KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI TƯ




      Thứ gì đó đập vào đầu . Rất mạnh. cảm thấy cú đánh mạnh nhưng thấy đau.


      Gì thế, gì thế nhỉ? Cái xẻng của ? viên gạch? Có thể là trong thoáng lòng tốt của 823, cho rằng cái chết từ từ như thế này là quá sức chịu đựng đối với bất kỳ ai và tìm cổ họng để cắt đứt mạch máu.


      cú nữa, rồi cú nữa. mở được mắt nhưng cảm nhận được ánh sáng bừng lên quanh . Màu sắc. Và khí. phun đám đất trong miệng ra và lấy hết sức mình hít vào hơi thở mong manh. Bắt đầu ho ầm ĩ, nôn khan, nhổ bọt.


      mở choàng mắt, và qua làn lệ nhìn thấy Lon Sellitto người đầy bùn đất quỳ bên , bên cạnh là hai nhân viên y tế EMS, người móc đất trong miệng bằng những ngón tay đeo găng cao su và lôi ra đám nhầy nhụa, người thứ hai chuẩn bị sẵn sàng mặt nạ oxy và thùng nước màu xanh.


      Sellitto và Banks tiếp tục đào, hắt đất ra xung quanh bằng những cánh tay lực lưỡng của họ. Họ kéo lên, vứt lại chiếc áo choàng tắm như lớp da bị lột bỏ. Sellitto, người đàn ông bỏ vợ, trong trắng nhìn ra chỗ khác khi choàng chiếc áo khoác của ta lên vai . Tất nhiên, chàng thanh niên Jerry Banks có nhìn, nhưng vẫn thấy quý ta như thường.


      “Các… … có?” khò khè , nhưng lập tức dừng lại vì cơn ho nổ phổi.


      Sellitto nhìn Banks cách trông đợi, ta trông kiệt sức hơn. ta chắc cố hết sức lúc đuổi theo thủ phạm. Viên thám tử trẻ tuổi lắc đầu: “ chạy mất rồi.”


      Ngồi thẳng dậy, thở bình oxy lúc.


      “Làm thế nào?” khò khè. “Làm thế nào các biết được?”


      “Rhyme”, ta trả lời. “Đừng hỏi tôi làm thế nào. ấy ra lệnh 10-13 cho tất cả mọi người trong đội. Khi ấy biết chúng tôi ổn, ấy bảo chúng tôi tới đây càng sớm càng tốt.”


      Sau đó tình trạng tê liệt trôi qua, nhanh như chớp. Và lúc này mới thực nhận thấy điều gì diễn ra. đánh rơi chiếc mặt nạ oxy, lùi lại trong cơn hoảng loạn, lệ tuôn trào, cất tiếng khóc thảm thiết, cơn hoảng loạn của lớn dần, lớn dần. “, , ….”


      Tự tát vào mặt, vào đùi, cố gắng phủi nỗi kinh hoàng bám chặt lấy như bầy ong nhiều vô kể.


      “Trời ơi, trời ơi… …”


      “Sachs?” Banks lo lắng hỏi. “Này, Sachs?”


      Viên thám tử lớn tuổi hơn ra hiệu cho cộng của mình chỗ khác. “Ổn thôi.” ta ôm lấy khi bò bốn chân mặt đất, nôn mửa kịch liệt, nức nở, nức nở, bóp chặt đất giữa các ngón tay như thể muốn bóp chết nó.


      Cuối cùng, Sachs cũng bình tĩnh lại và ngồi đôi chân trần của . bắt đầu cười, đầu tiên dịu dàng, sau đó lớn dần, lớn dần, điên dại, ngỡ ngàng khi thấy bầu trời rộng lớn hơn và trời mưa – những cơn mưa mùa hè nặng hạt – thế mà nhận ra.


      Quàng tay quanh cổ . Mặt áp vào mặt . Họ ngồi như thế lúc lâu.


      “Sachs... Ôi, Sachs.”


      rời khỏi chiếc giường Clinitron và thả người xuống cái ghế bành cũ ở góc phòng. Sachs – mặc quần thể thao bông màu xanh hải quân và áo phông của trường Cao đẳng Hunter – ngồi lọt thỏm xuống ghế và đong đưa đôi chân tuyệt đẹp của như nữ sinh.


      “Sao lại là chúng ta hả, Rhyme? Vì sao lại đuổi theo chúng ta?” Giọng vẫn thầm, khàn khàn vì bụi đất mà vừa nuốt phải.


      “Vì những người bắt cóc phải nạn nhân thực . Chúng ta mới là nạn nhân.”


      “Chúng ta là ai?” hỏi.


      chắc. Có thể là xã hội. Hay là thành phố. Liên Hiệp Quốc. Cảnh sát. đọc lại cuốn kinh thánh của – chương viết về James Schneider. Em có nhớ giả thuyết của Terry về việc vì sao để lại manh mối ?”


      : “Như thể biến chúng ta thành kẻ đồng loã. Để chia sẻ tội lỗi. Để cho giết người dễ dàng hơn.”


      Rhyme gật đầu, rồi : “Nhưng vẫn nghĩ đó là lý do thực . nghĩ manh mối là cách dùng để tấn công chúng ta. Mỗi nạn nhân chết là mất mát đối với chúng ta.”


      Mặc bộ đồ cũ, tóc buộc túm ra sau, lúc này trông Sachs đẹp nhất trong hai ngày qua. Nhưng mắt vô hồn. Có thể ấy sống lại cái ký ức với từng xẻng đất, nghĩ. Và Rhyme thấy ý nghĩ về việc bị chôn sống nặng nề tới mức phải nhìn chỗ khác.


      có gì để chống lại chúng ta?” hỏi.


      biết. Cha của Schneider bị bắt nhầm và chết trong nhà tù. Thủ phạm của chúng ta? Ai mà biết được vì sao? chỉ quan tâm đến vật chứng...”


      “... phải động cơ.” Amelia Sachs nốt câu.


      “Nhưng vì sao lại theo chúng ta nhanh như thế?” Banks hỏi, hất đầu về phía Sachs.


      “Chúng ta tìm thấy hang ổ của và cứu được bé. Tôi nghĩ lại muốn chúng ta đến sớm thế. Có thể bực mình. Lon, chúng ta cần có bảo mẫu hai mươi tư hai mươi tư giờ, cho tất cả chúng ta. Có thể biến mất thời gian sau khi chúng ta cứu được bé, nhưng vẫn loanh quanh đâu đó và gây thêm tội ác. và Jerry, tôi, Cooper, Haumann, Polling, tất cả chúng ta đều nằm trong danh sách của , chắn chắc thế. Trong lúc này, chúng ta phải đưa lính của Peretti đến chỗ Sachs. Tôi chắc là dọn sạch nhưng có thể còn thứ gì đó. phải rời nhanh hơn dự tính nhiều.”


      “Tốt nhất là em tới đó”, Sachs lên tiếng.


      ”, Rhyme .


      “Em phải khám nghiệm trường.”


      “Em phải nghỉ ngơi chút”, ra lệnh. “Đó mới là điều em phải làm, Sachs. Em phản đối chứ, trông em tệ lắm đấy.”


      “Đúng rồi, sĩ quan”, Sellitto . “Đó là mệnh lệnh. Tôi cầu nghỉ hết ngày hôm nay. Chúng tôi có hơn hai mươi đặc vụ liên bang nữa.”


      “Tôi có trường vụ án ở sân sau nhà mình mà tôi lại được khám nghiệm nó?”


      “Đúng”, Rhyme , “tóm lại là như thế”.


      Sellitto ra cửa. “Có vấn đề gì , sĩ quan?”


      , thưa ngài.”


      “Nào, Banks, ta còn có việc phải làm. cần nhờ Sachs? Hay họ vẫn giao xe cho ?”


      ", cảm ơn, tôi có xe dưới nhà rồi", trả lời.


      Hai viên thám tử ra. Rhyme nghe thấy giọng của họ vọng lại từ đại sảnh. Sau đó, cửa đóng và họ hẳn.


      Rhyme thấy đèn trần bật sáng. bấm vài lệnh và điều chỉnh ánh sáng mờ .


      Sachs vươn vai.


      “Được rồi”, , đúng lúc Rhyme hỏi: “Thế nào đây?”


      nhìn đồng hồ. “Muộn rồi.”


      “Đúng thế.”


      đứng dậy, lại chỗ cái bàn nơi để chiếc ví. nhặt ví lên, mở ra, tìm chiếc gương và bắt đầu xem xét vết cắt môi.


      “Trông cũng tệ lắm”, Rhyme .


      “Như quỷ nhập tràng”, , vẻ kích động. “Sao họ dùng chỉ khâu có màu tươi hơn chứ?” để chiếc gương sang bên, vắt chiếc ví lên vai. “ vừa kê lại giường”, nhận ra. Nó được kê lại gần cửa sổ hơn.


      “Thom làm đấy. có thể nhìn xuống công viên nếu muốn.”


      “Thế à. Thế tốt.”


      bước lại gần cửa sổ. Nhìn xuống.


      Ồ, vì Chúa, Rhyme nghĩ thầm. chứ. Có chuyện gì được nhỉ? buột miệng nhanh: “Em có muốn ở lại ? Ý là, muộn rồi. Nhóm Mật vụ còn hút bụi nhà em mấy tiếng nữa.”


      cảm thấy hy vọng bùng nổ trong . Được rồi, giết nó , nghĩ, giận dữ với chính mình. Cho tới khi nở nụ cười tươi. “Em cũng muốn thế.”


      “Tốt quá.” Hàm nổi gai ốc vì adrenaline. “Tuyệt vời. Thom!”


      Nghe nhạc, uống chút whisky Scotch. Có thể kể nghe vài vụ án nổi tiếng. Nhà sử học trong cũng tò mò về người cha của , về công việc của cảnh sát những năm 1960 và 1970. Về đồn cảnh sát vô danh ở khu Nam Midtown ngày xưa.


      Rhyme la lớn: “Thom! Lấy ít khăn trải giường. Cả chăn nữa. Thom! biết cậu ta làm cái quái gì nữa. Thom!”


      Sachs định gì đó nhưng người trợ lý xuất ngoài cửa và gắt gỏng: “Chỉ cần quát lần là được rồi, biết chứ, Lincoln.”


      “Amelia ở lại đêm nay. Cậu đem giúp mấy cái chăn và gối vào văng, được ?”


      , phải văng nữa chứ”, . “Ngủ đó như nằm đá ấy.


      từ chối của đâm vào người Rhyme như lưỡi dao. buồn bã nghĩ: Phải mấy năm rồi mình mới có được cảm xúc ấy. Cam chịu, nhưng vẫn cười và : “Dưới nhà có phòng ngủ. Thom sửa soạn cho em.”


      Nhưng Sachs để ví xuống. “Được rồi, Thom. phải chuẩn bị gì đâu.”


      sao mà.”


      “Được rồic ngủ ngon, Thom.” ra cửa.


      “Thế à, tôi...”


      cười.


      “Nhưng…”, ta bắt đầu, nhìn rồi quay sang Rhyme, nhăn mặt, lắc đầu.


      “Chúc ngủ ngon, Thom”, cách kiên quyết. “Cẩn thận vấp đấy.” Và chậm rãi đóng cửa khi ta quay lại hành lang. Nó đóng lại với tiếng cạch lớn.


      Sachs tháo giày, cởi quần áo. mặc chiếc áo lót dây và quần lót rộng thùng thình. trèo lên chiếc giường Clinitron rồi nằm cạnh Rhyme, thể tất cả quyền năng mà người phụ nữ đẹp nắm giữ khi ngủ cùng người đàn ông.


      nằm cuộn tròn và cười.” Đúng là cái giường hết ý.” , vươn người như con mèo. Mắt vẫn nhắm, hỏi.” phản đối chứ?”


      “Tất nhiên là phản đối.”


      “Rhyme?”


      “Sao?”


      “Kể em nghe về cuốn sách của , được chứ? Những trường vụ án khác?”


      bắt đầu kể về tên giết người hàng loạt ranh mãnh ở Queens, nhưng chưa đầy phút ngủ say.


      Rhyme nhìn xuống và thấy ngực áp vào ngực , đầu gối gác lên đùi . sợi tóc phụ nữ vương mặt , lần đầu tiên sau nhiều năm. Nó cù buồn buồn. hoàn toàn quên mất điều đó. Với người thường xuyên sống trong quá khứ, với trí nhớ tốt như thế, rất ngạc nhiên khi thấy mình thể nhớ tốt như thế, rất ngạc nhiên khi thấy mình thể nhớ được chắc chắn lần cuối cùng mình có được cảm giác này là lúc nào. Điều nhớ là lộn xộn của những buổi tối với Blaine, nghĩ, trước khi tai nạn xảy ra. nhớ rằng chịu bị cù buồn, gạt những lọn tóc ra chỗ khác để làm vợ mình thức giấc.


      Còn bây giờ, tất nhiên thể gạt những lọn tóc của Sachs sang chỗ khác, thậm chí, nếu chính Chúa Trời ra lệnh. Nhưng cũng nghĩ đến việc gạt nó . Ngược lại, muốn cảm giác đó kéo dài cho tới khi cả vũ trụ tan tành.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI LĂM




      Sáng hôm sau, Lincoln Rhyme lại ở mình. Thom mua sắm và Mel Cooper ở phòng thí nghiệm IRD tại trung tâm. Vince Peretti làm xong công việc khám nghiệm trường tại khu biệt thự ở East Van Brevoort và nhà của Sachs. Họ tìm được rất ít manh mối mặc dù Rhyme cho rằng đó là do thủ phạm quá thông minh chứ phải do tài năng ổn định của Peretti.


      Rhyme đợi báo cáo trường vụ án. Nhưng cả Dobyns và Sellitto đều tin rằng 823 trốn bặt – ít nhất là tạm thời. Trong mười hai giờ qua, có vụ tấn công cảnh sát và nạn nhân nào bị bắt cóc.


      Người canh phòng cho Sachs – sĩ quan tuần tra to lớn từ MTS – cùng với tớ gặp bác sĩ tai mũi họng tại bệnh viện ở Brooklyn; đất có ảnh hưởng lớn đến họng của . Rhyme cũng có vệ sĩ – sĩ quan mặc cảnh phục từ Đồn Hai mươi, đóng ngay trước khu nhà của cảnh sát thân thiện mà biết nhiều năm qua, người Rhyme rất thích tranh luận về ảnh hưởng của than bùn đến việc sản xuất whisky ở Ireland và Scotland.


      Rhyme rất vui. gọi xuống dưới nhà qua máy liên lạc nội bộ. “Tôi có hẹn với bác sĩ trong , hai giờ tới. Cậu có thể cho ông ta lên.”


      Viên cảnh sát , ta làm theo.


      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé,


      - Quần áo đen,


      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác,


      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?


      - Găng tay tối màu.


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu = Brut,


      - Tóc phải màu nâu,


      - Có vết sẹo sâu ngón trỏ,


      - Quần áo bình thường.


      - Găng tay phai màu. Dây bẩn?


      - Găng tay đen.


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Ở gần:


      Houston & Lafayette, ShopRite


      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng,


      - Ít nhất trăm năm tuổi, có thể là biệt thự hay cơ quan,


      - Tòa nhà kiểu liên bang, ở Lower East Side,


      - Nằm gần khu vực khai quật khảo cổ.


      - Yellow Cab,


      - Chiếc sedan đời mới,


      - Màu xám nhạt, bạc be,


      - Xe thuê, có thể bị đánh cắp,


      - Hertz, xe Taurus màu bạc, kiểu của năm nay.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32


      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,


      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,


      - Gọi nạn nhân là “Hana”,


      - Biết tiếng Đức cơ bản,


      - Thích những chỗ dưới lòng đất,


      - Đa nhân cách,


      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư,


      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?


      - Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra.


      - Muốn lột da nạn nhân,


      - Gọi nạn nhân là “Maggie”,


      - Người mẹ và đứa con có ý nghĩa đặc biệt với ,


      - Cuốn sách Crime in Old New-York là hình mẫu của ,


      - Gây án phỏng theo James Scheiner, “Kẻ Tầm Xương”,


      - Căm ghét cảnh sát.





      Bác sĩ William Berger bảo đảm với Rhyme rằng lần này ông ta đến đúng giờ.


      Rhyme ngả đầu xuống gối và nhận ra trong phòng chỉ có mình . gở cửa sổ, những con chim ưng bước . Õng ẹo cách hiếm thấy, chúng có vẻ bất ổn. cơn đau nữa lại đến. Cửa sổ của Rhyme cho thấy bầu trời yên bình, nhưng tin tưởng lũ chim. Chúng là dụng cụ đo khí áp chính xác.


      nhìn lên cái đồng hồ treo tường. 11:00. Như hai hôm trước, chờ xuất của bác sĩ William Berger. Cuộc đời là thế, nghĩ: trì hoãn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng với chút may mắn, ta vẫn đến được nơi ta cần đến.


      xem ti vi khoảng hai mươi phút, tìm kiếm tin tức về những vụ bắt cóc. Nhưng tất cả các đài đều đưa tin đặc biệt về ngày khai mạc hội nghị Liên Hiệp Quốc. Rhyme thấy những tin tức này buồn chán và quay lại với Matlock(141), rồi chuyển sang kênh CNN với nữ phóng viên xinh đẹp đứng bên ngoài toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc, cuối cùng tắt máy.


      Chuông điện thoại reo, làm loạt động tác phức tạp để nhấc máy. “Tôi nghe.”


      khoảng im lặng trước khi giọng đàn ông vang lên: “Lincoln, đúng ?”


      “Đúng.”


      “Jim Polling đây. thế nào?”


      Rhyme nhận ra rằng từ sáng sớm hôm qua gặp viên đại uý, ngoại trừ chương trình tin tức hội nghị tối hôm qua, lúc ta nhắc vở cho Thị trưởng và sếp Wils.


      “Ổn rồi. Có tin gì về thủ phạm của ta ?” Rhyme hỏi.


      “Chưa có gì. Nhưng chúng ta tóm được .” khoảng im lặng nữa.


      “Này, ở nhà có mình à?”


      “Ừ.”


      khoảng im lặng lâu hơn.


      “Tôi đến, được chứ?”


      “Chắc rồi.”


      “Nửa tiếng nữa, được chứ?”


      “Tôi ở đây”, Rhyme vui vẻ .


      ngả đầu xuống gối, ánh mắt lướt qua sợi dây phơi buộc nút treo bên cạnh tấm áp phích. Vẫn chưa có câu trả lời về cái nút buộc. Đó là – cười thành tiếng vì câu đùa – là phần còn thừa. thấy khó chịu với ý tưởng bỏ vụ này mà phát ra đó là kiểu nút thắt nào. Rồi chợt nhớ ra Jim Polling là người câu cá. Có thể nhận ra...


      Polling, Rhyme trầm ngâm.


      James Polling...


      Cái cách viên đại uý dai dẳng cầu Rhyme tham dự vụ án là buồn cười. Cách ta đấu tranh để giữ trong vụ này thay vì Peretti – người là lựa chọn tốt hơn, về mặt chính trị cho Polling. Nhớ lại cái cách ta nổi giận với Dellray khi viên đặc vụ này cố chiếm lấy vụ điều tra từ NYPD.


      Bây giờ nghĩ tới việc đó, toàn bộ liên quan của Polling vào vụ này là điều bí . 823 phải là loại tội phạm mà tự nguyện – ngay cả khi muốn có vụ ngon lành để thêm vào lý lịch công việc. Quá nhiều rủi ro để mất nạn nhân, quá nhiều cơ hội cho báo chí – và giới quan chức – đánh hơi để làm thịt.


      Polling... nhớ lại cách ta lao vào phòng , kiểm tra tiến độ công việc rồi bỏ .


      Tất nhiên rồi, ta báo cáo cho Thị trường và sếp. Nhưng – ý nghĩ bất ngờ vụt trong đầu Rhyme – liệu Polling còn báo cáo cho ai đó khác hay ?


      Ai đó muốn tìm hiểu về cuộc điều tra? Có thể chính là ?


      Nhưng làm thế nào mà Polling có quan hệ với 823? Có vẻ như...


      Thế rồi điều đó khiến sợ hãi.


      Liệu Polling có thể là thủ phạm ?


      Tất nhiên là . lố bịch. Nực cười. Ngay cả tính đến động cơ và phương tiện, ta vẫn còn câu hỏi về cơ hội. Viên đại úy ở đây, trong phòng của Rhyme, khi mấy vụ bắt cóc diễn ra...


      Nhưng có phải thế ?


      Rhyme nhìn lên bản hồ sơ treo tường.


      Quần áo tối màu và chiếc quần dài bông nhàu nát. Polling mặc quần áo thể thao tối màu suốt mấy ngày qua. Nhưng thế sao? Nhiều người cũng làm thế...


      Cánh cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại.


      “Thom?”


      có tiếng trả lời. Người trợ lý trở lại sau vài giờ nữa.


      “Lincoln?”


      . Quỷ . bắt đầu quay số bằng bộ ECU.


      9-1-


      Cằm đấy con trỏ sang số 2.


      Tiếng bước chân dưới cầu thang.


      thử quay số lại, nhưng trong cơn tuyệt vọng đẩy thanh điều khiển ra khỏi tầm với.


      Jim Polling vào phòng. Rhyme hy vọng người lính canh gọi trước. Nhưng tất nhiên là chàng cảnh sát tuần tra để viên đại úy mà cần suy nghĩ.


      Cái áo khoác tối màu của Polling mở phanh ra và Rhyme nhìn thấy khẩu tự động ta đeo bên hông. biết liệu đó có phải súng ta được cấp hay . Nhưng biết Colt.32 là loại súng trong danh sách vũ khí cá nhân được chấp nhận của NYPD.


      “Chào Lincoln”, Polling . ta trông ràng có vẻ bất ổn, cảnh giác. ta nhìn khúc xương sống trắng bệch.


      “Cậu thế nào, Jim?”


      tệ.”


      Polling là người ưa hoạt động. Liệu vết sẹo ngón tay có thể là dấu tích của nhiều năm quăng dây câu? Hay cố với con dao săn? Rhyme cố nhìn nhưng Polling vẫn đút tay trong túi. ta có giấu gì trong đó ? con dao?


      Chắc chắn Polling hiểu về trường vụ án và pháp y – ta biết làm thế nào để để lại vật chứng.


      Cái mặt nạ trượt tuyết? Nếu Polling là thủ phạm, chắc chắn ta phải đeo mặt nạ – vì trong những nạn nhân sau này có thể nhìn thấy ta. Và nước hoa dùng sau khi cạo râu... Nếu nghi phạm thực dùng nước hoa dùng sau khi cạo râu mà chỉ đem theo lọ để phun ra trường khiến họ tin rằng có dùng? Như vậy, khi Polling tới đây, dùng tí nước hoa nào, chẳng có ai nghi ngờ ta.


      mình thôi à?” ta hỏi.


      “Trợ lý của tôi...”


      “Viên cảnh sát dưới nhà ta vắng lúc.”


      Thân hình Polling nhắn nhưng khỏe mạnh, tóc màu cát. Lời của Terry Dobyns trở lại trong đầu : người hữu ích, thẳng thắn. nhân viên hoạt động xã hội, luật sư, nhà chính trị. Người hay giúp đỡ kẻ khác.


      Như cảnh sát.


      Rhyme băn khoăn liệu sắp phải chết hay chưa. Và thấy sốc khi nhận ra mình muốn. phải kiểu này, phải theo điều kiện của người khác.


      Polling tiến về phía chiếc giường.


      Nhưng chẳng thể làm được gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào nhân từ của người đàn ông này.


      “Lincoln”, Polling , vẻ nghiêm trọng.


      Ánh mắt họ gặp nhau và cảm giác về liên kết như luồng điện chạy qua người họ. Những tia lửa khô khốc. Viên đại úy nhìn nhanh ra cửa sổ. “ cũng băn khoăn, đúng ?”


      “Băn khoăn?”


      “Lý do tôi muốn vào vụ này.”


      “Tôi nghĩ đó là vì tính cách của tôi.”


      Viên đại uý cười.


      “Vì sao lại muốn tôi, Jim?”


      Các ngón tay của viên đại uý đan vào nhau. Mảnh dẻ, nhưng mạnh mẽ. Bàn tay của người câu cá, môn thể thao có vẻ hiền lành, nhưng mục tiêu lại là lôi con vật tội nghiệp ra khỏi nhà của nó, mổ bụng nó bằng lưỡi dao sắc ngọt.”


      “Bốn năm trước, vụ Shepherd. Chúng ta làm cùng nhau.”


      Rhyme gật đầu.


      “Những người công nhân tìm thấy xác viên cảnh sát đó trong ga tàu điện ngầm.”


      Tiếng răng rắc, Rhyme nhớ lại, như thanh của tàu Titanic chìm trong phim A night to remember. Sau đó là tiếng nổ như tiếng súng khi thanh rầm rơi xuống cái cổ may mắn của , và bụi đất bao trùm lấy .


      “Và tự khám nghiệm trường, như mọi khi.”


      “Đúng thế.”


      có biết chúng tôi kết án Shepherd thế nào ? Chúng tôi có nhân chứng.”


      nhân chứng? Rhyme chưa được nghe điều đó. Sau vụ tai nạn, mất hết tất cả manh mối liên quan đến vụ án, ngoại trừ việc Shepherd bị kết án và ba tháng sau bị kẻ tấn công đâm đến chết đảo Riker. Tên này bao giờ bị bắt.


      nhân chứng”, Polling tiếp. “ có thể đặt Shepherd với vũ khí giết người vào nhà nạn nhân.” Viên đại úy tiến lại gần giường hơn, đứng khoanh tay. “Chúng tôi có nhân chứng ngày trước khi phát cái xác cuối cùng – cái xác dưới tàu điện ngầm. Trước khi tôi cầu khám nghiệm trường.”


      gì thế, Jim?”


      Mắt viên đại úy cắm xuống sàn.


      “Chúng tôi cần . Chúng tôi cần báo cáo của ."


      Rhyme im lặng.


      Polling gật đầu. “ hiểu điều tôi chứ? Tôi rất muốn bắt tên Shepherd đó... Tôi muốn có vụ chặt chẽ. Và biết là báo cáo trường vụ án của Lincoln Rhyme làm điều gì với luật sư bảo vệ rồi đấy. Nó làm cho bọn họ sợ mất mật.”


      “Nhưng Shepherd có thể vẫn bị kết án mà cần đến báo cáo về trường dưới tàu điện ngầm của tôi.”


      “Đúng thế, Lincoln. Nhưng còn tệ hơn thế nữa. biết tôi được bên thiết kế giao thông cho biết chỗ đó an toàn.”


      “Ga tàu điện ngầm. Và vẫn để tôi khám nghiệm trường trước khi họ chống lại nó?”


      “Shepherd giết cảnh sát.” Mặt Polling nhăn nhúm vì ghê tởm. “Tôi rất muốn bắt được . Tôi làm mọi thứ để tóm . Nhưng...” ta lấy tay che mặt.


      Rhyme im lặng. nghe thấy tiếng răng rắc của thanh rầm, tiếng nổ tung của gỗ gãy. Sau đó là tiếng xào xạc của đám bụi xung quanh . bình an ấm áp, lạ lùng trong cơ thể lúc trái tim phập phồng vì hoảng sợ.


      “Jim...”


      “Chính vì thế tôi muốn vào vụ này, Lincoln. thấy ?” cái nhìn khốn khổ xuất khuôn mặt cứng rắn của viên đại úy; ta nhìn chằm chằm vào đốt xương sống bàn. “Tôi vẫn được nghe những câu chuyện rằng cuộc đời coi như vứt . bị bỏ phí ở đây. Định tự tử. Tôi thấy có lỗi kinh khủng. Tôi muốn trả lại phần cuộc sống.”


      Rhyme : “Và sống với điều này suốt ba năm rưỡi qua?”


      biết tôi rồi đấy, Lincoln. Mọi người biết tôi. Tôi bắt được ai đó, phản ứng lại, toi. Tôi chơi rắn với vài tên, tôi dừng lại tới khi thằng khốn bị đóng gói rồi dán nhãn. Tôi kiểm soát được điều đó. Tôi biết là đôi khi tôi quá tay với mọi người. Nhưng chúng là tội phạm – hay ít nhất là nghi phạm. Chúng phải người của tôi, chúng phải cảnh sát. Điều này xảy ra với ... là tội ác. Là quá sai.”


      “Tôi phải lính mới”, Rhyme . “Tôi phải khám nghiệm trường nếu tôi nghĩ nơi đó an toàn.”


      “Nhưng...”


      đúng lúc chăng?” giọng khác vang lên ngoài cửa.


      Rhyme ngẩng lên, nghĩ rằng trông thấy Berger. Nhưng đó là Peter Taylor, ông ta lên cầu thang. Rhyme nhớ là ông ta đến đây ngày hôm nay để chăm sóc bệnh nhân sau khi bị mất phản xạ. cũng nghĩ rằng ông bác sĩ lại cho bài về Berger và Hội Bến mê. có tâm trạng cho việc này; muốn có thời gian ở mình – để tiêu hoá lời thú tội của Polling. Lúc này, nó cũng chỉ nằm đó, tê liệt như chính bắp đùi của Rhyme. Nhưng : “Vào nhà , Peter.”


      “Cậu có hệ thống an ninh rất buồn cười, Lincoln ạ. Người bảo vệ hỏi tôi có phải là bác sĩ rồi ta cho tôi lên. Sao thế? Vậy luật sư và kế toán bị đá đít à?”


      Rhyme cười. “Tôi chỉ cần giây thôi.” Rhyme quay lại với Polling. “Số phận thôi, Jim ạ. Điều xảy ra với tôi ấy mà. Tôi chỉ ở đúng nơi và đúng lúc thôi. Thỉnh thoảng điều đó vẫn xảy ra.”


      “Cảm ơn, Lincoln.” Polling đặt tay lên vai Rhyme và bóp .


      Rhyme gật đầu, và để tránh biết ơn dễ dàng, giới thiệu hai người với nhau. “Jim, đây là Peter Taylor, trong những bác sĩ của tôi. Còn đây là Jim Polling, chúng tôi từng làm việc với nhau.”


      “Rất vui được gặp ”, Taylor , chìa tay phải ra. Đó là cử động dài và ánh mắt Rhyme nhìn theo nó, vì lý do nào đó nhận ra vết sẹo hình vành trăng sâu ngón tay trỏ của Taylor.


      !” Rhyme la lớn.


      “Vậy mày cũng là cớm.” Taylor nắm chặt tay Polling trong khi thọc ba lần lưỡi dao được nắm chắc bên tay trái vào ngực viên đại úy, xuyên qua kẽ xương sườn với tinh tế của bác sĩ phẫu thuật. Chắc chắn là phạm đến chiếc xương quý giá.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI SÁU




      Chỉ với hai bước dài Taylor đến bên chiếc giường. vớ lấy bộ điều khiển ECU nằm dưới ngón tay Rhyme và ném nó .


      Rhyme lấy hơi để thét gọi. Nhưng tên bác sĩ : “ cũng chết rồi. Tên cớm.” Hất đầu về phía cửa, chỉ người cận vệ dưới nhà. Taylor thích thú nhìn Polling giãy giụa như con thú gãy lưng, phun máu ra nền nhà và lên tường.


      “Jim!” Rhyme gào lên. “, ôi, ...”


      Hai bàn tay viên đại uý ôm lấy lồng ngực bị rạch nát của ta. Tiếng ằng ặc đáng sợ của ta tràn ngập căn phòng, cộng với tiếng đế giày đập như điên dại xuống sàn khi ta chết. Cuối cùng, ta giật bắn người lần nữa rồi nằm yên. Hai con mắt mờ đục, lấm tấm máu của ta nhìn lên trần nhà.


      Quay lại phía Rhyme, nhìn chằm chằm vào khi vòng quanh chiếc giường. vòng quanh, dao tay. Hơi thở lạnh lùng.


      “Ông là ai?” Rhyme thở hổn hển.


      Taylor từ từ tiến lại gần hơn, đặt các ngón tay lên tay Rhyme và bóp xương vài lần, có thể mạnh, có thể đau, có thể . Bàn tay lần xuống ngón tay đeo nhẫn bên trái của Rhyme. nhấc nó ra khỏi bộ điều khiển ECU và chăm sóc nó bằng lưỡi dao máu. Thọc đầu nhọn con dao vào móng tay.


      Rhyme cảm thấy cơn đau mờ nhạt, cảm giác buồn nôn. Sau đó đau hơn. thở hổn hển.


      Sau đó, Taylor nhận thấy điều gì đó và cứng đờ người. thở hổn hển. Cúi người ra trước. Nhìn chằm chằm vào cuốn sách Crime in Old New York chiếc giá lật trang.


      “Ra thế... Mày tìm được nó đấy... Ồ, bọn cớm chắc phải tự hào lắm vì có mày trong đội ngũ, Lincoln Rhyme ạ. Tao nghĩ phải mất nhiều ngày bọn mày mới tìm được ngôi nhà. Tao nghĩ lúc đó Maggie bị lũ chó xé nát rồi.”


      “Sao ông lại làm thế?” Rhyme hỏi.


      Nhưng Taylor trả lời, cẩn thận xem xét Rhyme, lẩm bẩm như với chính mình: “Trước đây, mày được giỏi thế này, mày biết ? Ngày xưa ấy mà. Khi đó mày bỏ qua nhiều thứ quá, đúng ? Ngày xưa ấy mà.”


      Ngày xưa... ý ta là gì?


      lắc lắc cái đầu hói, tóc hoa râm – phải nâu – và liếc nhìn cuốn sách pháp y của Rhyme. Có thừa nhận trong mắt và Rhyme dần dần hiểu ra.


      “Ông đọc sách của tôi”, nhà hình học . “Ông nghiên cứu nó. Trong thư viện, đúng ? Chi nhánh thư viện công cộng gần nhà ông?”


      Cuối cùng 823 cũng là kẻ đọc sách.


      Vì thế biết quy trình khám nghiệm trường của Rhyme. Vì thế quét chúng cẩn thận, vì thế đeo găng tay khi sờ vào những bề mặt mà hầu hết bọn tội phạm nghĩ là để lại dấu tay, vì thế phun nước hoa dùng sau khi cạo râu tại trường – biết chính xác Sachs tìm kiếm thứ gì.


      Và tất nhiên cẩm nang đó phải là cuốn duy nhất đọc.


      Cả Scenes of The Crime nữa. Cuốn này cho ý tưởng về những manh mối để lại – những manh mối New York cổ xưa. Những manh mối chỉ Rhyme mới có thể giải mã.


      Taylor nhặt đĩa có đốt xương sống mà đưa cho Rhyme tám tháng trước lên. lơ đãng xoay xoay nó giữa các ngón tay. Và Rhyme nhìn thấy món quà, khi đó cảm động, nhưng giờ hoá ra lại là lời đầu kinh khủng.


      Mắt tập trung, nhìn xa xăm. Rhyme nhớ lại trước đây nhìn thấy điều đó – khi Taylor khám cho trong những tháng qua. xem điều đó là tập trung của bác sĩ nhưng giờ hiểu, đó là điên loạn. Khả năng kiềm chế mà cố duy trì dần biến mất.


      cho tôi biết”, Rhyme hỏi. “Vì sao?”


      “Vì sao à?” Taylor thầm , lướt tay chân Rhyme, ấn thử lần nữa, đầu gối, da, mắt cá chân. “Vì mi rất tuyệt vời, Rhyme ạ. Độc đáo. Mi là người có điểm yếu.”


      “Ý ông là gì?”


      “Làm sao có thể trừng phạt được người muốn chết? Nếu ta giết , ta làm điều muốn. Vì thế ta phải làm cho mi muốn sống.”


      Cuối cùng câu trả lời cũng đến với Rhyme.


      Ngày xưa...


      “Đồ giả phải ?” thầm . “Bản cáo phó từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany. Chính ông viết nó.”


      Collin Stanton. Bác sĩ Taylor chính là Colin Stanton.


      Người đàn ông có gia đình bị tàn sát ngay trước mắt ông ta, những con phố của khu Chinatown. Người đàn ông đứng đó, tê liệt trước thi thể của vợ và hai đứa con, nhìn họ mất máu cho đến chết, ghê sợ khi dám lựa chọn cứu ai trong số họ.


      Mi bỏ qua nhiều thứ. Ngày xưa.


      Miếng ghép cuối cùng vào đúng chỗ, nhưng quá muộn.


      Việc nhìn các nạn nhân: T.J. Colfax, Monelle và Carole Ganz. chấp nhận nguy cơ bị bắt để đứng lại và nhìn họ – đúng như Stanton đứng nhìn gia đình mình, nhìn họ chết dần. muốn báo thù nhưng lại là bác sĩ, thề bao giờ giết người, vì thế để có thể giết chóc phải trở thành tổ tiên tinh thần của chính mình – Kẻ Tầm Xương, James Schneider, tên điên loạn của thế kỷ XIX, người có gia đình bị cảnh sát làm tan nát.


      “Sau khi ra khỏi nhà thương điên, ta quay lại Manhattan. Ta đọc báo cáo điều tra về việc mi bỏ qua tên giết người tại trường vụ án như thế nào, thoát khỏi căn hộ đó ra sao. Ta biết ta phải giết mi. Nhưng ta thể. Ta biết vì sao... Ta cứ đợi, đợi điều gì đó xảy ra. Rồi sau đó, ta tìm thấy cuốn sách. James Schneider... trải qua chính xác những gì mà ta trải qua. làm được, ta cũng làm được.”


      Ta lóc họ đến tận xương.


      “Bản cáo phó”, Rhyme .


      “Đúng thế. Chính ta viết nó máy tính. Fax nó đến NYPD để họ nghi ngờ. Sau đó, ta trở thành người khác. Bác sĩ Peter Taylor. Mãi về sau ta mới nhận ra vì sao ta chọn cái tên này. Mi nghĩ ta được ?” Stanton nhìn lên tấm bảng tường. “Câu trả lời ở đó.”


      Rhyme nhìn qua hồ sơ.


      - Biết tiếng Đức cơ bản


      “Schneider”, Rhyme , thở dài mệt mỏi. “Tiếng Đức là thợ may(142).”


      Stanton gật đầu. “Ta ở thư viện hàng tuần, đọc về chấn thương cột sống và sau đó gọi điện cho mi, rằng ta được SCI Columbia giới thiệu. Ta định giết mi ngay từ lần đầu tiên, lóc từng rẻo thịt của mi ra, để cho mi mất máu đến chết. phải mất vài giờ, thậm chí vài ngày. Nhưng chuyện gì xảy ra?” Mắt mở to.” Ta thấy mi muốn tự giết mình.”


      cúi xuống gần Rhyme. “Lạy Chúa, ta vẫn nhớ lần đầu tiên ta nhìn thấy mi. Đồ khốn kiếp. Mi chết rồi. Thế là ta biết ta phải làm gì – ta phải là cho mi muốn sống. Ta phải cho mi mục tiêu để sống.”


      Tức là bắt ai quan trọng. Ai cũng được. “Thậm chí ông quan tâm nạn nhân sống hay chết.”


      “Tất nhiên là . Điều tao muốn là bắt mi cố cứu họ.”


      “Nút thắt”, Rhyme hỏi, nhìn thấy là vòng dây phơi treo cạnh tấm áp phích. “Đấy là mũi khâu phẫu thuật.”


      gật đầu.


      “Tất nhiên rồi. Còn vết sẹo tay ông?”


      “Ngón tay ta?” nhăn mặt. “Làm sao mi... Cổ ta! Mi lấy dấu tay cổ Hanna. Ta biết là có thể. Ta nghĩ đến điều đó.” Tự giận mình. “Ta đập vỡ cốc trong thư viện của nhà thương điên”, Stanton tiếp tục. “Để tự cắt cổ tay. Ta bóp cho đến khi nó vỡ tan.” cà điên dại vào vết sẹo ngón tay trỏ.


      “Những người chết”, Rhyme đều đều. “Vợ và các con ông. Đó là tai nạn. tai nạn khủng khiếp, đáng sợ. Nhưng phải là cố tình. Đó là sai lầm. Tôi rất lấy làm tiếc cho ông và cho họ.”


      Bằng giọng ngân nga, Stanton quở trách: “Có nhớ mi viết gì ?... Trong lời mở đầu cuốn sách giáo khoa của mi?” trích dẫn cách chính xác. “ nhà hình học biết rằng mỗi hành động đều có hậu quả. diện của tội phạm làm biến đổi mọi trường vụ án, bất kể nó mờ nhạt đến đâu. Chính vì thế chúng ta có thể phát , định vị được bọn tội phạm và nắm được công lý.” Stanton nắm tóc Rhyme và kéo đầu ra phía trước. Họ chỉ cách nhau vài inch. Rhyme có thể ngửi thấy hơi thở của tên điên loạn, thấy được những giọt mồ hôi làn da màu xám. “Được rồi, ta là hậu quả cho những hành động của mi.”


      “Ông đạt được điều gì? Ông có giết tôi tôi cũng tệ hơn bây giờ.”


      “Ồ, nhưng ta chưa giết ngươi. Chưa đâu.”


      Stanton thả tóc Rhyme ra, lùi lại.


      “Mi có biết ta làm gì ?” thầm . “Ta giết tay bác sĩ của ngươi, Berger. Nhưng theo cách giết của . Ồ, thuốc ngủ, rượu. Ta xem có thích chết theo cách truyền thống . Sau đó là bạn mi, Sellitto. Còn sĩ quan Sachs? Cả ta nữa. ta là người may mắn đấy. Nhưng lần sau ta tóm được ta. lần chôn cất cho ta nữa nhé. Tất nhiên cả Thom nữa. Nó chết ngay ở đây, trước mặt mi. Ta lóc nó đến tận xương... đẹp đẽ và chậm rãi.” Hơi thở của Stanton gấp gáp. “Có thể ta chăm sóc nó ngay hôm nay. Khi nào nó về nhỉ?”


      “Tôi sai lầm. Đó là...” Bất ngờ Rhyme ho dữ dội. hắng giọng, cố lấy lại hơi thở. “Đó là lỗi của tôi. Ông làm gì tôi cũng được.”


      . phải là mi. Đó là...”


      “Làm ơn di. Ông thể...” Rhyme lại bắt đầu ho. Cơn ho biến thành những cơn rung toàn thân. thể điều khiển được mình nữa rồi.


      Stanton nhìn .


      “Ông thể làm đau hͮ Tôi làm điều gì đó...” Giọng của Rhyme gấp gáp. Đầu lật ra sau, mắt lồi ra.


      Hơi thở của Lincoln Rhyme ngừng hẳn. Đầu lắc lư, vai rung bần bật. Gân cổ cứng như dây thép.


      “Rhyme!” Stanton gào lên.


      Sùi bọt mép, môi phun nước bọt, Rhyme giật người lần, hai lần như thể cơn động đất tràn qua cơ thể mềm oặt của . Đầu rơi ra sau, khoé miệng rỉ máu.


      !” Stanton hét lên. Ấn tay vào ngực Rhyme. “Mi được chết!”


      Viên bác sĩ lật mí mắt Rhyme, nhìn thấy toàn lòng trắng.


      Stanton mở tung hộp cứu thương của Thom và lấy mũi tiêm huyết áp dưới da, tiêm thuốc. ném cái gối khỏi giường và kéo Rhyme nằm thẳng ra. lật ngửa đầu Rhyme, lau môi và áp miệng vào miệng Rhyme, thỏi mạnh vào hai lá phổi tê liệt của Rhyme.


      !” Stanton phát khùng. “Ta cho mi chết! Mi được chết.”


      chút phản hồi.


      lần nữa. kiểm tra đôi mắt bất động.


      “Nào! Nào!”


      lần hà hơi nữa. Đập vào bộ ngực bất động.


      Sau đó lùi lại, chết cứng vì hoảng loạn và sốc, nhìn, nhìn chằm chằm người đàn ông chết trước mặt .


      Cuối cùng cúi xuống và thổi sâu vào miệng Rhyme lần cuối cùng.


      Và đúng vào lúc Stanton nghiêng đầu, ghé tai để lắng nghe thanh yếu ớt của hơi thở, bất kỳ tiếng thởra yếu ớt nào, Rhyme phóng về phía trước như con rắn mổ. cắn chặt răng vào cổ Stanton, xé tung động mạch cảnh và cắn môi vào phần xương sống của người đàn ông.


      Đến tận...


      Stanton gào lên vào quờ quạng vật ra sau, kép Rhyme ngã khỏi giường và rơi đè lên . Họ nằm sàn. Máu nóng phun ra, ngập trong miệng Rhyme.


      ... xương


      Lá phổi của , hai lá phổi sát thủ của , khí suốt phút, nhưng từ chối nhả ra để lấy hơi, bỏ qua cơn đau đớn khủng khiếp bên trong má, nơi làn da mềm mại bị cắn đến chảy máu để làm cho cơn đột quỵ do mất phản xạ của đến nhanh hơn. gầm gừ trong cơn giận dữ – tưởng tượng cảnh Amelia Sachs bị chôn dưới đất, tưởng tượng cảnh hơi nước phun lên cơ thể T.J. Colfax – lắc đầu, cảm thấy tiếng lạo xạo của xương và sụn.


      Stanton lại gào lên, đập dữ dội vào ngực Rhyme. Đạp chân để thoát khỏi con quái vật cắm chính nó vào ta.


      Nhưng thể thoát khỏi hàm răng của Rhyme. Dường như tinh thần của tất cả các cơ bắp thịt chết trong cơ thể dồn cả lên hai hàm răng.


      Stanton bò tới cái bàn đầu giường và cố với được con dao của . đánh mạnh vào Rhyme. lần, hai lần. Nhưng những nơi duy nhất có thể với tới là tay chân của nhà hình học. Cơn đau là thứ làm người ta tê liệt, nhưng cơn đau lại là thứ Rhyme hoàn toàn miễn dịch.


      Hai hàm răng nghiến chặt hơn, tiếng thét của Stanton tắt ngấm lúc khí quản đứt rời. thọc dao sâu vào tay của Rhyme. Con dao bị chặn lại khi chạm đến xương. bắt đầu rút nó ra để đâm lần nữa, nhưng cơ thể của tên điên loạn đột nhiên đông cứng rồi quẫy mạnh, lần, hai lần, và hoàn toàn mềm oặt.


      Stanton đổ vật xuống sàn, kéo theo Rhyme. Đầu nhà hình học đập bộp xuống nền gỗ sồi. Nhưng buông tha. bám chặt, tiếp tục nghiến ngấu cổ của người đàn ông, lắc, xé thịt như con sư tử đói say máu và điên loạn bởi khoái lạc vô biên của cơn khát thèm được thoả mãn.


      V


      KHI TA DI CHUYỂN,


      CHÚNG THỂ BẮT ĐƯỢC TA


      Nghĩa vụ của người bác sĩ chỉ là kéo dài cuộc sống, mà còn là chấm dứt khổ đau.


      BÁC SĨ JACK KEVORKIAN

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI BẢY


      7:15 PM đến 10:00 PM thứ Hai




      Khi Sachs bước vào phòng mặt trời sắp lặn.


      mặc đồ thể thao. Cũng phải cảnh phục. mặc quần bò và chiếc áo khoác màu xanh lá cây. khuôn mặt xinh đẹp của có vài vết sẹo mà Rhyme nhận thấy, mặc dù đoán với những kiện trong ba ngày qua những vết thương này phải tự có.


      “Ái chà”, trong khi vòng quanh phần sàn nhà nơi Stanton và Polling chết. Chỗ đó được lau sạch bằng chất tẩy rửa – khi tên tội phạm vào trong quan tài pháp y trở thành thừa thãi – nhưng vết bẩn khổng lồ.


      Rhyme nhìn Sachs dừng lại và lạnh lùng gật đầu chào bác sĩ William Berger, ông ta đứng cạnh ô cửa sổ của con chim ưng với chiếc va li bên cạnh.


      tóm được rồi, đúng ?” hỏi, hất đầu về phía vết máu.


      “Ừ”, Rhyme . “ toi rồi.”


      mình ?”


      “Cũng công bằng lắm”, . “ phải cố kìm chế mình.”


      Phía bên ngoài, mặt trời xuống thấp, đổ thứ ánh sáng rực rỡ xuống thắp sáng những ngọn cây và đường viền của những toà nhà tinh tế dọc theo Đại lộ Năm phía bên kia công viên.


      Sachs liếc nhìn bác sĩ Berger, ông này : “Lincoln và tôi vừa có cuộc trao đổi .”


      “Đúng thế ư?”


      khoảng im lặng dài.


      “Amelia”, bắt đầu. “ tiến hành thôi. quyết định rồi.”


      “Em thấy rồi.” Đôi môi tuyệt đẹp của , bị những mũi khâu xíu làm hỏng, hơi mím lại chút. Đó là phản ứng duy nhất của . “ biết , em rất ghét khi bị đem tên riêng ra gọi. Em rất ghét.”


      Làm thế nào mà giải thích được cho biết rằng là lý do chính để chọn cái chết cho mình? Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy và có bên cạnh, buồn bã nhận ra rằng rồi bước xuống giường, mặc quần áo và ra cửa – trở lại với cuộc sống riêng của , cuộc sốngbình thường. Vì sao, câu chuyện tình của họ kết thúc – nếu như dám nghĩ về họ như đôi tình nhân. Việc tìm thấy chàng Nick khác để chỉ là vấn đề thời gian. Vụ 823 chấm dứt, và có nó để liên kết họ lại cuộc sống của họ trôi ra rất xa nhau. Điều đó là chắc chắn.


      Ồ, Stanton thực thông minh hơn nghĩ. Rhyme bị lôi kéo tới bờ vực của thế giới thực thêm lần nữa và, đúng thế, vượt qua nó, rất xa.


      Sachs, dối đấy. Đôi khi ta thể bỏ qua những người chết. Đôi khi ta phải cùng với ...


      Hai bàn tay nắm chặt, về phía cửa sổ. “Em cố gắng nghĩ ra lý lẽ đủ mạnh mẽ để thuyết phục đừng làm điều đó. biết đấy, điều thực hấp dẫn. Nhưng em thể. Tất cả những gì em có thể là em muốn làm điều đó.”


      “Thoả thuận là thoả thuận, Sachs ạ.”


      nhìn Berger. “Mẹ kiếp, Rhyme.” Bước tới phía giường, quỳ xuống. đặt tay lên vai , vuốt tóc trán cho . “Nhưng làm cho em việc nhé.”


      “Việc gì?”


      “Cho em vài giờ.”


      thay đổi ý định đâu.”


      “Em hiểu. Chỉ cần hai giờ thôi. Có việc cần phải làm trước .”


      Rhyme nhìn Berger. Ông ta : “Tôi thể ở lại lâu hơn được nữa, Lincoln. Máy bay của tôi... Nếu muốn đợi tuần nữa tôi có thể quay lại...”


      “Được rồi, bác sĩ...”, Sachs . “Tôi giúp ấy.”


      ?” Ông bác sĩ nghi ngờ hỏi.


      miễn cưỡng gật đầu. “Vâng.”


      Đó là bản chất của . Rhyme có thể thấy rất điều đó. nhìn vào đôi mắt xanh của , tràn lệ nhưng trong sáng.


      : “Khi em bị... khi chôn sống em, Rhyme ạ, em cử động được. ly. Trong khắc, em rất mong được chết. phải sống nữa, chỉ làm sao để chấm dứt điều đó. Em hiểu cảm giác của .”


      Rhyme chậm rãi gật đầu rồi với Berger: “Được rồi, bác sĩ. có thể để lại... Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ?”


      “Đồ dùng cá nhân được ?” Berger đề xuất.


      “Ông có thể để nó bàn, ở đằng kia.”


      chắc chứ?” Ông ta hỏi Sachs.


      lại gật đầu.


      Người bác sĩ để những viên thuốc, chai brandy và cái túi nhựa lên chiếc bàn đầu giường. Sau đó ông ta lục lọi trong va li. “Tôi sợ tôi có dây chun. Buộc cái túi.”


      “Được rồi”, Sachs , nhìn xuống đôi giày của . “Tôi có vài sợi.”


      Sau đó Berger lại gần giường, đặt tay lên vai Rhyme. “Tôi chúc tự giải thoát bình yên”, ông ta .


      “Tự giải thoát”, Rhyme châm biếm khi Berger khỏi. Sau đó với Sachs: “Còn bây giờ, cần làm gì nhỉ?”


      quay xe lúc chạy với tốc độ năm mươi dặm giờ, trượt mạnh đường và êm ả chuyển sang số bốn.


      Gió thốc vào qua cửa sổ mở rộng, thổi tóc họ bay tung. Gió dữ dội nhưng Sachs chưa bao giờ nghe tới chuyện lái xe mà đóng cửa sổ.


      “Thế phải là kiểu Mỹ rồi”, tuyên bố và vượt ngưỡng trăm dặm giờ.


      Khi ta di chuyển...


      Rhyme cho rằng sáng suốt hơn nếu họ lái xe trong bãi tập của NYPD nhưng ngạc nhiên khi Sachs tuyên bố đó là đường chạy vớ vẩn; đanh bại nó ngay trong tuần đầu tiên tại học viện. Vậy là họ chạy ra Long Island, câu chuyện về lý do để “đối phó” với cảnh sát Hạt Nassau của họ sẵn sàng, vì họ luyện qua và nó có vẻ đáng tin.


      “Vấn đề của xe có năm số là số cao nhất phải là số nhanh nhất. Đó là số chạy đường trường, em quan tâm đến tiết kiệm xăng và đường trường”. Sau đó nắm lấy tay trái đặt chiếc núm tròn màu đen, trùm tay lên tay , về số.


      Động cơ gầm lên và họ vọt lên tốc độ trăm hai mươi dặm giờ, những ngôi nhà và hàng cây lao qua vun vút, những con ngựa ăn cỏ cánh đồng lo lắng ngẩng lên nhìn theo vệt đen của chiếc Chevrolet lao qua.


      “Đỉnh quá, phải Rhyme?” to. “Hết ý, hơn cả sex. Hơn mọi thứ”.


      cảm thấy chuyển động”, . “ nghĩ là cảm thấy được. Ở ngón tay .”


      cười. tin rằng siết chặt tay trong bàn tay . Cuối cùng họ cũng chạy hết đoạn đường vắng, xung quanh lại đông người. Sachs miễn cưỡng giảm tốc độ, quay xe hướng về phía vầng trăng lưỡi liềm vừa mọc thành phố xa xa, gần như vô hình trong khí tháng Tám ngột ngạt.


      “Thử chạy với tốc độ trăm năm mươi xem sao”, đề nghị. Lincoln Rhyme nhắm mắt, thả mình vào trong gió, mùi cỏ mới cắt và tốc độ.


      Đó là buổi tối nóng nhất trong tháng.


      Từ điểm quan sát mới của mình, Lincoln Rhyme có thể nhìn xuống công viên, nhìn ngắm những kẻ lập dị ngồi ghế đá, những người chạy bộ kiệt sức, các gia đình ngồi quây quần quanh khói của chiếc bếp nướng thịt lụi tàn như những kẻ sống sót sau cuộc chiến thời trung cổ.


      Thom cho đĩa CD vào máy – khúc khoan thai bi tráng cho đàn dây của Samuel Barber(143). Nhưng Rhyme nở nụ cười chế giễu, tuyên bố rằng điệu nhạc này là lời chia buồn sáo rỗng và ra lệnh cho cậu ta thay nó bằng Gershwin(144).


      Amelia Sachs lên cầu thang, vào phòng ngủ của và nhận thấy nhìn ra ngoài. “ nhìn gì vậy?” hỏi.


      “Những người nóng bỏng.”


      “Và những con chim? Lũ chim ưng?”


      “À, đúng rồi, chúng nó ở kia.”


      “Cũng nóng bỏng chứ?”


      nhìn con chim đực. “ nghĩ thế. Hình như chúng nó vượt lên điều đó”.


      đặt cái túi xuống chân giường và nhấc thứ bên trong ra, chai brandy đắt tiền. nhắc về chai whisky Scotch nhưng góp phần rượu. đặt nó bên cạnh những viên thuốc và cái túi nhựa. Trông như người vợ chuyên nghiệp vui tươi, vừa từ Balducci’s(145) về nhà đem theo hàng đống rau dưa và đồ biển nhưng lại có quá ít thời gian để nấu nướng.


      còn mua thêm ít đá, theo cầu của Ryhme. nhớ Berger đến sức nóng của cái túi. mở nút chai Courvoisier(146), rót cho mình ly và đổ đầy cái cốc vại của , đưa ống hút vào miệng cho .


      “Thom đâu?” hỏi .


      “Ra ngoài”


      ta có biết ?”


      “Có.”


      Họ cùng nhấm nháp rượu.


      có muốn em nhắn gì cho vợ ?”


      Rhyme suy nghĩ lúc lâu: chúng ta có nhiều năm để chuyện trò với ai đó, để giãi bày và khoác lác, để về khát vọng, giận dữ và những nỗi hối tiếc – và than ôi, chúng ta lãng phí những khoảnh khắc đó như thế nào. Còn Amelia Sachs, mới biết có ba ngày và họ cùng thổ lộ tâm tình nhiều hơn những gì và Blaine làm trong gần thập kỷ.


      ”, . “ gửi mail cho ấy.” cười thầm. “Thực món quà của thời đại chúng ta, phải là như thế.”


      Uống thêm chút rượu, vị đắng se se lan tỏa trong miệng . Êm hơn, mờ mịt hơn, nhàng hơn.


      Sachs cúi xuống giường, chạm cốc với .


      ít tiền”, Rhyme bắt đầu. “ chuyển cho Blaine và Thom phần lớn. …”


      Nhưng khiến im lặng bằng nụ hôn lên trán và cái lắc đầu.


      Có tiếng lóc cóc nhàng của đá cuội khi đổ những viên Seconals xíu ra tay.


      Rhyme nghĩ cách máy móc: Tia reagent thử màu Dille-Koppanyi. Thêm phần trăm cobalt acetate vào chất khám nghiệm sau đó là năm phần trăm isopropylamine trong metanola. Nếu chất này là thuốc an thần, tia reagent chuyển sang màu xanh tím rất đẹp.


      “Ta phải làm thế nào?” hỏi, nhìn những viên thuốc. “Em thực biết”.


      “Hòa với rượu”, đề xuất.


      thả chúng vào cốc vại của . Chúng nhanh chóng tan ra.


      Chúng mong manh. Như những giấc mơ mà chúng tạo ra.


      dùng ống hút khuấy cho tan. nhìn những móng tay xướt xát của nhưng điều đó cũng làm buồn. Đêm nay là đêm của , và đó là đêm của niềm vui.


      Bất chợt Lincoln Rhyme nhớ lại thời thơ ấu của mình, ở ngoại ô Illinois. chẳng bao giờ uống sữa. Mẹ phải mua cho ống hút tráng mùi bên trong để dỗ uống. Mùi dâu tây, mùi chocolate. nghĩ đến chúng cho tới lúc này. Đó là phát minh vĩ đại, nhớ lại. luôn chờ suất sữa buổi chiều của mình.


      Sachs đẩy ống hút đến gần miệng hơn. ngậm nó vào môi. đặt tay lên tay .


      Ánh sáng hay bóng tối, nhạc hay im lặng, những giấc mơ hay nhập định của giấc ngủ mộng mị? Ta thấy gì?


      bắt đầu uống. Vị chẳng có gì khác với rượu thường. Có thể hơi đắng hơn chút. Nó giống như…


      Phía dưới nhà có tiếng đập cửa thình thình. Dùng cả chân lẫn tay, có lẽ thế. Cả tiếng người la hét.


      nhả ống hút. Nhìn ra phía cầu thang.


      nhìn , nhăn mặt.


      “Em ra ngoài xem thế nào”, với .


      biến mất dưới cầu thang và khắc sau quay lại, trông có vẻ vui. Lon Sellitto và Jerry Banks theo sau. Rhyme nhận thấy viên thám tử trẻ lại làm trò đồ tể mặt ta bằng dao cạo râu. Chắc chắn là ta cần học cách kiểm soát nó.


      Sellitto nhìn cái túi và cái chai. Ánh mắt ta quay sang Sachs, nhưng khoanh tay nhìn lại, thầm ra lệnh cho ông ta ra về. Đây phải vấn đề cấp bậc, cái nhìn với viên thám tử rằng điều diễn ra ở đây phải việc của ông ra. Mắt Sellitto nhận thông điệp, nhưng ông ta hề có ý định bỏ .


      “Lincoln, tôi cần chuyện với .”


      , nhưng nhanh lên, Lon. Chúng tôi bận.”


      Viên thám tử nặng nề ngồi xuống cái ghế mây. “ giờ trước, quả bom phát nổ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ngay cạnh phòng tiệc. Trong bữa tối chào đón các đại biểu của hội nghị hòa bình.”


      “Sáu người chết, năm mươi tư người bị thương”, Banks thêm. “Hai mươi người trong số họ bị thương rất nghiêm trọng.”


      “Trời ơi”, Sachs thầm .


      “Kể cho ấy ”, Sellitto lầm bầm.


      Banks tiếp tục: “Liên Hiệp Quốc thuê khá nhiều nhân viên thời vụ phục vụ hội nghị. Tội phạm là trong số họ – nhân viên tiếp tân. Khoảng nửa tá nhân chứng nhìn thấy ta đeo cái ba lô làm và để nó trong kho cạnh phòng tiệc. ta để nó ở đấy, trước khi có tiếng nổ. Đội công binh cho rằng phải có tới hai cân C4 hay Semtex”.


      Sellitto : “Linc, quả bom, đó là cái ba lô màu vàng, nhân chứng như vậy.”


      “Màu vàng? Sao nghe quen thế nhỉ?”


      “Bộ phận nguồn lực của Liên Hiệp Quốc nhận định nhân viên tiếp tân đó là Carole Ganz.”


      “Người mẹ”, Rhyme và Sachs đồng thanh.


      “Đúng thế. Người phụ nữ được các vị cứu trong nhà thờ. Có điều Ganz là tên giả. Tên thực của ả là Charlotte Willoughby. Ả là vợ Ron Willoughby. Có thấy gì ?”


      Rhyme .


      “Tin này được đưa khoảng hai năm trước. ta là trung sĩ quân đội, được giao nhiệm vụ phục vụ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tịa Miến Điện”.


      “Tiếp ”, nhà hình học .


      “Willoughby muốn ta nghĩ người Mỹ nên mặc quân phục UN và nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai ngoài Quân đội Mỹ. Ngày nay nó là vấn đề cánh hữu rất lớn. Chưa được tuần ta bị tên du côn ở Rangoon bắn chết. Bị bắn vào lưng. ta trở thành người tử vì đạo của phe bảo thủ. Bên chống khủng bố là vợ ta được nhóm quá khích ở ngoại ô Chicago chiêu mộ. Vài sinh viên tốt nghiệp Đại học Chiacago hoạt động bí mật. Edward và Katherine Stone”.


      Banks tiếp tục câu chuyện. “Chất nổ được giấu trong gói đất nặn trẻ em, cùng với những thứ đồ chơi khác. Chúng tôi nghĩ ả đem bé theo cùng để nhân viên an ninh ở lối vào phòng tiệc để tâm đến đất nặn. Nhưng Pammy vẫn ở trong bệnh viện nên ả còn vỏ bọc, ả bỏ qua phòng tiệc và để nó trong nhà kho. Nhưng như thế cũng đủ thiệt hại rồi.”


      “Thoát rồi à?”


      “Đúng thế. để lại dấu vết.”


      “Đứa bé con sao?” Sachs hỏi. “Pammy?”


      rồi. Ả cho bé xuất viện đúng lúc vụ nổ xảy ra. có dấu vết gì của họ.”


      Rhyme : “Còn nhóm khủng bố?”


      “Nhóm ở Chicago? Chúng cũng biến mất. Có hang ổ ở Wisconsin(147) nhưng nó cũng bị xóa sạch. Chúng ta biết chúng ở đâu.”


      “Thế đó là tin đồn mà đặc tình của Dellray nghe được”. Rhyme cười. “Carole là người tới sân bay. Chẳng liên quan gì đến thủ phạm 823”.


      thấy Sellitto và Banks nhìn mình chằm chằm.


      Ồ, lại là cái trò im lặng này.


      “Quên , Lon.” Rhyme , cảm nhận ràng cái cốc bên cạnh mình, tỏa hơi ấm đón chào. “ được đâu.”


      Viên thám tử lớn tuổi kéo chiếc áo phông, vẻ khúm núm. “Mẹ kiếp, ở đây sao lạnh thế, Lincoln. Chúa ơi, cậu thử nghĩ xem. Có hại gì đâu?”


      “Tôi giúp được đâu.”


      Sellitto : “Có tin nhắn. Carole viết và gửi tới Tổng thư ký trong phong bì nội bộ. Lải nhải về việc chính phủ thế giới tước bỏ quyền tự do của Mỹ. Những thứ vớ vẩn kiểu thế. Nhận trách nhiệm về vụ đánh bom ở London và có thêm những vụ khác. Ta cần tóm chúng, Linc.”


      Banks mặt sẹo , tỏ vẻ quan trọng: “Cả Tổng thư ký và Thị trưởng đều mời . SAC Perkins nữa. Nếu cần thuyết phục thêm, có người từ Nhà Trắng gọi tới. Nhưng chúng tôi chắc là cần, phải thám tử?”


      Rhyme nhận xét gì về sai lầm liên quan đến chức vụ của .


      “Nhóm PERT của Cục cũng sẵn sàng. Fred Dellray nắm vụ này và ta mời – trân trọng, ta dùng đúng từ ấy – ta trân trọng mời phụ trách vấn đề pháp y. trường vụ án vẫn còn y nguyên, ngoại trừ việc người ta đưa những người bị thương .”


      “Thế còn nguyên vẹn nữa”, Rhyme cáu kỉnh. “Cực kỳ ô nhiễm rồi.”


      “Càng có thêm lý do để chúng tôi cần ”, Banks liều mạng, thêm câu “thưa ngài” để xoa dịu cái nhìn của Rhyme.


      Rhyme thở dài, nhìn cái ly và ống hút. bình yên tới quá gần. Và cả đau đớn. Vô hạn.


      nhắm mắt. Trong phòng tiếng động.


      Sellitto : “Nếu chỉ có mình ả sao. Nhưng ả còn có bé nữa, Lincoln. Hoạt động bí mật, với ? có biết là cuộc đời ra sao ?”


      chết với tôi vì câu này đấy, Lon.


      Ryhme tựa đầu xuống gối. Cuối cùng mở bừng mắt. : “ phải có vài điều kiện”


      , Linc.”


      “Thứ nhất”, . “Tôi làm việc mình.”


      Rhyme nhìn về phía Amelia Sachs.


      ngần ngừ thoáng, sau đó mỉm cười và đứng dậy, nhấc cốc brandy pha thuốc lên. mở rộng cửa sổ, hắt thứ chất lỏng màu vàng nâu vào làn khí nóng nực, chín nẫu phía bên con ngõ cạnh tòa nhà. Trong lúc ấy, chỉ cách đó vài feet, con chim ưng ngẩng lên, nghiêng đầu giận dữ nhìn cử động của cánh tay , rồi quay lại cho những đứa con đói meo của nó ăn.


      PHỤ LỤC


      Trích từ: Từ điển thuật ngữ, Lincoln Rhyme, Chứng cứ vật lý, xuất bản lần thứ tư. New York: Forensic Press, 1994. được phép in lại.




      Nguồn sáng thay thế (ALS): Bất kỳ loại bóng đèn nào có cường độ sáng cao với bước sóng và màu sắc ánh sáng khác nhau, được sử dụng để hiển thị những dấu vân tay , số loại dấu tích và chứng cứ sinh học.


      Hệ thống nhận dạng dấu vân tay tự động (AFIS): trong những hệ thống được máy tính hóa để quét và lưu trữ dấu vân tay.


      Birefringence (khúc xạ đúp): khác biệt giữa hai giá trị khúc xạ do số loại tinh thể hiển thị. Có ích trong việc nhận dạng cát, sợi và bụi bẩn.


      Thẻ đăng ký vật chứng (COC): bản ghi chú của những người sở hữu vật chứng từ lúc thu được nó lên trường vụ án cho tới khi đưa nó ra tòa.


      COD: Nguyên nhân tử vong.


      Mẫu đối chứng: Vật chứng thu được tại trường vụ án từ những nguồn biết, được sử dụng để so sánh với vật chứng từ nguồn chưa biết. Ví dụ: máu, lông, tóc của nạn nhân là mẫu đối chứng.


      DCDS: Chết tại trường.


      Kiểu thử biến thiên mật độ (D-G): kỹ thuật so sánh các mẫu đất để xác định xem chúng có xuất xứ từ nơi hay . Phép đo bằng cách thả những mẫu đất vào các ống chứa chất lỏng có giá trị mật độ khác nhau.


      Nhận dạng DNA: Phân tích và lập biểu đồ cấu trúc gen trong tế bào của những loại chứng cứ sinh học nhất định (ví dụ: máu, tóc, tinh dịch) nhằm mục tiêu so sánh với mẫu chứng từ nghi phạm biết. Quy trình bao gồm tách và so sánh các đoạn DNA – deoxyribonucleic acid – đơn vị tạo dựng cơ bản của nhiễm sắc thể. số loại nhận dạng DNA đưa ra xác suất chứng cư xuất phát từ cá nhân nhất định chỉ bằng vài phần trăm triệu. Còn được gọi là “nhận dạng gen” – hay còn bị gọi sai là “lấy vân tay DNA” hay “lấy vân tay gen”.


      Nhà nhân chứng học pháp y: chuyên gia về khung xương, trợ giúp các nhà điều tra trường vụ án trong việc đánh giá và nhận dạng hài cốt, khai quật mộ.


      Nha sĩ pháp y: chuyên gia răng miệng, hỗ trợ các nhà điều tra trường vụ án trong việc nhận dạng nạn nhân nhờ nghiên cứu những di cốt của răng và phân tích các chứng cứ vết cắn.


      Vân: Những đường nổi lên của da ngón tay, bàn tay và bàn chân, mỗi người có hình dáng vân riêng biệt, duy nhất. Những dấu vân tại trường vụ án có thể được phân loại thành: (1) nhựa (để lại các vật thể dễ bị ảnh hưởng như mát tít); (2) vật chứng (do da bị phủ các chất lạ như bụi hay máu để lại); (3) (do da bị dính chất nhờn của cơ thể như dầu hay mồ hôi để lại, thường thấy được bằng mắt thường).


      Sắc ký khí/phổ kế khối lượng (GC-MS): Hai thiết bị được sử dụng trong phân tích pháp y để xác định các chất chưa biết như ma túy hay vật chứng tồn tại. Chúng thường được kết nối với nhau. Sắc ký khi tách các thành phần của chất, sau đó đưa chúng sang phổ kế khối lượng, thiết bị này xác định chính xác từng thành phần.


      Lưới: Cách phổ biến được sử dụng để tìm kiếm chứng cớ, theo đó nhân viên tìm kiếm khắp trường theo chiều (ví dụ từ xuống dưới), sau đó khắp trường theo hướng vuông góc (tây – đông).


      Tàn thuốc súng (GSR): Vật chất – cụ thể là barium và antimony – rơi rớt tay và quần áo của người bắn súng. GSR ở lại da người trong vòng sáu tiếng nếu bị cố tình rửa trôi hay vô ý cọ sạch bởi tiếp xúc quá mức khi tội phạm bị bắt, bị còng (rủi ro cao hơn nếu tay bị còng ra sau lưng).


      Nhận dạng vật chứng: Xác định loại hay lớp vật chất của chứng cứ. Khái niệm này khác với “nhận cá thể” là việc xác định nguồn duy nhất của vật chứng. Ví dụ, mẩu giấy báo được tìm thấy tại trường vụ án có thể được nhận dạng là loại giấy in họa báo nhưng có thể được nhận mẩu trùng khớp với phần bị mất từ trang bị xé trong số nhất định của tờ họa báo của nghi phạm. Nhận dạng cá thể, tất nhiên có giá trị chứng minh khác với nhận dạng vật chứng.


      Nhận dạng cá thể: Xem “Nhận dạng vật chứng”


      Vết xám: Phần da nạn nhân tử vong bị thâm tím, biến màu do máu bị đông và sẫm lại sau khi chết.


      Nguyên tắc trao đổi của Locard: Được Edmond Locard, nhà hình học người Pháp đưa ra. Lý thuyết này cho rằng luôn có trao đổi vật chứng giữa tội phạm và trường vụ án hay nạn nhân, bất kể chứng cứ này có thể là bé hay khó phát đến đâu.


      Phổ kế khối lượng: Xem “Sắc ký khí”.


      Ninhydrin: Hóa chất làm hiển thị dấu vân những bề mặt xốp như giấy, bìa và gỗ.


      Vật chứng (PE): Trong luật hình , PE tham chiếu tới những thực thể được trình tại tòa để hỗ trợ khẳng định của bị đơn hay công tố viên về việc tuyên bố nào đó là đúng . Vật chứng bao gồm: các đối tượng vô tri vô giác, các chất của cơ thể và các dấu ấn (như dấu tay).


      Thử máu có cơ sở: Số lượng bất kỳ các kỹ thuật hóa học sử dụng để xác định có máu vương tại trường hay , ngay cả trong trường hợp mắt thường nhìn thấy được. Những phép thử phổ biến nhất là dùng luminol và orthotolidine.


      Kính hiển vi điện tử quét (SEM): thiết bị bắn các hạt electron vào mẫu vật chứng cần nghiên cứu và chiếu hình ảnh thu được lên màn hình máy tính. Với SEM, có thể nhận được độ phóng đại mười vạn lần so với độ phóng đại năm trăm lần của kính hiển vi thông thường. SEM thường được gắn khối tia X tán sắc năng lượng (EDX), có thể xác định được các chất có trong mẫu khi kỹ thuật viên quan sát.


      Dàn cảnh: Nỗ lực của tội phạm nhằm sắp xếp lại, thêm hay bỏ bớt chứng cứ khỏi trường vụ án để tạo ấn tượng rằng tội ác do hay do ai đó khác gây ra thể tìm thấy.


      Chứng cứ dấu tích: Những mẩu vật chất , đôi khi siêu như bụi, chất xơ và sợi.


      Đối tượng: Nghi phạm chưa được xác định.


      Máy làm lắng chân kim loại (VMD): Phương tiện hữu hiệu nhất hiển thị dấu vân những bề mặt nhẵn. Vàng hay kẽm được làm bốc hơi trong buồng chân bao bọc lớp kim loại mỏng lên đối tượng cần được quan sát, do đó làm hiển thị dấu vân.


      GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ




      Tôi mang ơn Peter A. Micheels, tác giả cuốn The Detectives – và E. W. Count, tác giả cuốn Cop Talk, những cuốn sách của họ chỉ hữu ích cho tôi khi nghiên cứu mà còn là những cuốn sách tuyệt hay. Cảm ơn Pam Dorman, biên tập khéo léo của có mặt khắp nơi trong câu chuyện này. Và tất nhiên, cảm ơn người đại diện của tôi, Deborah Schneider… Nếu thiếu chị tôi có thể làm được gì đây? Tôi chân thành cảm ơn Nina Salter ở Calmann-Lévy vì những nhận xét của trong những bản thảo đầu tiên của cuốn sách này, và cảm ơn Karolyn Hutchinson tại REP ở Alexandria, Virginia vì giúp đỡ vô giá liên quan đến xe lăn và những thiết bị khác dành cho người bị liệt. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Teddy Rosenbaum – bản thân cũng là thám tử – vì công việc biên tập của . Các sinh viên nghiên cứu về thực thi pháp luật có thể băn khoăn về cấu trúc của NYPD và FBI được giới thiệu trong cuốn sách này; việc thay đổi sơ đồ tổ chức hoàn toàn do tôi tự làm. À, tất nhiên – nếu ai đó muốn đọc cuốn Crime in Old New York có thể gặp đôi chút khó khăn để tìm được nó. Đây là tác phẩm hư cấu, dù tôi có được nghe tới tồn tại của cuốn như thế nhưng bị ăn trộm khỏi Thư viện Công cộng New York – bởi hay vài người chưa danh tính.


      Jeffery Deaver




      CHÚ THÍCH




      1. Upper West Side: khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)


      2. Dặm: dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với trăm km giờ.


      3. Midtown: Là trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.


      4. Feet: Số nhiều của foot, foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.


      5. CS: Khám nghiệm trường.


      6. Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ vị trí cao xuống.


      7. JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.


      8. CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.


      9. IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.


      10. Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên bộ phim.


      11. Morgan Stanley: công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành phố New York.


      12. Martha Stewart: Chủ bút tờ báo gia đình, kiểu chị Thanh Tâm ở Mỹ.


      13. The Scences of the Crime: Những trường vụ án.


      14. ROM: dạng bài tập kéo dãn cơ.


      15. ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển Môi trường.


      16. SOB (viết tắt của Son of a Bitch): cách khinh bỉ về cơ quan trước đó của Rhyme.


      17. Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington, Virginia, nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.


      18. BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.


      19. Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là cách nghĩ chế nhạo về Banks.


      20. Công ty Everest & Jennings: công ty chế tạo giường bệnh và hệ thống hỗ trợ của Rhyme.


      21. CRC Press: Tên nhà xuất bản chuyên về Pháp y.


      22. Pound: pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương với bảy mươi lăm kg.


      23. NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát New York.


      24. SCI (viết tắt của Spinal Cord Injury): Chấn thương cột sống.


      25. Con đường An lạc, Hội Độc cần: Tên của những hội ủng hộ việc chết theo ý muốn.


      26. FBI (viết tắt của Federal Bereau of Investigation): Cục Điều tra Liên bang Mỹ.


      27. Chinatown: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.


      28. PERT: Nhóm Phản ứng Vật chứng.


      29. Inch: icnh tương đương với 2.54 cm.


      30. ALS: Xem phần phụ lục.


      31. Ninhydrin: Xem phần phụ lục.


      32. PE (viết tắt của Physical Evidence): Vật chứng – Xem phần phụ lục.


      33. Amiăng: Tên nhóm các khoáng chất có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng trong số ngành công nghiệp.


      34. Hornblende: Tên loại khoáng chất.


      35. CSU (viết tắt của Crime Scene Unit): Đơn vị Khám nghiệm trường.


      36. Đại Bản Doanh (nguyên văn là BigBuilding): Cách gọi OnePolicePlaza (sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York) của cảnh sát New York.


      37. Stalactite: Thạch nhũ.


      38. Sears: thương hiệu bình dân.


      39. ESU (viết tắt của Emergency Services Unit): Đơn vị Phản ứng nhanh.


      40. SWAT (viết tắt của Special Weapon And Tactics): Đội Chiến thuật và Vũ khí Đặc nhiệm.


      41. Nighthawks: Đại bàng đêm, tác giả Edward Hopper (1882 – 1967), họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.


      42. S&S: Tìm kiếm và giám sát.


      43. HRT (viết tắt của Hostage Rescue Team): Nhóm Giải cứu con tin.


      44. Paul Leland Kirk (1902 – 1970): Nhà hóa học, nhà khoa học pháp lý nổi tiếng của Mỹ.


      45. Quả Táo Lớn: Tên lóng của New York.


      46. EDTA: Tên viết tắt của hợp chất hóa học ethylenediaminetetraacetic acid.


      47. BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ, tổ chức của chính phủ Mỹ.


      48. EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ Môi trường.



      50. Kojak: Tên của những nhân vật thám tử truyền hình hay truyện tranh.


      51. Jury Garland: Tên của những nhân vật thám tử truyền hình hay truyện tranh.


      52. Jessica Beatrice Fletcher: nhân vật hư cấu trong series chương trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.


      53. EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): phương pháp phân tích trong ngành hóa học.


      54. GC-MS: Xem phần phụ lục.


      55. Pearl: Ngọc trai.


      56. RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản ứng nhanh.


      57. Howard Robard Hughes (1905 – 1976): Phi công, nhà tư bản công nghiệp, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ.


      58. CP (viết tắt Commanding Post): Trạm chỉ huy


      59. 10-84: Tên mẫu biểu thủ tục hành chính cảnh sát.


      60. DCDS: Xem phần phụ lục.


      61. Món thịt gà của Tướng Tso: Đây là món gà chiên ngọt tẩm gia vị thường thấy tại các nhà hàng Trung Quốc ở Mỹ. Có giả thuyết chắc chắn cho rằng, tên gọi của món ăn này xuất phát từ câu chuyện: vợ của Tướng Tso – tên là Zuo Zongtang (1812-1885), vị tướng người Hồ Nam dưới triều nhà Thanh – chế biến món ăn này, dâng lên chồng mình và các cộng của ông, nó trở thành đặc sản của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.


      62. Morgen: Ngày mai (tiếng Đức).


      63. Mein Gott: Lạy Chúa (tiếng Đức).


      64. Früh morgens: Sớm sủa lắm (tiếng Đức).


      65. Wisk: Tên loại bột giặt.


      66. Irgendwas stimmt hier nicht: Có gì đấy ổn (tiếng Đức).


      67. Oasis (Ốc đảo): nhóm nhạc rock của .


      68. Gottverdammte: Chết tiệt (tiếng Đức).


      69. Nein: (tiếng Đức).


      70. Hilfe: Cứu tôi (tiếng Đức).


      71. Nein, bitte nicht: Làm ơn, đừng (tiếng Đức).


      72. Ming Wa: nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.


      73. Rocky Raccoon: Chồn Đá, bài hát nổi tiếng của The Beatles.


      74. WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New York.


      75. Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.


      76. Kommen Sie mit mir mit: với tôi (tiếng Đức).


      77. Mein Name ist micht Hanna: Tao phải Hanna (tiếng Đức).


      78. Thước (yard): Thước , tương đương với 0,914m.


      79. So nicht: Thôi (tiếng Đức).


      80. Edward Henry Weston (1886 - 1958-): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ.


      81. Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).


      82. Vorwärts: Lên (tiếng Đức).


      83. Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).


      84. Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).


      85. Judas: Tên nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.


      86. ATF: Viết tắt của BATF.


      87. Dashiell Hammet (1894 – 1961): nhà văn người Mỹ nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết truyện thm xuất sắc mọi thời đại.


      88. DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.


      89. Und: Và (tiếng Đức).


      90. Was: Cái gì (tiếng Đức).


      91. Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).


      92. Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).


      93. Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).


      94. Dustbuster: Tên loại máy bút hụi cầm tay.


      95. Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis Stevenson. về rối loạn đa nhân cách của con người.


      96. Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật giết cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta. Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất trong giai đoạn trẻ từ ba đến năm tuổi. Đứa trẻ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.


      97. Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.


      98. Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý người nào chỉ điểm.


      99. Pony Express: kháy, dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ, dùng ngựa Pony để vận chuyển.


      100. SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.


      101. Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, bộ phim kinh dị.


      102. MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.


      103. AFIS: Xem phần phụ lục.


      104. Dick: Dương vật.


      105. Señor Ortega: Ngài Ortega.


      106. 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như động từ.


      107. COC: Xem phần phụ lục.


      108. DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.


      109. New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New York.


      110. ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.


      111. SEM: Xem phần phụ lục.


      112. Smithsonian: Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện nghiên cứu và bảo tàng.


      113. Tốc độ tám mươi: Hơn trăm năm mươi km giờ.


      114. Prozac: loại thuốc giảm đau.


      115. Imipramine: loại thuốc an thần.


      116. Robert Mario De Niro, Jr.: Nam diễn viên hai lần giành được giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất phim. Ông được coi là trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.


      117. Tovex: loại chất nổ dạng gel nước.


      118. Mr. Potato Head: loại đồ chơi của Mỹ gồm mô hình củ khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác nhau như tai, mắt để tạo ra khuôn mặt. Đồ chơi này được George Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.


      119. Upper East Side: khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm ở sông Đông.


      120. Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, địa danh ở New York.


      121. Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.


      122. C4: Đốt sống C4.


      123. Clara Barton (1821 – 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo, người sáng lập Hội Chữ thập đỏ Mỹ.


      124. ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình Quốc tế, tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và diệt chủng.


      125. Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.


      126. BMW: thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.


      127. Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.


      128. Levi Stabbs (tên là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, ca sĩ người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four Tops nổi tiếng của Motown.


      129. Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop, jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc đại và nhạc trình diễn.


      130. Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.


      131. Lột da – Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng khác nghĩa, cách chơi chữ.


      132. Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.


      133. Austen: (1775 – 1817): Tiểu thuyết gia người . Xã luận và cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai làm cho Austen trở thành trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học .


      134. Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 – 1945), tác giả người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì gai góc, mạnh bạo.


      135. Rottweiler: giống chó lớn có nguồn gốc từ Đức.


      136. Doberman: giống chó địa phương (Mỹ).


      137. Brokaw (Thomas John Brokaw – sinh năm 1940 tại Webster, South Dakota): Phóng viên truyền hình nổi tiếng người Mỹ. Trước đó làm các bộ phim tài liệu tin tức được chiếu thường xuyên cho mạng truyền hình NBC, cựu phát thanh viên của NBC News, tổng biên tập chương trình NBC Nightly News with Tom Brokaw.


      138. Bob Evans: công ty dịch vụ, xử lý và bán lẻ thực phẩm có trụ sở chính tại Columbus, Ohio. Công ty điều hành hai chuỗi nhà hàng ăn tối ở Mỹ, gồm có Bob Evans Restaurants và Mimi.


      139. Bryan Gumbel (Bryan Charles Gumbel): nhân vật truyền hình Mỹ cho các chương trình tin tức và thể thao. Ông ta nổi tiếng với mười lăm năm làm việc như người đồng dẫn chương trình The Today Show của đài NBC.


      140. Kevorkian (Jack Kevorkian): Ông được ghi nhận là người công khai tuyên truyền cho quyền được chết của bệnh nhân thập tử nhất sinh thông qua cái chết nhàng, ông tuyên bố hỗ trợ ít nhất trăm ba mươi bệnh nhân làm việc này. Câu nổi tiếng của ông là: “Chết phải là phạm tội.”


      141. Matlock: Chương trình truyền hình pháp luật của đài ABC, Mỹ.


      142. Thợ may: Tailor, đọc như Taylor, có nghĩa là thợ may.


      143. Samuel Osborne Barber (1910 – 1981): Nhà soạn nhạc opera, nhạc cho piano và nhạc giao hưởng người Mỹ.


      144. George Gershwin (1898 – 1937): Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Mỹ.


      145. Balducci’s: trong những công ty thực phẩm đặc biệt lớn nhất ở Mỹ với mười cửa hàng thực phẩm, bốn nhà hàng và có di sản từ năm 1916.


      146. Courvoisier: loại rượu nhắc.


      147. Wisconsin: bang nằm gần trung tâm lục địa Bắc Mỹ.

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :