13 Lời kêu gọi truyền hình dành cho gia đình của bé số sáu thu được kết quả nào. Phần lớn các cuộc gọi là từ những người muốn bày tỏ cảm thông chia sẻ, rốt cuộc chỉ làm nghẽn đường dây. bà cụ rất lo lắng cho năm đứa cháu của mình gọi ít nhất bảy lần chỉ để “nghe ngóng tin tức của cháu bé tội nghiệp”. Đến cuộc gọi lần thứ bao nhiêu biết, cảnh sát viên lịch cầu bà lão đừng gọi nữa, ta chỉ nhận được lời mắng nhiếc của bà. - Khi cố rằng họ giúp ích gì được, họ bảo là đồ vô tâm. - Goran bình luận khi nghe Stern báo cáo lại chuyện xảy ra. Mọi người ngồi chiếc xe lưu động, lần theo tín hiệu định vị toàn cầu. Phía trước họ, những chiếc xe bọc thép chở các đơn vị đặc nhiệm trước mở đường, như lời thông báo trịnh trọng của Roche trước đó ít lâu. Tất cả những biện pháp thận trọng này chẳng qua cũng bởi họ chưa biết Albert dẫn mọi người đến đâu. Nó hoàn toàn có thể là cái bẫy. Nhưng Goran đồng tình với ý kiến đó. - Ngược lại, gã muốn cho chúng ta thấy thứ gì đó. thứ mà ràng gã rất tự hào. - Tín hiệu định vị toàn cầu được xác định trong khu vực rộng nhiều cây số vuông. Từ xa họ thể định vị chính xác nơi phát tín hiệu. Cần phải đến tận nơi. căng thẳng bao trùm chiếc xe. Goran trao đổi vài từ với Stern. Boris kiểm tra vũ khí rồi chỉnh lại chiếc áo chống đạn. Mila quan sát chỗ giao cắt của quốc lộ qua cửa sổ, nơi những cây cầu và các khúc đường đan cài vào nhau. Thiết bị thu tín hiệu được giao cho đội trưởng đội đặc nhiệm, nhưng Sarah Rosa có thể quan sát màn hình máy tính những gì mà các đồng nghiệp trước nhìn thấy. giọng thông báo qua điện đàm: - Chúng ta đến gần mục tiêu. Tín hiệu có vẻ như được phát từ điểm ở cách ta cây số. Mọi người trong xe nhìn nhau. - Chỗ này là chỗ nào? - Rosa hỏi. Mila trông thấy từ xa tòa nhà lớn xây bằng gạch đỏ, gồm nhiều khối nhà nối liền với nhau tạo thành hình chữ thập. Kiểu dáng kiến trúc tân gô tích những năm 1930, mộc mạc và u tối, tiêu biểu cho các tòa nhà xứ giáo phận của thời kỳ đó. Mặt bên tòa nhà có tháp chuông vươn lên. Ngay cạnh nó là nhà thờ. Những cỗ xe bọc thép tiến vào con đường đất dẫn vào tòa nhà trung tâm. Vừa đến nơi, các cảnh sát đặc nhiệm lập tức chuẩn bị để đột nhập vào bên trong. Mila cùng với đồng đội bước xuống xe. ngước mắt quan sát mặt tiền đồ sộ của tòa nhà bị thời gian làm cho đen nhẻm. Bên cánh cổng là hàng chữ nổi: Visitare Pupillos In Tribulatione Eorum Et Immaculatum Se Custodire Ab Hoc Saeculo[3]. - Cứu giúp các trẻ em mồ côi trong nỗi thống khổ và bảo vệ chúng khỏi thế giới ô trọc này. - Goran dịch cho . Trước kia nơi đây từng là trại mồ côi, nhưng giờ nó bị đóng cửa. Đội trưởng đội đặc nhiệm ra dấu để cho các thành viên trong đội chuẩn bị tiến vào qua cửa hông. Do có kế hoạch trước nên họ buộc phải tùy cơ ứng biến. Sau khi đợi khoảng phút, Mila và nhóm điều tra cùng với đội trưởng đội đặc nhiệm bước vào qua cửa chính. Gian phòng đầu tiên cực kỳ rộng lớn. Phía trước họ là hai cầu thang xoắn đôi dẫn lên tầng . Ô cửa sổ cao để lọt qua thứ ánh sáng leo lét. Những chủ nhân duy nhất của tòa nhà là vài con bồ câu hoảng hốt trước diện của người lạ. Chúng nháo nhác đập cánh bay quanh ô cửa sổ và hắt xuống nền nhà những cái bóng lao vun vút. Tiếng giày ủng của đơn vị đặc nhiệm lục soát từng căn phòng vang rền trong gian. - Trống! - Họ hô to mỗi khi căn phòng được xác nhận an toàn. Mila nhìn quanh, choáng ngợp bởi bầu khí siêu thực. Lại trường học nữa trong kế hoạch của Albert, nhưng rất khác với ngôi trường nội trú danh tiếng mà Debby Gordon từng học. - trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi. Tại đây, chí ít bọn trẻ cũng được bảo đảm có mái nhà và được giáo dục. - Stern bình phẩm. Nhưng Boris thấy cần phải chỉnh lại: - Người ta chỉ đưa vào đây những đứa trẻ bao giờ được nhận nuôi: con em của các tù nhân, hoặc có bố mẹ tự tử. Mọi người chờ đợi khám phá. Bất cứ thứ gì phá vỡ lời nguyền kinh hoàng cũng được chào đón. Miễn là nó giải đáp được nguyên nhân dẫn họ đến tận đây. Tiếng chân bước đột ngột dừng lại. Vài giây sau, giọng vang lên bộ đàm: - Thưa sếp, trong này có thứ gì đó... Thiết bị phát tín hiệu định vị được tìm thấy ở dưới hầm. Mila và những người khác cùng chạy đến nơi, ngang qua khu nhà bếp với những cái vạc sắt to tướng, rồi nhà ăn tập thể rộng mênh mông với những bộ bàn ghế gỗ phủ formica màu xanh lơ. leo xuống chiếc cầu thang xoắn hẹp cho đến khi thấy mình ở trong căn phòng rộng có trần thấp. Sàn nhà bằng đá hoa cương thoai thoải dốc về phía hành lang trung tâm là nơi nước bẩn đổ vào. Những cái bồn nằm dọc theo vách tường cũng đều bằng đá. - Chắc đây là xưởng giặt. - Stern . Các thành viên đội đặc nhiệm vây quanh trong số mấy cái bồn, cố làm xáo trộn trường. người gỡ bỏ mũ bảo hiểm và cúi gục xuống nôn thốc nôn tháo. ai muốn nhìn. Boris là người đầu tiên băng qua vòng người nom như hàng rào ngăn cách thứ biết là cái gì, nhưng lập tức dừng phắt lại, đưa tay lên bụm miệng. Sarah Rosa quay vội mặt . Stern buột miệng thốt lên: - Xin Chúa tha tội chúng con... Giáo sư Gavila vẫn bình thản. Mila là người cuối cùng khám phá tình. Anneke. Thi thể bé ngập trong vài centimet chất lỏng. Làn da như sáp bắt đầu có dấu hiệu phân hủy. bé hoàn toàn trần truồng. Trong bàn tay phải của em có chiếc máy phát tín hiệu định vị toàn cầu tiếp tục nhấp nháy, hắt ra thứ ánh sáng sinh động ngược đời giữa khung cảnh chết chóc. Anneke cũng bị cắt mất cánh tay trái và có lồng ngực biến dạng. Nhưng điều làm cho mọi người ghê sợ phải chi tiết đó, phải tình trạng của cái xác, cũng phải việc chứng kiến dung tục ngây thơ trước mắt họ. thứ khác gây ra cho họ cảm giác rùng rợn đó. Cái xác mỉm cười. 14 Cha Timothy chắc khoảng ba mươi lăm tuổi, với mái tóc vàng mềm mại, chải ngôi lệch. Cha run lẩy bẩy. Cha là người duy nhất sống ở đây. Cha Timothy sống trong dãy nhà xứ ở bên cạnh nhà thờ, những tòa nhà duy nhất trong giáo phận còn được sử dụng. Các tòa nhà còn lại đều bị bỏ từ nhiều năm trời. - Tôi ở đây là vì nhà thờ vẫn còn phụng Chúa. - Vị cha xứ trẻ trung, người tại chỉ làm lễ cho chính mình, giải thích. - ai đến đây cả. Khu ngoại ô nằm ở quá xa, và xa lộ lập hoàn toàn nơi này. Cha Timothy mới đến đây được sáu tháng để thay thế cho cha Rolf nghỉ hưu, và ràng là hoàn toàn biết gì về chuyện xảy ra. - Tôi chẳng bao giờ bước chân xuống đó. - Cha Timothy thú . - Tôi xuống đó làm gì kia chứ? Sarah Rosa và Mila là người đến thông báo cho cha Timothy về vụ đột kích. Cùng với thứ mà họ tìm thấy. Khi được biết về diện của cha Timothy, Goran quyết định cử hai người phụ nữ đến để hỏi chuyện. Rosa làm bộ như ghi chép vào quyển sổ tay, nhưng ràng là chẳng thèm bận tâm đến lời cha xứ . Mila cố gắng trấn an cha Timothy bằng cách rằng ai ép cha chuyện gì hết, và cũng ai trách cứ cha về điều xảy ra. - bé tội nghiệp! - Cha Timothy thốt lên, rồi bật khóc nức nở. - Khi nào cha cảm thấy sẵn sàng, xin mời cha xuống xưởng giặt để gặp chúng tôi. - Sarah Rosa , khơi lại nỗi kinh hãi của vị cha xứ. - Để làm gì kia? - Vì chúng tôi cần phải hỏi cha vài câu về chỗ này. Nó khác gì mê cung. - Nhưng tôi với hai rồi. Tôi hiếm khi vào trong đó, và tôi tin rằng... Mila cắt ngang: - Chuyện này chỉ mất có vài phút thôi ạ. Chúng tôi mang cái xác rồi. cố tình đưa chi tiết đó vào, vì hiểu cha Timothy muốn hình ảnh của bé kia bị ghi vào bộ nhớ của mình. Suy cho cùng, cha phải tiếp tục sống tại cái nơi ghê rợn này. Thế là đủ nhọc nhằn lắm rồi. - Tùy các vậy. - Cha xứ gật đầu ưng thuận rồi tiễn hai nữ cảnh sát ra cửa, miệng luôn bảo đảm là mình hợp tác. Lúc quay về với nhóm điều tra, Rosa trước Mila vài bước, ràng để giữ khoảng cách tồn tại giữa hai người. Nếu vào lúc khác Mila phản ứng lại khiêu khích đó, nhưng ở đây là phần của nhóm điều tra, và phải tôn trọng các luật lệ nếu muốn được yên thân làm việc. Sau vụ này tôi tính sổ với , Mila định bụng. Khi nghĩ như thế, nhận ra mình tin chắc chuyện này kết thúc, và ngày kia tấn tuồng ghê rợn này chỉ còn là quá khứ. Cõi người là thế, nghĩ bụng. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Những người chết được chốn xuống đất, và rồi cùng với thời gian mọi thứ tiêu tan. Chỉ còn là chút ký ức mơ hồ, điều bị gạt bởi bản năng tự bảo toàn trong mỗi người chúng ta. Với ai cũng vậy. Nhưng phải với , vì làm mọi cách để việc này được khắc ghi mãi mãi trong đầu mình. Người ta có thể thu được hàng đống thông tin từ trường vụ án, cả về động cơ cũng như nhân cách của kẻ sát nhân. Nếu như chiếc xe hơi của Bermann thể được xem là trường án mạng đúng nghĩa, ngược lại, thi thể thứ hai này cho phép điều tra thêm nhiều thứ về Albert. Vì thế, cuộc phân tích trường tỉ mỉ điều là rất cần thiết. Thông qua công việc đòi hỏi nỗ lực tập thể đó, họ xác định hơn kẻ sát nhân mà họ truy tìm. Mặc cho Sarah Rosa tìm cách gạt Mila ra khỏi nhóm, vẫn tìm thấy vị trí của mình trong dây chuyền công tác nhóm - gọi nó như thế khi được tham gia vào vụ phát thi thể đầu tiên trong xe hơi của Bermann - và bây giờ cả Boris lẫn Stern đều coi như người trong đội. Khi lực lượng đặc nhiệm ra về, Goran và nhóm điều tra bắt tay vào nghiên cứu xưởng giặt. trường được chiếu sáng bằng những ngọn đèn halogen đặt giá ba chân và nối với máy phát điện, vì trong tòa nhà có điện. Họ chưa đụng chạm vào bất cứ thứ gì, tuy vậy bác sĩ Chang bắt tay vào làm việc với cái xác. cầm theo chiếc va li đựng các món dụng cụ lạ mắt gồm ống nghiệm, thuốc thử hóa học và kính hiển vi. lấy mẫu thứ nước u mà cái xác được nhúng ngập phần. Krepp sắp sửa đến để lấy dấu vân tay. Nhóm điều tra có khoảng nửa giờ trước khi giao lại trường cho cảnh sát hình . - Cái chúng ta thấy phải là trường án mạng sơ cấp. - Giáo sư Goran nhìn nhận. cách khác, theo ông nó chỉ là trường thứ cấp, vì bé ràng chết ở nơi khác. Trong các vụ giết người hàng loạt, nơi tìm thấy nạn nhân quan trọng hơn nhiều so với nơi nạn nhân bị giết. Bởi lẽ, trong khi hành động giết chóc là thứ mà thủ phạm chỉ giữ cho riêng mình, mọi chuyện diễn ra tiếp sau đó đại để là kiểu chia sẻ kinh nghiệm. Thông qua những cái xác, tên sát nhân muốn thiết lập giao tiếp với các nhà điều tra. Nếu xét quan điểm này Albert là kẻ rất chuyên nghiệp. - Chúng ta cần phải đọc trường. Hiểu được thông điệp mà nó chứa đựng, và đối tượng mà nó nhắm đến. Ai muốn bắt đầu nào? Tôi xin nhắc lại, mọi ý kiến đều được chào đón, nên mọi người cứ thoải mái ra những gì có trong đầu. ai muốn làm trước. Có quá nhiều mối nghi ngờ trong đầu họ. - Có lẽ thủ phạm trải qua quãng đời thơ ấu trong nhi viện này. Có lẽ căm thù và oán hận của gã khởi nguồn từ đây. Cần phải xem các hồ sơ lưu trữ. - tình tôi nghĩ là Albert muốn tiết lộ thông tin cá nhân của gã cho chúng ta đâu Mila à. - Tại sao? - Vì tôi nghĩ gã muốn mình bị bắt... ít ra là tại thời điểm này. Xét cho cùng ta mới tìm được xác chết thứ hai thôi. - Có thể tôi nhầm, nhưng phải đôi khi bọn sát nhân hàng loạt muốn mình bị cảnh sát bắt bởi vì chúng cảm thấy thể tự mình dừng lại hay sao? - Nhảm nhí. - Sarah Rosa với giọng điệu khiêu khích thường lệ. - Đúng, việc bị bắt giữ thường là khao khát sau cuối của tên giết người hàng loạt. - Goran . - phải vì thể tự kiểm soát, mà chính xác hơn là việc bị bắt giúp bước ra ánh sáng. Thường kẻ giết người hàng loạt mắc chứng tự tôn quá mức, muốn được thừa nhận vì tầm vóc của công trình mà thực . Khi danh tính của chưa bị lộ còn chưa đạt được mục đích. Mila đồng tình, nhưng hoàn toàn bị thuyết phục. Goran ghi nhận điều đó, rồi quay sang với những người còn lại: - Có lẽ chúng ta phải ôn lại cách tiếp cận để tái dựng mối quan hệ giữa trường vụ án và phương thức ra tay của tên giết người hàng loạt. Đây là bài học dành cho Mila, nhưng thấy phiền lòng. Đó là cách để đưa trình độ của lên ngang bằng với các đồng nghiệp. Dựa phản ứng của Boris và Stern, tin rằng họ cũng muốn bị tụt lại. Stern là người lên tiếng trước. mà nhìn trực tiếp Mila vì muốn bị bối rối. - Tùy theo tình trạng của trường, chúng ta xếp kẻ giết người hàng loạt vào hai nhóm: “thiếu tổ chức” và “có tổ chức”. Boris tiếp: - Những kẻ thuộc nhóm đầu thường rất bê bối trong cuộc sống. Chúng thất bại trong các mối quan hệ cá nhân, có cuộc sống độc. Chúng có trí tuệ dưới trung bình, ít học, và làm những công việc đòi hỏi năng lực cao. Chúng là những kẻ yếu kém về mặt tình dục. Theo quan điểm này, chúng chỉ có những kinh nghiệm vụng về và thoáng qua. Goran tiếp lời: - Đó thường là những kẻ từng chịu giáo dục hà khắc lúc còn bé. Do vậy nhiều chuyên gia tội phạm học tin rằng chúng tìm cách trút lên các nạn nhân của mình những nỗi đau đớn và khổ sở mà chúng phải chịu đựng. Chúng nung nấu lòng căm hận và thù địch mà những người quanh chúng phải lúc nào cũng có thể nhận thấy. - Những kẻ thiếu tổ chức lập kế hoạch, mà hành động cách tự phát. - Rosa xen vào, muốn mình bị gạt ra khỏi cuộc thảo luận. - thiếu tổ chức trong hành vi gây án làm cho tên giết người lo lắng. - Goran giải thích. - Chính vì thế, có khuynh hướng hành động ở những địa điểm quen thuộc với mình, nơi cảm thấy thoải mái. Tâm trạng lo lắng, cộng với việc thể quá xa khiến phạm sai lầm, chẳng hạn như để lại những dấu vết làm bị bại lộ. - Nạn nhân của thường là những người xui xẻo có mặt đúng chỗ và đúng lúc. ra tay vì đó là cách duy nhất biết để liên hệ với người khác. - Stern kết luận. - Vậy còn những kẻ có tổ chức, chúng hành động thế nào? - Mila hỏi. - Trước tiên, rất ma mãnh. - Goran . - Khó mà nhận dạng được , vì nhập vai cách hoàn hảo là cá nhân bình thường, tôn trọng pháp luật. có chỉ số trí tuệ cao, làm tốt công việc của mình. Thường giữ vị trí quan trọng trong cộng đồng nơi sinh sống. chịu ngược đãi nào lúc còn . có gia đình thương mình. bất lực, và gặp vấn đề gì trong các mối quan hệ khác giới. giết người chỉ để mua vui. Lời khẳng định cuối cùng khiến Mila rùng mình. Nhưng phải là người duy nhất: bác sĩ Chang cũng lần đầu tiên ngừng tay để ngước mắt nhìn họ. Có lẽ cũng tự hỏi làm thế nào con người lại có thể có được khoái cảm trong khi gây đau đớn cho đồng loại. - Đó là kẻ săn mồi. lựa chọn nạn nhân, thường là xa nơi cư ngụ. tinh ranh và rất thận trọng. có thể tiên lượng diễn tiến của cuộc điều tra nhằm vào mình, và dự tính các bước hành động của điều tra viên. Do vậy rất khó bắt được thủ phạm: biết rút kinh nghiệm. Kẻ giết người có tổ chức luôn theo dõi, chờ đợi rồi ra tay. Hành động của có thể được lên kế hoạch trong nhiều ngày, thậm chí là nhiều tuần lễ. chọn nạn nhân, quan sát họ, len lỏi vào cuộc sống của họ để thu thập thông tin. luôn tìm cách thiết lập tiếp xúc, khoác lên mình cách hành xử hoặc điểm tương đồng nào đó để tạo dựng tin tưởng nơi nạn nhân. Để chế ngự họ, dùng lời lẽ hơn là vũ lực. Thành công của có được là do công sức quyến rũ. Mila quay để nhìn trường án mạng. Rồi : - trường vụ án của gã luôn sạch . Vì phương châm của gã là “kiểm soát”. Goran gật gù. - Có vẻ như nắm bắt được Albert rồi đấy. Boris và Stern mỉm cười. Sarah Rosa né tránh cái nhìn của Mila và làm ra vẻ như xem giờ, miệng lầm bầm rủa xả lãng phí thời gian của nhóm. - Thưa các vị, chúng ta có phát mới... Thành viên kín tiếng nhất của nhóm điều tra vừa lên tiếng. Bác sĩ Chang đứng dậy, trong tay cầm lam kính mà vừa quan sát dưới kính hiển vi. - Có chuyện gì vậy, Chang? - Giáo sư Gavila nôn nóng hỏi. Nhưng vị bác sĩ pháp y muốn tận hưởng khoảnh khắc này. Trong mắt lên chút đắc thắng. - Khi trông thấy cái xác, tôi tự hỏi vì sao nhúng nó trong nước... - Ta ở trong xưởng giặt. - Boris , như thể đó là điều hiển nhiên nhất quả đất. - Đúng, nhưng cũng như điện, nước thủy cục bị cắt từ nhiều năm rồi. Tiết lộ này khiến cho mọi người bất ngờ. Nhất là Goran. - Vậy nước này là nước gì? - Giáo sư, ông bình tĩnh nhé... Nó là nước mắt. 15 Con người là loài động vật duy nhất có khả năng khóc hoặc cười. Mila biết điều đó. Nhưng điều biết là mắt người sản sinh ra ba loại nước mắt. Nước mắt cơ bản, có tác dụng làm ẩm và nuôi dưỡng nhãn cầu. Nước mắt phản xạ, tự tiết ra khi có vật thể lạ rơi vào mắt. Nước mắt cảm xúc, kèm với đau đớn. Loại nước mắt sau cùng này có thành phần hóa học khác biệt: nó chứa hàm lượng cao mangan và prolactin, loại nội tiết tố. Trong thế giới của các tượng tự nhiên, mọi thứ đều có thể được tối giản hóa thành công thức, nhưng giải thích tại sao nước mắt do đau đớn có thành phần khác với các loại nước mắt còn lại là điều thể. Nước mắt của Mila chứa prolactin. Đó là bí mật của . biết thế nào là chịu đựng. cũng có được thấu cảm cần thiết để thấu hiểu được người khác và để cảm thấy mình độc giữa mọi người. Liệu có phải luôn như thế? Hay điều gì, ai đó làm mất khả năng ấy? Mila nhận ra điều đó khi cha qua đời. Lúc đó mới mười bốn tuổi. là người tìm thấy ông nằm bất động trường kỷ chiều hôm ấy. Trông ông như ngủ. Ít ra đó là những gì khi bị người khác cật vấn tại sao gọi cấp cứu ngay, mà để cả giờ đồng hồ trôi qua. ra Mila hiểu ra ngay còn làm gì được nữa. Nhưng kiện bi thảm đó làm mảy may xúc động. Điều khiến kinh ngạc là bất lực của trong việc tìm kiếm cảm xúc trước việc chứng kiến. Cha , người đàn ông quan trọng nhất cuộc đời , người dạy dỗ mọi điều, hình mẫu của , ra . Mãi mãi. Nhưng thấy tan nát cõi lòng. Lúc chôn cất ông, khóc. phải vì cái chết cuối cùng gây dựng được chút tuyệt vọng trong đầu , mà chỉ bởi đó là điều mà mọi người chờ đợi ở đứa con . Những giọt nước mắt cá sấu đó là kết quả của nỗ lực to lớn. Do ức chế, tự nhủ như thế. Đơn giản là ức chế. Chắc là do căng thẳng. Mình bị sốc mà. Chắc hẳn chuyện này cũng từng xảy đến với người khác. thử mọi cách. tra tấn bản thân với những hoài niệm về quá khứ để chí ít cũng tạo cho mình cảm giác có lỗi. Nhưng vô ích. tài nào lý giải được chuyện đó. Do vậy giấu mình trong im lặng thể xuyên phá, để cho người khác thắc mắc về trạng thái tinh thần của mình. Ngay đến mẹ sau vài lần cố gắng cũng đành bỏ cuộc trước bức tường u uất mà dựng lên. Mọi người tưởng đau đớn, gục ngã. Nhưng ra, khi giấu mình trong phòng, Mila tự hỏi vì sao chỉ có mong muốn duy nhất, đó là trở lại với cuộc sống thường nhật và chôn cất người cha quá cố trong tim nhanh nhất có thể. Theo thời gian, mọi chuyện vẫn thay đổi. Nỗi đau mất mát bao giờ xuất . có những đám tang khác. Bà , bạn học, mấy người họ hàng. Nhưng đối với họ, Mila cũng vẫn cảm thấy gì, ngoài mong muốn được quên cái chết của họ nhanh. có thể giãi bày chuyện này với ai đây? Người ta nhìn như con quái vật đáng được làm người. Chỉ có mẹ lúc gần đất xa trời là thoáng cảm thấy dửng dưng của con và bà rụt tay khỏi bàn tay , như thể bất ngờ cảm thấy nó lạnh lẽo. Khi những dịp đưa tiễn người thân về cõi vĩnh hằng hết, việc phải giả vờ có những cảm xúc mà có đối với những người xa lạ trở nên đơn giản hơn. Khi đến tuổi bắt đầu cần đến những cuộc tiếp xúc cá nhân, nhất là với người khác phái, lại gặp vấn đề. Mình thể cặp kè với cậu con trai nếu như thể thấu cảm người ta được, Mila cứ tự nhắc nhở mình như thế suốt. Trước đó, nhận ra vấn đề của mình khi biết được định nghĩa trong sách vở của chữ “thấu cảm”: đó là “khả năng hướng các cảm xúc của bản thân mình vào chủ thể để đồng cảm với chủ thể đó”. Khi ấy, đến gặp các nhà phân tích tâm lý lần đầu tiên. Vài người trong số họ biết phải trả lời như thế nào, những người khác bảo quá trình điều trị kéo dài và rất phức tạp, cần phải đào sâu nghiên cứu để tìm ra “căn nguyên tâm lý” và biết được luồng xúc cảm của bị gián đoạn ở chỗ nào. Nhưng tất cả đều nhất trí ở điểm: cần phải gỡ bỏ ức chế. làm phân tích tâm lý trong nhiều năm trời nhưng đạt kết quả. thay đổi bác sĩ điều trị nhiều lần, và có lẽ tiếp tục như thế mãi nếu như người trong số họ - kẻ vô liêm sỉ nhất, người mà biết ơn đời đời - huỵch toẹt ra với rằng: “ đau buồn hề tồn tại. Cũng như mọi cung bậc cảm xúc còn lại của con người. Hóa học cả thôi. Tình chỉ là vấn đề endorphiri, loại morphin nội sinh. Với mũi tiêm Pentothal, tôi có thể dẹp bỏ mọi đòi hỏi cảm xúc cho . Chúng ta chỉ là những cỗ máy bằng thịt”. Rốt cuộc cũng thấy lòng. Hài lòng , nhưng nhõm có! chẳng thể làm gì để thay đổi nó được nữa: cơ thể rơi vào chế độ “tự bảo vệ”, giống như số thiết bị điện tử khi bị quá tải và buộc phải bảo vệ mạch điện của chúng. Tay bác sĩ tâm lý kia cũng cho biết có số người ở thời điểm nào đó cảm thấy rất, rất đau buồn, hơn cả những gì mà con người có thể chịu được trong cả cuộc đời. Và họ thôi sống nữa, hoặc là tập làm quen với nó. Mila biết liệu có nên xem việc “tập làm quen” của mình là điều may mắn , nhưng cũng nhờ nó mà thành ra như bây giờ. người tìm trẻ con mất tích. Tìm ra phương thuốc hóa giải cho chịu đựng của những người khác là hành động bù đắp cho những gì mà bao giờ cảm nhận được. Lời nguyền bị dính phải bỗng trở thành năng lực của . Mila giải cứu lũ trẻ và đưa chúng về nhà. Chúng biết ơn . vài đứa còn gắn bó với tới mức sau này, khi lớn vẫn đến tìm để xin kể lại chuyện của chúng. Chúng cảm ơn quan tâm đến chúng. Tất nhiên thể tiết lộ rằng ra “ quan tâm” đó là gì, bất kể đứa nào được tìm thấy cũng vậy. có thể cảm thấy phẫn nộ về chuyện xảy đến với chúng, giống như bé số sáu trong vụ án này, nhưng chưa bao giờ cảm thấy “động lòng”. chấp nhận số mệnh của mình. Nhưng dù vậy cũng phải tự hỏi câu: liệu có khả năng được ai đó hay ? biết câu trả lời, Mila dọn sạch trái tim và tâm hồn của mình từ lâu. bao giờ có tình , người chồng hay bạn trai, con cái hoặc thậm chí là thú nuôi. Bởi bí mật của nằm ở chỗ có gì để mất. ai có thể lấy điều gì ở . Cách duy nhất giúp chui sâu vào trong đầu những người tìm là tạo ra quanh mình trống trải vây quanh họ. Nhưng ngày nọ, vấn đề nảy sinh. Đó là sau khi Mila giải phóng thằng bé khỏi móng vuốt của kẻ ấu dâm. bắt cóc thằng bé để chơi bời trong dịp cuối tuần. định thả thằng bé sau ba ngày, vì trong đầu óc bệnh hoạn của , hành động bắt cóc chỉ là “mượn tạm”. Tình trạng của thằng bé khi trả nó về với gia đình quan trọng đối với . tự bào chữa rằng mình bao giờ làm hại thằng bé. Vậy còn những thứ khác sao? định nghĩa cú sốc của việc bắt cóc như thế nào? giam giữ? bạo hành? Đó phải là toan tính tuyệt vọng nhằm tìm kiếm tính hợp pháp hóa cho điều mà làm, mà thực tin vào nó! Bởi thể đặt mình vào vị trí của nạn nhân. Rốt cuộc Mila hiểu ra, con người đó cũng bị giống như . Kể từ hôm ấy, xác định để cho tâm hồn mình bị thiếu thương hại, thứ giúp cảm nhận người khác và cuộc sống chung quanh. Nếu thể tự tìm thấy nó, tìm cách tạo ra nó. dối nhóm điều tra và giáo sư Gavila. ra biết rất về bọn sát nhân hàng loạt, hay chí ít là khía cạnh trong thái độ của chúng. ác dâm. Gần như luôn là thế, hành vi của kẻ sát nhân hàng loạt về căn bản có tàn ác rệt và sâu sắc. Các nạn nhân bị xem như “món đồ” mà việc sử dụng và hành hạ họ đem lại ưu thế cá nhân. Kẻ sát nhân hàng loạt thu được khoái cảm thông qua hành vi bạo hành những nạn nhân của mình. Thường người ta nhận thấy thủ phạm thể đạt được mối quan hệ chín chắn và trọn vẹn với người khác, vốn bị coi như đồ vật hơn là con người. Bạo lực do đó chỉ là khả năng tiếp cận duy nhất của hung thủ với phần còn lại của thế giới. Mình muốn bị như thế, Mila tự nhủ. Dù ý nghĩ cho rằng có vài điểm chung với những tên sát nhân biết thương xót là gì nữa cũng đủ khiến phát ốm. Sau khi phát ra thi thể của Anneke, lúc cùng với Rosa rời nhà cha Timothy, Mila lần nữa tự hứa rằng tối nay, khắc cốt ghi tâm những gì xảy ra với bé kia. Vì vậy, vào lúc cuối ngày, khi những người khác quay về studio để tổng hợp và sắp xếp lại các kết quả điều tra thu được, Mila quyết định ra ngoài vài tiếng. Thế rồi, như từng làm đôi lần trước kia, đến hiệu thuốc, mua mọi thứ cần thiết. Thuốc sát trùng, băng cá nhân, bông thấm nước, băng dính tiệt trùng, kim và chỉ khâu vết thương. Cùng với lưỡi dao lam. quay về phòng trọ cũ ở khu nhà nghỉ với ý định ràng trong đầu. chưa trả phòng và vẫn tiếp tục thanh toán tiền trọ chỉ với mục đích này. kéo rèm, bật chiếc đèn ngủ đầu giường, rồi ngồi xuống và trút những thứ vừa mua từ trong túi giấy lên nệm. xắn quần jean lên. Sau khi đổ ít thuốc sát trùng ra tay rồi xoa mạnh hai tay với nhau, dùng bông gòn thấm thuốc và bôi lên da đùi phải. Ở phía chỗ đó có vết sẹo cũ, hậu quả của lần thử vụng về trước đó. Nhưng lần này thất bại và làm tốt. dùng răng xé giấy bọc lưỡi lam. Kẹp lưỡi thép giữa các ngón tay, nhắm mắt, và hạ tay xuống. đếm đến ba, rồi vuốt lớp da đùi. cảm thấy lưỡi lam cứa vào trong thịt, di chuyển và tạo ra vết thương hở. Cơn đau thể xác bùng nổ trong tiếng thét câm lặng. Từ vết thương, nó chạy dọc theo thân thể , lên đến tận đỉnh đầu, xóa sạch mọi hình ảnh chết chóc trong đó. - Dành cho cháu đấy, Anneke. - Mila với im lặng. Và rồi, bật khóc. Nụ cười trong nước mắt. Đó là hình ảnh ấn tượng mà trường vụ án để lại. Tiếp đến là chi tiết thể bỏ qua: thi thể trần truồng của bé thứ hai được tìm thấy trong xưởng giặt. - Ý đồ của hung thủ liệu có phải là làm sạch tác phẩm của mình bằng nước mắt? - Roche hỏi như thế. Nhưng như thường lệ, giáo sư Goran Gavila tin vào những lối giải thích quá đơn giản. Cho đến lúc ấy, bộ óc giết người của Albert tỏ ra quá tinh xảo để có thể sa đà vào những chuyện tầm thường như thế. Gã tự cho rằng mình có đẳng cấp cao hơn bọn sát nhân hàng loạt trước đây. Tại studio, mệt mỏi lộ . Mila từ nhà nghỉ quay về lúc chín giờ tối với đôi mắt sưng húp, chân phải hơi kéo lê. Ngay lập tức vào trong phòng nằm xuống nghỉ lúc, chẳng buồn dọn giường và cởi quần áo. Tầm mười giờ, bị đánh thức bởi giọng thầm qua điện thoại của Goran ở ngoài hành lang. nằm yên, làm ra vẻ như ngủ. thực là dỏng tai lên nghe. tưởng đầu dây bên kia là vợ ông, nhưng hóa ra là bà vú nuôi hoặc là quản gia, mà ông gọi là “bà Runa”. Ông hỏi thăm bà ta về tin tức của Tommy, - vậy ra đó là tên thằng bé - xem liệu nó có bỏ làm bài tập về nhà, nó có hư hay . Goran ừ hử nhiều lần trong lúc nghe bà Runa báo cáo tình hình. Cuối mẩu đối thoại, ông hứa sáng hôm sau về nhà để chơi với Tommy vài tiếng. Mila nằm cuộn mình quay lưng về phía cửa, nhúc nhích. Khi Goran gác máy, có vẻ như ông dừng lại ngưỡng cửa chút và đưa mắt nhìn về phía . nhận ra điều đó khi thấy bóng ông hắt lên bức tường trước mặt mình. Chuyện gì xảy ra nếu quay người lại? Ánh mắt hai người chạm nhau trong bóng tối. Biết đâu ngượng ngập ban đầu nhường chỗ cho cảm giác khác. cuộc đối thoại câm lặng. Nhưng liệu đó có phải là điều thực cần hay ? Người đàn ông này có sức hút lạ lùng đối với . Cuối cùng quyết định xoay người lại. Nhưng Goran biến mất. nhanh chóng chìm lại vào giấc ngủ. Mila... Mila... Như tiếng thầm, giọng của Boris luồn lách vào trong giấc mơ đầy những thân cây tối thẫm và con đường hun hút. Mila mở mắt và nhìn thấy chàng cúi xuống mình chiếc giường gấp. đụng vào người để đánh thức dậy mà chỉ khẽ gọi tên . Nhưng mỉm cười. - Mấy giờ rồi? Tôi ngủ quên à? - , mới có sáu giờ sáng… Tôi đây. Giáo sư Gavila muốn tôi thẩm vấn vài người từng ở trong trại trẻ mồ côi. Tôi tự hỏi liệu có muốn cùng . Mila thấy bất ngờ trước lời đề nghị này. Nhưng nhận thấy lúng túng của Boris, hiểu đây phải là ý của . - Được, tôi . chàng cao to gật đầu, thầm cảm ơn bắt phải nài ép. Năm phút sau, hai người gặp nhau tại bãi đậu xe trước tòa nhà. Chiếc xe hơi nổ máy sẵn. Boris đứng đợi bên ngoài, lưng dựa vào xe, môi phì phèo điếu thuốc lá. mặc áo khoác sờn cũ dài gần đến đầu gối. Mila vẫn khoác chiếc áo da thường mặc. Trong lúc soạn đồ, nghĩ trời lạnh đến thế. Ánh mặt trời e ấp rọi xuyên qua các tòa nhà chỉ đủ làm ấm đôi chút các đụn tuyết ứ lại nơi góc đường, và tình hình cũng chẳng kéo dài: chiều nay dự báo có bão tuyết. - Lẽ ra nên mặc ấm hơn, thấy đấy. - Boris vừa vừa nhìn bằng ánh mắt lo lắng. - Vào thời điểm này trong năm, ở đây trời lạnh lắm. Trong xe ấm áp và dễ chịu. cái cốc nhựa và túi giấy đặt sẵn bảng điều khiển. - Cà phê và bánh sừng bò nóng à? - Tất cả là của đấy! - Boris đáp, trong đầu nhớ lại háu ăn của . lời đề nghị giảng hòa. Mila chấp nhận ngay bàn cãi. vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi: - Chúng ta đâu đây? - Tôi rồi: thẩm tra số học sinh cũ của nhi viện. Gavila tin rằng vụ dàn dựng với cái xác trong bể giặt phải chỉ để chúng ta xem cho vui. - Có thể nó gợi nhắc chuyện trong quá khứ. - Rất xa xưa, nếu quả thực là thế. May mắn là những chỗ như thế này còn tồn tại từ gần hai mươi tám năm nay, khi người ta thay đổi luật. Có chút gì đó đau đớn trong giọng điệu của Boris. thú nhận. - biết , tôi cũng từng vào nơi như thế này. Hồi đó tôi khoảng mười tuổi. Tôi chưa bao giờ biết bố mình là ai, mẹ tôi chỉ có mình nên thể xoay xở nuôi tôi được. Thế nên bà ấy đưa tôi vào chỗ như thế này trong thời gian. Mila biết phải gì. bối rối trước tiết lộ quá riêng tư đó. Boris hiểu ra ngay. - cần phải gì đâu. phải lo. Mà, hiểu sao tôi lại kể cho nghe chuyện này nhỉ. - Tôi xin lỗi, tôi phải là người cởi mở. Thường người khác thấy tôi là người lạnh lùng. - Tôi . Boris nhìn con đường. Giao thông bị chậm lại do sương giá vẫn còn bám mặt đường nhựa. Khói thải từ các ống xả lơ lửng trong trung. vỉa hè, mọi người bước vội vã. - Stern, cầu Chúa giữ cho ấy luôn như thế, tìm ra được tá cựu học viên của nhi viện. Chúng ta lãnh nửa, Rosa và ấy phụ trách phần còn lại. - Chỉ có chừng ấy thôi sao? - Trong chừng đó thôi. Tôi biết ông giáo sư có ý gì trong đầu, nhưng ông ấy cho rằng ta có thể rút ra được điều gì đó... ra họ có lựa chọn nào khác, và đôi khi cũng phải bấu víu vào thứ gì đó để tiếp tục cuộc điều tra. Sáng hôm ấy, họ thẩm vấn bốn học sinh cũ. Tất cả đều hai mươi tám tuổi, và có lý lịch tương đối bất hảo. nhi viện, trường giáo dưỡng, nhà tù, tại ngoại có quản thúc, xộ khám trở lại, tù treo. Chỉ có duy nhất người thoát ra khỏi vòng xoáy bùn lầy, nhờ vào nhà thờ: ông ta trở thành mục sư của trong số nhiều cộng đồng Tin lành trong vùng. Hai người khác sống trong chật vật. Người thứ tư bị giam giữ tại gia do hành vi buôn lậu. Nhưng khi họ nhắc đến quãng thời gian ở trong nhi viện, Mila và Boris đều nhận thấy họ đột ngột đổi giọng. Những kẻ từng vào tù ra khám nhiều lần nhưng sao quên được chốn ấy. - có để ý nét mặt họ ? - Mila hỏi bạn đồng nghiệp sau chuyến viếng thăm thứ tư. - có nghĩ điều gì đó rất khủng khiếp từng xảy ra trong nhi viện này, giống như tôi ? - Chỗ này cũng khác gì những nơi khác, tin tôi . Nhưng tôi nghĩ có gì đó liên hệ với thời thơ ấu của gã. Khi ta lớn, mọi thứ trôi tuột , kể cả những điều tồi tệ nhất. Nhưng ở vào tuổi ấy, những kỷ niệm ăn sâu vào trong xương tủy và nằm nguyên trong đó. Cứ mỗi lần họ thuật lại việc phát ra cái xác trong bể giặt với mọi cẩn trọng cần thiết, những học sinh cũ của nhi viện đều lắc đầu. Hình ảnh ghê rợn đó chẳng lên điều gì với họ. Sau nửa ngày, Mila và Boris dừng lại ăn qua quýt món bánh mì kẹp cá ngừ và uống cà phê. Bầu trời trở nên nặng trĩu. Các nhà khí tượng học nhầm: trời lại sắp đổ tuyết. Họ còn phải gặp hai người nữa trước khi thời tiết trở nên quá xấu và chặn mất đường về. Họ quyết định bắt đầu với người ở xa nhất. - Ông ta tên là Feldher, sống cách đây khoảng ba chục cây số.
Boris có tâm trạng vui vẻ. Mila định tận dụng cơ hội để hỏi han chút về Goran. Ông giáo sư khiến tò mò: dường như với ông thể có cuộc sống riêng, với vợ và con trai. Đặc biệt, vợ ông là số thực . Nhất là sau cuộc chuyện điện thoại mà Mila nghe được đêm hôm qua. Vợ ông ở đâu? Tại sao bà ấy có mặt ở nhà để chăm sóc cậu con trai Tommy? Tại sao lại có bà Runa thế vào chỗ của bà ấy? Biết đâu Boris có câu trả lời cho những câu hỏi đó? Nhưng Mila tìm được cách để đề cập tới thắc mắc của mình, nên đành bỏ cuộc. Hai người đến nhà của Feldher khi đồng hồ vừa chỉ hai giờ chiều. Họ cố gọi điện thoại để báo trước, nhưng chỉ nhận được câu trả lời tự động rằng số điện thoại họ gọi tồn tại. - Có vẻ ông bạn của chúng ta gặp chút khó khăn. - Boris bình phẩm. Khi nhìn thấy nơi ở của ông ta, họ có lời khẳng định. Căn nhà, nếu người ta có thể gọi đó là nhà, nằm ở giữa bãi phế liệu, chung quanh toàn những xác xe. con chó có bộ lông hung nom như bị han gỉ giống những thứ xung quanh chào đón hai người bằng tiếng tru khàn khàn. người đàn ông tầm bốn mươi xuất ngưỡng cửa. Ông ta mặc độc chiếc áo thun bẩn thỉu và quần jean, dù trời rất lạnh. - Ông là Feldher? - Phải... còn mấy người là ai? Boris dùng tay phải giơ thẻ cảnh sát ra. - Chúng ta có thể chuyện được ? Feldher có vẻ chào đón chuyến viếng thăm, nhưng vẫn ra hiệu cho họ bước vào. Ông ta có cái bụng to đùng và những ngón tay vàng ệch vì thuốc lá. Bên trong, căn nhà cũng giống với chủ nhân của nó, dơ dáy và bừa bãi. Ông ta cho họ uống món trà nguội trong hai cái cốc cọc cạch, đoạn châm điếu thuốc và ngồi xuống chiếc ghế dài ọp ẹp, nhường cho khách chiếc xa lông. - Hai người may lắm mới tìm được tôi đấy. Thường tôi làm... - Vậy sao hôm nay ông ? - Mila thắc mắc. Ông ta nhìn ra bên ngoài. - Tuyết. Thời tiết thế này làm lụng thế quái nào được. Tôi mất hàng mấy ngày trời rồi. Mila và Boris cầm cốc trà lên, nhưng uống. Feldher tỏ ra phật ý. - Vậy sao ông thử đổi công việc? - Mila dò hỏi, cố làm ra vẻ quan tâm để tạo tiếp xúc thân thiện. Feldher thở dài. - Tôi có thử đấy chứ! Hai người tưởng tôi hả? Nhưng rồi có ra cái trò gì đâu, y như con mụ vợ nhà tôi. Nó tếch tìm chỗ tốt hơn rồi. Ngày nào nó cũng lải nhải cái điệp khúc là tôi chẳng làm được trò trống gì. Giờ nó làm bồi bàn và ở ghép với hai đứa đần độn giống như nó. Tôi biết mà. Mấy người biết , chỗ đó do cái nhà thờ mà nó theo quản lý đó! Bọn họ bảo nó là ngay cả con hầu vứt như nó cũng có chỗ thiên đàng cơ đấy! Hai người có thấy ? Mila nhớ nhìn thấy chừng tá nhà thờ tân giáo như ông ta đường . Tất cả đều có những tấm bảng gắn đèn nêông to tướng đề tên giáo phận và câu biểu ngữ của họ. Từ nhiều năm nay, các nhà thờ này mọc lên như nấm trong vùng, thu hút những người cải đạo, chủ yếu là đám công nhân thất nghiệp dạt ra từ các khu công nghiệp lớn, những bà mẹ đơn thân và những người thất vọng với nhà thờ truyền thống. Mặc dù có tuyên ngôn khác nhau, nhưng các nhà thờ này vẫn có chung gắn bó với thuyết sáng tạo, bài trừ đồng tính, phản đối phá thai, khẳng định nguyên tắc theo đó mỗi cá nhân đều có quyền sở hữu vũ khí và hoàn toàn ủng hộ án tử hình. Mila tự hỏi Feldher phản ứng như thế nào khi họ cho ông ta biết là trong số các bạn học cũ của ông ta ở nhi viện nay trở thành mục sư của trong các nhà thờ kia. - Lúc hai người tới, tôi tưởng là người của bọn kia. Bọn nó tới tận đây để thuyết giáo cơ đấy! Hồi tháng rồi, con mụ vợ tôi, cái con điếm ấy, nó cử hai đứa đến để thuyết phục tôi cải đạo đấy! Ông ta cười hềnh hệch, để lộ hai hàm răng sâu. Mila thử tìm cách lái câu chuyện ra khỏi đề tài hôn nhân bằng câu hỏi dò: - Trước khi lao động ông làm nghề gì? - Hai người tin nổi đâu... - Ông ta bật cười, đưa mắt nhìn đống rác rưởi chung quanh mình. - Tôi từng có tiệm giặt . Hai cảnh sát viên cố nhìn nhau để lộ ra cho Feldher thấy là điều ông ta tiết lộ đáng quan tâm tới mức nào. Mila nhận thấy Boris lướt tay qua hông và mở bao súng. nhớ lại khi đến nơi nhận ra chỗ này có sóng di động. Do biết gì nhiều về người đàn ông trước mặt, họ buộc phải thận trọng. - Ông từng tù, phải ? - Mấy cái tội vặt vãnh thôi mà. Chẳng khiến người tử tế phải mất ngủ đâu. Boris tỏ ghi nhận thông tin này, đồng thời nhìn Feldher chằm chằm để khiến ông ta nao núng. - Này, tôi giúp gì được cho mấy người đây? - Người đàn ông hỏi, buồn che giấu bực dọc. - Chúng tôi biết hồi còn ông trải qua phần lớn thời gian trong nhi viện. - Boris thận trọng vào đề. Feldher nhìn dò xét, vẻ nghi ngờ: cũng như những người kia, ông ta nghĩ đến việc bị hai cảnh sát đến làm phiền chỉ vì lý do đó. - Những năm tốt nhất đời tôi đó. - Ông ta cách hằn học. Boris giải thích cho ông ta hiểu lý do đưa và Mila đến tận đây. Feldher có vẻ hài lòng khi được nghe các chi tiết trước cả cánh báo chí. - Tôi có thể kiếm bộn tiền nếu tuồn tin này ra cho đám nhà báo. - Ông ta chỉ có thế khi nghe xong. - Cứ thử , chúng tôi bắt ông ngay lập tức. - Boris vừa vừa nhìn xoáy vào mặt ông ta. Nụ cười gương mặt Feldher tắt ngóm. Boris cúi người tới trước, về phía ông ta. Đó là kỹ thuật thẩm vấn mà ngay cả Mila cũng biết. Trừ phi có mối liên hệ tình cảm hoặc đặc biệt thân mật, người ta luôn phải tôn trọng ranh giới vô hình với người đối thoại. Tuy nhiên, thẩm vấn viên luôn áp sát đối tượng được hỏi để xâm nhập vào vùng gian riêng tư của ta, khiến ta lúng túng. - Ông Feldher, tôi tin chắc là ông rất thích giỡn mặt đám cảnh sát đến tìm ông bằng cách rót cho họ món trà pha nước tiểu của mình, để ông khoái trá nhìn họ đần mặt ngồi cầm cốc mà dám uống. Feldher lời nào. Mila nhìn Boris, tự hỏi liệu có hành động đúng trong tình trạng này. Họ biết ngay thôi. Boris bình tĩnh đặt cốc trà xuống cái bàn thấp, rồi nhìn thẳng vào mắt Feldher trở lại. - Bây giờ tôi muốn ông kể lại khoảng thời gian ông sống trong trại mồ côi... Feldher cụp mắt, lí nhí : - Có thể là tôi được sinh ra trong đó. Tôi chẳng bao giờ biết ba mẹ mình là ai. Bọn họ đưa tôi đến đó ngay khi tôi mới chào đời. Tên tôi là do cha Rolf đặt cho. Ông ấy bảo cái tên ấy thuộc về người ông biết và hy sinh trong chiến tranh. Tôi tự hỏi làm sao ông cha xứ điên rồ đó lại nghĩ rằng cái tên mang đến xui xẻo cho người khác có thể mang lại hạnh phúc cho tôi kia chứ! Bên ngoài, con chó lại sủa khiến Feldher quay ra bắt nó im tiếng: - Yên nào Koch! - Feldher quay lại nhìn hai cảnh sát. - Hồi trước tôi có đầy chó. Cái chỗ này là bãi rác. Lúc tôi mua nó, người ta bảo đảm là nó được tẩy uế. Nhưng cứ lâu lâu thứ gì đó lại xì ra: nước rỉ rác cùng với đủ thứ bẩn thỉu khác, nhất là khi trời mưa. Lũ chó uống vào, bụng chúng trương lên rồi vài ngày sau chết. Tôi chỉ còn mỗi con Koch, nhưng tôi nghĩ nó cũng sắp ngoẻo rồi. Feldher tìm cách đánh trống lảng. Ông ta muốn quay trở lại nơi có lẽ định đoạt số mệnh của mình. Bằng câu chuyện về cái chết của đàn chó, ông ta cố gắng đấu dịu với hai cảnh sát viên để được yên thân. Nhưng Boris và Mila chịu bỏ cuộc. - Tôi muốn ông nỗ lực lần này, ông Feldher... - Mila , cố gắng tỏ ra thuyết phục. - Thôi được, ... - Tôi muốn ông cho chúng tôi biết đối với ông, hình ảnh “cười trong nước mắt” gợi cho ông nghĩ đến điều gì. - Cái này giống trò của bọn bác sĩ tâm thần chứ gì? kiểu kết hợp hú họa hả? - Đại loại thế. - Mila đồng tình. Feldher ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt hướng lên trần nhà, tay gãi cằm. Ông ta muốn làm ra vẻ hợp tác, hoặc cũng có thể hiểu hai cảnh sát thể buộc tội mình vì “ém nhẹm chuyện cũ” nên tìm cách chế giễu họ. - Billy Moore. - Cuối cùng Feldher . - Ai vậy? trong đám bạn học của ông hả? - À, thằng rất đặc biệt! Nó vào nhi viện năm chín tuổi. Lúc nào nó cũng vui vẻ cười đùa. Nó nhanh chóng trở thành người đem lại may mắn cho tụi tôi... Hồi đó, nhi viện bắt đầu đóng cửa. Chúng tôi chỉ còn có mười sáu người cả thảy. - Cả chỗ rộng lớn như thế chỉ để cho nhúm trẻ em thôi sao? - Ngay cả các cha xứ cũng ra ! Chỉ mình cha Rolf là còn ở lại… Tôi là trong những đứa lớn nhất, lúc đó tôi mười lăm tuổi, tầm đó... Chuyện của Billy buồn lắm. Ba mẹ nó treo cổ tự tử. Nó phát ra họ. Nó khóc, cũng kêu cứu, mà chỉ bắc ghế leo lên và gỡ xác họ từ trần nhà xuống. - Kinh nghiệm nhớ đời. - phải với Billy. Nó luôn vui vẻ. Nó thích ứng được với những điều tồi tệ nhất. Đối với nó, mọi thứ chỉ là trò chơi. Tụi tôi chưa từng thấy cái gì như thế. Với đám trẻ chúng tôi, chỗ đó là nhà tù, nhưng Billy mặc kệ. Nó rất năng động, tôi biết phải thế nào nữa... Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi! “Tôi là Billy Moore, tường thuật trực tiếp trận chung kết cúp bóng đá thế giới từ sân vận động Aztec, thủ đô Mexico...” Vào hôm sinh nhật của nó, chúng tôi hùn nhau mua tặng nó cái máy ghi ! Đúng là cá gặp nước: nó dành hàng giờ để thu rồi ngồi nghe nghe lại! Feldher bắt đầu huyên thuyên và lạc chủ đề. Mila cố đưa ông ta trở lại: - Ông hãy kể cho chúng tôi nghe về những ngày tháng cuối cùng trong nhi viện của ông... - Như tôi , nó sắp sửa bị đóng cửa, chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: được nhận nuôi, hoặc là sang những tổ chức khác, các mái ấm tình thương chẳng hạn. Nhưng chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mồ côi loại hai, chẳng ai muốn nhận về. Billy khác, người ta xếp hàng nhận nuôi nó! Tất cả mọi người đều quý mến và muốn có nó! - Mọi chuyện kết thúc như thế nào? Billy có tìm được gia đình tử tế ? - Billy chết rồi. Feldher câu đó với thất vọng não nề đến nỗi tưởng như đó là định mệnh của chính ông ta. Mà có lẽ là thế : thằng bé kia giống như cứu chuộc cho những đứa bạn của nó. Rốt cuộc cũng có đứa có khả năng thoát ra khỏi nhi viện. - Chuyện xảy ra thế nào? - Boris hỏi. - Viêm màng não. Feldher sụt sịt, mắt hơi ươn ướt. Ông ta quay về phía cửa sổ, vì muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt người lạ. Mila chắc chắn là khi và Boris khỏi, những hồi ức về Billy vẫn tiếp tục ùa vào căn nhà này như bóng ma. Nhưng cũng nhờ những giọt nước mắt, Feldher thuyết phục được họ. Mila thấy Boris rời tay khỏi bao súng. Ông ta là người vô hại. - Bệnh viêm màng não đem Billy . Do sợ nó thành dịch, người ta lập tức đem chúng tôi ra khỏi chỗ đó... trong cái rủi cũng có cái may, nhỉ? - Feldher cười gằn. - Họ ân xá cho chúng tôi, theo cách nào đó! Và cái lỗ cống đó bị đóng cửa sáu tháng trước dự kiến. Lúc hai người đứng dậy ra về, Boris hỏi lại lần nữa: - Ông có gặp lại ai trong đám bạn cũ ? - , nhưng cách đây khoảng hai năm tôi có gặp lại cha Rolf. - Bây giờ ông ta nghỉ hưu. - Chỉ mong ông ta xuống lỗ cho rồi. - Tại sao? - Mila hỏi, nghĩ đến điều tệ hại nhất. - Ông ta làm gì ông à? - hề. Nhưng khi trải qua cả thời thơ ấu trong nơi như thế, buộc lòng người ta phải căm ghét tất cả những gì khiến họ nhớ lại nó. suy nghĩ khác mấy so với Boris. Bất giác gật gù đồng tình. Feldher tiễn họ ra cửa. Ông ta cúi xuống bàn và cầm lấy chỗ trà nguội mà Boris uống, đưa lên môi nốc cạn. Rồi ông ta nhìn họ cách đắc thắng: - Chúc ngày tốt lành. tấm ảnh cũ của nhóm học sinh cũ - những đứa trẻ cuối cùng từng sống ở nhi viện trước khi nó bị đóng cửa - được tìm thấy tại nơi ngày trước vốn là văn phòng của cha Rolf. Trong số mười sáu đứa trẻ đứng cùng cha Rolf, chỉ có đứa mỉm cười trước ống kính. nụ cười trong nước mắt. Đôi mắt lanh lợi, mái tóc rối bù, chiếc răng cửa bị khuyết, vệt dầu mỡ chiếc áo phông xanh nom giống như chiếc huy chương. Billy Moore mãi mãi nằm lại trong bức ảnh và khu nghĩa trang cạnh nhà thờ của nhi viện. Nó phải là đứa trẻ duy nhất được chôn tại đó, nhưng ngôi mộ của nó là cái đẹp nhất. bức tượng thiên thần bằng đá giương cánh trong tư thế bảo vệ thằng bé. Sau khi nghe báo cáo của Mila và Boris, giáo sư Gavila cầu Stern thu thập tất cả những tài liệu có liên quan đến cái chết của Billy. thực công việc bằng nhiệt tình thường lệ, và trong khi phân tích hồ sơ, phát trùng hợp lý thú. - Đối với loại bệnh có khả năng lây lan như viêm màng não, việc báo cáo cho nhà chức trách là bắt buộc. Người bác sĩ ký vào biên bản báo cáo do cha Rolf viết cũng chính là người viết giấy chứng tử. Hai giấy tờ này được ký cùng ngày. Goran ngẫm nghĩ: - Bệnh viện gần nhất cách đây ba mươi cây số. Khó có chuyện ông ta cất công đến tận nơi để tự mình xác nhận. - Ông ta tin tưởng vào lời của cha xứ. - Boris . - Vì nhìn chung các cha bao giờ dối... phải lúc nào cũng thế, Mila nghĩ bụng. Gavila còn nghi ngờ nữa. - Ta cần phải khai quật ngôi mộ. Tuyết rơi từng bông xíu, như thể dọn đường cho trận rơi tiếp theo. Do vậy, họ cần phải nhanh tay lên. Đội đào huyệt của bác sĩ Chang làm việc. Nhờ trợ giúp của chiếc máy xúc, họ đào xuống lớp đất đông cứng vì lạnh. ai nửa lời. Thanh tra Roche được thông báo về diễn tiến của vụ án và bận xua đuổi cánh báo chí sôi sục trở lại. Có lẽ Feldher quả thử đồn đoán dựa những gì được hai cảnh sát kể cho, nhưng vẫn tránh tiết lộ quá nhiều. Thêm vào đó, như Roche vẫn luôn : “Khi biết chuyện, truyền thông dựng chuyện”. Do vậy họ cần phải gấp rút hơn trước khi có ai đó quyết định bù khuyết vào im lặng này bằng những thứ vớ vẩn được dựng lên. Đến lúc đó rất khó để bác bỏ mọi thứ. tiếng thịch vang lên. Máy xúc cuối cùng chạm phải thứ gì đó. Đội của Chang trèo xuống hố và bắt đầu đào bới bằng tay. tấm vải bạt được phủ lên quan tài để làm chậm quá trình phân hủy. Họ cắt nó ra. Qua vết cắt, có thể nhìn thấy nắp của cỗ áo quan màu trắng . - Nó mục rữa hết cả rồi. - Bác sĩ Chang sau khi quan sát nhanh. - Nếu nhấc nó lên, ta có nguy cơ làm nó vỡ vụn. Chưa kể tuyết làm mọi thứ lộn xộn hết cả. - thêm với giáo sư Goran và chờ nghe quyết định của ông. - Thôi được, mở nó ra . ai chờ đợi việc ông quyết định mở quan tài tại chỗ. Do đó đội của Chang trải tấm vải dầu cái hố, dùng mấy cái cuốc căng nó ra như mái che lớn để bảo vệ trường khai quật. mặc vào người chiếc áo chẽn có gắn đèn vai, rồi leo xuống hố dưới cái nhìn của thiên thần đá. kỹ thuật viên dùng ngọn lửa hàn xì nung chảy mối hàn bằng kẽm của cỗ áo quan. Nắp quan tài bắt đầu nhúc nhích. Làm sao người ta có thể đánh thức đứa trẻ chết từ mười tám năm trước? Mila tự hỏi. Billy More lẽ ra xứng đáng với buổi lễ nho , hoặc vài lời cầu nguyện. Nhưng ai muốn và cũng chẳng có thời gian cho việc đó. Khi Chang mở nắp quan tài, họ phát ra phần còn lại của thằng bé Billy tội nghiệp trong bộ trang phục của lễ ban thánh thể. Lịch lãm, với càvạt có ghim kẹp và quần dài gấu lơvê. Trong góc quan tài là đôi giày trượt han gỉ và chiếc máy ghi cũ. Mila nhớ lại lời kể của Feldher: “Nó có hai niềm đam mê lớn: đôi giày có bánh xe mà nó hay dùng để trượt qua các hành lang vắng vẻ, và các trận bóng đá! Nhưng nó thích đá bóng. Nó chỉ thích ngồi làm bình luận viên tại chỗ thôi”. Đó là tất cả những gì mà Billy sở hữu. Chang bắt đầu dùng dao mổ cắt lớp vải quần áo ở đôi chỗ. Mặc dù tư thế được thoải mái, các thao tác của vẫn rất mau lẹ và chính xác. kiểm tra tình trạng của bộ xương, rồi quay ra tuyên bố với những người còn lại: - Có rất nhiều vết gãy. Tôi thể khẳng định thời điểm của chúng... Nhưng theo tôi nghĩ, thằng bé này chắc chắn chết vì viêm màng não.
16 Sarah Rosa đưa cha Timothy vào trong chiếc xe cắm trại di động, Goran và mọi người đợi ở đó. Cha Timothy vẫn chưa hết vẻ lo lắng. - Chúng tôi cần cha giúp cho việc. - Stern mở lời. - Chúng tôi muốn được chuyện ngay với cha Rolf. - Tôi rồi mà, ông ấy nghỉ hưu. Tôi biết ông ấy ở đâu. Lúc tôi đến đây, khoảng sáu tháng trước, tôi chỉ gặp ông ấy trong vài giờ đồng hồ, đủ để nghe các lời dặn dò. Ông ấy giảng giải cho tôi số việc, trao lại vài thứ giấy tờ, chìa khóa, rồi ra . Boris quay sang Stern : - Có lẽ chúng ta phải liên lạc trực tiếp với tòa thánh thôi. Theo , họ đưa các cha nghỉ hưu đâu? - Tôi nghe có dạng như nhà dưỡng lão dành cho họ. - Có thể, nhưng... Cả hai quay sang cha Timothy. - Cha bảo sao ạ? - Stern hỏi. - Tôi nhớ là cha Rolf có ý định đến sống với người em ... Phải rồi, ông ấy bảo hai em sàn sàn tuổi nhau, và bà ấy lập gia đình. Cha xứ có vẻ hài lòng vì rốt cuộc cũng đóng góp được chút ít cho cuộc điều tra và tìm cách trợ giúp họ mà trước đó ông từng từ chối. - Tôi chuyện với tòa thánh, nếu các vị muốn. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy cũng khó để tìm ra cha Rolf. Và tôi cũng có ý khác nữa. Vị cha xứ trẻ tuổi có vẻ như bình tâm hơn. Goran : - Cha giúp cho chúng tôi rất nhiều, và để chúng tôi đỡ phải đối mặt với những ồn ào vô ích xoay quanh việc diễn ra tại đây. Tôi nghĩ tòa thánh phiền lòng đâu. - Tôi cũng nghĩ thế. - Cha Timothy thừa nhận. Khi cha Timothy rời khỏi xe, Sarah Rosa liền với giáo sư Goran bằng vẻ băn khoăn lộ : - Nếu chúng ta nhất trí rằng cái chết của Billy phải là tai nạn tại sao ông xin lệnh bắt cha Rolf? ràng trong chuyện này có điều gì uẩn khúc! - Có, nhưng ông ta phải là người chịu trách nhiệm trong vụ giết hại thằng bé. Mila nhận ra giáo sư Goran lần đầu tiên sử dụng từ “giết hại”. Những chỗ gãy xương của Billy chỉ cho thấy đó là cái chết thương tâm, nhưng có bằng chứng nào chứng tỏ nó là do người khác gây ra. - Làm thế nào ông tin chắc cha Rolf phải thủ phạm? - Sarah Rosa hỏi tiếp. - Cha Rolf chỉ là người phát vụ việc. Ông ta dựng lên việc Billy chết vì viêm màng não để ai liều mạng tìm hiểu sâu hơn, do sợ lây nhiễm. Thế giới bên ngoài lo liệu phần còn lại: chẳng ai buồn quan tâm đến mấy đứa trẻ mồ côi này. cũng thừa hiểu điều đó mà, phải ? - Hơn nữa, nhi viện lúc đó chuẩn bị đóng cửa. - Mila thêm. - Cha Rolf là người duy nhất biết được , do đó chúng ta cần phải gặp ông ta. Nhưng tôi e là nếu chúng ta mang lệnh bắt giữ đến... ta hoàn toàn có thể để tuột mất ông ta. Ông ta già, và rất có thể quyết định đem câu chuyện này xuống mồ. - Vậy, ta phải làm sao đây? - Boris nôn nóng hỏi. - Đợi cha Timothy đem tin tức về à? - Dĩ nhiên là . - Nhà tội phạm học đáp, đoạn ông cúi xuống nhìn sơ đồ tòa nhi viện mà Stern lấy từ trong văn phòng địa bạ. Ông chỉ cho Rosa và Boris chỗ đó. - Hai người đến tòa nhà phía đông. Đây này. Ở đấy có tàng thư lưu trữ tất cả hồ sơ về những đứa trẻ mồ côi từng ở nhi viện cho đến khi nó ngừng hoạt động. Dĩ nhiên chúng ta chỉ quan tâm đến nhóm mười sáu đứa trẻ sau cùng. Goran đưa cho họ tấm ảnh chụp nhóm trẻ với nụ cười rạng rỡ của Billy Moore. Ông lật tấm hình lại, phía mặt sau bức ảnh có chữ ký của tất cả những đứa trong ảnh. - Hãy đối chiếu những cái tên. Chúng ta cần tìm đứa trẻ có hồ sơ bị thiếu... Boris và Rosa nhìn nhau kinh ngạc. - Làm sao ông biết bị thiếu mất hồ sơ? - Vì Billy Moore bị giết hại bởi trong số những đứa bạn học của nó. cùng tấm ảnh chụp có Billy cười tươi tắn, Ronald Dermis là đứa thứ ba từ trái sang. Thằng bé lên tám. Điều đó có nghĩa nó là cục cưng trước khi Billy đến nhi viện. Đối với đứa trẻ, ghen tỵ là lý do đủ mạnh để cầu cho ai đó chết cho khuất mắt. Nó rời nhi viện cùng lúc với những đứa khác, và quan liêu làm lạc mất dấu tích thằng bé. Nó được nhận nuôi chăng? Khó có khả năng đó. Có lẽ nó vào mái ấm tình thương. Đó là bí . Gần như chắc chắn lần nữa, bàn tay của cha Rolf đứng sau khiếm khuyết thông tin này. Cần phải tìm cho ra ông ta. Cha Timothy bảo đảm là tòa thánh lo liệu việc đó. “Em cha Rolf qua đời. Cha liền cầu được trở lại làm thường dân”. Như vậy ông ta trả lại áo tu. Có lẽ do cảm giác hối hận sau khi bao che cho vụ sát hại, hoặc cũng có thể do phát ra điều nghiệt ngã rằng, cái ác hoàn toàn có thể khoác cho mình diện mạo của đứa trẻ. Giả thiết này, cùng với những cái khác, khiến cả nhóm điều tra bối rối. - Tôi vẫn mình nên phát động cuộc săn người thế kỷ, hay ngược lại nên chấp nhận để ông hạ cố ban cho tí chút giải thích đây! Giọng của Roche làm cho các bức vách thạch cao trong phòng làm việc của ông rung lên. Nhưng trước mối lo ngại của ông chánh thanh tra, giáo sư Goran tỏ ra khá bình thản. - Tất cả mọi người đều nhắm vào tôi vì con bé số sáu kia. Họ bảo chúng ta chưa làm tới nơi tới chốn! - Chúng ta chưa tìm ra bé chừng nào mà Albert chưa đưa ra manh mối. Tôi vừa gọi điện cho Krepp, ta bảo trường sạch . - Ít ra hãy cho tôi biết liệu ông có nghĩ Ronald Dermis và Albert là người hay ! - Chúng ta phạm cùng sai lầm như trường hợp của Alexander Bermann. Cho đến thời điểm này, tôi giữ lại mọi kết luận. Roche quen bị lên lớp về cách điều tra của mình. Nhưng lần này ông phải chấp nhận. - Nhưng chúng ta thể ngồi đó đợi cho tên điên kia dẫn chúng ta đến nơi gã muốn. Chúng ta thể cứu con bé theo cách đó! Nếu giả dụ nó còn sống. - Chỉ có người có thể cứu bé, chính là gã. - Ông thực tin gã ta tự mình giao nộp con bé hay sao? - Tôi chỉ là sớm hay muộn, biết đâu gã cố tình phạm sai lầm. - Chó chết! Nhưng ông tưởng tôi có thể sống nhờ hy vọng trong khi mọi người ngoài kia muốn tuốt xác tôi ra à? Tôi muốn có kết quả, thưa giáo sư! Goran quen với những cơn tam bành của Roche. Chúng chỉ nhằm vào ông. Ngài chánh thanh tra tức tối với tất cả mọi người. Đó là mặt trái của nghiệp: khi ta có chức vị quá cao, luôn có ai đó muốn kéo ta xuống dưới. - Thời gian vừa qua tôi hứng khá nhiều thứ bẩn thỉu, và phải tất cả đều nhằm vào tôi đâu nhá. Goran biết cách giữ kiên nhẫn, nhưng ông hiểu phải lúc nào Roche cũng làm được như thế. Do vậy ông thử đưa ra chi tiết để cho mình yên thân. - Ông muốn tôi ra điều khiến tôi điên đầu ? - Bất cứ cái gì giúp đưa tôi ra khỏi cái ngõ cụt này. Xin ông đấy. - Tôi chưa điều này với ai, cho đến bây giờ... Chỗ nước mắt ấy. - sao? - Có ít nhất là năm lít nước mắt xung quanh thi thể của bé thứ hai! Trong nước mắt có muối, do đó nó có khuynh hướng khô rất nhanh. Nhưng chỗ nước mắt đó . Tôi tự hỏi tại sao. - Tại sao nào? - Đó là nước mắt nhân tạo. Nó có cùng thành phần hóa học với nước mắt tự nhiên của con người, nhưng đó chỉ là trò lòe bịp. Chính vì thế mà nó bị khô ... Ông biết người ta làm thế nào để chế ra nước mắt nhân tạo ? - . - Đấy nhé. Albert biết. Và gã chế ra nước mắt giả, dành giờ cho việc đó. Ông biết chuyện này có ý nghĩa gì . - Thôi ông luôn cho rồi. - Gã sắp đặt mọi thứ cách tỉ mỉ. Tất cả những gì gã cung cấp cho chúng ta là kết quả của kế hoạch mà gã mất nhiều năm trời chuẩn bị. Và chúng ta, chúng ta phải hành động nhanh. Đấy, ý nghĩa là thế đấy. Roche ngả người dựa vào lưng ghế, mắt nhìn xa xăm. - Theo ông, chúng ta có thể chờ đợi điều gì? - tình, tôi sợ là điều tệ hại nhất vẫn còn ở phía trước. Mila bước xuống tầng hầm của Viện pháp y. mua nhiều hình sticker các chân sút nổi tiếng - chí ít đó cũng là lời khẳng định của người bán hàng. Cử chỉ này là phần của nghi thức tiễn biệt. Trong nhà xác, Chang sắp sửa khâu xác Billy Moore lại để trả cậu về dưới chiếc bóng của thiên thần đá. hoàn thành việc khám nghiệm tử thi và chụp X-quang các chỗ gãy xương. Các tấm phim được bày hộp đèn trước mặt Boris. Mila ngạc nhiên khi thấy chàng cảnh sát ở đó. Nhận ra diện của , Boris cảm thấy cần phải đưa ra lời giải thích: - Tôi chỉ tạt qua xem có gì mới hay thôi. - Có gì mới vậy? - Mila hỏi, nương theo cái cớ của để làm khó xử. ràng Boris ở đó vì những lý do cá nhân. Bác sĩ Chang dừng tay để trả lời cho câu hỏi của Mila: - Thi thể bị rơi xuống từ độ cao nhất định. Căn cứ vào mức độ trầm trọng của các vết gãy tìm thấy bộ xương, ta có thể kết luận là cái chết diễn ra gần như ngay tức . Đằng sau chữ “gần như” ấy chứa niềm hy vọng và cả lo ngại. - Đương nhiên ai có thể là Billy tự ngã hay bị đẩy xuống... - Đương nhiên rồi. Mila nhận thấy chiếc ghế có tờ quảng cáo của nhà tang lễ, dịch vụ vốn được cảnh sát chi trả. Chắc là Boris bỏ tiền túi ra để lo liệu cho Billy lễ mai táng đúng mực. chiếc kệ là đôi giày trượt của thằng bé được đánh bóng, và chiếc máy ghi , món quà sinh nhật mà nó bao giờ rời xa. - Chang có lẽ biết cái chết của Billy xảy ra tại địa điểm nào. - Boris thông báo. Bác sĩ pháp y tiến về phía những bức ảnh nhi viện phóng to. - Cơ thể khi rơi trong trung trở nên nặng hơn do gia tốc: đó là hiệu ứng của trọng lực. Kết quả là nó giống như bị bàn tay vô hình đè nghiến xuống mặt đất. Do vậy, khi đối chiếu những thông tin có liên quan đến nạn nhân, chẳng hạn như quá trình canxi hóa của xương, với độ nặng của các vết gãy, ta có thể ước tính được độ cao của cú rơi. Ở trường hợp này là mười lăm mét. Dựa vào độ cao trung bình của tòa nhà và độ nghiêng của mặt đất, tôi có thể khẳng định cách gần như chắc chắn là thằng bé rơi từ tháp xuống. Chỗ này này... thấy ? Lại chữ “gần như” nữa được thốt ra từ miệng Chang trong khi chỉ vào địa điểm cụ thể bức ảnh. Vào lúc đó, phụ tá thò đầu qua cánh cửa. - Bác sĩ Vross, có người cần gặp ông… Trong thoáng, Mila thấy mối liên quan giữa dung mạo của vị bác sĩ pháp y và tên của ta. ràng như có cấp dưới nào dám gọi bằng cái tên Chang. - Tôi xin lỗi. - cáo lui, để lại Mila và Boris trong nhà xác. - Tôi cũng phải đây. - Mila . Boris gật đầu. Trong khi ra, bước ngang qua gần chiếc kệ có để đôi giày trượt và cái máy ghi của Billy, Mila liền đặt mấy hình sticker mua xuống bên cạnh chúng. Boris trông thấy hành động của . - Giọng của thằng bé vẫn còn đó... - Sao cơ? - ngơ ngác. Boris hất đầu chỉ chiếc máy ghi , nhắc lại: - Giọng của Billy. Lời tường thuật tưởng tượng của nó. cười. Nhưng đó là nụ cười buồn. - vẫn nghe được kia à? Boris gật đầu. - Phải, chỉ đoạn đầu thôi, sau đó tôi thể nào... - Tôi hiểu. - Mila ngắn gọn. - Cái băng vẫn còn gần như nguyên vẹn, biết ? Acid sinh ra từ... - nghẹn ngào - ... quá trình phân hủy làm hỏng nó. Chang xác nhận đó là điều rất hiếm có. Chắc có lẽ là do loại đất ở nơi chôn cất thằng bé. Trong máy có pin, nên tôi lắp vào. Mila tỏ vẻ ngạc nhiên để làm dịu căng thẳng của Boris: - Thế là nó chạy à? - Dĩ nhiên. Hàng Nhật mà! Cả hai cùng bật cười. - có muốn cùng tôi nghe hết đoạn băng ? Mila suy nghĩ chút trước khi đáp. thực tế, muốn lắm. Có những chuyện nên được ngủ yên, nghĩ bụng. Nhưng trong trường hợp này, Boris lại cần nghe, và muốn bảo thôi . - Được, bật nó lên . Boris tiến lại gần chiếc máy ghi , nhấn vào nút play, và trong căn phòng khám nghiệm tử thi lạnh lẽo, giọng của Billy Moore sống lại: “... Chúng ta ở sân vận động Wembley huyền thoại, thưa các bạn! Trận đấu hôm nay vào lịch sử bóng đá: tuyển đối đầu tuyển Đức!” Thằng bé có chất giọng vui nhộn và phát chữ s với tiếng xì, khiến cho câu văn nghe hơi nặng. Có thể cảm nhận được nó cười, họ thực có cảm giác như trông thấy Billy, với tất cả vẻ vô tư con trẻ, cố gắng thổi vào mọi thứ niềm hân hoan đặc trưng của thằng bé. Mila và Boris mỉm cười. “Thời tiết mát dịu, dự báo có mưa, mặc dù vào đầu thu. Cầu thủ hai đội dàn hàng ngang giữa sân để lắng nghe bài quốc ca... Các khán đài chật cứng cổ động viên. khí tuyệt vời, thưa quý vị. Chỉ trong ít phút nữa thôi, chúng ta được tham gia vào bữa tiệc bóng đá, nhưng trước hết, xin được điểm qua danh sách của các cầu thủ thi đấu s... Lạy Chúa, con vô cùng ăn năn và hối hận về các tội lỗi của con, do phạm tội con đáng nhận trừng phạt của Người, và do con xúc phạm Người, đấng tối cao và đáng tôn kính hơn hết thảy mọi thứ...” Mila và Boris nhìn nhau ngơ ngác. Giọng được ghi đè lên đoạn băng nguyên thủy nghe rất . - lời cầu nguyện. - Nhưng đó phải là giọng Billy... “... với giúp đỡ thiêng liêng của Người, con nguyện bao giờ xúc phạm đến Người nữa, và lánh xa tất cả những cơ hội phạm tội. Chúa nhân từ, xin Người xá tội cho con”. “Thôi được rồi”. Giọng của người đàn ông. “Con còn điều gì cần với ta nữa ?” “Gần đây con nhiều lần tục. Cách đây ba ngày, con lấy cắp bánh quy trong chạn, nhưng Jonathan ăn chỗ bánh cùng với con...” “ có gì khác nữa chứ?” - Chắc đây là cha Rolf. - Mila . “…” “Suy nghĩ cho kỹ vào, Ron”. Cái tên vừa được ra bao phủ im lặng lạnh lẽo xuống căn phòng. Và Ronald Dermis trở lại thành đứa bé. “Dạ... có việc...” “Con có muốn kể ta nghe về việc đó hay ?” “... Dạ ”. “Nếu con ra, làm sao ta có thể xá tội cho con được?” “... Con biết nữa”. “Con biết chuyện xảy ra với Billy phải , Ron?” “Chúa mang bạn ấy ”. “ phải Chúa, Ron. Con biết là ai ?” “Bạn ấy bị ngã. Billy bị ngã từ tháp xuống”. “Nhưng lúc đó con ở cùng với Billy...”. “... Dạ”. “Ai nảy ra ý định trèo lên đó?” “... Có người giấu đôi giày trượt của bạn ấy tháp”. “Là con phải ?” “... Dạ”. “Con đẩy cậu ấy?” “…” “Ronald, trả lời câu hỏi của ta nào”. “…” “ ai trừng phạt con nếu con ra . Ta hứa”. “Có người bảo con làm chuyện đó”. “Người đó là ai? Billy à? Billy bảo con đẩy cậu ấy sao?” “Dạ ”. “Vậy là đứa khác?” “Dạ ”. “Vậy ai?” “…” “Ron?” “Dạ”. “Coi nào, trả lời ta . Người mà con tồn tại, phải ? Đó chỉ là tưởng tượng của con...” “Dạ ”. “Ở đây có ai, ngoài con và các bạn học”. “Người đó chỉ đến gặp mình con”. “Nghe ta bảo này, Ron: ta muốn con là con rất hối tiếc vì chuyện xảy ra với Billy”. “... Con rất tiếc vì chuyện xảy ra với Billy”. “Ta hy vọng là con lòng... Dù sao , chuyện này là bí mật giữa con, ta và Chúa trời”. “Dạ”. “Con được kể với ai nghe chưa”. “Dạ”. “Ta xá tội cho con. Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần. Amen”. “Amen”. 17 - Chúng tôi tìm người có tên là Ronald Dermis. - Roche tuyên bố với rừng đèn flash và micro. - Người này khoảng ba mươi tám tuổi. Tóc nâu, mắt nâu, da sáng. Ông đưa ra trước mặt mọi người tấm ảnh chỉnh sửa cho già từ tấm ảnh gốc chụp chung với nhóm trẻ trong nhi viện, thể hình ảnh của Ron người lớn. Ông giơ cao tấm ảnh trong khi ánh đèn flash chớp liên hồi. - Chúng tôi có lý do để cho rằng người này có liên quan trong vụ bắt cóc các bé . Ai biết ta, có thông tin gì, hoặc từng tiếp xúc với ta trong ba mươi năm trở lại đây, xin vui lòng liên hệ với cảnh sát. Xin cám ơn. Hai chữ cuối là phát súng lệnh cho hàng tràng câu hỏi và những lời năn nỉ từ đám đông báo giới. - Thưa ngài Roche!... - Thưa chánh thanh tra!... - câu hỏi thôi ạ!... Roche phớt lờ bọn họ và bỏ thẳng mạch ra khỏi phòng họp báo bằng cửa phụ. Động thái của ông là điều thể tránh khỏi. Họ buộc phải báo động. Phát của Boris và Mila gây ra hai tiếng đồng hồ sôi sục. Giờ tình hình ràng. Cha Rolf thu lại lời xưng tội của Ron chiếc máy ghi của Billy. Sau đó ông chôn nó cùng với thằng bé như thể chôn xuống cái hạt cây, biết rằng sớm muộn gì nó cũng ra quả, với hy vọng là ngày kia cứu chuộc cho cả ba con người. Kẻ dù còn trong lứa tuổi thơ ngây gây ra tội ác kinh hoàng ấy. Người là nạn nhân của việc làm đó. Và người hành động để chôn sâu nó dưới ba tấc đất. “... Dù sao , chuyện này là bí mật giữa con, ta và Chúa trời”. - Làm thế nào Albert biết được câu chuyện này? - Goran hỏi. - Cha Rolf và Ron là những người duy nhất biết được bí mật. Như vậy, lý giải duy nhất: Ron và Albert chỉ là người. Nhưng có lẽ cũng cần phải xem lại quyết định gắn Alexander Bermann vào vụ án. Nhà tội phạm học thể nhớ được ai rằng kẻ giết người hàng loạt nhắm vào tên ấu dâm vì gã bị lạm dụng hồi còn . Hình như là Sarah Rosa. Nhưng Stern lập tức bác bỏ giả thiết này, và giáo sư Gavila cũng đồng tình với . Giờ đây, có lẽ ông phải thừa nhận là ông nhầm. - Những nạn nhân lý tưởng của bọn ấu dâm là trẻ mồ côi và bụi đời, vì chẳng có ai bảo vệ chúng cả. Goran tự trách mình vì đến kết luận sớm hơn. Thế mà ông có tất cả mọi miếng ghép trước mắt ngay từ đầu. Ông bị mờ mắt vì ý nghĩ cho rằng Albert là chiến lược gia đại tài. “Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe câu chuyện: chuyện về mâu thuẫn nội tại của chính chúng”. Ông vẫn hay nhắc nhắc lại như thế với các sinh viên. Tại sao ông lại để cho mình bị lầm lạc vì giả thiết khác? - Gã dùng tự ái của tôi để xỏ mũi tôi. Tôi chỉ nghĩ gã muốn thách thức chúng ta. Tôi sung sướng trước ý nghĩ được đối đầu với kẻ cố tỏ ra thông minh hơn. Sau khi xem truyền hình cuộc họp báo của thanh tra Roche, giáo sư Gavila lần nữa tập hợp cả nhóm điều tra tại xưởng giặt của nhi viện, nơi họ tìm thấy xác của Anneke. Ông cảm thấy đây là nơi lý tưởng để tái khởi động cuộc điều tra. Màn “tự vấn” ngắn ngủi của giáo sư Gavila có tác dụng xua mọi hoài nghi về việc họ vẫn là nhóm, chứ chỉ là phòng thí nghiệm cho các phép thử của ông. Thi thể của bé thứ hai được mang từ lâu, chỗ nước mắt trong bể giặt bằng đá được xả hết. Chỉ còn các bóng đèn halogen và tiếng rì rì của máy nổ. Chẳng mấy chốc những thứ đó cũng được đưa nốt. Goran cầu diện của cha Timothy. Cha xuất trong hơi thở đứt quãng và tình trạng kích động thấy : mặc dù còn gì trong phòng giặt gợi ra hình ảnh trường vụ án mạng, cha vẫn cảm thấy cực kỳ khó ở. - thể tìm ra cha Rolf. - Cha Timothy thông báo. - Và tôi nghĩ là... - Cha Rolf chắc qua đời. - Goran đột ngột cắt ngang. - Nếu chúng tôi có thông tin sau thông báo của thanh tra Roche. Cha Timothy có vẻ chấn động. - Vậy tôi có thể giúp gì được cho các ông đây? Goran cân nhắc cẩn thận trước khi với mọi người: - Có thể chuyện này khác thường với mọi người, tôi biết... Nhưng tôi muốn chúng ta cùng cầu nguyện. Rosa giấu nổi kinh ngạc, cũng như Boris. Hai người lập tức nhìn nhau. Mila ngơ ngác. Chỉ có Stern là . là người ngoan đạo nhất, và là người đầu tiên làm theo đề nghị của giáo sư Goran. bước đến đứng giữa gian phòng và dang hai tay ra để nắm lấy tay người khác, tạo thành vòng tròn. Mila nhanh chóng tiến đến. Rosa buộc lòng làm theo. Boris là người miễn cưỡng nhất, nhưng thể từ chối lời mời của giáo sư Gavila. Cha Timothy gật đầu và bước đến đứng chính giữa vòng tròn. Rốt cuộc cha cũng bình tâm trở lại. Goran biết cầu nguyện, và có lẽ cũng có lời nguyện cầu nào thích hợp với tình hình. Nhưng ông vẫn thử làm với chất giọng đầy buồn bã: - Thời gian vừa qua, chúng ta chứng kiến nhiều chuyện kinh khủng. việc diễn ra ở đây là minh chứng. Tôi biết liệu Chúa có tồn tại hay , dù tôi luôn mong mỏi điều đó. Tôi biết chắc chắn là cái ác có tồn tại. Vì cái ác có thể được chứng tỏ. Cái thiện bao giờ. Cái ác để lại dấu vết khi nó qua. Thi thể của những đứa trẻ tội nghiệp chẳng hạn. Còn cái thiện, ta chỉ có thể chứng kiến mà thôi. Thế nhưng điều đó đủ đối với chúng ta, những người luôn tìm kiếm các bằng chứng cụ thể… - Ông ngừng chút. - Nếu Chúa trời tồn tại, tôi muốn hỏi Người... Vì sao Billy Moore phải chết? thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra? Chuyện gì xảy đến với trong những năm vừa qua? Ronald học cách giết người như thế nào? Lý do gì đẩy Ronald đến chỗ phạm tội? Và tại sao Chúa chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này? Những câu hỏi của giáo sư Goran treo lơ lửng trong im lặng vây bủa mọi người. - Xin cha cứ tự nhiên, thưa cha... - lúc sau Stern . Cha Timothy bắt đầu điều khiển nhóm người. Ông họp các bàn tay lại và ngân nga điệu thánh ca. Chất giọng tự tin và rất đẹp của cha vang vọng trong gian phòng, bay lượn xung quanh họ. Mila nhắm mắt và để cho những ngôn từ cuốn mình . Dù là tiếng La tinh, ý nghĩa của chúng vẫn ràng ngay cả với những người điếc nhất. Cùng với bài thánh ca, cha Timothy mang lại yên bình cho nơi từng bị hỗn loạn, thanh lọc mọi thứ khỏi tàn dư của cái ác. Bức thư được gửi cho ban khoa học hành vi. Đáng lẽ nó bị liệt vào nhóm thư rác của những kẻ dựng chuyện, nếu như nét chữ viết tay cho thấy có nhiều điểm tương đồng với nét chữ trong bài tập mà Ronald Dermis từng làm hồi học. Nó được thảo trang giấy tập bằng loại bút bi thông thường. Người gửi buồn quan tâm đến những dấu tay để lại tờ giấy. Có vẻ như Albert cần đến những biện pháp cẩn trọng nhất định nữa. Đoạn văn nằm co cụm ở giữa trang giấy, được viết buông tuồng như câu duy nhất, gần như có chấm phẩy. gửi những người lùng tìm tôi billy là thằng con hoang, THẰNG CON HOANG! và tôi đúng khi giết nó tôi căm thù nó nó làm bọn tôi đau đớn vì nó có gia đình còn bọn tôi những gì xảy ra với tôi còn tệ hơn nhưng AI đến cứu tôi AI CẢ. tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người thấy tôi thế rồi NGƯỜI xuất . NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi chính mấy người muốn tôi thành ra như vậy hồi xưa mấy người hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ , rốt cuộc đây là lỗi của mấy người tôi là thế đấy. AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. AI CẢ. RONALD Goran chụp bản sao để tiện nghiên cứu. Ông ngủ đêm ở nhà cùng cậu con trai. Ông rất muốn trải qua buổi tối với Tommy. mấy ngày rồi ông gặp thằng bé. Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ, ông lập tức nghe thấy tiếng bước chân thằng bé chạy tới. - Mọi chuyện thế nào rồi bố? Goran dang tay ôm Tommy chặt. - có gì phải phàn nàn. Còn con? - Con bình thường. Ba chữ kỳ diệu. Con trai ông biết cách dùng chúng khi hai bố con gặp lại nhau. Như thể để bảo ông việc gì phải lo lắng, vì con trai ông “vẫn bình thường”. Nó thấy nhớ mẹ. Nó học được cách quên . Nhưng đó cũng là giới hạn sau cuối. Cùng với ba chữ đó, họ dừng mẩu đối thoại. Mọi thứ được thỏa thuận. Đấy nhé, bố con mình vừa nhớ ra thiếu mẹ đau khổ đến chừng nào. Bây giờ chúng ta có thể sống tiếp. Và mọi chuyện diễn ra đúng như thế. Goran mang về cái túi giấy mà Tommy nôn nóng mở ra. - Tuyệt hảo! Đồ ăn Tàu! - Bố nghĩ con thích khi ta thay đổi thực đơn của bà Runa chút. Tommy nhăn mặt. - Con ghét món thịt viên của bà Runa! Bà ấy cho quá nhiều lá bạc hà, làm nó có vị như kem đánh răng. Goran bật cười. Quả thực thằng bé đúng. - Nào, rửa tay con. Tommy chạy ào vào trong phòng tắm, sau đó bắt đầu dọn bàn. Goran xếp phần lớn các dụng cụ nhà bếp vào các ngăn kệ ở vừa tầm với của thằng bé. Ông muốn nó tham gia vào việc nhà trong giai đoạn mới. Cùng nhau làm việc đồng nghĩa rằng từ nay hai bố con phải chăm sóc lẫn nhau, và ai được “bỏ cuộc”. ai được quyền buồn bã. Tommy lấy cái đĩa, trút chỗ hoành thánh chiên ra cùng với sốt chua ngọt, trong lúc Goran đổ cơm chiên vào trong cái tô. Hai người dùng đũa, và thay cho món kem chiên hay được phục vụ trong các nhà hàng Trung Hoa, Goran mua hộp kem sôcôla vani. Hai bố con vừa ăn vừa bàn chuyện trong ngày. Tommy kể về việc tổ chức cắm trại cùng với các hướng đạo sinh. Goran hỏi han về việc học hành của thằng bé và ông hãnh diện khi biết nó được điểm số rất cao trong môn thể dục. - Bố rất kém trong các môn thể thao. - Ông thú nhận. - Thế bố giỏi gì nào? - Cờ vua. - Nhưng đó phải là thể thao. - Có chứ: nó được đưa vào Thế vận hội đấy. Tommy có vẻ bị thuyết phục. Nhưng nó biết bố bao giờ dối nó. ra đó là bài học nhớ đời. Vì lần đầu tiên nó hỏi ông về mẹ, ông kể lại toàn bộ . quanh co. “ giỡn nha”, như lời Tommy vẫn khi nó muốn người khác trung thực. Bố nó làm đúng như nó muốn. cay cú, tìm cách trừng phạt mẹ nó. Những lời dối - hay tệ hơn là những nửa vời - chỉ càng làm tăng thêm nỗi lo cho đứa con. mình nó phải đương đầu với hai dối trá nặng nề: là của mẹ, người ra , và là của bố, người đủ dũng khí để ra . - Hôm nào bố dạy con chơi cờ nhé? - Dĩ nhiên rồi. Cùng với lời hứa đó, Goran đưa thằng bé vào giường nằm, rồi ông giam mình trong phòng làm việc. Ông lấy bức thư của Ronald ra đọc lần biết thứ bao nhiêu. Ngay từ đầu có thứ làm ông chú ý. Đó là câu: “thế rồi NGƯỜI xuất . NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”, trong đó các từ “người” được cố ý viết bằng chữ in hoa. Goran lần nghe thấy ám chỉ kỳ lạ này. Đó là trong cuốn băng ghi lại lời thú tội của Ronald trước cha Rolf. “Người đó chỉ đến gặp mình con”. Đây là ví dụ điển hình của tách đôi nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn tách rời với cái tôi chủ thể. Và trở thành người. “Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”. Trong ngữ cảnh này, tất cả những người khác trở thành “ AI CẢ”. Và cũng được viết chữ in hoa. “ AI đến cứu tôi. AI CẢ. AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. AI CẢ”. Ron muốn được cứu thoát. Nhưng mọi người quên mất nó vì nó chỉ là thằng bé. Mila ra ngoài để mua đồ ăn. Sau khi lòng vòng qua các cửa hiệu và tiệm ăn đóng cửa vì thời tiết xấu, đành mua gói súp trong cửa hàng thực phẩm . định hâm nóng bằng lò vi sóng trong bếp của studio, nhưng mua xong sực nhớ ra còn biết nó có hoạt động hay . Mila quay về căn hộ trước khi bị cái lạnh làm cho tê cóng và khiến bước nổi. Giá có đôi giày và bộ đồ tập thể thao: từ nhiều ngày nay chạy bộ, chỗ acid lactic ứ lại trong các khớp khiến cho cử động của đâm khó khăn. Lúc vừa dợm bước lên bậc cấp Mila trông thấy Rosa vỉa hè trước mặt, tranh luận rất căng với người đàn ông. ta định xoa dịu ta nhưng bất thành. Mila nghĩ đó chắc là chồng của Rosa, và đột nhiên thấy thông cảm cho chàng. Trước khi mụ tinh kia nhận thấy diện của , điều càng khiến mụ có lý do để thù ghét , Mila bước vào trong nhà. cầu thang, gặp Boris và Stern xuống. - Hai đâu đấy? - Chúng tôi sang bên trụ sở để xem tình hình săn người làm đến đâu. - Boris đáp trong lúc đưa điếu thuốc lên môi. - ? - , cám ơn. Boris nhìn thấy gói súp. - Vậy “bon appétit”[4] nhá! Trong khi bước tiếp, Mila nghe thấy Boris với bạn đồng nghiệp nhiều tuổi hơn mình. - nên bắt đầu hút lại . - Cậu nên bỏ cái món ấy có... Mila nhớ lại hộp kẹo bạc hà của Stern và bật cười khe khẽ. Trong studio chỉ có mình Mila. Goran về nhà ngủ với cậu con trai. hơi thất vọng. quen với việc thấy ông ở đó, và thích thú trước phương pháp điều tra của ông. Trừ màn cầu nguyện. Nếu mẹ mà còn sống và thấy tham gia vào cái trò ấy, chắc bà tin ở mắt mình. Lò vi sóng hoạt động được. Món súp quá tệ. Cũng có lẽ cơn đói khiến cho nó có vẻ ngon hơn bình thường. Mila cầm tô súp và cái muỗng vào phòng ngủ, hài lòng khi được ở mình. ngồi chéo chân giường. Vết thương nơi đùi trái hơi căng, nhưng nó lành. Mọi thứ đều được chữa lành. Vừa ăn, vừa lấy bản sao bức thư của Ronald Dermis để trước mặt. nhìn bức thư trong khi miệng tiếp tục nhai. Dù sao Ronald cũng chọn đúng thời điểm để tái xuất trong câu chuyện. Nhưng có điều gì đó bất hợp lý trong những câu chữ. đủ can đảm để ra điều đó với Goran, vì nghĩ mình có thể đưa ra lời khuyên với ông. Tuy nhiên, ý nghĩ kia cứ quấy rối suốt cả buổi chiều. Bức thư cũng được trao cho báo chí, việc làm bất bình thường. Gavila ràng muốn làm hài lòng cái tôi của tên thủ phạm giết người hàng loạt. Cứ như thể ông : “Thấy chưa? Chúng tôi quan tâm đến ông đó nha!” trong khi thực tế, họ chỉ tìm cách hướng chú ý của gã ra khỏi bé mà gã bắt giữ. “Tôi gã có thể kháng cự lại thôi thúc muốn kết liễu bé được bao lâu”, vài giờ trước ông như thế. Mila cố gạt bỏ ý nghĩ kia ra khỏi đầu và tập trung vào bức thư. rất khó chịu trước lối viết của Ronald. thấy nó nghịch mắt. thể tại sao, nhưng đoạn thư được viết ở giữa tờ giấy, cái kiểu viết buông tuồng ngắt nghỉ khiến sao hiểu được trọn vẹn ý nghĩa. quyết định ngắt thành nhiều câu. Đặt cái tô xuống, cầm lấy tập giấy và cây bút chì. gửi những người lùng tìm tôi: - billy là thằng con hoang, THẰNG CON HOANG! và tôi đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó làm bọn tôi đau đớn. vì nó có gia đình còn bọn tôi . - những gì xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng AI đến cứu tôi! AI CẢ. - tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người thấy tôi. - thế rồi NGƯỜI xuất . NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi. - chính mấy người muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ , rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người. - tôi là thế đấy. AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. AI CẢ. - RONALD Mila đọc lại từng câu. Đó là giọng văn huênh hoang, chất chứa đầy thù hận và căm hờn. Nó nhắm vào tất cả mọi người, phân biệt ai. Vì trong đầu óc của kẻ giết Billy, thằng bé tượng trưng cho thứ rất lớn và thu hút chú ý của tất cả mọi người. Điều mà Ron bao giờ có được. Hạnh phúc. Billy luôn vui vẻ, trong khi nó chứng kiến vụ tự tử của bố mẹ. Billy được nhận nuôi, dù nó chỉ là đứa trẻ mồ côi loại hai. Billy được nhận tất cả, dẫu nó có gì để cho . Khi hãm hại thằng bé, Ron vĩnh viễn xóa nụ cười gương mặt đạo đức giả của thiên hạ. Tuy nhiên, càng đọc những lời này, Mila càng nhận ra các câu văn ít giống với lời tự thú, hoặc thách thức, mà giống những câu trả lời nhiều hơn. Như thể người nào đó hỏi Ronald, và nôn nóng muốn thoát ra khỏi vòng im lặng vây bủa mình trong thời gian dài, muốn tự giải phóng khỏi bí mật do cha Rolf áp đặt. Nhưng câu hỏi là gì? Ai là người hỏi ? Mila nhớ lại điều Goran trong khi cầu nguyện. Về việc điều thiện thể được chứng minh, trong khi trước mắt chúng ta đầy rẫy những ví dụ của cái ác. Bằng chứng. Ronald cho rằng hoàn thành việc tích cực, cần thiết, khi ra tay hãm hại người bạn học. Đối với , Billy tượng trưng cho cái ác. Ai có thể chứng tỏ được làm điều tốt? Lập luận của hoàn hảo. Bởi biết đâu khi lớn lên Billy Moore trở thành người rất xấu. Ai mà khẳng định được? Hồi còn và còn theo học ở lớp giáo lý Cơ đốc, Mila luôn tự hỏi mình câu. Khi lớn, câu hỏi đó vẫn chưa được trả lời. Tại sao đức Chúa trời mà người đời cho là nhân từ lại để cho những đứa trẻ chết ? Khi nghĩ kỹ về điều đó, ràng nó đối lập với lý tưởng về tình và công bằng vốn luôn tràn trề trong đạo giáo. Tuy vậy, chết sớm có lẽ là định mệnh mà Chúa dành cho những đứa con xấu xa nhất của Người. Và biết đâu những đứa trẻ mà cứu thoát có thể biến thành những kẻ sát nhân hoặc bọn giết người hàng loạt. Rất có thể, điều làm là đúng. Nếu như ai đó giết chết Adolf Hitler, hoặc Jeffrey Dahmer, Charles Manson từ khi bọn chúng vẫn còn quấn tã, hành động của người đó là tốt hay xấu đây? Kẻ giết chết bọn chúng chắc bị kết án và trừng trị, chứ chẳng thể nào được ca tụng như người cứu nhân độ thế. Mila kết luận là cái thiện và cái ác thường lẫn lộn với nhau. Cái này đôi khi là phương tiện của cái kia và ngược lại. Làm thế nào người ta có thể lẫn lộn giữa ngôn từ của lời cầu nguyện và điên dại của tên sát nhân? Đột nhiên cảm thấy lành lạnh sau gáy. Giống như có thứ gì đó bí mật xuất sau lưng . Rồi nhớ lại ý nghĩ vừa rồi, và lúc ấy bỗng nhận ra mình biết các câu hỏi mà Ronald tìm cách trả lời trong bức thư của . Chúng nằm trong lời cầu nguyện của Goran. cố nhớ lại những lời cầu nguyện của Goran, dù chỉ nghe duy nhất lần. thử viết ra nhiều lần tập giấy, rồi làm lẫn lộn thứ tự và phải bắt đầu lại, nhưng rốt cuộc thành công khi viết chúng ra giấy trắng mực đen, ngay trước mắt mình. Sau đó thử lắp ghép chúng với từng câu ở trong bức thư. Phục dựng lại mẩu đối thoại từ xa ấy. Sau cùng, đọc lại toàn bộ... Tất cả ràng, ngay từ câu đầu tiên. “gửi những người lùng tìm tôi”. Câu này dành cho họ, các cảnh sát. Để trả lời các câu hỏi mà nhà tội phạm học nêu ra nhưng chưa được giải đáp... - Vì sao Billy Moore phải chết? “billy là thằng con hoang, THẰNG CON HOANG! và tôi đúng khi giết nó. tôi căm thù nó. nó làm bọn tôi đau đớn. vì nó có gia đình còn bọn tôi ”. - thù hận của Ronald Dermis từ đâu mà ra? “những gì xảy ra với tôi còn tệ hơn! nhưng AI đến cứu tôi! AI CẢ”. - Chuyện gì xảy đến với trong những năm vừa qua? “tôi vẫn luôn ở đây trước mắt mấy người nhưng mấy người thấy tôi”. - Ronald học cách giết người như thế nào? “thế rồi NGƯỜI xuất . NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”. - Lý do gì đẩy Ronald đến chỗ phạm tội? “chính mấy người muốn tôi thành ra như vậy. hồi xưa mấy người hiểu tôi liệu bây giờ mấy người có hiểu? tệ , rốt cuộc đây chỉ là lỗi của mấy người”. - Và tại sao Chúa chấm dứt nỗi kinh hoàng khủng khiếp này? “tôi là thế đấy. AI có thể ngăn cản được tất cả chuyện này. AI CẢ”. Mila biết phải nghĩ sao nữa. Nhưng có lẽ câu trả lời cho thắc mắc của nằm ở cuối bức thư. cái tên. “RONALD”. cần phải lập tức kiểm tra giả thuyết của mình.
18 Tuyết rơi xuống từ những đám mây màu tím bầu trời u. Mila phải chờ ngoài đường mất bốn mươi phút mới bắt được chiếc taxi. Khi cho biết nơi đến, người tài xế lắc đầu phản đối. ta nó quá xa và do đêm tối cộng với thời tiết, ta tìm được khách cho chuyến về. Khi Mila đề nghị trả gấp đôi tiền cho chuyến , ta mới đồng ý. đường, lớp tuyết dày nhiều centimet hình thành, khiến việc rắc muối thành ra vô ích. Người ta chỉ có thể lưu thông với bánh xe quấn xích, việc này làm hạn chế tốc độ rất nhiều. Bên trong xe taxi bốc mùi. Mila để ý thấy phần còn lại của chiếc bánh mì Thổ Nhĩ Kỳ kẹp hành tây để ghế hành khách phía trước. Mùi của nó trộn lẫn với mùi thông trong chai khử mùi đặt trước quạt thổi của máy sưởi. tiếp đón mấy niềm nở đối với hành khách. Trong khi xe băng qua thành phố, Mila sắp xếp lại các ý tưởng trong đầu. chắc chắn lý luận của mình là đúng, và càng gần nơi cần đến, tin tưởng của càng mạnh hơn. định gọi cho giáo sư Gavila để nhận được khẳng định, nhưng điện thoại của sắp cạn pin đến nơi. dời cuộc gọi đến thời điểm tìm ra điều mình cần. Họ băng qua khu vực đặt trạm thu phí của xa lộ. đội cảnh sát tuần tra chặn dòng xe trước trạm, cầu quay đầu. - Tuyết quá dày, đường rất nguy hiểm! - Các cảnh sát liên tục nhắc nhắc lại với các tài xế. Nhiều chiếc xe tải kéo dừng bên đường, với hy vọng có thể tiếp tục hành trình vào sáng hôm sau. Xe taxi chạy vào tỉnh lộ để tránh chốt chặn. Có thể đến được nhi viện mà cần bằng quốc lộ. Ngày xưa có lẽ đó là con đường duy nhất, và rất may người lái taxi biết đến nó. Chiếc taxi thả Mila xuống gần cánh cổng. nghĩ đến việc đưa thêm tiền và bảo tài xế chờ mình. tin mình nhầm, và các đồng đội của lại kéo đến nơi này. - muốn tôi ở lại đây cho đến khi xong việc à? - tài xế hỏi khi trông thấy tình trạng hoang vắng của khu vực. - , cám ơn, có thể . ta nài nỉ, mà chỉ nhún vai rồi quay đầu xe, để lại phía sau thoáng mùi bánh mì kẹp hành. Mila trèo qua cổng, lội bộ qua hỗn hợp bùn và tuyết con đường đất. biết các cảnh sát rút theo lệnh của Roche. Cả chiếc xe cắm trại lưu động cũng ra . Nơi này chẳng còn gì hấp dẫn cho cuộc điều tra nữa. Cho đến đêm nay, thầm nghĩ. đến cửa chính, nhưng sau khi bị đội đặc nhiệm phá khóa, giờ nó được thay ổ khóa mới. quay sang phía nhà xứ để nhìn xem liệu cha Timothy có còn thức hay . đến tận đây, còn lựa chọn nào khác. Mila tiến về phía nhà của cha xứ. gõ cửa lúc. Cuối cùng ô cửa sổ ở tầng hai bật mở, cha Timothy ló đầu ra. - Ai đó? - Thưa cha, tôi là cảnh sát. Chúng ta từng gặp mặt. Cha còn nhớ ? Cha Timothy cố gắng nhìn ra cảnh sát giữa những bông tuyết rơi dày đặc. - À, tất nhiên rồi. cần gì vào cái giờ khuya khoắt này? Tôi tưởng các kết thúc công việc ở đây... - Tôi biết. Mong cha thứ lỗi, nhưng tôi cần xác minh vài điều trong xưởng giặt. Cha có thể cho tôi mượn chìa khóa được ạ? - Được, để tôi xuống. Vài phút sau, khi Mila bắt đầu sốt ruột tự hỏi cha Timothy làm gì mà lâu đến thế có tiếng mở then cửa. Cha Timothy xuất , quấn mình trong chiếc áo khoác len sờn ở hai cùi chỏ, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hiền hậu như thường ngày. - lạnh run rồi kìa. - Xin cha đừng lo. - hãy vào trong sưởi ấm chút trong lúc tôi tìm chìa khóa. biết đấy, cảnh sát các làm xáo trộn chỗ này hết cả. Mila theo cha xứ vào trong nhà. ấm áp lập tức khiến cảm thấy dễ chịu. - Tôi sắp sửa ngủ. - Tôi xin lỗi. - sao. uống trà nhé? Tôi luôn uống ít trà trước khi ngủ. Nó làm tôi thư giãn. - Thôi ạ, cám ơn cha. Tôi muốn quay về càng sớm càng tốt. - Cứ uống chút , thấy khỏe hơn. Trà pha rồi, chỉ việc rót ra thôi mà. Trong lúc đó tôi tìm chìa khóa. Cha Timothy rời phòng. Mila tiến về phía nhà bếp theo hướng cha chỉ. Quả thực ấm trà đặt bàn. Mùi trà bốc lên theo hơi nước nóng, khiến thể cưỡng lại được. rót tách, thêm vào nhiều đường. nhớ lại món trà nguội ngắt kinh khủng mà Feldher cố gài cho và Boris uống, trong căn nhà phế thải của ta. tự hỏi lấy nước pha trà từ nguồn nào. Cha Timothy quay lại với chùm chìa khóa to và bắt đầu lần tìm chiếc chìa cần thiết. - Giờ khỏe hơn rồi chứ? - Cha mỉm cười, hài lòng vì thấy uống trà. Mila cười đáp lễ. - Vâng ạ. - Đây, chắc là cái chìa này, để mở cánh cửa lớn... có muốn tôi cùng ? - Thôi ạ, cám ơn cha. - Mila trả lời trong nhõm của cha xứ. - Nhưng tôi có việc này cần nhờ cha giúp. - Tôi nghe đây. Mila chìa ra tấm thẻ. - Nếu trong tiếng đồng hồ tôi quay lại, cha hãy bấm số điện thoại này để gọi trợ giúp. Cha Timothy tái mặt. - Tôi tưởng chẳng còn nguy hiểm nào nữa. - Chỉ là biện pháp cẩn trọng thôi ạ. ra, tôi nghĩ có chuyện gì xảy ra đâu. Chỉ là tôi chắc mình định hướng tốt trong tòa nhà lớn, nhỡ mà gặp tai nạn... Thêm nữa, trong ấy chẳng có đèn đuốc gì. xong câu vừa rồi, nhận ra mình lường trước vấn đề này. Làm thế nào đây? Điện có, máy nổ để chạy đèn chắc chắn được mang cùng các thiết bị khác. - Chết ! - buột miệng. - Cha có đèn pin ạ? - Tôi rất tiếc... Nhưng nếu có điện thoại di động, có thể dùng ánh sáng của màn hình. Mila nghĩ ra chuyện đó. - Cám ơn cha. - có chi. Ngay sau đó, Mila lại bước ra màn đêm lạnh giá, trong khi cha Timothy cài then cửa lại đằng sau , từng cái . leo lên con dốc và đứng trước cửa nhi viện. đút chìa vào trong ổ khóa, nghe thấy tiếng lách cách vang dội trong gian phòng phía bên kia cánh cửa. đẩy mở cánh cửa đồ sộ, trước khi đóng nó lại sau lưng. ở bên trong nhi viện. Những con bồ câu cửa sổ áp mái chào đón bằng tiếng đập cánh loạn xạ. Màn hình điện thoại của phát ra thứ ánh sáng xanh nhạt, chỉ cho phép ghi nhận khoảng gian trước mặt. Quả cầu ánh sáng đó bị bao bọc bởi bóng tối dày đặc, sẵn sàng xâm chiếm nó vào bất cứ lúc nào. Mila cố nhớ lại lộ trình xuống xưởng giặt. Rồi bắt đầu bước . Tiếng những bước chân của phá tan im lặng. Hơi thở của ngưng đọng trong bầu khí lạnh giá. Rất nhanh chóng, tìm thấy nhà bếp và nhận ra hình dáng của những cái vạc lớn bằng sắt. Sau đó băng qua phòng ăn, cẩn thận luồn tránh những chiếc bàn phủ formica. Hông va phải chiếc bàn, làm rơi trong số mấy cái ghế xếp đó. Tiếng ồn cộng thêm tiếng vang to váng óc. Trong khi xếp lại mọi thứ, Mila nhìn thấy lối dẫn xuống tầng dưới qua chiếc cầu thang xoắn chật hẹp. chui vào trong đoạn ruột đó và chầm chậm bước xuống những bậc thang bị năm tháng làm cho trơn tuột. xuống đến xưởng giặt. soi điện thoại di động để quan sát chung quanh. Trong bồn giặt bằng đá nơi thi thể Anneke được tìm thấy, ai đó đặt bông hoa. Mila lại nhớ đến màn cầu nguyện tập thể tại đây. bắt tay vào tìm kiếm. Trước tiên nhìn dọc theo các vách tường, sau đó lướt tay theo các chân tường. có gì. tránh nghĩ đến việc pin của điện thoại di động còn cầm cự được bao nhiêu thời gian nữa, phải vì viễn cảnh phải quay ra trong bóng tối, mà chủ yếu là vì có ánh sáng yếu ớt của nó, mất nhiều thời gian hơn. Sau tiếng cha Timothy gọi cứu viện, và trở nên kém cỏi trong mắt người khác. Cần phải nhanh chóng hơn. Nó ở đâu nhỉ? nghĩ bụng. Mình biết nó ở đâu đó trong này mà... Đột nhiên tiếng động rất lớn vang lên khiến Mila thót tim. mất lúc mới nhận ra đó là tiếng chuông điện thoại của mình. nhìn màn hình và trông thấy cái tên Goran đó. Đeo tai nghe vào, bắt máy. - Trong studio có ai cả sao? Tôi gọi cả chục cuộc mà ai nhấc máy. - Boris và Stern ra ngoài, nhưng lẽ ra Sarah phải có mặt ở đó chứ. - Thế còn , ở đâu vậy? Mila tự nhủ giờ phải là lúc dối. Mặc dù chưa hoàn toàn chắc chắn về suy đoán của mình, vẫn quyết định luôn. - Tôi nghĩ Ronald nghe lỏm chúng ta tối hôm trước. - Điều gì khiến nghĩ như vậy? - Tôi so sánh bức thư của với những câu hỏi mà ông đặt ra trong lời cầu nguyện. Phải bức thư đúng là những câu trả lời... - suy luận rất tốt. Nhà tội phạm học tỏ ra ngạc nhiên. Có lẽ ông cũng đến kết luận giống . Mila cảm thấy hơi ngu ngốc vì tưởng mình làm ông bất ngờ. - Nhưng chưa trả lời câu hỏi của tôi. ở đâu vậy? - Tôi tìm cái micro. - Micro nào? - Cái mà Ronald bí mật gắn lại trong xưởng giặt. - ở nhi viện hả? Giọng của Goran bắt đầu trở nên lo lắng. - Phải. - hãy ra khỏi đó ngay. - Sao vậy? - Mila, chẳng có micro nào hết! - Nhưng tôi tin chắc là... Goran ngắt lời: - Nghe tôi đây, họ rà soát kỹ khu vực đó, nếu có micro họ phải phát ra nó rồi. Mila thấy mình ngu ngốc thực . Giáo sư tội phạm học có lý: có thể nông cạn đến mức nghĩ ra chuyện đó hay sao? Đầu toàn là bã đậu trong đó à? - Vậy làm thế nào để... Mila bỏ lửng câu . cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo sống lưng . ở đây. - Màn cầu nguyện chỉ là chiêu dụ rắn ra khỏi hang! Sao mình nghĩ ra chuyện đó nhỉ? - Mila, ra khỏi đó mau, vì lòng kính Chúa! Lúc đó mới ý thức được nguy cơ trước mắt. rút súng, nhanh chóng quay ngược ra cửa chính nằm cách chỗ mình đứng ít nhất là hai trăm mét. khoảng cách lớn khủng khiếp, với diện của “” ở trong nhi viện này. Là ai nhỉ? Mila tự hỏi trong khi theo cầu thang xoắn lên phòng ăn. Khi cảm thấy sức mạnh của đôi chân bắt đầu rời bỏ mình, có câu trả lời. Nước trà... Tín hiệu quá yếu, trong điện thoại vang lên những tiếng xì xẹt. nghe thấy tiếng Goran hỏi trong tai nghe: - Cái gì? - Cha Timothy là Ronald, phải ạ? Xì xẹt Tiếng động. Lại xì xẹt. - Phải! Sau cái chết của Billy Moore, cha Rolf gửi tất cả mọi người chỗ khác trước thời điểm nhi viện bị đóng cửa chính thức. Trừ . Cha giữ lại, vì ông sợ bản chất của và hy vọng có thể kiểm soát được . - Tôi nghĩ ... thuốc tôi. Giọng của Goran nghe lúc được lúc mất. - … bảo sao? Tôi h... - Tôi nghĩ… - Mila cố gắng lặp lại, nhưng các từ ngữ cứ dính trong cổ họng chịu thoát ra. ngã chúi. Tai nghe điện thoại văng ra. Chiếc di động tuột khỏi tay và trượt vào dưới gầm cái bàn. Nhịp tim tăng lên do nỗi sợ hãi và càng khiến cho thuốc khuếch tán trong cơ thể . Các giác quan của trơ ì ra. Tuy vậy vẫn còn nghe thấy tiếng Goran phát ra từ chiếc tai nghe nằm cách mình vài mét: - Mila! Mila!... lời tôi ! Có chuyện... vậy? nhắm mắt, kinh hoàng trước ý nghĩ rằng bao giờ mở mắt được nữa. Rồi tự nhủ mình thể chết trong cái nơi như thế này. Adrenalin... Mình cần adrenalin... biết cần tìm nó như thế nào. Tay phải cầm chắc khẩu súng, kê nòng súng vào vai mình, bóp cò. Viên đạn xé toang lớp da áo khoác và xuyên vào thịt Mila. Tiếng nổ vang dội chát chúa trong cái vực thẳm bao quanh . Mila hét lên đau đớn và tỉnh lại. Goran thét gọi tên . - MILA! trườn về phía phát ra ánh sáng màn hình di động, bắt lấy nó rồi trả lời: - Mọi chuyện vẫn ổn. Mila đứng dậy và bắt đầu bước. phải nỗ lực kinh khủng mới bước được bước. thấy như mình ở trong giấc mơ, khi bị người khác đuổi theo mà làm cách nào chạy được, vì hai chân cứ nặng như bị nhúng ngập đến gối trong thứ chất lỏng đặc quánh. Vết thương của nhức nhối, nhưng bị mất quá nhiều máu. tính đường đạn rồi. Nghiến chặt răng, bước từng bước. Lối ra mỗi lúc gần hơn. - Nếu ông biết mọi chuyện, tại sao ông bắt ngay thằng khốn nạn đó? - Mila hét vào trong điện thoại. - Và tại sao tôi được thông báo? Giọng của nhà tội phạm học ràng trở lại. - Tôi xin lỗi. Chúng tôi muốn tiếp tục cư xử cách tự nhiên với để gây nghi ngờ. Chúng tôi đặt các thiết bị dò tìm trong xe hơi của . Chúng tôi hy vọng đưa ta đến chỗ của bé số sáu... - Nhưng làm thế... - Vì phải Albert. - Nhưng vẫn nguy hiểm chứ? Goran ngừng lúc khá lâu. Rất lâu. - Tôi báo động. nhóm đến. Nhưng mất thời gian đấy. Vùng kiểm soát quanh đó có bán kính hai cây số. Dù gì cũng quá muộn, Mila nghĩ bụng. Với thời tiết xấu như thế này, cộng thêm lượng thuốc chạy trong cơ thể làm bào mòn sức lực, hết hy vọng rồi. biết. Đáng lẽ phải nghe theo lời của người lái taxi khi ta thuyết phục bỏ ý định đến đây. Nhưng - khốn nạn - tại sao chịu chấp nhận khi ta đề nghị ở lại đợi kia chứ? Vì dị ứng với cái mùi hành trong xe, thế đấy! Và giờ kẹt trong bẫy. tự chui đầu vào, có lẽ cũng vì phần trong muốn điều đó, cách vô thức. thích liều mạng. Thậm chí mất mạng! ! Mình muốn sống. Ronald, hay cha Timothy, còn chưa động thủ. Nhưng chắc chắn mình còn nhiều thời gian nữa. Ba tiếng bíp lôi ra khỏi dòng suy nghĩ. - Chết rồi. - buột miệng khi chiếc điện thoại cạn pin. Bóng tối chụp lấy như bàn tay vô hình. bao nhiêu lần bị mắc bẫy như thế này? Nó từng xảy ra. Chẳng hạn như vụ ở nhà thầy dạy nhạc. Nhưng bao giờ rơi vào hoàn cảnh tệ hại đến mức này? Câu trả lời khiến sững người. Chưa bao giờ. Bị đánh thuốc, bị thương, kiệt sức và còn điện thoại di động. Nghĩ về khoản cuối cùng ấy, chỉ muốn bật cười: liệu có thể làm gì nếu còn pin điện thoại đây? Chắc là gọi bạn cũ. Graciela chẳng hạn. Và hỏi ấy: “Cậu ổn ? Còn tớ chết đến nơi rồi đây này!” Điều tệ nhất là bóng tối. Nhưng cũng có thể coi nó như lợi thế: nếu thể nhìn thấy Ronald cũng đâu thể thấy . đợi mình bước ra ngoài... Quả thực, chỉ có mong muốn duy nhất là ra khỏi chỗ này. Nhưng thừa biết mình nên nghe theo bản năng, nếu muốn chết. Mình cần phải nấp kỹ và đợi cứu viện đến. Mila thấy đó là quyết định khôn ngoan nhất. Bởi có thể lịm bất cứ lúc nào. Có khẩu súng, cũng an tâm phần nào. Biết đâu cũng có vũ khí. Nhưng Ronald xem vẻ giỏi về khoản dùng vũ khí, chí ít cũng giỏi bằng . Tuy vậy, có thể chỉ đóng vai cha xứ Timothy nhút nhát và sợ sệt. Suy cho cùng, có thể che giấu những năng lực khác của mình. Mila co người lại bên dưới chiếc bàn trong gian phòng ăn mênh mông, nghe ngóng. Tiếng vang giúp gì được cho . Nó khuếch đại những thanh cần thiết, những tiếng cót két xa xăm ma quái, lừa mị mà thể lý giải được. Mí mắt bắt đầu cụp xuống. thể thấy mình. thể thấy được mình. tự nhắc nhắc lại trong đầu. biết mình có vũ khí. Nếu gây tiếng động và sử dụng đèn pin để tìm kiếm mình, coi như tiêu đời. Những màu sắc quái dị bắt đầu nhảy múa trước mắt Mila. Chắc là do thuốc. tự nhủ. Các vệt màu sắc biến thành những hình thù nhảy múa. Đó thể là do tưởng tượng ra. thực tế, chúng giống như những tia chớp bất thần lóe lên ở nhiều chỗ khác nhau trong phòng. Thằng khốn nạn ở đây. dùng đèn flash! Mila cố nhắm bắn. Nhưng những chớp sáng chói mắt cộng thêm tác động làm suy yếu của thuốc khiến thể tìm được mục tiêu. bị cầm tù trong cái kính vạn hoa khổng lồ. lắc đầu, nhưng còn kiểm soát được mình nữa. giây sau cảm thấy luồng run rẩy chạy qua tay và chân, như thể cơn động kinh thể kiểm soát. Khi cố dừng nó lại, ý nghĩ về cái chết tiếp tục quyến rũ với lời hứa hẹn rằng nếu nhắm mắt, tất cả chấm hết. Mãi mãi. Bao nhiêu thời gian trôi qua? Nửa giờ? Mười phút? Còn bao nhiêu lâu nữa? Ngay lúc đó, nghe thấy . ở gần, rất gần. Cách bốn hay năm mét, hơn. Rồi thấy . Chuyện đó chỉ kéo dài chưa đầy giây. Trong vùng ánh sáng bao quanh , chỉ kịp nhìn thấy nụ cười ghê rợn gương mặt . Mila biết phát ra vào bất cứ lúc nào, và còn đủ sức để bắn nữa. Do đó phải hành động ngay, dù có nguy cơ bị lộ. nhắm bắn trong bóng tối, chĩa nòng súng về nơi nghĩ tái xuất trong ánh chớp đèn flash. Cũng có nghĩa là chỗ ngẫu nhiên, nhưng còn lựa chọn nào khác đâu. vừa định bóp cò Ronald bắt đầu cất tiếng hát. Vẫn giọng hát tuyệt vời của cha Timothy lúc hát bài thánh ca trước chứng kiến của cả nhóm điều tra. nghịch lý và sai lầm khi năng khiếu như thế lại nằm trong trái tim lạnh lùng của kẻ sát nhân. Và từ trái tim đó cất lên khúc hát chết chóc rợn người. Lẽ ra nó có thể dịu dàng và cảm động. Nhưng Mila chỉ cảm thấy hãi hùng. Hai chân nhũn ra, cũng giống như các bắp thịt nơi cánh tay. Người trượt xuống sàn. Ánh chớp đèn flash lóe lên. Trạng thái lơ mơ phủ lên như tấm chăn lạnh. nghe thấy tiếng bước chân của Ronald tiến lại gần để lôi ra. Lại ánh chớp nữa. Hết rồi. nhìn thấy mình. ra, phương thức giết người của quan trọng mấy đối với Mila. buông xuôi trước lời nịnh nọt của cái chết với bình thản ngờ. Những ý nghĩ sau cuối của là dành cho bé số sáu. Mình bao giờ biết được tên của em... ánh chớp phủ trùm lên toàn bộ cơ thể . Khẩu súng bị tước mất khỏi tay . Hai bàn tay tóm lấy . Mila cảm thấy mình bị nhấc lên. cố điều gì đó, nhưng thanh cứ mắc kẹt lại trong cổ họng. ngất . Mila thức dậy khi cảm thấy cơ thể mình nhấp nhô theo nhịp: Ronald vác vai và trèo lên các bậc thang. lại ngất lần nữa. Mùi amoniac rất nồng lôi Mila ra khỏi giấc ngủ nhân tạo. Ronald lắc cái lọ trước mũi . trói tay nhưng muốn tỉnh lại. Cơn gió lạnh lẽo thổi vào mặt . Họ ở ngoài trời. Nhưng ở đâu? Mila cảm thấy mình ở cao. Rồi nhớ đến tấm ảnh chụp nhi viện phóng to mà bác sĩ Chang cho xem để chỉ nơi Billy Moore rơi xuống. Cái tháp. Mình ở tháp! Ronald quay trong thoáng. Mila nhìn thấy tiến đến gờ tường và nhìn xuống phía dưới. muốn quăng mình xuống đó! Ronald quay lại, túm lấy chân Mila và kéo đến gờ tường. Dùng chút sức tàn còn sót lại, Mila cố đá chân nhưng vô hiệu. thét lên, giãy giụa. Nỗi tuyệt vọng dâng ngập hồn . nhấc lên, gác người nằm ngửa lên gờ tường. Đầu ngả ra đằng sau, Mila trông thấy cái hốc đen ngòm phía dưới. Rồi qua làn tuyết, nhận thấy những ánh đèn xe cảnh sát lao đến xa lộ. Ronald ghé sát vào tai Mila. cảm thấy hơi thở ấm nóng khi thầm: - Muộn quá rồi, chúng còn thời gian nữa... Rồi đẩy . Mặc dù hai tay bị trói sau lưng, Mila vẫn bíu được gờ tường trơn tuột. dùng hết sức để chống lại cú đẩy, nhưng biết mình thể cầm cự lâu được. Đồng minh duy nhất của là lớp băng phủ nền tháp. Nó khiến cho hai bàn chân của Ronald trượt khi tìm điểm tựa để đẩy ra khỏi gờ tường. nhìn thấy khuôn mặt của nhăn nhúm lại vì gắng sức. Rồi nổi xung lên trước kháng cự kiên cường của nạn nhân. thay đổi chiến thuật và quyết định nâng chân qua gờ tường. đứng thẳng người lên ngay trước mặt . Đúng vào lúc đó, bản năng sống còn giúp Mila dồn mọi sức lực còn lại để thúc đầu gối vào bụng dưới gã đàn ông. Ronald lảo đảo lùi lại, há miệng thở, hai tay ôm lấy phần giữa hai chân. Mila nhận ra đây là cơ hội duy nhất của mình trước khi kịp hồi phục. còn sức mạnh, đồng minh duy nhất của là trọng lực. Vết thương nơi vai đau xé ruột nhưng mặc kệ. gượng dậy. Bây giờ lớp băng trơn trượt chống lại , nhưng vẫn lấy đà lao vào Ronald, khiến mất thăng bằng. vung tay tìm điểm tựa, nhưng lúc này nửa thân người nằm ở ngoài gờ tường. Khi nhận ra còn cơ hội thoát chết, Ronald vươn bàn tay ra định túm lấy Mila và kéo rơi xuống cùng. nhìn thấy những ngón tay của lướt qua ve áo khoác da của mình, rồi từ từ rơi xuống, như thể những bông tuyết làm cho cú ngã chậm lại. Bóng tối nuốt chửng lấy . 19 Tối đen như mực. Vách ngăn tuyệt đối giữa ngủ và thức. Cơn sốt trở nặng. Con bé cảm thấy điều đó ở đôi má ửng hồng, đôi chân đau nhức và cái dạ dày sôi sục. Nó xác định được ngày đêm. mình nằm đó được vài giờ hay vài tuần. Khái niệm thời gian tồn tại trong cái bụng của con quái vật nuốt chửng nó vào: thời gian cứ hết co vào rồi lại giãn ra, giống như cái dạ dày chầm chậm tiêu hóa bữa ăn. cách vô ích. Ở đây, thời gian chẳng dùng để làm gì được. Bởi vì nó thể trả lời câu hỏi quan trọng nhất. Bao giờ chuyện này chấm dứt? Bị tước khái niệm thời gian là trừng phạt kinh khủng nhất. Hơn cả cơn đau nơi cánh tay trái thỉnh thoảng lại lan đến cổ và dồn ép lên thái dương khiến con bé chịu nổi. Bởi giờ nó điều. Tất cả chuyện này là đòn trừng phạt Tuy vậy, nó dám chắc mình bị phạt vì tội gì. Chắc tại mình nghe lời bố mẹ, hay vòi vĩnh, chịu uống sữa mà lén đổ khi bố mẹ để ý. Mình đòi bố mẹ mua con mèo và hứa chăm sóc nó, nhưng khi có Houdini mình lại đòi con chó làm bố mẹ nổi trận lôi đình. Bố mẹ bảo thể bỏ con mèo , còn mình cứ cố công giải thích cho họ hiểu là Houdini ưa mình. Cũng có thể tại điểm số của mình tốt. Năm nay bảng tổng kết học kỳ đầu của mình đúng là thảm họa, mình phải thi lại môn địa lý và vẽ. Hoặc là tại vì ba điếu thuốc lá mình lén hút nóc phòng tập thể thao cùng với ông họ, nhưng mình đâu có hít khói vào phổi. Chắc có lẽ vì mấy cái kẹp tóc hình con bọ rùa mà mình lấy cắp ở trung tâm thương mại, mình thề là mình chỉ ăn cắp đúng lần duy nhất. Cũng tại mình cứng đầu nữa, nhất là khi mẹ cứ muốn chọn váy áo cho mình. Mẹ hiểu mình lớn và mẹ mua toàn những món mình chẳng thích, vì bây giờ mẹ với mình cùng gu thời trang nữa... Khi con bé tỉnh, nó tìm lời giải thích, tìm nguyên nhân cho những điều xảy ra. Nó nghĩ đến những điều vô lý nhất. Nhưng cứ mỗi lần nó tưởng tìm ra nguyên nhân mọi lý lẽ lại đổ ụp như lâu đài xây bằng những quân bài, vì đau đớn mà nó chịu quá lớn so với lỗi lầm nó phạm phải. Ngược lại, đôi lúc con bé phát cáu vì bố mẹ chưa chịu đến tìm mình. Hai người đợi cái gì mà chưa chịu đến giải thoát cho mình? Hay cả hai quên mất mình là con của họ? Nhưng rồi nó thấy hối tiếc ngay. Nó lại thầm gọi bố mẹ trong đầu, với hy vọng có thể thần giao cách cảm. Đó là cứu cánh duy nhất còn lại của nó. Cũng có những lúc nó tin rằng mình chết. Phải, mình chết rồi, người ta chôn mình xuống dưới này. ra mình nhúc nhích được là vì mình nằm trong quan tài. Mình mãi mãi như thế này thôi… Nhưng cơn đau lập tức nhắc nhở rằng nó còn sống. Cơn đau vừa là án phạt, lại vừa là giải thoát, giúp lôi nó ra khỏi cơn mê và đưa nó trở về thực tại. Giống như lúc này. thứ chất lỏng nong nóng chạy vào cánh tay phải của con bé. Nó cảm thấy thế. dễ chịu. Có mùi thuốc. Ai đó chăm sóc nó. Nó chắc liệu có nên vui mừng hay . Vì chuyện này đồng nghĩa với hai điều: thứ nhất, nó đơn độc, thứ hai, nó có mặt của người kia là tốt hay xấu. Nó biết đợi người kia. Nó biết khi nào người ta xuất . Chẳng hạn, nó hiểu cơn mệt mỏi và buồn ngủ mà nó gặp phải do cơ thể nó quyết định. Đó là do loại thuốc gây ngủ. Chuyện đó chỉ diễn ra khi người kia xuất . Người kia ngồi gần nó, kiên nhẫn dùng cái thìa để đút cho nó ăn. Vị của thức ăn khá ngọt và nó cần phải nhai. Sau đó người ta cho nó uống nước. Người ta bao giờ chạm vào nó, đưa cho nó thứ gì hết. Nó những muốn chuyện, nhưng miệng nó thốt nên lời, cổ họng nó phát ra nổi thanh. Đôi khi nó cảm thấy người kia cựa quậy bên cạnh mình, nhưng có lúc nó lại có cảm tưởng người ta chỉ quan sát nó trong bất động. cơn đau nữa. Tiếng thét tắc nghẹn vang dội trong các vách tường của nhà ngục giam giữ con bé, và làm nó tỉnh dậy. Lúc đó nó nhận thấy thứ. Trong bóng tối, nó thấy ánh sáng yếu ớt ở phía xa. chấm đỏ đột nhiên xuất , đánh dấu giới hạn tầm quan sát của nó. Cái gì vậy? Nó cố nhìn cho hơn nhưng làm được. Sau đó nó cảm thấy gì đó trong bàn tay phải. thứ trước đó diện. Nó có độ rắn đồng đều và sần sùi, giống như có vảy. tởm. Chắc chắn là con thú chết. Con bé muốn vứt nhưng vật đó dính chặt vào lòng bàn tay của nó. Dùng chút sức lực còn lại, nó cố tống khứ vật kia . Nhưng khi nhúc nhắc cổ tay, nó bắt đầu hiểu ra... Đó phải là con thú chết. Món đồ khá rắn vì được làm bằng nhựa. phải dính vào lòng bàn tay của con bé mà chỉ được gắn vào đó bằng băng dính. đó có vảy, mà là các nút bấm. Đó là cái điều khiển từ xa. Đột nhiên tất cả trở nên ràng. Con bé chỉ cần nhấc cổ tay lên chút, hướng món đồ về phía chấm đỏ và ấn bừa cái nút. loạt tiếng động tiếp theo cho biết nó nhầm lẫn. Đầu tiên là tiếng tách. Sau đó là tiếng tua băng. Những thanh quen thuộc của cái đầu máy. Đồng thời, màn hình bật sáng trước mắt nó. Lần đầu tiên có nguồn sáng trong gian phòng. Bao quanh nó là những vách tường bằng đá tăm tối. Con bé nằm thứ nom như giường bệnh, có tay tựa và lưng dựa bằng thép. Bên cạnh nó là cái giá treo bình dịch truyền nối với mũi kim găm ở tay phải của nó. Cánh tay trái hoàn toàn khuất dạng sau những lớp băng quấn chặt, lớp băng này cũng cố định cả lồng ngực của nó. chiếc bàn là những hộp thức ăn cho trẻ con. Và rất nhiều, cực kỳ nhiều thuốc. Mặc dù vậy, phía sau cái ti vi vẫn là bóng tối đen ngòm gì có thể xuyên thủng. Rốt cuộc cuốn băng cũng tua xong và đột ngột dừng lại. Sau đó nó bắt đầu chạy, chậm rãi. Tiếng rột roẹt báo hiệu phần mở đầu của bộ phim. Tiếp đến là tiếng nhạc vui tươi và chói gắt - thanh hơi bị méo. Rồi màn hình lên các vệt màu. người đàn ông thó mặc quần yếm màu xanh, đội mũ cao bồi xuất . Ông ta có cả con ngựa chân cao. Ông lùn cố trèo lên ngựa nhưng được, lần nào cũng bị ngã và bị con ngựa chế giễu. Chuyện đó tiếp diễn trong khoảng mười phút. Sau đó bộ phim hoạt hình kết thúc mà có đoạn giới thiệu ở cuối phim. Nhưng cuốn băng vẫn đều đều chạy tiếp. Khi hết băng, nó tự động tua ngược lại. Và bộ phim được phát trở lại từ đầu. Vẫn ông già đó. Vẫn con ngựa mà ông ta tài nào leo được lên lưng. Nhưng con bé vẫn tiếp tục xem. Dù nó biết chuyện gì xảy ra với con ngựa ưa chọc ghẹo ấy. Nó hy vọng. Bởi đó là thứ duy nhất còn sót lại với nó. Hy vọng. phó thác hoàn toàn cho nỗi kinh hoàng. Có lẽ người chọn bộ phim hoạt hình này cho nó có ý đồ ngược lại. Nhưng việc ông lùn kia chịu từ bỏ mà cứ cố gắng mãi, mặc cho những cú ngã đau đớn tiếp thêm can đảm cho nó. Nào, lại trèo lên nào! Nó thầm với nhân vật trong phim. Trước khi giấc ngủ lại ập đến với nó. Quận xxxx Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin Ngày 11 tháng 12 năm hành Kính gửi: Ngài giám đốc, Alphonse Bérenger Nhà tù tối mật, quận xxxx Trại giam số 45 Tiêu đề: Phúc đáp báo cáo “mật” ngày 23 tháng 11 Thưa ông Bérenger, Theo cầu của ông, tôi cho điều tra thêm về đối tượng bị giam giữ trong trại giam của ông và cho đến tại chỉ được điểm danh bằng số hiệu RK-357/9. Tôi lấy làm tiếc phải thông báo với ông rằng các cuộc điều tra sâu hơn về danh tính của mang lại bất kỳ kết quả nào. Tôi nhất trí với nghi ngờ của ông rằng phạm nhân RK-357/9 có thể gây ra tội ác nghiêm trọng trước đây và làm mọi cách để che giấu chuyện đó. Ở thời điểm tại, việc xét nghiệm ADN của là phương tiện duy nhất chúng ta có để khẳng định hoặc loại trừ nghi ngờ . Tuy nhiên, như ông biết, chúng ta thể ép buộc phạm nhân RK-357/9 thực cuộc xét nghiệm này. thực tế, điều đó khiến chúng ta xâm phạm nghiêm trọng các quyền lợi của , vượt quá mức độ cho phép của hành vi vi phạm khiến bị bắt giữ ( chịu cung cấp giấy tờ cho nhân viên công lực). Tình thế khác nếu như có những bằng chứng xác thực và ràng cho thấy phạm nhân RK-357/9 chịu trách nhiệm về tội ác nghiêm trọng, hoặc nếu chúng ta có “những động cơ nghiêm túc vì an nguy của xã hội”. tại, điều này chưa được chứng thực. Với các luận điểm , biện pháp duy nhất để chúng ta thu được ADN của là việc lấy mẫu trực tiếp, với điều kiện mẫu thử hữu cơ đó bị rơi rớt ngẫu nhiên hoặc tự đối tượng bỏ lại trong các sinh hoạt hàng ngày của . Xét thấy cung cách vệ sinh thái quá của phạm nhân RK-357/9, văn phòng chúng tôi cho phép các quản giáo được vào khám xét trong xà lim của mà báo trước với mục đích thu lượm mẫu thử hữu cơ đề cập ở . Hy vọng cách thức này giúp chúng ta đạt được mục tiêu cách hợp lý. Tôi xin gửi đến ông lời chào trân trọng. Phó biện lý Matthew Sedris
20 Bệnh viện quân y R. Ngày 16 tháng 2 - Họ thích gì kệ họ! là cảnh sát tốt, chưa? Trung sĩ Morexu lôi toàn bộ tinh thần digan của mình ra để bày tỏ ủng hộ với Mila. Ông chưa bao giờ với bằng giọng đau khổ như thế. Gần như kiểu cha với con. Tuy nhiên, cảm thấy mình xứng đáng với ủng hộ ấy. Ông sếp bất ngờ gọi cho Mila ngay khi tin tức về chuyến phiêu lưu trong đêm đến trại mồ côi của lan ra. Họ quy trách nhiệm về cái chết của Ronald Dermis cho , Mila chắc chắn như thế, mặc dù đó là cách phòng vệ chính đáng. thấy mình nằm trong bệnh viện quân y. Roche khôn ngoan chọn bệnh viện dân nhằm tránh con mắt soi mói của báo chí. Vì vậy Mila được ở hẳn khu riêng. Khi hỏi những người bệnh khác đâu, câu trả lời ngắn gọn nhận được là khu điều trị này được thiết kế cho việc cách ly những người bị tấn công bằng vũ khí sinh học. Giường được dọn mỗi sáng, khăn trải giường được giặt sạch và ủi thẳng thớm. Trong khoa dược, các loại thuốc men được bổ sung nhanh chóng. Tất cả những ưu đãi này chỉ nhằm phục vụ cho duy nhất khả năng: thằng cha căng chú kiết nào đấy quyết định phát tán loại virus hoặc vi khuẩn biến đổi gen tiêu diệt loài người. Cái trò rồ dại nhất quả đất, Mila thầm nghĩ. Vết thương nơi cánh tay của được khâu khoảng bốn chục mũi, bởi người bác sĩ phẫu thuật tốt bụng hề đề cập đến các vết sẹo khác của khi thăm khám. - thể bị bắn ở vị trí nào nhàng hơn nữa đâu. - Ông ta chỉ có thế. - Có liên quan gì giữa virus vi khuẩn và đạn thế ạ? - hỏi khích. Ông ta chỉ bật cười. Sau đó, bác sĩ khác đến khám cho hai hay ba bận gì đấy, đo huyết áp và cặp nhiệt độ cho . Tác dụng của những loại thuốc ngủ hoạt tính mạnh mà cha Timothy chuốc cho tiêu tan sau vài tiếng đồng hồ. Thêm liều thuốc lợi tiểu nữa là giải quyết xong vấn đề. Mila có đầy đủ thời gian để suy nghĩ. thể nghĩ đến bé số sáu. bé có cả bệnh viện cho mình như . Hy vọng lớn nhất của Mila là Albert thường xuyên gây ngủ cho bé. Các chuyên gia y khoa được Roche hỏi về khả năng sống sót của bé đều tỏ ra bi quan khi căn cứ mức độ thương tổn trầm trọng về thể chất và cú sốc tinh thần mà em phải chịu đựng. Thậm chí có thể bé chưa nhận ra mình bị mất cánh tay, Mila thầm nghĩ. Điều này thường xảy ra cho những người bị mất cánh tay. nghe kể về số thương binh sau khi bị mất cánh tay vẫn còn cảm giác ở đó, thậm chí lâu lâu còn cảm thấy ngứa. Các bác sĩ gọi đó là “ý thức của cánh tay ma”. Ý nghĩ này quấy rầy yên, đặc biệt là trong tĩnh lặng của phòng bệnh. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay thấy hối tiếc vì có bạn bè. Sau cú điện thoại của Morexu, chẳng ai đến thăm , kể cả Goran, Boris hay Stern, chứ đừng đến Rosa. Chuyện này chỉ lên điều: họ quyết định xem làm gì với , và liệu có tiếp tục giữ ở lại với nhóm điều tra hay . Ngay cả khi Roche dù gì cũng là người ra quyết định cuối cùng. giận mình vì khờ khạo đến thế. Có lẽ đáng bị thất sủng. Ý nghĩ duy nhất an ủi là Ronald Dermis chắc chắn phải Albert. Nếu chẳng thể làm gì cho bé số sáu được nữa. Nằm mình trong phòng bệnh, Mila biết chút gì về tiến triển của cuộc điều tra. hỏi thăm tình hình qua người y tá phục vụ bữa sáng và được đưa cho tờ nhật báo sau đó lúc. Vụ án chiếm hết sáu trang đầu. Lượng thông tin ít ỏi lọt ra ngoài được dùng dùng lại nhiều lần và thổi phồng hết cỡ. Mọi người khát thông tin. Sau khi công chúng được biết về tồn tại của bé số sáu, tinh thần đoàn kết dâng cao khắp cả nước, đẩy mọi người đến chỗ làm những chuyện thể tưởng tượng được, chẳng hạn như tổ chức những buổi cầu nguyện hoặc những nhóm tương trợ. chiến dịch được phát động: “Mỗi cửa sổ cây nến”. Những ánh nến thể trông chờ vào “phép màu”, và chỉ được tắt khi bé số sáu trở về với gia đình. Những người từ lâu ngó ngàng đến ai, nay nhờ vụ án này mà được trải qua kinh nghiệm mới về tiếp xúc giữa con người với con người. Họ còn phải tìm cớ để thiết lập mối quan hệ với nhau nữa, bởi từ giờ mọi người có điểm chung là thương cảm dành cho bé. Điều đó giúp họ giao tiếp được với nhau. Mọi người làm như thế ở khắp nơi: siêu thị, quán bar, trong lúc làm việc, dưới tàu điện ngầm. truyền hình, dù là chương trình nào cũng chỉ nghe nhắc đến chuyện đó. Tuy nhiên, trong số tất cả những sáng kiến đưa ra, có điều đặc biệt gây tiếng vang, đến mức làm rối trí các điều tra viên. khoản tiền thưởng. Mười triệu cho bất cứ ai cung cấp thông tin giúp cứu sống bé số sáu. khoản lớn, đủ để gây tranh cãi dữ dội. số người tin rằng nó làm hỏng thể của tinh thần đoàn kết. Ngược lại, số khác lại cho đó là ý tốt, nhằm giúp cho mọi việc chuyển động, bởi đằng sau tấm mặt nạ vị tha, lòng ích kỷ vẫn luôn ngự trị và có thể được khai thác bằng khoản lợi lộc trước mắt. Thế là, dù nhận ra, đất nước lại lần nữa chia rẽ. Sáng kiến thưởng tiền đến từ quỹ Rockford. Khi Mila hỏi bà y tá ai là người đứng sau quỹ từ thiện kia, bà ta giương to mắt kinh ngạc. - Mọi người đều biết đó là ngài Joseph B. Rockford. Phản ứng của bà y tá làm Mila hiểu tự cắt đứt với thế giới bên ngoài đến mức nào khi đắm mình vào những cuộc truy tìm bọn trẻ mất tích và tìm kiếm lời giải cho các vấn đề của bản thân. - Tôi xin lỗi, tôi biết. - đáp. Mila cảm thấy vô lý khi đường đời của nhà tài phiệt và bé vô danh giao nhau. Hai con người cho đến thời điểm này có hai cuộc sống quá khác biệt, và họ có lẽ tiếp tục con đường của riêng mình cho đến điểm kết thúc nếu như Albert đưa họ xích lại gần nhau. Với suy nghĩ ấy, thiếp , và tận hưởng giấc ngủ mộng mị, giúp tẩy sạch những ngày kinh hoàng vừa qua khỏi đầu . Sau khi thức giấc cách thư thái, thấy mình đơn độc. Goran ngồi cạnh giường . Mila ngồi dậy, tự hỏi nhà tội phạm học ở đó được bao lâu rồi. Ông vội trấn an : - Tôi thích đợi hơn là đánh thức dậy. có vẻ rất nhõm. Tôi có làm gì sai đấy? - . - dối. ra, giáo sư làm bất ngờ vào lúc có phòng bị nào cả. Trước khi ông nhận thấy bối rối của , Mila vội đổi chủ đề câu chuyện. - Họ muốn giữ tôi ở đây để theo dõi. Nhưng tôi là chiều nay tôi ra viện. Goran nhìn đồng hồ. - Thế phải nhanh lên. Tối đến nơi rồi đấy. Mila nhận ra mình ngủ nhiều đến thế. - Có tin gì mới ạ? - Tôi vừa mới có buổi họp khá dài với chánh thanh tra Roche. Vậy ra đây là lý do khiến ông ta đến, nghĩ bụng. Ông ta muốn đích thân thông báo rằng còn ở trong nhóm điều tra nữa. Nhưng hóa ra nhầm. - Chúng tôi tìm ra cha Rolf. Mila thấy bụng quặn lên. nghĩ đến khả năng xấu nhất. - Ông ta chết cách đây khoảng năm, chết tự nhiên. - Ông ấy được chôn ở đâu? Nghe đến đây, Goran hiểu Mila đoán ra mọi chuyện. - Phía sau nhà thờ. Ở đó còn những cái hố khác, chôn nhiều xác động vật. - Cha Rolf đem xuống mồ cùng ông ấy vài bí mật nho . - Có vẻ như thế . Ronald bị chứng rối loạn nhân cách. Đó là tên sát nhân hàng loạt hoàn thiện mình, và cha Rolf biết điều đó. Việc giết thú vật rất điển hình trong trường hợp này. Mọi thứ luôn diễn ra như vậy: khi đối tượng còn thỏa mãn với việc giết thú, chuyển mục tiêu sang đồng loại của mình. Ronald cũng thế, sớm hay muộn, chuyển sang giết người. Xét cho cùng việc đó là phần trong vốn liếng cảm xúc từ thời ấu thơ của . - Nhưng giờ chúng ta chặn được . Goran lắc đầu quầy quậy: - , ra chính Albert mới là kẻ ngăn chặn được . Đó là thực tế đầy mâu thuẫn. - Nhưng Roche thà bị lên cơn đau tim còn hơn chấp nhận chuyện này! Mila nghĩ giáo sư Goran tìm cách trì hoãn việc công bố chuyện bị loại khỏi cuộc điều tra, nên thẳng toẹt luôn: - Tôi bị đuổi rồi, phải ? Goran tỏ ra bất ngờ. - Sao lại thế? - Vì tôi làm chuyện ngu ngốc. - Chúng ta ai chẳng từng dại dột. - Tôi gây ra cái chết của Ronald Dermis, vậy là chúng ta chẳng bao giờ biết được Albert tìm ra vụ này như thế nào... - Trước tiên, tôi tin rằng Ronald dự trù trước cái chết của mình. muốn chấm dứt những gì hành hạ từ nhiều năm nay. Cha Rolf biến thành thầy tu giả hiệu, thuyết phục Ronald rằng có thể sống như người phụng Chúa và đồng loại. Nhưng lại muốn thương đồng loại: muốn giết người để tìm thú vui. - Vậy còn Albert, làm thế nào gã biết được? Khuôn mặt của Goran bỗng sa sầm. - Hẳn gã tiếp xúc với Ronald ở thời điểm nào đó. Tôi chưa thể nghĩ ra được cách lý giải khác. Gã hiểu ra điều mà cha Rolf biết trước đó. Và gã tìm đến vì có nhiều điểm chung với Ronald. Theo cách nào đó, chúng tìm thấy nhau và nhận ra nhau. Mila thở dài, nghĩ đến định mệnh. Chỉ có hai người hiểu được Ronald Dermis trong suốt cuộc đời của . là cha xứ, người tìm được giải pháp nào tốt hơn là che giấu . là đồng , kẻ có khả năng bóc trần chân tướng của . - Đáng lẽ là người thứ hai... Câu của Goran kéo Mila ra khỏi dòng suy nghĩ. - Sao ạ? - Nếu ngăn được , Ronald giết , như làm với Billy Moore nhiều năm về trước. Lúc ấy, ông rút từ túi áo trong ra chiếc phong bì và đưa cho Mila. - Tôi nghĩ có quyền xem mấy thứ này... Mila cầm lấy phong bì và mở ra. Bên trong phong bì có những tấm ảnh Ronald chụp lúc truy tìm trong nhà ăn. xuất ở góc của tấm ảnh. Co quắp dưới gầm bàn, đôi mắt đầy kinh hoàng. - Tôi được ăn ảnh cho lắm. - Mila cố gắng pha trò. Nhưng Goran hiểu dao động. - Sáng nay, Roche giải tán đội trong hai mươi tư giờ... Hay ít ra là đến khi xác chết tiếp theo xuất . - Tôi muốn nghỉ. Tôi muốn tìm ra bé số sáu. - Mila . - bé thể chờ đợi được. - Tôi tin ngài chánh thanh tra biết điều đó... Nhưng ông ta thử chơi con bài khác, tôi e là vậy. - Món tiền thưởng. - Nó có thể mang lại những kết quả bất ngờ. - Vậy còn việc tìm kiếm trong danh sách những người hành nghề y? Còn giả thiết cho rằng Albert là bác sĩ bị rút giấy phép? - hướng khá phập phù. ai thực tin vào nó ngay từ đầu. Cũng như tôi nghĩ ta có thể rút ra được gì từ việc truy tìm nguồn gốc các loại thuốc giúp gã duy trì sống cho bé. Tay này có cả ngàn phương cách để có được chúng. Gã rất ranh ma và có chuẩn bị từ trước, đừng quên điều đó. - Kỹ càng hơn chúng ta nhiều, có vẻ như thế. - Mila đá xoáy. Goran phản đối. - Tôi đến đây để đưa , phải để tranh cãi. - Đưa tôi ... Giáo sư định đưa tôi đâu? - ăn tối... À, nhân tiện, chúng ta xứng hô bớt khách sáo nhé. Sau khi rời bệnh viện, Mila đòi được tạt qua studio. muốn tắm rửa và thay quần áo. nghĩ nếu như chiếc áo phông bị đạn xé rách và phần còn lại của trang phục bị vấy máu, mặc nguyên như thế mà . Thực ra lời mời ăn tối bất ngờ khiến bối rối, và muốn mình bốc mùi hôi hoặc mùi cồn iốt. Thỏa thuận ngầm giữa với giáo sư Gavila - mặc dù từ giờ phải làm quen với việc gọi ông bằng tên - là chuyện này được coi như chuyến chơi, và sau bữa tối, lập tức quay về studio để tiếp tục công việc. Dù sao , ngay cả nếu như điều này khiến cho thấy có lỗi với bé số sáu, cũng khỏi mừng rỡ về lời mời. Do vết thương, Mila tắm bằng vòi sen được. chỉ có thể lau rửa cẩn thận từng chút , đến mức hết cả bình nước nóng. mặc chiếc áo phông cổ tròn màu đen. Chiếc quần jean còn lại nom khiêu khích vì quá bó sát, nhưng còn lựa chọn nào khác. Chiếc áo khoác da của bị rách ở vai trái, chỗ đạn bắn, nên thể mặc được. Tuy vậy rất ngạc nhiên khi thấy giường mình là chiếc áo khoác màu xanh quân đội, với lời nhắn: “Ở đây, cái lạnh gây chết nhiều hơn súng đạn. Chào mừng trở lại với mọi người. Thân ái, Boris”. cảm thấy ấm lòng và biết ơn. Nhất là khi Boris tự coi mình như “người bạn”. Điều đó khiến yên tâm rằng chàng thử cưa cẩm mình. chiếc áo khoác còn có hộp kẹo bạc hà, đóng góp của Stern cho động thái chăm sóc thân tình này. từ nhiều năm nay, Mila mặc gì ngoài màu đen. Nhưng chiếc áo khoác xanh lá rất hợp ý . Nó lại vừa nữa chứ. Khi trông thấy từ studio bước xuống, Goran có vẻ nhận ra bề ngoài mới mẻ của . Ông lúc nào cũng lơ đễnh và chẳng chú ý gì đến vẻ ngoài của người khác. Hai người bộ đến nhà hàng. Cuộc dạo khá dễ chịu, và nhờ món quà của Boris, Mila bị lạnh. Tấm biển steak house hứa hẹn món thịt bò tái Argentina mềm ngon. Họ ngồi vào bàn dành cho hai người cạnh cửa sổ. Bên ngoài, tuyết phủ trắng tất cả mọi thứ, bầu trời ráng đỏ u dự báo những đợt tuyết rơi khác trong đêm. Bên trong nhà hàng, mọi người cười vô tư lự, điệu nhạc jazz làm nóng bầu khí, nhưng át những cuộc đối thoại vui vẻ. Trong thực đơn, món nào cũng có vẻ hấp dẫn, khiến Mila phải mất lúc để lựa chọn. Cuối cùng, chọn món bít-tết chín kỹ dùng kèm với khoai tây đút lò và lá hương thảo. Goran gọi miếng sườn và salad cà chua. Hai người chỉ dùng nước khoáng có ga. Mila biết phải về chuyện gì: công việc, hay cuộc sống riêng. Lựa chọn thứ hai dù rất thú vị nhưng lại khiến thoải mái. Tuy nhiên, trước hết, phải giải tỏa thắc mắc của mình cái . - Thực chuyện đó diễn ra như thế nào? - Chuyện gì cơ? - Roche muốn loại em ra khỏi cuộc điều tra, nhưng rồi ông ta thay đổi ý định. Tại sao vậy? Goran ngần ngừ, nhưng rồi ông quyết định hết. - Chúng tôi tiến hành bỏ phiếu xem có giữ em lại hay . - Bỏ phiếu á? - Mila ngạc nhiên. - Vậy là đa số muốn như vậy. - chênh lệch lớn đấy. - Nhưng... sao lại thế được? - Ngay cả Sarah Rosa cũng bỏ phiếu thuận giữ em ở lại. - Giáo sư vừa vừa suy đoán phản ứng của . Mila choáng váng. - Ngay cả chị ta, kẻ thù đội trời chung của em! - Lẽ nào em có ác cảm với Rosa đến thế! - ra, em lại nghĩ điều ngược lại kìa... - Rosa trải qua giai đoạn khó khăn. ấy vừa mới ly thân chồng. Mila định nhìn thấy hai vợ chồng họ cãi vã dưới cửa studio tối hôm nọ, nhưng lại thôi vì muốn tỏ ra quá tọc mạch. - Em rất tiếc. - Khi có con cái, chuyện này bao giờ dễ dàng. Mila có cảm giác như ý của Goran xa hơn là việc của Sarah Rosa, có lẽ nó liên hệ trực tiếp đến ông. - Con Rosa bị rối loạn ăn uống do ảnh hưởng từ chia tay của bố mẹ. Hai người vẫn tiếp tục sống dưới cùng mái nhà, nhưng em có thể tưởng tượng hệ quả của tình trạng đó rồi đấy. - lẽ việc này cho phép chị ta trút giận vào em? - Là người mới đến, hơn nữa lại là phụ nữ duy nhất còn lại trong nhóm ngoài ấy, em dễ dàng trở thành đích nhắm của Rosa. ấy thể trút giận vào Boris hay Stern, vì họ quen biết nhau nhiều năm rồi... Mila rót chút nước khoáng, sau đó tò mò của chuyển sang các đồng đội còn lại. - Em muốn hiểu họ hơn để có cách cư xử cho thích hợp, nếu ông phiền. - Ờ, theo tôi, với Boris khá dễ. Em nhìn thấy thế nào cậu ấy là như thế. - Quả vậy. - Mila công nhận. - Tôi cũng xin luôn, cậu ấy từng phục vụ trong quân đội và trở thành chuyên gia thẩm vấn. Tôi thường chứng kiến Boris làm việc, nhưng lần nào cậu ấy cũng khiến tôi kinh ngạc. Cậu ấy biết cách chui vào trong đầu của bất cứ người nào. - Em biết là Boris lại giỏi đến thế. - Cậu ấy giỏi, rất giỏi... Cách đây hai năm, tay nọ bị bắt giữ do bị tình nghi giết chết rồi phi tang xác của cậu mợ , hai người sống cùng nhà với . Em chưa từng thấy ai như thế đâu: lạnh lùng và cực kỳ điềm tĩnh. Sau mười tám giờ bị thẩm tra tích cực với năm cảnh sát luân phiên dồn ép, vẫn thừa nhận gì hết. Cuối cùng, Boris đến, ngồi hỏi hai mươi phút là thú nhận mọi thứ. - Thế cơ à! Vậy còn Stern? - Stern là người rất gan dạ. Tôi còn nghĩ chữ ấy đúng là được viết ra để miêu tả ấy. Stern kết hôn được ba mươi bảy năm, có hai cậu con trai sinh đôi, cả hai đều vào hải quân. - ấy có vẻ là người khá trầm. Em cũng thấy Stern rất ngoan đạo nữa. - Chủ nhật nào Stern cũng lễ nhà thờ, thậm chí còn hát trong ca đoàn. - Ngoài ra, em thấy trang phục của ấy thể tin nổi. Cứ như tài tử điện ảnh những năm 70. Goran bật cười đồng tình. Rồi ông nghiêm nghị trở lại. - Marie, vợ Stern ấy, phải chạy thận năm năm trời trong khi chờ ghép thận. Cuối cùng cách đây hai năm Stern hiến quả thận cho Marie. Ngỡ ngàng xen lẫn khâm phục, Mila thốt nên lời. Goran tiếp. - Người đàn ông này từ bỏ nửa phần đời còn lại của mình để tiếp chút hy vọng cho vợ. - Chắc ấy chị nhà lắm. - Phải, tôi nghĩ là thế. - Goran với chút chua chát mà Mila thể nhận thấy. Lúc đó thức ăn được dọn lên. Hai người ăn trong yên lặng, nhưng phải yên lặng nặng nề. Họ giống như hai người biết nhau đến nỗi cần phải liên tục dùng ngôn từ để lấp đầy khoảng trống cho đỡ lúng túng. - Có vài điều em phải . - Mila lên tiếng sau đó lúc. - Chuyện này xảy ra lúc em mới đến, vào đêm thứ hai khi em về nhà nghỉ của mình, trước lúc chúng ta dọn vào trong studio. - Em . - Cũng có thể là chẳng có gì hết, hoặc chỉ là linh cảm... nhưng em cảm thấy bị người ta theo dõi, lúc em về nhà nghỉ. - Cảm thấy nghĩa là thế nào? - Kẻ đó bắt chước nhịp bước của em. - Nhưng tại sao người đó theo dõi em? - Chính vì thế mà em kể với ai hết. Em cũng thấy chuyện này rất vô lý. Chắc em tưởng tượng... Goran ghi nhận lại thông tin và im lặng. Lúc cà phê được dọn lên, Mila nhìn đồng hồ. - Em muốn ghé chỗ này. - . - Vào giờ này sao? - Phải. - Thôi được, để tôi gọi thanh toán. Mila đề nghị chia tiền, nhưng Goran nhất định trả hết vì ông là người mời. Đúng kiểu lộn xộn đặc trưng - và cũng rất dễ thương nữa - khi ông rút từ trong túi ra chỗ giấy bạc, tiền xu và mấy tờ ghi chú nguệch ngoạc, vài quả bóng đủ màu rơi ra. - Của Tommy, con trai tôi đấy. - Ô, em biết là ông có... - Mila vờ vịt. - , đâu. - Ông vội và cụp mắt xuống. - Giờ hết rồi. Mila chưa bao giờ tham gia vào buổi an táng ban đêm. Thời điểm chôn cất Ronald Dermis được lựa chọn nhằm né tránh công chúng. Đối với , suy nghĩ cho rằng ai đó có thể trả thù vào cái xác cũng ghê rợn kém bản thân buổi mai táng. Các phu đào huyệt làm việc quanh cái hố. Họ dùng máy xúc. Mặt đất đông cứng khiến họ rất vất vả. Bốn người bọn họ đổi phiên cho nhau năm phút , hai người đào và hai người soi đèn pin. Thỉnh thoảng, người lại buột miệng chửi thời tiết giá lạnh, và để tự sưởi ấm, họ chuyển nhau chai Wild Turkey. Goran và Mila yên lặng quan sát cảnh tượng đào huyệt. Quan tài chứa xác của Ronald vẫn còn nằm trong chiếc xe thùng. Xa hơn chút là tấm bia đá tên tuổi hay ngày tháng, chỉ ghi độc con số. Cùng với hình thập tự . Lúc này, trong đầu Mila lên hình ảnh cú rơi của Ronald từ tháp xuống. Trong lúc rơi, Mila thấy gương mặt biểu sợ hãi hay kinh hoàng nào. Cứ như thể hề sợ chết. Có lẽ cũng giống như Alexander Bermann, thích giải pháp đó hơn. Chiều theo ham muốn xóa sổ bản thân mình mãi mãi. - Mọi chuyện vẫn ổn chứ? - Goran hỏi, phá vỡ thinh lặng của . Mila quay sang phía ông giáo sư. - Mọi chuyện vẫn ổn. Đúng lúc đó hình như thấy người đứng nấp sau cái cây trong nghĩa trang. nhìn kỹ hơn và nhận ra Feldher. Hóa ra đám tang của Ronald kín đáo đến thế. Feldher mặc chiếc áo khoác dày bằng len kẻ carô, trong tay cầm lon bia, tuồng như muốn nâng ly lần cuối với người bạn cũ thời thơ ấu, mặc dù có lẽ nhiều năm nay hai người gặp lại nhau. Mila nhìn việc theo hướng tích cực: ngay cả tại nơi quỷ sứ nằm xuống, vẫn có chỗ cho tình thương. Nếu có Feldher và trợ giúp vô tình của họ được đến đây. cũng xứng đáng được thưởng vì ngăn chặn tên sát nhân hàng loạt hoàn thiện kia - như cách của Goran. Ai mà biết có bao nhiêu nạn nhân tương lai được cứu thoát? Khi ánh mắt của họ gặp nhau, Feldher bóp bẹp lon bia và quay về phía chiếc xe hơi của đậu cách đó xa. lại quay về với căn nhà nơi bãi phế liệu, món trà nguội rót trong mấy cái ly cọc cạch, con chó có bộ lông màu gỉ sắt, và đợi cái chết vô danh ngày kia đến gõ cửa. Lý do thúc đẩy Mila đến dự buổi mai táng ngắn ngủi này có lẽ liên quan đến điều Goran với trong bệnh viện: “Nếu ngăn được , Ronald giết , như làm với Billy Moore nhiều năm về trước”. Và ai mà biết được, sau , có lẽ còn tiếp tục giết người. - Mọi người biết chứ, theo thống kê của chúng tôi có từ sáu đến tám tên giết người hàng loạt hoạt động đất nước này trong thời điểm tại. Tuy nhiên, chưa có người nào xác định được chúng. - Goran trong lúc các phu nhà đòn hạ huyệt cỗ quan tài gỗ. Mila choáng váng. - Sao có thể như thế được? - Bởi vì chúng ra tay cách ngẫu nhiên, có kịch bản. Hoặc vì chưa có ai xâu chuỗi được hai án mạng có vẻ rất khác biệt. Hay cũng có thể bởi vì các nạn nhân đáng được nhận cuộc điều tra chuyên sâu... Chẳng hạn như điếm bị giết rồi bị vứt xác xuống mương. Trong đa số trường hợp, cái chết đó là do ma túy, ma , hoặc khách hàng gây ra. Căn cứ mức độ rủi ro của cái nghề ấy, trung bình mười điếm bị giết, và phải lúc nào họ cũng rơi vào danh sách nạn nhân của bọn giết người hàng loạt. khó để chấp nhận chuyện này, nhưng nó là như vậy đấy. cơn gió xới tung những bông tuyết và bụi đất. Mila run lên, thu mình lại trong chiếc áo khoác. - Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? - hỏi. ra trong câu hỏi của giấu lời khẩn cầu. Nó chẳng có liên quan gì với vụ việc mà họ phụ trách, cũng như với cái nghề chọn. Đó là lời cầu nguyện, cách để chấp nhận bất lực của trong việc thấu hiểu động cơ của cái ác, nhưng cũng là lời cầu xin cứu rỗi. Dù sao cũng chờ đợi câu trả lời. Nhưng Goran lên tiếng: - Chúa trời im lặng. Quỷ dữ thầm. Hai người gì. Các phu nhà đòn lấp lỗ huyệt với chỗ đất đông cứng. Trong nghĩa trang chỉ còn tiếng xẻng vang lên. Rồi điện thoại di động của Goran đổ chuông. Ông còn chưa tìm được điện thoại trong túi áo choàng đến lượt di động của Mila réo vang. Họ cần phải nghe máy nhưng cũng biết rằng thi thể của bé thứ ba được tìm thấy. 21 Gia đình Kobashi - ông bố, bà mẹ và hai người con, cậu bé mười lăm và bé mười hai - sống trong khu biệt thự Capo Alto sang trọng. Sáu mươi hécta đầy cây xanh, với hồ bơi, sân quần ngựa, sân golf và nhà sinh hoạt cộng đồng dành riêng cho chủ nhân của bốn mươi tòa biệt thự trong khu. bến đỗ cho những người giàu có, gồm chủ yếu là các bác sĩ chuyên khoa, kiến trúc sư và luật sư. bức tường cao hai mét được khéo léo ngụy trang bằng hàng giậu là thứ ngăn cách thiên đường ấy với phần còn lại của thế giới. dịch vụ bảo vệ hai bốn hai bốn. Hệ thống bảy mươi camera an ninh giám sát toàn bộ chu vi khu vực và đội cảnh sát tư bảo đảm an ninh cho toàn bộ dân cư. Kobashi là nha sĩ. Thu nhập cao, sở hữu chiếc Maserati và chiếc Mercedes trong gara, ngôi nhà nghỉ núi, chiếc thuyền buồm, cùng bộ sưu tập rượu vang đáng ghen tỵ trong hầm. Vợ ông quán xuyến việc nuôi nấng hai đứa con và trang trí nhà cửa với những món hàng độc và cực đắt. - Họ nghỉ ở vùng nhiệt đới từ ba tuần nay và vừa về tối hôm qua. - Stern thông báo khi Goran và Mila đến nơi. - Nguyên nhân của chuyến nghỉ mát là vụ mất tích của các bé . Con họ cũng tầm tuổi các nạn nhân, nên họ quyết định cho người làm tạm nghỉ và cả nhà đổi gió thời gian. - tại họ ở đâu? - Ở khách sạn. Chúng tôi đưa họ đến đó vì lý do an ninh. Bà vợ phải cần đến hai viên Valium. Có thể là họ bị chấn động mạnh. Câu cuối của Stern cũng là để chuẩn bị tinh thần cho họ trước những gì sắp nhìn thấy. Căn biệt thự còn là ngôi nhà nữa, mà từ nay trở thành “ trường điều tra mới”. Nó bị chăng dây bảo vệ xung quanh để cách ly với những người hàng xóm kéo đến xem chuyện gì xảy ra. - Ít ra báo chí cũng thể vào tận đây. - Goran nhận xét. Họ băng qua thảm cỏ nằm giữa ngôi biệt thự và con đường. Khu vườn được chăm sóc rất kỹ, các loại cây hàn đới tuyệt đẹp vươn lên từ những chậu đất mà vào mùa hè, bà Kobashi tự tay trồng các loại hoa hồng để đem thi đấu của mình. cảnh sát viên đứng chặn cửa, chỉ cho những người được phép vào nhà qua cửa. Krepp và Chang tiến hành làm việc cùng với nhóm của mỗi người. Khi Goran và Mila tiến đến ngưỡng cửa, họ gặp thanh tra Roche bước ra ngoài. - Hai người hình dung nổi đâu... - Ông thanh tra với khuôn mặt tái mét, tay rịt chiếc khăn mùi soa miệng. - Vụ này càng lúc càng ghê rợn. Chỉ mong sao chúng ta có thể tránh được cuộc thảm sát này... Vì lòng kính Chúa, chúng nó chỉ là những đứa bé thôi mà! - Ông thêm với phẫn nộ . - Chưa hết, dân cư khu này bắt đầu kêu ca về diện của chúng ta và gây sức ép lên những mối quan hệ chính trị họ có để đuổi chúng ta ngay cho khuất mắt! Ông có hiểu đấy? Tôi phải gọi cho lão nghị sĩ chết rấp để trấn an lão rằng chúng ta làm nhanh hết sức! Mila quét mắt nhìn qua đám đông dân cư tụ tập phía trước ngôi biệt thự. Đây là thiên đường riêng tư của họ, và họ coi các điều tra viên như những kẻ xâm phạm. Tuy nhiên, bỗng đâu lỗ thông xuống địa ngục mở ra trong góc của cái thiên đường ấy. Stern đưa cho hũ đựng bột long não để bôi vào lỗ mũi. Mila hoàn tất nghi thức trình diện xác chết bằng việc mang bao giày và xỏ găng tay cao su. Viên cảnh sát đứng trước cửa dịch sang bên để họ bước qua. lối vẫn còn mấy chiếc va li du lịch và các túi đồ lưu niệm. Chuyến bay đưa gia đình Kobashi từ miền nhiệt đới về với cái lạnh tháng Hai hạ cánh lúc mười giờ đêm. Sau đó họ vội vã về nhà để quay lại với những sở thích quen thuộc và tiện nghi của nơi mà từ giờ bao giờ còn như trước nữa. Các gia nhân đến ngày mai mới quay lại làm việc, nên họ là những người đầu tiên bước qua ngưỡng cửa. Mùi hôi thối tràn ngập trong khí. - Đây là mùi mà gia đình Kobashi ngửi thấy khi mở cửa. - Goran ngay. Trong thoáng, họ tự hỏi đó là mùi gì, Mila nghĩ bụng. Rồi họ bật đèn... Trong gian phòng khách rộng lớn, các kỹ thuật viên của đội cảnh sát khoa học và đội pháp y phối hợp hành động cách nhịp nhàng, như thể được điều khiển bởi biên đạo múa vô hình. Mặt sàn lát đá cẩm thạch quý lạnh lùng phản chiếu ánh sáng của những ngọn đèn halogen. Nhiều đồ nội thất đại được phối hợp với các món đồ cổ. Ba chiếc trường kỷ bằng da mềm màu khói tạo thành hình vuông, phía trước lò sưởi đồ sộ bằng đá hồng. chiếc tràng kỷ chính giữa là thi thể của bé thứ ba ngồi. Đôi mắt bé mở - hai đốm màu xanh lơ. Và bé nhìn họ. Cái nhìn đăm đăm ấy là dấu ấn con người cuối cùng còn sót lại gương mặt biến dạng. Quá trình phân hủy bước vào giai đoạn muộn. Cánh tay trái bị mất khiến cho bé có dáng ngồi nghiêng tựa như có thể ngã sang bên vào bất cứ lúc nào. Nhưng bé vẫn ngồi. bé mặc chiếc váy ngắn có những bông hoa xanh. Đường cắt và các mũi khâu cho thấy nó được làm bằng tay, có lẽ là may đo riêng. Mila cũng nhận thấy các mũi móc đôi vớ trắng và chiếc thắt lưng bằng satanh được gắn vào phần eo bằng cái khóa khảm xà cừ. bé phục sức như con búp bê. con búp bê hỏng. Mila thể nhìn bé lâu hơn vài giây. cụp mắt xuống và nhận ra tấm thảm tơ đặt trước tràng kỷ. Nó được trang trí bằng những đóa hồng Ba Tư và các vân sóng nhiều màu. có cảm giác như chúng chuyển động. tập trung nhìn kỹ hơn. Tấm thảm bị bao phủ hoàn toàn bởi những con côn trùng xíu bò lúc nhúc. Mila bất giác đưa tay lên bóp vết thương nơi vai. Những người xung quanh có thể nghĩ nó hành , nhưng ra là ngược lại. Như thường lệ, tìm điểm tựa ở đau đớn. Nó kéo dài, nhưng nó cho sức lực để làm nhân chứng kỹ lưỡng trước cảnh tượng kinh tởm kia. thôi bóp vết thương khi đủ đau và nghe thấy bác sĩ Chang với giáo sư Goran: - Đây là ấu trùng của loài Sarcophaga carnaria. Chu trình sinh lý của chúng khá nhanh nếu ở trong điều kiện nhiệt độ cao. Chúng rất háu ăn. Mila biết Chang đến cái gì, vì nhiều vụ mất tích thường kết thúc với việc phát ra xác chết. Cần phải tiến hành cả quy trình nhận dạng lẫn xác định thời điểm chết. Có nhiều loại côn trùng khác nhau tham gia vào những giai đoạn tiếp nối sau cái chết, nhất là khi tử thi bị để lộ thiên. Người ta gọi chúng là “hệ động vật ăn xác chết” và được chia làm tám nhóm. Mỗi nhóm ứng với giai đoạn của biến đổi mà vật chất hữu cơ trải qua sau khi chết. Do đó, tùy vào loài động vật hữu, người ta có thể truy ngược ra thời điểm chết. Sarcophaga carnaria là loài ruồi đẻ con, chắc là thuộc vào nhóm thứ hai, vì Mila nghe bác sĩ pháp y cho biết thêm rằng tử thi chắc chắn ở đây được ít nhất tuần. - Albert có đầy đủ thời gian để hành động trong khi gia chủ nghỉ mát. Nhưng còn điều mà tôi thể giải thích được. - Chang . - Làm thế nào gã đưa được cái xác đến đây, trong khi bảy mươi camera và ba chục bảo vệ giám sát khu này cả ngày lẫn đêm?