KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI CHÍN



      Bốn mươi phút sau, Sachs được xoa thuốc, băng bó, khâu và thở nhiều oxy nguyên chất đến mức có cảm giác mình say thuốc. ngồi bên cạnh Carole Ganz. Họ nhìn những gì còn lại của nhà thờ. Thực ra chẳng còn lại gì ở đó. Chỉ là hai bức tường, lạ kỳ là phần của tầng ba, vươn lên gian phía bên đống tro tàn và mảnh vỡ trong tầng hầm, quang cảnh giống như mặt trăng.

      “Pammy, Pammy…” Carole rên rỉ, sau đó nôn khan rồi nhổ. ta cầm chiếc mặt nạ oxy của mình đưa lên mặt, ngửa người ra sau, mệt mỏi và đau đớn.

      Sachs xem xét miếng giẻ tẩm cồn mà lau máu mặt. Đầu tiên chúng có màu nâu còn bây giờ bắt đầu chuyển sang màu hồng. Những vết thương thực nghiêm trọng – vết cắt trán, những vết bỏng độ hai cánh tay và cẳng tay. Môi còn hoàn mỹ nữa, môi dưới bị cắt rất sâu trong vụ đâm xe, vết rách phải khâu ba mũi.

      Carole bị ngạt khói và gãy cổ tay. cái nẹp tạm thời bọc lấy cổ tay trái của ta, ta nâng nó, đầu cúi xuống, qua hàm răng nghiến chặt. Mỗi hơi thở là tiếng khò khè đầy đe dọa. “Thằng khốn ấy.” Ho. “Vì sao… lại là Pammy? Vì sao vậy? đứa trẻ ba tuổi!” ta gạt những giọt nước mắt giận dữ bằng mu bàn tay bị thương.

      `“Có thể ta muốn làm hại con bé. Cho nên chỉ đưa mình đến nhà thờ.”

      ”, ta giận dữ quát. “ quan tâm đến nó. là đồ bệnh hoạn! Tôi nhìn thấy cách ta nhìn con bé. Tôi giết . Tôi giết chết .” Ngôn từ ác nghiệt biến cơn ho thành ác nghiệt hơn.

      Sachs nhăn mặt vì đau. lại vô thức chọc móng tay vào đầu ngón tay bỏng rát. lấy cuốn nhật ký tuần tra. “Chị có thể kể lại cho tôi những gì xảy ra, được ?”

      Giữa những cơn ho sâu trong họng và tiếng nức nở, Carole kể lại cho câu chuyện về vụ bắt cóc.

      “Chị có muốn tôi gọi điện cho ai đó ?” Sachs hỏi. “Chồng chị chẳng hạn.”

      Carole trả lời. ta kéo đầu gối lên tới cằm, tự ôm lấy mình, khò khè cách nặng nhọc.

      Bằng cánh tay phải bị bỏng, Sachs bóp chặt bắp tay người phụ nữ và nhắc lại câu hỏi.

      “Chồng tôi…”, ta nhìn Sachs với cái nhìn khủng khiếp. “Chồng tôi chết rồi.”

      “Ồ, tôi xin lỗi.”

      Thuốc an thần làm Carole cảm thấy lảo đảo, nữ nhân viên y tế đưa vào nghỉ trong xe cứu thương.

      Sachs nhìn lên, thấy Lon Sellitto và Jerry Banks chạy lại phía từ nhà thờ cháy trụi.

      “Lạy chúa, sĩ quan.” Sellitto khảo sát cảnh thương vong phố. “Bé sao rồi?”

      Sachs gật đầu: “ ta vẫn giữ con bé.”

      Banks : “ ổn chứ?”

      có gì nghiêm trọng.” Sachs nhìn về phía chiếc xe cấp cứu. “Nạn nhân, Carole, ta còn tiền, có chỗ nghỉ ngơi. ta đến đây để làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Tôi nghĩ có thể gọi vài cú điện thoại, được thám tử? Để xem họ có bố trí được gì cho ta thời gian ?”

      “Tất nhiên rồi”, Sellitto .

      “Có để lại manh mối gì ?” Banks hỏi. ta nhăn mặt khi chạm phải dải băng lông mày phải của mình.

      “Mất rồi”, Sachs . “Tôi có nhìn thấy chúng. Ở dưới tầng hầm. lấy được chúng đúng lúc. Cháy và bị lấp mất tiêu rồi.”

      “Ôi, trời.” Banks lẩm bẩm. “Chuyện gì xảy ra với đứa bé đây?”

      ta nghĩ chuyện gì xảy ra với đứa bé?

      lại chỗ chiếc xe thùng IRD và tìm thấy cái tai nghe. đeo nó vào và định cầu gọi cho Rhyme nhưng sau đó chần chừ rồi ngắt mic. có thể gì với được? nhìn nhà thờ. Khám nghiệm trường thế nào được khi trường.

      đứng chống nạnh, nhìn chăm chăm vào đống tro tàn khổng lồ ỉ của tòa nhà, rồi nghe thấy thanh mà quen. thanh rền rĩ của máy móc. để ý thấy nó cho tới khi thấy Lon Sellitton dừng phủi bụi chiếc áo sơ mi. ta : “Tôi thể tin chuyện này.”

      quay về phía con phố.

      chiếc xe hòm lớn màu đen đỗ cách đó dãy nhà. chiếc cầu thủy lực chìa ra ngoài, bên có thứ gì đó. liếc nhìn. Có vẻ như con rô bốt phá bom. Cái cầu hạ xuống vỉa hè và con rô bốt lăn bánh.

      cười lớn.

      Chiếc máy kỳ quặc quay về phía họ và bắt đầu chuyển động. Chiếc xe lăn làm nhớ tới chiếc Pontiac Thunderbird, màu đỏ kẹo. Đó là kiểu xe lăn chạy điện, bánh sau , ắc quy lớn và động cơ lắp bên dưới.

      Thom bên cạnh nhưng chính Lincoln Rhyme lái xe – hoàn toàn kiểm soát, châm biếm nhận thấy – bằng cọng rơm ngậm trong miệng. Kỳ lạ là chuyển động của trông lại trang nhã. Rhyme ghé vào chỗ và dừng lại.

      “Được rồi, dối”, bất ngờ .

      thở dài. “Về cái lưng của ? Khi dùng được xe lăn?”

      thú nhận mình dối. Em điên lên đấy, Amelia. Thế cứ điên lên rồi vượt qua nó.”

      có nhận ra là, khi tâm trạng tốt gọi em là Sachs, còn lúc nào tâm trạng tệ hại gọi em là Amelia ?”

      “Tâm trạng tệ”, cáu kỉnh.

      đúng là rất tệ đấy”, Thom đồng ý. “ ta rất ghét bị bắt quả tang.” Người trợ lý hất đầu về phía chiếc xe lăn. nhìn về phía đó. Nó được công ty Action chế tạo, hiệu Storm Arrow(130). ta cất nó trong kho dưới nhà trong khi lại kể ra câu chuyện thảm hại của mình. Ồ, vì thế tôi để ta chịu đựng.”

      bình luận, Thom, cảm ơn cậu. Tôi xin lỗi, được chưa?Tôi. Xin. Lỗi.”

      ta có nó mấy năm rồi”, Thom tiếp tục. “Học điều khiển nó bằng cách thổi với hút. Điều khiển bằng cọng rơm đó. ta thực rất giỏi chuyện này. Và ta lúc nào cũng gọi tôi là Thom. Tôi chưa bao giờđược goi bằng họ.”

      “Tôi rất mệt khi bị nhìn ngó”, Rhyme cách thành thực. “Vì thế tôi lái xe nữa.” Sau đó nhìn cánh môi rách của , hỏi. “Có đau ?”

      chạm tay vào miệng, lúc này nó bị bẻ cong thành nét nhăn nhó. “Nhức kinh khủng.”

      Rhyme nhìn sang bên: “Chuyện gì xảy ra với cậu thế, Banks? Cạo râu trán à?”

      “Đâm đầu vào xe cứu hỏa.” chàng và lại sờ vào chỗ dải băng.

      “Rhyme”, Sachs bắt đầu, cười nữa. “Chẳng có gì ở đây cả. ta có đứa bé còn em kịp lấy được vật chứng để lại”

      “À, Sachs, bao giờ cũng có thứ gì đó. Hãy tin vào lý thuyết củangài Locard.”

      “Em nhìn thấy chúng cháy hết, manh mối ấy. Và nếu còn lại gì đó nó cũng bị chôn dưới hàng tấn mảnh vỡ rồi.”

      “Thế ta tìm kiếm những manh mối mà định để lại. Ta cùng khám nghiệm trường, Sachs ạ. Em và . thôi.”

      thổi hai hơi ngắn vào cọng rơm và tiến lên phía trước. Họ tiến tới gần nhà thờ thêm ba mét bất ngờ . “Đợi .”

      phanh lại.

      bắt đầu lơ đễnh rồi đấy, Rhyme. Buộc ít dây cao su vào bánh xe chứ. muốn nhầm dấu vết của với dấu vết của tội phạm đấy chứ?”

      “Chúng ta nên bắt đầu từ đâu?”

      “Ta cần mẫu tro”, Rhyme . “Có mấy hộp sơn sạch ở sau xe. Xem em có tìm được hộp ?”

      nhặt cái hộp từ chỗ xác chiếc RRV.

      “Em biết lửa phát ra từ đâu ?” Rhyme hỏi.

      “Cũng biết.”

      “Lấy mẫu tro – khoảng , hai hộp – càng gần chỗ phát lửa càng tốt.”

      “Được rồi”, , trèo lên bức tường gạch cao năm feet – tất cả những gì còn lại ở mặt phía bắc của nhà thờ. nhìn xuống cái hố bốc khói dưới chân mình.

      nhân viên cứu hỏa gọi: “Này sĩ quan, chúng tôi vẫn chưa dọn sạch khu này đâu. Nguy hiểm đấy.”

      nguy hiểm như lần trước tôi đến đây”, trả lời. Răng cắn quai hộp sơn, bắt đầu trèo xuống.

      Khi Lincoln Rhyme nhìn , như nhìn thấy chính mình, ba năm rưỡi trước, lúc cởi áo vét để trèo xuống công trường xây dựng ở cửa vào của ga tàu điện ngầm gần Tòa Thị chính. “Sachs”, Rhyme gọi. quay lại. “Cẩn thận đấy. nhìn thấy chiếc RRV còn lại những gì. muốn mất em hai lần trong ngày đâu.”

      gật đầu và biến mất qua bờ tường.

      Sau vài phút, Rhyme quát: “ ấy đâu rồi?”

      “Tôi biết.”

      “Ý tôi là cậu xem ấy thế nào, hiểu ?”

      “Ồ, tất nhiên rồi.” Cậu ta ra chỗ bức tường, nhìn qua.

      “Ổn chứ?” Rhyme hỏi.

      “Lung tung lắm.”

      “Tất nhiên là lung tung. Cậu có nhìn thấy ấy ?”

      .”

      “Sachs?” Rhyme la lớn.

      Có tiếng gỗ kẽo kẹt khá lâu, sau đó là tiếng chạm. Bụi bốc lên.

      “Sachs? Amelia?”

      có tiếng trả lời.

      Đúng lúc định gửi nhóm ESU vào tìm họ nghe thấy giọng của . “Tôi lên đây.”

      “Jerry?” Rhyme gọi.

      “Sẵn sàng”, viên thám tử trẻ tuổi trả lời.

      Chiếc hộp bay từ dưới tầng hầm lên. Banks dùng tay bắt nó. Sachs trèo ra khỏi tầng hầm, chùi tay vào quần, nhăn mặt.

      “Ổn chứ?”

      gật đầu.

      “Bây giờ khám nghiệm cái ngõ”, Rhyme ra lệnh. “Chỗ này lúc nào cũng có xe cộ lại nên muốn đỗ xe ở phố khi lôi ta vào trong. Đó là chỗ đỗ xe. Dùng cái cánh cửa ở ngay đây.”

      “Làm sao biết?”

      “Có hai cách để mở những cánh cửa khóa – dùng chất nổ, thế thôi. Khóa và bản lề. Cánh cửa này bị bắt vít bên trong nên tháo ốc bản lề. Thấy , thèm bắt chúng lại đủ chặt khi bỏ .”

      Họ bắt đầu từ cánh cửa và dần ra phía sau khe núi, tòa nhà ỉ bốc khói nằm phía bên phải họ. Di chuyển từng foot , Sachs chiếu đèn PoliLight lên lớp sỏi. “ muốn tìm vết lốp xe”, Rhyme . “ muốn biết xe tải của đỗ ở đâu.”

