả lời trả lời lại những câu hỏi giống nhau.


      Boris gần như bao giờ tìm cách gài bẫy đối tượng, vì biết căng thẳng thường gây ra tác dụng tiêu cực đối với việc cung khai, và do đó lời khai thu được trở thành điểm dễ bị tấn công bởi luật sư giỏi tại tòa. cũng hứng thú với những lời thú tội nửa vời và các nỗ lực thương lượng mà kẻ tình nghi vẫn sử dụng khi cảm thấy bị dồn đến chân tường.


      . Đặc vụ Klaus Boris chỉ nhắm đến lời thú nhận hoàn chỉnh.


      Trong nhà bếp của studio, Mila nhìn thấy chàng chuẩn bị ra sàn diễn. Bởi lẽ xét cho cùng công việc của chính là như thế: vở diễn mà các vai thường bị đảo ngược. Bằng những lời dối, Boris bẻ gãy hàng rào phòng vệ của Kobashi.


      xắn tay áo lên và tới lui trong nhà bếp với chai nước trong tay để luyện chân. Quả vậy, khác với Kobashi, Boris ngồi mà phải đứng để dùng vóc người to lớn của mình trấn áp ông nha sĩ.


      Trong lúc đó, Stern cập nhật cho Boris những gì phát được về đối tượng tình nghi cho đến lúc này.


      - Tay nha sĩ có trốn phần thuế. Ông ta có tài khoản ở hải ngoại và gửi vào đó các khoản thu chưa khai báo thuế của phòng mạch, cùng với các món tiền thưởng lĩnh từ những giải golf mà ông ta thi đấu gần như mọi dịp cuối tuần như vận động viên bán chuyên nghiệp... Còn về Kobashi phu nhân, bà ta có thú tiêu khiển thời gian khác: cứ chiều thứ Tư hàng tuần, bà ta lại đến gặp tay luật sư có tiếng tại khách sạn ở khu trung tâm. cần phải thêm rằng, cũng chính tay luật sư đó vẫn chơi golf cùng ông chồng bà ta vào cuối tuần...


      Các thông tin này là khung sườn của buổi thẩm vấn. Boris cân nhắc và sử dụng chúng vào những thời điểm vàng để hạ gục ông nha sĩ.


      Phòng thẩm vấn cạnh phòng ngủ tập thể của studio được cải tạo từ lâu. Nó khá hẹp, ngột ngạt và có cửa sổ. Cửa vào duy nhất được Boris khóa lại ngay khi cùng đối tượng vào trong phòng. Tiếp đến, đút chìa khóa vào trong túi như thường lệ: cử chỉ này cho thấy ràng ở vị trí của kẻ mạnh.


      Ánh sáng đèn nêông quá mạnh, nó lại phát ra tiếng ro ro rất bức bối: thanh này cũng là trong số những phương tiện tạo áp lực của Boris. Về phần mình, giảm bớt tác động của nó bằng hai nút bông gòn trong lỗ tai.


      chiếc gương giả ngăn cách căn phòng và phòng kế bên, vốn có cửa vào riêng, để cho các thành viên của đội điều tra có thể chứng kiến buổi thẩm vấn. điều tối quan trọng là đối tượng được ngồi đối diện gương. Phải để cho cảm nhận được rằng bị quan sát mặc dù thể đáp lại tia nhìn vô hình ấy.


      Bàn và các vách tường đều được sơn màu trắng: màu sắc đơn nhất tạo ra bất cứ điểm nhìn nào cho đối tượng khi muốn tập trung suy nghĩ. Ghế ngồi cũng có chân ngắn hơn bình thường để gây khó chịu cho nghi phạm.


      Mila bước vào căn phòng liền kề khi Sarah Rosa chuẩn bị máy phân tích giọng , thiết bị cho phép đo mức độ căng thẳng dựa độ rung của giọng . Những rung động gắn với co thắt của bắp thịt được đo bằng số dao động trong phút, với tần số từ 10 đến 12 hertz. Khi đối tượng dối, lượng máu trong các dây thanh quản giảm xuống vì căng thẳng, và do đó làm giảm độ rung của giọng . máy tính phân tích các biến đổi rất trong giọng của Kobashi và chỉ ra những lần ông ta dối.


      Nhưng kỹ thuật quan trọng nhất mà đặc vụ Klaus Boris sử dụng - cái mà đặc biệt thuần thục - chính là quan sát thái độ của đối tượng.


      Kobashi được đưa vào trong phòng thẩm vấn sau khi được mời đến cách nhã nhặn - mà hề báo trước - để cung cấp các chi tiết của vụ việc cho đội điều tra. Các cảnh sát hộ tống ông ta từ khách sạn, nơi cả nhà ông ta lưu lại, đồng thời bắt ông ta ngồi băng ghế phía sau của xe hơi và theo lộ trình dài hơn bình thường để đến studio, nhằm làm tăng thêm tình trạng hoài nghi và chắc chắn của ông ta.


      Do đây là buổi thẩm tra chính thức, Kobashi đòi diện của luật sư. Ông ta sợ cầu đó chỉ càng làm tăng mối nghi ngờ đổ lên đầu mình. Đó chính là điều Boris chờ đợi.


      Trong phòng thẩm vấn, nha sĩ Kobashi có vẻ khổ sở. Mila quan sát ông ta. Kobashi mặc chiếc quần mùa hè màu vàng, có lẽ thuộc về trong những bộ trang phục chơi golf mà ông ta mang theo khi nghỉ, những thứ duy nhất ông ta có trong thời điểm tại. Ông ta mặc cái áo len chui đầu bằng casơmia màu đỏ tía, để lộ chiếc áo thun trắng có cổ bên trong.


      Họ với ông ta rằng điều tra viên đến để đặt vài câu hỏi. Kobashi gật đầu, hai tay đặt đầu gối, trong tư thế phòng thủ.


      Trong lúc đó, ở phía bên kia của tấm gương, Boris quan sát ông nha sĩ. bắt ông ta ngồi đợi để nghiên cứu kỹ hơn.


      Kobashi thấy bàn có tập hồ sơ đề tên ông. Boris là người để nó ở đó. Ông nha sĩ đụng đến nó, cũng hề nhìn về phía cái gương, vì biết thừa rằng mình bị quan sát.


      ra tập hồ sơ chẳng có gì bên trong.


      - Xem có giống phòng đợi chữa răng kìa? - Sarah Rosa châm chọc, mắt nhìn chằm chằm người đàn ông ở bên kia tấm kính.


      Boris tuyên bố:


      - Nào, ta bắt đầu thôi.


      Sau đó, bước qua ngưỡng cửa phòng thẩm vấn. chào Kobashi, khóa cửa lại và xin lỗi ông ta vì mình đến muộn. lần nữa nhắc lại với ông nha sĩ rằng những câu hỏi sắp đưa ra chỉ là để làm sáng tỏ số việc, trước khi cầm lấy tập hồ sơ bàn và mở ra, vờ như đọc gì đó.


      - Ông Kobashi này, ông năm nay bốn mươi tuổi, phải ạ?


      - Đúng vậy.


      - Ông làm nha sĩ từ khi nào?


      - Tôi là bác sĩ phẫu thuật chỉnh nha. - Kobashi chỉnh lại. - Tôi hành nghề được mười lăm năm.


      Boris giành mấy giây để xem tập hồ sơ trống.


      - Tôi có thể biết tổng thu nhập năm vừa qua của ông là bao nhiêu được ?


      Ông nha sĩ hơi nhổm người. Boris ghi điểm đầu tiên: khơi chuyện thu nhập để ngầm bóng gió đến vụ nộp thuế. Như dự kiến, Kobashi dối như cuội về tình hình tài chính của mình, khiến Mila thể nghĩ ông ta là người khá ngây thơ khi làm như vậy. Đây là buổi thẩm vấn liên quan đến án mạng, những thông tin về thuế má nếu xuất cũng chẳng có nghĩa lý gì, và cũng thể chuyển cho bên thuế vụ được.


      Kobashi dối số chi tiết khác, tin rằng mình có thể dễ dàng lèo lái các câu trả lời. Boris để cho ông ta hươu vượn như thế thêm lúc nữa.


      Mila hiểu chàng điều tra viên chơi trò gì. chứng kiến những cảnh sát viên được đào tạo theo trường phái cổ điển dùng mánh này mặc dù Boris thực nó ở đẳng cấp cao hơn.


      Khi người dối, ta phải tập trung tâm lý cao độ để đối phó với hàng loạt căng thẳng. Nhằm làm cho câu trả lời của mình đáng tin hơn, ta buộc phải lược bớt các thông tin chân thực nằm trong trí nhớ và nhờ cậy đến việc lập luận lôgíc để trộn chúng với thông tin dối trá mà ta đưa ra. Điều này đòi hỏi nỗ lực lớn và sức tưởng tượng nhất định.


      Mỗi khi đưa ra câu dối, người ta phải ghi nhớ tất cả những chi tiết giúp nó đứng vững. Khi dối nhiều lần, việc đó trở nên phức tạp. Nó gần giống như diễn viên xiếc diễn trò xoay đĩa những cái que. Mỗi lần thêm chiếc, màn biểu diễn lại trở nên khó hơn, và ta phải chạy liên tục ngừng nghỉ từ cái que này sang cái que khác.


      Chính lúc đó người dối bị yếu và dễ để lộ mình.


      Nếu Kobashi vận dụng trí tưởng tượng của mình là Boris biết ngay. lo lắng gây ra những cử chỉ khác thường, chẳng hạn như khòm lưng, chà xát hai tay vào nhau, day thái dương hoặc xoa cổ tay. Thường những cử chỉ này kèm với các biến đổi sinh lý, chẳng hạn như tăng tiết mồ hôi, cất cao giọng, hoặc các chuyển động kiểm soát của nhãn cầu.


      Nhưng chuyên viên được đào tạo kỹ lưỡng như Boris cũng biết đó chỉ là những gợi ý cho việc dối của đối tượng, và chúng chỉ được xem xét ở mức độ đó. Để chứng tỏ là đối tượng dối, cần phải dồn đến chỗ thú nhận điều đó.


      Khi cảm thấy Kobashi đủ tự tin, Boris liền phản công bằng cách đưa vào các câu hỏi những thành tố có liên quan đến Albert và vụ mất tích của sáu bé .


      Hai giờ sau đó, Kobashi kiệt sức vì loạt câu hỏi khó khăn, càng lúc càng riêng tư và mạnh bạo hơn. Boris siết chặt chiếc thòng lọng bao quanh ông nha sĩ, thu hẹp khoảng an toàn của ông ta. Lúc này Kobashi chẳng còn hồn vía nào nghĩ đến việc gọi cho luật sư nữa, mà chỉ muốn ra khỏi phòng thẩm vấn càng sớm càng tốt. Với tình trạng suy sụp tinh thần như thế, ông ta có thể bất cứ điều gì để được yên thân. Có khi ông ta còn thú nhận mình là Albert là đằng khác.


      Trừ phi đó phải là .


      Khi Boris nhận ra điều đó, rời phòng với cớ là lấy cho Kobashi cốc nước, rồi vào gặp Goran và những người khác trong phòng bên cạnh.


      - Ông ta dính dáng gì với vụ của chúng ta. - . - Và hay biết gì hết.


      Goran gật đầu.


      Sarah Rosa vừa quay lại với kết quả phân tích các máy tính và điện thoại di động của gia đình Kobashi. Chúng cho thấy bằng chứng nào, và cũng cung cấp thông tin gì hữu ích về các bạn bè hay người quen của họ.


      - Như vậy chỉ có thể là ngôi nhà. - Nhà tội phạm học kết luận.


      Phải chăng nơi ở của gia đình Kobashi là sân khấu cho tấn thảm kịch nào đó chưa được hé lộ, giống như trường hợp của nhi viện?


      Nhưng giả thiết này xem ra khá yếu.


      - Biệt thự đó được xây dựng sau cùng, lô đất duy nhất còn trống của cả khu. Nó vừa mới hoàn thành được gần ba tháng, và gia đình Kobashi là những người chủ đầu tiên. - Stern cho biết.


      Nhưng Goran có vẻ nhượng bộ.


      - Ngôi nhà đó che giấu bí mật.


      Stern hiểu ra ngay. hỏi:


      - Ta bắt đầu từ đâu?


      Goran suy nghĩ lúc rồi :


      - Bắt đầu bằng việc đào khu vườn.





      Đầu tiên họ đưa chó nghiệp vụ đến để đánh hơi dò tìm thi thể và cả những cái được chôn sâu dưới đất. Sau đó đến lượt các máy dò đặc biệt để thăm dò lòng đất, nhưng phát được gì.


      Mila quan sát những nỗ lực dò tìm của mọi người. vẫn chờ bác sĩ Chang cung cấp danh tính của bé được tìm thấy trong nhà sau khi đối chiếu mẫu ADN của các bậc phụ huynh.


      Họ bắt đầu đào vào tầm ba giờ chiều. Các máy xúc xới tung lớp đất trong vườn, phá hủy công trình trang trí ngoại thất làm tiêu tốn rất nhiều công sức và tiền bạc. Đất đá được vội vã đổ đống và được các xe ben đem .


      Tiếng ồn của các động cơ diesel khuấy đảo gian yên tĩnh của Capo Alto. Như thể vẫn chưa đủ, chấn động từ các cỗ máy xúc đất liên tục kích hoạt hệ thống báo động chiếc xe Maserati của Kobashi.


      Sau khu vườn, nhóm tìm kiếm chuyển vào trong biệt thự. công ty chuyên biệt được vời đến để nhấc các phiến đá hoa lát sàn phòng khách. Những chỗ hổng trong các bức tường nhà được dò tìm rồi mở ra bằng cuốc. Ngay cả các món đồ nội thất cũng thoát được số phận bất hạnh: sau khi bị tháo tung và cắt rời, chúng trở thành đồ bỏ. Việc lục soát cũng diẽn ra ở hầm rượu và móng nhà.


      Roche phê chuẩn phá hủy này. Ban chuyên án thể để mình thất bại lần nữa, dù phải đánh đổi nguy cơ đền bù hàng triệu cho những thiệt hại. Nhưng gia đình Kobashi cũng hề muốn quay lại sống ở ngôi nhà này nữa. Tất cả những thứ thuộc về nó bị nhuốm màu kinh hoàng gột rửa được. Họ bán nó với giá thấp hơn khoản tiền bỏ ra, vì cuộc sống thượng lưu của họ bao giờ còn được như xưa khi bị ám ảnh bởi những điều xảy ra.


      Khoảng sáu giờ tối, vẻ căng thẳng hơn khuôn mặt những người điều tra trường.


      - Có ai tắt cái báo động của nợ kia được ? - Roche vừa hét toáng lên vừa chỉ tay vào chiếc Maserati.


      - Chúng tôi tìm được điều khiển từ xa của nó. - Boris đáp.


      - Gọi cho lão nha sĩ! Chẳng lẽ chuyện gì tôi cũng phải nhắc sao?


      Họ tốn công vô ích. Thay vì đoàn kết mọi người lại, căng thẳng chia rẽ họ. Tất cả đều bực tức vì thể giải được mật mã bí mà Albert bày ra.


      - Tại sao gã lại cho bé ăn mặc như con búp bê?


      Câu hỏi này làm cho Goran điên đầu. Mila chưa bao giờ thấy ông như thế. Có điều gì đó rất cá nhân trong thử thách này. điều mà bản thân nhà tội phạm học có lẽ cũng nhận ra. Nó ngăn cản ông suy luận cách sáng suốt.


      Mila cố tình giữ khoảng cách với những người khác. chờ đợi khiến căng thẳng. Hành vi của Albert mang ý nghĩa gì chứ?


      Trong thời gian ngắn ngủi được tiếp xúc với nhóm điều tra và phương pháp của giáo sư Gavila, Mila học được nhiều thứ. Chẳng hạn như, bọn sát nhân hàng loạt ra tay với những khoảng cách thời gian thay đổi từ vài giờ cho đến vài tháng, thậm chí vài năm, do sức mạnh nào đó thôi thúc mà chúng thể dập tắt được. Vì nguyên nhân này, tức giận hay báo thù thuộc về thế giới của chúng. Kẻ giết người hàng loạt ra tay để lặp lại động cơ nào đó, có thể chỉ là nhu cầu hoặc ham muốn được giết chóc.


      Nhưng Albert khiến cho toàn bộ khái niệm lung lay.


      bắt cóc các bé sau đó giết hại, lần lượt từng em, nhưng giữ lại . Tại sao? Gã làm vụ này vì khoái cảm giết chóc, mà chỉ sử dụng nó để làm dấy lên chú ý, phải vào gã, mà vào những kẻ khác. Alexander Bermann, tên ấu dâm. Ronald Dermis, kẻ đường trở thành sát thủ hàng loạt như gã.


      Nhờ có Albert, cả hai tên bị ngăn chặn. Xét cho cùng, gã làm điều có ích cho xã hội. Nghịch lý nằm ở chỗ cái xấu xa của gã là nhằm mục đích tốt.


      Nhưng Albert ra là ai?


      người bình thường - bởi gã là như thế, phải con quỷ hay bóng ma - vào lúc này sống cách bình thường như có gì xảy ra. Gã mua sắm, dạo đường, gặp gỡ người khác: các bà bán hàng, khách bộ hành, hàng xóm láng giềng, những người tuyệt nhiên thể tưởng tượng ra được con người của gã.


      Gã bước giữa họ có gì nổi trội.


      Phía sau lớp vỏ bọc đó là . đó được xây nên từ bạo lực. Thứ bạo lực cho phép những kẻ sát nhân hàng loạt trải qua cảm giác có quyền lực, giúp xóa bỏ mặc cảm thua kém, dù chỉ là tạm thời. Hành động bạo lực mà gây ra mang lại cho lúc hai hiệu quả: đạt khoái thú và cảm thấy mạnh mẽ. Hành vi này cần đến mối quan hệ với người khác nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất, với mức lo ngại giao tiếp nhất.


      Như thể chúng chỉ tồn tại cái chết của những người khác, Mila thầm nghĩ.


      Đúng nửa đêm, tiếng còi báo động từ xe hơi của Kobashi vẫn còn điểm nhịp thời gian trôi qua, như lời nhắc nhở nghiệt ngã rằng mọi nỗ lực của nhóm điều tra đến giờ chỉ là công cốc.


      Họ tìm thấy gì ở dưới hầm. Cả ngôi biệt thự bị phanh bụng, nhưng các bức tường của nó tiết lộ bất cứ bí mật nào.


      Mila ngồi vỉa hè trước nhà Boris đến, tay cầm điện thoại di động.


      - Tôi cố gọi nhưng có sóng...


      Mila nhìn điện thoại của mình.


      - Chắc tại thế nên Chang hề gọi cho tôi để thông báo kết quả giám định ADN.


      Boris nhìn quanh.


      - Ít ra ta cũng đỡ chạnh lòng khi biết người giàu cũng phải có tất cả, nhỉ?


      chàng mỉm cười, nhét điện thoại vào túi rồi ngồi xuống bên cạnh . Mila vẫn chưa cảm ơn về chiếc áo khoác, nên tranh thủ dịp này để bày tỏ cảm kích.


      - Có gì đâu mà. - Boris đáp.


      Đúng lúc đó, hai người trông thấy các nhân viên bảo vệ của khu dân cư bắt đầu dàn hàng ngang quanh ngôi biệt thự, tạo thành hàng rào lập.


      - Có chuyện gì vậy?


      - Đám nhà báo sắp đến. - Boris thông báo với . - Roche quyết định cho phép lấy hình ảnh ngôi biệt thự: vài phút bản tin truyền hình để cho thấy chúng ta làm hết sức.


      Mila nhìn các tay bảo vệ vào vị trí. Trông họ rất tức cười trong bộ đồng phục hai màu cam và xanh lam bó sát, phô trương thân hình cơ bắp. Nét mặt dữ dằn và bộ đàm đeo tai tạo cho họ hình ảnh khá chuyên nghiệp.


      Albert xỏ mũi cả đám các người chỉ bằng cách gây chập mạch camera an ninh và khoan cái lỗ tường rào. Mila nghĩ bụng.


      - Sau tất cả những chuyện này mà vẫn chưa tìm được câu trả lời, chắc Roche nổi cơn tam bành...


      - Ông ta luôn tìm được cách giải quyết, đừng lo.


      Boris im lặng lấy giấy ra quấn điếu thuốc. Mila có cảm giác chàng muốn hỏi chuyện gì đó, nhưng hỏi thẳng. Nếu im lặng lại càng giúp được gì.


      quyết định quăng cho Boris cái phao cứu trợ:


      - làm gì trong hai mươi bốn giờ xả trại?


      Boris thoái thác:


      - Tôi chỉ ngủ và suy nghĩ về vụ án. Lâu lâu làm trống đầu óc cũng tốt... Tôi biết chơi với Gavila tối qua.


      Rốt cuộc cũng đến chuyện này! Nhưng Mila nhầm khi nghĩ Boris ghen. Ý định của chàng hoàn toàn khác. hiểu ra điều đó khi tiếp:


      - Tôi tin là ông ấy phải chịu đựng nhiều.


      Boris nhắc đến vợ của Goran. Giọng điệu của nghe buồn bã đến nỗi Mila cảm thấy dù chuyện gì xảy ra với hai người họ cũng ảnh hưởng đến cả nhóm.


      - Tôi biết chuyện đó. - Mila . - Ông ấy kể với tôi. Chỉ có hơi bóng gió chút vào cuối buổi tối.


      - Vậy có lẽ bây giờ nên biết…


      Trước khi tiếp Boris châm thuốc, rít hơi sâu rồi phả khói ra. tìm từ ngữ.


      - Vợ của giáo sư Gavila là phụ nữ tuyệt vời, chỉ đẹp mà còn rất tốt tính. Tôi thể đếm được chúng tôi ăn tối ở nhà họ bao nhiêu lần nữa. Bà ấy nhập bọn với chúng tôi như thể là thành viên trong nhóm. Khi chúng tôi gặp vụ án hóc búa, những bữa ăn tối là dịp xả hơi duy nhất sau cả ngày vật lộn với máu me và xác chết. hòa giải với cuộc sống, hiểu ...


      - Sau đó chuyện gì xảy ra?


      - Chuyện đó cách đây năm rưỡi. lời báo trước, dấu hiệu, bà ấy đột ngột bỏ .


      - Bỏ ông ấy á?


      - chỉ giáo sư Gavila, mà cả Tommy, cậu con trai duy nhất của họ. Đó là đứa trẻ rất dễ thương. Bây giờ nó ở với bố.


      Mila cảm thấy nỗi buồn chia cắt nơi nhà tội phạm học, nhưng thể tưởng tượng được chuyện này. tự hỏi làm thế nào người mẹ có thể bỏ rơi đứa con do chính mình đẻ ra.


      - Tại sao bà ấy bỏ ?


      - ai hiểu được. Có lẽ bà ấy có người khác, cũng có thể bà ấy chán ngấy cuộc sống như vậy... ai mà biết được. Bà ấy nhắn lại lời nào. Chỉ dọn hành lý rồi bỏ . Chấm hết.


      - Phải tôi tôi làm cho ra nhẽ.


      - Lạ nhất là ông ấy chưa bao giờ nhờ chúng tôi tìm xem bà ấy ở nơi nào. - Boris , rồi đưa mắt nhìn xung quanh để chắc ăn Goran xuất , trước khi tiếp lời. - Có điều mà giáo sư Gavila biết, được biết...


      Mila gật đầu cho Boris thấy có thể tin tưởng ở .


      - ... vài tháng sau đó, Stern và tôi tìm thấy dấu vết của bà ấy. Bà sống ở bờ biển. Chúng tôi trực tiếp đến gặp, mà chỉ xuất đường , với hy vọng bà ấy mở lời.


      - Và bà ấy...


      - Bà ấy bị bất ngờ khi gặp chúng tôi, nhưng vẫn gật đầu chào rồi cụp mắt và tiếp.


      Mila biết phải hiểu thế nào về im lặng diễn ra sau đó. Boris vứt mẩu thuốc , mặc kệ người trong đám bảo vệ quắc mắt giận dữ rồi nhặt nó trong vườn.


      - Sao kể cho tôi nghe chuyện này vậy?


      - Vì giáo sư Gavila là người bạn của tôi. Và cũng thế, mặc dù tôi biết chưa lâu.


      Chắc hẳn Boris hiểu ra điều gì đó mà cả Mila lẫn Goran đều chưa hiểu. điều liên quan đến hai người. tìm cách bảo vệ họ.


      - Sau khi vợ bỏ , giáo sư Gavila vẫn ngẩng cao đầu. Ông có lựa chọn nào khác, nhất là vì cậu con trai. Do đó có gì thay đổi đối với chúng tôi. Ông ấy vẫn như ngày trước: chính xác, đúng hẹn, hiệu quả. Chỉ hơi xuề xòa trong việc ăn mặc. Điều đó quan trọng, có gì đáng lo. Nhưng rồi xảy ra vụ Wilson Pickett...


      - Giống tên của ca sĩ nhỉ?


      - Phải, ông ấy gọi như thế. - Boris hối tiếc ra mặt vì lỡ lời. - Vụ án đó diễn ra suôn sẻ. Chúng tôi phạm sai lầm, người ta đe dọa giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc.


      Mila sắp sửa hỏi tiếp điều gì xảy ra và chắc chắn Boris kể hết, còi báo động của chiếc xe Maserati lại rú lên.


      - Chó chết, cái thứ đinh tai nhức óc kia!


      Lúc đó, Mila ngoái nhìn ngôi nhà và ghi lại loạt hình ảnh khiến chú ý: đám nhân viên bảo vệ có cùng gương mặt khó chịu và nhất loạt đưa tay lên máy bộ đàm đeo tai, như thể nó bị nhiễu sóng.


      Mila lại nhìn chiếc xe Maserati. Rồi lấy điện thoại di động ra khỏi túi: vẫn có sóng. Đột nhiên nảy ra ý.


      - Có chỗ chúng ta chưa tìm kiếm... - với Boris.


      - Chỗ nào vậy?


      chỉ tay lên trời.


      - kia.





      Non nửa giờ đồng hồ sau, các chuyên viên điện tử bắt tay vào dò tìm trong bóng đêm giá lạnh. Tất cả đều đeo tai nghe và cầm thiết bị nom như cái parabol hướng lên trời. Họ bước chậm rãi và im lặng như những bóng ma, cố gắng bắt sóng vô tuyến điện hoặc những tần số đáng ngờ, trong trường hợp bầu trời che giấu thông điệp nào đó.


      Và quả có thế .


      Chính nó tương tác với hệ thống báo động của chiếc xe Maserati và làm nhiễu sóng di động, đồng thời len lỏi vào bộ đàm của các nhân viên bảo vệ và gây ra tiếng rít chói tai.


      Khi các kỹ thuật viên điện tử bắt được tín hiệu, họ cho biết nó khá yếu.


      Ngay sau đó, tín hiệu được chuyển đến máy thu.


      Tất cả mọi người tụ tập xung quanh chiếc máy để nghe xem bóng tối gì với họ.


      Nhưng có từ ngữ nào, chỉ có thanh.


      Thỉnh thoảng chúng lẫn vào trong loạt những tiếng rẹt rẹt, rồi lại rệt trở lại. Nhưng trong trình tự thanh đó có hài hòa nhất định. Ngắn, rồi dài.


      - Ba chấm, ba gạch, rồi ba chấm. - Goran giải nghĩa cho những người khác. Trong hệ thống mã vô tuyến phổ biến nhất thế giới, những thanh cơ bản đó chỉ có ý nghĩa duy nhất.


      SOS.


      - Nó phát ra từ đâu vậy? - Nhà tội phạm học hỏi.


      Kỹ thuật viên quan sát dải tín hiệu phân tán rồi tập trung trở lại màn hình lúc. Sau đó ngước mắt nhìn qua đường và chỉ :


      - Từ ngôi nhà đối diện.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      23








      ở trước mắt họ ngay từ đầu.


      Ngôi nhà đối diện quan sát họ hoài công tìm lời giải đáp trong câm lặng suốt cả ngày trời. Nó ở đó, cách họ vài bước chân, và kêu gọi họ bằng cách nhắc nhắc lại tín hiệu cầu cứu lỗi thời duy nhất ấy.


      Ngôi nhà hai tầng thuộc về bà Yvonne Gress nào đó. họa sĩ, theo như lời kể của hàng xóm. Bà ta sống với hai người con, cậu bé mười bé mười sáu tuổi. Họ dọn đến Capo Alto sau khi Yvonne ly dị chồng, và bà quay lại với niềm đam mê nghệ thuật từng từ bỏ để lấy luật sư trẻ nhiều triển vọng.


      Lúc đầu, những bức tranh trừu tượng của Yvonne được công chúng đón nhận. Phòng tranh bán được bức nào sau cuộc triển lãm cá nhân. Nhưng tin tưởng ở tài năng của mình, bà bỏ cuộc. Khi người bạn đặt vẽ bức chân dung gia đình bằng chất liệu sơn dầu để treo lò sưởi, Yvonne phát ra mình có thế mạnh ở trường phái hội họa ngây thơ. Chỉ trong thời gian rất ngắn, bà trở thành họa sĩ vẽ tranh chân dung được cầu nhiều nhất bởi những ai chán những tấm ảnh thông thường và muốn lưu giữ hình ảnh gia đình mình vải.


      Khi thông điệp bằng mã Morse hướng chú ý của mọi người sang ngôi nhà bên kia đường, người bảo vệ sực nhớ ra rằng bà Yvonne và các con xuất thời gian.


      Rèm cửa sổ được buông xuống, nên thể quan sát bên trong.


      Trước khi thanh tra Roche ra lệnh tiến vào trong nhà, Goran gọi vào số điện thoại của Yvonne. Ngay sau đó, giữa yên tĩnh của con đường, họ nghe thấy tiếng chuông điện thoại vang ra từ trong nhà, nhưng . ai bắt máy.


      Các cảnh sát cũng cố liên lạc với người chồng cũ của bà Yvonne Gress với hy vọng ít ra bọn trẻ ở cùng ông ta. Khi tìm ra người đàn ông đó, cảnh sát được cho biết là bố con họ gặp nhau từ lâu. Chẳng có gì phải ngạc nhiên vì ông ta bỏ gia đình để chạy theo người mẫu ngoài hai mươi tuổi và cho rằng việc gửi khoản tiền chu cấp hàng tháng là làm tròn nghĩa vụ của người cha.


      Đội kỹ thuật đặt các cảm ứng nhiệt độ quanh nhà để tìm nguồn nhiệt nếu có.


      - Nếu như có vật thể sống trong nhà, chúng ta biết ngay. - Roche , tin tưởng cách mù quáng vào công nghệ.


      Trong lúc đó, các chỉ số tiêu thụ điện, ga và nước được kiểm tra kỹ lưỡng. Tất cả bị cắt do các hóa đơn được thanh toán tự động qua ngân hàng, nhưng côngtơ ngừng từ ba tháng trước đó, cho thấy ai bật dù chỉ bóng đèn trong nhà trong khoảng chín mươi ngày vừa qua.


      - Nghĩa là từ khi ngôi nhà của gia đình Kobashi được hoàn thành và cả nhà họ dọn đến đây. - Stern lưu ý.


      Goran :


      - Rosa này, tôi muốn kiểm tra băng hình các camera an ninh. Có mối liên hệ giữa hai ngôi nhà, và chúng ta cần phải phát ra nó.


      - Hy vọng là có lần mất điện hệ thống nào nữa. - Rosa đáp.


      - Chúng ta chuẩn bị vào thôi. - Gavila tuyên bố.


      Trong lúc đó, Boris mặc áo chống đạn trong chiếc xe cơ động.


      - Tôi muốn vào bên trong. - khi gặp Mila ở cửa xe. - Họ thể ngăn tôi được. Tôi muốn tự mình vào trong đó.


      Boris thể chịu được ý nghĩ rằng Roche cầu đơn vị đặc nhiệm vào nhà trước.


      - Bọn họ làm hỏng việc. Ở trong đó họ phải dò dẫm trong bóng tối...


      - Tôi nghĩ họ xoay xở được. - Mila bình luận, tuy muốn phủ nhận lời Boris.


      - Vậy họ cũng biết bảo vệ các bằng chứng chứ? - Boris hỏi với giọng mỉa mai.


      - Vậy tôi cũng muốn vào. Tôi nghĩ mình đáng được làm chuyện này. cho cùng tôi là người phát ra thông điệp...


      Boris ngừng phắt lại và nhìn Mila . Sau đó ném cho chiếc áo chống đạn.


      Lát sau hai người rời khỏi xe cơ động đến gặp Goran và Roche để giải thích vì sao họ phải vào nhà.


      - có chuyện đó. - Ngài chánh thanh tra lập tức gạt phăng. - Đây là việc của đội đặc nhiệm. Tôi thể chấp nhận hành động khinh suất như vậy.


      - Ông nghe này, thanh tra. - Boris đứng đối mặt với Roche để ông ta thể tránh né cái nhìn của . - Cứ để Mila và tôi vào do thám trong đó. Những người khác chỉ vào khi thực cần. Tôi là cựu binh, tôi được huấn luyện cho những chuyện này. Stern có hai mươi năm kinh nghiệm thực địa, ấy xác nhận với ông, và nếu như thiếu quả thận ấy xung phong cùng tôi. Ông thừa biết điều đó. Còn với đặc vụ Mila Vasquez, ấy từng mình vào trong hang ổ của kẻ điên khùng giam giữ thằng bé và .


      Mila chua xót tự nhủ nếu Boris biết chuyện gì xảy ra khi để cho tính mạng của con tin và của bản thân mình bị đe dọa, chắc chàng hăng hái bảo vệ đến thế.


      - Ông nghĩ kỹ . Có còn sống ở đâu đó, nhưng lâu nữa đâu. Mỗi trường lại cho chúng ta biết thêm điều gì đó về kẻ thủ ác. Nếu ở trong kia có gì giúp chúng ta tiếp cận được Albert, - đưa tay chỉ ngôi nhà của Yvonne, - cần phải bảo đảm là nó bị phá hủy. Và cách duy nhất là phái chúng tôi vào trong đó.


      - Tôi nghĩ vậy. - Roche cương quyết phản đối.


      Boris dấn tới thêm bước, mắt nhìn thẳng vào mắt ông thanh tra.


      - Ông có muốn mọi chuyện phức tạp hơn ? Như thế này là khó khăn lắm rồi nha...


      Câu này nghe như lời đe dọa, Mila nghĩ bụng. ngạc nhiên khi Boris dám ăn với cấp bằng giọng như thế. Có chuyện gì đó giữa hai người này mà cả lẫn Goran đều biết.


      Roche nhìn Gavila khá lâu: ông ta cần lời khuyên, hay chỉ đơn giản là cần ai đó để chia sẻ trách nhiệm trong quyết định này?


      Nhưng ông giáo sư tội phạm học mảy may tính toán. Ông chỉ gật đầu.


      - Tôi tin là chúng ta phải hối tiếc. - Thanh tra Roche dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nhấn mạnh phần trách nhiệm của Goran.


      Đúng lúc đó, kỹ thuật viên tiến đến, tay là màn hình của thiết bị tầm nhiệt.


      - Thưa thanh tra, máy dò xác định được thứ gì đó gác... sinh vật sống.


      Mọi người cùng quay nhìn về phía ngôi nhà.





      - Đối tượng vẫn ở tầng hai, di chuyển. - Stern thông báo qua radio.


      Boris đếm ngược trước khi xoay nắm đấm cửa ra vào. Trưởng nhóm bảo vệ đưa cho chìa khóa dự phòng. Mỗi ngôi biệt thự đều có chiếc để phòng trường hợp khẩn cấp.


      Mila quan sát tập trung của Boris. Phía sau họ, đội đặc nhiệm sẵn sàng để can thiệp. Boris bước qua ngưỡng cửa trước, Mila theo sau, giơ cao súng, và ngoài bộ áo chống đạn, họ còn đội chiếc mũ cối có gắn tai nghe, micro cùng đèn pin ở thái dương bên phải. Stern chỉ đường cho hai người từ bên ngoài qua radio, trong khi vẫn để mắt đến vật thể được ghi nhận màn hình của thiết bị tầm nhiệt. Nó có nhiều cấp độ màu sắc để thể những vùng nhiệt khác nhau của cơ thể, từ xanh dương sang vàng rồi đến đỏ. thể phân biệt hình thù của đối tượng.


      Nhưng nó trông giống như người nằm sàn nhà.


      Có thể đó là người bị thương, nhưng trước khi đoán chắc về điều này, Boris và Mila phải thăm dò cách kỹ lưỡng, đặt tiêu chí an toàn lên hết.


      Phía bên ngoài biệt thự, hai đèn chiếu cực mạnh được đặt để rọi sáng hai mặt tiền nhà, tuy vậy ánh sáng lọt vào bên trong khá yếu do bị rèm cửa che chắn. Mila cố gắng tập cho mắt quen với bóng tối.


      - Mọi chuyện ổn cả chứ? - Boris thầm hỏi .


      - Vẫn ổn. - đáp.


      Trong khi chờ đợi, Goran Gavila đứng ở nơi từng là khu vườn của Kobashi, thèm điếu thuốc lá như thể chưa được hút hàng năm trời. Ông thấy lo lắng. Nhất là cho Mila. Bên cạnh ông, Sarah Rosa xem lại các đoạn băng an ninh bốn màn hình trước mặt. Nếu thực mối liên hệ giữa hai ngôi nhà đối diện nhau họ sớm tìm ra thôi.


      Điều đầu tiên Mila ghi nhận được là nhà của Yvonne Gress rất lộn xộn.


      Ngay từ cửa vào, họ thấy toàn bộ phòng khách ở bên trái và gian bếp bên phải. bàn là hàng đống hộp ngũ cốc mở, những chai nước cam vơi phân nửa và các hộp sữa hỏng. Ngoài ra còn có nhiều vỏ lon bia rỗng. Tủ chạn mở toang và phần đồ ăn bên trong bị đổ lung tung xuống sàn.


      Quanh bàn có bốn chiếc ghế. Chỉ có chiếc bị dời chỗ. Bồn rửa đầy chén đĩa bẩn và xoong nồi dính cặn thức ăn. Mila chiếu đèn vào tủ lạnh: bên dưới miếng nam châm hình con rùa là tấm ảnh của phụ nữ tóc vàng ngoài bốn mươi tươi cười, hai tay quàng qua cậu bé và bé lớn hơn.


      Trong phòng khách, chiếc bàn thấp đặt phía trước màn hình ti vi cực lớn ngổn ngang các chai rượu cạn, lon bia và gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. chiếc trường kỷ bị kéo ra giữa phòng. Thảm lót sàn lem luốc dấu giày.


      Boris khều Mila và chỉ vào sơ đồ ngôi nhà, giải thích cho hiểu rằng họ phải tách nhau ra trước khi gặp lại tại chân cầu thang dẫn lên tầng . chỉ cho khu vực nằm phía sau bếp, để thư viện và phòng làm việc lại cho mình.


      - Stern, mọi thứ lầu vẫn ổn chứ?


      - có động tĩnh gì. - Stern trả lời.


      Hai người ra hiệu cho nhau rồi Mila tiến đến khu vực được phân công.


      - Đây rồi. - Trong lúc đó Sarah Rosa tuyên bố trước dãy màn hình. - Ông nhìn này...


      Goran nghiêng người qua vai : theo như ngày tháng ghi góc màn hình, đoạn băng được quay chín tháng trước đó. Biệt thự của Kobashi lúc đó hãy còn là công trường xây dựng. Trong đoạn băng tua nhanh, các công nhân ríu rít xung quanh mặt tiền dang dở như những chú kiến hoảng loạn.


      - Giờ ông xem cái này…


      Rosa tua đoạn băng đến thời điểm chiều tối, khi mọi người rời công trường để về nhà trước khi quay lại vào sáng hôm sau. cho đoạn băng chạy với tốc độ bình thường trở lại.


      Họ có thể thoáng thấy thứ gì đó ở ngay cửa ra vào ngôi nhà của Kobashi.


      Đó là cái bóng bất động, như thể chờ đợi. Nó hút thuốc.


      Đốm lửa chập chờn của điếu thuốc tiết lộ vị trí của cái bóng.


      Cái bóng đứng ở trong ngôi biệt thự của ông nha sĩ, chờ đợi cho trời tối hẳn, rồi mới bước ra ngoài. nhìn quanh, sau đó băng qua đoạn đường vài mét giữa hai ngôi nhà và bước vào trong ngôi nhà đối diện, buồn gõ cửa.


      - Nghe này...


      Mila ở trong xưởng vẽ của Yvonne Gress, ở đó các tấm tranh nằm chồng chất khắp nơi, giá vẽ và màu vẽ nằm lung tung. Nghe thấy giọng của Goran, dừng bước.


      - Chúng tôi có lẽ biết được chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà này.


      chờ đợi.


      - Chúng ta gặp phải tên ăn bám: trong các công nhân được thuê để xây dựng ngôi nhà của Kobashi tối nào cũng ở lại sau giờ làm việc và lẻn sang nhà đối diện. Chúng tôi e là ... - ông ngừng lúc để tìm từ diễn đạt việc kinh hoàng - giam cầm gia đình bà Yvonne trong chính ngôi nhà của họ.


      Kẻ lạ mặt chiếm lấy cái tổ và hành xử như những người khác, tự thuyết phục rằng thành viên của nó. chứng tỏ mọi thứ bằng tình bệnh hoạn của mình. Nhưng khi chán, loại bỏ gia đình mới quen và tìm cái tổ khác.


      Trong khi quan sát các dấu ấn ghê tởm để lại trong xưởng vẽ của Yvonne, Mila lại nhớ đến những con giòi Sarcophaga carnaria lúc nhúc tấm thảm nhà Kobashi.


      Sau đó nghe tiếng Stern hỏi:


      - Trong bao lâu?


      - Sáu tháng. - Goran đáp.


      Mila thấy bụng quặn lên. Suốt trong sáu tháng trời, bà Yvonne và các con bị giam cầm bởi kẻ tâm thần được tùy ý muốn làm gì họ làm. Quá đáng hơn, làm chuyện đó ngay giữa tá các ngôi nhà khác, nơi các gia đình khép mình trong thiên đường xa hoa này để tách rời khỏi thế giới tàn khốc và đặt niềm tin vào an ninh lý tưởng đến vô lý.


      Sáu tháng. Và ai nhận ra chuyện gì.


      Khu vườn được xén cỏ hàng tuần, các luống hoa hồng đều đặn nhận chăm sóc tận tâm của các bác làm vườn. Ánh đèn trước hiên nhà được bật lên mỗi tối, nhờ công tắc hẹn giờ theo đúng quy định của ban quản lý. Đám trẻ đạp xe và chơi đá bóng con đường trước nhà, các quý bà vừa dạo vừa tán gẫu và trao đổi công thức làm bánh, còn cánh đàn ông chạy bộ mỗi sáng Chủ nhật và rửa xe trước gara nhà mình.


      Sáu tháng trời. Mà ai thấy gì.


      Họ tự hỏi vì sao các tấm rèm luôn che kín mít, kể cả vào ban ngày. Họ nhận ra đống thư từ dồn ứ trong hộp thư. ai buồn chú ý đến vắng mặt của Yvonne và các con trong các dịp sinh hoạt của câu lạc bộ, chẳng hạn như vũ hội mùa thu và buổi quay xổ số may mắn ngày 23 tháng Mười hai. Các món đồ trang trí Giáng sinh - nhà nào cũng như nhà nào - được các công nhân sắp đặt như thường lệ, rồi gỡ sau dịp lễ. Điện thoại đổ chuông người nhấc máy, bà Yvonne và các con mở cửa khi có người gọi, nhưng chẳng ai lo lắng.


      Các họ hàng của bà Yvonne Gress đều ở xa. Mà ngay cả họ cũng thấy gì bất thường bởi im lặng quá lâu này.


      Trong suốt khoảng thời gian dài đó, gia đình ao ước, hy vọng, cầu nguyện hàng ngày cho giúp đỡ hoặc chú ý chẳng bao giờ đến.


      Có lẽ gã là kẻ ác dâm. Và đây là trò chơi, là thú tiêu khiển của .


      Ngôi nhà búp bê của , Mila thầm nghĩ trong đầu khi nhớ đến trang phục mà Albert mặc cho thi thể đặt trong nhà Kobashi.


      nghĩ đến những trò bạo lực đếm xuể mà bà Yvonne và các con phải hứng chịu trong khoảng thời gian dài đó. Sáu tháng đày ải. Sáu tháng bị tra tấn. Sáu tháng thống khổ. Nhưng nghĩ cho cùng, chỉ cần khoảng thời gian ngắn hơn là đủ để cho mọi người quên hẳn họ.


      Ngay cả “đội ngũ giữ gìn pháp luật” cũng nhận ra điều gì, dù họ đứng trước nhà suốt hơn hai mươi bốn giờ vừa qua, trong tình trạng báo động. Họ cũng có tội và là những kẻ đồng lõa theo nghĩa nào đó. Ngay cả cũng vậy.


      lần nữa. Albert cho thấy thói đạo đức giả nơi nhóm người cảm thấy “bình thường” chỉ vì mình giết và cắt tay của các bé vô tội. Chính vô tâm của họ cũng là tội ác nghiêm trọng kém.


      Boris cắt ngang dòng suy nghĩ của Mila.


      - Stern, đó vẫn ổn chứ?


      - Đường vẫn thông.


      - Vậy chúng ta thôi.


      Họ gặp nhau như hẹn ở chân cầu thang dẫn lên tầng , ở đó có các phòng ngủ.


      Boris ra hiệu cho Mila yểm trợ phía sau. Từ lúc này, họ phải quan sát trong tình trạng yên lặng hoàn toàn để bị lộ. Stern chỉ được phép lên tiếng để cảnh báo họ trong trường hợp vật thể sống màn hình di chuyển.





      Hai người bước lên các bậc thang. Kể cả thảm trải cầu thang cũng dính đầy vết bẩn, dấu giày và đồ ăn. tường treo những tấm ảnh chụp các chuyến du lịch, những dịp sinh nhật hoặc lễ kỷ niệm gia đình, và bức chân dung bà Yvonne cùng các con nơi đầu cầu thang. Kẻ nào đó khoét những đôi mắt đó, chắc là cảm thấy khó chịu vì cái nhìn thiêu đốt.


      Khi lên đến nơi, Boris tránh sang bên đợi cho Mila bắt kịp mình. Sau đó trước mở đường. Có nhiều cánh cửa khép hờ hai bên hành lang. Ở phía cuối, hành lang rẽ sang trái.


      Sau chỗ rẽ là nơi phát ra nguồn nhiệt.


      Boris và Mila chầm chậm tiến về phía đó. Khi ngang qua trong những cánh cửa khép hờ, Mila nhận ra tiếng động nhịp nhàng của thông điệp kêu cứu bằng mã Morse mà họ nhận được. nhàng mở cửa và phát ra đó là phòng của cậu con trai mười tuổi. Những tấm áp phích hình các hành tinh phủ kín các bức tường, sách thiên văn học chiếm đa số các kệ sách. chiếc kính viễn vọng được đặt ngay trước cửa sổ.


      chiếc bàn học , thấy mô hình thu tái lại thiết bị đánh điện tín hồi đầu thế kỷ XX. Nó gồm miếng gỗ và hai cục pin khô được nối thông qua các điện cực và dây đồng với chiếc đĩa đục lỗ quay bánh răng theo từng đợt - ba chấm, ba gạch, ba chấm. Tất cả được nối dây với máy bộ đàm hình khủng long. Mô hình được gắn tấm bảng bằng đồng để chữ GIẢI NHẤT.


      Tín hiệu phát ra từ đây.


      Cậu bé biến bài tập của mình thành trạm phát tín hiệu, tránh được kiểm soát và cấm đoán của kẻ cầm tù ba mẹ con.


      Mila hướng chùm sáng đèn pin vào chiếc giường chưa dọn. Bên dưới nó có cái xô nhựa. còn để ý thấy những vết trầy xước nơi gờ của đầu giường.


      Căn phòng đối diện trong hành lang là của chị mười sáu tuổi. cửa phòng dán những chữ cái đủ màu tạo thành cái tên: Keira. Đứng ngưỡng cửa, Mila quét mắt nhìn nhanh trong phòng. Vải trải giường bị vo thành cục tròn nằm dưới sàn. cái tủ nhiều ngăn đựng quần áo lót lăn kềnh sàn. Chiếc gương của tủ commốt bị quay vào giường. khó để hiểu lý do tại sao. Ở đây cũng có những vết trầy xước thanh đầu giường.


      Còng số tám, Mila thầm nghĩ. Ban ngày còng họ vào giường.


      cái xô nhựa bẩn khác được đặt trong góc phòng. Chắc nó được dùng cho nhu cầu cá nhân.


      Cách đó vài ba mét là phòng ngủ của Yvonne. Nệm giường bẩn thỉu, chỉ có lớp vải trải. lớp thảm trải sàn có dấu vết nôn mửa và băng vệ sinh sử dụng. Ở bức tường, cái đinh lúc trước từng dùng để treo tranh là chiếc thắt lưng da đập vào mắt, lời nhắc nhở đến kẻ ra lệnh và cách thức thực thi mệnh lệnh của .


      Đây là phòng chơi bời của mày, thằng khốn nạn! Tao nghĩ mày cũng thỉnh thoảng lượn sang phòng của con bé nữa! Và khi chán hai mẹ con, mày mò sang phòng thằng bé để tẩn cho nó mấy cái...


      Cơn giận là thứ cảm xúc còn lại duy nhất của Mila. Và tận dụng nó, hút lấy hút để từ trong cái giếng tối tăm đó.


      bao nhiêu lần, bà Yvonne Gress bị buộc phải “chiều chuộng” con quái vật ấy, nhằm giữ lại trong căn phòng này và để trút giận lên đầu hai đứa con của bà?


      - Chú ý, có gì đó chuyển động. - Stern cảnh báo.


      Boris và Mila nhất loạt quay về phía chỗ rẽ ngoặt trong hành lang. còn thời gian để trinh sát nữa. Họ chĩa súng và đèn về hướng đó, chờ đợi thứ gì đó xuất .


      - Đứng yên! - Boris hô to.


      - Nó tiến đến chỗ hai người.


      Mila đặt ngón trỏ lên cò súng và bắt đầu ấn vào đó. Tim đập càng lúc càng mạnh.


      - Nó ở ngay đằng sau góc tường.


      Con vật kêu rên tiếng . cái mõm lông lá xuất và quan sát họ. con chó giống Terre-neuve. Mila hạ vũ khí, Boris cũng làm theo.


      - Mọi chuyện ổn cả. - vào bộ đàm. - Chỉ là con chó thôi.


      Con vật có bộ lông cứng và dính bết, đôi mắt đỏ. Nó bị thương ở chân.


      giết nó, Mila thầm nghĩ trong khi tiến lại gần con vật.


      - Lại đây nào, cưng, lại đây...


      - Nó sống sót mình trong gần ba tháng ròng. Làm sao nó sống được? - Boris hỏi.


      Mila càng tiến tới con chó càng thụt lùi.


      - Coi chừng. Nó hoảng sợ. Nó có thể cắn đấy.


      phớt lờ lời khuyến cáo của Boris và tiếp tục tiến về phía con chó. quỳ xuống để làm nó an tâm, trong khi tiếp tục gọi:


      - Lại đây, bé cưng, lại đây nào.


      Khi đến đủ gần, nhìn thấy bảng tên gắn vào vòng cổ của con chó. Nhờ ánh sáng đèn pin, có thể đọc được tên của con vật.


      - Terry, lại đây nào, ngoan nào...


      Rốt cuộc con chó cũng để cho tiếp cận. Mila đưa tay lên trước mõm nó để nó ngửi.


      Boris tỏ ra sốt ruột.


      - Được rồi đấy, chúng ta kiểm tra nốt tầng này rồi gọi mọi người vào.


      Con chó giơ chân khều Mila, như thể nó muốn chỉ cho xem thứ gì đó.


      - Chờ ...


      - Cái gì vậy?


      đáp mà chỉ đứng dậy. Con chó lại quay về chỗ rẽ của hành lang.


      - Nó muốn chúng ta theo.


      Hai người sau con chó. Sau ngã rẽ, hành lang chỉ còn tiếp tục thêm vài mét. Ở cuối hành lang, bên phải, có căn phòng cuối cùng. Boris xem sơ đồ.


      - Nó trông ra mặt hậu, nhưng tôi biết nó là phòng gì.


      Cửa phòng đóng. Phía trước nó có nhiều món đồ nằm lộn xộn. cái chăn may chần với họa tiết khúc xương, cái tô, quả bóng nhiều màu, sợi dây dắt chó và đồ ăn thừa.


      - Ra đây là kẻ lục đồ ăn. - Mila .


      - Tôi tự hỏi sao nó lại đem đồ chơi của mình đến chỗ này...


      Con chó tiến lại gần cánh cửa, như thể muốn khẳng định cái ổ của nó nằm ở đó.


      - nghĩ nó dọn vào chỗ này mình à? Tại sao chứ?


      Như để trả lời cho câu hỏi của Mila, con chó bắt đầu cào vào cánh cửa và rên ư ử.


      - Nó muốn chúng ta vào trong.


      Mila cầm lấy sợi dây và buộc con vật vào cái máy sưởi.


      - Ngoan nào, Terry.


      Con chó sủa tiếng, xem vẻ hiểu. Nó tránh khỏi lối trong lúc Mila cầm lấy tay nắm và Boris chĩa súng vào cánh cửa. Thiết bị tầm nhiệt phát được diện của sinh vật sống nào khác, nhưng ai mà biết được. Tuy vậy cả hai người đều tin rằng, phía sau tấm chắn mỏng manh này là kết cục bi thảm của những điều xảy ra trong những tháng vừa qua.


      Mila ấn mạnh tay nắm để mở khóa cửa, rồi đẩy . Ánh sáng đèn pin chọc xuyên qua bóng tối, nhảy từ bên này sang bên kia căn phòng.


      Nó trống .


      Căn phòng rộng khoảng hai mươi mét vuông. Sàn phòng trải thảm, các vách tường được sơn trắng. Ô cửa sổ bị che kín bởi tấm rèm dày. bóng đèn treo trần. Dường như căn phòng này chưa từng được sử dụng.


      - Sao con chó dẫn chúng ta vào trong này? - Mila tự hỏi chính mình nhiều hơn là hỏi Boris. - Bà Yvonne và bọn trẻ đâu?


      tránh hỏi thẳng rằng “Xác của ba mẹ con ở đâu?”


      - Stern.


      - Tôi đây.


      - bảo đội khoa học vào . Chúng tôi xong việc rồi.


      Mila bước ra hành lang, cởi dây buộc con chó. Nó lập tức lao vào trong phòng. Mila chạy theo và thấy nó chúi mũi vào góc.


      - Terry, mày thể ở đây được.


      Nhưng con chó nhúc nhích. Mila bèn tiến lại gần, tay cầm sợi dây dắt chó. Con vật lại sủa, nhưng có vẻ đe dọa. Rồi nó bắt đầu hít hít sàn nhà gần chân tường. Mila cúi xuống cạnh nó, đẩy mõm nó ra và rọi đèn pin vào. Chẳng có gì. Nhưng rồi nhìn thấy.


      vết màu nâu.


      Nó có đường kính hơn ba milimet. Mila cúi xuống gần hơn. thấy nó có góc cạnh và bề mặt dợn sóng.


      còn nghi ngờ gì về nó nữa.


      - Đây là nơi chuyện đó xảy ra.


      Boris hiểu chuyện gì.


      Rồi quay về phía


      - Đây là nơi giết họ.





      - ra chúng tôi biết có người vào nhà, nhưng mà... các biết đấy, Yvonne Gress là phụ nữ hấp dẫn, sống mình nên... thỉnh thoảng vẫn được đàn ông khu này ghé chơi vào đêm hôm khuya khoắt.


      Tay đội trưởng đội bảo vệ gục gặc đầu đầy ngụ ý khiến cho Goran phải phản ứng bằng cách nhón gót, đưa mắt mình ngang tầm mắt ta.


      - Sao dám bóng gió những chuyện như thế...


      Ông với giọng bình thường nhưng hàm chứa đầy vẻ đe dọa.


      Tay bảo vệ đáng lẽ phải giải thích về sai sót nghiêm trọng của mình và các thuộc cấp. Nhưng ngược lại, ta cố dùng thủ đoạn thống nhất với đám luật sư của Capo Alto. Họ tìm cách biến bà Yvonne Gress thành phụ nữ dễ dãi dựa việc bà bỏ chồng và sống độc thân.


      Goran lưu ý rằng kẻ lạ mặt - vì họ chưa thể xác định danh tính của - kẻ ra vào nhà bà Yvonne trong suốt sáu tháng trời, lợi dụng chính cái cớ đó để hành động tùy thích.


      Ông và Rosa xem hầu hết các đoạn video an ninh được quay trong thời gian . Cùng việc như thế diễn ra gần như mỗi ngày. Thỉnh thoảng gã đàn ông ở lại qua đêm, Goran tự nhủ đó là những thời điểm dễ thở nhất cho gia đình bị cầm tù kia. Nhưng biết đâu đó là những lúc tệ hại nhất, vì họ bị trói vào giường và được ăn uống gì nếu bị bỏ mặc.


      Bị bạo hành cũng có nghĩa là còn sống, trong hành trình vô tận tìm cái ác ít kinh khủng hơn.


      Trong các đoạn băng ghi hình, họ nhìn thấy gã đàn ông vào ban ngày, trong khi làm việc công trường. luôn đội mũ lưỡi trai để bị quay mặt.


      Stern dò hỏi công ty chủ quản thuê theo hợp đồng mùa vụ. Họ bảo tên là Lebrinsky, nhưng đó là cái tên giả. Chuyện này xảy ra cũng là điều bình thường, đặc biệt là vì các công trường xây dựng hay dùng lao động nước ngoài chưa có giấy tờ lưu trú. Theo luật, chủ lao động phải có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ của họ để xem họ có hợp pháp hay .


      Nhiều công nhân từng làm việc ở công trình xây dựng biệt thự Kobashi cho biết kẻ có tên Lebrinsky là người ít , sống khép mình. Họ cung cấp những mô tả về nhằm dựng lên chân dung máy tính. Nhưng các mô tả quá khác biệt nên thể sử dụng được.


      Khi xong việc với tay đội trưởng đội bảo vệ, Goran vào gặp những người còn lại trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress, vốn được nhóm của Krepp “càn quét” nãy giờ.


      Mấy cái khuyên xỏ lấp lánh khuôn mặt của chuyên gia vân tay trong khi ông di chuyển như vị thần trong khu rừng ma thuật. Bởi bây giờ ngôi nhà trông khác thường: thảm trải sàn được bao phủ toàn bộ bằng lớp nhựa trong, các ngọn đèn halogen được đặt đây đó để chiếu sáng nhiều chỗ, có khi chỉ chi tiết rất . Những con người trong bộ đồ bảo hộ màu trắng và đeo mặt nạ trong suốt phủ bột hóa chất lên mọi thứ.


      - Đối tượng của chúng ta được thông minh cho lắm. - Krepp bình phẩm. - Ngoại trừ lộn xộn do con chó gây ra, bỏ lại đủ thứ rác rưởi: lon bia, đầu lọc thuốc lá, ly cốc bẩn. Dữ liệu di truyền nhiều đến độ ta có thể nhân bản !


      - Còn dấu tay? - Sarah Rosa hỏi.


      - Cả đống! Nhưng đáng tiếc là chưa bao giờ vào tù nên ta chưa có thông tin trong hệ thống.


      Goran lắc đầu: dấu vết nhiều như thế mà họ thậm chí tìm ra nổi kẻ tình nghi. ràng tên ăn bám này bất cẩn hơn nhiều so với Albert, kẻ phá hoại hệ thống camera an ninh trước khi đưa thi thể bé vào trong nhà của Kobashi. Chính vì vậy ông thấy có điều gì đó hợp lý.


      - Vậy còn xác của các nạn nhân? Chúng ta xem hết băng an ninh, kẻ ăn bám chưa bao giờ mang thứ gì ra khỏi căn nhà này.


      - Vì gã đưa họ ra ngoài qua cửa chính...


      Mọi người bối rối nhìn nhau, cố hiểu ý nghĩa của câu . Krepp giải thích thêm:


      - Chúng tôi kiểm tra các cống rãnh. Tôi tin là phi tang các xác chết theo ngả đó.


      cắt họ thành từng mảnh , Goran thầm kết luận. Tên cuồng sát nhập vai ông chồng và người cha hờ dễ thương, để rồi ngày kia khi chán, hoặc có thể là khi hết việc ở công trình đối diện, vào đây lần cuối cùng. Ông tự hỏi liệu bà Yvonne và các con có dự cảm được kết cục của họ hay .


      - Nhưng tôi dành chuyện quái lạ nhất để sau cùng... - Krepp lên tiếng.


      - Chuyện gì mới được chứ?


      - Căn phòng trống gác, nơi bạn cảnh sát của chúng ta tìm thấy vết máu tí ấy.


      Mila cảm thấy cái nhìn đầy ý của Krepp chiếu vào mình. Goran thấy cứng người phòng thủ. Krepp làm nhiều người phát sợ.


      - Căn phòng gác là nhà nguyện Sixtine của tôi. - Ông . - Vết máu khiến chúng ta nghĩ đó là nơi xảy ra vụ thảm sát, trước khi được lau chùi sạch , mặc dù còn để sót vết máu . Nhưng thậm chí còn xa hơn thế. sơn lại các bức tường.


      - Tại sao? - Boris hỏi.


      - Vì rất ngu. ràng là thế. Sau khi để lại cả đống rác rưởi lẫn dấu vết và xả tuột mọi thứ xuống cống, kiếm cho mình đủ án chung thân. Vậy , việc quái gì phải sơn lại căn phòng đó?


      Goran cũng thấy động cơ của hành động đó ràng.


      - Vậy làm gì tiếp?


      - Tôi bóc lớp sơn để xem có gì bên dưới. Việc này cần nhiều thời gian, nhưng với các công nghệ mới tôi có thể thu thập mọi vết máu mà tên đần kia phi tang cách tầm thường đến thế.


      Goran cảm thấy chưa được thuyết phục.


      - tại chúng ta chỉ mới có vụ giam giữ người bất hợp pháp và che giấu thi thể. bị kết án chung thân, nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta lập lại công lý. Để làm sáng tỏ và buộc nhận tội giết người, chúng ta cần chỗ máu đó.


      - Ông có, thưa giáo sư.


      Cho đến lúc này, họ vẫn chỉ có được mô tả rất vắn tắt về đối tượng tìm kiếm. Họ kết hợp chúng với các thông tin mà Krepp thu thập được.


      - Tôi có thể đây là gã đàn ông tuổi từ bốn mươi đến năm mươi. - Sarah Rosa khơi mào. - Vóc người vạm vỡ, cao khoảng mét sáu tám.


      - Các dấu giày thảm có cỡ bốn mươi ba, nên tôi nghĩ mô tả tương đối trùng khớp.


      - Nghiện thuốc.


      - hút thuốc rê.


      - Giống tôi. - Boris . - Rất vui khi được có điểm chung nào đó với gã như .


      - Có thể chó. - Krepp chốt lại.


      - Chỉ vì để cho con chó sống sót thôi à? - Mila hỏi.


      - phải thế. Chúng tôi tìm thấy nhiều loại lông chó lai.


      - Nhưng làm sao có thể khẳng định là người đem lông chó vào nhà?


      - Lông chó nằm trong chỗ bùn của các vết giày thảm. Đương nhiên trong đó có cả các vật liệu xây dựng, xi măng, mát tít, dung môi - thứ trở thành keo dán cho tất cả những thứ khác. Và dĩ nhiên cho cả những thứ mang từ nhà mình đến.


      Krepp nhìn Mila theo kiểu người bỗng dưng đụng phải thách thức nhưng vượt qua cách khéo léo. Sau phút giây đắc thắng đó, ông quay mắt và thoắt biến trở lại thành chuyên gia lạnh lùng như mọi người vẫn biết.


      - Và còn điều này nữa, nhưng tôi vẫn chưa liệu nó có ý nghĩa gì ...


      - luôn . - Goran ra lệnh, biết tỏng Krepp thích được người khác nài nỉ.


      - Trong chỗ bùn của các dấu giày, có lượng vi khuẩn lớn. Tôi tham khảo ý kiến nhà hóa học đáng tin cậy...


      - Tại sao là hóa học mà phải vi sinh vật học?


      - Bởi vì tôi nghĩ chúng là những vi sinh vật “ăn rác” tồn tại trong thiên nhiên nhưng được sử dụng cho các chức năng khác nhau, chẳng hạn như tiêu hủy nhựa, hoặc các dẫn chất của dầu mỏ. Thực ra phải chúng “ăn” thực , mà chỉ sản xuất ra loại men. Người ta dùng men đó để xử lý các bãi rác cũ...


      Nghe đến đây, Goran thấy Mila và Boris quay sang nhìn nhau.


      - Bãi rác cũ? Khốn nạn... Chúng tôi biết gã này!

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      24








      Feldher đợi họ.


      Gã ký sinh cố thủ trong sào huyệt của mình đỉnh ngọn đồi rác.


      Bên cạnh là các vũ khí đủ loại mà thu thập từ hàng tháng trời để chuẩn bị cho màn thanh toán này. Thực ra chẳng nhọc công trốn tránh. biết sớm hay muộn có người đến sờ gáy mình.


      Mila đến cùng những người khác và đơn vị đặc nhiệm vào vị trí quanh nhà của Feldher.


      Từ cao, trong hang ổ của mình, Feldher có thể kiểm soát con đường dẫn vào bãi phế liệu. Ngoài ra, phát quang cây cối để có tầm nhìn tốt hơn. Nhưng khai hỏa ngay mà đợi cho mọi người vào chỗ mới bắt đầu bắn tỉa.


      Đầu tiên nhắm vào con chó Koch của mình. Con chó với bộ lông màu gỉ sắt chạy lăng quăng giữa đống sắt phế liệu. hạ gục nó bằng phát súng vào đầu. muốn chứng tỏ cho bọn người ngoài kia thấy đùa. Nhưng cũng có lẽ muốn tránh cho con vật kết cục tồi tệ hơn, Mila thầm nghĩ.


      Núp sau trong những chiếc xe bọc thép, quan sát việc. bao nhiêu thời gian trôi qua từ sau lần cùng Boris đến căn nhà kia để hỏi về nhi viện ngày xưa từng ở? Hóa ra che giấu bí mật còn khủng khiếp hơn bí mật của Ronald Dermis.


      dối nhiều thứ.


      Khi Boris hỏi có từng bị tù, đáp có. Nhưng phải vậy. Bằng chứng là họ tìm thấy dấu vân tay để lại ở nhà bà Yvonne trong hồ sơ cảnh sát. Tuy nhiên những lời dối được Feldher dùng để bảo đảm Mila và Boris kiếm tra thông tin của mình. Boris nhận ra vì theo lẽ thường, chẳng ai sai chỉ để làm xấu hình ảnh của mình.


      Nhưng đó lại chính là điều Feldher làm. rất tinh ranh, Mila thầm nghĩ.


      thăm dò tình hình và xỏ mũi hai người, chắc ăn họ có manh mối nào để liên hệ với ngôi nhà của bà Yvonne. Nếu nghi ngờ điều ngược lại, chắc họ sống sót mà rời khỏi nhà được.


      Sau đó, Mila lại bị lừa thêm lần thứ hai với diện của Feldher hôm hạ huyệt Ronald. cứ tưởng đó chỉ là hành động thương hại, nhưng ra Feldher đến để kiểm tra tình hình.


      - Bọn con hoang kia, đến đây kiếm tao nào!


      loạt đạn liên thanh rạch toang khí, vài viên trúng vào chiếc xe bọc thép kêu lịch bịch, những viên còn lại đập vào đống sắt phế liệu với những tiếng chát chúa.


      - Mẹ kiếp! Chúng mày bắt sống tao được đâu!


      ai đáp lại lời , ai tìm cách thỏa thuận với . Mila nhìn quanh: có người thương thuyết cầm loa để thuyết phục Feldher hạ vũ khí. tự tay ký vào bản án tử cho mình. Chẳng ai bận tâm đến chuyện cứu mạng .


      Họ chỉ đợi sai sót để gạch tên khỏi cõi đời này.


      Hai xạ thủ vào chỗ, sẵn sàng khai hỏa ngay khi Feldher ló đầu ra thêm. Lúc này họ để mặc cho hả hê. Như vậy càng có cơ phạm sai lầm.


      - Mụ ta là của tao, đồ khốn chúng bay! Tao cho nó thứ nó muốn!


      khiêu khích họ. Căn cứ vào căng thẳng những gương mặt quan sát , nước cờ của khá thành công.


      - Cần phải bắt sống . - Goran . - Đó là cách duy nhất để ta tìm được mối liên hệ giữa và Albert.


      - Tôi tin là đội đặc nhiệm đồng tình với chúng ta, thưa giáo sư. - Stern .


      - Vậy ta phải chuyện với Roche. Ông ta phải ra lệnh đưa người thương thuyết đến.


      - Feldher để bị bắt đâu. dự tính trước mọi thứ, kể cả kết cục cuối cùng. - Sarah Rosa lưu ý ông. - làm cú bất ngờ để ra trong ngạo nghễ.


      sai. Các kỹ thuật viên cháy nổ cùng họ xác định được số thay đổi nền đất chung quanh ngôi nhà.


      - Mìn sát thương. - trong số họ với Roche khi ông đến nơi.


      - Với tất cả những thứ thối tha nằm bên dưới, đó là tận thế.


      Họ tham khảo ý kiến của nhà địa chất học. Ông ta khẳng định rằng, ngọn đồi rác có thể che giấu nhiều túi khí mêtan bên dưới do quá trình phân hủy rác thải tạo nên.


      - Các cần phải lùi ra xa ngay. Chỉ cần đám cháy thôi là thảm họa xảy ra.


      Goran nhấn mạnh với ông chánh thanh tra rằng chí ít họ cũng phải thử thương lượng với Feldher. Rốt cuộc Roche đồng ý cho họ ba mươi phút.


      Nhà tội phạm học định dùng điện thoại gọi cho , nhưng Mila nhớ ra đường dây bị cắt do chậm trả tiền cước. Khi và Boris tìm cách điện thoại liên hệ với Feldher lúc trước, chỉ nghe thấy tiếng trả lời tự động. Phải mất bảy phút để công ty viễn thông mở lại đường dây. Họ chỉ còn hai mươi ba phút để thuyết phục nộp mình. Nhưng khi điện thoại trong nhà reo, Feldher đáp trả bằng loạt đạn nhằm vào các cảnh sát.


      Goran bỏ cuộc. Ông lấy cái loa phóng thanh và đến nấp sau chiếc xe bọc thép gần ngôi nhà nhất.


      - Feldher, tôi là Goran Gavila!


      - Cút mẹ mày ! - đáp trả trước khi bắn loạt đạn.


      - nghe tôi này: tôi chẳng coi là cái thá gì, cũng giống như những người cùng tôi!


      Mila nhận ra Goran muốn lừa Feldher, vì chuyện đó chẳng để làm gì. Gã đàn ông này tự quyết định số mạng của mình, nên ông giáo sư chơi bài ngửa luôn.


      - Thằng con hoang, tao thèm nghe mày đâu!


      phát đạn trúng vào chỗ cách ông giáo sư vài centimet. Mặc dù được bảo vệ an toàn, ông vẫn bị bất ngờ.


      - Nhưng phải nghe tôi , vì như thế chỉ có lợi cho mà thôi!


      đến nước này ông còn có thể đưa ra đề nghị nào nữa đây?


      Mila chưa thông được nước của Goran.


      - Chúng tôi cần , Feldher, vì có thể biết kẻ bắt cóc bé thứ sáu. Chúng tôi gọi là Albert, nhưng tôi tin chắc biết tên của gã.


      - Tao biết cái cóc khô gì hết!


      - Ngược lại, quan tâm đến nó, vì thông tin này rất đáng giá trong thời điểm tại!


      Khoản tiền thưởng.


      Hóa ra đây là chiến thuật của Goran! Mười triệu được quỹ Rockford tặng cho bất kỳ ai cung cấp được thông tin hữu ích để cứu bé số sáu.


      Người ta có thể tự hỏi liệu kẻ chắc suất tù chung thân có thể được lợi lộc gì từ món tiền đó. Nhưng Mila hiểu. Nhà tội phạm học muốn gieo vào đầu Feldher ý tưởng rằng có thể ra cùng với khoản tiền, rằng có thể “đánh lừa” cả hệ thống bạc đãi cuộc đời và biến thành người như bây giờ. thằng khốn nạn, kẻ thất bại. Cùng với món tiền, có thể thuê cho mình luật sư giỏi, người có thể vin vào lý do khuyết tật trí năng để làm giảm tội cho , trò vốn chỉ dành cho những can phạm có tiền, vì rất khó để theo đuổi và chứng minh nó nếu có đủ năng lực tài chính. Feldher có thể hy vọng được giảm án xuống còn hai mươi năm giam giữ, phải trong tù, mà là trong bệnh viện dành cho tội phạm tâm thần. Sau đó, khi mãn hạn, có thể tận hưởng phần còn lại của khoản tiền. Như người tự do.


      Goran đúng đường. Bởi Feldher luôn muốn được hơn con người tại của mình. Chính vì vậy mà thâm nhập vào gia đình bà Yvonne Gress. Để ít nhất lần biết cảm giác được sống sung túc trong nơi chỉ dành cho người giàu, cùng với phụ nữ đẹp, con cái, và những món đồ xinh xắn.


      Giờ đây, có thể cùng lúc có được hai thứ: ẵm trọn khoản tiền thưởng, và thoát khỏi cuộc sống tại.


      ra khỏi căn chòi rách hai chân, miệng nở nụ cười ngạo nghễ trước hàng trăm nhân viên công lực muốn băm vằm ra. Nhưng hết, trở nên giàu có. Theo nghĩa nào đó, trở thành người hùng.


      Lần này Feldher chửi và cũng bắn phát nào. cân nhắc.


      Goran lợi dụng im lặng đó để nuôi thêm hy vọng cho :


      - ai có thể tước mất những gì có được. Và mặc dù muốn thú nhận, nhưng chúng tôi cũng phải lời cảm ơn . Vậy nên, hãy hạ vũ khí, bước ra ngoài và hàng phục...


      lần nữa, cái ác phục vụ cho cái thiện, Mila thầm nghĩ. Goran sử dụng cùng phương thức như của Albert.


      Nhiều giây phút dài dằng dặc trôi qua. Nhưng thời gian càng kéo dài họ càng có hy vọng thành công. Từ phía sau chiếc xe bọc thép, Mila nhìn thấy cảnh sát đặc nhiệm thò cái gương con gắn đầu cái que dài ra để kiểm tra vị trí của Feldher trong nhà.


      Ngay sau đó nhìn thấy hình ảnh của .


      Họ chỉ thấy vai và gáy . mặc cái áo khóa rằn ri và đội chiếc mũ săn. thoáng sau, thấy khuôn mặt nhìn nghiêng và cái cằm tua tủa râu ria của .


      Chuyện đó chỉ diễn ra trong chưa đầy giây. Feldher giương súng lên, để bắn hay để giao nộp vũ khí.


      tiếng rít chói tai vang lên ngay đầu họ. Trước khi Mila kịp hiểu tình hình viên đạn đầu tiên găm vào cổ Feldher. Sau đó là viên đạn thứ hai, đến từ hướng khác.


      - ! - Goran gào lên. - Ngừng lại! Đừng bắn!


      Các xạ thủ của đơn vị đặc nhiệm ra khỏi chỗ nấp để nhắm bắn tốt hơn.


      Máu ồng ộc trào ra từ hai cái lỗ cổ Feldher, theo nhịp đập của động mạch cảnh. loạng choạng, miệng há ra. Bằng tay, cố gắng cầm máu nhưng vô hiệu, trong khi tay kia vẫn cố gắng giương súng bắn trả.


      Goran mặc kệ nguy hiểm và bước ra khỏi chỗ nấp, cố gắng ngăn mọi chuyện lại rơi vào tuyệt vọng.


      Ngay lúc đó, phát đạn thứ ba chính xác hơn hai phát trước, găm vào gáy Feldher.


      Tên ăn bám bị hạ gục.







      25








      - Sabine thích chó lắm, biết ?


      Mila nhận thấy bà mẹ thêm chữ “từng” vào trong câu . Chẳng mấy chốc nỗi đau tấn công bà, khiến cho bà thể tìm lại bình yên và giấc ngủ trong nhiều ngày.


      Nhưng chưa phải bây giờ. Hãy còn quá sớm.


      Trong trường hợp như thế này, nỗi đau để lại khoảng trống, màng ngăn giữa bà và cái tin dữ, rào chắn mềm dẻo có thể giãn ra hay co vào, ngăn cho câu “chúng tôi tìm thấy thi thể con bà” đến được đích. Những từ ngữ ấy bị dội lại trạng thái bình thản kỳ lạ. chịu đựng ngắn ngủi trước khi suy sụp.


      Hai giờ trước đó, Chang đưa cho Mila chiếc phong bì chứa kết quả đối chiếu ADN. Bé ngồi chết trường kỷ trong nhà của Kobashi là Sabine.


      bé bị bắt cóc thứ ba.


      Cũng là nạn nhân thứ ba được tìm thấy.


      Giờ trở thành lịch trình cố định. phương thức hành động, như lời Goran . Ngay cả khi ai đưa ra giả thiết nào về danh tính của thi thể, mọi người đều cho rằng đó là Sabine.


      Mila bỏ lại các đồng nghiệp ngẩn ngơ trước thất bại tại nhà Feldher và tìm kiếm manh mối có thể dẫn họ đến chỗ Albert giữa núi rác kia. cầu sở cấp chiếc xe hơi, và lúc này ngồi trong phòng khách của gia đình Sabine, giữa vùng thôn quê với dân cư chủ yếu là những người nuôi ngựa và những ai thích sống gần gũi với thiên nhiên. phải gần trăm rưỡi cây số để đến được đây. Mặt trời lặn trong khi thưởng ngoạn cảnh vật, những cánh rừng bị các con suối cắt ngang trước khi đổ vào những cái hồ màu hổ phách. cảm thấy đối với cha mẹ của Sabine, việc được đến gặp, ngay cả vào giờ giấc khác thường thế này, cũng có thể có tác dụng trấn an họ, chứng tỏ rằng có ai đó quan tâm đến con họ. Và nhầm.


      Mẹ của Sabine là người nhút nhát, có thân mình gầy guộc và khuôn mặt hằn sâu các nếp nhăn, tạo ra nơi bà hình ảnh mạnh mẽ nhất định. Mila nhìn các tấm ảnh bà cầm, lắng nghe câu chuyện về cuộc đời bảy năm của Sabine. Ông bố ngược lại, chỉ đứng trong góc phòng, tựa người vào tường, hai mắt cụp xuống và chắp tay sau lưng: ông đong đưa người tới lui, đầu óc tập trung vào mỗi việc thở. Mila tin rằng bà mẹ là người nắm quyền điều hành trong căn nhà này.


      - Sabine sinh non đến tám tuần. Chúng tôi hay tự bảo nhau đó là vì nó muốn ra đời quá. thế cũng đúng phần. - Bà cười thêm, trong lúc mắt nhìn ông chồng gật gù. - Các bác sĩ với chúng tôi là con bé sống nổi vì tim nó còn yếu quá. Nhưng ngược lại, Sabine trụ vững. Nó to hơn bàn tay của tôi và chỉ nặng có nửa cân, nhưng nó chiến đấu bằng tất cả sức lực của mình, trong chiếc lồng ấp. Tuần qua tuần, quả tim nó cứng cáp dần... Thế là các bác sĩ phải thay đổi ý kiến, họ bảo có lẽ nó sống sót, nhưng phải ra vào bệnh viện suốt, uống đủ loại thuốc và trải qua nhiều cuộc phẫu thuật. tóm lại, lẽ ra chúng tôi nên cầu mong cho nó chết ... - Bà ngừng lời chút. - Có thời điểm tôi bị thuyết phục rằng con bé phải chịu đựng suốt cuộc đời trước mắt của nó, và tôi cầu cho quả tim nó ngừng đập. Nhưng Sabine mạnh mẽ hơn những lời cầu khẩn của tôi: Nó phát triển như đứa trẻ bình thường, và tám tháng sau, chúng tôi đem được nó về nhà.


      Bà ngừng . Trong thoáng, nét mặt của bà thay đổi và trở nên dữ dằn hơn.


      - Thằng con hoang chết rấp ấy hủy hoại mọi nỗ lực của con bé!


      Sabine là nạn nhân tuổi nhất của Albert. bé bị bắt cóc đu quay ngựa gỗ. buổi tối thứ Bảy. Ngay dưới mắt bố mẹ và các bậc phụ huynh khác.


      thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình”, Sarah Rosa như vậy trong buổi họp đầu tiên ở Phòng suy tưởng. Mila còn nhớ ta thêm: “Bọn họ mặc kệ. thực là thế”.


      Tuy nhiên, Mila đến tận đây chỉ để an ủi bố mẹ Sabine. muốn đặt số câu hỏi, lợi dụng khi nỗi đau chưa bùng nổ khỏi nơi náu tạm thời của nó và xóa sạch mọi thứ cách phục hồi lại được. biết hai vợ chồng bị hỏi hàng chục lần về hoàn cảnh mất tích của Sabine. Nhưng các đồng nghiệp của có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này bằng .


      - ra , - mở lời, - ông bà là những người duy nhất có thể nhìn thấy hay ghi nhận điều gì đó. Tất cả những lần khác, kẻ bắt cóc đều ra tay tại nơi cách biệt, hoặc khi chỉ có mình với nạn nhân. Còn lần này, liều lĩnh. Biết đâu sai sót điều gì đó.


      - muốn tôi kể lại từ đầu à?


      - Vâng ạ.


      Bà mẹ sắp xếp lại các ý nghĩ chút rồi bắt đầu kể:


      - Đó là buổi tối đặc biệt đối với chúng tôi. nên biết là hồi Sabine được ba tuổi, chúng tôi bỏ công việc ở thành phố để về sống tại đây. Chúng tôi bị quyến rũ bởi thiên nhiên và cơ may nuôi nấng con mình ở nơi xa ồn ào và ô nhiễm.


      - Bà buổi tối hôm Sabine bị bắt cóc là tối đặc biệt...


      - Quả vậy. - Bà đáp, đưa mắt tìm ánh mắt của ông chồng. - Chúng tôi trúng số. khoản kha khá. đủ để trở nên rất giàu có, nhưng cũng đủ để bảo đảm tương lai cho Sabine và con cái của nó... ra tôi chưa bao giờ chơi xổ số, nhưng sáng nọ, tôi mua tờ vé số, và thắng giải. - Bà với nụ cười gượng. - Tôi dám cá là luôn tự hỏi người trúng số như thế nào. (Mila gật đầu). Giờ có câu trả lời rồi đấy.


      - Vậy là cả nhà ra hội chợ để ăn mừng?


      - Đúng vậy.


      - Tôi muốn bà kể lại thời điểm chính xác khi Sabine ngồi vòng quay ngựa gỗ.


      - Chúng tôi cùng chọn con ngựa màu xanh dương. Trong hai vòng quay đầu, bố nó ngồi chung với con bé. Sau đó Sabine nằng nặc đòi ngồi mình ở vòng thứ ba. Nó cứng đầu lắm, nên chúng tôi đành chiều ý con.


      - Tôi hiểu, chuyện này cũng bình thường đối với trẻ con. - Mila để giải tỏa cho mọi cảm giác tội lỗi của bà mẹ.


      Bà ngước mắt lên nhìn rồi , đầy quả quyết:


      - Ở vòng xoay còn có các vị phụ huynh khác, tất cả đều ở bên cạnh con mình. Tôi dõi mắt theo Sabine. Tôi xin thề với là tôi bỏ lỡ giây nào, ngoại trừ lúc con bé ở phía bên kia của vòng quay.


      “Gã làm cho bé biến mất như trò ảo thuật”, Stern như thế trong Phòng suy tưởng, khi nhắc đến việc chú ngựa gỗ xuất trở lại mà có Sabine.


      Mila giải thích:


      - Giả thiết của chúng tôi là kẻ bắt cóc có mặt vòng quay, đóng giả làm vị phụ huynh. Chúng tôi kết luận là có diện mạo của người bình thường. giả dạng ông bố, chuồn cùng với bé và lẫn vào trong đám đông. Có thể Sabine khóc lóc hoặc chống cự. Nhưng ai để tâm, vì trong mắt những người khác, nó chỉ là con bé khóc lóc, vòi vĩnh.


      Giả thiết cho rằng Albert đóng giả bố của bé có lẽ còn gây đau đớn hơn mọi thứ khác.


      - Tôi xin bảo đảm với là nếu như có người đàn ông lạ mặt vòng quay tôi để ý ngay. người mẹ luôn có linh cảm trước những chuyện như vậy.


      với quả quyết khiến Mila muốn phản bác.


      Albert thành công trong việc ngụy trang.


      Hai mươi lăm cảnh sát nhốt mình trong căn phòng trong vòng mười ngày cẩn thận xem xét hàng trăm tấm ảnh được chụp tại hội chợ tối hôm đó. Họ cũng xem các thước phim quay bằng camera gia đình. có gì cả. có máy ảnh nào chộp được Sabine cùng với kẻ bắt cóc dù chỉ là thoáng qua. xuất bất kỳ tấm ảnh nào, dù chỉ loáng thoáng.


      còn câu hỏi nào khác, Mila xin cáo từ. Trước khi khỏi, mẹ Sabine nhất định muốn cầm theo tấm ảnh chụp con mình.


      - Như vậy bỏ quên con bé. - Bà , hề biết rằng dù sao Mila cũng quên được, và chỉ vài giờ sau khắc vào cơ thể mình tưởng niệm cho cái chết của Sabine, dưới dạng vết sẹo mới.


      - bắt được , phải ?


      Câu hỏi của bố Sabine làm Mila bất ngờ. chờ đợi nó. Họ luôn hỏi như vậy. “ bắt được thủ phạm chứ?”


      luôn trả lời theo cùng cách.


      - Chúng tôi làm hết sức có thể.





      Mẹ của Sabine ước cho con mình được chết . Bà được thỏa nguyện bảy năm sau đó. Mila thể nghĩ đến chuyện này trong khi lái xe về studio. Cánh rừng làm cho chặng của trở nên vui mắt giờ chẳng khác gì những ngón tay đen ngòm chọc lên bầu trời đầy gió chướng.


      lập trình thiết bị định vị toàn cầu để quay về theo đường ngắn nhất. Sau đó chỉnh màn hình sang chế độ ban đêm. Ánh sáng xanh dương dễ chịu.


      Radio xe chỉ bắt được sóng AM, và sau nhiều nỗ lực rốt cuộc tìm được đài chuyên phát các bản nhạc cổ điển. Mila đặt tấm ảnh của Sabine lên ghế ngồi bên cạnh. Ơn trời, bố mẹ phải trải qua nỗi đau đớn của quy trình nhận dạng xác chết, vì thi thể phân hủy và bị tàn phá bởi các vi sinh vật ăn xác chết. thấy biết ơn những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực nghiên cứu ADN.


      Cuộc trò chuyện ngắn ngủi để lại cho cảm giác trọn vẹn. Có điều gì đó hợp lý, điều gì đó đúng và khiến bế tắc. Đó là suy nghĩ đơn giản. ngày nọ, người đàn bà ấy mua tấm vé số và trúng giải. Con bà ta trở thành nạn nhân của tên giết người hàng loạt.


      Hai việc hy hữu trong đời người.


      Tuy nhiên, kinh khủng nhất là hai kiện đó có liên quan với nhau.


      Nếu họ trúng số, họ đến hội chợ. Sabine bị bắt cóc và sát hại dã man.


      phải, nghĩ thầm. Gã chọn các gia đình, phải các bé. Dù thế nào gã cũng bắt cóc Sabine thôi.


      Con đường uốn lượn quanh các quả đồi. Thỉnh thoảng trại ngựa lại xuất . Chúng cách nhau khá xa, và để được vào đến nơi, cần phải theo các đường nhánh chạy xuyên qua những khu vực hoang vắng dài hàng mấy cây số. Trong suốt chuyến , Mila chỉ gặp vài ba chiếc xe hơi chạy theo chiều ngược lại, cùng với chiếc máy gặt đập vừa chạy vừa nháy đèn để lưu ý tốc độ di chuyển rất chậm của nó cho các phương tiện khác.


      Đài truyền thanh phát bản nhạc đình đám xưa của Wilson Pickett, bài You Can’t Stand Alone.


      mất vài giây để liên hệ người nghệ sĩ và tên vụ án mà Boris nhắc tới khi kể cho nghe về Goran và vợ ông. “Chúng tôi phạm sai lầm, người ta đe dọa giải tán đội điều tra và tống khứ giáo sư Gavila. Chính Roche là người bảo vệ chúng tôi và kiên quyết giữ chúng tôi ở lại làm việc”.


      Chuyện gì xảy ra? Liệu nó có gì liên quan với bức ảnh trẻ xinh đẹp mà Mila thấy tường của studio ? Có phải các đồng nghiệp mới của vào studio kể từ dạo ấy?


      Dù sao cũng chẳng thể trả lời được những câu hỏi đó. xua chúng ra khỏi đầu. Rồi hạ máy sưởi nấc: bên ngoài trời ba độ, nhưng trong xe lại khá ấm. Thậm chí cởi áo khoác trước khi ngồi vào ghế lái và chờ cho đến khi chiếc xe ấm lên. chuyển đổi từ cái lạnh tê tái sang ấm áp khiến bớt căng thẳng.


      Mila thoải mái buông mình để mệt mỏi dần dần tiêu tan. Rốt cuộc chuyến này hóa ra lại tốt cho . Trong góc của kính chắn gió, bầu trời khoác tấm áo mây dày cộm từ nhiều ngày, hôm nay bỗng quang quẻ hẳn. Như thể ai đó rút chỉ vạt áo, vạch cho xem những ngôi sao rời rạc và để ánh trăng xuyên qua.


      Trong khoảnh khắc giữa những cánh rừng quạnh ấy, Mila thấy mình như được hưởng đặc quyền. Như thể quang cảnh bất ngờ này chỉ dành riêng cho . Khi cua xe theo đoạn cong, ánh trăng trượt lớp kính chắn gió. đưa mắt nhìn theo nó. Nhưng trong thoáng nhìn vào gương chiếu hậu, thấy tia sáng.


      Ánh trăng phản chiếu thân chiếc xe bám theo trong tình trạng tắt hết đèn.


      Bầu trời chụp xuống và tối tăm trở lại. Mila cố giữ bình tĩnh. lần nữa, kẻ nào đó bám theo , giống như hồi ở nhà nghỉ. Nếu như ở lần đầu còn cho đó là sản phẩm của trí tưởng tượng, lần này hoàn toàn tin vào tồn tại của nó.


      Mình phải giữ bình tĩnh và suy nghĩ.


      Nếu tăng tốc, để lộ hốt hoảng của mình. Thêm nữa, biết gì về khả năng lái xe của kẻ bám theo, nên việc tháo chạy có thể nguy hiểm đến tính mạng. có bất kỳ căn nhà nào trong tầm mắt, ngôi làng đầu tiên còn cách đó ít nhất ba chục cây số. Ngoài ra, chuyến phiêu lưu trong đêm tới nhi viện và món trà độc địa của Ronald Dermis đặt lòng can đảm của vào thử thách gay go. Cho tới lúc đó, thừa nhận chuyện ấy, thậm chí còn khăng khăng cho rằng mình cảm thấy ổn, và hề bị chấn động. Nhưng vào lúc này, còn dám chắc mình có thể đương đầu với tình huống hiểm nghèo đến như thế nữa. cảm thấy đôi tay mình trở nên cứng đờ và độ căng thẳng thần kinh tăng cao. Nhịp tim nhanh dần, nhưng biết làm thế nào để kìm hãm nó lại. hốt hoảng.


      Mình phải bình tĩnh, bình tĩnh nghĩ cách.


      Mila vặn radio để có thể tập trung tốt hơn. hiểu kẻ bám đuôi theo đèn xe mình. liếc nhanh máy định vị toàn cầu, gỡ nó ra khỏi hộc và đặt vào lòng.


      Sau đó với tay đến công tắc đèn và tắt .


      đột ngột tăng tốc. Trước mặt là bóng đêm mịt mùng. biết mình đâu, chỉ tin vào lộ trình được chỉ ra màn hình. Cung đường vòng sang bên phải bốn mươi độ. làm theo và trông thấy đốm sáng vẽ nên lộ trình của màn hình. thẳng. lết bánh chút. Đôi bàn tay siết chặt lấy vô lăng, bởi cứ lái bừa thế này chỉ chệch chút là bay ra khỏi đường. Cua sang trái sáu mươi độ. Lần này phải giảm số để bị mất lái và ngoặt vô lăng sang hướng ngược lại. đoạn đường thẳng khác, dài hơn lần trước. Liệu cầm cự được bao lâu mà bật đèn xe? có lừa được kẻ bám đuổi mình ?


      Lợi dụng đoạn đường thẳng, Mila nhìn nhanh vào gương chiếu hậu. Chiếc xe bám đuôi bật đèn.


      Rốt cuộc để lộ mình, và bỏ cuộc. Luồng đèn pha từ xe chiếu lên xe đoạn đường phía trước. Mila bẻ tay lái vừa kịp lúc để ôm cua, đồng thời bật đèn xe lên. đạp ga chạy hết tốc lực thêm hơn ba trăm mét nữa.


      Rồi thắng lại ngay giữa lòng đường và nhìn vào gương chiếu hậu.


      chỉ nghe thấy tiếng tích tắc của động cơ xe và tiếng trống ngực thình thịch. Chiếc xe kia dừng lại trước cung lượn. Mila nhìn thấy ánh đèn pha của nó phản chiếu lớp nhựa đường. Tiếng gầm gừ từ ống xả của nó khiến liên tưởng đến con thú hoang sẵn sàng nhảy chồm tới xé xác con mồi.


      Tới đây nào, tao đợi mày đây.


      Mila rút súng ra và lên đạn. biết từ đâu ra thứ dũng khí mà mới cách đó ít phút tưởng biến mất. tuyệt vọng đẩy đến cuộc đấu tay đôi lố bịch giữa chốn đồng mông quanh.


      Nhưng kẻ bám theo nhận lời thách đấu. Phía bên kia cung lượn, hai luồng đèn pha biến mất, nhường chỗ cho hai ánh đèn đỏ. Chiếc xe quay đầu.


      Mila nhúc nhích. lấy lại được nhịp thở bình thường. cụp mắt xuống nhìn cái ghế bên cạnh, như để tìm kiếm chút an ủi trong nụ cười của Sabine.


      Lúc ấy mới nhận ra tấm ảnh có điều gì đó ổn.





      Mila về đến studio ngay trước nửa đêm. vẫn còn căng thẳng, và trong suốt đoạn đường còn lại, chỉ nghĩ đến tấm ảnh của Sabine, trong khi quên nhìn quanh quất, chờ đợi kẻ bám đuôi mình đột ngột lao ra từ con đường nhánh hoặc giăng bẫy chờ sẵn sau cung lượn.


      ba chân bốn cẳng lao lên cầu thang của căn hộ. muốn chuyện với Goran và thông báo cho nhóm về chuyện vừa xảy ra. Biết đâu chính Albert là kẻ bám theo . Có thể lắm. Nhưng tại sao lại là ? Ngoài ra còn vấn đề của Sabine, nhưng chuyện này có thể chỉ là sai lầm...


      Khi lên đến nơi, mở cánh cửa bọc thép nặng nề bằng chiếc chìa khóa mà Stern đưa, bước qua ngưỡng cửa và thấy mình chìm trong im lặng hoàn toàn. Tiếng đế giày cao su của miết lớp vải nhựa lót sàn nhà là thứ thanh duy nhất trong những căn phòng được kiểm tra nhanh. Đầu tiên là phòng sinh hoạt chung, nơi nhận thấy gác gạt tàn là điếu thuốc cháy hết. bàn bếp, thấy vết tích của bữa tối - cái nĩa nằm cạnh chiếc đĩa ăn, cái bánh flan ăn dở - như thể ai đó phải bỏ ngang bữa ăn của mình. Tất cả các bóng đèn đều bật sáng, kể cả trong Phòng suy tưởng. Mila tiến nhanh đến phòng ngủ: chắc chắn có chuyện gì đó xảy ra. Giường của Stern bừa bộn, hộp kẹo bạc hà nằm lăn lóc gối .


      Điện thoại di động của kêu lên tiếng bíp, báo hiệu có tin nhắn. đọc tin:


      “Chúng tôi đến nhà bà Gress. Krepp muốn cho chúng tôi xem thứ. đến nhập nhóm nhé. Boris”.







      26








      Lúc đến nhà bà Yvonne Gress, Mila nhận thấy phải tất cả mọi người đều vào trong: Sarah Rosa mặc bộ áo liền quần và mang túi bọc giày bên cạnh chiếc xe thùng. Mila cảm thấy thái độ của Sarah đỡ gây hấn hơn hẳn trong những ngày vừa qua. ta vẫn tự lập và đắm mình trong những suy nghĩ riêng. Chắc là do các rắc rối cá nhân.


      Rosa ngước mắt lên nhìn .


      - Mẹ kiếp! chẳng bỏ sót cái gì, hả?


      Tôi xin rút lại những gì vừa nghĩ... Mila nhủ thầm.


      phớt lờ và định trèo vào trong xe kiếm bộ đồ bảo hộ. Nhưng Rosa đứng ngay bậc cửa chắn đường.


      - Ê, tôi với đấy!


      - Chị thích dạy đời người khác nhỉ?


      Mặt chỉ cách mặt Rosa có vài phân. Mila có thể ngửi thấy mùi thuốc lá, kẹo cao su và cà phê. chỉ muốn phớt lờ hoặc chuyện thẳng thắn với Rosa, nhưng nhớ đến điều Goran về vụ ly thân của Rosa và chứng rối loạn ăn uống của con ta, Mila quyết định chọn giải pháp khác.


      - Sao chị ghét tôi đến thế, hả Rosa? Tôi chỉ làm việc của mình thôi mà.


      - Nếu thế lẽ ra phải tìm thấy nạn nhân số sáu rồi chứ?


      - Tôi tìm ra.


      - biết , tôi nghĩ là tồn tại lâu trong cái đội này đâu. giờ tưởng chinh phục được họ, nhưng sớm muộn rồi họ cũng hiểu chúng tôi có thể xoay xở tốt mà .


      Rosa sấn tới, nhưng Mila lùi bước.


      - Nếu chị ghét tôi đến vậy, tại sao sau vụ nhi viện, khi Roche muốn đuổi cổ tôi, chị lại bỏ phiếu giữ tôi lại?


      Rosa quay về phía Mila, ánh mắt lộ vẻ thích chí.


      - Ai với vậy?


      - Giáo sư Gavila.


      Rosa bật cười, lắc đầu.


      - Này, em thân mến ạ, chính vì những trò như thế này mà tồn tại lâu được. Bởi vì nếu như Gavila tiết lộ cho chuyện bỏ phiếu, khi kể cho tôi nghe, phản lại ông ấy... Mà này, ông ấy cho vào tròng đấy... Vì tôi bỏ phiếu chống lại mà.


      đoạn Rosa bỏ mặc Mila đứng như trời trồng và đường hoàng tiến về phía ngôi nhà. Mila nhìn theo, hoang mang vì những gì ta vừa . Sau đó chui vào trong xe thùng để mặc đồ bảo hộ.





      Krepp bảo đảm đó là “nhà nguyện Sixtine” của mình. so sánh ông dành cho căn phòng gác trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress hóa ra sai chút nào.


      Vào thời kỳ đại, kiệt tác của Michelangelo được phục chế toàn bộ, trả lại cho các bức tranh lộng lẫy nguyên thủy, giải phóng chúng khỏi lớp dày bụi khói và keo động vật tích tụ qua nhiều thế kỷ sử dụng nến và lò than. Các chuyên gia bắt đầu công việc với khu vực rất , nhỉnh hơn con tem bưu chính, để tìm hiểu xem thứ gì nằm bên dưới. Đó là bất ngờ lớn: dưới lớp bồ hóng dày là những màu sắc đẹp tuyệt vời mà họ thể tưởng tượng ra trước đó.


      Cũng như thế, Krepp bắt đầu với giọt máu đơn giản mà Mila phát ra nhờ con chó và tìm ra kiệt tác của mình.


      - Trong thùng rác có vật chất hữu cơ nào. - Krepp . - Nhưng ống cống bị ăn mòn và có dấu vết của acid chlorhydric. Chúng tôi phỏng đoán là Feldher dùng nó để tiêu hủy các phần thi thể, để có thể phi tang chúng dễ hơn. Acid vốn rất hiệu quả trong việc hủy xương.


      Khi lên đến nơi, Mila chỉ nghe được phần sau của câu . Krepp ở giữa hành lang, đứng trước mặt ông là Goran, Boris và Stern. Sau lưng họ, Rosa dựa lưng vào tường.


      - Như vậy manh mối duy nhất chúng ta có để ghép tội cuồng sát cho Feldher là vệt máu đó.


      - phân tích nó chưa?


      - Chang khẳng định chín mươi phần trăm nó là của cậu con trai.


      Goran quay lại nhìn Mila, rồi với Krepp:


      - Tốt rồi, tất cả mọi người có mặt. Chúng ta có thể bắt đầu...


      Họ đợi . Lẽ ra phải thấy hãnh diện, nhưng sao tiêu hóa được câu của Sarah Rosa. Biết tin ai bây giờ? Người phụ nữ rồ dại xử tệ với ngay từ đầu, hay Goran? Trong lúc đó, Krepp cảnh báo mọi người trước khi đưa họ vào trong căn phòng:


      - Chúng ta chỉ có thể ở trong đó tối đa mười lăm phút, do vậy nếu như mọi người có thắc mắc gì hỏi luôn .


      ai lên tiếng.


      - Được rồi, ta vào thôi.


      Căn phòng bị lập bởi hai cánh cửa kính cách nhau khoảng hẹp, chỉ cho phép người bước qua. Nó dùng để bảo toàn vi khí hậu. Trước khi vào trong, người trong đội của Krepp đo thân nhiệt của từng người bằng chiếc nhiệt kế hồng ngoại nom giống như cái người ta vẫn dùng cho các em bé. Sau đó ta nhập dữ liệu vào máy tính nối với các thiết bị tạo ẩm đặt trong phòng để chúng có thể điều chỉnh sao cho nhiệt độ trong phòng vẫn được duy trì ổn định.


      Nguyên nhân của việc làm này được Krepp đích thân giải thích. Ông là người bước vào phòng sau cùng.


      - Vấn đề chính nằm ở chỗ lớp sơn được Feldher sử dụng để sơn lên các vách tường. Chúng ta thể xóa bỏ chúng bằng các dung môi thông thường nếu muốn xóa luôn những thứ nằm bên dưới.


      - Vậy làm thế nào? - Goran hỏi.


      - Chúng tôi phân tích và khám phá ra đó là loại sơn nước sử dụng chất kết dính có nguồn gốc từ chất béo thực vật. Chỉ cần phun cồn tinh chế vào khí trong phòng và để như thế trong khoảng vài giờ, ta hòa tan được lượng chất béo đó và làm mỏng lớp sơn tường. Nếu có máu bên dưới, luminol làm chúng xuất ...


      3-aminophthalhydrazide, được biết đến nhiều hơn dưới cái tên luminol. Đó là thuốc thử có vai trò rất quan trọng trong ngành khoa học hình đại. Nó dựa vào tính chất của nhóm hem trong phân tử hemoglobin[5]. Khi luminol phản ứng với thành phần này của máu, nó tạo ra ánh sáng huỳnh quang màu xanh dương đặc trưng, chỉ thấy được trong tối. Tuy nhiên, để có hiệu quả, trước tiên thuốc thử phải được kết hợp với tác nhân oxy hóa, thường là nước oxy già, sau đó phun sương vào trong khí.


      Luminol chỉ có khuyết điểm duy nhất: thời gian phát huỳnh quang chỉ kéo dài quá ba mươi giây. Sau đó ta thể lặp lại phép thử được nữa.


      Vì lý do này, loạt các máy chụp ảnh sử dụng phim có thời gian phơi sáng dài chụp lại kết quả thử nghiệm trước khi chúng biến mất mãi mãi.


      Krepp phân phát mặt nạ có lọc đặc biệt và mắt kính bảo hộ, vì cho dù chưa được chứng minh, người ta vẫn sợ là luminol có thể gây ra ung thư. Sau đó ông quay sang với giáo sư Gavila:


      - Khi nào ông sẵn sàng…


      - Ta bắt đầu thôi.


      Sử dụng bộ đàm, Krepp truyền lệnh cho ê kíp của ông ở bên ngoài.


      Tất cả các bóng đèn tắt phụt.


      Mila cảm thấy sợ hãi trong bóng tối tột cùng vây quanh: chỉ có thể cảm nhận được hơi thở của mình lọt qua màng lọc của mặt nạ, nghe như tiếng nấc hấp hối. Nó hòa lẫn với tiếng xì đều đặn trầm trầm của các thiết bị tạo ẩm liên tục phun hơi vào trong phòng.


      cố giữ bình tĩnh mặc dù nỗi lo lắng dâng cao trong lồng ngực và chỉ muốn mọi chuyện kết thúc nhanh chóng.


      Ngay sau đó, tiếng động thay đổi. Các đầu phun phả vào trong khí dung dịch hóa chất làm hình các vết máu tường. Tiếng rít của chúng kèm theo thứ ánh sáng xanh lơ yếu ớt xuất xung quanh mọi người, nom như ánh sáng mặt trời ở sâu dưới biển.


      Lúc đầu, Mila tưởng đó chỉ là ảo ảnh, dạng ảo giác được tạo thành trong đầu khi ta thở quá nhanh. Nhưng khi hiệu ứng lan dần, nhận ra mình lại có thể trông thấy các bạn đồng đội, như thể ai đó bật đèn, nhưng thay thế thứ ánh sáng lạnh lẽo của đèn halogen bằng tông màu xanh chàm. tự hỏi làm thế nào điều này diễn ra được, và bỗng hiểu ra mọi chuyện.


      các vách tường có lượng máu đủ để làm cho phản ứng của thuốc thử luminol soi sáng cả căn phòng.


      Những vết máu nằm tung tóe khắp nơi, nhưng có vẻ như đều phát xuất từ vị trí trong phòng, như thể ở ngay chính giữa phòng từng có đàn hiến tế hay đại loại thế. Trần phòng giống như bầu trời sao. ngoạn mục của cảnh tượng chỉ bị hoen ố bởi ý thức của người chứng kiến về thứ gây ra nó.


      Feldher có lẽ dùng cưa điện cắt vụn các thi thể để có thể dễ dàng xả chúng xuống cống.


      Mila nhận ra những người khác cũng sững sờ giống mình. Họ nhìn quanh như những con rôbốt trong khi các máy ảnh được đặt khắp nơi trong phòng liên tục chụp lại cảnh tượng cách vô hồn. Mười lăm giây trôi qua, nhưng thuốc thử luminol vẫn tiếp tục làm xuất các vết máu mới, càng lúc càng .


      Họ nhìn trân trối cảnh tượng kinh hoàng trước mắt.


      Boris giơ tay chỉ về bên phòng để lưu ý mọi người thứ dần xuất tường.


      - Nhìn này... - .


      mảng tường, luminol phát sáng, nó phát được gì, mảng tường vẫn sạch . Nó được viền quanh bởi các chấm xanh li ti. Giống như khi người ta phun sơn lên món đồ đặt cạnh tường rồi lấy nó ra, hình dáng của nó được lưu lại đó. Như tấm phim bản.


      Đường viền đó giống với hình người.


      Trong khi Feldher miệt mài làm việc với thi thể của bà Yvonne và các con với thú tính khủng khiếp trong góc phòng, ai đó thản nhiên chứng kiến mọi việc.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      27








      Họ gọi tên nó.


      Con bé chắc chắn như vậy. Nó mơ. Lần này, tiếng gọi là thứ lôi nó ra khỏi giấc ngủ, phải nỗi sợ, cũng phải nhận thức đột ngột về nơi nó nằm từ lúc nào chẳng biết.


      Tác dụng làm trì trệ các giác quan của thuốc tan biến ngay khi nó nghe thấy tên mình vang dội trong cái bụng của con quái vật. Gần giống như tiếng vọng đến tìm nó từ nơi chẳng ai biết là đâu, và rốt cuộc tìm thấy nó.


      “Tôi ở đây!” Nó muốn hét lên nhưng được, mồm nó khô khốc.


      Giờ có những tiếng động vang lên. Những thanh nó chưa từng nghe. Có phải là tiếng bước chân ? Phải, đó là những tiếng giày nặng nề. Nhiều chiếc giày cùng nhau. Có người! Ở đâu? Họ ở phía con bé, xung quanh con bé. Ở khắp mọi nơi, nhưng xa rất xa. Họ làm gì ở đây? Họ đến tìm nó à? Đúng, đúng rồi. Họ đến đây là vì nó. Nhưng họ thể nhìn thấy nó, trong cái bụng của con quái vật. Phương cách duy nhất là làm cho họ nghe thấy.


      Cứu với, nó cố gắng thốt lên.


      Giọng của nó nghèn nghẹt, bị ảnh hưởng bởi những ngày ngắc ngoải, bởi giấc ngủ thô bạo và hèn hạ được đưa vào nó cách lung tung tùy hứng, chỉ để làm cho nó ngoan ngoãn trong khi con quái vật tiêu hóa nó trong cái dạ dày đá này. Còn thế giới bên ngoài kia, họ hoàn toàn quên nó.


      Nhưng nếu họ ở đây, tức là họ chưa quên mình!


      Suy nghĩ ấy thổi vào nó sức mạnh mà nó tưởng có được. kho dự trữ nằm bên trong cơ thể nó, tại nơi rất sâu kín, chỉ được sử dụng trong những trường hợp cấp bách. Nó nghĩ ngợi lúc.


      Làm thế nào báo cho họ biết về diện của mình đây?


      Cánh tay trái của con bé vẫn bị băng kín mít. Đôi chân nó nặng trịch. Khả năng cử động duy nhất là cánh tay phải của nó, thứ duy nhất giữ nó ở lại với cuộc đời. Cái điều khiển từ xa vẫn được gắn vào lòng bàn tay nó dùng để bật đoạn phim hoạt hình từ giờ chỉ khiến nó điên tiết. Nó nhấc tay lên, hướng vào màn hình. lượng ở mức bình thường, nhưng nó có thể tăng lên. Nó cố thử, nhưng tìm ra được phím đúng. Có lẽ là do chúng chỉ điều khiển chức năng duy nhất chăng? Trong lúc đó, đầu nó vẫn tiếp tục vang lên tiếng ồn. Nó nghe thấy giọng phụ nữ. Nhưng còn có người đàn ông cùng. Thậm chí là hai.


      Mình cần phải gọi họ! Phải khiến họ nhận ra tồn tại của mình, nếu mình chết!


      Đó là lần đầu tiên con bé nghĩ đến khả năng bị chết. Cho đến lúc ấy, nó vẫn tránh nghĩ tới điều đó. Có lẽ là do mê tín. Cũng có thể là vì nên nghĩ tới cái chết. Nhưng vào lúc này, nó nhận ra nếu ai đến cứu định mệnh của nó là cái chết.


      Điều vô lý nhất là kẻ kết liễu nó cũng chính là người chăm sóc nó. Người đó băng bó cánh tay nó, cho nó dùng thuốc qua đường tiêm truyền. Người đó lo cho nó cách chu đáo. Tại sao ta làm thế, nếu đằng nào cũng giết nó? Câu hỏi khiến nó yên lòng chút nào. Chỉ có lý do duy nhất: muốn giữ cho nó còn sống. Và nó sợ là còn bắt nó chịu đựng nhiều hơn nữa.


      Như vậy đây có thể là cơ hội duy nhất để nó thoát khỏi nơi này, quay về nhà và gặp lại người thân. Bố, mẹ, ông, cả con Houdini nữa. Nó thề chăm sóc con mèo đáng nguyền rủa ấy nếu như cơn ác mộng này chấm dứt.


      Con bé giơ tay lên và bắt đầu đập cật lực cái điều khiển vào thành giường thép. Tiếng động vang lên nhức óc, ngay với chính bản thân nó, nhưng lại có tính chất giải thoát. Mạnh hơn, càng lúc càng mạnh hơn. Cho đến khi nó cảm thấy món đồ bằng nhựa bắt đầu nứt vỡ. Nó mặc kệ. Tiếng kim loại vang lên càng lúc càng điên cuồng. tiếng thét đau đớn cuối cùng cũng thoát ra khỏi cổ họng con bé.


      - Tôi ở đây!


      Cái điều khiển từ xa rời ra khỏi lòng bàn tay nó, buộc nó ngừng lại. Nhưng nó nghe thấy thứ gì đó ở đầu. Có thể tốt, hoặc tốt. Im lặng. Có lẽ họ nghe thấy gì đó và căng tai lên để nghe ngóng cho hơn. Phải rồi, họ thể nào mất được! Thế là nó đập tiếp, mặc dù cánh tay phải của nó đau nhói. Mặc cho cơn đau chạy qua vai sang phía bên trái. Cho dù nếu chuyện này chỉ làm tăng thêm tuyệt vọng của nó cũng mặc. Bởi lẽ, nếu ai nghe thấy nó sau này mọi thứ càng tệ hơn, nó biết như thế. Ai đó trả đũa nó. Và bắt nó trả giá.


      Những giọt nước mắt lạnh lăn má con bé. Nhưng tiếng động lại tiếp tục, nó tiếp tục huy động can đảm của mình.


      cái bóng tách ra từ bức tường đá và tiến lại chỗ con bé.


      Nó nhìn thấy cái bóng nhưng vẫn dừng lại. Khi cái bóng đến đủ gần, nó nhận thấy đôi bàn tay dịu dàng, chiếc váy ngắn màu xanh, mái tóc màu nâu dẻ mềm mại buông hai vai.


      Cái bóng với nó bằng chất giọng của bé:


      - Thôi, đủ rồi đấy. Họ nghe thấy chúng ta.


      Rồi bé đặt bàn tay lên bàn tay của nó. đụng chạm đó đủ để dừng nó lại.


      - Xin cậu đấy. - thêm.


      Lời khẩn khoản của bé nghe buồn rầu đến nỗi nó bị thuyết phục và gây ồn ào nữa. Nó biết tại sao bé này lại thích thứ nhảm nhí như việc ở lại đây. Nhưng nó nghe lời bé ngay lập tức. Nó biết liệu nó phải khóc lóc vì cố gắng bất thành này hay phải vui mừng vì khám phá ra mình độc. Nó cực kỳ biết ơn vì diện đầu tiên của con người mà nó biết đến là giống như nó, người mà nó muốn làm thất vọng. Nó quên bẵng cả chuyện nó muốn ra khỏi chỗ này.


      đầu nó, tiếng người và tiếng ồn ngừng cả lại. Lần này là im lặng tuyệt đối.


      bé nhấc tay ra khỏi tay nó.


      - Ở lại ... - Nó van nài.


      - Đừng lo, chúng ta còn gặp nhau...


      xa dần, quay trở vào trong bóng tối. Còn nó, nó để cho . Và nó bám víu vào lời hứa nhoi vô nghĩa ấy để tiếp tục hy vọng.







      28








      - Cái ghế bành của Alexander Bermann!


      Tại phòng suy tưởng, cả nhóm tập trung vào câu của Gavila. Họ nhớ lại khu ngoại ô nơi tên ấu dâm đặt hang ổ, cùng với chiếc máy tính mà sử dụng để săn mồi mạng.


      - Krepp tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào cái ghế bành bọc da ở dưới tầng hầm đó!


      Goran đột ngột nhận ra đó là manh mối.


      - tất cả những thứ khác có hàng trăm dấu tay, nhưng cái ghế ! Tại sao? Bởi vì ai đó cất công xóa sạch chúng!


      Nhà tội phạm học tiến về phía bức tường găm các báo cáo, các bức ảnh và những kết luận về vụ việc ở nhi viện. Ông gỡ tờ xuống và đọc. Đó là biên bản ghi lại đoạn băng thu lời thú tội của Ronald Dermis lúc còn là cậu bé với cha Rolf, vốn được tìm thấy trong máy ghi chôn theo quan tài của Billy Moore.


      - “Con biết chuyện xảy ra với Billy phải , Ron?” “Chúa mang cậu ấy ”. “ phải Chúa, Ron. Con biết là ai ?” “Bạn ấy ngã. Bạn ấy bị ngã từ tháp xuống”. “Nhưng lúc đó con ở cùng với Billy”. “… Dạ”. Sau đó cha Rolf trấn an thằng bé: “ ai trừng phạt con nếu con ra . Ta hứa”. Rồi ta nghe thấy Ronald đáp: “Có người bảo con làm chuyện đó”. Mọi người có hiểu ? “Người đó”.


      Goran quan sát những gương mặt bối rối nhìn mình.


      - Rồi ta nghe thấy cha Rolf hỏi: “Người đó là ai? Billy à? Billy bảo con đẩy cậu ấy sao?” “Dạ ”, Ronald đáp như thế. “Vậy là đứa khác?” và Ronald lại đáp: “Dạ ”. “Vậy ai? Coi nào, trả lời ta . Người mà con tồn tại, phải ? Đó chỉ là tưởng tượng của con...” Ronald có vẻ đoan chắc khi phủ nhận lần nữa, nhưng cha Rolf độp luôn: “Ở đây có ai, ngoài con và các bạn học”. Rốt cuộc Ronald trả lời: “Người đó chỉ đến gặp mình con”.


      Dần dần, mọi người hiểu ra vấn đề.


      Giáo sư Goran mừng rỡ như đứa trẻ. Ông chạy đến bên những tờ giấy gắn tường và gỡ xuống bản sao bức thư của Ronald viết khi là người lớn để gửi cho đội điều tra.


      - Câu này đập vào mắt tôi: “thế rồi NGƯỜI xuất . NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”.


      Ông giơ bức thư lên, chỉ cho mọi người thấy câu vừa đọc.


      - Mọi người thấy ? Chữ “người” được cố tình viết hoa... Tôi nghĩ đến điều này, nhưng rút ra kết luận sai lầm. Tôi tin đây là ví dụ ràng của dạng phân ly nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn biệt lập với cái tôi đại diện. Và trở thành “người đó”... “Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”. Tôi nhầm! Tôi mắc cùng lỗi với cha Rolf ba mươi năm về trước. Trong lúc thú tội, khi Ronald dùng chữ “Người”, cha Rolf tưởng là thằng bé muốn tới chính mình, và nó tìm cách đổ thừa tội của mình. Ở trẻ con đó là việc khá điển hình. Nhưng Ronald mà chúng ta biết còn là đứa trẻ nữa...


      Mila thấy năng lượng trong ánh mắt của Goran giảm . Điều này thường xảy ra mỗi khi ông mắc sai lầm trong đánh giá.


      - “Người” mà Ronald muốn tới ở đây phải là phóng chiếu từ nội tâm của , bản ngã thứ hai luôn chịu trách nhiệm cho những hành động của ! phải, cũng chính “Người” đó là kẻ ngồi trong chiếc ghế bành của Alexander Bermann mỗi khi lên Internet tìm trẻ con! Feldher để lại vô vàn dấu vết trong nhà bà Yvonne Gress, nhưng lại lo lắng sơn lại căn phòng nơi diễn ra vụ thảm sát, bởi vì thứ ở tường là cái duy nhất buộc phải che giấu... hoặc nhấn mạnh: hình ảnh được ghi lại bằng máu của người chứng kiến! Như vậy, “người” ở đây là Albert.


      - Tôi rất tiếc, nhưng chuyện này hợp lý. - Sarah Rosa lên tiếng với bình tĩnh và quả quyết đầy bất ngờ. - Chúng ta xem tất cả những đoạn băng trong hệ thống máy quay an ninh của Capo Alto, và ngoài Feldher, còn ai khác vào trong căn nhà đó.


      Goran quay sang phía Sarah, chỉ ngón tay vào :


      - Chính xác! Bởi vì mỗi lần làm như thế, gã đều vô hiệu hóa chúng bằng cách gây quá tải. Nếu nghĩ đến điều này, cũng có thể thu được cùng kết quả tường với hình nhân bằng bìa, hoặc con ma nơ canh. Vậy , chuyện này cho chúng ta biết điều gì?


      - Gã rất giỏi trong việc tung hỏa mù. - Mila .


      - Rất chính xác! Ngay từ đầu, con người này thách chúng ta hiểu được những thủ đoạn của gã. Lấy ví dụ như vụ bắt cóc Sabine vòng quay ngựa gỗ... Thần sầu! Mấy chục con người, mấy chục cặp mắt trong hội chợ hôm ấy, nhưng tuyệt ai nhìn thấy gì!


      Xem vẻ Goran thực hứng thú trước tinh ranh của kẻ mà ông phải đối đầu. phải vì ông thấy thương các nạn nhân. Đó phải là minh chứng cho thiếu nhân đạo của ông. Albert là đối tượng nghiên cứu của ông. Thấu hiểu những uẩn khúc trong đầu gã là thử thách đầy hấp dẫn.


      - Tuy vậy, cá nhân tôi tin rằng, Albert thực có mặt trong căn phòng nơi Feldher sát hại các nạn nhân của . Tôi loại trừ khả năng dùng hình nhân, hoặc thứ gì đó tương tự. Các bạn biết tại sao ? - Ông , thoáng thích thú trước nét mặt băn khoăn của các thành viên trong đội điều tra. - Trong cách sắp đặt của các vết máu tường quanh hình người, Krepp nhận thấy thứ mà ta gọi là “các biến đổi đều đặn”. Điều này đồng nghĩa rằng, dù cho vật nằm giữa nguồn bắn máu và bức tường là gì, nó cũng hề bất động, mà có di chuyển!


      Sarah Rosa há hốc mồm. còn gì để nữa.


      - Ta hãy suy nghĩ chút. - Stern đề nghị. - Nếu Albert biết Ronald Dermis khi còn là đứa trẻ, hồi đó gã có thể ở độ tuổi nào? Hai mươi? Ba mươi? Như vậy, bây giờ gã năm mươi hoặc sáu mươi tuổi.


      - Chính xác. - Boris . - Và theo như kích thước của hình người tường, tôi có thể gã cao khoảng mét bảy mươi.


      - mét sáu chín. - Rosa chỉnh lại. kiểm tra thông tin này.


      - Chúng ta có mô tả phần của kẻ mà chúng ta tìm kiếm, đó là bước tiến.


      Goran lại lên tiếng:


      - Bermann, Ronald, Feldher giống như những con sói. Và lũ sói thường săn theo bầy đàn. Mỗi đàn có con thủ lĩnh. Đây là điều mà Albert muốn với chúng ta: gã chính là con sói đầu đàn. Mỗi tên gặp gã ở thời điểm trong đời, gặp riêng, hoặc cùng nhau. Ronald và Feldher biết nhau, cả hai trưởng thành trong cùng nhi viện. Nhưng ta có thể phỏng đoán chúng biết ai là Alexander Bermann... Yếu tố chung duy nhất là gã, Albert. Đó là lý do tại sao gã để lại dấu ấn của mình tại mọi trường án mạng.


      - Vậy điều gì xảy ra đây? - Sarah Rosa hỏi.


      - Các bạn có thể tự mình nghĩ ra... Hai. Vẫn còn thiếu hai thi thể bé , và do đó, ta còn thiếu hai bộ phận của đàn sói.


      - Còn cả bé số sáu nữa. - Mila nhắc.


      - Phải... Nhưng bé đó Albert giữ cho riêng mình.





      Từ nửa giờ trước, đứng vỉa hè phía trước, đủ dũng khí để bấm chuông. cố tìm những từ ngữ thích hợp để biện minh cho xuất của mình. lạ lẫm với mối quan hệ giữa các cá nhân đến độ những tiếp cận đơn giản nhất cũng trở nên khả thi. thấy lạnh, nhưng vẫn thể tự quyết định được.


      Đến chiếc xe màu xanh kế tiếp, mình , mình hứa đấy.


      quá chín giờ, xe cộ gần như còn lưu thông. Các ô cửa sổ của căn hộ giáo sư Goran tầng ba sáng đèn. Con đường ướt sũng vì tuyết tan là bản hòa của những tiếng giọt tong tong, tiếng máng xối kêu óc ách và tiếng cống nước ùng ục.


      Thôi được, mình .


      Mila ra khỏi bóng tối cho đến lúc ấy vẫn bảo vệ khỏi những cái nhìn của những người hàng xóm tọc mạch, để bước nhanh đến cửa ra vào. Tòa nhà cổ kính với những khuôn cửa sổ to lớn, gờ tường rộng và mái nhà đầy ống khói chắc hẳn từng là công xưởng vào thời giữa thế kỷ XX. Trong khu này có rất nhiều tòa nhà như vậy. Cả khu phố có lẽ được cải tạo lại nhờ kiến trúc sư nào đó, người biến các công xưởng thành nhà ở.


      ấn điện thoại nội bộ và chờ.


      đợi gần phút nghe thấy giọng của Goran vang lên khọt khẹt.


      - Ai đó?


      - Mila ạ. Em xin lỗi, nhưng em cần chuyện với ông mà lại muốn qua điện thoại. Lúc nãy, ở trong studio, ông quá bận, nên em nghĩ là…


      - Em lên . Tầng ba.


      tiếng tạch vang lên và cánh cửa mở ra.


      Thang chuyển hàng được sử dụng làm thang máy. Để làm nó chạy, cần phải dùng tay đóng hai cánh cửa trượt và kéo cái cần. Mila được nâng lên từ từ đến tầng ba. chiếu nghỉ, cánh cửa duy nhất hé mở sẵn chờ .


      - Mời vào. - Giọng của Goran vọng ra từ bên trong căn hộ.


      Mila theo tiếng vào trong căn phòng rộng rãi, ăn thông với nhiều phòng khác. Sàn nhà lát gỗ thô. Những hệ thống sưởi bằng gang bọc quanh các cột trụ. lò sưởi lớn cháy lép bép làm cho gian có màu hổ phách. Mila khép cửa căn hộ sau lưng, tự hỏi Goran ở đâu. nhìn thấy ông qua cửa bếp.


      - Chờ chút, tôi ra ngay.


      - Ông cứ từ từ.


      Mila nhìn xung quanh. Căn hộ rất ngăn nắp, tương phản với bề ngoài luộm thuộm thường thấy của nhà tội phạm học. Trong nhà hạt bụi, mọi thứ dường như lên ân cần mà ông bỏ ra để mang lại chút hòa hợp cho cuộc sống của con trai mình.


      lát sau, nhà tội phạm học xuất với cốc nước trong tay.


      - Em xin lỗi, em đến đường đột quá.


      - có gì, tôi luôn ngủ muộn. Tôi cho Tommy ngủ. - Ông và chỉ vào cốc nước cầm. - Việc này mất nhiều thời gian đâu. Em ngồi . Hay em tự làm cho mình chút gì uống nhé. Quầy bar phía đằng kia.


      Mila gật đầu và nhìn ông tiến đến trong các phòng ngủ. Để đỡ ngượng ngập, làm cốc vodka đá. Đứng cạnh lò sưởi, nhìn cánh cửa phòng ngủ con trai ông mở hé, và thấy Goran ngồi giường thằng bé, vừa trò chuyện vừa vuốt ve nó. Trong căn phòng mờ tối chỉ được chiếu sáng bằng ngọn đèn ngủ hình chú hề, Tommy chỉ là hình hài bé dưới lớp chăn được tạo nên bởi những cái vuốt ve của bố.


      Trong tình huống này, Goran trông rất khác biệt.


      chợt nhớ lần đầu tiên đến văn phòng của bố hồi còn . Ở đó, người đàn ông mặc comlê thắt càvạt mà thấy rời khỏi nhà mỗi sáng trở thành con người cứng rắn và nghiêm nghị, khác hẳn ông bố dịu dàng của . Mila còn nhớ rất sốc.


      Còn đối với Goran ngược lại. Trông thấy ông trong vai trò làm bố khiến cảm nhận được tình cảm trìu mến lớn lao.


      lưỡng phân đó rất xa lạ đối với Mila. chỉ có phiên bản duy nhất. hề có đứt quãng nào trong cuộc đời của . chưa bao giờ thôi là nữ cảnh sát tìm kiếm những người mất tích. tìm họ suốt: trong thời gian rảnh rỗi, khi được nghỉ phép, lúc mua sắm. Việc dò xét những gương mặt quen trở thành thói quen của .


      Các trẻ em vị thành niên mất tích cũng có câu chuyện như những người khác. Nhưng đến lúc nào đó, câu chuyện ấy bị gián đoạn. Mila dò theo những bước chân bé mất hút vào trong tăm tối của chúng. bao giờ quên những khuôn mặt đó. Nhiều năm trời có thể trôi qua, nhưng vẫn có khả năng nhận các em.


      Bởi vì những đứa trẻ ở chung quanh ta, nghĩ. Đôi khi, chỉ cần tìm chúng nơi những người lớn mà chúng trở thành.


      Goran kể câu chuyện cho con trai. Mila muốn cái nhìn của mình làm hỏng cảnh tượng rất đỗi riêng tư đó. Nó phải là trò diễn để xem. quay , nhưng mắt lại bắt gặp nụ cười của Tommy tấm ảnh. Nếu như từng gặp thằng bé, chắc nó khiến thấy khó xử và đến muộn hơn trong hy vọng nó ngủ say. Tommy là phần cuộc sống của Goran mà chưa được biết.


      lát sau, nhà tội phạm học đến chỗ Mila, mỉm cười tuyên bố:


      - Nó ngủ rồi.


      - Em muốn làm phiền ông. Nhưng chuyện này quan trọng lắm.


      - Em xin lỗi rồi mà. Nào, em hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra...


      Ông ngồi xuống chiếc trường kỷ rồi bảo ngồi cạnh mình. Ngọn lửa lò sưởi tạo nên những hình bóng nhảy múa tường.


      - Chuyện đó lại diễn ra: người ta theo dõi em.


      Nhà tội phạm học nhíu mày.


      - Em chắc chứ?


      - Lần trước , lần này có.


      thuật lại việc cho ông nghe sót chi tiết nào. Chiếc xe tắt đèn, ánh trăng phản chiếu nóc xe, việc kẻ bám đuôi cố quay đầu bỏ sau khi bị phát .


      - Tại sao ai đó lại có lý do để theo dõi em?


      Ông đặt câu hỏi đó với lúc ở nhà hàng, khi kể lại cảm giác bị theo dõi ở nhà nghỉ. Lần này câu hỏi được ông dành cho chính mình đúng hơn.


      - Tôi tài nào tìm được lý do xác đáng. - Ông kết luận sau thoáng suy nghĩ.


      - Em nghĩ hoàn toàn cần thiết phải cắt cử người bảo vệ em để bắt quả tang kẻ theo dõi.


      - Giờ chắc biết em để ý , nên làm chuyện đó nữa đâu.


      Mila gật đầu.


      - Nhưng em đến đây phải chỉ vì chuyện đó.


      Goran lại nhìn vào Mila:


      - Em phát được chuyện gì à?


      - Đúng hơn em hiểu ra chuyện. trong những trò ảo thuật của Albert.


      - Cái nào?


      - Cách gã làm để bắt cóc vòng quay ngựa gỗ mà ai hay biết.


      Đôi mắt Goran sáng lên:


      - tiếp , tôi muốn nghe đây…


      - Chúng ta luôn cho rằng Albert là kẻ bắt cóc. Tức là người đàn ông. Nhưng nếu như ngược lại, đó là phụ nữ?


      - Tại sao em nghĩ như thế?


      - ra, chính mẹ Sabine khiến em tin vào giả thiết này. Dù em hỏi, bà ta rằng nếu như có người đàn ông lạ mặt vòng quay ngựa gỗ, tức phải ông bố, bà ta nhận ra ngay. Bà ta cũng thêm là người mẹ luôn có giác quan thứ sáu trước những chuyện như thế. Em tin bà ta.


      - Tại sao?


      - Bởi vì cảnh sát xem hàng trăm bức ảnh được chụp tối hôm đó từ những tay máy nghiệp dư, nhưng ai thấy người đàn ông nào tình nghi. Từ đó chúng ta suy ra rằng gã Albert có diện mạo rất tầm thường... Còn em cho rằng phụ nữ có thể dễ dàng hơn trong việc bắt cóc bé.


      - Vậy là theo em, gã có kẻ đồng lõa... - Ông có vẻ thích giả thiết của Mila. - Nhưng chúng ta có bất kỳ manh mối nào để chứng minh điều đó.


      - Em biết. Đó là vấn đề lớn.


      Goran đứng dậy và bắt đầu rảo bước trong phòng. Ông vuốt râu suy nghĩ.


      - Đây phải là lần đầu. Điều này từng xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn như vụ Fred và Rosemary West ở Gloucester.


      Nhà tội phạm học kể nhanh vụ cặp đôi sát thủ hàng loạt. Đối tượng nam là thợ nề, đối tượng nữ nội trợ. Mười đứa con. Cùng nhau, chúng dụ dỗ và giết hại các bé vô tội, sau khi ép các nạn nhân tham gia vào các trò tình dục bệnh hoạn. Chúng chôn xác các bé trong sân sau ngôi nhà số 25 phố Cromwell, Gloucester. Người ta thậm chí tìm thấy xác đứa con ruột mười sáu tuổi của cặp tội phạm, con bé có thể táo gan chống đối chúng. Hai nạn nhân khác được tìm thấy ở những nơi có thể liên hệ tới Fred. Mười hai thi thể cả thảy. Nhưng cảnh sát phải ngừng đào bới vì sợ cả ngôi nhà sụp đổ.


      Theo ví dụ đó, Gavila cho rằng giả thiết của Mila về kẻ đồng lõa của Albert phải là có cơ sở.


      - Biết đâu người phụ nữ đó chăm sóc cho nạn nhân số sáu.


      Goran có vẻ rất thích thú, nhưng ông muốn để nhiệt tình cuốn mình .


      - Em đừng hiểu nhầm tôi nhé. Linh cảm của em rất tuyệt vời, nhưng ta cần phải kiểm chứng cái .


      - Ông với những người khác chứ?


      - Tôi suy nghĩ. Trong lúc đó, tôi cầu người trong nhóm chúng ta xem lại các bức ảnh và đoạn phim được thực tại hội chợ.


      - Em có thể phụ trách việc này.


      - Đồng ý.


      - Còn việc nữa... Là em tò mò thôi. Em thử tự mình tìm câu trả lời nhưng được.


      - Chuyện gì thế?


      - Trong quá trình phân hủy, mắt của tử thi có chịu biến đổi, phải ạ?


      - Thường mống mắt nhạt dần dần...


      Goran nhìn Mila đăm đăm. Ông hiểu muốn đến đâu.


      - Tại sao em lại hỏi chuyện này?


      Mila rút từ trong túi ra bức ảnh của Sabine mà mẹ đưa cho vào cuối chuyến thăm viếng của . Tấm ảnh mà đặt ghế ngồi bên cạnh mình trong suốt chặng lái xe về. Tấm ảnh mà nhìn rất kỹ sau màn đuổi bắt nghẹt thở, và gieo mối nghi ngờ vào lòng .


      Có điều gì đó ổn.


      Goran cầm lấy tấm ảnh quan sát.


      - Thi thể bé tìm thấy trong nhà Kobashi có đôi mắt màu xanh. - Mila nhắc ông. - Còn mắt của Sabine lại có màu nâu.





      Ngồi trong taxi, Goran lời suốt chuyến . Sau khi cho ông biết khám phá của mình, Mila thấy tâm trạng của ông đột ngột thay đổi. Và ông điều khiến chấn động.


      - Có những người ta tưởng hiểu cặn kẽ, nhưng ra chẳng biết gì về bọn họ... Ông ta biến chúng ta thành lũ ngốc.


      Lúc đầu, tưởng ông muốn tới Albert, nhưng phải.


      Ông nhanh chóng gọi điện cho các thành viên trong đội điều tra và bà vú nuôi của Tommy. Sau đó, ông với câu ngắn gọn:


      - Ta thôi.


      - Còn con trai ông?


      - Bà Runa có mặt sau hai mươi phút nữa, dù sao thằng bé cũng ngủ.


      Họ gọi chiếc taxi.


      Trụ sở cảnh sát liên bang vẫn còn sáng đèn vào thời điểm khuya khoắt ấy. Trong tòa nhà, các cảnh sát viên nhộn nhịp thay ca. Gần như tất cả đều bận rộn với vụ án. Từ nhiều ngày nay, họ tiến hành khám xét nhà các nghi phạm hoặc những địa điểm được mách nước qua điện thoại bởi những người dân nhiệt tình muốn giúp đỡ cuộc tìm kiếm bé số sáu.


      Sau khi thanh toán tiền taxi, Goran tiến đến cửa trụ sở, buồn đợi Mila nhọc nhằn đuổi theo. Tại ban khoa học hành vi, họ thấy Rosa, Boris và Stern đứng đợi.


      - Có chuyện gì vậy? - Stern hỏi.


      - Cần phải làm tình hình. - Goran đáp. - Chúng ta cần phải gặp Roche.


      Ông tìm thấy ngài chánh thanh tra giữa cuộc họp của các sếp cảnh sát liên bang. Cuộc họp diễn ra nhiều giờ đồng hồ, với chủ đề chính là vụ Albert.


      - Chúng ta cần chuyện.


      Roche đứng lên khỏi ghế:


      - Thưa quý vị, tất cả đều biết giáo sư Gavila, người hợp tác với bộ phận của tôi từ nhiều năm qua...


      Goran thầm vào tai ông thanh tra:


      - Ngay bây giờ.


      Nụ cười nhã nhặn vụt tắt gương mặt của Roche.


      - Mong mọi người thứ lỗi, vừa có tin mới nên tôi phải .


      Trong khi thu xếp giấy tờ, Roche cảm thấy mọi ánh nhìn đổ dồn vào mình. Goran lùi về sau đứng đợi ông, trong khi các thành viên khác chờ ngoài cửa phòng.





      - Tôi hy vọng chuyện này thực quan trọng. - Ngài chánh thanh tra sau khi lẳng tập hồ sơ lên bàn làm việc của mình.


      Goran đợi cho tất cả mọi người vào trong phòng xong xuôi rồi mới khép cửa lại và đối mặt với Roche.


      - Xác chết tìm thấy trong phòng khách nhà Kobashi phải là của nạn nhân số ba.


      Giọng điệu đanh thép của ông cho phép người khác phủ nhận. Ngài chánh thanh tra ngồi xuống, hai tay chắp lại bàn.


      - Ông tiếp .


      - Đó phải là Sabine. Mà là Melissa.


      Mila nhớ đến bé số bốn. bé nhiều tuổi nhất trong số các nạn nhân, nhưng cơ thể còn chưa dậy có lẽ gây ra nhầm lẫn. Và bé có đôi mắt xanh.


      - tiếp , tôi nghe đây... - Thanh tra Roche lặp lại.


      - Điều này có thể lên hai việc. Hoặc là Albert thay đổi phương thức hành động của gã, bởi vì cho đến lúc này gã vẫn giao cho chúng ta thi thể của các bé theo thứ tự bắt cóc. Hoặc là Chang nhầm lẫn trong khi phân tích ADN.


      - Tôi tin cả hai giả thiết đều có thể xảy ra. - Roche tự tin khẳng định.


      - Còn tôi ngược lại. Tôi tin là giả thiết đầu gần như thể xảy ra... Còn về cái thứ hai, tôi thực nghĩ ông ra lệnh tráo kết quả trước khi đưa nó cho Mila!


      Thanh tra Roche tím mặt.


      - Nghe này, giáo sư, ông tưởng tôi ngồi yên cho ông buộc tội đấy à?


      - Xác của bé thứ ba được tìm thấy ở đâu?


      - Cái gì? - Ngài chánh thanh tra cố làm ra vẻ ngạc nhiên.


      - ràng là ông tìm thấy, nếu Albert trưng ra cái xác thứ tư.


      - Cái xác nằm ở nhà Kobashi từ hơn tuần nay! Chúng ta lẽ ra phải tìm thấy nạn nhân số ba trước, như ông . Hoặc đơn giản là, chúng ta tìm thấy số bốn trước, rồi sau đó Chang nhầm lẫn, tôi biết gì?


      Nhà tội phạm học nhìn thẳng vào mắt thanh tra Roche.


      - Chính đó là lý do khiến ông cho chúng tôi xả trại hai mươi bốn giờ sau vụ việc ở nhi viện. Để chúng tôi quẩn chân ông.


      - Goran, tôi nghe đủ những cáo buộc nực cười đó rồi đấy! Ông có gì để chứng minh cho những gì ông vừa !


      - Đây là vì vụ Wilson Pickett, có phải ?


      - Những gì xảy ra hồi đó dính gì với vụ này, tôi cam đoan với ông.


      - , thực tế là ông còn tin tôi nữa. Và có lẽ ông hoàn toàn sai... Nhưng nếu ông nghĩ cuộc điều tra này tuột khỏi tay tôi, tôi muốn ông thẳng với tôi và miễn cho tôi các trò chính trị kia. Cứ , và chúng tôi lùi lại, nhận lãnh trách nhiệm của mình mà làm phiền đến ông.


      Thanh tra Roche đáp ngay. Ông ta chắp hai bàn tay dưới cằm và ngả người tới lui ghế bành. Sau đó ông ta mở lời:


      - Thành thực mà , tôi hiểu...


      - Thôi nào, ông cho ông ấy . - Stern cắt ngang và nhận lấy ánh mắt phóng lửa của thanh tra.


      - cứ ở yên chỗ của !


      Goran quay lại nhìn Stern, rồi Boris và Rosa. Ông nhận ra tất cả mọi người đều biết vụ việc ngoại trừ ông và Mila.


      Ra đây là lý do Boris tỏ ra lảng tránh khi mình hỏi ta làm gì vào ngày xả trại, Mila nghĩ bụng. cũng nhớ giọng điệu có phần đe dọa mà chàng dùng để với thanh tra Roche trước cửa nhà bà Yvonne Gress, khi ông ta từ chối cho vào trong nhà trước đội đặc nhiệm. Đó ngầm hiểu là lời đe dọa tố giác.


      - Phải đấy, thanh tra. Ông hãy tất cả và chúng ta kết thúc luôn chuyện này. - Sarah Rosa hối thúc, bênh vực cho Stern.


      - Ông thể gạt bỏ ông ấy, như thế là công bằng. - Boris thêm, hất đầu chỉ nhà tội phạm học.


      Cả ba thành viên trong nhóm điều tra đều có vẻ hối lỗi vì cho Goran ra rìa, và cảm thấy có tội vì tuân theo mệnh lệnh mà họ cho là bất công.


      Thanh tra Roche đợi thêm vài giây nữa, rồi lần lượt nhìn Goran và Mila.


      - Thôi được rồi... Nhưng nếu để rò rỉ chuyện này, hai người chết với tôi.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      29








      Mặt trời rón rén mọc lên những cánh đồng.


      Ánh sáng chỉ vừa đủ để làm lên đường nét của nhiều quả đồi tiếp nối nhau như những con sóng đất khổng lồ. Màu xanh ngắt của thảm cỏ lộ ra dưới lớp tuyết nổi nền trời xám. dải đường nhựa len lỏi qua các thung lũng, vặn mình theo những chuyển động của quang cảnh.


      Tì trán vào kính cửa sau xe hơi, Mila bình tĩnh lạ lùng, có lẽ là do mệt mỏi, hay cũng có thể là do cam chịu. Bất luận chuyện gì được khám phá ở cuối chuyến ngắn này cũng làm ngạc nhiên nữa. Roche tiết lộ gì nhiều. Sau khi lệnh cho và Goran giữ bí mật, ông ta giam mình trong văn phòng cùng với nhà tội phạm học để chuyện tay đôi với nhau.


      ở lại ngoài hành lang, trong khi Boris giải thích những lý do khiến ngài chánh thanh tra tin tưởng họ.


      - Ông ấy là dân thường, còn ... đến đây như người cố vấn, nên...


      có gì nhiều để thêm. Dù cho bí mật mà Roche muốn giấu kín có là gì tình hình vẫn phải nằm trong kiểm soát. Như vậy mấu chốt là phải tránh mọi rò rỉ. Biện pháp duy nhất là tiết lộ nó cho những người trực tiếp bị ông ta quản lý và do vậy có thể bị dọa dẫm.


      Ngoài chuyện đó ra, Mila biết gì hơn. Mà cũng đặt câu hỏi nào.


      Hai giờ sau, cánh cửa văn phòng của Roche bật mở. Ngài chánh thanh tra lệnh cho Boris, Stern và Rosa đưa giáo sư Gavila đến trường thứ ba. Dù nhắc đến tên Mila, nhưng ông ta vẫn chấp thuận để cùng.


      Họ rời khỏi tòa nhà và đến nhà để xe cách đó xa. Mọi người lấy hai chiếc xe hòm bình thường để tránh bị theo dõi bởi đám nhà báo túc trực trước trụ sở.


      Mila lên chiếc xe cùng với Stern và Gavila, cố tình chung xe với Sarah Rosa. Sau khi ta rắp tâm phá hỏng mối quan hệ của với Goran, Mila cảm thấy mình thể chịu nổi người đàn bà này và sợ rằng sớm muộn gì cũng tính sổ với ta.


      Họ chạy xe được lúc và Mila cố ngủ chút ít. Khi thức dậy họ sắp sửa đến đích.


      Con đường khá vắng vẻ. Mila trông thấy ba chiếc xe hơi sẫm màu đậu bên vệ đường, mỗi chiếc xe có hai người ngồi.


      Lính canh, nghĩ thầm, để ngăn chặn những kẻ tọc mạch nếu có.


      Họ dọc theo bờ tường cao bằng gạch đỏ khoảng cây số nữa và đến cánh cổng sắt.


      Con đường chấm dứt ở đó.


      có chuông, cũng chẳng có điện thoại nội bộ. cây cột có camera an ninh chiếu con mắt điện tử của nó vào họ khi hai chiếc xe dừng lại. phút sau, cánh cổng tự động mở ra. Con đường tiếp tục rồi biến mất sau mô đất. thể thấy gì phía sau giới hạn đó ngoài thảm cỏ trải dài.


      Mười phút trôi qua trước khi họ trông thấy tòa nhà cổ kính. Nó xuất trước mắt họ như thể vừa từ dưới đất chui lên. Ngôi nhà rất đồ sộ và có kiến trúc khô khan. Kiểu dáng của nó giống như những tòa dinh thự đầu thế kỷ XX, vốn được xây dựng bởi những tay trùm sắt thép hay dầu mỏ để khoe của.


      Mila nhận ra tấm gia huy bằng đá trấn ngay mặt tiền. chữ R to tướng được khắc đó.


      Đây là nơi ở của Joseph B. Rockford, ngài chủ tịch của quỹ cùng tên, nguồn gốc của giải thưởng mười triệu cho bất cứ ai tìm ra bé số sáu.


      Họ vượt qua ngôi nhà và dừng xe gần mấy chuồng ngựa. Để đến được trường thứ ba, nằm ở ranh giới phía tây của khuôn viên rộng nhiều mẫu đất, nhóm điều tra phải sử dụng những chiếc xe hơi chạy điện tương tự như xe cho người chơi golf.


      Mila trèo vào chiếc xe do Stern lái. bắt đầu tóm lược cho nghe về Joseph B. Rockford, xuất thân và khối tài sản khổng lồ của ông ta.


      Gia tộc được hình thành từ thế kỷ trước cùng với Joseph B. Rockford đệ nhất, người ông nội. Theo như lời kể, ông ta là con trai độc nhất của thợ cắt tóc nhập cư. quan tâm đến cây kéo và con dao cạo, ông ta bán cửa tiệm của bố mình để làm ăn. Trong khi mọi người thời đó đều đầu tư vào ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ non trẻ Rockford đệ nhất may mắn sử dụng khoản tiền tiết kiệm của mình để lập nên doanh nghiệp đào giếng. Xuất phát từ ý tưởng cho rằng dầu mỏ thường nằm ở những mảnh đất cằn cỗi, Rockford đến kết luận là những kẻ dành cả đời để làm giàu từ lòng đất nhanh chóng thiếu thốn khoản thiết yếu: nước. Khai thác từ những chiếc giếng khoan cạnh những mỏ dầu khổng lồ, thứ nước quý giá ấy được bán với giá cao gấp đôi giá dầu.


      Joseph B. Rockford đệ nhất trở thành tỉ phú trước khi chết. Ông qua đời trước khi tròn năm mươi tuổi do căn bệnh ung thư dạ dày dạng bộc phát hiếm gặp.


      Joseph B. Rockford đệ nhị thừa hưởng từ bố mình di sản khổng lồ. Ông này nhân đôi nó bằng cách đầu cơ vào tất cả những gì trong tầm tay: từ cây gai dầu cho đến bất động sản, từ việc nuôi bò cho đến ngành công nghiệp điện. Để tưởng thưởng cho giàu lên của mình, ông này cưới hoa hậu nhí và vợ này sinh cho ông ta hai đứa con. Tuy nhiên, ít lâu trước khi vượt qua ngưỡng năm mươi tuổi, ông có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh ung thư dạ dày và mất đầy hai tháng sau đó.


      Người con trai cả của ông, Joseph B. Rockford đệ tam, nối bước cha mình lên nắm quyền đế chế khổng lồ ở độ tuổi rất trẻ. Mệnh lệnh đầu tiên và cũng là duy nhất của ta là cắt bỏ con số thứ tự đầy phiền toái khỏi tên mình. có bất kỳ tham vọng kinh tế nào, và có thể sẵn sàng vung tay quá trán, Joseph B. Rockford sống cuộc đời mục đích.


      Quỹ gia tộc trùng tên là ý tưởng của người em , Lara. Nó cung cấp thức ăn, mái nhà, chăm sóc y tế và giáo dục cho các trẻ em được may mắn như hai em nhà họ. Lara hiến luôn nửa di sản gia đình cho quỹ này. Mặc cho hào phóng đó, theo tính toán của các nhà tư vấn, gia đình Rockford vẫn còn có thể sống thoải mái trong ít nhất thế kỷ nữa.


      Lara Rockford ba mươi bảy tuổi, năm năm về trước chị ta sống sót cách thần kỳ sau tai nạn xe hơi. Joseph năm nay bốn mươi chín. Căn bệnh ung thư dạ dày di truyền vốn cướp sinh mạng của ông nội và bố ta vừa mới xuất cơ thể ta mười tháng trước.


      Từ ba mươi tư ngày nay, Joseph B. Rockford rơi vào hôn mê và ở trong ranh giới mong manh giữa sống và cái chết.


      Mila chăm chú lắng nghe lời kể của Stern trong khi chiếc xe hơi chạy điện nhấp nhổm những mô đất gồ ghề. Họ lối mòn được thành hình cách tự phát trong vòng hai ngày vừa qua, sau những chuyến tới lui của nhiều phương tiện lại giống như thứ họ sử dụng.


      Khoảng nửa tiếng sau, họ đến rìa của trường thứ ba. Từ xa, Mila trông thấy những bộ áo liền quần màu trắng thường thấy ở mọi trường vụ án. Ngay cả trước khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng mà Albert bày sẵn cho họ, Mila thấy chấn động vì hình ảnh trước mắt.


      Số lượng của các kỹ thuật viên làm việc lên đến hơn trăm.





      Cơn mưa tỉ tê rơi ngừng. Trong lúc tìm đường len qua những công nhân xúc nhiều khối đất lớn, Mila cảm thấy nôn nao khó chịu. Khi chỗ xương lần lượt được phát , có người phân loại và bỏ chúng vào trong những cái túi nhựa trong có dán nhãn, trước khi xếp vào những chiếc hộp chuyên dụng.


      Trong chiếc hộp, Mila đếm được ít nhất ba chục cái xương đùi. Còn trong hộp khác, nhìn thấy toàn xương chậu.


      Stern quay sang với Goran:


      - được tìm thấy ở khu này đây...


      chỉ khu vực được căng các tấm ni lông che mưa gió. mặt đất, đường nét của thi thể được vẽ lại bằng latex. Cánh tay trái bị thiếu.


      Sabine.


      - Nạn nhân nằm cỏ, trong tình trạng phân hủy nặng. nằm đó quá lâu, bọn thú hoang đánh hơi thấy thi thể.


      - Ai tìm ra cái xác?


      - trong những người gác rừng của khu vực này.


      - Các lập tức cho đào bới à?


      - Đầu tiên chúng tôi đưa chó nghiệp vụ đến, nhưng chúng đánh hơi được gì. Sau đó chúng tôi quan sát bằng trực thăng để xem liệu mặt đất có những chỗ gồ ghề bất thường . Chúng tôi nhận thấy là xung quanh chỗ tìm thấy thi thể, hệ thực vật có vẻ khác biệt. Chúng tôi liền đưa các tấm ảnh chụp cho nhà thực vật học kiểm tra, và ông ta khẳng định biến đổi đó có thể là do thứ gì đấy được chôn bên dưới.


      Mila từng nghe đến điều này: các kỹ thuật tương tự được sử dụng ở Bosnia để tìm ra các hố chôn tập thể sau thảm kịch diệt chủng. Các thi thể nằm trong đất gây ra nhiều tác động lên hệ thực vật bên , do đất được tiếp nhận nhiều dưỡng chất từ quá trình phân hủy xác. Goran nhìn quanh.


      - Có cả thảy bao nhiêu?


      - Ba mươi, bốn mươi, chúng tôi chưa thể khẳng định được...


      - Họ ở đó được bao lâu?


      - Chúng tôi tìm được những cái xương rất cũ, những cái khác có vẻ mới hơn.


      - Chúng là của ai?


      - Đàn ông. Đa phần còn trẻ, tuổi từ mười sáu đến hai mươi hai, hai mươi ba. Phân tích cung hàm khẳng định điều đó, trong đa số trường hợp.


      - Chuyện này khiến những thứ khác hoàn toàn bị lu mờ. - Nhà tội phạm học , ông nghĩ đến những hậu quả khi vụ việc được công khai hóa. - Dù vậy Roche định ém nhẹm vụ này chứ? Với chừng ấy con người ở đây ...


      - , ngài chánh thanh tra chỉ tìm cách trì hoãn việc công bố nó, chờ cho mọi thứ được làm sáng tỏ.


      - Bởi vì ai có thể hiểu được tại sao lại có cái hố chôn tập thể nằm trong khuôn viên dinh thự nhà Rockford. - Goran với chút giận dữ mà ai cũng thấy được. - Ngược lại, tôi lại nghĩ là ngài chánh thanh tra của chúng ta ý đồ riêng... đúng nhỉ?


      Stern biết phải trả lời thế nào. Boris và Mila cũng thế.


      - Stern này, tôi tò mò chút nhé... Người ta tìm thấy cái xác trước hay sau khi công bố khoản tiền thưởng?


      - Trước đó. - Stern lí nhí thừa nhận.


      - Biết ngay mà.


      Khi họ quay trở lại chuồng ngựa, Roche đợi mọi người cạnh chiếc xe công vụ đưa ông đến nơi. Goran bước ra khỏi xe đánh golf và đến gặp ông thanh tra, vẻ quả quyết.


      - Này, tôi có còn phải phụ trách vụ này đây?


      - Tất nhiên là có rồi! Chứ ông tưởng tôi dễ dàng đẩy ông lắm sao?


      - Dễ dàng , căn cứ vào việc tôi vừa mới khám phá được. Nhưng cũng tiện thể đấy nhỉ.


      - Ông vậy là sao? - Viên thanh tra bắt đầu bực mình.


      - Nghĩa là tôi xác định được danh tính thủ phạm.


      - Sao ông có thể chắc chắn đến thế?


      - Bởi vì nếu cả cũng nghĩ là Rockford đứng sau tất cả chuyện này, chẳng nhọc sức ém nhẹm vụ việc.


      Roche nắm lấy tay nhà tội phạm học.


      - Ông nghe này, Goran, ông cứ nghĩ tôi là người duy nhất có quyền quyết định. Nhưng phải vậy đâu, tin tôi . Ông biết tôi phải chịu áp lực từ bên như thế nào đâu.


      - tìm cách bao che cho ai? Có bao nhiêu người liên đới trong vụ này?


      Roche quay lại ra hiệu bảo người tài xế chỗ khác. Sau đó, ông với toàn êkíp:


      - Trước hết, xin lần cho dứt điểm với mọi người... Tôi ngấy đến tận cổ chuyện này rồi. Thậm chí tôi chẳng cần đe dọa để mọi người giữ bí mật, bởi vì nếu mọi người hé răng dù chỉ lời, tất cả sụp đổ ngay tức khắc. nghiệp, chế độ hưu trí. Và tôi cũng chìm luôn cùng mọi người.


      - Chúng tôi hiểu rồi... Giờ , là ai? - Goran thúc ép.


      - Từ khi chào đời, Joseph B. Rockford chưa bao giờ rời khỏi nơi này.


      - Sao có thể thế được? - Boris thắc mắc. - bao giờ á?


      - bao giờ. - Roche xác nhận. - Lúc đầu, có vẻ như đó là ý tưởng ngông cuồng của bà mẹ, cựu nữ hoàng sắc đẹp nhí. Bà ta con cách bệnh hoạn, ngăn cản nó sống thời thơ ấu và niên thiếu bình thường.


      - Nhưng, khi bà ta qua đời... - Sarah Rosa phản đối.


      - Khi bà ta qua đời quá muộn: cậu ấm thể xây dựng nổi mối quan hệ cá nhân nào. Cho đến lúc đó, ta được cung phụng bởi đám người phục vụ trong nhà. Thêm vào đó, treo lơ lửng đầu ta là lời nguyền của gia tộc Rockford, theo đó tất cả những người thừa kế đều phải chết lúc năm mươi tuổi vì ung thư dạ dày.


      - Có lẽ mẹ ta tìm cách cứu con mình khỏi định mệnh đó, cách vô thức. - Goran phỏng đoán.


      - Còn em ta? - Mila hỏi.


      - kẻ nổi loạn. - Roche . - tuổi hơn trai, ta thoát được xiềng xích của bà mẹ vừa đúng lúc. Sau đó ta sống cuộc đời như mình muốn: du lịch, phung phí tài sản, buông thả trong các mối quan hệ điên rồ và thử tất cả các loại ma túy cũng như những trò khác. Bất cứ thứ gì, để trở nên khác biệt so với ông , người trở thành tù nhân tại nơi này... Cho đến khi vụ tai nạn xe hơi cách đây năm năm buộc ta phải sống trong nhà cùng với trai.


      - Joseph B. Rockford là người đồng tính. - Goran .


      - Phải. - Roche xác nhận. - Và những thi thể tìm thấy trong hố chôn tập thể phủ nhận điều đó. Toàn là các nam thanh niên.


      - Vậy tại sao lại giết họ? - Sarah Rosa hỏi.


      Goran là người trả lời:


      - Ngài chánh thanh tra chỉnh lại nếu tôi sai, nhưng tôi tin là Rockford chấp nhận được bản thân. Hoặc cũng có thể là hồi còn trẻ, ai đó phát ra khuynh hướng tình dục của , và bao giờ tha thứ cho người đó.


      Mọi người đều nghĩ đến bà mẹ, dù ai ra.


      - Sau mỗi lần vui thú lại cảm thấy có tội. Nhưng thay vì tự trừng phạt, ta trừng trị những nhân tình của mình... bằng cách giết họ. - Mila kết luận.


      - Những xác chết bị chôn ở đây, trong khi chưa bao giờ rời khỏi nhà. - Goran . - Như vậy giết họ tại đây. Liệu có thể nào ai hay biết chuyện gì, từ đám gia nhân, làm vườn đến người gác rừng?


      Roche biết câu trả lời, nhưng ông ta để cho họ tự mình đoán ra.


      - Tôi thể nào tin nổi. - Boris lên tiếng. - dùng tiền để bịt miệng tất cả.


      - mua im lặng của họ trong suốt nhiều năm trời. - Stern thêm vào với vẻ mặt kinh tởm.


      Linh hồn con người đáng giá bao nhiêu? Mila tự hỏi. Bởi chung quy mọi chuyện nằm ở đó. Đôi khi con người khám phá ra bản chất ác độc của mình, chỉ tìm được khoái lạc trong việc giết những người khác, Với , ta gọi là kẻ sát nhân, hay tên giết người hàng loạt. Nhưng những người khác, những kẻ ở bên cạnh mà lại hề ngăn chặn tất cả chuyện này, thậm chí còn kiếm lợi từ nó, phải gọi bọn họ bằng cái tên nào đây?


      - kiếm trai bằng cách nào? - Goran hỏi.


      - Chúng tôi vẫn chưa biết. Chúng tôi tiến hành truy nã thư ký riêng của , kẻ biến mất từ khi xác của bé thứ ba được tìm thấy.


      - Vậy còn những gia nhân khác, ông xử lý họ thế nào?


      - Tôi đợi, chừng nào chúng ta còn chưa xác định được liệu họ có nhận tiền hay , cũng như họ biết cụ thể những gì.


      - Rockford chỉ mua chuộc những người thân cận của , phải ?


      Goran đọc được suy nghĩ của thanh tra Roche. Ông ta thú nhận:


      - Cách đây vài năm, cảnh sát có ý nghi ngờ: ta điều tra vụ mất tích của thiếu niên bỏ nhà bụi và ăn cướp cửa hàng tạp hóa. Dấu vết dẫn ta đến đây. Rockford nhờ đến những người quen ở bên , và tay cảnh sát phải câm miệng... Lần khác, cặp đôi dạo con đường dọc theo tường rào thấy người trèo ra: đó là cậu trai trong tình trạng gần như khỏa thân, bị thương ở chân và sốc nặng. Họ cho cậu ta lên xe hơi và đưa đến bệnh viện. Cậu ta chỉ ở lại đó có vài tiếng đồng hồ: người đến đó tìm cậu ta, tự xưng là cảnh sát. Kể từ đó, ai nghe thấy gì về cậu ta nữa. Các bác sĩ và y tá được cho tiền để câm họng. Cặp nam nữ là đôi quan hệ bất chính, nên chỉ việc dọa tiết lộ chuyện đó cho người bạn đời của họ là xong.


      - kinh khủng. - Mila .


      - Tôi biết.


      - Vậy còn em , ta có thể thế nào về ta?


      - Tôi tin là Lara Rockford bình thường. Vụ tai nạn xe hơi để lại những di chứng ta. Nó xảy ra cách đây lâu. ta tự lao xe khỏi đường và đâm vào cây sồi.


      - Dù sao vẫn phải chuyện với ta. Và với cả Rockford nữa. - Goran quả quyết. - Con người này có thể biết Albert là ai.


      - Ông định chuyện với thế nào đây? rơi vào hôn mê phục hồi kia mà!


      - thắng chúng ta, cùng với cái món ung thư của ! - Boris tức tối thốt lên. - những giúp ích gì cho ta, mà còn phải ngồi tù ngày nào cho những việc làm!


      - đâu, cậu nhầm rồi. - Thanh tra Roche . - Nếu địa ngục tồn tại, họ đợi dưới đó. Nhưng xuống đó cách chậm rãi và đau đớn. Gã con hoang ấy bị dị ứng với morphin, nên có cách gì giảm đau cho được cả.


      - Vậy tại sao lại duy trì sống của ?


      Roche nở nụ cười mỉa mai và nhướng mày:


      - Em muốn như thế.





      Nội thất trong dinh thự Rockford khiến người ta nghĩ ngay đến cung điện. Sàn và tường được ốp đá cẩm thạch đen, các vân đá hấp thu toàn bộ ánh sáng. Các cửa sổ được che phủ bằng rèm nhung dày màu tối. Đa phần các bức tranh và thảm tường tái các quang cảnh điền viên hoặc những cuộc săn bắn. chùm đèn pha lê treo lủng lẳng trần nhà.


      Ngay khi vừa bước qua ngưỡng cửa, Mila cảm thấy cái lạnh chộp lấy mình. Mặc dù được chiếu sáng, ngôi nhà vẫn mang khí điêu tàn. Nếu chú ý, người ta có thể nghe thấy hưởng của im lặng trôi qua, lắng đọng qua thời gian cho đến khi tạo nên trầm mặc đầy dọa dẫm này.


      Lara Rockford “chấp thuận tiếp họ”. ta thừa biết mình có lựa chọn, nhưng những từ ngữ được gia nhân chuyển đến ấy giúp nhóm điều tra ý thức được về loại người mà họ sắp đối diện.


      Nữ tỉ phú đợi họ trong thư viện. Mila, Goran và Boris là những người hỏi chuyện ta.


      Mila trông thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của Lara. ta ngồi chiếc ghế trường kỷ bọc da, cánh tay tạo thành đường cong thanh nhã trong khi đưa điếu thuốc lá lên môi. ta rất đẹp. Từ xa, họ bị hớp hồn vì đường cong lượn từ trán xuống chiếc mũi thanh tú cho đến đôi môi mọng. Đôi mắt của Lara có màu xanh lá cây thăm thẳm, viền quanh bằng hai hàng lông mi rất dài.


      Nhưng khi ngồi trực diện với Lara, họ bị sốc khi nhìn thấy nửa kia của khuôn mặt. Nó bị biến dạng bởi vết sẹo to tướng từ chân tóc cày qua trán, chui vào hốc mắt trống hoác rồi kéo dài như vệt nước mắt xuống dưới cằm.


      Mila nhận thấy cái chân cứng nhắc mà Lara thể che giấu dù vắt chân kia lên. quyển sách được đặt cạnh ta. Bìa sách úp xuống nên họ thể đọc được tựa đề cũng như tên tác giả.


      - Xin chào. - ta chào họ. - Điều gì khiến tôi được các người viếng thăm vậy?


      Lara chẳng buồn mời họ ngồi xuống. Họ đứng tấm thảm vĩ đại che nửa diện tích sàn.


      - Chúng tôi rất muốn đặt vài câu hỏi với . - Goran . - Nếu được, tất nhiên rồi...


      - Mời ông, tôi nghe đây.


      Lara Rockford dụi phần còn lại của điếu thuốc vào chiếc gạt tàn bằng bạch ngọc, rồi lấy điếu khác từ trong chiếc bao da đặt đầu gối, cùng chiếc bật lửa bằng vàng. Khi châm lửa, những ngón tay của ta hơi run .


      - chính là người treo giải thưởng mười triệu để tìm ra bé số sáu. - Goran .


      - Đó là việc nhặt nhất mà tôi có thể làm.


      Lara thách thức họ dựa . Có lẽ ta muốn gây sốc, hoặc cũng có thể đó chỉ là do phá bỏ lề thói khác thường, trái hẳn với hà khắc của ngôi nhà mà ta náu mình.


      Goran quyết định chấp nhận lời thách thức.


      - biết chuyện trai chứ?


      - Mọi người đều biết. Nhưng ai lên tiếng.


      - Tại sao lần này lại khác?


      - Ý ông là sao?


      - Tay gác rừng tìm thấy thi thể của bé ấy. Tôi thiển nghĩ, chắc ông ta cũng bị mua chuộc...


      Mila nghĩ Goran đoán ra và biết Lara có thể dễ dàng cho mọi chuyện chìm xuồng, nhưng lại muốn như thế.


      - Ông tin vào tồn tại của linh hồn chứ?


      Vừa hỏi câu ấy, Lara vừa vuốt ve bìa sau của cuốn sách đặt ghế.


      - Còn ?


      - Tôi nghĩ đến chuyện đó...


      - Chính vì thế mà cho phép các bác sĩ ngắt những thiết bị duy trì sống cho trai phải ?


      Nữ tỉ phú đáp ngay. ta ngước mắt nhìn lên trần. Joseph B. Rockford nằm ở tầng , trong chiếc giường thường nằm từ thuở ấu thơ. Phòng ngủ của được biến thành phòng chăm sóc đặc biệt xứng tầm với bệnh viện đại. được gắn với những thiết bị hỗ trợ thở, cung cấp thuốc men và dịch truyền cho , lọc máu và giảm tải cho ruột rà của .


      - Xin đừng hiểu nhầm. Tôi muốn tôi chết.


      ta có vẻ thành .


      - Có thể biết kẻ bắt cóc và giết chết năm bé , đồng thời giam giữ bé số sáu. thể hình dung được ai có thể là kẻ đó...


      Lara hướng con mắt duy nhất của mình vào Goran. Rốt cuộc ta cũng để mắt đến ông. Hay đúng hơn là ta công khai để cho ông quan sát.


      - Ai mà biết được, kẻ đó có thể là người trong đám gia nhân. người có mặt, hay có thể là từng làm việc ở đầy. Ông chỉ việc kiểm tra.


      - Chúng tôi làm việc đó, nhưng tôi sợ rằng kẻ chúng tôi tìm kiếm quá ranh ma để có thể ban cho chúng tôi nhường ấy ân huệ.


      - Như ông thấy, chỉ có những ai có thể bị Joseph mua chuộc mới bước chân được vào trong ngôi nhà này. Bị quản lý và được cho tiền, dưới kiểm soát của tôi. Tôi chưa từng thấy người lạ ở đây.


      - Vậy còn những thanh niên mà trai quan hệ? - Mila đột ngột lên tiếng.


      Lara mất lúc lâu để trả lời:


      - tôi cũng trả tiền cho bọn họ. Thỉnh thoảng, nhất là trong thời gian gần đây, tôi đề nghị với họ kiểu hợp đồng theo đó họ bán linh hồn mình cho ấy. Họ cứ nghĩ đó chỉ là trò chơi, câu chuyện đùa của nhà tỉ phú nhằm tiêu tán chút tiền. Thế là họ ký. Tất cả đều ký. Tôi tìm thấy các bản hợp đồng trong két sắt văn phòng. Những chữ ký khá là ràng, ngay cả khi bọn họ sử dụng chúng cách nghiêm túc...


      Lara bật cười trước liên tưởng rùng rợn ấy, nhưng đó là tiếng cười quái lạ, nó khiến Mila rợn người. Tiếng cười bật ra từ trong sâu thẳm, như thể nằm đó từ lâu, trong buồng phổi của ta, trước khi bị khạc ra ngoài. Nó khàn đặc vì nicotin, và cả vì đau đớn nữa. Sau đó Lara cầm lấy cuốn sách đặt bên cạnh mình.


      Faust.


      Mila tiến bước lại gần.


      - phản đối nếu chúng tôi tìm cách thẩm vấn trai chứ?


      Goran và Boris nhìn Mila như thể mất trí.


      Lara lại bật cười.


      - định làm thế nào đây? tôi chết nhiều hơn là sống. - Rồi ta nghiêm túc trở lại. - Muộn mất rồi.


      Nhưng Mila kiên quyết:


      - Cứ để chúng tôi thử.







      30








      Thoạt nhìn, Nicla Papakidis có vẻ là phụ nữ yếu đuối.


      Có lẽ do bà thấp người và có cái hông quá khổ. Cũng có thể là do đôi mắt toát lên hài hước buồn bã và khiến người ta nghĩ đến bài hát trong vở nhạc kịch của Fred Astaire, tấm ảnh chụp trong buổi dạ vũ mừng năm mới thời trước hoặc vào ngày cuối cùng của mùa hè.


      thực tế, bà là phụ nữ mạnh mẽ.


      tạo dựng sức mạnh cho mình từng chút , sau những năm tháng ít nhiều sống trong nghịch cảnh. Bà sinh ra ở ngôi làng , là chị cả và cũng là đứa con duy nhất trong gia đình có bảy người con. Năm lên mười tuổi, bà mồ côi mẹ. Bà phải trông nom gia đình, chăm sóc bố và nuôi dạy các cậu em trai. Nhờ bà, họ đỗ đạt thành tài và tìm được việc làm tốt. Nhờ tiền bạc có được từ hy sinh vô bờ của bà và việc thắt chặt chi tiêu trong gia đình, các em trai của bà chưa bao giờ bị thiếu thốn thứ gì. Bà chứng kiến các em cưới những nhà lành, xây dựng gia đình và cho ra đời hơn hai chục đứa cháu cả trai lẫn , niềm vui và tự hào của bà. Khi người em trai út rời khỏi mái nhà chung, bà ở lại để chăm sóc cho người cha già yếu, từ chối đứa ông vào viện dưỡng lão. Bà luôn : “Đừng có lo cho tôi. Các cậu có gia đình của các cậu, còn tôi chỉ có mình. Đây chẳng phải là hy sinh gì đâu”.


      chăm sóc cha như đứa trẻ cho đến khi ông được chín chục tuổi. Lúc ông mất, bà tập hợp các cậu em lại.


      “Tôi bốn mươi bảy, tôi nghĩ từ giờ mình hết lập gia đình được rồi. Tôi có con cái, nhưng tôi luôn xem đàn cháu như chính con ruột mình và thế là đủ. Tôi cám ơn các cậu mời tôi về ở cùng, nhưng ý tôi quyết từ cách đây nhiều năm, dù hôm nay tôi mới cho các cậu biết. Chúng ta gặp nhau nữa, các cậu em trai quý của tôi ạ... Tôi quyết định dành cuộc đời mình cho Chúa, và từ ngày mai tôi náu mình trong nhà tu kín cho đến khi từ giã cõi đời”.


      - Hóa ra là bà tu sĩ! - Boris vừa vừa lái xe, sau khi nghe Mila kể lại câu chuyện.


      - Bà ấy còn hơn thế nhiều.


      - Tôi vẫn chưa thể tin là thuyết phục thành công giáo sư Gavila. Lại càng tin là ông ấy thuyết phục được Roche.


      - Đây chỉ là phép thử, chúng ta có mất gì đâu? Hơn nữa, tôi nghĩ ta có thể tin tưởng ở Nicla trong việc giữ kín chuyện này.


      - À, việc đó hẳn rồi!


      ghế sau xe có đặt chiếc hộp thắt dây ruy băng đỏ.


      - Sôcôla là điểm yếu duy nhất của Nicla. - Mila thế khi cầu Boris dừng xe trước hiệu bánh.


      - Nhưng bà ấy theo dòng tu kín, tức là thể cùng chúng ta.


      - ra chuyện phức tạp hơn thế...


      - Nghĩa là sao?


      - Nicla sống vài năm trong tu viện. Nhưng khi họ phát ra điều bà làm, họ trả bà về với thế giới bên ngoài.


      Họ đến nơi sau mười hai giờ trưa chút. Khu vực này của thành phố khá lộn xộn. Tiếng ồn ào của dòng xe cộ trộn lẫn với tiếng nhạc xập xình, tiếng la hét cãi vã phát ra từ các căn hộ, cũng như từ những hoạt động hợp pháp lẫn phi pháp diễn ra đường phố. Những người sống ở đây bao giờ thoát được chúng. Trung tâm thành phố, nơi chỉ cách đó có vài trạm xe điện, với những nhà hàng sang trọng, các cửa hiệu và những tiệm trà, đối với họ cũng xa vời như sao Hỏa.


      Thiết bị định vị toàn cầu xe ngừng cung cấp thông tin từ khi họ rời khỏi xa lộ. Những chỉ dẫn duy nhất là các hình vẽ tường đánh dấu ranh giới địa bàn của các băng nhóm.


      Boris lái xe vào phố ngang kết thúc trong ngõ cụt. quan sát chiếc xe hơi bám đuôi họ được vài phút. chiếc xe với hai cảnh sát ngồi trong thể bị chú ý bởi những tên cảnh giới vốn luôn nghe ngóng động tĩnh mọi ngóc ngách trong khu vực.


      - Lái chậm thôi, và để cho chúng thấy hai bàn tay của . - Mila với Boris như thế. từng đến chỗ này khá nhiều lần.


      Tòa nhà hai người định đến nằm ở cuối con phố . Họ đậu xe ở giữa những cái xác xe cháy. Cả hai bước xuống xe Boris nhìn chung quanh. chuẩn bị bấm điều khiển để chốt cửa xe, nhưng Mila ngăn lại.


      - Đừng làm thế. Cứ để chìa khóa trong xe. Chúng có thể phá cửa chỉ vì “ngứa mắt”.


      - Nhưng ai ngăn chúng trộm xe bỏ chạy?


      Mila sang bên phía ghế lái, lục lọi trong túi và lôi ra tràng hạt bằng nhựa màu đỏ. treo nó vào gương chiếu hậu.


      - Ở đây nó là bùa chống trộm hiệu quả nhất đấy.


      Boris lúng túng nhìn Mila, sau đó theo về phía tòa nhà.


      Tấm bảng bằng bìa treo ngay cửa có đề: “Xếp hàng nhận thức ăn bắt đầu từ mười giờ”. Và vì phải người nào trong số các đối tượng của hàng chữ đó cũng biết đọc, nên người ta vẽ ở bên cạnh hình kim đồng hồ bên đĩa thức ăn bốc khói.


      khí thoang thoảng thứ mùi của thức ăn hòa lẫn với chất tẩy trùng. Tại cửa vào, vài chiếc ghế nhựa cọc cạch được bày quanh cái bàn có để mấy tờ báo cũ. bàn cũng có mấy tờ rơi in thông tin của nhiều chủ đề khác nhau, từ phòng ngừa sâu răng trẻ em cho đến các biện pháp phòng tránh số loại bệnh hoa liễu. Tất cả là nhằm biến chỗ này thành phòng đợi. tường, thông báo và yết thị được gắn kín mít tấm bảng thông tin. Có thể nghe thấy nhiều tiếng người vọng qua căn phòng, nhưng thể biết chúng đến từ đâu. Mila kéo tay áo Boris.


      - Ta nào, bà ấy ở tầng .


      Hai người bước lên cầu thang. Các bậc thang đều hư hỏng và lan can lung lay cách đáng sợ.


      - Nhưng ta ở nơi quái quỷ gì thế này?


      Boris tránh đụng chạm vào bất cứ thứ gì vì sợ nhiễm khuẩn. càu nhàu liên tục cho đến khi họ lên đến tầng . Trước cánh cửa kính, tuổi tầm đôi mươi rất xinh xắn đưa lọ thuốc cho ông già quần áo tả tơi, người chua khẳm và nồng mùi rượu.


      - Phải uống viên mỗi ngày, bác nhé?


      có vẻ khó chịu vì mùi hôi hám của ông già. với giọng ràng, từ tốn, rành mạch từng chữ như với trẻ con. Ông già gật gù nhưng xem vẻ thuyết phục.


      - Việc này rất quan trọng. - trẻ nhấn mạnh. - Bác được quên đâu đấy. Nếu , lại giống như lần trước, khi người ta đưa bác đến đây trong tình trạng dở sống dở chết.


      rút chiếc khăn tay từ trong túi ra và buộc quanh cổ tay ông già.


      - Phải thế này, bác mới quên.


      Ông già mỉm cười, vẻ hài lòng, rồi cầm lấy cái lọ và về, vừa vừa ngắm nghía món quà nơi cổ tay mình.


      - chị cần gì thế ạ? - hỏi hai người.


      - Bọn chị tìm bà Nicla Papakidis. - Mila đáp.


      Boris đần mặt nhìn trẻ, đột nhiên những nỗi bực bội của bay đâu mất.


      - Em nghĩ bà ở trong căn phòng áp cuối, dưới kia. - vừa vừa chỉ hành lang sau lưng mình.


      Khi họ ngang qua trẻ, Boris cụp mắt xuống nhòm ngực , và vấp ngay phải cây thánh giá mạ vàng đeo cổ .


      - Nhưng ấy là…


      - Phải. - Mila đáp ngay, cố nhịn cười.


      - Tiếc .


      Trong khi xuôi hành lang, họ nhìn qua các căn phòng. Những chiếc giường sắt, giường gấp, hoặc chỉ là xe lăn, tất cả đều được sử dụng bởi những kẻ dạt nhà, phân biệt già trẻ. Họ bị mắc bệnh AIDS, nghiện ma túy hay nghiện rượu, mắc bệnh gan ở giai đoạn cuối, hoặc chỉ đơn giản là bệnh già. Họ có hai điểm chung: ánh mắt mệt mỏi và cảm giác sống cuộc đời vứt . bệnh viện nào tiếp nhận họ trong tình trạng như thế. Họ có gia đình hoặc bị đẩy ra khỏi nhà.


      Ở đây, người ta đến để chết. Đó là điểm đặc biệt của nó. Nicla Papakidis gọi nó là “cảng trung chuyển”.


      - Ngày hôm nay đẹp , Nora ạ.


      Bà tu sĩ ân cần chải mái tóc dài bạc trắng của bà già nằm chiếc giường đối diện cửa sổ, vừa chải vừa những lời dịu dàng.


      - Sáng nay, lúc ngang qua công viên, tôi để bánh mì lại cho lũ chim. Với tình hình tuyết thế này, chúng dành thời gian ở trong tổ để ủ ấm cho nhau.


      Mila gõ cánh cửa mở. Bà Nicla quay lại, mắt sáng lên khi nhìn thấy .


      - Cháu tôi! - Bà vừa vừa đến ôm hôn . - vui vì được gặp lại cháu!


      Bà mặc chiếc áo thun màu xanh xám xắn tay quá khuỷu vì lúc nào bà cũng cảm thấy nóng, cộng thêm chiếc váy đen quá đầu gối, chân xỏ đôi giày thể thao. Làn da rất trắng làm đôi mắt xanh thẳm của bà nổi bật hẳn lên. Tất cả toát lên tinh khiết và sạch . Boris nhận thấy bà quàng tràng hạt đỏ cổ, giống như cái mà Mila buộc vào gương chiếu hậu.


      - Cháu xin giới thiệu Boris, đồng nghiệp của cháu.


      Boris hơi rụt rè tiến lên.


      - Rất hân hạnh.


      - Cậu vừa mới gặp xơ Mary, đúng ? - Bà Nicla vừa bắt tay vừa hỏi.


      - Dạ... phải. - Boris đỏ mặt đáp.


      - Cậu đừng lo, con bé gây thiện cảm với rất nhiều người… Tại sao cháu đến đây, đến cái cảng trung chuyển này, hử Mila? - Bà hỏi .


      - Chắc là bà nghe đến vụ các bé mất tích? - Mila hỏi nghiêm túc.


      - Bọn ta cầu nguyện cho chúng mỗi tối. Nhưng họ cho biết gì nhiều bản tin.


      - Cháu cũng thế, cháu thể tiết lộ gì nhiều.


      Bà Nicla nhìn thẳng vào mắt Mila.


      - Cháu đến vì bé số sáu, có phải ?


      - Bà có thể gì về bé ấy ?


      Bà Nicla thở dài.


      - Bà thử tìm cách bắt liên lạc, nhưng dễ. Bà còn như hồi trước nữa. Khả năng của bà yếu nhiều. Lẽ ra bà có thể vui mừng vì chuyện đó, vì nếu bà mất nó hoàn toàn người ta cho phép bà quay về tu viện, với các xơ dễ mến ở đó.


      Nicla Papakidis thích bị người ta gọi là bà đồng. Bà bảo đó phải là chữ thích hợp để định nghĩa “ân huệ của Chúa”. Bà cảm thấy mình đặc biệt. Năng lực của bà mới là thứ đặc biệt. Bà chỉ là người trung gian được Chúa chọn để đón nhận ân huệ và ban phước lành.


      Trong suốt chuyến , ngoài những chủ đề khác, Mila kể cho Boris nghe làm thế nào bà Nicla phát ra mình sở hữu những năng lực cảm nhận hơn người.


      “Năm lên sáu tuổi, bà ấy nổi tiếng trong làng vì có thể tìm thấy những món đồ bị mất: nhẫn, chìa khóa, những bản di chúc bị giấu quá kỹ bởi người quá cố... tối nọ, cảnh sát trưởng của địa phương đến gặp bà. đứa bé năm tuổi bị lạc, mẹ nó rất tuyệt vọng. Người ta đưa bà ấy đến nhà bà mẹ, người van xin bà tìm hộ con trai mình. Bà Nicla nhìn người mẹ hồi, rồi : ‘Người đàn bà này láo. Bà ta chôn con trai mình trong vườn rau sau nhà’. Và quả thực, họ tìm thấy thằng bé ở đó”.


      Boris rất kinh ngạc vì câu chuyện được nghe. Đến mức ngồi hơi cách xa chút, để mình Mila chuyện với bà tu sĩ.


      - Điều cháu định nhờ bà hơi khác thường chút. - . - Cháu cần bà cùng chúng cháu và bắt liên lạc với người đàn ông sắp chết.


      Mila nhờ cậy đến năng lực của bà Nicla nhiều lần trước đây. Thỉnh thoảng việc đó giúp giải quyết công việc của mình.


      - Cháu à, bà đâu được, cháu biết mà. Họ cần bà ở đây.


      - Cháu biết, nhưng cháu vẫn rất muốn nhờ bà. Đó là hy vọng duy nhất giúp chúng cháu tìm lại bé số sáu.


      - Bà rồi, bà còn chắc chắn là “ân huệ” của mình còn hoạt động hay nữa.


      - Nhưng cháu lại nghĩ đến bà vì lý do khác nữa... khoản tiền thưởng lớn được hứa trao cho người cung cấp các thông tin hữu ích nhằm tìm ra bé.


      - Ồ, bà biết chuyện đó. Nhưng bà biết làm gì với mười triệu đây?


      Mila đảo mắt nhìn quanh, ám chỉ dùng tiền thưởng vào việc tu sửa chỗ này là lẽ đương nhiên.


      - Bà tin cháu . Khi bà tường tận vụ này, bà nhận ra đó là cách sử dụng món tiền thưởng tốt nhất có thể... Vậy, bà định thế nào ạ?


      - Đáng lẽ Vera đến đây gặp tôi hôm nay.


      Người vừa lên tiếng là bà già nằm giường. Cho đến lúc đó, bà ta vẫn nằm bất động và im lặng, mắt nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Bà Nicla tiến đến gần bà già.


      - Phải rồi, Nora, Vera đến muộn.


      - Con bé hứa.


      - Phải, tôi biết. Nó hứa và nó giữ lời, rồi bà thấy.


      - Nhưng thằng bé kia ngồi ghế của nó. - Bà già vừa vừa chỉ vào Boris, khiến dợm đứng lên.


      Bà Nicla ngăn lại.


      - Cậu cứ ngồi. Vera là người em song sinh của bà ấy. Vera chết cách đây bảy chục năm, hồi cả hai còn bé. - Bà hạ giọng giải thích.


      Trông thấy mặt Boris tái , bà Nicla bật cười.


      - , tôi có khả năng trò chuyện với người chết đâu! Nhưng Nora lại thích là em mình sắp đến thăm.


      Boris để cho câu chuyện Mila kể dẫn mình quá xa. thấy mình ngốc.


      - Vậy, bà cùng bọn cháu chứ ạ? - Mila nằn nì. - Cháu hứa là có người đưa bà quay về đây trước tối nay.


      Nicla Papakidis suy nghĩ thêm lúc.


      - Cháu có đem gì đến cho ta đấy?


      Mila mỉm cười.


      - Sôcôla cháu để dưới xe. Chúng đợi bà đấy.


      Bà Nicla gật gù, vẻ hài lòng, rồi nghiêm túc trở lại.


      - Ta ưa những gì sắp biết được về người đàn ông đó, đúng ?


      - tình cháu nghĩ thế.


      Bà Nicla sờ tràng hạt nơi cổ.


      - Thôi được, chúng ta nào.





      “Pareidolia”[6] là chữ dùng để gọi khuynh hướng thấy những hình thù quen thuộc trong các hình ảnh lộn xộn. Những đám mây, những tinh vân, hay thậm chí là những hạt yến mạch nổi bát sữa.


      Cùng cách như thế, Nicla Papakidis nhìn thấy các việc xuất trong đầu mình. Bà coi chúng là ảo giác. Ngoài ra, bà thích chữ pareidolia vì nó có nguồn gốc Hy Lạp giống như bà.


      Bà giải thích điều đó với Boris trong khi ngồi đằng sau xe, vừa vừa nhanh chóng ăn sôcôla. Điều khiến kinh ngạc hẳn là câu chuyện của bà tu sĩ, mà là việc thấy chiếc xe hơi ở nguyên vị trí, vết trầy xước, trong khu phố đầy tiếng xấu.


      - Tại sao bà gọi nó là “cảng trung chuyển” thế ạ?


      - Tùy thuộc vào điều mà cậu tin vào, Boris ạ. số người chỉ thấy nó như điểm đến. Những người khác lại nhìn nhận nó như điểm xuất phát.


      - Vậy bà nhìn nhận nó theo cách nào?


      - Cả hai.


      Họ đến khu nhà của Rockford vào đầu giờ chiều.


      Goran và Stern đứng đợi họ phía trước nhà. Sarah Rosa tầng cùng với nhân viên y tế, người luôn trông chừng bệnh nhân hấp hối.


      - Mọi người đến vừa kịp lúc. - Stern . - Tình hình xấu rất nhanh kể từ sáng nay. Các bác sĩ khẳng định là chúng ta chỉ còn vài tiếng.


      Gavila tự giới thiệu với bà Nicla và giải thích cho bà việc phải làm, giấu vẻ hoang mang. Ông từng chứng kiến các nhà thần giao cách cảm đủ kiểu hợp tác với cảnh sát. Thường can thiệp của họ chẳng mang lại điều gì, hay tệ hơn, họ làm rối thêm cuộc điều tra khi tạo ra các manh mối sai lạc và những trông đợi vô ích.


      Bà tu sĩ ngạc nhiên trước bối rối của nhà tội phạm học. Bà thường xuyên thấy nghi ngờ diện gương mặt người khác.


      Vốn là con chiên ngoan đạo, Stern tin ở khả năng đặc biệt của bà Nicla. Đối với , đó chỉ là trò lừa bịp. Nhưng dao động vì bà là nữ tu sĩ tốt bụng. “Ít ra bà ta cũng làm vì tiền”, ít phút trước như thế với Sarah Rosa thậm chí còn hoài nghi hơn.


      - chàng tội phạm học này hay đấy. - Nicla với Mila trong khi lên cầu thang. - ta nghi ngờ và tìm cách giấu giếm chuyện đó.


      Câu bình luận đó phải phát xuất từ năng lực của bà. Mila hiểu nó từ trong trái tim của bà. Nghe thấy những lời ấy từ người rất thân thiết của mình, Mila thấy rất cảm kích. Nó xua mọi hồ nghi về Goran mà Sarah Rosa cố gieo vào đầu .


      Phòng ngủ của Joseph B. Rockford nằm ở cuối đoạn hành lang rộng treo đầy thảm trang trí.


      Những ô cửa sổ rộng mở ra hướng đông, phương mặt trời mọc. Đứng từ các ban công người ta có thể chiêm ngưỡng thung lũng phía dưới.


      Chiếc giường có màn quây nằm ngay giữa phòng, vây quanh bởi các máy móc y khoa hỗ trợ cho những giờ phút cuối cùng của người bệnh. Chúng tạo cho nhịp điệu máy móc, hợp bởi tiếng bíp của máy theo dõi nhịp tim, tiếng hít thở phì phò từ máy hô hấp, tiếng giọt lặp lặp lại và tiếng rì rì liên tục của thiết bị điện.


      Thân của Rockford được kê gối cao lên, hai cánh tay nằm xuôi theo người tấm vải phủ giường có thêu trang trí, đôi mắt nhắm nghiền. mặc bộ quần áo ngủ bằng lụa màu hồng nhạt, mở toang nơi cổ để chừa chỗ cho ống đặt nội khí quản. Mớ tóc ít ỏi còn lại hoàn toàn bạc trắng. Khuôn mặt hõm sâu chung quanh chiếc mũi khoằm, phần cơ thể còn lại của gồ lên bên dưới tấm vải. Nom như lão già trăm tuổi dù chỉ mới năm mươi.


      y tá phụ trách việc chăm sóc vết mổ nơi cổ thay miếng gạc đặt quanh lỗ thở. Trong tất cả các gia nhân túc trực ngày đêm, chỉ có bác sĩ tư và phụ tá của ông ta là được ở lại.


      Khi bước qua ngưỡng cửa, các thành viên trong nhóm điều tra trông thấy Lara Rockford, người quyết bỏ lỡ việc sắp diễn ra vì bất cứ lý do nào. ta ngồi chiếc ghế bành, cách xa những người khác, và thản nhiên hút thuốc mặc kệ các quy định vệ sinh. Khi y tá nhắc nhở rằng đó có lẽ phải là việc tốt cho tình hình sức khỏe của trai, Lara đáp gọn lỏn: “Dù sao nó cũng chẳng làm hại tôi được”.


      Nicla tự tin tiến đến bên giường, quan sát quang cảnh lâm chung đặc biệt của gia chủ. kết thúc rất khác so với những cái chết trong nghèo khó, nhơ nhớp mà bà từng chứng kiến hàng ngày tại “cảng trung chuyển”. Khi ở bên cạnh Joseph B. Rockford, bà làm dấu thánh, trước khi với Goran:


      - Chúng ta có thể bắt đầu.


      Chưa có ban bồi thẩm nào từng chấp nhận bằng chứng như thế. Báo giới lại càng được phép biết về cuộc thử nghiệm này. Mọi thứ phải ở lại trong bốn bức tường của ngôi nhà.


      Boris và Stern đứng lại bên cạnh cánh cửa đóng. Sarah Rosa tiến đến góc nhà và tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực. Nicla ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh giường. Mila ngồi cạnh bà. Goran đứng đối diện họ vì muốn quan sát cả bà tu sĩ lẫn Rockford.


      Bà đồng bắt đầu tập trung.


      Các bác sĩ vẫn dùng thang Glasgow để đánh giá tình trạng hôn mê của bệnh nhân. Nhờ vào ba phản ứng - bằng lời , mắt và cử động, người ta có thể xác định mức độ tổn hại của chức năng thần kinh.


      Việc sử dụng hình ảnh của cái thang để đánh giá tình trạng hôn mê chỉ là do ngẫu nhiên, mà bởi vì tình trạng nhận thức suy giảm từ từ, giống như khi ta bước xuống các bậc thang.


      Ngoại trừ lời kể của những người từng tỉnh lại sau cơn hôn mê về nhận biết thế giới chung quanh và trạng thái yên bình mà họ trôi lơ lửng bên trong, người ta biết điều gì thực xảy ra trong khoảng giữa sống và cái chết. Thêm vào đó, những người tỉnh lại sau hôn mê đều tụt xuống tệ nhất là hai, ba bậc chiếc thang kia. số nhà thần kinh học tin rằng có thể tồn tại cả trăm bậc thang như thế.


      Mila biết thực Joseph B. Rockford ở bậc nào.


      Có lẽ ta ở đó cùng với họ, thậm chí là nghe thấy họ. Hoặc cũng có thể tụt xuống đủ sâu để xa rời những ma quái của bản thân.


      Tuy nhiên, có điều chắc chắn: Nicla phải tụt xuống vực thẳm sâu và tăm tối để tìm ta.


      - Đây rồi, tôi nghe thấy thứ gì đó...


      Bà tu sĩ đặt hai tay đầu gối. Mila nhận thấy các ngón tay của bà co lại do căng thẳng.


      - Joseph vẫn còn đây. - Bà tuyên bố. - Nhưng ta rất... xa cách. Tuy vậy, ta có thể cảm nhận được chút gì đó...


      Sarah Rosa đưa cặp mắt bối rối nhìn Boris. chàng suýt chút nữa bật cười, nhưng nén lại được.


      - ta rất lo lắng. ta tức giận... ta chịu nổi việc vẫn còn ở đây... ta muốn ra , nhưng được. Có điều gì đó níu giữ ta ở lại... Mùi làm ta rối trí.


      - Mùi nào? - Mila hỏi.


      - Mùi hoa tàn. ta thể chịu đựng nổi.


      Họ hít hà, tìm khẳng định cho những lời vừa rồi, nhưng chỉ ngửi thấy mùi hương dễ chịu. bậu cửa sổ có cái lọ to, cắm những bông hoa còn tươi nguyên.


      - Bà cố bắt ta ra .


      - Ta nghĩ ta muốn làm thế... , ta muốn chuyện với ta.


      - Bà phải thuyết phục .


      - xin lỗi...


      - Sao ạ?


      Nhưng bà tu sĩ hết câu. Thay vào đó, bà :


      - Ta nghĩ ta muốn cho ta thấy thứ gì đó… Phải rồi… ta chỉ cho ta căn phòng… Căn phòng này. Nhưng chúng ta diện. Tất cả chỗ máy móc thiết bị duy trì sống cho ta cũng thế... Có ai đó ở đây cùng với ta. - Bà Nicla thêm và ngồi thẳng người lại.


      - Ai vậy?


      - phụ nữ, rất xinh đẹp... Ta tin đó là mẹ ta.


      Mila thoáng thấy Lara Rockford cựa mình trong chiếc ghế bành, tay châm điếu thuốc biết là thứ bao nhiêu nữa.


      - Bà ta làm gì?


      - Joseph chỉ là thằng bé... Bà ta để nó ngồi đầu gối và giảng giải chuyện gì đó... Bà ta cảnh cáo, giám sát nó... Bà ta bảo thế giới ngoài kia chỉ làm hại nó. Đổi lại, chừng nào thằng bé còn ở trong này nó còn được an toàn... Bà ta hứa bảo vệ nó, chăm sóc cho nó, và bao giờ bỏ rơi nó...


      Goran và Mila nhìn nhau. Vậy là cái lồng vàng của Joseph bắt đầu như thế, chính bà mẹ là người ngăn cản tiếp xúc với thế giới bên ngoài.


      - Bà ta bảo trong tất cả những mối nguy hiểm đời, đàn bà là thứ tồi tệ nhất... Ngoài kia có cả đống đàn bà muốn cướp mọi thứ của thằng bé... Bọn họ chỉ nó vì những gì mà nó sở hữu... Bọn họ lừa thằng bé, lợi dụng nó... xin lỗi. - Bà lặp lại.


      Mila lại nhìn Goran. Sáng hôm nay, trước mặt thanh tra Roche, nhà tội phạm học khẳng định nguồn gốc điên cuồng của Rockford, thứ theo thời gian biến thành tên giết người hàng loạt. Tất cả chỉ vì chấp nhận được con người của mình. ai đó, rất có thể là mẹ , phát ra khuynh hướng tình dục của bao giờ tha thứ cho . Việc giết bạn tình cũng đồng nghĩa với xóa tội lỗi.


      Hóa ra, Goran nhầm.


      Những gì vừa được bà tu sĩ tiết lộ phủ nhận phần giả thiết của ông.


      đồng tính của Joseph có liên quan đến chứng cuồng sợ của bà mẹ. Có lẽ bà ta biết điều đó nhưng gì.


      Nhưng nếu vậy , tại sao Joseph lại giết các nhân tình của mình?


      - Tôi thậm chí được phép mời các bạn của mình đến chơi...


      Mọi người quay lại nhìn Lara Rockford. ta bóp điếu thuốc lá giữa hai ngón tay run rẩy, mắt nhìn xuống sàn nhà.


      - Chính bà mẹ là người đưa đám trai trẻ đến đây. - Goran .


      - Phải, mẹ tôi trả tiền cho họ. - Lara xác nhận.


      Những giọt nước mắt tuôn trào từ con mắt lành lặn biến khuôn mặt của ta biến thành chiếc mặt nạ dị hợm.


      - Mẹ tôi ghét tôi.


      - Tại sao? - Nhà tội phạm học thắc mắc.


      - Vì tôi là con .


      - xin lỗi... - Bà Nicla lặp lại.


      - im ! - Lara thét lên với người của mình.


      - xin lỗi em...


      - Im ngay !


      Lara thét lên điên dại và đứng bật dậy. Cằm ta run lên.


      - Các người tưởng tượng nổi đâu. Các người thể tưởng tượng được việc loanh quanh trong này và cảm thấy đôi mắt đó găm vào người. Ánh mắt bám riết tôi khắp nơi, và tôi thừa hiểu nó muốn điều gì. Ngay cả khi tôi muốn thừa nhận, vì chỉ nội suy nghĩ đó cũng khiến tôi phát tởm. Tôi tin là ta cố gắng hiểu... tại sao ta thấy bị hấp dẫn bởi tôi.


      Nicla vẫn lên đồng. Toàn thân bà run lên. Mila nắm lấy tay bà.


      - Có phải vì vậy mà bỏ nhà , phải ? - Goran hỏi và nhìn xoáy vào Lara Rockford, cương quyết đòi bằng được câu trả lời. - Từ lúc đó ta bắt đầu giết người...


      - Phải, tôi nghĩ thế.


      - Và rồi, cách đây năm năm, quay về…


      Lara Rockford bật cười.


      - Tôi biết gì hết. ta lừa tôi khi rằng ta cảm thấy đơn và bị mọi người bỏ rơi. Rằng tôi là em ta, ta rất quý tôi, ta muốn giảng hòa. Rằng tất cả những thứ khác là do tôi tưởng tượng ra. Tôi tin ta. Khi tôi quay về đây, những ngày đầu ta cư xử bình thường: ta tỏ ra dịu dàng, ân cần chăm sóc tôi. ta hề giống với Joseph mà tôi từng biết hồi còn . Cho đến khi...


      Lara lại cười gằn. Hơn cả ngôn từ, nụ cười ấy lên toàn bộ những bạo hành mà chị ta từng phải chịu.


      - bị như thế này phải là do tai nạn giao thông... - Goran .


      Lara lắc đầu.


      - Chỉ như thế này ta mới chắc chắn là tôi ra nữa.


      Họ cảm thấy đau xót tột cùng cho người phụ nữ trước mặt. ta bị giam cầm phải bởi ngôi nhà này, mà bởi chính diện mạo của mình.


      - Tôi xin lỗi. - Lara trong khi tiến về phía cửa, kéo lê cái chân thương tật.


      Stern và Boris tách ra để cho ta qua, rồi cùng nhìn Goran, chờ quyết định của ông. Nhà tội phạm học với Nicla:


      - Bà cảm thấy tiếp tục được ?


      - Được. - Bà tu sĩ , dù nom bà mệt mỏi thấy sau nỗ lực vừa rồi. Câu hỏi tiếp theo là câu quan trọng hơn hết thảy. còn dịp nào khác để hỏi nữa. Câu trả lời định đoạt chỉ sống sót của bé số sáu, mà cả của chính họ. Bởi lẽ, nếu như họ thể tìm ra ý nghĩa của những gì xảy ra trong thời gian qua, họ mãi mãi bị câu chuyện này đè nặng như lời nguyền.


      - Nicla, bà hãy bảo Joseph kể lại lúc ta gặp gỡ kẻ giống như mình...

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :