7 Họ đưa thi thể bé về nhà em. Với lời hứa thầm như vậy, nhóm điều tra đem xác nạn nhân về. Họ đòi lại công lý cho em. Sau khi Bermann tự sát, lời cam kết của họ trở nên khó thực hơn, nhưng họ vẫn cố gắng. Vậy nên cái xác nằm ở đây, trong Viện pháp y. Bác sĩ Chang chỉnh lại chiếc micro treo trần để cho nó nằm vuông góc với bàn phẫu thuật. Sau đó bật máy quay phim. Trước tiên, dùng con dao mổ rạch nhanh đường rất thẳng túi ni lông. đặt con dao xuống và khéo léo cầm lấy hai mép của đường rạch. Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng mờ tối phát ra từ chiếc đèn nằm bên bàn mổ. Chung quanh đó là bóng tối đen ngòm. Đứng chông chênh bên bờ hố đen ấy là Goran và Mila. có thành viên nào khác của nhóm điều tra cảm thấy cần phải tham gia vào nghi lễ này. Bác sĩ pháp y cùng với hai người khách đều vận trang phục tiệt trùng, đeo găng tay và khẩu trang để làm nhiễm các chứng cứ. Dùng dung dịch nước muối sinh lý, Chang chầm chậm tách hai mép túi và gỡ lớp ni lông dính chặt thi thể. Từng chút, từng chút , với kiên nhẫn cao độ. Mila thấy ra dần dần chiếc váy nhung kẻ màu xanh lá, chiếc áo sơmi trắng và áo chẽn màu xám. Sau đó là lớp vải flannel của chiếc áo khoác. Chang lần từ từ đến vùng cánh tay bị mất. Chiếc áo khoác tại chỗ đó hề bị vấy máu, vì đơn giản là ống tay áo bị cắt bỏ kể từ phần vai trái, để lòi ra đoạn tay cụt. - giết nạn nhân khi bé mặc bộ trang phục này. mặc đồ lại cho cái xác sau đó. - Bác sĩ pháp y Chang . Từ “sau đó” vang vọng khắp căn phòng, trong cái hốc tối om vây quanh họ, tựa như viên sỏi chạm vào thành cái giếng đáy. Chang gỡ cánh tay phải ra. Ở cổ tay nạn nhân có chiếc xuyến, đó có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa. dừng lại lát nơi cổ nạn nhân để rút khăn tay ra lau trán. Lúc đó Mila mới nhận ra Chang toát mồ hôi. đến phần nhạy cảm nhất. Sợ nhất là khi gỡ cái túi, lớp thượng bì cũng bong ra theo. Mila từng tham gia vào việc khám nghiệm tử thi. Thường các bác sĩ pháp y phải ngần ngại nhiều đến thế đối với tử thi mà họ phải khám nghiệm. Họ cứ thế cắt xẻo rồi khâu lại. Nhưng bác sĩ Chang muốn bố mẹ của nạn nhân có thể nhìn con mình lần cuối trong tình trạng tốt nhất có thể. Mila bỗng cảm thấy nể trọng vô cùng. Cuối cùng, sau nhiều phút dài vô tận, Chang gỡ bỏ hoàn toàn lớp túi ni lông đen khỏi khuôn mặt của nạn nhân. Mila nhận ra bé ngay lập tức. Debby Gordon. Mười hai tuổi. Nạn nhân mất tích đầu tiên. Đôi mắt bé mở to. Cái miệng há hốc như thể cố gắng gì đó trong tuyệt vọng. bé cặp chiếc kẹp mái có đính bông hoa huệ tây. Gã chải tóc cho bé. Quái đản! Gã thấy thoải mái khi tỏ lòng trắc đối với cái xác hơn là đối với bé còn sống! Nhưng nghĩ lại Mila nhận ra gã chăm chút cho bé vì lý do hoàn toàn khác. Gã chải chuốt cho bé vì chúng ta! Suy nghĩ này khiến nổi điên. Nhưng ngay lập tức nhận ra cảm xúc này phải của mình. Nó thuộc về người khác. Chẳng bao lâu nữa phải ra ngoài, quên bóng tối sâu thẳm và với hai vị phụ huynh tan nát cõi lòng rằng cuộc sống của họ thực kết thúc. Bác sĩ Chang và giáo sư Goran đưa mắt nhìn nhau. đến lúc xác định xem họ phải đối diện với loại sát nhân nào, mối quan tâm của đối với bé này chỉ là chung chung hay có đích nhắm cụ thể. khác , cần kiểm tra xem bé có bị xâm hại tình dục hay . Tất cả mọi người trong phòng đều có chung cảm giác bị giằng xé giữa mong muốn rằng nạn nhân phải chịu thêm thứ nhục hình đó và hy vọng điều ngược lại, vì trong trường hợp này, có thêm khả năng thủ phạm để lại những dấu vết sinh học cho phép nhận dạng . Có quy trình cụ thể để khám nghiệm những vụ xâm hại tình dục. Bác sĩ Chang chẳng có lý do gì để làm khác . Quy trình này bắt đầu bằng thẩm vấn để làm tình huống cũng như phương thức tấn công. Nhưng trong thực tế, do thể có được thông tin từ nạn nhân, có cách nào tái lại được việc. Bước tiếp theo là giám định khách quan. Để biết liệu nạn nhân có phản đối hoặc chống cự hành vi giao cấu hay , cần phải khám tổng quát kèm theo hồ sơ ảnh chụp, từ hình ảnh toàn diện cho đến chi tiết từng tổn thương bên ngoài. Thường người ta bắt đầu với việc ghi nhận và xếp loại trang phục, sau đó tìm kiếm những vết tích đáng ngờ lớp trang phục này như sợi vải, lông tóc, lá cây. Tiếp theo là việc nạo móng nạn nhân bằng dụng cụ nom như cây tăm xỉa răng, nhằm thu thập các mảnh da của thủ phạm - trong trường hợp nạn nhân chống cự - hoặc đất cát, các loại sợi bất kỳ cho phép tiết lộ nơi gây án. Lần này các kết quả đều là tính. Ngoài cánh tay bị cắt, tình trạng của tử thi là hoàn hảo, trang phục cũng sạch . Như thể ai đó kỳ công tắm gội cho nạn nhân trước khi nhét tử thi vào túi. Bước thứ ba là bước có tính xâm lấn nhất. Đó là việc khám phụ khoa. Bác sĩ Chang cầm dụng cụ soi cổ tử cung và bắt đầu kiểm tra khu vực giữa hai đùi, với hy vọng tìm thấy các vết máu, tinh dịch hoặc các dịch tiết khác. Sau đó lấy từ khay kim loại bộ dụng cụ khám đạo, gồm tăm bông cho da và tăm bông khác cho niêm mạc. Sau khi lấy mẫu, chuẩn bị hai lam kính, cố định mẫu thứ nhất bằng dung dịch Citofix[1], còn mẫu thứ hai để khô tự nhiên. Mila biết thử nghiệm đó nhằm để xác định dấu vết di truyền của hung thủ. Bước cuối cùng là bước bạo liệt nhất. Bác sĩ Chang ngả cái bàn thép ra phía sau, gác đôi chân bé lên hai giá đỡ, rồi ngồi xuống chiếc ghế đẩu, và dùng cái kính lúp có gắn đèn cực tím để kiểm tra các thương tổn bên trong nếu có. Sau vài phút, ngẩng đầu lên nhìn Goran và Mila, lạnh lùng buông câu: - Thủ phạm đụng đến bé. Mila gật đầu, và trước khi rời khỏi phòng, cúi xuống thi thể của Debby để tháo chiếc xuyến đeo tay có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa. Món đồ ấy, cùng với thông tin rằng bé bị xâm hại, là tất cả những gì mà ông bà Gordon có thể mang . Sau khi chào tạm biệt bác sĩ Chang và giáo sư Goran, Mila cảm thấy cần phải cởi chiếc áo blu tiệt trùng này ra ngay. Vào lúc này thấy mình bẩn thỉu. Khi qua phòng thay đồ, dừng lại trước bồn rửa mặt bằng gốm, mở nước nóng rồi đưa hai tay vào kỳ cọ mạnh. Trong lúc rửa ráy cật lực, ngước mắt lên nhìn tấm gương đối diện. Dường như thấy phản chiếu trong gương hình ảnh bé Debby tiến vào phòng thay đồ, người mặc chiếc váy xanh lá cây cùng với cái áo khoác màu xanh dương, còn đầu là cái kẹp tóc. Tựa người vào cánh tay còn lại, em ngồi xuống băng ghế kê sát tường. Rồi Debby nhìn Mila, đong đưa hai chân, miệng há ra rồi ngậm lại, như thể tìm cách chuyện với . Nhưng có từ ngữ nào vang lên. Mila rất muốn hỏi ai là chị em kết nghĩa của em. Nạn nhân mà mọi người chỉ biết gọi là bé số sáu. Rồi Mila choàng tỉnh. Nước tuôn ra từ vòi. Hơi nóng bốc lên nghi ngút, làm mờ phần lớn diện tích của tấm gương. Lúc ấy Mila mới cảm thấy đau. đưa mắt nhìn xuống và vội vàng rụt tay ra khỏi dòng nước nóng bỏng. Lớp da mu bàn tay của đỏ ửng và ngón tay bắt đầu xuất vài vết phồng rộp. Mila quấn tay vào chiếc khăn bông, sau đó đến tủ thuốc tìm bông băng cá nhân. ai được biết về chuyện vừa xảy ra. Khi mở mắt, điều đầu tiên nhớ đến là vết bỏng ở hai bàn tay. ngồi phắt dậy, đột ngột kết nối trở lại với thực trong căn phòng ngủ chung quanh mình. Cái tủ áo với tấm gương bị rạn ở phía trước mặt, tủ commốt bên trái, ô cửa sổ hạ các lá trập nhưng vẫn để lọt qua vài vệt sáng xanh nhạt. Mila ngủ thiếp mà buồn thay quần áo. Lớp vải phủ giường và chăn gối của cái nhà nghỉ ven đường này đầy các vết bẩn loang lổ. Sao lại tỉnh dậy? Có lẽ ai đó gõ cửa. Hay cũng có thể chỉ mơ. Tiếng gõ cửa lại vang lên. đứng dậy, tiến đến cửa, nhưng chỉ mở hé nó ra. - Ai đó? - hỏi cũng bằng thừa vì nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Boris. - Tôi đến đón . Sau tiếng nữa, chúng ta tiến hành khám xét nhà của Bermann. Mọi người đợi chúng ta ở đó... Mà này, tôi mua cho bữa sáng đây. lắc lắc trước mũi cái túi giấy, bên trong chắc là cà phê và bánh sừng bò. Mila nhanh chóng nhìn lại mình. Trông tơi tả, nhưng thế lại hóa hay: thể khiến chàng đồng nghiệp nổi hứng. mời vào phòng. Boris bước vài bước vào trong phòng và lúng túng nhìn quanh trong khi Mila tiến lại gần cái bồn rửa đặt trong góc để rửa mặt, nhưng trước hết là để giấu đôi tay băng bó. - Nó còn tệ hơn là tôi nhớ. - Boris vừa hít khí vừa . - Vẫn cái mùi này. - Tôi nghĩ đó là mùi thuốc xua đuổi côn trùng. - Hồi tôi đến nhập đội, tôi phải ở đây cả tháng trời trước khi tìm được căn hộ... có biết là chìa khóa ở đây mở phòng nào cũng được ? Khách trọ thường xuyên bỏ mà trả tiền, nên người chủ đâm chán, chẳng buồn thay ổ khóa nữa. Tốt hơn nên lấy cái tủ commốt chặn cửa vào ban đêm. Mila quan sát mình trong tấm gương phía chậu rửa. - Cám ơn về lời khuyên. - Tôi nghiêm túc đấy. Nếu cần tìm nơi khả dĩ hơn để ở, tôi có thể giúp. Mila nhìn Boris với ánh mắt thăm dò. - phải mời tôi đến ở nhà đấy chứ? Boris luống cuống, vội vàng giải thích: - , ý tôi phải thế. Chỉ là tôi có thể hỏi thăm hộ xem có nữ cảnh sát nào muốn chia sẻ căn hộ của mình , thế thôi. - Hy vọng tôi phải ở đây lâu đến mức ấy. - Mila vừa bình luận vừa nhún vai. Sau khi lau mặt xong, trỏ tay vào cái túi giấy mà Boris đem đến. Gần như giật phăng cái túi khỏi tay chàng cảnh sát, ngồi chéo chân giường, xem xét những thứ trong túi. Bánh sừng bò và cà phê. Đúng như đoán. Boris hơi ngạc nhiên trước thái độ của Mila, và càng bất ngờ hơn khi phát tay bị băng. Nhưng gì. - có đói ? - rụt rè hỏi. Mila vừa nhai nhồm nhoàm vừa đáp: - hai ngày nay tôi chẳng nuốt thứ gì vào bụng. Nếu đến tôi dám chắc mình có đủ sức để bò ra khỏi đây nữa. Mila biết nên những lời có tính chất vuốt đuôi như thế, nhưng biết phải cám ơn Boris bằng cách nào khác, vả lại đói . Boris mỉm cười hài lòng. - Thế, thấy ở đây ra sao? - hỏi. - Tôi thích nghi nhanh lắm. Vậy nên, tôi thấy ổn. Ngoại trừ cái bà chị Sarah Rosa ghét tôi ra mặt kia. - tồi, vụ suy luận về chị em kết nghĩa của ấy mà… - Chẳng qua tôi gặp may thôi: chỉ cần lục lọi trong đống kinh nghiệm bản thân hồi mới dậy . Chắc cũng từng làm đủ trò ngớ ngẩn hồi mười hai tuổi, nhỉ? Nhìn vẻ ngơ ngác gương mặt Boris khi cố tìm câu trả lời, Mila bật cười. - Tôi đùa đấy... - À... Ừ. - đỏ bừng mặt. Mila ăn xong miếng cuối cùng của cái bánh thứ nhất. mút ngón tay rồi tấn công sang chiếc bánh sừng bò thứ hai. Đáng lẽ nó là của Boris, nhưng trước vẻ ngon miệng của , chẳng dám lên tiếng. - Boris này, giải thích cho tôi chuyện được ? Tại sao đặt tên cho là Albert? - Đó là câu chuyện rất thú vị. - Boris vừa đáp vừa ung dung bước đến ngồi xuống bên cạnh Mila. - Năm năm trước, chúng tôi điều tra vụ khá kỳ lạ. tên giết người hàng loạt bắt cóc phụ nữ, cưỡng đoạt họ, siết cổ đến chết rồi để cho chúng tôi phát những thi thể bị cưa mất chân phải. - Chân phải à? - Đúng thế. Chẳng ai hiểu ra chuyện gì, vì hung thủ tỏ ra rất tỉ mỉ và sạch . để lại bất kì dấu vết nào, ngoài vụ cưa chân. Và tấn công cách hoàn toàn ngẫu nhiên... tóm lại, chúng tôi phát đến cái xác thứ năm rồi mà vẫn chưa có cách nào bắt thủ phạm dừng lại được. Thế rồi giáo sư Gavila nảy ra ý... Mila ăn xong cái bánh thứ hai và chuyển sang uống cà phê. - Ý tưởng kiểu nào? - Ông ấy bảo chúng tôi tìm hiểu về tất cả những vụ có liên quan đến chân cẳng, kể cả những vụ đơn giản và tầm thường nhất. Mila đực mặt ra. Trong khi chờ nghe kể tiếp, đổ ba gói đường vào trong cốc cà phê. Boris nhăn mặt, nhưng quyết định tiếp: - Tôi cũng thế, lúc đầu, tôi thấy chuyện đó có vẻ phi lý. Nhưng dẫu vậy chúng tôi cũng bổ tìm, và phát ra trước đấy lâu tên trộm ra tay trong vùng. đánh cắp giày phụ nữ trưng bày kệ đặt bên ngoài các cửa hàng. Tất nhiên người ta chỉ bày mỗi mẫu chiếc giày. biết đấy, họ làm thế để tránh bị ăn cắp. Thường đó là chiếc bên phải, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khi thử giày. Mila khựng lại, ly cà phê lơ lửng trong khí. thấy ngưỡng mộ trước trực giác hiếm có của Goran. - Các theo dõi các hiệu giày và bắt được tên trộm... - Albert Finley. tay kĩ sư ba mươi tám tuổi, có vợ, hai con , căn nhà ở ngoại thành và chiếc xe cắm trại. - kẻ tầm thường. - Trong nhà cất xe của gã, chúng tôi tìm thấy cái tủ đông. Ở trong đó là năm cái chân phải của phụ nữ được bọc ni lông cẩn thận. Hung thủ tiêu khiển bằng cách cho chúng mang những chiếc giày mà ăn trộm được. kiểu tôn sùng đồ vật bệnh hoạn. - Chân phải, tay trái. Thảo nào có cái tên Albert! - Chính xác! - Boris và đặt tay lên vai Mila, tỏ vẻ đồng tình. Mila giãy nảy, vùng ra khỏi giường. chàng cảnh sát có vẻ bị xúc phạm. - Tôi xin lỗi. - . - sao đâu. ta dối. Mila tin điều đó, nhưng quyết định làm ra vẻ như tin. quay lưng lại phía và tiến đến bồn rửa mặt. - Tôi cần chuẩn bị. Chỉ phút là đủ, sau đó ta có thể lên đường. Boris đứng dậy và tiến ra cửa. - cứ thong thả. Tôi đợi ở ngoài. Mila thấy ta bước ra khỏi phòng. Rồi nhìn vào gương. Chúa ơi, tự nhủ, khi nào tất cả những chuyện này mới kết thúc đây? Khi nào con mới lại có thể để cho ai đó chạm vào mình? Trong suốt quãng đường đến nhà Bermann, hai người với nhau lời. Lúc trèo vào trong xe, Mila nhận thấy Boris bật radio. hiểu ra ngay. Boris tỏ ra bị xúc phạm, và có lẽ từ nay có thêm kẻ thù nữa trong đội điều tra. Chưa đầy nửa tiếng sau, hai người đến nơi. Chỗ ở của Alexander Bermann là vila , bao xung quanh là bãi cỏ xanh, tọa lạc trong khu dân cư yên bình. Con đường bị chặn. Phía bên ngoài vòng cách ly là đám đông những kẻ hiếu kỳ, hàng xóm láng giềng và cánh nhà báo. Nhìn thấy bọn họ, Mila nhủ thầm đây mới chỉ là điểm khởi đầu. Khi đến nơi, họ nghe thấy bản tin truyền thanh loan báo việc khám phá ra thi thể của Debby và thậm chí còn tiết lộ cái tên Bermann. Lý do để cho giới truyền thông phát rồ lên cũng đơn giản. Vụ nghĩa địa cánh tay là đòn mạnh giáng vào chính quyền, và giờ đây cơn ác mộng cuối cùng có cái tên. Mila chứng kiến điều này xảy ra trước kia. Báo chí hùng hổ lao vào vụ việc và chỉ trong thời gian ngắn nghiền nát mọi khía cạnh trong cuộc đời của Bermann chút câu nệ. Vụ tự tử của gã có giá trị như lời thú tội. Các phương tiện truyền thông nhào nặn ra phiên bản riêng của mình. Họ miêu tả gã như con quái vật, để sót điểm mâu thuẫn khả dĩ nào, chỉ dựa vào sức mạnh đoàn kết của họ. Giới truyền thông cắt gã thành từng mảnh giống như điều người ta tin gã làm với các nạn nhân tuổi, nhưng lại gây ra chút mai mỉa nào từ tương đồng đó. Bọn họ rút ra hàng lít máu từ toàn bộ vụ án này để tô vẽ các trang nhất, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn. tôn trọng, cũng chẳng vô tư. Và nếu như có ai đó dám tự cho phép mình nhắc nhở chuyện đó, họ đỡ đòn bằng tấm bùa “quyền được thông tin”, vốn luôn tiện dụng và hợp thời. Mila bước xuống xe lách qua đám đông nhà báo lẫn dân thường để chui vào trong vòng lập. bước nhanh lối vào nhà, tiến đến cửa chính, lóa mắt vì ánh đèn flash máy ảnh. Lúc đó, ánh mắt và giáo sư Goran giao nhau qua cửa sổ. Bỗng dưng cảm thấy tội lỗi vì để ông nhìn thấy cùng Boris. Nhưng rồi thấy mình ngớ ngẩn với ý nghĩ đó. Goran hướng chú ý của ông trở vào trong nhà. Sau đó vài giây, Mila cũng bước qua ngưỡng cửa. Stern và Sarah Rosa cùng với các thanh tra khác làm việc được lúc. Họ di chuyển như những con côn trùng cần mẫn. Mọi thứ bị xới tung lên. Các cảnh sát rà soát từng món đồ, mọi vách tường, tất cả những gì có thể chứa các manh mối có khả năng làm sáng tỏ vụ án. lần nữa, Mila thể tham gia vào việc lục soát căn nhà. Thêm vào đó, Sarah Rosa cũng từng bóng gió rằng chỉ có quyền quan sát. Vậy nên nhìn chung quanh mình, tay đút túi để phải giải thích về lớp bông băng bó. Những tấm ảnh làm chú ý. Có chừng chục tấm trong phòng, tất cả được đóng trong những cái khung sang trọng bằng gỗ hoặc mạ bạc. Đó là những hình ảnh của Bermann và vợ y trong những giờ phút hạnh phúc. cuộc đời mà giờ đây có vẻ xa lắc, gần như có . Mila nhận thấy hai vợ chồng du lịch khá nhiều. Các tấm ảnh được chụp ở khắp nơi thế giới. Tuy nhiên, những tấm càng mới và gương mặt họ càng bị thời gian hằn dấu biểu hạnh phúc của họ càng phai nhạt. Có điều gì đó trong những tấm ảnh, Mila đoán chắc như thế, nhưng chưa thể được nó là gì. có cảm giác lạ lùng trong ngôi nhà này. Bây giờ cảm nhận được rệt hơn. diện của người. Ngoài toán nhân viên điều tra qua lại, Mila nhận ra khán giả nữa: người phụ nữ trong ảnh, Veronica Bermann, vợ của nghi phạm. lập tức đoán ra Veronica là người có tính tình ngạo mạn. ta thể thái độ dửng dưng rệt trong khi những con người xa lạ kia tự tiện lục lọi đồ đạc của mình, xâm phạm tính riêng tư của những món đồ, những vật kỷ niệm bằng diện suồng sã của họ. Veronica hoàn toàn tỏ ra hợp tác với ngài chánh thanh tra Roche, và bảo đảm với ông rằng, chồng mình thể là đối tượng của những cáo buộc như vậy. Mila tiếp tục dành giờ quan sát. Khi quay người lại, đối diện với thứ ngờ tới. Phủ kín bức tường là những tiêu bản bướm. Chúng được đặt trong các khung kính. Có những con bướm khác thường và đẹp tuyệt. số mang tên ngoại quốc được ghi cùng với nơi phát tấm bảng đồng. Những con bướm đẹp nhất đến từ châu Phi và Nhật Bản. - Chúng mê hoặc ta vì chúng chết. - Goran buông lời nhận xét. Nhà tội phạm học mặc chiếc áo thun đen và quần da lạc đà. Cổ áo sơmi của ông lòi ra bên cổ áo thun. Ông đứng cạnh Mila để ngắm nhìn hơn bức tường bướm. - Đứng trước thứ kì vĩ như thế này, chúng ta quên mất điều quan trọng nhất và hiển nhiên nhất... Lũ bướm này còn bay được nữa. - phi tự nhiên. - Mila đồng tình. - Nhưng cũng quyến rũ... - Đó chính là điều mà cái chết gây ra đối với con người. Chính vì nó mà thế gian này có những kẻ giết người hàng loạt. Goran khoát tay ra hiệu. Chỉ cần thế, mọi thành viên trong nhóm điều tra lập tức tề tựu quanh ông. Điều đó chứng tỏ rằng, mặc dù có vẻ bị cuốn vào công việc, họ vẫn luôn để mắt đến ông, theo dõi từng cử chỉ và thái độ của ông. Mila có lời khẳng định cho tin tưởng vô đối mà mọi người dành cho trực giác của Goran. Ông là người soi đường cho họ. Điều này lạ lùng, vì các cảnh sát, hay “cớm” - ít ra như những người mà Mila biết - luôn gặp khó khăn trong việc đặt niềm tin vào người dân thường. lòng, đội điều tra này lẽ ra nên được gọi là “đội của Gavila” hơn là “đội của Roche”, người thường xuyên vắng mặt. Ông ta chỉ xuất đầu lộ diện nếu như họ tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ và có tính chất quyết định chống lại Bermann. Stern, Boris và Rosa đứng xung quanh giáo sư tội phạm học như sơ đồ mọi khi, mỗi người vị trí. Mila đứng ở phía sau họ bước. Vì sợ cảm thấy bị gạt ra rìa, tự loại mình ra. Goran hạ thấp giọng, nhanh chóng ấn định cho mọi người giọng điệu của cuộc trao đổi mà ông muốn. Có lẽ ông muốn làm phiền Veronica Bermann. - Thế nào, chúng ta có được những gì rồi? Stern là người đầu tiên lên tiếng. lắc đầu: - Trong căn nhà này, có bất cứ thứ gì liên kết Bermann với sáu bé nạn nhân. - vợ hoàn toàn biết gì. Tôi hỏi ta vài câu và tôi nghĩ ta dối. - Boris thêm vào. - Người của chúng ta tiến hành rà soát ngoài vườn cùng với bầy chó. - Rosa . - Nhưng cho đến lúc này vẫn chưa thấy gì. - Chúng ta điểm lại nhất cử nhất động của Bermann trong sáu tuần vừa qua. - Giáo sư Goran nhận xét, và cả nhóm cùng gật gù, mặc dù họ biết đó là việc gần như bất khả thi. - Stern, ta còn gì nữa ? - có biến động bất thường trong tài khoản. Khoản chi lớn nhất mà Bermann thực trong năm vừa qua liên quan đến việc thụ tinh nhân tạo. Nghe đến đây, Mila mới hiểu được cảm giác mà có từ trước khi vào nhà cho đến khi nhìn các tấm ảnh. Đó phải là diện như tưởng lúc đầu. nhầm. Đó đúng hơn là vắng mặt. Người ta có thể cảm thấy vắng mặt của đứa trẻ trong căn nhà toàn đồ đạc đắt tiền và vô hồn này. Nó được thu xếp dành cho hai cá thể ý thức được ràng cuộc sống quạnh vắng của họ. Ca thụ tinh trong ống nghiệm mà Stern vừa nhắc đến dường như là mâu thuẫn, vì nơi này toát lên nỗi lo âu của cặp đôi hiếm muộn. Stern chốt lại phần trình bày của mình bằng chân dung ngắn gọn về cuộc sống riêng tư của Bermann: - dùng ma túy, uống rượu hay hút thuốc. có đăng ký tham gia phòng tập thể dục và câu lạc bộ băng hình, nơi thuê các cuốn phim tài liệu về các loài côn trùng. lễ nhà thờ Lutheran trong khu vực, và hai lần mỗi tháng đến làm tình nguyện viên trong trại dưỡng lão. - ông thánh sống. - Boris mai mỉa. Goran quay sang phía Veronica Berman để bảo đảm là ta nghe thấy câu vừa rồi. Sau đó ông nhìn Rosa. - Còn gì khác ? - Tôi phân tích ổ cứng máy vi tính ở nhà và ở văn phòng của . Tôi cũng thực việc khôi phục các tập tin bị xóa, nhưng chẳng có gì đáng quan tâm cả. Toàn chuyện làm ăn. Tên này bị ám ảnh bởi công việc. Mila nhận thấy Goran đột nhiên có vẻ lơ đãng. Điều này chỉ xảy ra trong vài giây, sau đó ông tập trung trở lại vào cuộc trao đổi. - Vậy còn việc lên mạng của Alexander, ta biết được gì? - Tôi gọi đến nhà mạng của , và họ cung cấp cho tôi bản danh sách các trang web truy cập trong vòng sáu tháng gần đây. Cũng lại chẳng có gì... Có vẻ như rất mê các trang mạng về thiên nhiên, du lịch, và động vật. Ngoài ra, mua mạng các món đồ cổ và bướm sưu tập, nhất là trang eBay. Khi Rosa trình bày xong, Goran khoanh tay lại, rồi nhìn các điều tra viên, từng người . Kể cả Mila, người cuối cùng cũng cảm thấy được tham gia. - Vậy, các bạn nghĩ sao? - Ông giáo sư hỏi. - Tôi thấy như bị lóa mắt. - Boris đáp ngay và đưa tay lên che mắt để nhấn mạnh ý muốn . - Tất cả đều sạch quá mức. Những người còn lại gật gù. Mila chàng căn cứ vào đâu, nhưng muốn hỏi thẳng. Giáo sư Goran đưa tay lên vuốt trán, rồi xoa đôi mắt mệt mỏi. lần nữa, gương mặt của ông lại xuất lơ đãng ấy... luồng suy nghĩ đưa ông nơi khác trong vài giây, nhưng rồi bằng cách nào đó ông quay lại ngay với thực tại. - Nguyên tắc đầu tiên khi điều tra nghi phạm là gì? - Chúng ta ai cũng có bí mật. - Boris trả lời ngay. - Đúng. - Goran . - Chúng ta ai cũng có nhược điểm, ít nhất là lần trong đời. Mỗi người trong chúng ta đều có bí mật của mình, dù hay lớn, dù có thú nhận hay ... Hãy nhìn xung quanh các bạn: người đàn ông này là hình mẫu của người chồng lý tưởng, ngoan đạo, làm việc chăm chỉ. - Ông giơ ngón tay lên đếm. - Đó là nhà hảo tâm, biết giữ gìn sức khỏe, chỉ thuê phim tài liệu, có thói hư tật xấu, chăm sưu tập bướm... các bạn có tin nổi con người như thế ? Lần này câu trả lời hiển nhiên là . - Vậy, con người như thế làm gì với xác bé trong xe hơi của mình? Stern xen vào: - xóa sạch tất cả... Goran gật gù: - Alexander mê hoặc chúng ta bằng hoàn hảo này, để chúng ta nhìn chỗ khác... Thế chúng ta nhìn vào đâu trong thời điểm này? - Ta phải làm gì đây? - Rosa hỏi. - Bắt đầu lại từ đầu. Câu trả lời nằm ở đây, trong những thứ mà các bạn tìm hiểu. Hãy rà soát chúng kỹ. Cần phải bóc lớp vỏ bọc lấp lánh của chúng. Đừng để mình bị lừa bởi cuộc sống hoàn hảo kia: ánh hào quang đó chỉ làm chúng ta phân tán tư tưởng và rối trí. Ngoài ra, cần phải... Goran lại tỏ ra lơ đãng. chú ý của ông ở đâu đâu. Lần này tất cả mọi người đều nhận ra. thứ gì đó thành hình và lớn dần trong đầu ông. Mila quyết định quan sát theo hướng nhìn của ông giáo sư. Ông đơn thuần là nhìn vào khoảng . Ông nhìn cái gì đó trong phòng. Goran hỏi thành tiếng: - Có ai nghe các tin nhắn máy trả lời tự động của điện thoại chưa? Trong thoáng, các điều tra viên cứng người, nhất loạt nhìn vào cái điện thoại nhấp nháy đỏ và cảm thấy có lỗi khi bị bắt quả tang sơ sót của mình. Goran bận tâm chuyện đó. Ông chỉ tiến đến bấm nút cho chạy máy ghi số. lúc sau, những lời của người quá cố vang lên từ trong bóng tối. Alexander Bermann trở lại trong ngôi nhà lần cuối. “Hừm... đây... E hèm... có nhiều thời gian… Nhưng dẫu sao cũng muốn xin lỗi em... xin lỗi em, vì tất cả... Lẽ ra phải làm điều này sớm hơn, nhưng thể... Em cố gắng tha thứ cho . Tất cả đều là lỗi của ...” Giọng chấm dứt và im lặng như đá đè nặng lên căn phòng. Bất giác mọi ánh nhìn đều đổ dồn vào Veronica Bermann, người đứng trơ trơ như tượng tạc. Goran Gavila là người đầu tiên nhúc nhích. Ông tiến lại gần, nắm lấy hai vai ta và nhờ nữ cảnh sát đưa ta sang phòng khác. Stern lên tiếng phá vỡ bầu im lặng: - Rồi, đến lúc nghe lời thú nhận rồi đây.
8 Mila gọi bé là Priscilla. dùng phương pháp của giáo sư Goran Gavila, người luôn đặt tên cho những kẻ sát nhân mà ông truy tìm. Để “con người hóa” chúng, khiến chúng trở nên “thực” hơn trong con mắt của ông và còn là những bóng ma lẩn khuất nữa. Cũng thế, Mila đặt tên cho nạn nhân thứ sáu bằng cái tên của bé khác, may mắn hơn, người mà ở đâu đó - biết chính xác - tiếp tục được làm bé bình thường như những bé khác, và hề hay biết mình thoát khỏi chuyện gì. Mila quyết định như thế đường quay về phòng trọ. cảnh sát nhận đưa về. Lần này Boris xung phong nữa, và Mila cũng chẳng thể trách được sau khi đột ngột đẩy ra lúc sáng nay. Việc gọi bé số sáu là Priscilla chỉ bởi cần phải cho bé tính trạng con người. Còn nguyên nhân khác: Mila thể cứ gọi bé bằng con số. Từ giờ trở , cảm thấy chỉ có mỗi mình là còn để tâm đến việc khám phá danh tính của bé, vì sau khi nghe thấy lời nhắn của Bermann, chuyện đó còn là mối ưu tiên hàng đầu nữa. Họ có xác chết trong xe, và đoạn băng ghi từ máy trả lời tự động rất gần với lời tự thú. cần quá lao tâm khổ tứ nữa. Lúc này chỉ cần liên kết tay chào hàng với các nạn nhân còn lại, sau đó tìm động cơ. Nhưng động cơ của , có lẽ họ biết cả rồi... Nạn nhân phải là các bé. Mà là gia đình của các em. Chính Goran đưa ra lời giải thích ấy trong lúc quan sát cha mẹ của các nạn nhân xấu số trong nhà xác. Những người cha người mẹ mà, vì những lý do này khác, chỉ có mỗi đứa con. bà mẹ gần năm mươi tuổi và về mặt sinh học thể mong chờ lần mang thai khác nữa... “Chính họ mới là nạn nhân. Gã nghiên cứu họ, lựa chọn họ. đứa con độc nhất. Gã muốn tước mất khỏi họ mọi hy vọng khép lại nỗi đau và quên mất mát. Họ phải nhớ điều gã làm với mình cho đến hết đời. Gã làm cho thống khổ của họ tăng lên bội phần khi lấy tương lai của họ. Gã tước đoạt cơ hội lưu truyền hồi ức của bản thân họ cho tương lai, cơ hội trường tồn sau cái chết của chính họ... Gã sống bằng điều đó. Chính nó là tưởng thưởng cho tàn ác của gã, là nguồn khoái lạc của gã”. Alexander Bermann có con cái. cố gắng có con, cầu viện đến biện pháp thụ tinh nhân tạo. Nhưng vô ích. Có lẽ vì lý do đó mà trút cơn điên cuồng vào các gia đình khốn khổ kia. Có thể muốn trả thù vì vô sinh của mình. . Đây phải là trả thù. Có điều gì đó khác... Mila thể chấp nhận suy nghĩ đó, nhưng biết linh cảm ấy từ đâu mà ra. Chiếc xe hơi về đến khu nhà nghỉ. Mila xuống xe, chào từ biệt viên cảnh sát kiêm tài xế. ta gật đầu rồi quay đầu xe phóng , bỏ lại giữa con đường trải sỏi rộng rãi. Phía sau là cánh rừng với những ngôi nhà nghỉ. Trời khá lạnh. Ánh sáng độc nhất phát ra là từ tấm bảng đề chữ “CÒN PHÒNG” và “CÓ TRUYỀN HÌNH CÁP”. Mila tiến về nhà nghỉ của mình. Mọi ô cửa sổ đều tối om. là người khách trọ duy nhất. ngang qua phòng của bảo vệ. Căn phòng chìm trong thứ ánh sáng xanh lờ mờ phát ra từ chiếc ti vi. thanh bị tắt và nhân viên bảo vệ có ở đó. Chắc ta vệ sinh, Mila nghĩ bụng, rồi bước tiếp. May mắn là cầm theo chìa khóa, chứ nếu buộc phải đợi ta quay lại. Trong tay Mila là bao giấy đựng món đồ uống có ga và hai cái bánh kẹp phômai, bữa tối hôm nay của . cũng mua lọ thuốc mỡ để bôi vào các vết phỏng hai bàn tay. Hơi thở của tạo thành đám khói trong bầu khí lạnh giá. bước nhanh hơn, cảm thấy như sắp chết cóng. Những bước chân của con đường rải sỏi là thanh duy nhất trong màn đêm. Nhà nghỉ của nằm tận cuối dãy. Priscilla. nhớ lại những điều mà bác sĩ Chang : “Tôi cho rằng thủ phạm kết liễu các nạn nhân ngay lập tức. Gã có lợi gì trong việc duy trì sống cho bọn trẻ lâu hơn mức cần thiết, và gã hề chần chừ. Phương pháp ra tay với các nạn nhân là như nhau. Ngoại trừ bé...” Giáo sư Gavila cầu giải thích hơn, và Chang vừa nhìn ông vừa đáp rằng đối với nạn nhân số sáu, việc còn tệ hại hơn... Câu của bác sĩ Chang ăn sâu vào tâm trí Mila. chỉ vì nạn nhân thứ sáu phải trả cái giá đắt hơn các bé còn lại... “Gã làm giảm nhịp tim của nạn nhân để cái chết đến với bé chậm hơn... Gã muốn thưởng thức tấn tuồng”. , vẫn còn điều gì khác nữa. Vì sao thủ phạm lại thay đổi phương thức gây án? Cũng hệt như lúc nghe bác sĩ Chang báo cáo, Mila bất giác thấy lạnh nơi gáy. Phòng trọ của chỉ còn cách vài mét. tập trung suy nghĩ, chắc mẩm lần này mình tìm được câu trả lời. Bỗng hụt chân vì cái lỗ mặt đất. Lúc đó mới nghe thấy. Tiếng động rất khẽ phía sau lưng Mila khiến mọi suy nghĩ trong đầu biến mất. tiếng đạp sỏi. kẻ nào đó bắt chước những bước của . Kẻ đó căn chỉnh nhịp bước của mình cho trùng khớp với . Bước hụt của Mila khiến lỡ đà và bị lộ. Mila bối rối và tiếp tục duy trì nhịp độ. Những bước chân của kẻ theo dõi lại hòa nhập làm với nhịp bước của . Theo tính toán của mình, Mila cho rằng kẻ theo dõi ở cách tầm chục mét. bắt đầu tính đến các giải pháp. Rút khẩu súng giắt sau lưng chỉ vô ích, vì nếu tên kia có vũ khí, có thừa thời gian để khai hỏa trước. Nhân viên bảo vệ, nghĩ bụng. Chiếc ti vi được bật trong căn phòng trống. khử ta. Giờ đến lượt mình. Lúc này ở rất gần cánh cửa nhà nghỉ. Cần phải quyết định ngay. buộc phải hành động. còn cách nào khác. Mila lục tìm chìa khóa trong túi và nhanh chóng trèo lên bậc tam cấp dưới hàng hiên nhà. Xoay hai vòng chìa, mở cửa và lỉnh ngay vào bên trong. Tim đập thình thịch. tay rút khẩu súng lục ra, tay kia bật công tắc điện. Ngọn đèn cạnh giường vụt sáng. Mila đứng im nhúc nhích, vai tì vào cửa, hai tai căng lên nghe ngóng. tấn công mình, nhủ thầm. Rồi nghe thấy tiếng bước chân lớp ván gỗ ngoài hàng hiên. Boris với chìa khóa của khu nhà nghỉ có thể mở được tất cả các phòng, vì người chủ chán thay khóa sau khi khách trọ cầm chìa bỏ mất. Kẻ theo dõi mình có chìa khóa ? Rất có khả năng. tự nhủ nếu cố tình lẻn vào trong phòng, gây bất ngờ cho từ phía sau. Mila quỳ xuống, di chuyển lớp thảm sàn vấy bẩn để ra cửa sổ. dán mình vào tường, đưa tay lên mở cửa. Băng giá làm bản lề cứng lại. khá vất vả nhưng cuối cùng cũng mở được cánh cửa sổ, rồi bật dậy nhảy ra bên ngoài, giữa đêm tối. Trước mặt là cánh rừng. Những ngọn cây xào xạc bên nhau nhịp nhàng. Mặt sau của khu nhà nghỉ có con đường tráng xi măng nối liền các căn nhà với nhau. Mila lần dọc theo nó, người cúi lom khom, cảnh giác dò tìm mọi động tĩnh chung quanh. nhanh chóng băng ngang qua nhà nghỉ bên cạnh nhà mình, rồi qua nhà nữa. Sau đó vào khe trống giữa hai nhà nghỉ. Bây giờ, Mila cần phải thò đầu ra để quan sát hàng hiên. Nhưng việc này khá rủi ro. Dùng cả hai tay giữ súng cho chắc, nén đau đếm từ đến ba, hít ba hơi sâu, rồi nhảy phắt ra khỏi góc tường, chĩa súng ra trước mặt. có ai cả. Đây thể là đều do tưởng tượng ra. tin chắc có người theo dõi mình. kẻ có khả năng di chuyển theo nhịp bước của mục tiêu. kẻ săn mồi. Mila quét mắt tìm kiếm dấu vết của mặt đất. Dường như tan biến vào khí, trong tiếng cây lá xào xạc quanh khu nhà. - Xin lỗi ... Mila quay phắt lại và nhìn người đàn ông vừa lên tiếng, súng chúc xuống. đờ người vì ba từ ngắn ngủi đó. Phải mất vài giây mới nhận ra người bảo vệ. Nhận ra mình làm hoảng sợ, ta lặp lại, lần này là để cho hoàn hồn: - Xin lỗi . - Có chuyện gì vậy? - Mila hỏi trong khi tim vẫn đập dồn dập. - Có người muốn chuyện điện thoại với ... Nhân viên bảo vệ chỉ cho máy điện thoại trong phòng trực. Mila tiến đến, buồn đợi ta. - Mila Vasquez. - vào ống nghe. - Chào , Stern đây... Giáo sư Gavila muốn gặp . - Tôi á? - hỏi, vừa ngạc nhiên lại vừa hãnh diện. - Phải. Chúng tôi báo cho viên cảnh sát vừa đưa về. ta đến đón . - Được thôi. - Mila thấy bối rối vì Stern gì thêm nên hỏi tiếp. - Có tin gì mới à? - Alexander Bermann giấu chúng ta chuyện. Boris cố điều chỉnh thiết bị định vị toàn cầu mà rời mắt khỏi con đường. Mila nhìn thẳng phía trước, gì. Gavila ngồi ghế sau. Ông thu mình trong chiếc áo măngtô sờn cũ, mắt nhắm lại. Họ đường đến nhà người chị của Veronica Bermann, nơi vợ của Alexander tạm lánh để trốn cánh phóng viên. Goran kết luận rằng Alexander Bermann cố tình che giấu điều gì đó trong lời nhắn để lại điện thoại. “Hừm... đây... E hèm... có nhiều thời gian... Nhưng dẫu sao cũng muốn xin lỗi em... xin lỗi em, vì tất cả... Lẽ ra phải làm điều này sớm hơn, nhưng thể... Em cố gắng tha thứ cho . Tất cả đều là lỗi của ...” Nhờ vào bảng kê chi tiết các cuộc gọi, toán điều tra phát ra Bermann để lại lời nhắn khi ở đồn cảnh sát giao thông, gần như đúng vào lúc xác của Debby Gordon được phát . Goran bất chợt nảy ra câu hỏi vì sao người ở vào tình thế như của - với tử thi trong cốp xe và ý định tự kết liễu cuộc đời - lại gọi cú điện thoại như thế cho vợ mình. Những tên giết người hàng loạt bao giờ xin lỗi. Những khi chúng làm thế chẳng qua là vì chúng muốn trưng ra hình ảnh khác của bản thân, vì điều đó thuộc về bản chất dối trá của chúng. Mục đích của chúng là làm rối nhiễu , phủ thêm tấm màn mờ ảo bao quanh chúng. Nhưng với Bermann, việc này có vẻ khác. Có khẩn cấp trong giọng điệu của . muốn hoàn tất điều gì đó trước khi quá muộn. Alexander Bermann muốn được tha thứ chuyện gì? Goran tin rằng chuyện này có liên quan đến người vợ và cuộc hôn nhân của họ. - Thưa giáo sư, xin ông vui lòng kể lại lần nữa... Goran mở mắt và thấy Mila xoay sang phía ông. Đôi mắt chăm chú nhìn ông chờ đợi. - Có thể Veronica Bermann phát ra điều gì đó. Điều này có thể là chủ đề gây tranh cãi giữa họ. Theo tôi, muốn được tha thứ cho điều đó. - Thế tại sao thông tin này lại quan trọng đến thế với ta? - Tôi biết liệu nó có thực quan trọng hay ... Nhưng người đàn ông ở trong tình thế của Alexander bỏ giờ giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. - Thế sao? - Có thể vợ hoàn toàn ý thức được điều ta biết. - Và , với cú điện thoại này, muốn làm chủ tình hình, ngăn cho vợ mình đến tận cùng, hoặc báo cho chúng ta về chuyện ấy... - Phải, đó là điều tôi nghĩ... Cho đến lúc này Veronica Bermann tỏ ra rất hợp tác. ta có lợi lộc gì khi giấu giếm chúng ta điều gì đó, trừ phi ta cho rằng thông tin ấy chỉ liên quan đến hai vợ chồng họ, và dính dáng gì với tội ác mà chúng ta gán cho chồng ta. Đối với Mila, mọi việc giờ ràng hơn. Trực giác của giáo sư Gavila dẫn tới việc đổi hướng điều tra. Trước tiên cần phải kiểm chứng nó . Chính vì lý do này mà ông giáo sư chưa cho thanh tra Roche biết. Họ hy vọng thu được thông tin có ý nghĩa sau cuộc chuyện với Veronica Bermann. Với kỹ năng thẩm vấn nhân chứng lành nghề, lẽ ra Boris là người dẫn dắt cuộc đối thoại mang tính chính thức này. Nhưng Goran quyết định chỉ có ông và Mila gặp trực tiếp bà Bermann. Boris chấp hành như thể đó là mệnh lệnh của cấp chứ phải của người dân thường. Nhưng thù nghịch của đối với Mila chỉ càng tăng thêm. chàng thể hiểu được tại sao cần phải có mặt. Mila cảm nhận được căng thẳng ấy, nhưng ngay cả cũng hiểu lý do gì khiến giáo sư Gavila lựa chọn như vậy. Nhiệm vụ duy nhất còn lại của Boris là hướng dẫn cho Mila cách dẫn dắt cuộc chuyện, và làm hết mình cho đến lúc này, trước khi phải vật lộn với cái máy định vị toàn cầu để buộc nó chạy trở lại. Mila nhớ lại câu bình phẩm của Boris khi Stern và Rosa miêu tả Alexander Bermann: “Tôi thấy như bị lóa mắt. Tất cả đều ‘sạch ’ quá mức”. hoàn hảo đó khó có thể tin được. Nó dường như được sắp đặt từ trước. Ai cũng có bí mật, Mila tự nhủ. Mình cũng vậy. Người ta luôn có điều gì đó cần giấu giếm. Bố từng hồi còn bé xíu: “Chúng ta ai cũng từng thò tay ngoáy mũi. Thường chúng ta chỉ làm điều đó khi ai trông thấy. Nhưng đúng là chúng ta có làm chuyện đó”. Vậy bí mật của Alexander Bermann là gì? Vợ biết những gì? Khi họ đến nơi trời tảng sáng. Ngôi làng với mái vòm nhà thờ nhô cao nằm ở chỗ uốn khúc của bờ sông. Các ngôi nhà nằm ngấp nghé bờ nước. Chị của Veronica Bermann ở trong căn hộ nằm phía hiệu bánh. Sarah Rosa gọi điện báo cho ta về chuyến viếng thăm. Như dự kiến, ta phản đối và cũng hề tỏ ra dè dặt. Ý đồ của việc báo trước là nhằm trấn an ta rằng đây phải là buổi thẩm vấn. Nhưng Veronica Bermann bận tâm đến cẩn trọng của đặc vụ Rosa. ta thậm chí sẵn sàng chấp nhận bị tra khảo. Khi Veronica Bermann ra đón Mila và Goran gần bảy giờ sáng. ta trông hoàn toàn thoải mái trong chiếc áo ngủ và đôi dép bông. Vợ Bermann đưa hai người vào phòng khách. Trần phòng có những thanh xà lộ liễu, đồ đạc trong phòng toàn bằng gỗ dát. Veronica mời họ dùng cà phê nóng. Mila và Goran ngồi xuống chiếc trường kỷ, còn ta ngồi xuống mép cái ghế bành, với đôi mắt tối bưng của người thể ngủ nghê hay khóc lóc gì nữa. Nhìn thấy đôi tay chắp lại đặt đầu gối, Goran hiểu ta căng thẳng. Căn phòng được chiếu sáng bởi ánh vàng ấm áp của ngọn đèn có chụp bằng lụa cũ. Mùi hương của những bụi cây leo ngoài cửa sổ góp thêm chút hiếu khách cho nó. Chị của Veronica Bermann dọn cà phê rồi bê cái khay đỏ ra khỏi phòng. Goran để cho Mila trước. Các câu hỏi mà họ sắp đặt ra đòi hỏi nhiều khéo léo. Mila thư thả dùng cà phê. có gì phải vội. muốn người phụ nữ trước mặt hạ hẳn hàng rào cảnh giác xuống trước khi mở lời. Boris cảnh báo rằng trong vài trường hợp chỉ cần câu vụng về là đối tượng khép kín lại và chịu hợp tác nữa. - Thưa bà Bermann, tất cả những chuyện này quá đau đớn, và chúng tôi rất lấy làm tiếc vì đường đột đến đây vào lúc sáng sớm như thế này. - đừng lo, tôi luôn thức dậy sớm. - Chúng tôi cần tìm hiểu kỹ hơn về chồng bà, nhất là để hiểu được ông ấy thực có liên quan tới vụ án đến mức độ nào. Vụ việc này còn rất nhiều uẩn khúc, bà tin tôi . Xin bà hãy kể cho chúng tôi nghe về chồng bà... Các biểu gương mặt của Veronica Bermann mảy may suy suyển, nhưng ánh mắt ta sinh động hơn. bắt đầu kể: - Alexander và tôi quen nhau từ hồi học trung học. ấy hơn tôi hai tuổi, và chơi trong đội khúc côn cầu. ấy phải là vận động viên xuất sắc, nhưng ai cũng hâm mộ. ấy chơi với bạn của tôi, từ đó mới biết tôi. Chúng tôi bắt đầu chơi cùng nhau, nhưng luôn cùng nhóm, như những người bạn đơn thuần: lúc ấy giữa chúng tôi vẫn chưa có gì cả, và thậm chí chúng tôi cũng chẳng nghĩ có điều gì có thể gắn kết cả hai với nhau. ra, tôi tin ấy có bao giờ định “tiến tới” với tôi... tức là đặt vấn đề cưới xin ấy. Mà tôi cũng ... - Chuyện ấy sau này mới xảy ra... - Phải, cũng lạ, nhỉ? Sau khi tốt nghiệp, tôi mất liên lạc với ấy trong nhiều năm. Qua bạn bè, tôi biết ấy lên đại học. ngày nọ, ấy tái xuất trong đời tôi: ấy gọi điện thoại cho tôi, bảo rằng tình cờ tìm thấy số điện thoại của tôi trong cuốn kỷ yếu. ra, sau đó cũng qua bạn bè, tôi biết được sau khi học xong, ấy quay về hỏi han tin tức của tôi... Trong khi lắng nghe, Goran có cảm giác Veronica hoàn toàn đơn giản là trải lòng với những kỷ niệm xưa, mà với cách nào đó, câu chuyện của ta có mục tiêu chính xác. Như thể ta cố ý dẫn họ đến nơi nào đó xa xưa trong quá khứ, nơi mà họ có thể tìm thấy điều cần tìm. - Từ đó, hai người nối lại quan hệ... - Mila . Goran hài lòng nhận ra cảnh sát làm theo những chỉ dẫn của Boris. đặt ra các câu hỏi cho Veronica Bermann, mà mớm lời để ta tiếp, để cho giống cuộc đối thoại hơn là buổi thẩm vấn. - Từ đó chúng tôi nối lại quan hệ. - Vợ của Bermann lặp lại lời Mila. - Alexander theo đuổi tôi dữ lắm, để thuyết phục tôi cưới ấy. Rồi rốt cuộc tôi cũng đồng ý. Goran chú ý đến câu cuối cùng của ta. Nghe nó hơi gượng, tựa như câu dối nhằm giữ thể diện được hấp tấp chen vào trong lời kể với hy vọng bị phát . Ông nhớ lại những gì chú ý ở lần đầu tiên gặp người đàn bà này: Veronica đẹp, có lẽ hồi trẻ cũng thế. phụ nữ tầm thường, có sức quyến rũ nào. Alexander Bermann, ngược lại, khá đẹp trai với đôi mắt xanh nhạt và nụ cười tự tin của người đàn ông ý thức được sức hấp dẫn của mình. Giáo sư Gavila thấy khó mà tin được Bermann phải nài nỉ vợ đồng ý lấy mình. Đúng lúc đó, Mila quyết định nắm thế chủ động trở lại trong cuộc chuyện: - Nhưng rồi rốt cuộc, chuyện giữa hai ông bà êm đẹp... Veronica ngừng lúc. Khá lâu, theo đánh giá của giáo sư Goran. Có lẽ Mila quăng mồi quá sớm. - Chúng tôi có số vấn đề. - Cuối cùng ta thú nhận. - Hai người cố gắng có con trước đây… - Tôi trải qua đợt điều trị bằng hormone. Sau đó chúng tôi cũng thử bơm tinh trùng. - Chắc hai ông bà muốn có đứa con lắm... - Alexander là người muốn nhất. - Veronica Bermann với giọng phòng thủ, dấu hiệu cho thấy đó chính là chủ đề gây bất hòa giữa hai người. Họ đến gần mục tiêu. Goran khá hài lòng. Ông chọn Mila để khiến Veronica Bermann trải lòng, vì ông tin rằng phụ nữ là lý tưởng nhất để tạo dựng cảm thông cũng như khuất phục các kháng cự nếu có. Đúng ra ông có thể dùng Sarah Rosa, như thế có lẽ đỡ động chạm đến lòng tự ái của Boris. Nhưng ông cảm thấy Mila thích hợp nhất, và ông lầm. Để có thể nhìn vào mắt Goran mà bị chú ý, Mila đặt tách cà phê xuống chiếc bàn đặt giữa trường kỷ và cái ghế bành mà Veronica Bermann ngồi, đồng thời nghiêng đầu. Nhà tội phạm học khẽ gật đầu: đến lúc thôi rào đón và thẳng vào chủ đề. - Bà Bermann này, tại sao trong tin nhắn của máy trả lời tự động, chồng bà lại xin bà tha thứ cho ông ấy? - Mila hỏi. Veronica quay mặt giấu giọt lệ chực trào ra do xúc động. - Bà Bermann, bà có thể tin ở chúng tôi. Xin với bà là có ai, dù là cảnh sát, công tố viên hay quan tòa nào có thể ép được bà phải trả lời câu hỏi này, bởi vì nó có liên quan trực tiếp đến vụ án. Nhưng nó rất quan trọng đối với chúng tôi, vì chồng bà có thể là hoàn toàn vô tội... Nghe đến chữ ấy, Veronica quay lại nhìn Mila. - Vô tội ư? Alexander giết ai cả… nhưng có nghĩa là chồng tôi có tội! Cơn thịnh nộ đột ngột làm Veronica lạc cả giọng. Goran có lời khẳng định mà ông chờ đợi. Mila cũng hiểu ra: Veronica Bermann chờ đợi họ. ta mong chờ cuộc thăm viếng này cũng như những câu hỏi gài trong các câu vô thưởng vô phạt của Mila. Họ cứ tưởng dẫn dắt cuộc đối thoại, nhưng ra người đàn bà kia chuẩn bị sẵn kịch bản để đưa họ đến chỗ tại. ta cần phải tiết lộ việc với ai đó. - Tôi nghi Alexander có nhân tình. Đàn bà luôn cảm nhận được những chuyện như vậy và là người quyết định xem có tha thứ được cho người đàn ông của mình hay . Nhưng sớm muộn rồi họ cũng muốn biết . Chính vì thế, hôm tôi lục lọi đồ đạc của Alexander. Tôi biết chính xác mình phải tìm gì, và cũng biết phản ứng ra sao nếu phát ra bằng chứng. - Bà phát được gì vậy? - khẳng định: Alexander che giấu sổ nhật ký điện tử giống hệt cái mà ta dùng trong công việc. Tại sao lại mua hai lần cùng thứ, nếu phải là để dùng cái nọ lấp liếm cái kia? Nhờ thế tôi phát ra mụ nhân tình của ta. Alexander ghi lại tất cả mọi cuộc hẹn! Tôi trưng bằng chứng ra trước mặt ta, nhưng Alexander chối bay chối biến và thủ tiêu luôn cuốn nhật ký thứ hai. Tuy vậy, tôi hề bỏ cuộc. Tôi bám theo ta đến tận nhà ả kia, trong cái ổ tò vò ấy. Vậy nhưng tôi lại dám tiến xa hơn. Tôi dừng lại ở ngoài cửa. ra, tôi muốn nhìn thấy mặt con đàn bà ấy. Đây là bí mật thể thú nhận của Alexander sao? Goran tự hỏi. ả nhân tình? Họ cất công đến tận đây chỉ để khám phá được có thế? Cũng may ông báo cho Roche về nước của mình, nếu ông phải gồng mình nhận lấy những lời nhạo báng của viên chánh thanh tra, người coi như vụ án được khép lại. Trong lúc đó, Veronica giận sôi lên và hề có ý định để cho hai vị khách ra về trước khi trút cạn nỗi oán hận đối với người chồng quá cố. ràng việc ta cương quyết bênh vực chồng khi xác chết trong xe bị phát chỉ là lớp vỏ bọc. Nó chỉ là phương tiện để tránh sức nặng của cáo buộc, để tránh bị dây vào vết bùn. Giờ ta tìm được sức mạnh để giải phóng mình khỏi tình nghĩa vợ chồng, và cũng như những người khác, ta ra sức đào cái hố to để cho Alexander Bermann bao giờ thoát ra được. Goran ra hiệu bằng mắt cho Mila kết thúc cuộc trao đổi càng sớm càng tốt. Khi đó, ông thấy vẻ biến sắc gương mặt của , pha trộn giữa vẻ ngạc nhiên và bối rối. Trong cả nghiệp của mình, Goran học được cách phát ra biểu của nỗi sợ hãi gương mặt người khác. điều gì đó làm Mila chấn động sâu sắc. Đó là cái tên. Ông nghe thấy hỏi Veronica Bermann: - Bà vừa tên nhân tình của chồng bà là gì cơ? - Tôi xin nhắc lại. Tên của con đàn bà lăng loàn đó là Priscilla.
9 Đó thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Mila trình bày cho những người có mặt nghe các tình tiết nổi bật của vụ án gần nhất mà đảm trách, vụ thầy dạy nhạc. Khi nghe thuật lại lời của trung sĩ Morexu về việc phát ra cái tên Priscilla trong cuốn sổ của “con quỷ”, Sarah ngước mắt nhìn trời, còn Stern cũng lắc đầu hùa theo. Họ tin . Cũng dễ hiểu thôi. Nhưng Mila chịu chấp nhận ý nghĩ cho rằng có mối liên quan nào cả. Chỉ mình Goran là để mặc . biết ông muốn đến đâu với điều đó. Mila muốn bằng mọi giá tìm hiểu sâu hơn về tình cờ này. Nhưng từ cuộc trao đổi với Veronica Bermann, chỉ thu được kết quả duy nhất: ta theo dõi ông chồng đến tận nhà của nhân tình, nơi tại nhóm điều tra tìm đến. Có thể chỗ đó che giấu các bí mật kinh hoàng khác. Biết đâu là thi thể của các bé còn lại. Và còn lời giải đáp cho câu hỏi về nạn nhân số sáu. Mila những muốn với mọi người rằng muốn đặt tên Priscilla cho bé, nhưng nín thinh. Giờ đây cái tên đó giống như lời chế nhạo. Như thể cái tên ấy được lựa chọn bởi chính Bermann, tên đao phủ của bé. Tòa chung cư có cấu trúc điển hình của khu ngoại ô. khu nhà tồi tàn kinh điển, được xây dựng vào thập niên sáu mươi, hệ quả của khu công nghiệp mới mở hồi ấy. Nó bao gồm nhiều tòa nhà màu xám, bị thời gian phủ lên lớp bụi đỏ bay ra từ nhà máy thép trong khu vực. Các ngôi nhà có giá trị thương mại thấp và cần được trùng tu khẩn cấp. Sống trong đó là lớp người tạm cư, gồm chủ yếu là dân nhập cư, thất nghiệp và các gia đình sống nhờ vào trợ cấp của chính phủ. Goran nhận thấy ai dám nhìn Mila. Họ giữ khoảng cách vì nữ cảnh sát dường như vượt qua giới hạn khi nêu ra ý kiến ai chờ đợi. - Làm thế nào bọn họ chọn sống trong nơi như thế này? - Boris lẩm nhẩm tự hỏi trong khi kinh tởm nhìn xung quanh. Căn hộ họ tìm kiếm nằm ở cuối khối nhà. Nó là tầng lửng chỉ có thể tiếp cận bởi cầu thang lộ thiên. Cửa vào bằng sắt. Ba ô cửa sổ duy nhất nhìn ra đường được lắp chấn song và bịt ván gỗ từ bên trong. Stern cố gắng nhìn qua cửa trong tư thế lom khom kì cục, tay khum lại che mắt, hông đưa ra phía sau để giữ cho quần khỏi bị vấy bẩn. - Ta chẳng thể tìm ra được gì từ chỗ này. Boris, Stern và Rosa gật đầu với nhau rồi đứng vào vị trí bên cạnh cửa. Stern ra hiệu cho Goran và Mila lùi lại phía sau. Boris tiến đến gần cánh cửa. Nhà có chuông, nên dùng bàn tay đập cửa rất mạnh. Tiếng động có tác dụng trấn át, nhưng ngược lại cất tiếng bằng giọng điềm tĩnh: - Thưa bà, cảnh sát đây. Vui lòng mở cửa... Đó là kỹ thuật gây sức ép tâm lý để làm đối tượng mất phương hướng: chuyện bằng giọng cố tình kiên nhẫn, trong khi vẫn gây sức ép. Nhưng có vẻ lần này nó thành công, vì căn hộ dường như có người. - Ta vào thôi. - Rosa đề nghị. ta là người sốt ruột nhất trong nhóm. - Cần phải đợi Roche gọi điện báo là xin được lệnh khám nhà. - Boris , mắt nhìn đồng hồ. - Chắc cũng còn lâu nữa đâu.. - Mặc xác ông ta với cái lệnh khỉ gió kia! - Rosa phản đối. - Trong nhà chẳng biết có cái quái gì nữa! Goran can thiệp: - Rosa có lý, chúng ta vào thôi. Theo như cách mà bọn họ tiếp nhận quyết định của ông, Mila có thể khẳng định, trong đội điều tra, tiếng của Goran có trọng lượng hơn của Roche. Mọi người vào vị trí quanh cánh cửa. Boris rút ra cái tuốcnơvít và bắt đầu phá ổ khóa. Nó nhanh chóng bị tháo tung. Súng nắm chắc trong tay, đẩy cánh cửa bằng sắt ra. Thoạt nhìn, căn hộ dường như có người ở. Nhà có hành lang hẹp, trống trải. Ánh sáng ban ngày đủ rọi sáng nó. Rosa bật đèn pin. Ba cánh cửa lên. Hai cái nằm bên trái. Cái cuối cùng nằm ở cuối hành lang. Nó bị đóng. Cả đội chầm chậm tiến vào trong căn hộ. Boris đầu, tiếp đến là Rosa, rồi Stern và Goran. Mila khóa đuôi. Ngoại trừ nhà tội phạm học, những người còn lại đều có súng trong tay. Mila chỉ là thành viên “dự thính” của đội, và lý thuyết được dùng súng, nhưng vẫn để nó trong túi quần, tay siết chặt báng, sẵn sàng rút nó ra. Chính vì lý do này mà là người vào sau cùng. Boris thử bật công tắc tường. - có điện. giơ đèn pin lên để quan sát bên trong căn phòng thứ nhất. Nó trống rỗng. tường là vết ố lan từ dưới sàn ra lớp thạch cao, nom như con cua. Các đường ống của lò sưởi và nước bẩn dính với nhau trần nhà. lỗ nước thải xuất sàn nhà. - Tởm quá! - Stern thốt lên. ai có thể sống trong điều kiện như thế này. - Tôi thấy ràng là căn hộ có người ở. - Rosa . - Vậy cái chỗ này là gì? - Boris hỏi. Họ chuyển sang căn phòng thứ hai. Cánh cửa bị kẹt, hơi long ra khỏi tường, bản lề han gỉ: cái xó này tạo thành nơi lẩn trốn dễ dàng cho tên giết người, nếu có. Boris đá tung cánh cửa, nhưng phía sau nó có ai. Căn phòng hoàn toàn giống hệt với cái đầu tiên. Gạch lát nền bị bong lên đôi chỗ, để lộ lớp xi măng bên dưới. hề có đồ đạc gì, ngoại trừ khung thép của chiếc xa lông. Họ tiếp tục công cuộc khám nhà. Chỉ còn căn phòng nằm ở cuối hành lang, nơi có cánh cửa đóng kín. Boris đưa ngón cái và ngón trỏ trái lên, chỉ vào mắt mình. Stern và Rosa hiểu ý, lập tức đứng vào hai bên cửa. Chàng cảnh sát trẻ lùi lại bước, rồi đá cú đúng vào chỗ nắm cửa. Cánh cửa bật mở và ba người lập tức chĩa súng, rọi đèn pin vào trong phòng. Bên trong phòng cũng có ai. Goran lách qua các cảnh sát, lướt bàn tay găng cao su tường. Ông tìm thấy công tắc. Sau hai hồi chớp tắt, ngọn đèn tuýp bật sáng trần, rọi xuống căn phòng thứ ánh sáng huỳnh quang của nó. Căn phòng rất khác biệt so với hai cái trước. Trước tiên, nó sạch . Các bức tường có vết ố nào vì được dán giấy chống thấm. Lớp gạch lát sàn còn nguyên vẹn và sạch . Căn phòng có cửa sổ, nhưng sau vài giây, cái máy điều hòa bắt đầu chạy. Các thiết bị điện được gắn ngầm trong tường, chứng tỏ chúng được lắp vào sau này. Các ống nhựa dẫn dây cáp điện tỏa ra từ công tắc mà Goran vừa bật, và từ bảng điện ở phía bên phải của căn phòng. Ở đó, có cái bàn và chiếc ghế văn phòng kê sát tường. bàn là máy tính tắt. Đó là những món đồ diện trong căn phòng, ngoài ra chiếc ghế bành bọc da cũ kê dựa vào bức tường bên trái, phía đối diện. - Có vẻ như đây là căn phòng duy nhất mà Alexander Bermann quan tâm. - Stern với giáo sư Goran. Rosa tiến lại gần máy vi tính. - Tôi bảo đảm là các câu trả lời chúng ta tìm kiếm nằm ở trong này. Nhưng Goran giữ tay Rosa lại. - . Nên tiến hành theo trình tự. Chúng ta ra khỏi đây để làm ảnh hưởng đến độ ẩm của khí. - Sau đó ông với Stern. - gọi cho Krepp, để ta cùng nhóm của mình đến thu thập dấu vân tay. Còn tôi báo cho Roche. Căn cứ vào ánh sáng lấp lánh trong đôi mắt của nhà tội phạm học, Mila hiểu ông tin chắc mình đến gần sát điều rất quan trọng. Krepp lướt các ngón tay đầu tựa như để chải lại tóc, mặc dù chẳng còn mấy sợi ngoài vành tóc sau gáy cột thành chiếc đuôi ngựa dài xuống lưng. con rắn hai màu xanh đỏ duỗi mình cẳng tay, há miệng ngay vị trí bàn tay ông. Ngoài hình xăm đó, ông còn hình tương tự cánh tay kia cũng như ngực, lộ ra qua lớp áo sơmi. Đằng sau những cái khuyên xỏ mặt, người ta có thể nhận ra Krepp, chuyên viên của đội khoa học hình . Mila ngẩn người trước ngoại hình của ông già sáu mươi khác người. tự nhủ chắc đây là hình ảnh về già của những người hâm mộ nhạc rock. Tưởng vậy, nhưng cho đến vài năm trước đây, Krepp vẫn là người đàn ông trung niên hoàn toàn bình thường, khá nghiêm khắc và có ngoại hình tương đối nhàm chán. Sau khi biết ông mất trí, chẳng ai còn phàn nàn gì về ngoại hình tại của ông, vì Krepp là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình. Sau khi cám ơn giáo sư Goran vì gìn giữ độ ẩm nguyên bản của trường, Krepp lập tức bắt tay vào công việc. Ông ở trong căn hộ tiếng đồng hồ cùng với nhóm làm việc của mình, tất cả đều mặc áo blu và đeo khẩu trang để tự bảo vệ mình trước các loại hóa chất dùng để phát dấu vân tay. Sau đó Krepp xuống khỏi căn gác lửng, tiến lại gần nhà tội phạm học và Roche, lúc này đến nơi. - khỏe Krepp? - Ngài chánh thanh tra chào ông. - Vụ nghĩa địa cánh tay khiến tôi phát điên. - Krepp bình phẩm. - Chúng tôi khám nghiệm các cánh tay này để tìm kiếm dấu vân tay hữu ích các gọi. Goran biết việc lấy dấu vân tay lớp da người là điều cực kỳ khó, do nhiễm bẩn có thể xảy ra, do mồ hôi của chủ thể, hoặc là do tượng phân hủy nếu là da của tử thi, giống như trường hợp của các cánh tay. - Tôi thử xông iốt, giấy Kromekote, thậm chí dùng cả điện ký. - Nó là gì vậy? - Đó là phương pháp đại nhất để lấy dấu vân tay in da: chụp X-quang điện tử... Cái gã Albert đáng nguyền rủa này quá khôn khéo trong việc xóa dấu vết. - Krepp . Mila nhận thấy Krepp là người duy nhất còn dùng cái tên đó để gọi kẻ sát nhân, vì đối với những người còn lại, kể từ nay kẻ sát nhân mang nhân dạng của Alexander Bermann. - Vậy, ở đây chúng ta có gì nào? - Roche hỏi, tỏ vẻ mệt mỏi khi phải nghe những điều mà ông cho là vô ích. Người kỹ thuật viên tháo găng tay và thuật lại những việc ông vừa làm, mắt vẫn nhìn xuống đất. - Chúng tôi sử dụng ninhydrin, nhưng do kết quả nét dưới đèn laser, nên tôi thay bằng dung dịch muối kẽm chlorua. Chúng tôi tìm thấy nhiều loạt vân tay giấy dán tường cạnh công tắc, và lớp phủ nhiều lỗ xốp của chiếc bàn. Còn với máy vi tính, mọi việc có khó khăn hơn. Các dấu vân tay chồng chéo lên nhau chúng tôi phải dùng đến cyanoacrylate, nhưng cần phải đem bàn phím vào buồng áp suất và... - Để sau hãy hay. Chúng ta có thời gian để kiếm cái bàn phím khác thay thế, trong khi cần phải kiểm tra máy tính ngay. - Thanh tra Roche vội vã cắt ngang. - tóm lại, các dấu vân tay thu được là của cùng người à? - Phải, tất cả đều là của Alexander Bermann. Những chữ ấy khiến mọi người chấn động, ngoại trừ những ai biết trước câu trả lời, và những người biết ngay từ lúc đặt chân vào căn hộ tầng lửng này. - Có vẻ như Priscilla hề tồn tại. - Giáo sư Gavila . Ông buông ra lời khẳng định mà buồn nhìn sang Mila. thấy tự ái ghê gớm. Krepp tiếp tục : - Còn điều nữa... Cái ghế bành bọc da. - Sao cơ? - Mila cất tiếng hỏi. Krepp nhìn cảnh sát như khi người ta quan sát ai đó lần đầu tiên, sau đó mắt ông chiếu vào đôi tay băng bó của và tỏ ra kinh ngạc. Mila thể cảm thấy ngược đời khi Krepp, với tác phong ăn mặc của ông, lại nhìn như vậy. Nhưng để lộ điều đó. - ghế có dấu vân tay. - Như thế là bình thường à? - Mila hỏi. - Tôi . - Krepp gọn lỏn. - Tôi chỉ là dấu tay có ở khắp nơi, ngoại trừ đó. - Nhưng chuyện đó nhằm nhò gì? Chúng ta có dấu vân tay của Bermann ở tất cả những thứ khác. - Roche chen ngang. - Như vậy là đủ để cho chúng ta buộc tội ... Mà, nếu cần biết , cái tay này làm tôi càng ngày càng ngán đấy. Mila lại nghĩ lẽ ra Roche phải rất đỗi hài lòng mới phải, vì là giải pháp cho mọi vấn đề rắc rối của ông ta kia mà. - Vậy tôi làm gì với cái ghế đây? Tiếp tục phân tích à? - Kệ cha cái ghế . để cho người của tôi xem qua cái máy tính . Nghe thấy viên thanh tra chuyện bằng giọng ấy, các thành viên trong đội điều tra phải cố nhìn nhau để khỏi bật cười. Đôi khi Roche chuyện bằng giọng điệu còn ngang tàng hơn cả bộ dạng của Krepp. Roche tiến về phía chiếc xe đợi ông ở cuối khối nhà, trước đó quên buông lời động viên mọi người: - Các bạn, tôi trông cậy ở các bạn đấy nhé. Khi ông ta đủ xa, Goran với cả nhóm: - Được rồi, ta cùng xem trong cái máy tính kia có gì. Họ quay trở vào trong phòng. Lúc này các bức tường được phủ vải nhựa, nom như bào thai khổng lồ. Sào huyệt của Alexander Bermann cuối cùng cũng phải mở cửa với họ. Chí ít đó là điều cả nhóm hy vọng. Mọi người đeo găng tay cao su vào. Sarah Rosa ngồi vào vị trí. đến lượt ra tay. Trước khi bật nguồn, nhét thứ vào cổng USB. Stern bật máy ghi đặt cạnh bàn phím. Rosa bắt đầu diễn giải: - Tôi vừa kết nối bộ nhớ ngoài vào máy tính của Bermann: nếu như máy bị treo, lập tức mọi dữ liệu trong ổ cứng được chuyển sang bộ nhớ ngoài. Những người còn lại im lặng đứng chung quanh Rosa. mở máy. Đèn tín hiệu nhấp nháy, nối tiếp bằng tiếng ro ro đặc trưng khi ổ đĩa cứng khởi động. Mọi thứ có vẻ bình thường. Chiếc máy vi tính uể oải thức dậy. Nó thuộc đời máy cũ, giờ còn được bán thị trường nữa. màn hình lần lượt xuất các dữ liệu hệ thống trước khi nhường chỗ cho màn hình làm việc. Chẳng có gì quan trọng: hình nền bầu trời xanh, với các biểu tượng chương trình hoàn toàn bình thường. - Trông chẳng khác gì cái máy ở nhà mình. - Boris thử tếu táo câu, nhưng ai cười cả. - Tốt... giờ ta xem trong thư mục hồ sơ của ngài Bermann có gì nào... Rosa nhấp chuột vào biểu tượng hồ sơ. Trống rỗng. Cũng giống như thư mục hình ảnh và dành sách các tập tin được mở gần đây. - có tập tin văn bản nào... Chuyện này rất lạ. - Goran nhận xét. - Có lẽ xóa tất cả sau mỗi lần sử dụng. - Stern phỏng đoán. - Nếu là thế, tôi có thể thử khôi phục lại chúng. - Rosa khẳng định, chắc như đinh đóng cột. nhét chiếc đĩa vào trong đầu đọc và nhanh chóng cho chạy chương trình có thể khôi phục bất cứ tập tin bị xóa nào. Bộ nhớ của máy tính bao giờ bị xóa hoàn toàn, và ta thể xóa được số thông tin nhất định, tựa như chúng được khắc sâu thể xóa nhòa. Mila còn nhớ từng nghe là hợp chất silicone diện trong mỗi chiếc máy tính hoạt động hơi giống não người. Ngay cả khi người ta ngỡ quên điều gì đó, thực tế ở đâu đó trong bộ não vẫn có nhóm tế bào lưu giữ lại thông tin ấy, và ngày kia cung cấp nó cho chúng ta dưới dạng hình ảnh hoặc linh tính. Điều cốt yếu phải là ghi nhớ xem khi nào chúng ta bị bỏng lửa lần đầu tiên, mà quan trọng là, sau khi lược bỏ mọi tình huống sinh học gây ra nó, ý thức đó được ghi sâu vào bộ nhớ của chúng ta và nhắc ta mỗi khi đến gần thứ gì quá nóng. Đó là điều Mila nghĩ đến khi lần nữa nhìn xuống đôi tay băng bó... ràng là ở đâu đó trong đầu lưu giữ thông tin sai lạc. - Trong này chẳng có gì. Lời nhận xét đầy tiếc nuối của Rosa đưa Mila trở lại với thực tại. Chiếc máy tính hoàn toàn trống rỗng. Nhưng Goran bỏ cuộc. - Còn trình duyệt mạng nữa. - Nhưng máy tính này có kết nối Internet. - Boris lưu ý. Tuy nhiên lần này Rosa hiểu ý đồ của nhà tội phạm học. rút điện thoại di động ra và bấm các nút điều chỉnh màn hình. - Có sóng... Có lẽ vào mạng nhờ điện thoại. Rosa mở trình duyệt máy tính và kiểm tra danh sách các địa chỉ trang mạng lưu trong quá khứ. Chỉ có địa chỉ duy nhất. - Hóa ra đây là thứ Bermann làm ở trong cái xó này! Đó là dãy số. Địa chỉ là mã số. http://4589278497.89474525.com - Nó có thể là địa chỉ của máy chủ tư nhân. - Rosa phỏng đoán. - Nghĩa là sao? - Boris hỏi. - Tức là cậu thể truy cập nó từ trang tìm kiếm, và để vào được cậu phải có mật mã. Có lẽ nó được cài trực tiếp trong chiếc máy tính này rồi cũng nên. Nhưng nếu phải vậy, chúng ta có nguy cơ bị từ chối truy cập vĩnh viễn. - Vậy ta phải thận trọng và làm chính xác những gì Bermann làm… - Goran , trước khi quay sang phía Stern. - Ta có điện thoại di động của ? - Có, tôi để nó trong xe hơi, cùng với máy vi tính nhà . - Vậy ra lấy nó ... Khi Stern quay lại, mọi người đón trong im lặng. ràng mọi người rất sốt ruột đợi quay vào. đưa di động của Bermann cho Rosa. kết nối nó với máy tính, sau đó bắt đầu kết nối vào mạng. Máy chủ phải cần lúc để tiếp nhận máy tính. Nó thiết lập các thông số, sau đó nhanh chóng tải dữ liệu. - Có vẻ như nó để cho chúng ta truy cập gặp trở ngại... Mọi người dán mắt vào màn hình, chờ đợi hình ảnh có thể lên vào bất cứ lúc nào. Đó có thể là bất cứ cái gì, Mila thầm nghĩ. căng thẳng tột độ bao trùm lên mọi thành viên trong nhóm tựa như dòng năng lượng chạy xuyên từ cơ thể người này sang người khác. Họ có thể cảm nhận được nó trong khí. màn hình xuất các điểm ảnh nằm lung tung như những miếng ghép bé xíu của bức tranh ghép hình. Nhưng mọi người ngờ đến điều họ nhìn thấy. Luồng năng lượng cao tràn ngập trong gian nãy giờ đột ngột tụt xuống, nhiệt tình của mọi người tan biến. Màn hình hóa đen. - Chắc hẳn là có hệ thống bảo vệ. - Rosa tuyên bố. - Nó coi lần thử vừa rồi của chúng ta như xâm nhập. - Nó giấu tín hiệu à? - Boris lo lắng hỏi. - Tất nhiên rồi! - Rosa nổi cáu. - Cậu nghĩ tôi ngu chắc? Có lẽ phải cần từ khóa, hoặc thứ gì đó... - Cái gì đó kiểu như “Tên đăng nhập” và “Mật mã” ấy à? - Goran hỏi, ông cố hiểu tình hình. - Đại loại như thế. - Rosa lơ đãng đáp. - Cái chúng ta có là địa chỉ kết nối trực tiếp. Tên đăng nhập và mật mã là cơ chế bảo mật xưa rồi. Chúng để lại dấu vết và luôn cho phép ta truy ngược ra người sử dụng. Những kẻ truy cập vào đây muốn để lộ danh tính. Mila tiếng nào. Tất cả những chuyện này khiến căng thẳng. hít sâu và siết chặt nắm đấm làm các khớp xương kêu răng rắc. Có điều gì đó hợp lý, nhưng tài nào xác định được. Goran quay sang trong thoáng, như thể rất bứt rứt về cái nhìn của . Mila vờ như nhận thấy điều đó. Trong khi chờ đợi, khí trong căn phòng bắt đầu nóng dần. Boris trút giận vào Rosa vì cú thử nghiệm vô ích. - Nếu chị nghĩ có thể tồn tại hàng rào ngăn chặn truy cập, tại sao chị thực quy trình kết nối song song? - Thế sao cậu đề nghị chuyện đó lúc nãy? - Tại sao? Chuyện gì xảy ra thế? - Giáo sư Goran hỏi. - Chuyện là khi có hệ thống bảo vệ như thế này ta có cách nào truy cập được! - Chúng ta thử chế ra từ khóa mới và cố gắng lần nữa. - Sarah Rosa đề nghị. - á? Nhưng phải có đến hàng triệu tổ hợp ấy! - Boris chế nhạo. - Cậu xéo ra chỗ khác ! Cậu muốn đổ lỗi lên đầu tôi đấy à? Mila im lặng chứng kiến màn quặc nhau của họ. - Nếu ai có đề nghị hay định dạy dỗ gì, cứ việc ngay từ đầu có phải hơn ! - Nhưng hễ ai chữ là chị lại nhảy chồm chồm lên! - Này, Boris, khôn hồn biến! Tôi có thể cho cậu... - Cái gì thế này? Câu của Goran rơi xuống như thanh chắn giữa hai đối thủ. Giọng điệu của ông hoảng hốt, cũng sốt ruột như Mila tưởng, nhưng nó vẫn có hiệu quả để buộc hai người kia phải im lặng. Nhà tội phạm học chỉ thứ gì đó phía trước mặt. Nhìn theo cánh tay phải của ông, mọi người lại lần nữa chú ý màn hình máy tính. Nó còn đen ngòm nữa. Ở góc bên trái, hàng chữ xuất . “a do ha?” - Khỉ ! - Boris rủa. - Này, có chuyện gì thế? Ai đó giải thích cho tôi nghe được ? - Goran hỏi lại lần nữa. Rosa lại ngồi vào trước màn hình, đưa tay vào bàn phím. - Chúng ta vào được. - thông báo. Những người khác xúm lại quanh để nhìn cho hơn. Dấu chuột hàng chữ vẫn tiếp tục nhấp nháy, như thể đợi câu trả lời cho đến lúc này vẫn chưa xuất . “a ha?” - Tóm lại, ai đó có thể giải thích cho tôi chuyện diễn ra được ? - Goran sốt ruột . Rosa nhanh chóng đưa ra lời giải thích: - Đây là cái cổng. - Nghĩa là sao? - Cổng truy cập. ràng chúng ta vào trong hệ thống phức tạp. màn hình là hộp thoại: kiểu chát... Ở đầu bên kia có kẻ nào đó. - Và kẻ đó muốn chuyện với chúng ta... - Boris thêm. - Hay đúng hơn là với Alexander Bermann. - Mila đính chính. - Vậy còn đợi gì nữa? Trả lời ! - Stern vội vàng . Giáo sư Gavila nhìn Boris: chàng cảnh sát chính là chuyên gia thương thuyết. tiến đến đứng sau lưng Rosa để nhắc cho dễ hơn. - Cứ trả lời là chị ở đây. Rosa gõ phím: “Uh, day” Họ đợi vài giây. Sau đó hàng chữ khác xuất màn hình. “ko co tin gi cua a, e lo wa” Boris đọc tiếp câu trả lời khác cho Rosa. nhắc viết chữ thường, giống như kẻ đối thoại, do rằng số người thấy e ngại khi đối phương dùng chữ hoa. Mà họ muốn kẻ kia cảm thấy thoải mái. “a ban lam, e sao roi?” “ho hoi e nhiu lem, nhung e ko noi gi het” Người nào đó đặt câu hỏi? Về chuyện gì? Mọi người, đặc biệt là giáo sư Goran, lập tức có cảm giác là người mà họ đối thoại có dính líu đến điều gì đó mờ ám. - Có thể bị cảnh sát hỏi thăm, nhưng rồi họ thấy cần thiết phải bắt giữ lại. - Rosa phỏng đoán. - Hoặc có thể là họ có đủ bằng chứng. - Stern ủng hộ ý kiến của Rosa. Trong đầu mọi người bắt đầu vẽ lên hình ảnh kẻ tòng phạm của Bermann. Mila nhớ lại chuyện xảy ra ở nhà nghỉ, khi cảm thấy bị bám theo. chưa tiết lộ chuyện này với ai, do sợ rằng đó chỉ là ảo giác. Boris quyết định hỏi người đối thoại bí mật: “ai hoi e?” Bên kia ngừng chút. “ho” “ho la ai?” có câu trả lời. Boris quyết định phớt lờ im lặng và thử vòng qua chướng ngại vật bằng cách đặt câu hỏi khác. “e da noi gi voi ho?” “e noi voi ho chien a dan e, vay la ok” Ngoài tối nghĩa của từ ngữ sử dụng, Goran còn lưu ý các lỗi chính tả mà kẻ kia liên tục mắc phải. - Đây có thể là kiểu mật mã nhận diện. - Ông lý giải. - Có thể cũng chờ đợi chúng ta phạm các lỗi chính tả tương tự. Nếu như chúng ta làm thế, có thể chấm dứt đối thoại. - Có lý đấy. Chị hãy bắt chước lối viết và các cách sử dụng từ ngữ của . - Boris nhắc Rosa. Trong lúc đó, hàng chữ khác xuất màn hình. “e da chun bi moi thu nhu a dan. e mun di lem. bao gio a?” Cuộc đối thoại này chẳng đưa họ tới đâu cả. Vậy nên Boris bảo Rosa trả lời là sớm biết “thời điểm”, nhưng lúc này cần phải ôn lại kế hoạch để bảo đảm là nó trót lọt. Mila thấy đó là ý rất hay. Làm như thế, họ có thể thu được thêm thông tin về kẻ mà họ đối thoại. lát sau, hồi : “ke hoach la: ra khoi nha ban dem de ko ai thay. 2h ra dau duong nup trong bui cay doi. a se nhay den xe 3 lan de e chui ra” Chẳng ai hiểu chuyện gì. Boris nhìn quanh dò hỏi. Mắt chạm mắt giáo sư Goran. - Giáo sư, ông nghĩ sao? Nhà tội phạm học suy nghĩ lúc. - Tôi biết nữa... Có thứ gì đó ổn, nhưng tôi tài nào chộp được nó. - Tôi cũng thế, tôi cũng có cùng cảm giác như thế. - Boris đáp. - Kẻ ở đầu bên kia... có thể là bị chậm phát triển trí tuệ hoặc là thiểu năng tâm lý. Goran tiến lại gần Boris hơn nữa. - Cần phải buộc lộ diện. - Bằng cách nào? - Tôi biết nữa... Cứ bảo là chắc chắn được, rằng tự hỏi liệu có nên chấm dứt mọi chuyện. Cứ bảo “họ” cũng sờ gáy , sau đó cầu cung cấp minh chứng... Chẳng hạn, bảo gọi điện cho theo số an toàn! Rosa vội vã đánh máy. Sau đó suốt lúc lâu, dòng hồi đáp màn hình chỉ có dấu nháy. Rồi rốt cuộc câu trả lời cũng xuất . “e ko goi dien dc. ho nghe len” quá rồi: hoặc rất khôn ranh, hoặc sợ bị rình mò . - Thúc ép . Xoay đường khác. Tôi muốn biết “họ” ở đây là ai. - Goran . - Hỏi xem “họ” ở đâu lúc này. Câu trả lời đến ngay lập tức. “ho o gan lem” - Hỏi xem gần đến mức nào? - Goran nhấn mạnh. “ho o ke ben e” - Nhưng thế là thế nào? Khỉ ! - Boris văng tục, cáu tiết đưa tay lên ôm lấy gáy. Rosa ngả người dựa vào lưng ghế, lắc đầu chán nản. - Nếu như “họ” ở gần đến thế, và lại trông chừng nữa, tại sao họ nhìn thấy những điều viết? - Vì họ thấy những gì chúng ta thấy. - Mila đáp. hài lòng nhận thấy mọi người quay lại để nhìn như nhìn bóng ma vừa lên tiếng. Nhưng ngược lại, nhận xét của làm cho cả nhóm chú ý trở lại. - Ý là thế nào? - Giáo sư Gavila hỏi. - Chúng ta cứ nghĩ là cũng giống như chúng ta, ngồi trước màn hình đen. Nhưng theo tôi nghĩ, hộp thoại của nằm trong trang mạng cùng với nhiều thứ khác, có thể là những hình trang trí chuyển động, các văn bản hoặc hình ảnh... Đó là lý do mặc dù “họ” ở rất gần, nhưng vẫn nhận ra trao đổi với chúng ta. - ấy có lý! - Stern thốt lên. khí sảng khoái kỳ lạ lại tràn ngập trong phòng. Giáo sư Goran với Rosa: - Ta có thể thấy những gì thấy được ? - Tất nhiên rồi. - Rosa đáp. - Tôi gửi cho tín hiệu nhận biết, và khi máy tính của gửi lại, chúng ta có địa chỉ trang web mà kết nối. Trong lúc , kịp mở điện thoại di động để tạo kết nối mạng thứ hai. lúc sau, màn hình xuất dòng chữ: “a con o do ko?” Boris nhìn Goran: - Ta trả lời thế nào đây? - Tìm cách câu giờ. Nhưng đừng để nghi ngờ. Boris viết cho , bảo đợi lát vì có người gọi cửa nên phải ra mở. Trong lúc đó, điện thoại của mình, Sarah Rosa sao chép thành công địa chỉ Internet mà kẻ kia vào để chát. - Đây rồi, ta tìm ra rồi... - thông báo. đưa các thông tin vào trong cửa sổ truy cập và nhấn nút “chạy”. Sau vài giây, trang web xuất . ai liệu kinh ngạc hay nỗi kinh hoàng làm mọi người câm lặng. màn hình, những con gấu nhảy múa cùng với bầy hươu cao cổ, hà mã dùng chân đánh trống châu Phi theo nhịp và con tinh tinh chơi đàn ukulele. nhạc tràn ngập căn phòng. Giữa gian rừng xanh, con bướm đủ màu sắc chào mừng kết nối của họ. Tên của nó là Priscilla. Tất cả mọi người tin nổi vào mắt mình và hoàn toàn câm lặng. Boris ngước mắt nhìn màn hình máy tính, nơi câu hỏi vẫn nhấp nháy: “a con o do ko?” Chỉ đến giây phút đó, mới có thể thốt ra những chữ đau lòng: - Chó chết... Đây là đứa trẻ.
10 Từ khóa được gõ nhiều nhất trong các trang tìm kiếm là “sex”. Thứ hai là “God”. Cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, Goran lại thắc mắc vì sao người ta tìm kiếm Chúa ở mạng. Ở vị trí thứ ba đồng hạng, là hai từ khóa: “Britney Spears” và “death” - cái chết. Sex, God, Death và Britney Spears. Ngược lại, lần đầu tiên Goran nhập tên vợ vào trang tìm kiếm là ba tháng trước đó. Ông hiểu tại sao mình lại làm thế. Ông cứ thế đánh, như thể bị bản năng xúi giục. Ông nghĩ tìm thấy bà, và quả ông tìm thấy. Nhưng đó chính thức là nơi tìm kiếm cuối cùng mà ông nghĩ đến. Có lẽ nào ông biết về vợ mình ít đến thế? Khi đó, thứ gì đấy trong ông thay đổi. Ông hiểu ra tại sao ông theo dõi bà. Thực tế là, ông muốn biết nơi bà ở. Trong thâm tâm, ông mặc kệ chuyện đó. Ông chỉ muốn biết liệu bà có hạnh phúc . Bởi xét cho cùng, chính điều đó làm ông sôi máu: bà rũ bỏ ông và Tommy để tìm hạnh phúc ở nơi khác. Sao người ta có thể làm tổn thương ai đó sâu sắc đến thế chỉ để thỏa mãn khát khao hạnh phúc đầy ích kỷ? ràng câu trả lời là có. Vợ ông làm như thế, và tệ hơn, bà hề quay lại để chữa lành vết thương lòng, khâu lại vết rách nằm trong da thịt của người đàn ông mà chính bà chọn để chia sẻ cuộc sống và trong chính da thịt của bà. Bởi người ta có thể quay lại, và buộc phải quay lại. Luôn có thời điểm mà, do chỉ nhìn về phía trước, ta nhận thấy thứ gì đó gợi nhắc quá khứ, và ta quay lại trong chốc lát để xem phía sau có còn nguyên vẹn như xưa, hay là có gì đó thay đổi ở những người ta bỏ lại sau lưng cũng như trong chính bản thân chúng ta. Ai rồi cũng gặp khoảnh khắc đó. Tại sao với bà ? Tại sao bà thậm chí cố thử? có cú điện thoại nửa đêm yên ắng nào. tấm bưu thiếp trắng nào. bao nhiêu lần Goran đứng quan sát gần trường của Tommy với hy vọng bắt gặp bà bí mật rình xem cậu con trai. Nhưng chẳng có gì. Bà đến đó, thậm chí buồn đến để bảo đảm là con mình khỏe mạnh. Do vậy Goran bắt đầu tự hỏi: ai là người đàn bà mà ông nghĩ có thể giữ bên mình suốt cuộc đời đây? Và ra, điều gì làm ông khác Veronica Bermann đến như thế? Người phụ nữ ấy cũng bị lừa dối. Chồng ta lợi dụng vợ mình để tạo nên lớp vỏ bọc hoàn hảo, để cho ta chăm lo cho những gì sở hữu: cái họ của , căn nhà của , gia tài của , tất cả. Bởi dù sao điều muốn cũng nằm ở nơi khác. Nhưng khác với Goran, người phụ nữ ấy linh tính thấy vực thẳm mở ra bên dưới cuộc sống hoàn hảo của mình, ta thoáng ngửi thấy mùi thối rữa. Và ta im lặng, đồng thuận với lừa dối dù tham gia vào đó. ta là kẻ đồng lõa câm lặng, đóng vai người bạn đời mẫu mực, người vợ hiền dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Goran chưa bao giờ nghi ngờ vợ ông có ý định chia tay. có dấu hiệu hay manh mối nào, có chút trục trặc cảnh báo nào để ông có thể ngẫm lại rồi tự nhủ sao nó quá hiển nhiên và ông ngu ngốc đến độ nhận ra. Bởi ông chỉ muốn ngộ ra mình là người chồng rất tệ, để có thể tự buộc tội mình, trách móc thờ ơ và thiếu ân cần của mình. Ông ước gì có thể tìm kiếm lý do ở phía mình, như vậy ít ra ông cũng có lý do nào đó. Nhưng , chẳng có gì ngoài chết lặng. Và ngờ vực. Đối với những người khác, ông đưa ra phiên bản trần trụi nhất của việc: vợ ông ra , thế thôi. Vì Goran biết dẫu sao mỗi người đều nhìn nhận việc đó theo cách họ muốn. Ai là ông chồng tội nghiệp. Ai là người đàn ông làm điều gì đó để bà ấy phải trốn chạy. Ông nhận ngay những vai diễn đó chính là mình và chuyển từ vai này sang vai kia chút khó khăn. Bởi mọi nỗi đau đều có bài tụng ca của nó và cần phải được tôn trọng. Còn vợ ông? bao nhiêu lần bà phải đóng kịch? Ý đồ đó chín muồi trong lòng bà từ bao lâu rồi? Mất bao nhiêu thời gian để bà thai nghén ý đồ đó bằng những khao khát ra, những suy nghĩ giấu vào trong gối mỗi đêm khi nằm cạnh chồng, trong khi vẫn trộn lẫn nó với những công việc thường ngày của người mẹ, người vợ? Cho đến khi biến khao khát đó thành kế hoạch, thành mưu đồ. Khi nào bà cảm thấy bị thuyết phục, hay cách khác, khi nào bà hiểu ra những gì mà bà mơ đến là có thể thực ? búp bê che giấu trong mình biến đổi bí mật ấy, trong lúc vẫn tiếp tục sống bên cạnh ông và Tommy. Và thầm chuẩn bị thay đổi. Giờ bà ở đâu? Vợ ông vẫn tiếp tục sống, nhưng ở nơi khác, trong vũ trụ song song, được tạo thành từ những người đàn ông đàn bà như Goran gặp gỡ hàng ngày, từ những ngôi nhà cần được gìn giữ, những người chồng cần phải chịu đựng, và những đứa trẻ cần chăm sóc. thế giới bình đẳng và tầm thường, nhưng cách xa ông và Tommy, với những màu sắc mới, những người bạn mới, những khuôn mặt mới và những cái tên mới. Bà tìm kiếm điều gì trong cái thế giới ấy? Đâu là thứ mà bà cần đến thế nhưng lại thể tìm thấy ở đây? Suy cho cùng, tất cả chúng ta đều tìm câu trả lời trong thế giới song song, Goran nghĩ bụng. Giống như người ta tìm mạng những Sex, God, Death và Britney Spears. Còn Alexander Bermann, lùng tìm những đứa trẻ mạng. Mọi thứ nhanh chóng được làm sáng tỏ. Từ khi mở trang web của con bướm Priscilla máy tính Bermann cho đến khi xác định chiếc máy chủ quốc tế quản lý toàn bộ hệ thống đó, tất cả trở nên ràng. Đó là đường dây lạm dụng tình dục trẻ em, với các chi nhánh ở nhiều quốc gia. Mila có lý: trong mạng lưới đó có cả tay thầy giáo dạy nhạc “của ”. Đơn vị đặc nhiệm chuyên phụ trách an ninh mạng xác định được gần trăm người đăng ký. Các vụ bắt bớ đầu tiên diễn ra và còn tiếp tục trong những giờ sắp tới. số lượng và có chọn lọc. Tất cả họ đều có gì khả nghi, có cuộc sống thoải mái, làm những công việc tự do, và sẵn sàng bỏ ra các khoản tiền lớn để che giấu tên tuổi. Trong số đó có Alexander Bermann. Tối hôm đó khi về đến nhà, Goran nghĩ đến người đàn ông dịu dàng, luôn tươi cười và đạo đức vẹn toàn theo như mô tả của bạn bè và người quen của Bermann. chiếc mặt nạ hoàn hảo. Tại sao ông lại có đối chiếu giữa Bermann và vợ mình? Có thể ông biết lý do, nhưng muốn chấp nhận. Dù sao , khi ở trong nhà, ông gạt qua bên tất cả những suy nghĩ đó và dành toàn tâm toàn ý cho Tommy, như hứa điện thoại khi báo với nó là ông về nhà sớm. Thằng bé đón nhận tin tức cách hào hứng và hỏi liệu ông có thể gọi chiếc pizza hay . Ông chấp nhận ngay để nó phải nài nỉ, vì ông biết nhượng bộ bé ấy là đủ để làm thằng bé hài lòng. Bọn trẻ có thể tìm thấy niềm hạnh phúc ở bất cứ nơi nào nó diện. Thế là Goran gọi chiếc pizza ớt chuông cho mình và chiếc nhiều phô mai gấp đôi cho Tommy. Hai bố con cùng nhau gọi bánh bằng điện thoại, vì theo thông lệ việc chọn pizza phải được thực cùng nhau. Tommy bấm số rồi để cho bố chuyện. Sau đó hai bố con đem đĩa ăn ra bày. Tommy uống nước trái cây, còn Goran tự cho phép mình uống cốc bia. Trước khi mang nước và bia ra bàn, hai bố con đặt hai chiếc cốc vào trong tủ đá, cho đến khi chúng mờ vì sương đọng và đủ lạnh để rót thức uống. Nhưng Goran cảm thấy bình yên. Những suy nghĩ của ông vẫn còn luẩn quẩn với mạng lưới hoàn hảo kia. Các cảnh sát thuộc đơn vị an ninh mạng phát ra cơ sở dữ liệu với hơn ba triệu cái tên trẻ em có kèm theo địa chỉ và hình ảnh của chúng. Mạng lưới sử dụng những tên miền giả đối với trẻ em để dụ chúng vào bẫy. Bướm Priscilla. Những con thú, các trò chơi đầy màu sắc, nhạc vui tươi làm nốt phần còn lại... Chúng quá giống với những bộ phim hoạt hình mà Goran và Tommy cùng nhau ngồi xem sau bữa tối truyền hình vệ tinh. Con cọp xanh và sư tử trắng. Ông quan sát cậu con trai nằm cuộn tròn người, hoàn toàn tập trung vào chuyến phiêu lưu của hai con thú trong rừng. Ông tự nhủ mình phải bảo vệ thằng bé. Ông nghĩ đến điều đó với chút sợ hãi trong lồng ngực, nút thắt tối tăm và nhớp nháp. Nỗi sợ làm đủ và sống đủ. Bởi ông bố đơn thần thể đủ được. Ngay cả khi về cơ bản, hai bố con ông vẫn tự xoay xở được. Điều gì xảy ra nếu như phía sau màn hình máy tính đen ngòm của Bermann phải là đứa bé xa lạ, mà là Tommy của ông? Liệu ông có nhận ra được nếu như có kẻ nào đó cố gắng thâm nhập vào đầu óc và cuộc sống của con trai ông? Trong khi Tommy làm nốt bài tập, Goran rút về phòng làm việc. Lúc đó còn chưa đến bảy giờ, nên ông lại giở hồ sơ của Bermann ra xem, thử tìm những ý tưởng mới có thể hữu ích cho cuộc điều tra. Trước hết, cái ghế xa lông bằng da trong căn hộ tầng lửng mà đó Krepp tìm thấy dấu vân tay nào. Có dấu vân tay tất cả những thứ khác, nhưng cái ghế đó lại có dấu nào... Tại sao? Ông chắc chắn phải có lý do. Nhưng mỗi khi tưởng như nắm bắt được ý tưởng, tâm trí ông lại trôi nơi khác, trôi về phía những mối nguy hiểm rình rập xung quanh cuộc sống của con trai ông. Goran là người nghiên cứu tội phạm, ông biết bản chất cái ác là như thế nào. Nhưng ông luôn quan sát nó từ phía xa, với tư cách là nhà nghiên cứu. Ông bao giờ để cho mình bị lung lạc với ý nghĩ rằng cái ác ấy có thể vươn bàn tay xương xẩu của nó ra đủ dài để chạm đến ông. Tuy vậy hôm nay, ông lại nghĩ đến điều đó. Khi nào con người ta trở thành “con quái vật”? Cái từ mà ông chính thức cấm dùng ấy giờ lại len lỏi vào trong sâu thẳm tâm hồn ông. Bởi vì ông muốn biết điều đó diễn ra như thế nào. Khi nào người ta nhận ra mình vượt qua giới hạn đó. Bermann là thành viên của tổ chức có cơ cấu cực kỳ chặt chẽ, có thứ bậc và cương vị rạch ròi. tham gia vào tổ chức này từ hồi học đại học. Thời đó, Internet còn chưa được khai phá, và người ta khó có thể giấu mình mà gây nghi ngờ. Chính vì lý do này mà các thành viên trong tổ chức được khuyến cáo nên tạo dựng cuộc sống kiểu mẫu và an toàn nhằm che đậy bản chất và kiểm soát các xung năng của bản thân. Ngụy trang, hòa trộn và biến , đó là những nguyên tắc cơ bản của chiến thuật đó. Sau khi tốt nghiệp, Bermann xác định ràng trong đầu điều làm. Đầu tiên, nối lại quan hệ với bạn cũ nhiều năm gặp. nàng Veronica, người chưa bao giờ có đủ hấp dẫn để bọn đàn ông, kể cả , phải để mắt đến. làm cho Veronica tin rằng, thầm ta từ lâu, nhưng lại giấu giếm tình cảm vì nhát gan. Và , như dự tính, ngay lập tức nhận lời lấy làm chồng. Những năm đầu hôn nhân trôi qua với nhiều thăng trầm, giống như bao cặp vợ chồng son khác. hay vắng nhà vì công việc. thực tế, thường lợi dụng những chuyến công tác để gặp những kẻ giống mình, hoặc để dụ dỗ những con mồi tuổi. Cùng với xuất của Internet, mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Những tên ấu dâm[2] lập tức nắm bắt lấy mạng liên kết kì diệu đó. Nó cho phép chúng chỉ hoạt động trong vô danh, mà còn lường gạt các nạn nhân thông qua những cái bẫy tài tình. Nhưng Alexander Bermann chưa thể hoàn tất kế hoạch ngụy trang hoàn hảo của mình, vì Veronica thể sinh con nối dõi cho . Đó là thứ còn thiếu, là chi tiết khiến cho thể bị nghi ngờ, vì ông bố của gia đình nhòm ngó con cái của người khác. Giáo sư Goran xua phẫn nộ dâng lên tận cổ họng và khép lại tập hồ sơ dày lên đáng kể trong những giờ vừa qua. Ông muốn đọc nó nữa. Ông muốn ngủ, muốn được trốn mình vào trong giấc mộng. Ai có thể là Albert, nếu phải Bermann? Mặc dù còn cần phải gắn với nghĩa địa cánh tay và vụ bắt cóc sáu bé, rồi tìm ra những thi thể còn thiếu, ai khác ngoài xứng đáng khoác lên người chiếc áo của tên đao phủ. Nhưng càng nghĩ, ông càng thấy có gì đó chưa thuyết phục. Đúng tám giờ tối, Roche chính thức thông báo về vụ bắt giữ thủ phạm trong cuộc họp báo lớn. Goran nhận ra băn khoăn của ông luẩn quẩn trong đầu ngay từ sau khi phát ra bí mật của Bermann. Suốt cả buổi chiều, nó giống như màn sương mờ ảo, chập chờn ở góc trong đầu ông. Nhưng dù nấp kín trong cái góc tối ấy, nó vẫn tiếp tục phát xung động để cho ông biết là nó vẫn luôn hữu ở đó. Chỉ đến bây giờ, trong khí tĩnh lặng của căn hộ, Goran mới dành cho nó suy nghĩ thấu đáo. Có gì đó ăn khớp trong vụ án này... Ngươi nghĩ Berman phải là thủ phạm ư? Ồ, tất nhiên là có chứ, chính là thủ phạm: là tên ấu dâm. Nhưng phải là kẻ giết sáu đứa trẻ. chẳng có gì dính líu hết... Mà làm thế nào ngươi dám chắc về điều đó? Bởi vì nếu Alexander Bermann thực là gã Albert của chúng ta, ta tìm thấy bé cuối cùng trong cốp xe của - nạn nhân số sáu - chứ phải là Debby Gordon, nạn nhân đầu tiên. Lẽ ra phải phi tang xác bé đầu tiên từ lâu rồi mới phải... Đúng lúc rút ra kết luận này, nhà tội phạm học nhìn đồng hồ: cuộc họp báo lúc tám giờ diễn ra trong vài phút nữa. Cần phải ngăn Roche lại. Viên chánh thanh tra triệu tập các tờ báo lớn ngay khi các thông tin về diễn tiến của vụ Bermann bắt đầu lan rộng. Nguyên cớ chính thức là ông muốn các phóng viên sử dụng thông tin nghe ngóng được từ những lỗ rò rỉ của các nguồn chính thức. Còn lý do thực là ông lo rằng vụ việc có thể rò rỉ theo các hướng khác nhau, và như thế ông trở thành trung tâm chú ý của dư luận. Tiếng ồn ào trong phòng họp báo bên cạnh văn phòng thanh tra Roche khiến ông thích thú, nó như nguồn năng lượng nuôi dưỡng cái tôi của ông ta. Trong khi chờ đến buổi họp báo, ông ngồi yên, gác đôi chân lên chiếc bàn làm việc được thừa hưởng từ người tiền nhiệm mà ông phò tá trong suốt thời gian dài, quá dài theo như ông nghĩ, nếu là ông, ông ngần ngại mà hất văng từ hồi tám năm về trước. Các đường dây điện thoại của ông đều nhấp nháy báo hiệu cuộc gọi đến, nhưng ông có ý định trả lời. Ông muốn để thế cho thêm phần kịch tính. Có tiếng gõ cửa vang lên. - Mời vào. - Roche lên tiếng. Ngay khi bước vào, Mila nhận thấy nụ cười khinh khỉnh gương mặt viên thanh tra. tự hỏi ông ta đòi gặp vì cái quái gì đây. - Cảnh sát Vasquez, tôi muốn đích thân cám ơn vì đóng góp vô cùng to lớn của trong cuộc điều tra. Mila chắc đỏ mặt nếu như hiểu ngay ra đó chỉ là lời mở đầu khéo léo cho việc tống khứ . - Tôi nghĩ mình làm được gì nhiều. Roche cầm lấy con dao rọc giấy và bắt đầu dùng mũi nhọn của nó để nạo móng tay. Ông lơ đãng : - , diện của là rất hữu ích. - Chúng ta vẫn chưa xác định được danh tính của bé thứ sáu. - Ta sớm tìm ra thôi, giống như những thứ khác. - Xin ông cho phép tôi được hoàn tất công việc của mình, ít ra là vài ngày. Tôi bảo đảm mình thu được kết quả... Thanh tra Roche buông con dao dọc giấy xuống, nhấc chân khỏi bàn và đứng dậy tiến lại gần Mila. Với nụ cười tươi nhất có thể, ông cầm lấy bàn tay phải vẫn còn bị băng của và bắt lấy, nhận ra ông làm đau. - Tôi chuyện với cấp của . Trung úy Morexu bảo đảm với tôi rằng được khen thưởng về vụ này. xong ông dẫn ra cửa. - Chúc trở về bình an. Thỉnh thoảng nhớ nghĩ đến chúng tôi nhé. Mila gật đầu vì chẳng còn gì để . Vài giây sau thấy mình ở ngoài hành lang, giương mắt nhìn cánh cửa phòng làm việc của thanh tra Roche từ từ đóng lại. muốn trao đổi chút với Goran Gavila về chuyện của mình, vì dám chắc ông giáo sư hay biết gì về vụ tống tiễn . Nhưng ông về nhà. Vài giờ đồng hồ trước có nghe thấy ông thu xếp bữa tối qua điện thoại. Căn cứ vào giọng điệu của nhà tội phạm học, người ở đầu dây bên kia chỉ có thể là đứa bé quá tám chín tuổi. Hai người quyết định gọi pizza. Vậy là giáo sư Goran có cậu con trai. Mila tự hỏi liệu trong cuộc đời ông có người phụ nữ nào , và liệu bà ấy có chia sẻ bữa tối ấm cúng mà hai bố con chuẩn bị hay . Tự nhiên Mila cảm thấy chút ghen tỵ. Ở cửa trụ sở cảnh sát, Mila trả lại thẻ và được đưa cho chiếc phong bì bên trong đựng vé tàu để về nhà. Lần này ai đưa ra ga cả. phải gọi chiếc taxi với hy vọng sở cảnh sát chủ quản của mình hoàn tiền lại, và tạt qua nhà nghỉ lấy đồ. Tuy nhiên, khi ở ngoài đường, Mila bỗng nhận ra vội. nhìn quanh, hít hơi dài làn khí thanh bình và trong lành. Thành phố như thể được nhúng ngập trong quả bóng lạnh lẽo bất thường, đe dọa thay đổi thời tiết bất cứ lúc nào. Chỉ cần hơn hoặc kém độ là mọi thứ khác ngay. Bầu khí quyển loãng này có thể báo trước đợt tuyết rơi. Nhưng cũng có thể mọi thứ thay đổi và vẫn bất động như bây giờ. lấy chiếc vé trong phong bì ra. Ba giờ nữa tàu mới khởi hành. Nhưng đầu óc nghĩ đến chuyện khác. Liệu khoảng thời gian ít ỏi này có đủ để làm điều nghĩ hay ? Suy cho cùng, nếu chỉ phí công vô ích cũng đâu có ai biết. Mà lại thể yên lòng ra với mối nghi ngờ này. Ba tiếng đồng hồ. Chắc là đủ. Mila thuê chiếc xe hơi và chạy được khoảng tiếng. Những đỉnh núi chọc thẳng lên trời ở phía trước mặt . Những căn nhà gỗ mái dốc. Những làn khói xám thoang thoảng mùi nhựa bốc lên từ các ống khói. Gỗ chất đống trong các sân nhà. Phía sau những ô cửa sổ là thứ ánh sáng nâu vàng ấm cúng. Từ quốc lộ 115, Mila rẽ vào lối ra số 25, nhằm thẳng hướng trường học của Debby Gordon. muốn xem phòng ở của bé. tin rằng mình có thể tìm thấy thứ gì đó gắn bé với nạn nhân số sáu và tên của em. Ngay cả khi từ giờ việc đó hoàn toàn cần thiết nữa, như cách nghĩ của thanh tra Roche, Mila cũng thể bỏ lại sau lưng danh tính chưa được làm sáng tỏ. Đó là hành động vì tình thương. Vụ mất tích của bé thứ sáu chưa được loan báo, nên chưa ai có cơ hội để khóc thương em. biết họ thể làm được điều đó nếu thiếu cái tên. bé trở thành vệt trắng tấm bia mộ, dấu lặng ở cuối danh sách ngắn ngủi, con số đơn lẻ thêm vào cuốn sổ sinh tử. Và Mila muốn để cho chuyện đó xảy ra. ra, ý nghĩ khác ám ảnh , vì nó mà lái xe nhiều dặm đường như thế này. Chỉ vì thoáng lạnh gáy ấy... Nữ cảnh sát đến nơi lúc hơn chín giờ tối chút. Trường nội trú nằm trong ngôi làng ở độ cao ngàn hai trăm mét. Vào giờ này, mọi ngả đường vắng ngắt. Các khối nhà của ngôi trường nằm ngay bên ngoài làng, ngọn đồi, chung quanh là khuôn viên xinh xắn, với sân quần ngựa và các sân bóng rổ, tennis. Để đến được đó, phải theo lối dài, ở đó các em học sinh đường chơi thể thao về. Tiếng cười giòn tan của các em làm xôn xao cả góc đường. Mila vượt qua các em học sinh và dừng xe khu đất. Sau đó tự giới thiệu mình với thư kí của trường, và cầu được vào thăm phòng của Debby, thầm hy vọng bị ai làm to chuyện. Sau khi trao đổi với cấp , người thư kí quay sang bảo rằng có thể xem phòng. May mắn là sau khi trao đổi qua điện thoại, mẹ Debby gọi đến trường để báo trước về cuộc thăm viếng của Mila. Người thư kí đưa cho cái thẻ đề “Khách thăm” rồi chỉ đường cho . Mila theo các hành lang cho đến khu nội trú của nữ sinh. gặp chút khó khăn nào khi tìm phòng của Debby. Các bạn học dán đầy cửa phòng của em những mảnh giấy đủ màu sắc ghi rằng họ rất nhớ em, bao giờ quên em. Trong đó đương nhiên có câu “Cậu luôn ở trong tim chúng tớ”. Mila nghĩ đến Debby, nghĩ đến những cú điện thoại nài xin bố mẹ đưa em về nhà và nỗi đơn mà bé nhút nhát và vụng về ở tuổi em có thể cảm thấy trong nơi như thế này. Đó là lý do khiến cảm thấy những mảnh giấy kia có phần hợp lẽ, chúng thể quan tâm muộn màng đầy đạo đức giả. Lẽ ra các bạn nên chú ý đến Debby khi bé còn ở đây. Hoặc là khi có kẻ bắt cóc bé ngay trước mắt các bạn. Từ cuối hành lang vang lên tiếng ồn ào vui vẻ. Mila bước qua những ngọn nến tưởng niệm tắt mà ai đó sắp thành hàng ngưỡng cửa và bước vào căn phòng nội trú của Debby. Sau khi đóng cửa lại, im lặng bao trùm lên căn phòng. với tay bật ngọn đèn. Căn phòng khá . Đối diện với cánh cửa là cửa sổ mở ra công viên. Những giá đầy sách được ốp vào tường, bên dưới chúng là chiếc bàn học rất ngăn nắp. Debby thích đọc sách. Ở phía bên phải của căn phòng là cánh cửa buồng tắm khép. Mila quyết định quan sát bên trong đó sau cùng. giường, nhiều con thú bông nhìn bằng đôi mắt lạnh lùng vô hồn. Mila tự nhiên thấy chán ngán. Căn phòng dán đầy những tấm poster và ảnh chụp của Debby tại nhà, cùng với các bạn học ở ngôi trường cũ, bạn bè và chú chó Sting. Tất cả những thứ mà em phải từ bỏ để bước chân vào ngôi trường danh giá này. Mila nhận thấy dù còn tuổi, Debby mang những đường nét của phụ nữ xinh đẹp. Các bạn học của em hẳn nhận ra điều đó quá trễ và hối tiếc vì nhìn thấy thiên nga mình trong con vịt xấu xí lạc lõng kia. Nhưng lúc này Mila cố nghĩ đến chúng. hồi tưởng lại cuộc khám nghiệm tử thi mà mình tham dự, thời khắc mà bác sĩ Chang bóc lớp ni lông khỏi khuôn mặt, và chiếc kẹp mái đính bông hoa huệ tây trắng xuất mái tóc bé. Kẻ sát nhân chải tóc cho em, và Mila lúc đó tự nhủ làm đẹp cho em vì bọn . Thực ra là , em đẹp là vì Alexander Bermann... Ánh mắt của đập vào mảng tường trống khác thường. tiến đến gần và phát thấy lớp thạch cao bị tróc ở nhiều chỗ. Như thể có thứ gì đó từng được gắn lên tường nhưng còn nữa. Những tấm ảnh khác chăng? Mila có cảm giác nơi này bị xâm phạm. Những bàn tay, những con mắt khác quét qua thế giới thu của Debby, các đồ vật và những ký ức của em. Có thể bà mẹ lấy mấy tấm ảnh tường, cần phải xác minh lại điều này. Trong khi Mila mải nghĩ đến những chuyện đó tiếng động khiến giật nảy người. Nó vang lên từ phía bên ngoài phòng. phải vọng từ ngoài hành lang vào, mà từ phía sau cánh cửa phòng tắm. Bất giác Mila đưa tay lên thắt lưng tìm khẩu súng. Khi nắm chắc nó trong tay, đánh liều đứng dậy đối diện với phòng tắm, vũ khí sẵn sàng nhả đạn. tiếng động nữa, lần này ràng hơn. Có người ở trong đó. Kẻ nhận thấy diện của . Kẻ mà, cũng giống như , tin rằng đây là thời điểm thuận lợi nhất để thâm nhập vào trong phòng của Debby và lấy thứ gì đó... Các bằng chứng chăng? Tim Mila đập như trống trận. vào trong đó mà chỉ đứng đợi. Cánh cửa bật mở. Mila nhúc nhích ngón tay từ chốt an toàn xuống cò súng. May mắn thay kịp dừng lại. bé hốt hoảng dang tay ra, thả rơi vật gì đó. - Em là ai? - Mila hỏi. - Em là bạn của Debby ạ. - bé lí nhí đáp. dối. Mila hoàn toàn chắc chắn về điều đó. nhét súng trở lại vào trong thắt lưng và nhìn những món đồ rơi dưới sàn. Có lọ nước hoa , vài chai dầu gội đầu và cái mũ rộng vành màu đỏ. - Em đến lấy lại những thứ cho Debby mượn. (Câu này nghe giống như lời lấp liếm). Những bạn khác vào đây trước em... Mila nhận ra chiếc mũ đỏ trong bức ảnh gắn tường. Debby là người đội mũ. hiểu ra mình chứng kiến vụ trộm cắp mà có lẽ đám bạn bè của Debby tiến hành được vài ngày. có gì lạ nếu như trong số chúng dám lấy luôn cả mấy tấm ảnh treo tường. - Thôi được rồi. - cộc lốc. - . Con bé ngần ngừ chút, rồi nhặt lại những thứ rơi dưới đất và bước ra cửa. Mila để mặc nó. Âu đó cũng là điều Debby muốn. Những món đồ này cũng trở nên vô nghĩa với bà mẹ của bé, người cảm thấy có tội suốt đời vì gửi con mình vào đây. Xét cho cùng, Mila thấy bà Gordon còn có chút “may mắn”, nếu có thể gọi đó là may mắn, khi ít nhất cũng có được thi hài của con mình để mà khóc thương. Mila lục tìm trong đống tập sách của Debby. muốn tìm cái tên, và phát ra nó. Dĩ nhiên chuyện đó dễ dàng hơn nhiều nếu như tìm ra cuốn nhật ký của Debby. dám cá là bé có cuốn, để trút những nỗi buồn khổ vào trong đó. Và cũng giống như mọi bé cùng lứa khác, Debby có lẽ cất nó trong nơi bí mật, quá xa trái tim, nơi có thể lấy ra ngay khi cần. Khi nào chúng ta cần thu mình lại với những thứ mà ta coi là thân thương nhất? Ban đêm. Mila cúi xuống chiếc giường, luồn tay vào dưới tấm nệm dò dẫm, cho đến khi chạm phải vật. Đó là cái hộp thiếc có hình những chú thỏ xinh xắn được mạ bạc. Cái hộp được khóa bằng ổ khóa . Mila đặt cái hộp lên giường và bắt đầu nhìn quanh, tìm xem chìa khóa có thể nằm ở nơi nào. sực nhớ là trông thấy nó trong buổi khám nghiệm tử thi. Nó được gắn vào chiếc xuyến cổ tay phải của Debby. đưa lại chiếc xuyến cho mẹ Debby và còn thời gian để lấy lại nữa. quyết định phá khóa. Dùng đầu bút bi, nạy tung hai khoen kim loại mà ổ khóa gắn vào. Sau đó mở nắp hộp. Ở bên trong có túi bột thơm khô, hoa khô và gỗ thơm. cái kim băng còn dính các vệt đỏ mà nhiều khả năng bé sử dụng để trích máu ăn thề. chiếc khăn tay thêu bằng lụa. con gấu nhựa có đôi tai bị gặm mòn. Những cây nến sinh nhật. Kho báu kỷ niệm của thời ấu thơ. Nhưng có cuốn nhật ký nào. Lạ , Mila nghĩ bụng. Kích thước của chiếc hộp và chỗ trống còn lại cho phép nghĩ đến khả năng trong hộp còn đựng thứ khác. Điều đó cũng lý giải việc bé cảm thấy cần phải bảo vệ tất cả bằng ổ khóa. Nhưng cũng có thể là chẳng có quyển nhật ký nào. Mila thất vọng nhìn đồng hồ: lỡ mất chuyến tàu. Càng có lý do để ở lại và tìm thứ gì đó có thể dẫn đến chỗ người bạn bí mật của Debby. Chỉ mới lúc nãy, khi điểm qua lượt những vật kỷ niệm thân thiết của Debby, cảm giác mà thể gọi tên ấy lại xuất . thoáng lạnh gáy. thể ra trước khi hiểu tình. Nhưng cần ai đó, hoặc thứ gì đó để có thể khôi phục lại cảm giác thoáng qua ấy. Mặc dù muộn, vẫn ra quyết định khó khăn nhưng cần thiết. bấm số điện thoại gọi giáo sư Goran Gavila. - Thưa giáo sư, là tôi, Mila đây… Nhà tội phạm học khá bất ngờ. Ông mất vài giây mới đáp lại: - Tôi có thể giúp gì cho đây? Giọng điệu ông có vẻ khó chịu chăng? , đó chỉ là cảm tưởng của . Mila giải thích với Goran rằng lẽ ra lên tàu, nhưng tại ở trong phòng nội trú của Debby Gordon. muốn kể toàn bộ . Goran nghiêm túc lắng nghe. Khi kể xong, đầu dây bên kia yên lặng hồi lâu. Mila thể biết được, nhưng giáo sư Goran nhìn đăm đăm vào cái tủ bếp, tay là tách cà phê bốc khói. Ông vẫn còn thức sau nhiều nỗ lực liên lạc với thanh tra Roche để ngăn chặn thảm họa truyền thông, nhưng bất thành. - Có lẽ chúng ta hơi hấp tấp trong vụ Alexander Bermann. Mila nhận thấy ông giáo sư thầm rất khẽ, tựa hồ như câu ấy phải vất vả lắm mới bật ra được khỏi miệng ông. - Tôi cũng nghĩ thế. - thú nhận. - Mà sao ông lại đến kết luận như vậy? - Trong cốp xe của là xác của Debby Gordon. Tại sao phải là của nạn nhân cuối cùng? Mila nhớ lại lời giải thích của Stern về việc lạ lùng đó: - Có lẽ Bermann phạm sai lầm khi giấu cái xác, những tính toán sai có thể khiến bị phát , do đó di chuyển cái xác đến chỗ giấu tốt hơn. Goran lắng nghe và tỏ ra bối rối. Hơi thở của ông dồn dập hơn. - Có chuyện gì vậy? Tôi gì sai à? - . Nhưng nghe chừng hoàn toàn bị thuyết phục khi ra câu đó. - Quả thực là . - sau khi ngẫm nghĩ. - Còn thiếu điều gì đó. Hay đúng hơn là có thứ gì đó ăn rơ với những cái còn lại. Mila biết cảnh sát giỏi phải nhờ vào trực giác. Người ta bao giờ đề cập đến nó trong những báo cáo chính thức: đối với chúng, chỉ những “tình tiết thực” mới có ý nghĩa. Nhưng nhân tiện khi Goran đề cập đến nó, Mila đánh liều kể cho ông nghe về cảm giác của mình. - Lần đầu tiên nó xảy ra là trong khi bác sĩ pháp y báo cáo. Như nốt nhạc lạc điệu. Nhưng tôi thể nắm bắt được, tôi lập tức quên nó ngay. thoáng lạnh gáy. Mila nghe thấy tiếng ông Goran kéo ghế. cũng ngồi xuống. Rồi ông lên tiếng: - Chúng ta hãy thử loại Bermann ra... - Đồng ý. - Hãy tưởng tượng thủ phạm là kẻ khác. Gã từ đâu đó xuất và đặt bé cụt tay vào trong cốp xe của Bermann. - Bermann phải với chúng ta điều đó, để xóa những nghi ngờ đổ lên đầu . - Mila quả quyết. - Tôi tin. - Goran kiên quyết phản bác. - Bermann là tên ấu dâm. chẳng dám làm gì. biết rất là mình bị gài bẫy. tự sát vì còn đường thoát và để che giấu cho tổ chức mà là thành viên. Mila sực nhớ tay thầy dạy nhạc cũng tự tử. - Vậy giờ ta phải làm gì? - Ta quay lại với Albert, với hồ sơ trung tính về kẻ thiếu tính người mà ta dựng lên lúc đầu. Đây là lần đầu tiên Mila cảm thấy thực tham gia vào cuộc điều tra. Làm việc theo nhóm là trải nghiệm mới mẻ đối với . Và hề e ngại khi cộng tác với giáo sư Gavila. Dù chỉ mới biết ông, bắt đầu học được cách tin tưởng ở ông. - Giả dụ rằng vụ bắt cóc các bé và nghĩa địa cánh tay là có nguyên do. Có thể phi lý, nhưng lý do đó tồn tại. Và để giải thích điều này, chúng ta cần phải biết thủ phạm. Càng biết , ta càng hiểu dẽ dàng hơn. Càng hiểu , ta càng tiến đến gần hơn. có ? - Có ạ... Nhưng vai trò của tôi chính xác là gì? - hỏi. Goran hạ thấp giọng và đáp cách nhiệt tình: - Đó là kẻ săn mồi, đúng ? Vậy ta hãy học cách săn... Mila mở tập giấy ghi chú mà luôn cầm theo. Ở đầu dây bên kia, giáo sư Gavila nghe thấy tiếng lật các trang giấy. bắt đầu đọc những ghi chép về các nạn nhân của mình. - Debby, mười hai tuổi. Mất tích tại trường. Bạn cùng lớp nhớ là còn trông thấy bé sau giờ học. Mọi người chỉ nhận ra bé biến mất khỏi trường vào giờ điểm danh tối. Goran nhấp ngụm cà phê và cầu: - Rồi, hãy kể cho tôi nghe về bé thứ hai. - Anneke, mười tuổi. Lúc đầu, mọi người nghĩ em bị lạc trong rừng… Số ba tên là Sabine, nạn nhân nhất: bảy tuổi. Chuyện xảy ra vào tối thứ Bảy khi em cùng bố mẹ đến hội chợ. - bé này bị bắt cóc vòng đu quay ngựa gỗ ngay trước mắt bố mẹ. Vụ việc gây chấn động cả nước. Nhóm điều tra chúng tôi bắt tay vào cuộc, và vào lúc đó xảy ra vụ mất tích thứ tư. - Melissa. bé lớn nhất, mười ba tuổi. Bố mẹ em ra lệnh giới nghiêm, nhưng vào hôm sinh nhật, em lẻn ra ngoài chơi bowling với các bạn để ăn mừng. - Các bạn khác đều đến nơi, ngoại trừ Melissa. - Nhà tội phạm học nhớ lại. - Còn với Caroline, đối tượng lẻn vào nhà em để bắt cóc ngay tại giường... Rồi sau đó là đến bé số sáu. - bé này để sau. Giờ ta hãy tập trung vào các bé kia. Goran thấy cực kỳ ăn ý với nữ cảnh sát. từ lâu ông có cảm giác điều này. - Bây giờ, tôi cần suy nghĩ cùng tôi, Mila ạ. Hãy cho tôi biết: gã Albert của chúng ta hành động như thế nào? - Trước nhất, gã bắt bé ở xa gia đình, ít bạn bè. Như thế ai nhận ra điều gì, nó cho thời gian... - Thời gian để làm chuyện gì? - Đó là phép thử: gã cần phải nắm chắc phần thắng trong việc mình định làm. Và với khoảng thời gian đó, gã hoàn toàn có thể phi tang nạn nhân rồi biến mất. - Đối với Anneke, gã bớt căng thẳng hơn, nhưng vẫn quyết định ra tay trong rừng, cách xa các nhân chứng... Thế còn Sabine, gã hành động thế nào? - Gã bắt cóc ngay trước mũi mọi người, trong hội chợ. - Tại sao? - Giáo sư Goran hỏi dồn. - Vì giống như nguyên nhân dẫn tới vụ bắt cóc Melissa trong khi mọi người đều tin chắc bé được an toàn tại nhà. - Thế nguyên nhân đó là gì? - Gã thấy mình mạnh lên. Gã có được tự tin. - Tốt. - Goran . - Tiếp tục nhé... hãy kể cho tôi nghe từ đầu câu chuyện về vụ kết nghĩa chị em. - Đó là việc ta làm khi còn trẻ con. Sử dụng cái kim băng chích vào đầu ngón tay rồi áp chúng vào nhau trong lúc cùng đọc bài vè. - Hai bé nào vậy? - Debby và số sáu. - Tại sao Albert chọn chúng? - Goran hỏi. - phi lý. Chính phủ báo động, mọi người tìm Debby, còn gã quay lại để bắt cóc người bạn thân nhất của bé! Tại sao gã dám làm chuyện mạo hiểm như vậy? Tại sao? Mila biết nhà tội phạm học muốn đến đâu, nhưng ngay cả khi ra, kỳ thực chính ông mới là người dẫn đến đó. - Tôi nghĩ đó là kiểu thử thách... Chữ mà Mila vừa mở ra cánh cửa đóng trong đầu nhà tội phạm học. Ông đứng dậy và bắt đầu lại lại trong bếp. - Tiếp … - Gã muốn chứng tỏ điều gì đó. Rằng gã là kẻ mạnh hơn chẳng hạn. - Là kẻ giỏi nhất. ràng đây là kẻ tự coi mình là nhất, kẻ bị chứng tự mắc cuồng... Nhưng ta hãy về số sáu. Mila ngập ngừng. - Ta chẳng biết gì về nạn nhân này. - Dù gì vẫn cứ cho tôi nghe. những gì ta có... Mila đặt tập giấy ghi chú xuống. Giờ buộc phải ứng biến. - Được rồi, xem nào... bé trạc tuổi Debby, vì hai đứa là chị em kết nghĩa. Vậy là khoảng mười hai tuổi. Kết quả đo mật độ canxi xương cũng khẳng định điều đó. - Đồng ý... Còn gì nữa? - Bác sĩ pháp y , bé chết theo cách khác. - Nghĩa là sao? nhắc lại cho tôi nghe nào? Mila lật tìm câu trả lời trong tập giấy. - Gã cắt cánh tay của bé số sáu, giống như các nạn nhân khác. Nhưng trong máu và trong mô của em có vết tích của hỗn hợp thuốc. Goran cầu lặp lại tên các thuốc được bác sĩ Chang nêu ra. Thuốc chống loạn nhịp như disopyramide, ức chế men chuyển và atenolol, chất chẹn beta... Chính đây là chỗ chưa thuyết phục được ông. - Tôi thấy điểm này chưa thuyết phục. - Mila . Trong thoáng giáo sư Goran Gavila tự hỏi đọc được suy nghĩ của ông hay . - Trong cuộc họp, Chang Albert làm chậm nhịp tim bằng cách làm hạ huyết áp của bé. ta còn cho biết thêm mục tiêu của thủ phạm là làm máu chảy chậm lại, để làm cho nạn nhân chết dần dần. Làm máu chảy chậm lại. Khiến bé chết dần dần. - Thôi được rồi, giờ kể tôi nghe về cha mẹ của bé. - Cha mẹ nào ạ? - Mila ngơ ngác hỏi. - Tôi quan tâm đến việc trong mớ ghi chép của có gì! Cái tôi cần là suy luận của ! Làm thế nào ông ta biết về vụ ghi chép nhỉ? Mila tự hỏi. thấy bối rối vì phản ứng của nhà tội phạm học, nhưng vẫn tiếp tục đà suy luận. - Cha mẹ của bé số sáu có mặt như những người khác để kiểm tra ADN. Chúng ta biết họ là ai, vì họ báo cảnh sát về vụ mất tích. - Tại sao họ báo cảnh sát? Có thể là họ chưa biết chuyện? - Có thể lắm. Làm máu chảy chậm lại. - Biết đâu con bé mồ côi cha mẹ! Có thể nó sống thân mình! Có thể mọi người ai buồn quan tâm đến nó! - Goran bực bội . - . bé có gia đình. Cũng giống như các nạn nhân khác, ông nhớ lại . Con độc nhất, mẹ ngoài bốn mươi, cha mẹ được thủ phạm lựa chọn vì họ chỉ có đứa con. Gã thay đổi, vì chính họ mới là nạn nhân đích thực: nhiều khả năng họ bao giờ có con được nữa. Gã chọn các gia đình, chứ phải các bé . - Chính xác. - Goran đáp. - Thế sao? Mila suy nghĩ lúc. - Gã muốn thách thức chúng ta. Gã đặt ra thử thách. Như là vụ chị em kết nghĩa. Đó là số... Gã đặt chúng ta vào thử thách. Khiến bé chết dần dần. - Nếu như bé có cha có mẹ, và họ biết chuyện, vậy tại sao họ thông báo việc con mình mất tích? - Goran nhấn mạnh, mắt lơ đãng nhìn sàn nhà. Ông có cảm giác hai người ở gần điều gì đó. Có lẽ là câu trả lời. - Vì họ sợ. Câu của Mila soi sáng mọi ngóc ngách của căn phòng. bỗng cảm thấy ngứa ngáy ở đằng sau , thoáng lạnh gáy... - Sợ điều gì? Câu trả lời cũng chính là điều Mila sắp . ra cần phải ra, nhưng họ vẫn muốn ý tưởng được ra thành lời, để tóm lấy nó và ngăn cho nó biến mất. - Cha mẹ bé sợ Albert có thể hành hạ bé... - Nhưng gã làm điều đó như thế nào được, nếu như bé chết? Làm máu chảy chậm lại. Khiến bé chết dần dần. Goran ngừng bước, gối khuỵu xuống. Còn Mila đứng bật dậy. - Gã làm máu chảy chậm lại... mà làm nó ngừng lại. Cả hai người cùng đến kết luận. - Ôi, Chúa ơi... - Mila thốt lên. - Đúng vậy... con bé vẫn còn sống.
11 Con bé mở mắt. Nó hít sâu, như thể vừa trồi lên từ vực nước trong lúc những bàn tay bé vô hình vẫn còn kéo tụt nó xuống. Nhưng nó cố giữ cân bằng trong trạng thái tỉnh thức. Cơn đau đột ngột ở vai trái giúp nó lấy lại chút sáng suốt. Nó cố nhớ xem mình ở đâu. Nó mất khả năng định hướng. Nó biết là mình nằm ngửa. Chắc chắn nó sốt và thể nhúc nhích được: nó cảm thấy như bị đè chặt. Chỉ còn hai giác quan đủ sức vượt qua màn sương mù của tình trạng nửa tỉnh nửa mê này. Mùi khai và mùi đá ẩm, giống như trong cái hang. Cùng với tiếng lách tách nhức nhối lặp lặp lại của giọt nước. Chuyện gì xảy ra? Ký ức lần hồi quay lại với con bé. Nó muốn khóc. Những giọt nước mắt lăn dài má, làm ướt đôi môi khô khốc của nó. Nó nhận ra mình khát khô cổ. Dịp cuối tuần cả nhà dự định ra hồ chơi. Bố mẹ và nó. Nó chỉ nghĩ đến chuyến đó trong suốt mấy ngày liền. Bố nó dạy nó câu cá. Nó nhặt giun đất trong vườn và bỏ vào trong cái lọ thủy tinh. Chúng uốn éo. Chúng còn sống. Nhưng nó mặc kệ. Hay đúng hơn nó coi chuyện đó là quan trọng. Vì nó cho rằng bọn giun đất có cảm xúc. Vậy nên nó chẳng buồn tự hỏi chúng cảm thấy ra sao khi bị nhốt trong cái lọ. Nhưng giờ nó bắt đầu đặt câu hỏi ấy cho mình. Bởi vì nó cảm thấy như thế. Nó thấy thương cho lũ giun, cũng như thương chính bản thân nó. Và nó thấy hổ thẹn vì độc ác. Nó dồn hết tâm sức vào hy vọng rằng kẻ bắt cóc nó và lôi nó khỏi cuộc sống của mình là người tốt hơn nó. Nó còn nhớ chính xác về chuyện xảy ra. Nó thức dậy sớm để học, sớm hơn thường lệ, vì hôm đó là thứ Năm, và như mọi thứ Năm khác, bố nó thể đưa nó đến trường vì phải gặp khách hàng. Ông bán các sản phẩm cho thợ làm tóc, và để phòng hờ cho lượng khách tăng cao vào dịp cuối tuần, ông phải đưa hàng, cùng với keo xịt tóc, dầu gội đầu và cả mỹ phẩm nữa. Vì thế, con bé phải đến trường mình. Nó làm thế từ hồi lên chín tuổi. Nó còn nhớ lần đầu tiên bố nó kèm nó đoạn ngắn đến trạm xe buýt. Nó nắm tay ông và chú ý lắng nghe những lời ông dặn, chẳng hạn như phải nhìn sang hai bên trước khi băng qua đường, được muộn vì bác lái xe chờ, được chuyện với người lạ mặt vì có thể gặp nguy hiểm. Dần dà, nó nhập tâm những lời căn dặn ấy đến độ còn cảm nhận được giọng của bố khi ra chúng nữa. Nó thuộc nằm lòng. Sáng thứ Năm ấy, nó thức dậy với niềm vui mới. Ngoài chuyến chơi sắp tới ở hồ, nó còn lý do khác để vui vẻ. Cái băng ở ngón tay nó. Trong phòng tắm, nó dùng nước nóng để gỡ góc cái băng và nhìn ngón tay mình với cảm giác tự hào xen lẫn đau đớn. Nó có người chị kết nghĩa. Nó muốn nhanh chóng gặp lại chị ấy. Nhưng chuyện đó chỉ có thể xảy ra vào buổi tối, vì hai chị em học cùng trường. Hai đứa hẹn nhau ở chỗ thường ngày để kể cho nhau nghe các tin tức mới, vì mấy ngày rồi chúng gặp nhau. Hai chị em cùng chơi đùa, lên kế hoạch, và trước khi chia tay, hai đứa cùng lặp lại lời thề mãi mãi là bạn của nhau. Phải, mọi thứ hứa hẹn là ngày rất thú vị. Nó nhét cuốn sách hình học vào trong cặp. Đó là môn học nó ưa thích, và điểm số của nó chứng minh điều đó. Lúc mười giờ, nó có giờ thể dục, nên nó lấy bộ đồ thể thao bó sát từ trong tủ ra, đồng thời nhét đôi giày và vớ vào trong cái túi giấy. Trong khi nó dọn giường, mẹ nó gọi xuống ăn sáng. Mọi người luôn ăn sáng vội vã. Sáng hôm ấy cũng là ngoại lệ. Bố nó chỉ uống tách cà phê. Ông ngồi xuống mà đứng để đọc báo. Ông cầm tờ báo bằng tay, trong khi tay kia đều đặn đưa cái tách lên miệng. Mẹ nó kịp gọi điện thoại cho đồng nghiệp, bà dọn món trứng cho nó mà bỏ sót chữ nào trong mẩu đối thoại với đầu dây bên kia. Houdini cuộn người nằm trong cái ổ của mình và chẳng buồn nhìn nó từ lúc nó xuống phòng ăn đến giờ. Ông nó bảo là con mèo bị huyết áp thấp giống ông nên buổi sáng thường rất uể oải. Còn nó, từ lâu nó còn khó chịu về thờ ơ của Houdini. Giữa hai đứa như có thỏa thuận ngầm về việc chia sẻ gian, và thế là đủ. Sau bữa sáng, nó đem đĩa của mình vào đặt trong bồn rửa rồi vòng quanh bếp để hôn tạm biệt bố mẹ. Sau đó nó lên đường. Khi ra khỏi nhà, nó vẫn còn cảm thấy cái hôn nồng mùi cà phê của bố má. Hôm ấy trời rất trong. vài đám mây điểm nền trời nom có vẻ gì là đe dọa. Dự báo thời tiết là trời tiếp tục đẹp như thế trong suốt những ngày cuối tuần. “ tuyệt vời để câu”, bố nó bình luận như thế. Với lời hứa của bố trong tim, nó thả bộ vỉa hè về phía trạm xe buýt. Cả thảy là ba trăm hai mươi chín bước chân. Nó từng đếm nhiều lần. Theo năm tháng, số bước chân ngày càng giảm , dấu hiệu cho thấy nó lớn dần lên. Lâu lâu nó phải đếm lại. Đúng vào bước chân thứ ba mươi chín, có người gọi nó. Nó bao giờ quên con số đó. Thời điểm chính xác khi cuộc sống của nó tan vỡ. Nó quay lại và nhìn thấy ông ta. Người đàn ông tươi cười tiến đến chỗ nó có gương mặt xa lạ. Nhưng ông ta gọi tên nó, nên nó nghĩ ngay: ông ta biết mình, nên thể là mối nguy hiểm. Trong lúc ông ta tiến về phía nó, nó cố nhìn kĩ để xem ông ta là ai. Ông ta bước nhanh hơn để bắt kịp nó, còn nó đứng lại đợi. Mái tóc của ông ta... kì quặc. Giống như tóc của con búp bê hồi xưa của nó hay chơi. Trông giả giả thế nào. Khi nó nhận ra ông ta đội bộ tóc giả quá trễ. Nó thậm chí để ý đến chiếc xe tải màu trắng đậu gần đó. Ông ta túm lấy nó, đồng thời mở cửa xe và chui vào trong đó, lôi nó theo. Nó cố hét lên, nhưng ông ta lấy tay bịt miệng nó lại. Bộ tóc giả rơi xuống trong khi ông ta ấp chiếc khăn tay lên mặt nó. Sau đó đột nhiên nước mắt nó giàn giụa, những chấm đỏ và trắng xuất trước mắt nó, che mất mọi thứ. Và cuối cùng là bóng tối. Người đàn ông đó là ai? Ông ta muốn gì? Tại sao ông ta đưa nó đến chỗ này? Bây giờ ông ta ở đâu? Những câu hỏi quay cuồng lời giải đáp. Những hình ảnh của buổi sáng cuối cùng biến mất, và con bé lại thấy mình trong cái hang này - hay là cái bụng ẩm ướt của con quái vật nuốt chửng nó. Để bù lại, cảm giác tê dại dễ chịu lần nữa chiếm lấy nó. Cái gì cũng được, miễn là phải nghĩ đến tất cả những chuyện này, nó nghĩ bụng. Nó nhắm mắt, và lại rơi vào cái bể đầy các bóng đen vây quanh mình. Thậm chí nó nhận ra trong số những cái bóng ấy quan sát nó. 12 Tuyết rơi dày đặc suốt đêm và bao phủ yên ắng lên mọi vật. Nhiệt độ dịu . Những cơn gió thổi qua phố phường. Trong khi thời tiết biến đổi làm mọi thứ chậm lại như dự kiến các thành viên trong nhóm điều tra lại sôi sục khí thế mới. Rốt cuộc, họ có mục đích. cách để sửa chữa dù chỉ là phần tội ác này. Tìm ra bé số sáu, giải cứu bé. Và tự cứu chính họ. - Với hy vọng là bé còn sống. - Goran liên tục nhắc lại nhằm giảm bớt phần nào nhiệt tình của những người khác. Bác sĩ Chang bị thanh tra Roche khiển trách vì đưa ra được kết luận trước. Báo chí vẫn còn chưa được thông tin về vụ bắt cóc của bé thứ sáu, nhưng thanh tra Roche vẫn chuẩn bị sẵn cái cớ cho giới truyền thông, và ông ta cần kẻ bung xung. Trong khi chờ đợi, Roche triệu tập nhóm bác sĩ - mỗi người chuyên môn khác nhau - để trả lời câu hỏi căn bản duy nhất: đứa trẻ có thể sống sót bao lâu trong điều kiện như vậy? có câu trả lời thống nhất cho câu hỏi đó. Những người lạc quan nhất cho rằng, nếu được chăm sóc y tế thích hợp và bị nhiễm trùng, bé có thể cầm cự từ mười đến hai mươi ngày. Những người bi quan khẳng định rằng, dù cho tuổi còn , nhưng với việc bị mất cánh tay như thế, khả năng sống còn của em càng lúc càng giảm dần, và rất có thể là bé chết. Roche hài lòng chút nào và quyết định dù thế nào vẫn ủng hộ công khai giả thiết Alexander Bermann là nghi phạm số . Mặc dù tin rằng có liên quan gì với vụ mất tích của các bé, Goran bác bỏ phiên bản chính thức đó của Roche. Đó phải là vấn đề hay . Thanh tra Roche thể để bị mất mặt khi đảo ngược những tuyên bố trước đây của mình về Bermann. Điều đó làm tổn hại hình ảnh của ông và cả tin cậy của phương pháp điều tra mà họ sử dụng. Ngược lại, nhà tội phạm học tin rằng Bermann bị “gài” bởi thủ phạm thực . Albert quay lại vị trí trung tâm chú ý của cả nhóm. - Gã biết Bermann bị ấu dâm. - Goran khi mọi người tề tựu đông đủ. - Trong thời gian dài chúng ta đánh giá thấp gã. yếu tố mới xuất trong chân dung của Albert. Họ lần đầu tiên linh cảm điều đó khi Chang mô tả vết thương các cánh tay được tìm thấy và dùng từ “phẫu thuật” để diễn tả độ chính xác khi thủ phạm ra tay. Việc sử dụng các loại thuốc làm hạ huyết áp của bé số sáu khẳng định khả năng y khoa của gã. Cuối cùng, việc gã có thể duy trì mạng sống của bé cho phép nghĩ rằng gã nắm rất vững các kỹ thuật hồi sức và những quy trình chăm sóc đặc biệt. - Có thể gã là bác sĩ, hoặc từng là bác sĩ. - Goran suy luận. - Tôi tìm kiếm trong danh sách đăng ký hành nghề: có thể gã bị tước giấy phép. - Stern ngay. Đó là khởi đầu hứa hẹn. - Làm thế nào gã có được các loại thuốc để duy trì sống cho bé? - Câu hỏi hay đấy Boris. Chúng ta kiểm tra các nhà thuốc tư nhân và hiệu thuốc bệnh viện để biết ai tìm những loại thuốc đó. - Có lẽ gã trữ thuốc từ nhiều tháng nay. - Rosa nhận xét. - Nhất là các loại kháng sinh: gã cần chúng để tránh nhiễm khuẩn. Còn gì khác ? Có vẻ như còn gì nữa. Lúc này, chỉ cần phát ra bé dù còn sống hay chết. Mọi người trong phòng họp quay lại nhìn Mila. là chuyên gia, là người phải tham khảo ý kiến nếu họ muốn đạt được mục đích. Thứ mang lại ý nghĩa cho công việc của họ. - Cần phải tìm ra cách liên lạc với gia đình bé. Mọi người nhìn nhau, cho đến khi Stern lên tiếng hỏi: - Để làm gì? Lúc này, chúng ta có lợi thế trước Albert. Gã chưa biết chúng ta biết chuyện. - tin là cái đầu có thể nghĩ ra những chuyện này lại lường trước được những động thái của ta sao? - Nếu như giả thiết của chúng ta chính xác, gã duy trì sống cho bé là vì chúng ta. Giáo sư Gavila chen vào để bảo vệ giả thiết mới của Mila: - Chính gã mới là người dẫn dắt cuộc chơi, và bé là phần thưởng cuối cùng. bé thuộc về kẻ nào khôn ngoan hơn. - Vậy gã giết bé sao? - Boris hỏi. - Gã phải là người định đoạt tính mạng bé. Mà là chúng ta. Nhận xét vừa rồi khó để chấp nhận, nhưng nó là điểm chính yếu trong thử thách này của họ. - Nếu như chúng ta mất quá nhiều thời gian trong việc tìm kiếm, bé chết. Nếu chúng ta làm gã nổi giận dù là theo cách nào, bé chết. Nếu chúng ta tôn trọng luật chơi, bé cũng chết. - Luật chơi à? Luật nào? - Rosa hỏi, cố nén lo lắng. - Các luật lệ mà gã dựng lên, và may là chúng ta biết. Những mưu đồ của gã chỉ bí đối với chúng ta, chứ rất ràng đối với gã. Trong tình thế đó, bất cứ hành động nào từ phía chúng ta cũng đều có thể bị xem như phạm luật. Stern gật gù: - Trong trường hợp này, tiếp xúc trực tiếp với gia đình của bé số sáu gần như là chơi trò chơi của gã. - Phải. - Mila đáp. - tại đó là điều gã chờ đợi ở chúng ta. Gã tính đến nó. Nhưng gã tin rằng chúng ta thất bại, vì cha mẹ của bé quá sợ hãi nên dám xuất đầu lộ diện, nếu họ làm thế rồi. Gã muốn chứng minh cho chúng ta thấy khả năng thuyết phục của gã mạnh hơn mọi cố gắng của chúng ta. Điều nghịch lý là, gã tìm cách để xuất trong mắt họ như là “người hùng” của vụ này. Tựa như gã với họ rằng: “Tôi là người duy nhất có thể cứu được con ông bà, ông bà chỉ có thể tin vào tôi thôi”... Mọi người có tưởng tượng ra khả năng gã gây áp lực tâm lý ở mức nào ? Nếu có thể thuyết phục cha mẹ bé liên lạc với chúng ta, chúng ta ghi được điểm. - Nhưng ta có nguy cơ chạm vào chỗ nhạy cảm của gã. - Sarah Rosa phản đối, có vẻ chưa đồng tình. - Đó là nguy cơ mà ta phải chấp nhận. Nhưng tôi tin rằng gã làm hại bé vì chuyện đó. Có thể gã trừng trị chúng ta bằng cách rút bớt thời gian của chúng ta. Gã giết chết bé ngay, trước tiên gã cần phải cho chúng ta xem toàn bộ tác phẩm của mình . Goran nhận thấy nhạy bén rất tuyệt vời của Mila trong việc nắm bắt cơ chế điều tra vụ án. có thể vạch ra chính xác phương hướng điều tra. Tuy vậy, dù những người khác cuối cùng cũng chịu nghe , nhưng dễ để họ hoàn toàn chấp nhận . Họ nhanh chóng coi như kẻ khác biệt, và quan điểm của họ thay đổi được trong sớm chiều. Đúng lúc đó, thanh tra Roche cho rằng mình nghe đủ và quyết định can thiệp: - Chúng ta làm theo đề nghị của cảnh sát Vasquez: nhanh chóng thông báo về tồn tại của bé thứ sáu, đồng thời công khai kêu gọi gia đình em. Lạy Chúa! Hãy chứng tỏ là chúng ta có gan nào! Tôi mệt mỏi phải chạy theo kiện lắm rồi. Cứ như thể con quái vật này quyết định hết mọi việc vậy. số người tỏ ra bất ngờ trước thái độ mới của ngài chánh thanh tra, chứ Goran . Cho dù nhận ra, Roche dùng chiêu hoán đổi vai trò của kẻ giết người hàng loạt, và cũng hoán đổi luôn trách nhiệm: nếu họ tìm ra được bé, có nghĩa là cha mẹ của em tin vào các điều tra viên và chịu xuất . Nhưng cũng phải công nhận rằng trong lời của ông có thực tế: đến lúc phải tìm cách đón đầu các kiện. - Mọi người nghe mấy tay bác sĩ kia rồi chứ gì? Theo họ, bé chỉ còn tối đa mười ngày. - Thanh tra Roche lần lượt nhìn từng thành viên trong nhóm rồi tuyên bố bằng giọng nghiêm túc. - Tôi quyết định: ta mở cửa lại studio. Vào giờ ăn tối, trong bản tin thời , khuôn mặt của nam diễn viên nổi tiếng xuất truyền hình. Mọi người chọn ông ta để truyền đạt lời kêu gọi đến cha mẹ của bé số sáu. Ông ta có gương mặt quen thuộc, đồng thời diễn đạt đúng cảm xúc cần có. Đương nhiên ý tưởng là của Roche. Mila thấy nó rất thích hợp: nó ngăn cản những kẻ quấy rối và bịa chuyện gọi điện đến số điện thoại nóng xuất màn hình. Vào khoảng thời gian các khán giả xem đài khám phá về tồn tại của bé nạn nhân thứ sáu trong cảm giác lẫn lộn giữa kinh hoàng và hy vọng, nhóm điều tra lục tục kéo vào studio. Đó là căn hộ nằm ở tầng bốn của tòa nhà vô danh gần trụ sở cảnh sát. Trong tòa nhà có nhiều văn phòng phụ của cảnh sát liên bang, đa phần phục vụ cho bộ phận hành chính và kế toán cũng như lưu trữ các hồ sơ giấy tờ quá cũ kỹ, chưa kịp số hóa để đưa vào kho dữ liệu mới. Trước đây, studio được chương trình bảo vệ nhân chứng sử dụng để tiếp đón những người cần lẩn trốn. Nó được bố trí nằm giữa hai căn hộ chung cư y hệt nhau. Vì lý do này mà nó có cửa sổ. Máy điều hòa được bật liên tục và lối tiếp cận duy nhất là cửa ra vào. Tường được thiết kế rất dày và trang bị nhiều hệ thống an ninh. Do tại căn hộ còn được dùng cho mục đích nguyên thủy nữa, nên các thiết bị bị gỡ bỏ. Thứ duy nhất còn lại là cánh cửa chống đạn nặng nề. Goran nhắm đến chỗ này khi đội trọng án được thành lập. Roche chẳng mất gì mà chiều lòng ông giáo sư, vì ông biết căn hộ an toàn được sử dụng từ nhiều năm trước đó. Goran mực cho rằng họ cần phải tự nhốt mình trong bốn bức tường trong thời gian điều tra. Các ý tưởng lan truyền dễ dàng hơn và lập tức được chia sẻ cũng như triển khai thêm mà qua khâu trung gian nào. Việc ở chung bắt buộc của cả nhóm làm nảy sinh mối đồng cảm, xúc tác cho bộ não chung duy nhất hoạt động. Giáo sư Gavila mượn phương pháp này từ “thuyết kinh tế mới”, nhằm xây dựng môi trường làm việc, tạo ra những gian chung và phân chia phận ngang nhau, trái với phân cấp thường thấy nay trong ngành cảnh sát, gắn liền với cấp hàm và hay dẫn đến tình trạng cạnh tranh lẫn đấu đá. Trong studio, những khác biệt đều bị xóa bỏ, các giải pháp được khai triển, mọi đóng góp của từng cá nhân đều được trưng tập, lắng nghe và xem xét. Khi Mila vào bên trong căn hộ, lập tức có cảm tưởng rằng đây là nơi những tên giết người hàng loạt bị tóm cổ. Điều đó xảy ra ở ngoài đời thực, mà ở trong bốn bức tường này. Trung tâm của tất cả những điều này chỉ là cuộc săn người đơn giản, mà là nỗ lực để nắm bắt động cơ phía sau chuỗi tội ác nghiêm trọng khó lý giải, tầm nhìn méo mó của tâm hồn bệnh hoạn. Ngay ở thời điểm băng qua ngưỡng cửa, Mila chợt hiểu chương mới của cuộc điều tra thực được mở ra. Stern xách cái túi giả da màu nâu được vợ chuẩn bị. tránh qua bên để những người khác bước vào. Boris khoác chiếc ba lô vai. Tiếp sau là Rosa, rồi cuối cùng là Mila. Phía bên kia của cánh cửa gia cố là dạng như buồng kính chống đạn, có lẽ trước đây được dùng cho các cảnh sát làm nhiệm vụ canh gác, bên trong có các màn hình tắt của hệ thống video, vài cái ghế xoay, cùng giá vũ khí trống . chốt chặn an toàn bằng cổng điện ngăn cách giữa buồng trực gác với phần còn lại của căn hộ. Trước kia, cái cổng được đóng mở bởi nhân viên gác cửa, nhưng tại nó mở toang. Mila nhận thấy thứ mùi ngột ngạt, ẩm mốc và mùi thuốc lá, cùng với tiếng ì ì liên tục của hệ thống thông gió điều hòa. khó ngủ đây. cần phải kiếm hai cái nút tai. hành lang dài chia căn hộ làm đôi. các vách tường gắn những mẩu giấy ghi chú và các tấm ảnh từ vụ án trước đây. Khuôn mặt của thiếu nữ xinh đẹp. Căn cứ vào ánh mắt trao đổi của những người còn lại, Mila hiểu ra vụ án kết thúc tốt đẹp, và có lẽ họ quay lại nơi này từ đó. ai hay giải thích gì với Mila. Chỉ có Boris buột miệng: - Khỉ , chí ít họ cũng nên gỡ hình ta xuống mới phải! Căn phòng đầu tiên chất đầy những đồ đạc văn phòng cũ được hóa phép thành tủ quần áo và tủ buýpphê. Trong bếp, chiếc bàn làm việc được sử dụng làm bàn ăn. Tủ lạnh thuộc đời cũ, loại dùng khí CFC gây thủng tầng ozone. Ai đó bỏ công xả tuyết và để nó mở toang, nhưng lại buồn cọ sạch những dấu vết thức ăn Trung Quốc hóa đen. Có phòng sinh hoạt chung được trang bị hai chiếc trường kỷ, cái ti vi và chỗ cắm máy tính xách tay cùng với các thiết bị kèm. Máy pha cà phê nằm ở góc phòng. Đây đó là những chiếc gạt tàn đen bẩn và rác rến đủ loại, đặc biệt là hộp giấy đựng thức ăn nhanh của nhãn hiệu quen thuộc. Chỉ có phòng tắm duy nhất, xíu và bốc mùi. Bên cạnh chiếc vòi sen, ai đó gắn cái kệ và đó nằm chỏng chơ vài lọ xà phòng lỏng, chai nước gội đầu dùng dở, cùng với gói năm cuộn giấy vệ sinh. Có hai căn phòng đóng kín dùng để thẩm vấn. Phía cuối căn hộ là phòng ngủ. Ba chiếc giường tầng cùng hai cái giường gấp được kê sát tường. Mỗi giường có kèm cái ghế để đặt va li hoặc đồ cá nhân. Tất cả mọi người ngủ chung trong phòng này. Mila chờ cho mọi người chọn giường trước, nghĩ người nào có giường người nấy. Là người đến sau cùng, lấy chiếc giường còn lại. Rốt cuộc, chọn trong hai chiếc giường gấp. Chiếc ở xa giường Rosa nhất. Boris là người duy nhất chọn chiếc giường ở tầng . - Stern ngáy đấy. - hạ giọng bên cạnh Mila. Giọng điệu khoái chí và nụ cười tự tin kèm theo cho Mila thấy chàng còn giận nữa. Tốt thôi, chuyện đó cũng chỉ làm cho việc sống tập thể trở nên dễ thở hơn. từng hai lần chia sẻ gian sinh hoạt với các bạn đồng nghiệp, nhưng luôn cảm thấy khó khăn khi phải chung đụng với họ. Ngay cả với các đồng nghiệp cùng giới. Trong khi tình bạn cùng phòng nhanh chóng nhen nhóm ở những người khác, Mila vẫn luôn tách ra, thể thu hẹp được khoảng cách. Lúc đầu, chuyện này làm bực bội, nhưng dần dà học được cách tự tạo ra cho mình thứ “bong bóng sinh tồn”, khoảng gian mà chỉ có những gì cho phép mới được lọt vào, kể cả thanh, tiếng ồn, lời bàn tán của những người xung quanh. Goran đặt túi đồ xuống chiếc giường gấp còn lại. Ông đợi mọi người trong căn phòng chính. Căn phòng được Boris đặt biệt danh là “phòng suy tưởng”. Họ yên lặng bước vào phòng và thấy Goron đứng quay lưng lại, mải viết lên bảng hàng chữ: “thành thạo kỹ thuật hồi sức và các quy trình chăm sóc đặc biệt: có khả năng là bác sĩ”. tường có gắn ảnh chụp của năm bé , nghĩa địa cánh tay và chiếc xe hơi của Bermann, cũng như bản sao của mọi báo cáo liên quan đến vụ án. Trong cái thùng cách chỗ đó khá xa, Mila nhận ra khuôn mặt của xinh đẹp kia: chắc chắn ông giáo sư gỡ ảnh của khỏi tường để gắn những tấm ảnh mới lên. Giữa căn phòng có năm chiếc ghế đặt thành vòng tròn. Phòng suy tưởng. Goran nhận thấy Mila nhìn chỗ đồ đạc ít ỏi ở trong phòng, bèn giải thích: - Nó giữ cho chúng ta khả năng tập trung. Ta cần phải nghiền ngẫm những gì thu thập được. Tôi làm những việc này theo phương pháp mà tôi cho là tốt, nhưng như tôi luôn , nếu có điều gì khiến cho vừa lòng, có thể thay đổi. Cứ dịch chuyển thứ gì muốn. Trong căn phòng này, chúng ta có toàn quyền làm theo những suy nghĩ vụt qua trong đầu. Mấy cái ghế là nhượng bộ , còn cà phê và vòi sen là những phần thưởng đặc biệt, chúng ta cần phải xứng đáng với chúng. - Được thôi, - Mila đáp, - ta phải làm gì đây? Goran vỗ tay cái, rồi chỉ lên bảng, chỗ ông vừa khởi ghi các đặc điểm của tên sát nhân hàng loạt. - Ta cần tìm hiểu về con người của Albert. Mỗi lần khám phá được chi tiết mới về gã, chúng ta ghi lên đây... có biết lối điều tra theo kiểu thâm nhập vào đầu bọn giết người hàng loạt và cố gắng suy nghĩ như chúng ? - Có chứ, tất nhiên rồi. - Thế , quên nó , vớ vẩn đấy. Nó hiệu quả đâu. Gã Albert của chúng ta có cách thức biện giải riêng cho tất cả những điều mà gã làm, nó được cấu trúc rất chặt chẽ trong đầu . Đó là quá trình trải qua nhiều năm kinh nghiệm với các tổn thương hoặc hoang tưởng. Đó là lý do tại sao ta phải cố gắng tưởng tượng ra điều gã sắp làm, mà cần nỗ lực tìm hiểu xem làm thế nào gã thực những việc đó. Hy vọng điều này giúp chúng ta lần ra gã. Mila tin rằng loạt manh mối mà tên sát nhân vạch ra chấm dứt sau cái chết của Bermann. - Chúng ta cần phát xác chết khác. - Tôi đồng ý với , Stern ạ, nhưng tại vẫn còn thiếu thứ gì đó, có thấy ? - Thứ gì kia chứ? - Boris hỏi. Cũng như những người khác, chàng chưa kịp hiểu nhà tội phạm học muốn đến đâu. Nhưng giáo sư Goran Gavila phải là người thích đưa ra những câu trả lời dễ dàng và thẳng thừng. Ông muốn hướng các điều tra viên đến điểm suy luận nhất định, rồi để cho họ tự bơi. - Kẻ giết người hàng loạt vận động trong thế giới đầy các biểu tượng. theo lộ trình bí hiểm từ nhiều năm trước đó, từ góc sâu kín trong đầu, và tiếp tục lần theo nó trong tại ở ngoài đời thực. Những bé bị bắt cóc chỉ là phương tiện để đến đích. - Đó là cuộc tìm kiếm hạnh phúc. - Mila thêm vào. Goran nhìn . - Chính xác. Albert tìm cách giải tỏa cơn khát, phần thưởng cho chỉ những điều gã làm, mà cả cho chính bản thân con người gã. Gã chỉ làm theo những gì bản năng thúc đẩy. Và trong khi làm như thế, gã cố với chúng ta điều gì đó... Đó chính là cái còn thiếu. dấu hiệu. thứ gì đó dẫn họ xa hơn là khám phá thế giới nội tâm của Albert. Sarah Rosa lên tiếng: - thi thể của nạn nhân đầu tiên có dấu vết nào. - Đó là quan sát đáng chú ý. - Goran công nhận. - Trong tàng thư lưu trữ về những tên sát nhân hàng loạt, tính luôn cả những tác phẩm điện ảnh chuyển thể, người ta ghi nhận rằng bọn giết người hàng loạt có khuynh hướng “vạch ra” lộ trình của mình, để lại cho các nhà điều tra những manh mối để họ bám theo... nhưng Albert . - Hoặc giả gã có làm nhưng ta chưa nhận ra. - Có thể là vì chúng ta chưa thể đọc được các dấu hiệu. - Goran thừa nhận. - Có thể chúng ta chưa biết đầy đủ. Chính vì thế, đến lúc để tái dựng các giai đoạn... Có cả thảy năm giai đoạn, tương ứng với cách thức ra tay của bọn giết người hàng loạt. Trong các tài liệu về tội phạm học, phân chia này được dùng để đánh dấu quá trình hành động của những kẻ sát nhân hàng loạt tại những thời điểm chính xác, và sau đó cho phép phân tích từng giai đoạn riêng biệt. Người ta từ giả thuyết rằng ai vừa chào đời là kẻ sát nhân hàng loạt, nhưng những đối tượng này tích tụ cách thụ động các kinh nghiệm và các nhân tố kích thích, giống như dạng ủ bệnh của bản tính giết người, để rồi sau đó bùng phát thành hành vi bạo lực. Giai đoạn đầu tiên là “ảo tưởng”. - Trước khi tìm kiếm trong thực tại, mục tiêu nhắm đến của dục vọng tồn tại thời gian dài trong ảo tưởng. - Goran . - Ta vẫn biết thế giới nội tâm của tên sát nhân hàng loạt là giao thoa giữa các tác nhân kích thích và các áp lực, khi chúng vượt quá sức chứa của nó bộc phát thành hành động là thể tránh khỏi. Đời sống nội tâm, vốn là của trí tưởng tượng, rốt cuộc thay thế cuộc sống thực tại. Chính vì thế mà kẻ giết người hàng loạt nhào nặn thế giới thực tại chung quanh theo trí tưởng tượng của . - Vậy ảo tưởng của Albert là gì? - Stern hỏi trong lúc tay đút vào miệng viên kẹo bạc hà thứ biết bao nhiêu. - Điều gì thu hút gã? - Thách thức. - Mila đáp. - Có lẽ trong suốt thời gian dài, gã bị hoặc cảm thấy bị đánh giá thấp. Giờ đây, gã muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy gã tài giỏi hơn người khác... và hơn chúng ta. - Nhưng gã đâu chỉ “mơ tưởng” đến chuyện đó, đúng ? - Goran hỏi, phải để tìm lời khẳng định, mà bởi ông xem giai đoạn đó như kết thúc. - Albert xa hơn thế, gã lên kế hoạch cho mọi hành động, bên cạnh đó dự trù phản ứng của chứng ta. Chính gã là người nắm quyền điều khiển. Đó chính là điều gã với chúng ta: gã tự biết mình quá , nhưng gã cũng rất hiểu chúng ta. Giai đoạn thứ hai là “tổ chức”, hay “lên kế hoạch”. Óc tưởng tượng chín muồi và được chuyển sang hành động, với khởi đầu thể tránh khỏi là lựa chọn nạn nhân. - Chúng ta biết gã chọn các bé, mà chọn gia đình của các em. Đích nhắm thực của gã là các ông bố bà mẹ, những người quyết định chỉ sinh con. Gã muốn trừng phạt ích kỷ của họ... Tính biểu tượng của các nạn nhân ở đây rệt. Các bé rất khác nhau và cùng tuổi, mặc dù khác biệt là lớn. Xét về diện mạo, các nạn nhân có những đặc điểm chung, chẳng hạn như tóc vàng hay tàn nhang. - Đó là lý do gã đụng đến các bé. - Boris . - Gã quan tâm đến các em theo lối ấy. - Vậy tại sao chỉ toàn con mà có con trai? - Mila hỏi. ai trả lời câu hỏi của . Goran gật gù, cân nhắc: - Tôi cũng nghĩ đến điều đó. Nhưng vấn đề là chúng ta biết ảo tưởng của gã có nguồn gốc từ đâu. Thường lời giải thích đơn giản hơn là ta tưởng. Nó có thể là do gã từng bị sỉ nhục bởi các bạn cùng lớp, ai mà biết được... rất quan trọng nếu biết được câu trả lời. Nhưng vẫn chưa có các manh mối khác, nên chúng ta đành phải tự bằng lòng với những cái có. Mila vẫn còn tin rằng nhà tội phạm học thấy khó chịu trước diện của . Tuồng như ông tức tối vì biết hết mọi câu trả lời. Giai đoạn thứ ba là “gài bẫy”. - Các nạn nhân bị tiếp cận như thế nào? Albert giở mánh khóe gì để bắt cóc các bé ? - Debby, bên ngoài cổng trường. Anneke, trong khu rừng nơi bé thường dạo chơi bằng xe đạp. - Gã bắt cóc Sabine vòng quay ngựa gỗ, ngay dưới mũi mọi người. - Stern . - Bởi vì thực tế mọi người chỉ biết đến con cái mình. - Rosa đáp cách chua chát. - Bọn họ mặc kệ. thực là thế. - Nhưng dù sao gã ra tay ngay trước bàn dân thiên hạ. Gã cực kỳ ranh ma, cái đồ quỷ quái ấy! Goran ra hiệu cho Stern bình tĩnh lại. Ông muốn tức giận làm mờ mắt. - Hai bé đầu tiên bị bắt cóc tại những địa điểm cách biệt với nơi các em ở. Nó giống như cuộc tổng diễn tập. Khi tự tin hơn, gã ra tay bắt cóc Sabine. - Gã nâng tầm thử thách đối với bé. - Đừng quên là vào thời điểm đó gã chưa bị ai săn lùng. Chỉ sau vụ Sabine, các vụ mất tích mới được xâu chuỗi lại với nhau, và tâm lý sợ hãi nảy sinh... - Đúng, nhưng đằng nào Albert cũng bắt cóc Sabine ngay trước mắt bố mẹ của em. Gã làm cho bé biến mất như trò ảo thuật. Và tôi thực tin rằng, như lời Rosa , những người ở đó bận tâm... , gã cũng làm ảo thuật với cả bọn họ nữa. - Hoan hô Stern, chính điểm này là thứ chúng ta cần điều tra thêm. - Goran . - Làm thế nào mà Albert ra tay thành công? - Tôi hiểu rồi: gã dùng phép tàng hình. Câu đùa của Boris làm mọi người bật cười. Nhưng với Gavila trong đó có phần thực. - Điều đó buộc chúng ta nghĩ rằng gã khác người bình thường là mấy, và gã có khả năng ngụy trang rất tốt: gã đóng vai ông bố khi nhấc Sabine xuống khỏi con ngựa gỗ. Tất cả chuyện đó ngốn mất của gã bao lâu nhỉ? Bốn giây chắc? - Gã lẩn ngay lập tức vào trong đám đông. - Thế bé kêu khóc, chống cự sao? - Boris phản đối, tỏ vẻ tin. - biết bao nhiêu đứa trẻ khóc lóc mè nheo ở ngoài hội chợ nào? - Mila lưu ý chàng. - Kể cả nếu như bé khóc lóc đó cũng là chuyện bình thường đối với những người chứng kiến. - Goran , rồi tiếp tục mạch suy luận. - Sau đó đến lượt Melissa... - Tình trạng báo động lan rộng. bé bị cấm ra ngoài, nhưng vẫn muốn trốn chơi bowling với bạn bè. Stern đứng dậy, tiến lại gần tấm ảnh Melissa tươi cười gắn tường. Nó được lấy từ cuốn kỷ yếu của trường. bé nhiều tuổi nhất trong các nạn nhân, nhưng vẻ ngoài của em vẫn còn giữ những nét trẻ con, hơn nữa em cũng thuộc loại người. Chẳng bao lâu nữa Melissa bước vào tuổi dậy , cơ thể em bắt đầu có những đường cong và bọn con trai rồi chú ý đến em. Còn lúc này, dòng chữ chú thích chỉ tiết lộ năng khiếu thể thao và việc em tham gia làm báo tường với tư cách tổng biên tập. Ước mơ của Melissa là trở thành nhà báo, nhưng nó bao giờ thành thực. - Albert phục sẵn. Cái đồ con hoang ấy... Mila nhìn Stern. có vẻ bị sốc với chính phát ngôn của mình. - Caroline, ngược lại, gã bắt cóc bé ngay tại giường. - Mọi thứ đều được tính toán... Goran tiến đến chỗ tấm bảng, cầm lấy cây bút rồi nhanh chóng viết ra vài chi tiết. - Hai nạn nhân đầu tiên, gã chỉ đơn giản là làm cho biến mất. Gã càng gặp thuận lợi khi mỗi ngày có hàng chục trẻ em bỏ nhà vì bị điểm xấu hoặc cãi cọ với bố mẹ. Vậy nên ai xâu chuỗi hai vụ mất tích lại với nhau... Vụ thứ ba chắc hẳn phải nhuốm màu bắt cóc, vì báo động được lan truyền... Trong vụ thứ tư, gã biết thừa Melissa thể cưỡng lại ham muốn được ăn mừng sinh nhật với đám bạn ... Và cuối cùng, đối với nạn nhân thứ năm, gã nghiên cứu kỹ lưỡng nơi ăn ở và nếp sinh hoạt của gia đình, để có thể đột nhập vào nhà bé cách êm thấm... Từ đó chúng ta rút ra được gì? - Mưu đồ của gã được chuẩn bị rất kỹ. chỉ nhắm vào các nạn nhân, mà còn nhắm cả vào những người bảo hộ: các bậc phụ huynh, các nhân viên công lực. - Mila . - Đâu cần phải dàn dựng này nọ để chiếm được tin tưởng của các bé , chỉ cần gã giở vũ lực bắt cóc, thế là xong. Tuy nhiên Mila lại nhớ đến trường hợp của Ted Bundy, kẻ giả vờ bị bó bột để tỏ ra yếu đuối, qua đó chinh phục được niềm tin của các nữ sinh viên. Gã nhờ họ bưng giúp mấy món đồ nặng và thuyết phục họ leo vào trong chiếc xe con bọ của mình. Khi các nhận ra cửa xe bên phía mình có tay nắm quá muộn... Lúc Goran viết xong, ông tuyên bố chuyển sang giai đoạn thứ tư. Giai đoạn “sát hại”. - Kẻ giết người hàng loạt lặp lặp lại “nghi thức” giết chóc. Với thời gian, có thể lên tay, nhưng nhìn chung là thay đổi. Đó là nhãn hiệu của . Mỗi nghi thức lại kèm theo biểu tượng riêng biệt. - Tính đến nay, chúng ta có sáu cánh tay nhưng chỉ cái xác. Gã giết nạn nhân bằng cách chặt gọn cánh tay, ngoại trừ bé số sáu, như chúng ta biết. - Sarah Rosa bổ sung. Boris cầm lấy tập báo cáo của giáo sư tội phạm học và đọc to: - Chang khẳng định gã giết các nạn nhân ngay sau khi bắt cóc chúng. - Sao phải vội như thế? - Stern hỏi. - Bởi vì gã quan tâm đến các bé , nên việc gì phải giữ gìn mạng sống cho các em. - Gã xem các bé đó như con người. - Mila xen vào. - Đối với Albert, các em chỉ là những món đồ. Kể cả số sáu. Tất cả cùng nghĩ đến điều đó, nhưng ai có đủ dũng khí để ra. ràng Albert phớt lờ việc bé có phải chịu đựng đau đớn hay . Gã giữ cho bé còn sống trong thời gian gã tìm mục tiêu của mình. Giai đoạn cuối cùng là “trưng bày dấu tích”. - Đầu tiên là nghĩa địa cánh tay, sau đó Albert nhét cái xác vào trong cốp xe của tên ấu dâm. Liệu đó có phải là lời nhắn gửi nhỉ? Goran đưa mắt nhìn mọi người dò hỏi. - Gã muốn rằng gã giống như Alexander Bermann. - Sarah Rosa . - Thậm chí có thể gã nhắn nhủ chúng ta rằng gã từng là nạn nhân bị bạo hành hồi còn . Như thể gã muốn rằng: “Đấy, tao là như thế này bởi vì có kẻ muốn biến tao thành con quỷ!” Stern lắc đầu. - Gã muốn thách thức chúng ta, làm trò với chúng ta. Nhưng trang nhất của các báo hôm nay chỉ về Bermann. Tôi tin gã muốn chia sẻ niềm vinh dự đó với người nào hết. Gã lựa chọn tên ấu dâm vì mục đích trả thù. Chắc hẳn phải có lý do nào khác... - Còn chuyện mà tôi thấy kỳ cục nữa... - Giáo sư Goran , trong đầu ông lên hình ảnh của buổi khám nghiệm tử thi. - Gã tắm gội và sửa soạn tươm tất cho thi thể của Debby Gordon, mặc lại váy áo cho bé. Gã làm đẹp cho Debby vì Bermann, Mila thầm nghĩ. - Ta biết liệu gã có làm như thế với các nạn nhân khác, hay biến thao tác đó thành nghi thức của gã hay . Nhưng nó rất lạ... Cái lạ lùng mà giáo sư Gavila muốn , và Mila cũng hiểu dù phải chuyên gia, là bọn giết người hàng loạt thường giữ lại thứ gì đó của các nạn nhân. tấm bùa hộ mạng hay món đồ kỷ niệm, để ôn lại kinh nghiệm giết chóc của mình. Sở hữu món đồ đối với chúng cũng tương đương với việc sở hữu con người đó. - Gã lấy thứ gì từ Debby Gordon hết. Khi Goran ra câu vừa rồi, Mila lập tức nghĩ ngay đến chiếc chìa khóa mà Debby đeo ở cổ tay, vốn dùng để mở chiếc hộp thiếc là nơi mà tin bé dùng để cất giấu quyển nhật ký. - Thằng khốn nạn! - buột miệng. lần nữa lại trở thành trung tâm chú ý. - vui lòng giải thích xem nào, nếu ... Mila ngước mắt nhìn Goran. - Lúc tôi vào phòng của Debby ở trường nội trú, tôi tìm thấy cái hộp thiếc được giấu dưới tấm nệm. Tôi tưởng bé cất nhật ký trong đó, nhưng . - sao? - Rosa ngao ngán hỏi. - Cái hộp bị khóa bởi ổ khóa . Chìa khóa đeo ở cổ tay của Debby, nên lúc đó tôi nghĩ, nếu chỉ có bé mở được cái hộp, tồn tại cuốn nhật ký nào cả... Nhưng hóa ra tôi nhầm. Chắc chắn có cuốn nhật ký trong đó! Boris bật dậy. - Gã ở đó! Thằng khốn nạn vào phòng của bé. - Nhưng việc gì gã phải liều mạng như thế? - Sarah Rosa phản đối, ràng muốn nghe theo lời Mila. - Bởi vì gã luôn ưa thích liều mạng. Nó kích thích gã. - Goran . - Nhưng còn lý do khác nữa. - Mila thêm, càng lúc càng cảm thấy vững tin vào lập luận của mình. - Tôi nhận thấy vài tấm ảnh biến mất khỏi bức tường, có lẽ là những tấm chụp Debby và nạn nhân số sáu. Gã muốn bằng mọi giá ngăn cản chúng ta phát ra danh tính của bé. - Cũng vì vậy gã lấy cuốn sổ nhật ký của Debby... trước khi khóa cái hộp lại... Tại sao? Stern tài nào hiểu nổi. Nhưng Boris lại thấy rất ràng. - hiểu à? Cuốn nhật ký biến mất trong khi cái hộp vẫn được khóa, chìa khóa đeo ở cổ tay của Debby... Như vậy gã muốn tuyên bố với chúng ta rằng chính gã là người lấy nó . - Nhưng tại sao gã muốn cho chúng ta biết? - Bởi gã để lại thứ gì đó... cho chúng ta ở đó! “Dấu hiệu” mà họ tìm kiếm. lần nữa, Phòng suy tưởng phát huy hiệu quả và chứng tỏ cho Goran thấy tính đúng đắn của phương pháp suy luận tập thể. Ông quay sang phía Mila : - là người đến đó, thấy trong phòng có những gì... Mila cố gắng nhớ lại, nhưng tìm được thứ gì nổi bật. - Nhưng chắc chắn nó phải có dấu hiệu nào đó! - Goran thúc ép. - Chúng ta đúng đường đấy. - Tôi lục tung mọi góc phòng, nhưng còn thứ gì khác khiến tôi phải chú ý nữa. - Nó phải là thứ gì đó rất hiển nhiên, thể nào để tuột mất nó được! Nhưng Mila nhớ thêm được gì, nên Stern đề nghị mọi người quay lại trường để kiểm tra kỹ hơn. Boris gọi điện thoại thông báo chuyến viếng thăm của nhóm điều tra, trong khi Sarah Rosa cầu Krepp đến đó gặp họ càng sớm càng tốt để lấy dấu vân tay. Lúc đó, Mila bỗng nhận ra điều. - Vô ích thôi. - , tự tin quay lại với . - Dù là gì nó cũng còn nằm trong căn phòng đó nữa. Khi họ đến trường nội trú, các bạn học của Debby được gọi vào gian phòng thường được dùng làm nơi hội họp và phát bằng. Các bức tường được ốp gỗ gụ. tường treo các bức chân dung của các thầy đóng góp cho tiếng tăm của ngôi trường trong quá khứ. Những gương mặt nghiêm nghị với nét mặt bất biến quan sát tất cả từ những khung ảnh ở cao. Mila là người lên tiếng đầu tiên. cố gắng tỏ ra dễ chịu, vì các bé rất sợ sệt. Bà hiệu trưởng trường cam đoan trừng phạt ai hết, nhưng qua vẻ sợ hãi gương mặt của bọn trẻ, ràng là chúng chẳng mấy tin tưởng vào lời hứa đó. - Chúng tôi biết số em vào phòng của Debby sau khi bạn ấy qua đời. Tôi tin là hành động ấy được thôi thúc bởi mong muốn có được vật gì đó để tưởng nhớ người bạn ra mãi mãi. Trong khi , Mila quan sát ánh mắt của bé mà bắt quả tang lấy đồ trong phòng tắm của Debby. Nếu có vụ việc đó, chắc cuộc điều tra của lâm vào ngõ cụt. Sarah Rosa quan sát Mila từ trong góc phòng, chắc mẩm việc làm chẳng thu được kết quả gì. Ngược lại, Boris và Stern tỏ ra rất tin tưởng. Còn Goran chỉ chờ đợi. - Lẽ ra tôi nên cầu các em làm chuyện này, nhưng tôi biết trong thâm tâm các em rất quý mến Debby. Do vậy tôi cần các em mang tất cả những món đồ đó ra đây, ngay bây giờ. Mila thử tỏ ra cứng rắn. - Tôi mong các em bỏ sót thứ gì, ngay cả những món đồ tầm thường nhất cũng có thể rất hữu ích. Chúng tôi tin rằng manh mối rất quan trọng bị để lọt trong quá trình điều tra. Tôi tin rằng tất cả các em đều mong muốn kẻ sát hại Debby bị trừng trị. Và vì tôi biết em nào bị kết tội che giấu bằng chứng, tôi tin rằng các em làm tốt việc được cầu. Lời đe dọa sau cùng, tuy chỉ là dọa suông vì các bé chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình , cũng góp phần nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của hành động mà chúng làm. Đồng thời nó cũng là phục thù nho cho Debby, người khi còn sống bị xem thường, đến lúc chết lại trở thành mục tiêu của chú ý và trộm cắp. Mila dừng lại chút để dành thời gian suy nghĩ cho các bé. im lặng là vũ khí thuyết phục hiệu quả nhất, và biết mỗi giây trôi qua lại càng thêm nặng nề đối với bọn trẻ. để ý thấy số trao đổi ánh mắt với nhau. Chẳng có đứa nào muốn trước, đó là điều bình thường. Sau đó, có hai bé cùng bước ra khỏi hàng lượt. Năm đứa nữa theo. Những đứa còn lại ngồi yên. Mila đợi thêm phút, trong lúc mắt vẫn dò xét gương mặt của những đứa ngồi lại xem có con kên kên nào quyết định bay theo đàn, nhưng thấy gì. đành hy vọng chỉ bảy đứa kia phạm tội. - Thôi được, các em còn lại có thể . Bọn trẻ chẳng đợi nhắc thêm và mau chóng rời phòng. Mila quay lại nhìn các đồng nghiệp và chạm phải ánh mắt dửng dưng của giáo sư Goran. Bỗng hành động của ông khiến bất ngờ: ông nháy mắt với . suýt cười, nhưng cố kìm lại, vì mọi người nhất loạt nhìn . Sau khoảng mười lăm phút, bảy nữ sinh quay lại phòng cùng với các món đồ. Chúng được đặt lên chiếc bàn dài, nơi các thầy giáo thường ngồi trong các buổi lễ. Bọn trẻ đứng đợi Mila và các điều tra viên đến xem xét từng món. Đa số là quần áo và phụ kiện, các món đồ chơi của các bé như là búp bê hay thú nhồi bông. máy nghe nhạc mp3 màu hồng, cặp kính râm, mấy lọ nước hoa, muối tắm, cái bóp cầm tay hình con bọ rùa, chiếc khăn quàng màu đỏ của Debby, và bộ trò chơi điện tử... - Cái này phải do cháu làm hỏng đâu ạ... Mila ngước mắt nhìn bé mũm mĩm vừa lên tiếng. Nó là đứa tuổi nhất, cùng lắm là tám tuổi. Nó có bím tóc dài vàng óng và đôi mắt xanh ngân ngấn nước. Nữ cảnh sát mỉm cười trấn an bé trước khi nhìn món đồ kỹ hơn. Sau đó đưa nó cho Boris. - Đây là cái gì vậy? chàng lật lật món đồ, xem xét. - Trông như máy chơi điện tử. bật cái máy lên. đốm sáng đỏ nhấp nháy xuất màn hình, đều đặn phát ra những thanh ngắn. - Nó hỏng rồi ạ. Cái chấm đỏ chịu chạy. - Con bé vội vàng giải thích. Mila nhận thấy mặt Boris bỗng tái hẳn . - Tôi biết nó là cái gì rồi... Khỉ ! Nghe thấy tiếng chửi thề, con bé mở to mắt, dám tin có người lại dám rủa xả trong nơi nghiêm trang như thế. Nhưng Boris chẳng buồn để ý đến con bé. chú ý của dồn vào món đồ tay. - Đây là thiết bị bắt sóng định vị toàn cầu. Ở đâu đó có người gửi tín hiệu cho chúng ta.