      “Ở đây”, , kiểm tra mặt đất. “Dấu lốp. Nhưng em biết lốp trước hay lốp sau. có thể lùi xe.”

      “Nó mờ hay ? Vết lốp ấy?”

      “Hơi mờ.”

      “Thế là lốp trước.” cười vẻ mặt hoang mang của Sachs. “Em là chuyên gia về xe cộ, Sachs. Lần sau em thử vào trong xe, khởi động xem thử em có xoay tay lái chút trước khi nhé. Để kiểm tra xem lốp có thẳng hướng hay . Vết lốp trước luôn mờ hơn vết lốp sau. Còn bây giờ, chiếc xe bị mất là chiếc Ford Taurus những năm 1997. Chiều dài của nó là 195,7 inch từ đầu đến đuôi, khoảng cách giữa hai bánh là 108,5 inch. Khoảng cách từ tâm bánh sau đến cốp xe khoảng bốn mươi lăm inch. Đo khoảng cách ấy rồi hút bụi .”

      “Nào Rhyme, sao biết được tất cả những thứ ấy?”

      “Vừa tra cứu sáng nay. Em lấy quần áo nạn nhân chưa?”

      “Rồi. Cả móng tay và tóc nữa. Mà Rhyme này, còn điều này nữa: đứa bé tên là Pammy nhưng gọi nó là Maggie. Giống như làm với người Đức – gọi ta là Hanna, nhớ ?”

      “Ý em là nhân cách khác của làm như thế”, Rhyme . “ băn khoăn biết ai là nhân vật trong vở kịch của .”

      “Em hút bụi quanh cửa nữa”, tuyên bố. Rhyme nhìn – mặt bị rạch, tóc rối bù, vài chỗ bị cháy sém. hút bụi phía dưới cửa và đúng lúc định nhắc trường vụ án có ba chiều khua máy hút bụi lên lần theo khung cửa.

      “Có thể nhìn vào trong trước khi đưa ta vào”, và bắt đầu hút bụi cả bậu cửa sổ.

      Đó chính là mệnh lệnh tiếp theo của Rhyme.

      lắng nghe tiếng động của máy hút bụi Dustbuster. Nhưng dần dần tan biến. Vào quá khứ, mấy giờ trước.

      “Em …”, Sachs bắt đầu.

      “Suỵt…”, .

      Như những lần dạo , như những buổi hòa nhạc dự, như rất nhiều cuộc trao đổi có, Rhyme trượt sâu dần vào tâm thức của mình. Và khi tới nơi – cũng biết đó là nơi nào – thấy chỉ có mình . hình dung ra người đàn ông thấp bé đeo găng tay, mặc bộ quần áo thể thao tối màu, đeo mặt nạ trượt tuyết. Trèo ra ngoài chiếc xe Ford Taurus, tỏa mùi chất tẩy rửa và mùi xe mới. Người phụ nữ – Carole Ganz – nằm trong cốp xe, đứa con của bị giữ trong tòa nhà xây bằng đá cẩm thạch hồng và gạch đắt tiền. nhìn thấy người đàn ông kéo người phụ nữ ra khỏi xe.

      Điều đó ràng. Gần như là ký ức.

      Bật bản lề, mở cửa ra, kéo ta vào, trói lại. bắt đầu ra nhưng rồi dừng lại. đến nơi mà từ đó có thể nhìn lại và thấy Carole. Giống như nhìn xuống người đàn ông mà chôn cạnh đường ray buổi sáng hôm qua.

      Giống như xích Tammie Jean Colfax vào đường ống giữa phòng. Để có thể nhìn .

      Nhưng mà vì sao? Rhyme băn khoăn. Vì sao ta lại nhìn? Để đảm bảo nạn nhân thể trốn chạy? Để đảm bảo để lại thứ gì? Để…

      Mắt bật mở; hình ảnh của thủ phạm 823 biến mất. “Sachs! Có nhớ trường Coltfax ? Chỗ em tìm thấy dấu găng tay?”

      “Có chứ.”

      “Em nhìn ta, đó là lý do xích ta ở chỗ thoáng. Nhưng em biết tại sao. Được rồi, nghĩ ra. nhìn nạn nhân vì phải nhìn.”

      Vì đấy là bản chất của .

      “Ý là gì?”

      “Nào!”

      Rhyme hút mạnh ống hút hai lần để xoay chiếc xe lăn Arrow ngược lại. Sau đó thổi mạnh và tiến lên phía trước.

      lăn xe đến vỉa hè, hút mạnh để dừng xe. liếc mắt nhìn xung quanh. “ muốn nhìn nạn nhân, cá là cũng muốn nhìn giáo dân nữa. Từ chỗ nào đó mà nghĩ là an toàn. Chỗ mà buồn quét trước khi bỏ .”

      nhìn qua phố, tập trung vào vị trí hẻo lánh, thuận lợi trong khu nhà: hàng hiên ngoài đường của nhà hàng đối diện nhà thờ.

      “Đằng kia! Quét nó sạch vào, Sachs.”

      gật đầu, nạp băng đạn mới vào khẩu Glock, lấy chiếc túi đựng vật chứng, cặp bút chì và cái máy hút bụi. nhìn thấy chạy qua phố và thận trọng lên cầu thang, vừa vừa kiểm tra các bậc thang. ở đây, to. “Có vết găng tay, và cả dấu giày – nó bị mòn giống như cái dấu giày kia.”

      Đúng rồi! Rhyme nghĩ. Ồ, cảm giác dễ chịu. Mặt trời ấm áp, khí, những người xem. Và phấn khích của cuộc săn đuổi

      Khi ta di chuyển, chúng thể bắt được ta.

      Được rồi, nếu chúng ta di chuyển nhanh hơn, chúng ta có thể.

      Rhyme tình cờ nhìn vào đám đông và thấy có mấy người nhìn chằm chằm. Nhưng còn nhiều người nhìn Amelia Sachs hơn.

      mải mê khoảng mười lăm phút tại trường và khi quay lại giơ chiếc túi đựng vật chứng.

      “Em tìm thấy gì thế, Sachs? Giấy phép lái xe của ? Giấy khai sinh?”

      “Vàng”, mỉm cười . “Em tìm được ít vàng.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI




      “Nào mọi người”, Rhyme . “Ta phải xử lý vụ này thôi. Trước khi đưa đứa bé đến trường tiếp theo. Ý tôi là di chuyển!”


      Thom chuyển Rhyme từ xe lăn lên giường, nhanh chóng nhấc lên tấm bảng trượt rồi thả xuống chiếc giường Clinitron. Sachs nhìn vào chiếc thang nâng cái xe lăn được gắn vào trong những cái tủ trong phòng ngủ – đó là cái tủ muốn mở ra khi chỉ cho bộ dàn và đĩa CD.


      Rhyme nằm yên lúc, thở sâu vì quá nỗ lực.


      “Manh mối bị mất”, nhắc lại với họ. “Chẳng có cách nào giúp ta biết được trường tiếp theo ở đâu. Vậy chúng ta đánh quả – hang ổ của .”


      “Cậu nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó ư?” Sellitto hỏi.


      Ta có lựa chọn nào khác nhỉ? Rhyme nghĩ nhưng gì.


      Banks vội vàng lên cầu thang. ta vào phòng trước khi Rhyme buột miệng. “Họ gì? tôi nghe. tôi nghe.”


      Rhyme biết mảnh vàng Sachs tìm được nằm ngoài khả năng của phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Mel Cooper. Do đó, cầu viên thám tử trẻ tuổi chạy nhanh đến phòng thí nghiệm tại văn phòng PERT của FBI để phân tích nó.


      “Nửa tiếng nữa họ gọi cho chúng ta.”


      “Nửa tiếng?” Rhyme lầm bầm. “Họ có ưu tiên cho nó ?”


      “Chắc chắn là họ ưu tiên. Dellray ở đấy. phải gặp ta. ta ra lệnh dừng tất cả các vụ khác lại và nếu báo cáo luyện kim đó được đưa ngay cho họ rắc rối to – biết cách ta thế nào rồi đấy.”


      “Rhyme”, Sachs . “ Ganz còn kể chuyện chắc cũng quan trọng. ta để ấy nếu ấy đồng ý cho vụt chân.”


      “Vụt da chân?”


      “Lóc da chân.”


      “À, lột da(131) chân”, Rhyme chữa lại.


      “Ồ. Nhưng chẳng làm gì. ta là có vẻ như cuối cùng cũng thể bắt bản thân cắt vào chân ấy được.”


      “Như ở trường đầu tiên – người đàn ông cạnh đường tàu.” Sellitto khuyến nghị.


      “Hay …”, Rhyme trầm ngâm. “Tôi nghĩ cắt ngón tay nạn nhân để ai dám ăn trộm chiếc nhẫn. Nhưng có thể phải như vậy. Hãy xem hành vi của : Cắt đứt ngón tay người lái taxi và đem nó theo. Cắt tay chân người Đức. Ăn trộm xương và bộ xương rắn. Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay Everett… Có gì đó trong cách nhìn nạn nhân. Cái gì đó mang tính…”


      “Giải phẫu.”


      “Chính xác đấy, Sachs.”


      “Ngoại trừ Ganz”, Sellitto .


      “Quan điểm của tôi là”, Rhyme . “ có thể cắt chân ta mà vẫn giữ ta còn sống cho chúng ta. Nhưng có gì đó ngăn lại. Cái gì vậy?”


      Sellitto : “ ta có gì khác biệt? thể chỉ vì ta là phụ nữ. Hoặc ta là người ngoại tỉnh. Đức cũng vậy.”


      “Có thể muốn làm đau ta trước mặt đứa con ”, Banks .


      ”, Rhyme dứt khoát, “lòng thương phải là thứ có.”


      Sachs bất ngờ : “Nhưng có điều khác biệt – ấy là bà mẹ.”


      Rhyme xem xét điều này. “Cũng có thể. Mẹ và con . đủ sức nặng để thả họ ra. Nhưng đủ để ngăn tra tấn ta. Thom, viết vào nhé. Với dấu hỏi.” hỏi Sachs: “ ta có gì thêm về ngoại hình ?”


      Sachs lật cuốn sổ.


      “Vẫn như trước”, đọc, “mặt nạ trượt tuyết, thân hình bé, găng tay đen, …”


      “Găng tay đen?” Rhyme nhìn lên tờ giấy tường. “ phải màu đỏ à?”


      ấy là màu đen. Em hỏi lại xem ấy có chắc .”


      “Mẩu da khác cũng có màu đen, đúng , Mel? Có thể đóchính là đôi găng tay. Thế miếng da đỏ ở đâu ra?”


      Cooper nhún vai: “Tôi biết nhưng ta tìm thấy , hai miếng. Như vậy đó là thứ gần gũi với .”


      Rhyme nhìn vào những cái túi vật chứng. “Ta còn tìm được gì nữa nhỉ?”


      “Dấu vết ta hút được trong ngõ và bậc cửa.” Sachs đổ túi lọc bụi ra tờ báo và Cooper dùng kính lúp để soi. “Chẳng có gì hết”, ta tuyên bố. “Chủ yếu là đất. ít khoáng chất. Đá phiến diệp thạch mica vùng Manhattan. Chất feldspar(132).”


      Những thứ này có khắp nơi trong thành phố.


      “Tiếp tục .”


      “Lá cây mục. Thế thôi.”


      “Còn quần áo của Ganz sao?”


      Cooper và Sachs mở tờ báo ra và xem xét dấu vết.


      “Chủ yếu là đất”, Cooper . “Vài mẩu trông giống như đá.”


      “Tuyệt!” Rhyme la lớn. với Cooper: “Đốt nó lên . Chỗ đất ấy.”


      Cooper đặt mẩu vào máy GC-MS. Họ nóng lòng chờ đợi kết quả. Cuối cùng màn hình máy tính cũng nhấp nháy. Tấm lưới màn hình gợi nhớ khung cảnh mặt trăng.


      “Được rồi, Lincoln. Thú vị đấy. Tôi đọc thấy có chất tannin và…”


      “Sodium carbonate?”


      “Ngạc nhiên chưa?” Cooper cười. “Sao biết?”


      “Người ta dùng nó trong các xưởng thuộc da thế kỷ XVIII và XIX. Tannic acid xử lý da sống còn kiềm làm cho nó chắc hơn. Như thế là nơi nấp an toàn của ở gần xưởng thuộc da cũ.”


      cười. thể dừng được. nghĩ: Mày có nghe tiếng bước chân , 823? Chúng ta theo sau mày đấy.


      Mắt lướt sang tấm bản đồ Randel Survey. “Vì chúng bốc mùi nên ai muốn có xưởng thuộc da trong khu của họ, do đó ủy ban thành phố hạn chế chúng. Tôi biết vài nơi ở bên Lower East Side. Và ở West Greenwich Village – khi nó thực còn là khu làng, khu ngoại ô thành phố. Sau đó là phía West Side trong những năm 1950 – gần đường hầm ở bãi chăn, nơi ta tìm thấy người Đức. Ồ, cả ở Harlem trong những năm 1900.”


      Rhyme nhìn danh sách những cửa hàng thực phẩm – vị trí những cửa hàng ShopRite có bán chân bê. “Chelsea bị loại. có thuộc da ở đây. Harlem cũng vậy – có cửa hàng ShopRite ở đây. Như vậy còn lại West Village, Lower East Side hay Midtown West Side – lại là Hell’s Kitchen. Có vẻ thích chỗ này.”


      Chỉ khoảng mười dặm vuông, Rhyme đánh giá sơ bộ. Từ ngày đầu tiên làm nhận ra rằng trốn ở Manhattan còn dễ hơn ở North Woods.


      “Tiếp tục . Còn hòn đá trong quần áo của Carole sao?”


      Cooper cúi xuống kính hiển vi. “Được rồi. Có rồi.”


      “Chuyển sang cho tôi , Mel.”


      Màn hình máy tính của Rhyme hoạt động trở lại, ngắm nghía những mảnh đá và tinh thể, trông như những thiên thạch kim cương.


      “Di chuyển nó ”, Rhyme hạ lệnh. Ba vật chất bám dính lấy nhau.


      “Mẩu bên trái là đá cẩm thạch hồng”, Cooper . “Giống như mẫu đá trước đây ta tìm thấy. Ở giữa, thứ màu xám…”


      “Là vữa. Và cái kia là đá cát kết nâu.” Rhyme tuyên bố. “Nó từ ngôi nhà kiểu liên bang, như Tòa Thị chính năm 1812. Chỉ có mặt tiền được lát đá cẩm thạch; phần còn lại là đá cát kết nâu. Họ làm thế để tiết kiệm chi phí. À, họ làm thế để tiền mua đá cẩm thạch có thể tìm được đường vào túi. Còn bây giờ, chúng ta có gì nữa nhỉ? Tàn tro. Thử tìm chất phát hỏa xem.”


      Cooper đưa mẫu tro vào máy GC-MS. ta nhìn chăm chăm vào đường cong xuất màn hình.


      Xăng mới được lọc, có chứa phẩm màu và chất phụ gia của nhà sản xuất, mang tính đặc thù và có thể lần ngược tới nguồn duy nhất nếu các lô xăng khác nhau bị trộn lẫn ở trạm mà tội phạm mua xăng. Cooper xăng tuyệt đối trùng với loại bán ở các trạm bảo dưỡng xe hơi Gas Exchange.


      Banks vớ lấy Những Trang Vàng và mở ra. “Ta có sáu trạm xăng ở Manhattan. Ba trạm trong nội thành. ở Đại lộ Sáu và Houston, ở Delancey, 503 East. ở Đại lộ Mười chín và Tám.”


      “Đại lộ Mười chín quá xa về phía Bắc”, Rhyme . nhìn bảng hồ sơ. “East Side hay West Side. Ở đâu nhỉ?”


      Cửa hàng thực phẩm, xăng…


      thân hình gầy guộc bất ngờ lấp đầy cánh cửa.


      “Tôi vẫn được mời dự tiệc ở đây đấy chứ?” Frederick Dellray hỏi.


      “Còn tùy”, Rhyme đáp lời. “Xem có đem quà đến ?”


      “À, tha hồ mà quà.” Viên đặc vụ , vẫy cái phong bì có trang trí hình tròn quen thuộc của biểu tượng FBI.


      có bao giờ gõ cửa , Dellray?” Sellitto hỏi.


      “Mất thói quen đó rồi, biết đấy.”


      “Vào ”, Rhyme . “ có gì nào?”


      biết chắc lắm. Chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Nhưng mà tôi biết gì nào?”


      Dellray đọc qua báo cáo rồi : “Tony Farco ở PERT, nhân tiện ta gửi lời chào đấy, Lincoln, phân tích mẫu vật chứng mà các cậu tìm thấy. Hóa ra đấy là lá vàng. Có thể khoảng sáu mươi đến tám mươi năm tuổi rồi. ta còn thấy mấy sợi cellulose dính ở đó nên ta nghĩ nó rơi ra từ cuốn sách.”


      “Tất nhiên rồi! Phần mạ vàng đầu trang”, Rhyme .


      ta còn tìm thấy mấy hạt mực đó. ta , tôi trích dẫn nhé: ‘Nó phải nhất quán với loại mực Thư viện Công cộng New York dùng để đóng dấu ở đầu sách’. ta khôi hài, phải ?”


      cuốn sách thư viện”, Rhyme trầm ngâm.


      Amelia Sachs : “ cuốn sách bìa da đỏ của thư viện.”


      Rhyme nhìn chăm chăm. “Đúng rồi!” la lớn. “Đó chính là gốc của những miếng da đỏ. phải găng tay. Đó là cuốn sách mà luôn mang theo. Có thể là Kinh Thánh của .”


      “Kinh Thánh?” Dellray hỏi. “ nghĩ kẻ cuồng tôn giáo hay sao?”


      phải là Kinh Thánh đó, Fred. Banks, gọi lại cho thư viện . Có thể đó chính là cách mài mòn đôi giày của – trong phòng đọc. Tôi biết, đoán thế là quá xa. Nhưng chúng ta có nhiều lựa chọn. Tôi muốn có danh sách tất cả các cuốn sách cổ bị lấy cắp từ các nơi trong phạm vi Manhattan trong năm qua.”


      làm.” Chàng thanh niên xoa xoa vết sẹo cạo râu khi ta gọi đến nhà Thị trưởng, thẳng thừng xin phép ngài liên hệ với giám đốc thư viện công cộng và với ông ta những gì họ cần.


      Nửa tiếng sau, máy fax reo chuông và nhả ra hai trang giấy. Thom kéo giấy ra khỏi máy. “Ôi trời, ngón tay của độc giả thành phố này dính quá”, cậu ta khi đem nó đến cho Rhyme.


      Tám mươi tư cuốn sách có tuổi đời năm mươi năm hoặc lâu hơn biến khỏi các chi nhánh của thư viện công cộng trong vòng mười hai tháng qua, ba mươi lăm cuốn ở Manhattan.


      Rhyme lướt qua danh sách. Dickens, Austen(133), Hemingway, Dreiser(134)… Sách về nhạc, triết học, rượu vang, phê bình văn học, truyện cổ tích. Giá của những cuốn sách này thấp đến mức đáng ngạc nhiên. Hai mươi, ba mươi đô la. nghĩ rằng cuốn nào trong số này là bản in lần thứ nhất, nhưng có lẽ bọn trộm biết điều này.


      tiếp tục lướt qua danh sách.


      có gì. có gì. Có thể là…


      Và rồi nhìn thấy nó.


      Crime in Old New York, tác giả Richard Wille Stephans, do Bountiful Press xuất bản năm 1919. Giá của nó được liệt kê là sáu mươi lăm đô la, và nó bị đánh cắp từ chi nhánh Phố Delancey của Thư viện Công cộng New York chín tháng trước. Nó được mô tả là có kích thước nă nhân bảy inch, được bọc bằng da dê mềm, bìa sau phủ cẩm thạch, gáy mạ vàng.


      “Tôi muốn bản. Tôi quan tâm làm sao mà có được. Cho ai đó đến Thư viện Quốc hội nếu cần.”


      Dellray : “Để tôi lo vụ này.”


      Cửa hàng thực phẩm, xăng, thư viện…


      Rhyme cần quyết định. Có khoảng ba trăm nhân viên tìm kiếm – cảnh sát, quân đội bang và đặc vụ liên bang – nhưng họ bị trải siêu mỏng nếu như họ phải tìm cả West Side và East Side của khu trung tâm New York.


      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé,


      - Quần áo đen,


      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác,


      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?


      - Găng tay tối màu.


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu = Brut,


      - Tóc phải màu nâu,


      - Có vết sẹo sâu ngón trỏ,


      - Quần áo bình thường.


      - Găng tay phai màu. Dây bẩn?


      - Găng tay đen.


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Ở gần:


      B’way & 82nd,


      ShopRite


      B’way & 96th,


      Anderson Foods


      Greenwich & Bank,


      ShopRite


      2nd Ave., 72nd-73nd,


      Grocery World


      Battery Park City,


      J&G’s Emporium


      1709 2nd Ave.,


      Anderson Foods


      34th & Lex.,


      Food Warehouse


      8th Ave. & 24th,


      ShopRite


      Houston & Lafayette,


      ShopRite


      6th Ave. & Houston,


      J&G’s Emporium


      Greenwich & Franklin,


      Grocery World


      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng,


      - Ít nhất trăm năm tuổi, có thể là biệt thự hay cơ quan,


      - Tòa nhà kiểu liên bang, ở Lower East Side.


      - Yellow Cab,


      - Chiếc sedan đời mới,


      - Màu xám nhạt, bạc be,


      - Xe thuê, có thể bị đánh cắp,


      - Hertz, xe Taurus màu bạc, kiểu của năm nay.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32


      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,


      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,


      - Gọi nạn nhân là “Hana”,


      - Biết tiếng Đức cơ bản,


      - Thích những chỗ dưới lòng đất,


      - Đa nhân cách,


      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư,


      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?


      - Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra.


      - Muốn lột da nạn nhân,


      - Gọi nạn nhân là “Maggie”,


      - Người mẹ và đứa con có ý nghĩa đặc biệt với ,


      - Cuốn sách Crime in Old New-York là hình mẫu của .







      nhìn lên bảng hồ sơ.


      Nhà máy ở West Village phải ? Rhyme lặng lẽ hỏi 823. Liệu mày có đánh cắp sách và mua xăng ở East Side để lừa bọn tao ? Hay đó thực là khu của mày? , vấn đề phải là mày thông minh đến đâu, mà là mày nghĩ mày thông minh đến đâu. Mày tự tin về chuyện bọn tao thể tìm những mảnh li ti của mày đến mức nào, những mảnh mà Ngài Locard bảo đảm với bọn tao là mày phải để lại?


      Cuối cùng Rhyme ra lệnh. “ tìm ở Lower East Side. Quên West Village . Đưa tất cả mọi người tới đó. Tất cả lính của Bo, tất cả lính của nữa, Fred. Đây là thứ mà các cần tìm: ngôi nhà lớn kiểu liên bang gần hai trăm năm tuổi, mặt tiền đá cẩm thạch hồng, hai bên và phía sau là đá cát kết nâu. Có thể từng là biệt thự hay tòa nhà công cộng. Có cái ga ra hoặc nhà để xe ngựa bên cạnh. chiếc Taurus sedan hay Yellow Cab qua lại trong vài tuần qua. Thường xuyên hơn vào những ngày gần đây.”


      Rhyme nhìn Sachs.


      Bỏ qua người chết…


      Sellitto và Dellray gọi điện.


      Sachs với Rhyme: “Em cũng .”


      trông chờ điều gì khác.”


      Khi cánh cửa đóng lại phía dưới nhà, thầm. “Chúc may mắn, Sachs. Chúc may mắn.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI MỐT




      Ba chiếc xe tuần tra chậm rãi chạy dọc theo những con phố của Lower East Side. Hai tên cớm trong xe. Ánh mắt tìm kiếm.


      lát sau, hai chiếc xe độc mã đen xuất … ý là hai chiếcsedan. được đánh dấu, nhưng ánh đèn tìm kiếm dưới gương chiếu hậu bên trái để lại chút nghi ngờ nào về việc họ là ai.


      biết họ thu hẹp vùng tìm kiếm, tất nhiên là như vậy, chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ tìm thấy nhà . Nhưng bị sốc khi thấy họ ở gần như vậy. Và đặc biệt khó chịu khi mấy tên cớm ra khỏi xe và kiểm tra chiếc Taurus màu bạc đỗ phố Canal.


      Làm thế quái nào mà chúng tìm được xe ngựa của ? biết rằng ăn trộm xe có rủi ro rất lớn nhưng nghĩ phải mất vài ngày Hertz mới biết đến chiếc xe bị mất cắp. Mà kể cả họ có phát được chắc chắn rằng cớm bao giờ liên kết với kẻ trộm. Chà, họ giỏi đấy chứ.


      trong những tên cớm có ánh mắt độc ác liếc nhìn chiếc xe của .


      Nhìn thẳng về phía trước, Kẻ Tầm Xương chậm rãi rẽ vào Phố Houston, biến mất trong đám đông xe taxi khác. Nửa tiếng sau, bỏ rơi chiếc taxi, chiếc Hertz Taurus, bộ về nhà.


      Maggie bé ngước nhìn .


      Con bé hoảng sợ, nhưng nó khóc nữa. băn khoăn biết có nên giữ con bé hay . Kiếm cho mình đứa con . Nuôi nấng nó. Ý nghĩ này xuất trong đầu chỉ khoảnh khắc rồi biến mất.


      , có quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, còn có điều gì đó ghê rợn trong cái cách con bé nhìn . Trông con bé có vẻ già trước tuổi. Nó luôn nhớ làm những gì. Ồ, nhưng có thể nó nghĩ đó chỉ là giấc mơ. Nhưng rồi ngày nào đó, thực lộ ra. Luôn luôn là vậy. Có giấu thế nào chăng nữa, thực vẫn lộ ra.


      , thể tin con bé nhiều hơn tin bất cứ ai khác. Cuối cùng bất cứ linh hồn tội nghiệp nào cũng có thể làm hại . Mày có thể tin tưởng căm thù. Mày có thể tin tưởng xương cốt. Tất cả những thứ còn lại chỉ là phản bội.


      quỳ xuống cạnh Maggie và bóc miếng băng dính khỏi miệng bé.


      “Mẹ ơi!” Con bé gào khóc. “Cháu muốn mẹ!”


      gì, chỉ đứng đó và nhìn xuống con bé. Nhìn vào hộp sọ mỏng manh của nó. Những cánh tay mỏng manh của nó.


      Nó la hét như còi báo động.


      lấy đôi găng tay. Những ngón tay của lơ lửng đầu con bé trong giây lát. Sau đó vuốt ve mớ tóc mềm mại của nó. (“Có thể lấy được dấu tay da thịt, nếu lấy trong vòng chín mươi phút sau khi tiếp xúc (Xem KROMEKOT) nhưng chưa có ai lấy được và tái tạo lại dấu vân tay từ tóc người.” Lincoln Rhyme, Vật chứng, xuất bản lần thứ tư, New York: Forensic Press, 1994.)


      Kẻ Tầm Xương chậm rãi đứng dậy và leo lên cầu thang, vào phòng khách lớn trong tòa nhà, qua những bức vẽ tường – những người công nhân, những người phụ nữ và trẻ em nhìn chằm chằm. nghiêng đầu lắng nghe tiếng động mờ nhạt phía bên ngoài. Sau đó lớn dần – tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng. vơ vũ khí và vội vã chạy ra phía sau tòa nhà. Mở chốt cánh cửa rồi bất thình lình đẩy nó mở tung, ở tư thế hai tay giương súng.


      đàn chó hoang nhìn . Chúng nhanh chóng quay trở lại với cái thùng rác vừa bị chúng lật đổ. đút súng vào túi và quay lại phòng khách.


      lại thấy mình đứng cạnh ô cửa sổ kính chai, nhìn ra bãi tha ma cũ. Đúng rồi. Đằng kia! Lại có người đàn ông mặc đồ đen đứng trong nghĩa địa. Phía xa, bầu trời bị đâm thủng bởi cây cột buồm của những con thuyền cao tốc và thuyền buồm đậu sông Đông dọc theo bờ Out Ward.


      Kẻ Tầm Xương cảm thấy nỗi buồn nặng trĩu. băn khoăn hiểu có phải vừa xảy ra thảm kịch gì hay . Có thể là đám cháy lớn năm 1776 vừa mới phá hủy hầu hết những tòa nhà ở Broadway. Hay dịch sốt vàng da năm 1795 tàn sát cộng đồng người Ireland. Hay đám cháy du thuyền tướng Slocum năm 1904 vừa giết chết hơn nghìn phụ nữ và trẻ em, tàn phá khu kiều dân Đức ở Lower East Side.


      Hoặc cảm thấy những thảm kịch sắp diễn ra.


      Sau vài phút, tiếng la hét của Maggie lắng xuống, thay vào đó là những thanh của thành phố xưa, tiếng gầm của động cơ hơi nước, tiếng chuông leng keng, tiếng súng nổ, tiếng vó ngựa cộng hưởng những con đường trải sỏi.


      tiếp tục nhìn, quên những tên cớm theo dấu , quên Maggie, chỉ còn nhìn hình ảnh ma quái trôi phố.


      Ngày đó và bây giờ.


      Mắt tập trung ra ngoài cửa sổ lúc lâu, lạc lối vào thời đại khác. Vì thế nhận thấy những con chó hoang, chúng qua cánh cửa hậu để mở tung. Chúng nhìn qua ô cửa phòng khách và chỉ dừng lại thoáng trước khi quay lại và lặng lẽ nhảy ra phía sau ngôi nhà.


      Mũi hếch lên ngửi mùi, tai lắng nghe những tiếng động của nơi chốn xa lạ. Nhất là tiếng khóc lóc yếu ớt vang lên từ đâu đó bên dưới chúng.


      Đó là dấu hiệu của tuyệt vọng, khi mà những Chàng trai Dũng cảm cũng phải tách nhau ra.


      Bedding tìm kiếm khoảng nửa tá khu nhà quanh Delancey, Saul ở xa hơn về phía nam. Sellitto và Banks, ai cũng có khu vực tìm kiếm của mình, cùng với hàng trăm sĩ quan, đặc vụ FBI và quân nhân khác. Họ tìm kiếm từng nhà, hỏi về người đàn ông bé, đứa trẻ kêu khóc, chiếc Taurus màu bạc, tòa nhà kiểu liên bang bị bỏ hoang, mặt tiền là đá cẩm thạch, phần còn lại là đá cát kết nâu.


      Hả? Ý muốn cái gì, kiểu liên bang?... Có nhìn thấy đứa bé à? hỏi tôi có nhìn thấy đứa bé ở Lower East Side ư? Này Jimmy, cậu có nhìn thấy đứa bé nào quanh đây ? Ít nhất là phải trong sáu mươi giây vừa qua?


      Amelia Sachs thả lỏng người. đòi được tham gia nhóm của Sellitto, nhóm đến cửa hàng ShopRite ở Đông Houston, nơi bán chân bê cho thủ phạm 823. Và đến trạm xăng bán xăng cho . Thư viện nơi chôm cuốn Crime in Old New York.


      Nhưng họ tìm thấy manh mối gì ở đây và tản ra như những con sói ngửi thấy quá nhiều mùi. Mỗi con chọn lấy lãnh địa để tự nhận là của mình.


      Sachs khởi động chiếc RRV mới để đến khối nhà khác, cảm thấy bất ổn quen thuộc khi khám nghiệm trường trong mấy ngày qua: quá nhiều chứng cứ, quá nhiều sân phải bao. Cảm thấy vô vọng của nó. Ở đây, những con phố nóng bức, khó chịu, rẽ nhánh thành hàng trăm con phố và ngõ khác, chạy qua hàng nghìn ngôi nhà – tất cả đều cũ – việc tìm kiếm nơi nấp cũng có vẻ bất khả thi như tìm kiếm sợi tóc như Rhyme kể với , bị dính lên trần nhà do sức giật của khẩu ổ quay .38.


      định đến từng con phố, nhưng thời gian trôi và khi nghĩ đến đứa bé bị chôn dưới hầm sắp chết, bắt đầu tìm kiếm nhanh hơn, lao các con phố, nhìn sang hai bên để tìm tòa nhà bằng đá cẩm thạch hồng. hoài nghi làm đau đớn. có bỏ qua tòa nhà nào vì quá vội vàng ? Hay cần lái xe nhanh như chớp và qua nhiều phố hơn?


      Tiếp tục. khối nhà, thêm khối nữa. Vẫn chẳng có gì.


      Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của cho thấy giết tám công dân lương thiện của thành phố. cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của điều chắn chắn là (nếu như những tuyên bố của được coi là thực) xâm hại số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. nạn nhân nào sỉ nhục ; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, vẫn thấy mình có lỗi. Thực , có vẻ hoạt động với ảo tưởng điên rồ rằng, ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.


      Ngón tay trái của Lincoln Rhyme động và chiếc khung lật trang giấy màu vỏ hành của cuốn Crime in Old New York, cuốn sách được hai nhân viên liên bang đem tới mười phút trước, dịch vụ này được cung cấp nhờ phong cách thể bắt chước của Fred Dellray.


      “Thịt da tan biến và cơ thể yếu đuối – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô thiển nhưng đều đẮ) – xương cốt là phần mạnh nhất của cơ thể. Có thể thịt da chúng ta già cỗi, nhưng xương cốt chúng ta luôn tươi trẻ. Đó là mục đích cao quý của tôi, nó vượt qua tôi và làm sao mà ai đó lại có thể tranh luận về nó được. Tôi ban ơn cho họ. Tất cả bọn họ giờ bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi chiếm hữu họ đến tận xương.”


      Terry Dobyns đúng. Chương Mười: “James Schneider: Kẻ Tầm Xương”, là bản thiết kế cho hành vi của Đối tượng 823. MO giống hệt nhau – lửa, động vật, nước, luộc sống. 823 lảng vảng ở những nơi Schneider đến. nhầm khách du lịch người Đức với Hanna Goldschmidt, người nhập cư đầu thế kỷ, và bị lôi kéo đến khu dân cư người Đức để tìm kiếm nạn nhân. Và gọi Pammy Ganz bé bằng cái tên khác – Maggie. ràng nghĩ rằng bé là O’Connor, trong những nạn nhân của Schneider.


      Trong cuốn sách có bức tranh khắc acid rất tệ, được bọc bằng giấy, minh họa James Schneider ma quái ngồi trong tầng hầm, ngắm nghía cái xương chân.


      Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ Randel Survey của thành phố.


      Xương cốt…


      Rhyme nhớ lại trường vụ án mà lần khám nghiệm. được gọi đến công trường xây dựng ở Lower Manhattan, nơi máy xúc phát lộ ra cái sọ người nằm cách mặt đất vài feet trong khu đất trống. Ngay lập tức Rhyme thấy rằng cái sọ rất cũ và mời nhà pháp y nhân chủng học tham gia vào vụ này. Họ tiếp tục đào và phát thêm số xương và sọ người nữa.


      nghiên cứu cho thấy năm 1741 có cuộc nổi loạn của nô lệ ở Manhattan, số nô lệ – và những người da trắng theo chủ nghĩa bãi nô – bị treo cổ hòn đảo ở Collect. Hòn đảo này trở thành pháp trường treo cổ. vài nghĩa địa chính thức và mỏ đất sét được tìm thấy trong khu vực.


      Collect là ở chỗ nào nhỉ? Rhyme cố nhớ lại. Gần nơi giao nhau giữa Chinatown và Lower East Side. Nhưng khó được chắc chắn vì cái ao bị lấp rất lâu rồi. Nó là…


      Đúng rồi! nghĩ, tim đập mạnh. Collect bị lấp vì nó ô nhiễm tới mức ủy ban thành phố coi nó là nguy cơ lớn đối với sức khỏe. số nơi gây ô nhiễm chính là những xưởng thuộc da phía Đông.


      khá thuần thục với bộ quay số, Rhyme quay nhầm số nào và chỉ cần lần gọi được cho Thị trưởng. Tuy nhiên, người thư ký giờ ông ta ăn sáng với Liên Hiệp Quốc. Nhưng khi Rhyme xưng tên, người thư kí . “Xin chờ phút, thưa ngài.” phải chờ lâu đến thế, được chuyện với người đàn ông vừa miệng vừa đầy thức ăn: “ , thám tử. Công việc của các có cái mẹ gì hay ?”


      “5885, nghe .” Amelia Sachs trả lời máy bộ đàm. Rhyme nghe thấy bực dọc trong giọng của .


      “Sachs.”


      hay rồi.” Sachs với . “Chúng ta gặp may.”


      nghĩ tóm được rồi.”


      “Cái gì?”


      “Khối nhà sáu trăm, East Van Brevoort. Gần Chinatown.”


      “Làm sao biết?”


      “Thị trưởng vừa giúp liên lạc với giám đốc Hội Sử học. Ở đó có khu khai quật khảo cổ. nghĩa địa cũ. Đối diện với chỗ trước đây từng là xưởng thuộc da. Ở đó trước đây có mấy ngôi biệt thự kiểu liên bang. nghĩ ở gần đấy.”


      “Em đây.”


      nghe thấy tiếng lốp xe rít lên, sau đó là tiếng còi hụ.


      gọi cho Lon và Haumann”, thêm. “Họ cũng đường tới đó.”


      “Rhyme”, giọng khẩn cấp của vang lên. “Em cứu bé ra.”


      À, em có trái tim nhân hậu của cảnh sát, Amelia, trái tim chuyên nghiệp, Rhyme nghĩ. Nhưng em vẫn chỉ là lính mới. “Sachs?” .


      “Vâng?”


      đọc cuốn sách ấy. 823 chọn kẻ xấu xa làm hình mẫu cho . kẻ thực xấu xa.”


      gì.


      “Điều định là”, tiếp tục, “bất kể bé có ở đó hay , nếu em tìm thấy phản ứng, em phải hạ ngay.”


      “Nhưng ta có thể bắt sống , có thể dẫn ta đến chỗ bé. Ta có thể…”


      , Sachs. Nghe này. Em hạ . Khi có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy lấy vũ khí, bất kỳ thứ gì… em hãy hạ .”


      Tiếng tĩnh điện loạt xoạt. Sau đó nghe thấy giọng bình thản của . “Em ở East Van Brevoort, Rhyme ạ. đúng. Trông giống như chỗ của .”


      Mười tám chiếc xe số, hai xe thùng ESU và chiếc RRV của Sachs tụ tập gần con phố ngắn, hoang vắng ở Lower East Side.


      East Van Brevoort trông như ở Sarajevo. Các tòa nhà bị bỏ hoang, vài tòa nhà bị đốt trụi. Phía đông con phố là bệnh viện đổ nát, mái của nó trũng xuống. Bên cạnh là cái hố lớn mặt đất, có dây chắn, với tấm biển Cấm vào có đóng dấu của Tòa án Quận – khu khai quật khảo cổ mà Rhyme nhắc đến. con chó gầy giơ xương chết nằm trong ống máng, bị chuột gặm.


      Ở giữa bên kia phố là ngôi nhà mặt tiền cẩm thạch, màu hồng nhạt với nhà xe bên cạnh, trông khả dĩ hơn chút so với những ngôi nhà đổ nát dọc Van Brevoort.


      Sellitto, Banks và Haumann đứng cạnh chiếc xe thùng ESU trong khi tá sĩ quan khác mặc áo giáp chống đạn và kiểm tra những khẩu M-16. Sachs cùng họ, hỏi han, nhét mớ tóc vào mũ bảo hiểm và bắt đầu mặc áo giáp.


      Sellitto : “Này Sachs, phải là lính chiến thuật.”


      Kéo dây chiếc áo khóa dán Velcro xuống, nhìn chằm chằm vào viên thám tử, lông mày nhướn cao, cho tới khi ta chịu nhượng bộ: “Được rồi, nhưng ở hàng chặn hậu. Đó là mệnh lệnh.”


      Haumann : “ ở Nhóm Hai.”


      “Vâng, thưa ngài. Tôi chịu được việc này.”


      sĩ quan ESU đưa cho khẩu súng máy MP-5. nghĩ tới Nick – cuộc hẹn hò của họ ở trường bắn tại Rodman’s Neck. Họ tập bắn súng tự động trong hai giờ, bắn theo hình chữ Z qua cửa, nạp đạn nhanh bằng cái kẹp đạn hình quả chuối và tháo súng M-16 để lau sạch cát. Nick thích bắn từng loạt ngắn nhưng Sachs thích hỏa lực hỗn loạn của những thứ vũ khí lớn cho lắm. đề nghị trận đấu giữa chúng với khẩu Glock và thắng ba lần liên tiếp từ khoảng cách mười lăm feet. cười và hôn say đắm khi những vỏ đạn cuối cùng văng ra, nảy nền trường bắn.


      “Tôi dùng súng của mình thôi”, với viên sĩ quan ESU.


      Những Chàng trai Dũng cảm chạy tới, lom khom như thể sợ xạ thủ bắn tỉa.


      “Chúng tôi có tin đây. Chẳng có ai ở đây. Khu này…”


      “Hoàn toàn trống rỗng.”


      “Cửa sổ nhà đều bị chặn. Lối vào phía sau…”


      theo ngõ. Cửa mở.”


      “Mở?” Haumann hỏi, nhìn các sĩ quan của mình.


      Saul khẳng định: “ những khóa mà mở.”


      “Bẫy à?”


      “Chúng tôi nghĩ vậy. Nhưng có nghĩa là…”


      có gì.”


      Sellitto hỏi: “Trong ngõ có cái xe nào ?”


      .”


      “Hai cửa vào. cửa chính đằng trước…”


      “Trông có vẻ đóng chặt. Cửa vào thứ hai là của nhà để xe. Cửa kép, đủ rộng cho hai xe. Dùng khóa xích.”


      “Nhưng đều nằm sàn cả.”


      Haumann gật đầu: “Như vậy có thể vẫn ở trong nhà.”


      “Có thể”, Saul , “ cho ta nghe chúng ta nghĩ chúng ta nghe thấy gì.”


      “Rất . Có thể là tiếng khóc.”


      “Có thể là tiếng la hét.”


      Sachs hỏi: “ bé?”


      “Có thể. Nhưng ngừng. Làm sao mà Rhyme nghĩ ra chỗ này?”


      “Các cậu tôi nghe đầu óc ta làm việc như thế nào?”, Sellitto .


      Haumann gọi chỉ huy của mình lại và ra lệnh. Ngay sau đó, hai chiếc xe thùng của ESU lao tới ngã tư đường và chặn cả hai đầu phố.


      “Nhóm , cửa trước. Lấy mìn phá cửa. Cửa gỗ nên để mìn thấp xuống, được chứ? Nhóm Hai, vào ngõ. Nghe tôi đếm đến ba, chưa? Vô hiệu hóa nhưng có thể bé còn trong đó nên phải nhìn phông trước khi siết cò. Sĩ quan Sachs, chắc là muốn làm việc này chứ?”


      cái gật đầu chắc chắn.


      “Được rồi, các chàng trai, . tóm thôi.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI HAI




      Sachs và năm sĩ quan khác trong Nhóm Hai chạy vào con ngõ nóng như điên bị những chiếc xe của ESU phong tỏa. Những cây cỏ dại mọc lởm chởm ngoi lên khỏi lớp đá cuội và làm nứt nẻ nền móng, tiêu điều hoang vắng làm Sachs nhớ lại ngôi mộ bên cạnh đường ray sáng hôm qua.


      ta hy vọng nạn nhân chết. Vì chính nạn nhân…


      Haumann ra lệnh cho các sĩ quan leo lên nóc những tòa nhà xung quanh, nhìn thấy nòng những khẩu Colt của họ dựng đứng lên như những chiếc ăng ten.


      Cả nhóm dừng lại ở cửa sau. Những người đồng nhìn khi kiểm tra những sợi băng cao su đeo giày. nghe thấy người trong số họ thầm điều gì đó về mê tín.


      Sau đó nghe thấy trong tai nghe.


      “Nhóm trưởng Nhóm ở cửa trước, mìn cài. Chúng tôi sẵn sàng, nghe .”


      “Nghe , nhóm trưởng Nhóm . Nhóm Hai?”


      “Nhóm Hai, vào vị trí. Nghe ?”


      “Nghe , nhóm trưởng Nhóm Hai. Hai nhóm, tấn công nhanh. Nghe tôi đếm đến ba.”


      Kiểm tra vũ khí lần cuối.


      …”


      Lưỡi tôi chạm vào giọt mồ hôi đọng ở vết thương sưng môi .


      “Hai…”


      Được rồi, Rhyme bọn em vào đây.


      “Ba!”


      Tiếng nổ nghe rất dịu, tiếng bốp từ xa, và sau đó các nhóm di chuyển. Nhanh. chạy sau những sĩ quan ESU khi họ luồn vào trong và tản ra, những chiếc đèn pin gắn nòng súng quét ngang dọc với những tia sáng chói lóa như ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Sachs thấy chỉ có mình khi những người còn lại trong nhóm tản ra, kiểm tra tủ, giá quần áo và bóng tối phía sau những bức tượng lố bịch đầy trong căn nhà.


      quay vào góc. khuôn mặt nhợt nhạt lờ mờ ra. con dao…


      Tim đập thình thịch. Tư thế sẵn sàng chiến đấu, súng giương cao. ấn mạnh cò súng trước khi nhận ra rằng mình nhìn vào bức vẽ tường. tên đồ tể ghê rợn mặt tròn, tay cầm dao, tay kia là miếng thịt.


      Người em…


      chọn chỗ tuyệt vời để làm nhà.


      Những sĩ quan ESU lộp cộp lên cầu thang, khám xét tầng và tầng hai.


      Nhưng Sachs lại tìm kiếm thứ khác.


      tìm thấy cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Nó hé mở. Được rồi. Tắt đèn. Phải nhìn qua trước . Nhưng nhớ lại điều Nick từng : bao giờ ngó vào góc ở tầm đầu hay ngực – đó chính là nơi chờ đợi ta. Quỳ xuống. Hít sâu. Nhìn!


      có gì. Đen ngòm.


      Trở lại nơi nấp.


      Lắng nghe…


      Đầu tiên nghe thấy gì. Sau đó chắc chắn có tiếng gãi. Tiếng loảng xoảng. thanh thở gấp gáp hay tiếng khụt khịt.


      ở trong đó và đào lối ra!


      vào mic: “Tôi thấy có động tĩnh dưới tầng hầm. Cần yểm trợ.”


      “Nghe .”


      Nhưng đợi được. nghĩ đứa bé ở dưới đó với . bắt đầu bước xuống cầu thang. Dừng lại và lắng nghe. Sau đó nhận ra mình đứng với nửa thân dưới hoàn toàn có bảo vệ. nhảy xuống sàn nhà, tiếp đất với tư thế lom khom trong bóng tối.


      Thở sâu.


      Còn bây giờ, hành động thôi!


      Cây đèn halogen tay trái xuyên tia sáng chói lòa khắp căn phòng. Nòng súng nhắm vào giữa chiếc đĩa trắng đong đưa từ trái sang phải. Chiếu luồng sáng xuống thấp. cũng có thể lom khom. Nhớ lại điều Nick với : bọn tội phạm biết bay.


      Chẳng có gì. dấu hiệu của .


      “Sĩ quan Sachs?”


      sĩ quan ESU đứng đầu cầu thang.


      “Ôi, ”, lầm bầm khi luồng sáng chạm vào Pammy Ganz, cứng người trong góc tầng hầm.


      “Đừng di chuyển”, với người lính đặc nhiệm.


      Cách bé vài inch là đàn chó hoang gầy gò, hít ngửi mặt, ngón tay, chân của bé. Đôi mắt mở to của bé nhìn hết con chó này sang con chó khác. Khuôn ngực bé của bé phập phồng, nước mắt chan hòa mặt. Miệng bé há ra, cái lưỡi xinh của nó như thể dính chặt vào vành môi bên phải.


      “Cứ ở đó”, với người lính đặc nhiệm. “Đừng làm chúng sợ.”


      Sachs ngắm nhưng bắn. có thể giết chết hai, ba con nhưng những con còn lại có thể hoảng loạn và vồ lấy bé. con thôi cũng có thể bẻ gãy cổ bé chỉ bằng cái lắc đầu.


      có dưới đó ?” Sĩ quan ESU hỏi.


      biết. gọi bác sĩ tới đây. Chỉ đứng ở đầu cầu thang thôi. Đừng ai xuống.”


      .”


      Đầu ruồi súng của trượt từ con chó này sang con khác. Sachs chậm rãi tiến lên phía trước. Từng con , lũ chó cảm nhận được và rời khỏi Pammy. bé con chỉ là chút thức ăn; Sachs là thú săn mồi. Chúng gầm gừ, chân trước run rẩy trong khi chân sau duỗi thẳng, sẵn sàng nhảy lên.


      “Cháu sợ”, Pammy rít lên, thu hút chú ý của lũ chó.


      “Suỵt, cháu ”, Sachs dỗ dành. “Đừng gì cả. Yên lặng nào.”


      “Mẹ. Cháu muốn mẹ cháu!” Tiếng gào khóc của bé làm lũ chó phát khùng. Chúng nhảy nhót tại chỗ, vung vẫy những cái mũi méo mó sang hai bên, gầm gừ.


      “Từ từ, từ từ…”


      Sachs bước sang trái. Lúc này lũ chó đối mặt với , nhìn từ mắt xuống cánh tay duỗi ra và khẩu súng. Chúng tách làm hai bầy. bầy vẫn ở gần Pammy. Bầy kia vòng quanh Sachs, cố tấn công bên sườn .


      luồn vào giữa bé và ba con chó gần nhất.


      Khẩu Glock được nâng lên hạ xuống, con lắc. Những con mắt đen của chúng dán vào khẩu súng đen bóng.


      con chó vàng ghẻ lở gầm gừ và bước sang bên phải Sachs.


      bé con thút thít: “Mẹ ơi…”


      Sachs di chuyển chậm rãi. cúi xuống, kẹp tay vào áo bé và kéo nó ra sau . Con chó vàng tiến lại gần hơn.


      “Xùy…”, Sachs .


      Vẫn tiến lại gần hơn.


      “Cút !”


      Những con chó đằng sau con chó vàng căng thẳng khi nó nhe bộ răng vàng lởm chởm.


      “Cút con mẹ mày !” Sachs gầm lên rồi đập nòng khẩu Glock vào mũi con chó. Con chó chớp mắt vì mất tinh thần, ré lên và chạy lên cầu thang.


      Pammy gào lên khiến những con chó khác phát điên. Chúng bắt đầu đánh nhau, tạo ra cơn lốc xoáy răng và nước bọt. con Rottweiler(135) đầy sẹo ném con chó lai xuống sàn như búi giẻ đầy bụi ngay trước mặt Sachs. giẫm mạnh chân cạnh vật thể gầy còm màu nâu và nó nhổm lên, chạy vụt lên cầu thang. Những con chó khác đuổi theo nó như lũ chó săn đuổi con thỏ.


      Pammy bắt đầu nức nở. Sachs quỳ xuống cạnh bé và dùng cây đèn quét tầng hầm lần nữa. có dấu hiệu gì của tên tội phạm.


      “Ổn rồi, cháu .Chúng ta về nhà ngay thôi. Cháu ổn thôi. Người đàn ông ở đây? Cháu còn nhớ ông ta ?


      bé gật đầu.


      “Ông ta chưa?”


      “Cháu biết. Cháu muốn mẹ.”


      Sachs nghe tiếng những sĩ quan khác báo cáo. Tầng và tầng hai an toàn. “Chiếc xe và chiếc taxi?” Sachs hỏi. “Có dấu hiệu gì ?”


      người lính : “Chúng có đây. Chắc là rồi.”


      ở đó, Amelia. Như thế là phi logic.


      Từ cầu thang sĩ quan gọi: “Tầng hầm an toàn chưa?”


      : “Tôi kiểm tra, chờ chút.”


      “Chúng tôi xuống đây.”


      được”, . “Chúng ta có trường vụ án khá sạch và tôi muốn giữ nó được như thế. Chỉ cần đưa nhân viên y tế xuống đây để kiểm tra bé.”


      nhân viên y tế trẻ, tóc màu cát xuống rồi quỳ xuống cạnh Pammy.


      Chính lúc đó Sachs nhìn thấy dấu vết dẫn tới phía sau tầng hầ – tới cánh cửa sắt thấp sơn đen. tới đó, tránh giẫm lên đường để bảo vệ dấu chân, rồi quỳ xuống. Cánh cửa khép hờ và có vẻ như có đường hầm phía bên kia, tối tăm nhưng hoàn toàn đen kịt, dẫn tới tòa nhà khác.


      đường thoát. Thằng khốn.


      dùng xương nắm tay trái đẩy cánh cửa mở rộng hơn. Nó kêu rên rỉ. ngó vào trong đường hầm. Có ánh sáng mờ mờ cách đó hai mươi, ba mươi feet. có cái bóng chuyển động nào.


      Nếu Sachs nhìn thấy thứ gì trong bóng mờ tối đó là thân hình biến dạng của T.J. đung đưa đường ống màu đen, là cơ thể tròn trịa, yếu ớt của Monelle Gerger lúc con chuột đen trèo lên cổ họng ta.


      “5885 báo cáo Trung tâm”, Sachs vào mic.


      , nghe ”, Haumann trả lời cộc lốc.


      “Tôi thấy đường hầm dẫn tới tòa nhà phía nam tòa nhà của thủ phạm. Cho người bọc lót cửa lớn và cửa sổ .”


      làm, nghe .”


      “Tôi vào”, với ta.


      “Vào đường hầm? Chúng tôi cho người yểm trợ , Sachs.”


      . Tôi muốn trường bị ô nhiễm. Chỉ cần cho người để ý đến bé.”


      lại xem nào.”


      . cần yểm trợ.”


      tắt đèn và bắt đầu bò.


      Tất nhiên trong học viện có khóa học xử lý chuột cống. Nhưng những điều ck với về việc bảo vệ trường thân thiện quay lại với . Giữ súng gần người, chĩa quá xa, vì có thể bị đánh bật ra. Ba bước – à, lê chân – tới trước, dừng lại. Nghe ngóng. Thêm hai bước. Dừng lại. Nghe ngóng. Lần sau bốn bước. Đừng làm điều gì có thể đoán trước được.


      Quỷ , tối quá.


      Nhưng mùi gì thế nhỉ? sởn gai ốc vì kinh tởm khi ngửi thấy thứ mùi nóng nực, kinh khủng.


      Nỗi sợ bị giam cầm bao lấy như đám khói dầu và phải dừng lại lúc, tập trung vào bất kỳ thứ gì ngoài bức tường. Cơn hoảng loạn trôi qua nhưng mùi kinh khủng hơn. nôn khan.


      Yên nào, bé. Yên nào!


      Sachs kiểm soát được phản xạ và tiếp.


      Tiếng gì thế nhỉ? Thứ gì đó như điện. Tiếng rù rì, dâng lên rồi chìm xuống.


      Mười feet nữa là hết đường hầm. Qua ô cửa, có thể nhìn thấy tầng hầm lớn thứ hai. u, mặc dù tối như tầng hầm nhốt Pammy. Ánh sáng lọt vào qua cái cửa sổ nhờn dầu. thấy những hạt bụi bay lượn trong bóng tối.


      , được bé. giữ súng trước mặt quá xa. Chỉ cú đánh ra xong. Kéo nó lại gần mặt. Giữ trọng tâm thấp và lùi ra sau! Tay để ngắm bắn, mông giữ thăng bằng.


      đến được chỗ ô cửa.


      lại nôn khan, cố gắng dập tắt thanh.


      có đợi mình nhỉ?


      Thò đầu ra, nhìn nhanh. Mày có mũ bảo hiểm. Nó chống được mọi thứ trừ đạn bọc kim loại hay Teflon, nhớ rằng chỉ có khẩu .32. Súng nữ.


      Được rồi. Nghĩ . Xem nhìn bên nào trước?


      Cẩm nang tuần tra giúp được gì còn Nick có lời khuyên nào trong lúc này. Tung đồng xu vậy.


      Sang trái.


      thò đầu ra nhanh, nhìn sang trái. Rồi thụt vào đường hầm.


      nhìn thấy gì. bức tường trống, bóng tối.


      Nếu đứng phía bên kia chắc chắn thấy mày và có vị trí nhắm bắn tốt.


      Được rồi, kệ mẹ nó. Cứ thôi. Nhanh lên.


      Khi ta di chuyển…


      Sachs nhảy lên.


      … chúng thể bắt được ta.


      nặng nề rơi xuống sàn, lăn tròn. Xoay người lại.


      hình người trốn trong bóng tối bức tường bên phải, phía dưới cửa sổ. Nhắm mục tiêu, chuẩn bị bắn. Nhưng rồi đông cứng.


      Amelia Sachs thở dốc.


      Ôi, trời ơi…


      thể rời mắt khỏi thân thể người phụ nữ bị dựng đứng vào tường.


      Từ eo trở lên, ta là người gầy gò, tóc màu nâu tối, khuôn mặt gầy hốc hác, ngực , tay xương xẩu. Ruồi bâu kín làn da ta – tiếng vù vù mà Sachs nghe thấy.


      Còn từ eo trở xuống, ta…chẳng có gì. Những chiếc xương hông máu me, xương đùi, xương sống, bàn chân…Toàn bộ thịt bị hòa tan trong bể tắm ghê sợ bên cạnh ta – món thịt hầm kinh khủng, màu nâu đậm, những khúc thịt trôi nổi bên trong. Có thể là dung dịch kiềm hay acid. Khói làm mắt Sachs cay sè, trong khi khủng khiếp – và cơn giận dữ – sôi sục trong tim .


      Tội nghiệp…


      Sachs xua đuổi cách vô nghĩa lũ ruồi túi bụi bay vào mặt kẻ đột nhập mới.


      Cánh tay người phụ nữ thư giãn, bàn tay ngửa lên như thể ta trầm tư. Mắt nhắm. Bộ quần áo chạy thể thao nằm cạnh ta.


      ta phải là nạn nhân duy nhất.


      bộ xương khác – bị lóc sạch thịt – nằm cạnh cái bể chứa tương tự, cũ hơn, còn chất acid kinh khủng nhưng bị bao bọc bởi lớp cặn máu và thịt đen sì. Bộ xương có cẳng tay và cánh tay. Và đằng sau nó là bộ xương khác – nạn nhân này bị chặt , những cái xương bị lóc thịt kỹ lưỡng, rửa sạch và đặt cẩn thận sàn. chồng giấy ráp được xếp cạnh xương sọ. Những đường cong tao nhã của cái đầu bóng loáng lên như chiếc cúp.


      Rồi nghe thấy ở phía sau.


      hơi thở. Mờ nhạt nhưng thể nhầm lẫn. Tiếng khò khè của khí sâu trong họng.


      quay lại, tự giận dữ với bản thân vì bất cẩn của mình.


      Chỉ có tầng hầm trống rỗng nhìn . quét tia sáng sàn nhà bằng đá, vì vậy dấu chân như nhà của 823 bên cạnh.


      hơi thở nữa.


      ở đâu? Ở đâu?


      Sachs khom người xuống thấp hơn, chiếu tia sáng sang bên, lên xuống… có gì cả.


      ở chỗ chết tiệt nào nhỉ? Đường hầm khác? lối thoát ra phố?


      nhìn xuống nền nhà lần nữa và phát thứ mà nghĩ là dấu vết mờ nhạt dẫn vào vùng bóng tối của căn phòng. theo nó.


      Dừng lại. Nghe ngóng.


      Hơi thở?


      Có. .


      quay lại cách ngu ngốc, nhìn lần nữa vào người phụ nữ chết.


      Nào!


      Quay lại nhìn lần nữa.


      dọc nền nhà.


      Chẳng có gì. Làm sao mình nghe thấy nhưng thể nhìn thấy ?


      Bức tường phía trước kín mít. có cửa hay cửa sổ. lùi lại, về phía những bộ xương.


      Từ đâu đó, lời của Rhyme quay lại với . “ trường vụ án có ba chiều.”


      Bất thình lình Sachs nhìn lên, chiếu tia sáng trước mặt . Hàm răng của con chó giống Doberman(136) khổng lồ phản xạ ánh sáng về phía – những miếng thịt màu xám đong đưa. Cách đó khoảng hai feet bờ tường cao. Nó chờ đợi , như con mèo hoang.


      Trong khắc, ai động đậy. Hoàn toàn chết cứng.


      Sau đó Sachs cúi đầu xuống theo bản năng. Trước khi kịp giương súng, nó lao mình vào mặt . Hàm răng của nó cắn vào chiếc mũ. Ngậm chặt sợi dây trong miệng, nó giật điên cuồng, những muốn bẻ cổ khi họ cũng ngã xuống, bên cạnh cái thùng đựng đầy acid. Khẩu súng bay khỏi tay .


      Con chó vẫn giữ chặt mũ bảo hiểm của trong khi chân sau của nó nhảy lên, hai hàm răng thọc sâu vào áo giáp, vào bụng và vào đùi . đấm nó mạnh nhưng nó giống như khúc gỗ trì độn; nó hề cảm thấy cú đánh.


      Thả chiếc mũ bảo hiểm ra, nó lùi lại, sau đó lao vào mặt . đấm tay trái vào mắt nó khi nó ngoạm cánh tay . cảm thấy những chiếc răng kẹp vào da mình, lôi con dao gấp trong túi ra và thọc vào xương sườn con chó. tiếng tru chói tai, nó lăn ra khỏi người và lao thẳng ra cửa.


      Sachs nhặt khẩu súng ngắn và ngay lập tức đuổi theo nó, quờ quạng chạy trong đường hầm. lao ra ngoài để nhìn thấy con thú lao thẳng tới chỗ Pammy và nhân viên y tế, này đứng chết cứng khi nhìn thấy con Doberman lao lên trung.


      Sachs quỳ xuống bắn hai phát. phát trúng đầu con chó, phát thứ hai đập vào bức tường gạch. Con chó ngã vật xuống thành đống thịt run rẩy dưới chân nhân viên y tế.


      “Tiếng súng”, nghe thấy tiếng trong bộ đàm và khoảng nửa tá lính đặc nhiệm lao xuống cầu thang, kéo con chó ra và dàn hàng quanh bé.


      “Được rồi!” Sachs la lớn. “Là tôi đấy.”


      Nhóm đặc nhiệm đứng lên.


      Pammy la hét: “Con chó chết rồi… ấy giết nó.”


      Sachs cất súng và nhấc bé lên hông mình.


      “Mẹ ơi!”


      “Cháu gặp mẹ ngay thôi”, Sachs . “Các gọi cho mẹ cháu ngay.”


      Lên cầu thang, đặt Pammy xuống sàn và quay sang sĩ quan ESU đứng gần đó. “Tôi đánh mất chìa khóa còng rồi. làm ơn tháo cho bé, được chứ? Mở nó ra tờ báo sạch, gói nó vào giấy và cho tất cả vào cái túi nhựa.”


      Viên sĩ quan đảo mắt. “Nghe này người đẹp, tìm lính mới mà ra lệnh.” ta bước ra chỗ khác.


      lính”, Bo Haumann quát, “ làm những gì ấy .”


      “Thưa ngài”, ta chống trả, “tôi là lính đặc nhiệm.”


      “Tin mới đây”, Sachs lầm bầm, “bây giờ là dân khám nghiệm trường.”


      Carol Ganz nằm trong phòng ngủ màu be rất đậm, nhìn lên trần nhà, nghĩ tới thời gian khoảng vài tuần trước khi , Pammy và nhóm bạn ngồi quanh đám lửa trại ở Winsconsin tại nhà của Kate và Eddie, chuyện, kể chuyện, hát.


      Giọng của Kate hay lắm, nhưng Eddie có thể trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. ấy chơi được ghita. ấy hát bài Tapestry của Carole King cho mình nghe và Carole vừa thầm hát vừa khóc. nghĩ, có thể, chỉ là có thể thôi, thực để cái chết của Ron lại phía sau và tiếp tục cuộc sống của mình.


      nhớ tới giọng của Kate đêm đó: “Khi ta giận dữ, cách duy nhất để xứ lý nó là gói nó lại và quẳng . Đưa nó cho ai đấy. Cậu có nghe thấy ? Đừng giữ nó bên trong cậu. Cho nó .”


      Lúc này giận dữ. Điên cuồng.


      đứa trẻ – thứ rác rưởi có suy nghĩ – lấy mất chồng , bắn vào lưng . Còn bây giờ, thằng điên nào đó bắt con . những muốn nổ tung. phải dùng toàn bộ ý chí để cho phép mình némthứ vào tường và tru lên như chó sói.


      nằm giường và thận trọng đặt cổ tay bị gãy của mình lên bụng. uống Demerol, nó giúp giảm đau nhưng thể ngủ được. làm gì ngoài việc ở trong nhà cả ngày, cố gắng liên lạc với Kate và Eddie, chờ tin tức của Pammy.


      cứ hình dung ra Ron, hình dung ra cơn giận của , thực hình dung cho nó vào trong cái hộp, gói ghém cẩn thận, đóng dấu…


      Rồi điện thoại reo vang. nhìn nó lát rồi nhấc máy.


      “Tôi nghe.”


      Carole lắng nghe nữ cảnh sát với là họ tìm thấy Pammy, rằng con bé trong bệnh viện nhưng nó ổn. lát sau, Pammy vào điện thoại và cả hai cùng vừa khóc vừa cười.


      Mười phút sau, đường đến bệnh viện Manhattan, ngồi ở ghế sau chiếc xe cảnh sát màu đen.


      Thực là Carole chạy hết tốc lực theo hành lang dẫn tới phòng Pammy và thấy ngạc nhiên khi bị cảnh sát đứng gác chặn lại. Như vậy là họ vẫn chưa bắt được thằng khốn ấy ư? Nhưng chỉ cần nhìn thấy con mình, quên ta, quên nỗi sợ hãi khi ở trong chiếc taxi và cái tầng hầm ghê rợn. vòng tay ôm đứa con bé bỏng của mình.


      “Ôi, con , mẹ nhớ con! Con ổn chứ? Ổn cả chứ con?”


      ấy, ấy giết con chó…”


      Carole quay lại và nhìn thấy người nữ cảnh sát cao, tóc đỏ đứng gần đó, người cứu ra khỏi tầng hầm của nhà thờ.


      “… nhưng sao vì nó muốn ăn thịt con.”


      Carole ôm lấy Sachs: “Tôi biết phải gì… Tôi chỉ… Cảm ơn . Cảm ơn .”


      “Pammy ổn rồi”, Sachs quả quyết với . “Vài vết xước… có gì nghiêm trọng… và con bé bị ho chút.”


      “Bà Ganz?” thanh niên vào phòng, đem theo vali và chiếc ba lô màu vàng của . “Tôi là thám tử Banks. Chúng tôi có hành lý của bà ở đây.”


      “Ôi, ơn Chúa.”


      “Có bị mất gì ?” ta hỏi .


      nhìn cẩn thận chiếc ba lô. Tất cả các thứ đều ở đó. Tiền, con búp bê của Pammy, gói đất nặn, bồ đồ chơi Mr. Potato Head, đĩa CD, cái đài đồng hồ… chẳng lấy gì cả. Từ từ …” biết , tôi nghĩ là có mất tấm hình. Tôi chắc lắm. Tôi nghĩ tôi có nhiều hơn thế này. Nhưng các thứ quan trọng ở đây cả.”


      Viên thám tử đưa ký vào tờ biên lai.


      bác sĩ nội trú trẻ tuổi vào phòng. ta đùa với Pammy về con gấu Pooh của con bé trong lúc đo huyết áp.


      Carole hỏi ta: “Khi nào chúng ta được?”


      “À, chúng tôi chỉ giữ cháu ở đây vài ngày. Chỉ để đảm bảo rằng….”


      “Vài ngày? Nhưng con bé ổn mà.”


      “Con bé hơi bị viêm phế quản nên tôi muốn theo dõi. Và…”, ta hạ giọng. “Chúng tôi cũng có chuyên gia về chuyện lạm dụng. Chỉ để chắc chắn hơn.”


      “Nhưng ngày mai con bé phải với tôi. Đến những buổi lễ của Liên Hiệp Quốc. Tôi hứa với nó rồi.”


      Người nữ cảnh sát thêm: “Tốt hơn là để con bé được bảo vệ ở đây. Chúng tôi vẫn chưa biết thủ phạm – tên bắt cóc – ở đâu. Chúng tôi cử sĩ quan trông cháu.”


      “Vậy chắc là được. Tôi có thể ở lại với cháu lúc, được ?”


      “Chắc chắn rồi”, bác sĩ nội trú . “Chị có thể ở lại qua đêm. Chúng tôi đem chiếc giường trẻ em đến.”


      Sau đó Carole được ở mình với con . ngồi xuống giường và vòng tay quanh đôi vai hẹp của con bé. chút khó chịu khi nhớ lại , tên điên khùng ấy, chạm vào Pammy như thế nào. Ánh mắt của khi hỏi xem liệu có được lột da hay … Carole sởn gai ốc và bắt đầu khóc.


      Pammy là người đưa trở lại thực tại. “Mẹ ơi, kể chuyện cho con nghe… , , hát bài gì đó cho con nghe. Hát bài hát bạn bè mẹ. Làm ơn mà!”


      Lấy lại bình tĩnh, Carole hỏi: “Con muốn nghe bài đấy à?”


      “Vâng ạ!”


      Carole đặt con bé vào lòng mình, bắt đầu hát bài You’ve got a friend bằng cái giọng khàn khàn. Pammy hát theo từng đoạn.


      Đó là trong những bài hát ưa thích của Ron và mấy năm qua, từ khi mất, thể nghe hết vài đoạn trong bài hát mà ứa nước mắt.


      Ngày hôm nay, và Pammy cùng nhau hát hết bài hát này, khá đúng nhạc, mắt ráo lệ và cười vui.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA MƯƠI BA




      Cuối cùng Amelia Sachs cũng về đến căn hộ của ở Caroll Gardens, Brooklyn.


      Cách nhà cha mẹ đúng sáu khối nhà, nơi mẹ sống. Vừa bước vào trong nhà, bấm nút quay số nhanh chiếc điện thoại trong bếp.


      “Mẹ. Con đây. Con đưa mẹ Plaza ăn bữa trưa. Thứ Tư. Đó là ngày nghỉ của con.”


      “Để làm gì? Để ăn mừng nhiệm vụ mới của con? Phòng Quan hệ Công chúng thế nào? thấy con gọi điện.”


      nụ cười thoáng qua. Sachs nhận ra mẹ hề biết làm gì trong hơn ngày qua.


      “Mẹ có xem thời ạ?”


      “Mẹ à? Mẹ là người hâm mộ bí mật của Brokaw(137) mà, con biết đấy.”


      “Mẹ có nghe về kẻ bắt cóc mấy ngày vừa rồi ?”


      “Ai mà biết… Con định gì với mẹ thế, con ?”


      “Con có tin nội bộ sốt dẻo đây.”


      kể cho người mẹ kinh ngạc của câu chuyện – về việc cứu sống các nạn nhân, về Lincoln Rhyme, và với chút chỉnh sửa, về những trường vụ án.


      “Amie, cha con rất tự hào.”


      “Thế báo ốm thứ Tư mẹ nhé. Plaza. Được chứ?”


      “Quên nó , con . Tiết kiệm tiền chứ. Mẹ có bánh quế và đồ ăn của hiệu Bob Evans(138-) trong tủ lạnh. Con có thể đến đây.”


      đắt lắm đâu mẹ ơi.”


      đắt lắm ư? Cả gia tài đấy.”


      “Thế thế này”, Sachs , cố tỏ ra tự nhiên, “mẹ thích Pink Teacup, đúng ?”


      quán ở West Village bán món trứng và bánh kếp ngon nhất vùng East Cost với giá gần như cho .


      Ngừng lát.


      “Nghe được đấy.”


      Đó là chiến lược mà Sachs sử dụng thành công trong nhiều năm nay.


      “Con phải nghỉ chút, mẹ ạ. Ngày mai con gọi lại.”


      “Con làm việc nhiều quá. Amie, cái vụ này của con… nguy hiểm chứ?”


      “Con chỉ làm bên kỹ thuật thôi mà mẹ. trường vụ án. Chẳng có gì an toàn hơn được.”


      “Họ chỉ định đúng con!” Người mẹ . Sau đó nhắc lại: “Cha con chắc rất tự hào về con.”


      Họ cúp máy và Sachs vào phòng ngủ, thả mình xuống giường.


      Sau khi rời khỏi phòng của Pammy, Sachs đến thăm hai nạn nhân còn sống sót khác của thủ phạm 823. Monelle Gerger, băng bó lốm đốm và được tiếp đầy huyết thanh phòng dại, được ra viện và trở về với gia đình ở Frankfurt “nhưng chỉ đến cuối mùa hè”, ta cứng rắn , “ phải luôn, chị biết đấy”. Và chỉ vào bộ dàn và bộ sưu tập CD trong căn hộ đổ nát ở khu Deutsche Haus để chứng minh rằng có thằng điên nào ở New World có thể xua được ra khỏi thành phố.


      William Everette vẫn còn trong bệnh viện. Ngón tay gãy tất nhiên phải là vấn đề nghiêm trọng nhưng tim ông lại có vấn đề. Sachs ngỡ ngàng khi biết được ông có cửa hiệu ở Hell’s Kitchen nhiều năm trước và nghĩ có thể ông biết cha . “Tôi biết tất cả cảnh sát tuần tra”, ông ta . cho ông ta xem bức hình người đàn ông mặc cảnh phục trong ví . “Tôi nghĩ thế, tôi chắc lắm, nhưng tôi nghĩ thế.”


      Những cuộc gặp gỡ chỉ có tính xã giao nhưng Sachs vẫn đem theo nhật ký tuần tra. Tiếc là cả hai nạn nhân chẳng thể cho biết thêm điều gì về nghi phạm 823.


      Lúc này trong căn hộ của mình, Sachs nhìn ra ngoài cửa sổ. nhìn thấy những cây bạch quả và cây phong rung rinh trong cơn gió mạnh. cởi bỏ bộ cảnh phục, gãi ngực – chỗ lúc nào cũng ngứa như điên vì bị ép chặt dưới lớp áo giáp chống đạn. mặc chiếc áo choàng tắm.


      Thủ phạm 823 nhận được nhiều cảnh báo nhưng chừng đó cũng đủ. Nơi nấp tại Van Brevoort được rửa sạch hoàn toàn. Mặc dù chủ nhà chuyển đến khá lâu – tháng vừa rồi (với giấy chứng minh giả, ai ngạc nhiên về điều này) – 823 để lại tất cả những gì đem đến, kể cả rác rưởi. Sau khi Sachs khám nghiệm trường, Phòng Mật vụ NYPD đến hút bụi tất cả các mặt phẳng có ở đó. Nhưng các báo cáo ban đầu hoàn toàn đáng khích lệ.


      “Có vẻ cả khi cũng đeo găng tay”, Banks báo cáo với .


      đơn vị Cơ động tìm thấy chiếc xe hơi và chiếc taxi. Nghi phạm 823 ranh mãnh đỗ chúng gần Đại lộ D và Phố Chín. Sellitto đoán chỉ cần bảy, tám phút là các băng nhóm địa phương bóc chiếc xe chỉ còn khung. Bất kỳ vật chứng nào có thể còn trong xe lúc này nằm trong khoảng tá cửa hàng phụ tùng quanh thành phố.


      Sachs xoay người quanh bồn tắm và thấy tin mới. Chẳng có gì liên quan tới vụ bắt cóc. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh những buổi lễ khai mạc của hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc.


      nhìn chằm chằm vào Bryan Gumbel(139), nhìn chăm chú Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, các nhà ngoại giao đến từ Trung Đông, chăm chú hơn nhiều so với mức độ quan tâm của . Thậm chí còn đọc cả quảng cáo như là muốn học thuộc chúng.


      Vì có điều mà chắn chắn là muốn nghĩ tới: thỏa thuận của với Lincoln Rhyme.


      Thỏa thuận rất ràng. Lúc này Carole và Pammy an toàn, đến lượt vào cuộc. Cho giờ riêng với bác sĩ Berger.


      Giờ là ông ta, Berger… hề thích vẻ ngoài của ông bác sĩ đó. Ta có thể nhìn thấy cái tôi lớn tướng trong thân hình rắn chắc, khỏe mạnh của ông ta, trong đôi mắt lẩn tránh của ông ta. Mái tóc đen của ông ta được chải cách hoàn hảo. Quần áo đắt tiền. Tại sao Rhyme lại thể tìm được ai đó như Kevorkian(140)? Ông ta có vẻ mưu mô, nhưng ít nhất trông ông ta còn giống người ông thông thái.


      Mí mắt sụp xuống.


      Bỏ qua người chết…


      Thỏa thuận là thỏa thuận. Nhưng mà quỷ tha ma bắt, Rhyme…


      Được rồi, thể để ta ra thử lần cuối. ta tóm được trong phòng ngủ của ta. bối rối. nghĩ ra được lý lẽ nào thực tốt. Thứ Hai. còn có thời gian đến ngày mai để thuyết phục ta làm việc đó. Hoặc ít nhất là đợi thời gian. tháng. Quỷ , ngày.


      có thể gì với ta? viết ra những lý lẽ của mình. Viết bài diễn văn ngắn.


      Mở mắt ra, trèo ra khỏi giường để tìm cây bút và mấy tờ giấy. Mình có thể…


      Sachs cảm thấy ớn lạnh, hơi thở của rít lên trong phổi như gió thổi bên ngoài.


      mặc bộ đồ đen, chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi găng tay đen như dầu.


      Thủ phạm 823 đứng giữa phòng ngủ của .


      Cánh tay theo bản năng vươn tới cái bàn đầu giường – khẩu Glock và con dao. Nhưng sẵn sàng. Chiếc xẻng vung lên nhanh và đập vào cạnh đầu . Ánh sáng vàng bùng lên trong mắt .


      quỳ cả hai chân, hai tay, bàn chân đá vào lồng ngực làm ngã quỵ, và cố vùng vẫy để thở. cảm thấy tay bị còng ra sau, đoạn băng dính dán miệng . Chuyển động nhanh, hiệu quả. lật ngửa ra; chiếc áo choàng tắm mở tung.


      Giận dữ khua chân, gắng sức như điên hòng dứt đứt sợi dây còng.


      cú đánh nữa vào dạ dày. nôn khan nhưng vẫn cảm thấy giơ tay nắm lấy mình. Tóm dưới nách , kéo ra cửa sau và vào khu vườn lớn kín đáo phía sau căn hộ.


      Ánh mắt vẫn mặt , thậm chí buồn nhìn núm vú của , cái bụng phẳng, xương mu với vài sợi lông xoăn màu đỏ của . có thể sẵn sàng cho những thứ đó nếu điều đó có thể cứu được mạng sống của .


      Nhưng , chẩn đoán của Rhyme là đúng. Tình dục phải động cơ của 823. Trong đầu còn có thứ gì khác. ném thân hình mảnh dẻ của xuống bụi hoa và cây lá dày, mặt ngửa lên trời, khuất tầm mắt hàng xóm. nhìn quanh, lấy hơi. nhặt cái xẻng lên và thọc lưỡi xẻng xuống đất.


      Amelia Sachs bắt đầu khóc.


      dụi gáy vào gối.


      Hành vi mang tính bắt buộc, bác sĩ với như vậy sau khi quan sát hành vi này của ý kiến Rhyme cầu hay mong muốn. Rhyme nghĩ việc dụi đầu vào gối của cũng giống như việc Amelia Sachs dùng móng tay bóc thịt ngón tay.


      thả lỏng cơ cổ, xoay xoay đầu trong khi nhìn lên tấm áp phích treo tường. Rhyme tin rằng toàn bộ câu chuyện về điên rồ của người đàn ông đó nằm trước mặt . Trong những dòng chữ viết tay màu đen, mấp mô – và những khoảng trống giữa các từ. Nhưng chưa thể đọc được đoạn kết của câu chuyện. Tạm thời chưa.


      nhìn lần nữa vào những manh mối. Chỉ còn vài thứ vẫn chưa được giải thích.


      Vết sẹo ngón tay.


      Nút buộc.


      Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.


      Vết sẹo đối với họ là vô ích nếu như họ có được nghi phạm để có thể kiểm tra ngón tay. Chẳng có gì may mắn trong việc nhận dạng kiểu nút buộc – chỉ có ý kiến của Banks cho rằng đó phải là nút buộc kiểu hải quân.


      Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu rẻ tiền sao? Giả sử phần lớn thủ phạm xịt nước hoa khi bắt cóc, vì sao lại làm khác? Rhyme chỉ có thể kết luận rằng làm thế để át thứ mùi khác, dễ lộ hơn. điểm qua các khả năng: Thức ăn, rượu, hóa chất, thuốc lá…


      cụp mắt xuống và nhìn sang phải.


      Những điểm đen trong hố mắt xương xẩu của con rắn nhìn về phía chiếc giường Clinitron. Đó là trong những manh mối phù hợp. Nó chẳng có mục tiêu gì, ngoài việc nhạo báng họ.


      Bất chợt có điều gì đó nảy ra trong . Sử dụng cái khung lật trang, chậm rãi lật lại cuốn Tội phạm ở New York xưa. Đến chương về James Schneider. tìm thấy đoạn văn mà vừa nhớ ra.


      bác sĩ thần kinh nổi tiếng (người thực hành môn “tâm lý” được báo chí nhắc đến rất nhiều trong thời gian vừa qua) cho rằng ý định thực của James Schneider phải là hãm hại nạn nhân của . Mà thực – người bác sĩ giàu kinh nghiệm đó cho rằng – tên tội phạm tìm cách báo thù những người mà cho là có hại: sở cảnh sát thành phố và có thể là cả xã hội.


      Ai mà biết được gốc gác thù hận của nằm ở đâu? Có thể giống như dòng sông Nile cổ xưa, ai thế giới biết được nó bắt nguồn từ đâu; có thể chính bản thân cũng hay biết. Tuy vậy, lý do có thể được tìm thấy trong kiện ít người biết đến là, James Schneider khi còn , lúc mới mười tuổi, nhìn thấy cha mình bị cảnh sát lôi , để rồi chết trong nhà tù vì tội cướp giật và sau đó ông ta được chứng minh là vô tội. Sau lần bắt bớ may đó, mẹ cậu bé sống cuộc sống đường phố và bỏ rơi đứa con, đứa bé lớn lên trong bảo trợ của bang.


      Có phải ngẫu nhiên mà tên điên đó gây ra những tội ác này để cười vào mặt chính ngành cảnh sát vô ý làm tan nát gia đình ?


      Chắc chắn chúng ta bao giờ biết được.


      Tuy nhiên, điều có vẻ ràng nhất là, cùng với việc chế nhạo bất lực của những người bảo vệ công dân, James Schneider – “Kẻ Tầm Xương” – ném trả thù lên chính thành phố cũng như những nạn nhân vô tội của .


      Lincoln ngửa đầu lên gối và nhìn lại bản hồ sơ tường.


      Đất nặng hơn tất cả mọi thứ.


      Chính là đất, bụi từ lõi sắt, và nó giết người bằng cách chặn khí vào phổi mà bằng cách nén chặt các tế bào cho tới khi chúng chết vì nỗi hoảng loạn.


      Sachs ước gì chết. cầu nguyện được chết. nhanh. Từ nỗi sợ hãi hay cơn đau tim. Trước khi xẻng đất đầu tiên rơi xuống mặt . cầu xin điều đó, khẩn thiết hơn Lincoln Rhyme cầu xin những viên thuốc và cốc rượu của .


      Nằm trong nấm mồ mà tên tội phạm đào sẵn trong sân sau nhà mình, Sachs cảm nhận được đất màu, dày đặc và đầy giun, dị chuyển dần người .


      từ từ chôn cách tàn bạo, chỉ hất xuống từng xẻng đất , cẩn thận rắc xuống xung quanh . bắt đầu từ chân . Đến bây giờ đến ngực , đất luồn vào trong áo choàng tắm và quanh bầu vú của như những ngón tay của người tình.


      Nặng dần, nặng dần, ép chặt, trói lấy phổi ; mỗi lần thở, chỉ hít vào được chút khí. dừng lại , hai lần để nhìn , rồi lại tiếp tục.


      thích nhìn…


      Tay bị trói ở dưới, cổ căng cứng để giữ cho đầu cao hơn làn sóng triều của đất.


      Thế rồi ngực bị chôn kín hoàn toàn. Vai, rồi cổ họng. Đất lạnh leo lên làn da mặt nóng bỏng, chèn quanh đầu làm thể động đậy. Cuối cùng, cúi xuống và giật miếng băng dính ra khỏi miệng . Sachs định hét lên đổ ít đất vào mặt . sởn gai ốc, ho sặc sụa vì đất đen. Có tiếng rung trong tai, và vì lý do nào đó, nghe thấy bài hát lâu lắm rồi, từ thuở ấu thơ The green leaves of summer, bài hát mà cha bật bật lại máy thu. bài hát buồn bã, ám ảnh. há miệng lần nữa và lại nhận được cốc đầy đất.


      Bỏ qua người chết…


      Rồi bị lấp kín.


      Tuyệt đối yên lặng. có tiếng ho hay tiếng thở hổn hển – đất là chất hàn hoàn hảo. Trong phổi còn khí, thể tạo ra bất kỳ tiếng động nào. Im lặng, trừ giai điệu ma quái của tiếng gầm ngày càng lớn lên trong tai .


      Rồi áp lực mặt biến mất khi cơ thể tê cứng, tê cứng như cơ thể của Lincoln Rhyme. Đầu ngừng hoạt động.


      Bóng tối, bóng tối… lời nào của cha . Chẳng có gì từ Nick… có những ước mơ đổi số từ số năm sang số bốn để đẩy đồng hồ tốc độ lên ba con số.


      Bóng tối.


      Bỏ qua…


      Sức nặng đè lên , đẩy, đẩy xuống. chỉ còn nhìn thấy hình ảnh: cánh tay thò ra từ nấm mộ buổi sáng hôm qua, vẫy vẫy cầu xin may mắn. Khi có chỗ cho may mắn.


      Vậy gọi theo.


      Rhyme, em nhớ .


      Bỏ qua…

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :