KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI BỐN



      Khi Rhyme ngất , Sellitto là người đầu tiên chạy tớ chỗ cái điện thoại.

      “Quay 911 gọi EMS”, Thom ra lệnh. “Sau đó quay số này. Quay số nhanh. Đó là Peter Taylor, chuyên gia cột sống của chúng tôi.”

      Sellitto gọi điện.

      Thom quát: “Tôi cần giúp đỡ. Có ai đó ?”

      Sachs đứng gần nhất. gật đầu, bước lại phía Rhyme. Viên trợ lý ôm dưới nách người đàn ông bất tỉnh nhân và kéo ta nằm cao hơn. ta giật tung chiếc áo sơ mi và ấn tay vào lồng ngực nhợt nhạt, vừa làm vừa . “Những người còn lại, làm ơn ra chỗ khác.”

      Sellitto, Banks và Cooper vẫn ngần ngừ trong giây lát rồi bước ra ngoài. Sellitto đóng cánh cửa phía sau họ.

      chiếc hộp màu be xuất tay viên trợ lý. Bên nó có mấy cái công tắc và núm xoay, sợi dây nối từ đó ra chiếc đĩa phẳng được người trợ lý đặt lên ngực Rhyme và dán xuống.

      “Bộ kích thích thần kinh cơ hoành. Nó giúp ta thở.” bật máy.

      Thom quấn cái vòng đo huyết áp và cánh tay trắng như thạch cao của Rhyme. Sachs nhận thấy ngay từ đầu là cơ thể ta gần như có nếp nhăn. ta khoảng bốn mươi tuổi nhưng cơ thể ta là của thanh niên hai mươi nhăm tuổi.

      “Sao mặt ấy lại đỏ thế? Trông ta giống như sắp nổ tung.”

      “Đúng thế”, Thom nghiêm trọng , lôi bộ dụng cụ bác sĩ từ dưới cái bàn đầu giường. mở nó ra rồi tiếp tục đo huyết áp. “Mất phản xạ... căng thẳng ngày hôm nay. Tinh thần và thể chất. ấy quen với nó.”

      ta suốt là bị mệt.”

      “Tôi biết. Nhưng tôi thường xuyên chú ý. Suỵt. Tôi phải nghe .” ta cắm ống nghe vào tai, thổi căng chiếc vòng đo huyệt áp và từ từ xả khí. Nhìn đồng hồ. Hai cánh tay ta vững như đá. “Tâm trương trăm hai mươi lăm. Mẹ kiếp.”

      Lạy Chúa, Sachs nghĩ. ta bị đột quỵ mất.

      Thom hất đầu về phía cái túi đen. “Chị tìm chai nifedipine. Rồi mở cái ống rò ra.” Trong khi tìm kiếm, Thom tụt chiếc quần pyjama của Rhyme xuống, vơ lấy cái ống thông tiểu cạnh giường, xé luôn cái túi nhựa đựng nó. ta bôi chất K-Y vào đầu rồi nâng cái dương vật nhợt nhạt của Rhyme lên., nhàng nhưng nhanh chóng nhét chiếc ống thông vào trong.

      “Đây là phần của vấn đề. Áp lực trong ruột và bang quang cơ thể gây ra đột quỵ. Hôm nay ấy uống nhiều hơn mức cho phép.”

      mở kim tiêm dưới da ra, nhưng : “Tôi biết tiêm.”

      “Tôi làm.” ta ngẩng lên nhìn . “Tôi muốn nhờ thấy phiền khi làm việc này chứ? Tôi muốn ống bị xoắn.”

      “Được chứ. Chắc chắn rồi.”

      cần găng tay ?”

      găng tay, thận trong nắm lấy dương vật của Rhyme bằng tay trái, tay phải giữ ống. rất, rất lâu rồi mới chạm vào chỗ đó của đàn ông. Da mềm mại và nghĩ lạ lùng khi gần như trung tâm của tồn tại của người đàn ông lúc nào cũng mềm như lụa.

      Thom tiêm thuốc rất thành thục.

      “Nào, Lincoln…”

      Có tiếng còn hụ vẳng lại từ xa.

      “Họ gần đến nơi rồi.” trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.

      “Nếu ta làm ấy tỉnh lại ngay bây giờ họ cũng chẳng giúp được gì.”

      “Phải bao lâu thuốc mới có tác dụng?”

      Thom liếc nhìn Rhyme vô cảm, : “Nó phải có hiệu lực ngay bây giờ. Nhưng nếu liều cao quá ấy có thể bị sốc.” Viên trợ lý cúi xuống và lật mi mắt Rhyme ra. Đồng từ xanh lơ đờ đẫn, tập trung.

      tốt rồi.” ta lại đo huyết áp. “ trăm năm mươi. Chúa ơi.”

      “Nó giết ta mất”, .

      “Ồ. vấn đề gì.”

      “Cái gì?” Amelia Sachs choáng váng thầm.

      ấy quan tâm đến cái chết.” thoáng nhìn như thể vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. “ ấy chỉ muốn bị bại liệt hơn bây giờ.” chuẩn bị mũi tiêm khác. “Có thể ấy bị rồi. Ý tôi cơn đột quỵ. Điều đó làm ấy hoảng sợ.”

      Thom cúi người về phía trước và tiêm thêm liều thuốc nữa.

      Tiếng còi hụ rất gần. Cả tiếng còi xe. Xe hơi có thể chặn đường xe cấp cứu, hề có ý định vội vã tránh đường – đặc thù về thành phố làm cho Sachs giận giữ.

      có thể lấy ống thông ra được rồi.”

      thận trong rút cái ống ra. “Tôi có cần...” hất đầu về phía túi nước tiểu.

      Thom cố nở nụ cười yếu ớt. “Đó là việc của tôi.”

      Vài phút trôi qua. Xe cứu thương có vẻ như động đậy, nhưng rồi đột nhiên giọng vang lên trong loa phóng thanh và tiếng còi hụ lại gần hơn.

      Bất thình lình Rhyme động đậy. Đầu lắc . Sau đó ngẩng lên cúi xuống, dựa vào gối. Tông màu đỏ rực da nhạt bớt.

      “Lincoln, nghe tôi ?”

      rên rỉ: “Thom...”

      Rhyme run rẩy dữ dội. Thom lấy chăn đắp cho .

      Sachs thấy mình vuốt mái tóc rối bời của Rhyme. lấy khăn thấm mồ hôi trán .

      Tiếng bước chân thình thịch cầu thàng và hai nhân viên y tế lực lưỡng của EMS xuất , tiếng bộ đàm khụt khịt. Họ chạy vội vào phòng, đo huyết áp Rhyme và kiểm tra bộ kích thích thần kinh. giây sau, bác sĩ Peter Taylor lao vào phòng.

      “Peter”, Thom . “Là mất phản xạ.”

      “Huyết áp.”

      “Giảm rồi. Nhưng tệ lắm. trăn năm mươi.”

      Ông bác sĩ nhăn mặt.

      Thom giới thiệu Taylor với các nhân viên y tế của EMS. Họ có vẻ chào mừng vì có chuyện gia ở đây và lùi lại khi Taylor đến gần giường.

      “Chào bác sĩ.” Rhyme run rẩy .

      “Hãy kiểm tra mắt nào.” Taylor chiếu đền vào đồng tử Rhyme. Sachs nhìn mặt ông bác sĩ để thăm dò phản ứng và thấy lo lắng vì vẻ mặt nhăn nhó của ông ta.

      cần máy kích thích thần kinh làm gì”, Rhyme thầm .

      “Cậu và lá phổi của cậu, đúng ?” Ông bác sĩ hỏi chế giễu. “Được rồi, cứ để nó đấy lúc, sao lại nhỉ? Chỉ cho tới khi ta biết chắc chuyện gì xảy ra.” Ông ta nhìn Sachs. “Có thể nên đợi dưới nhà.”

      Taylor cúi xuống gần hơn và Rhyme nhận thấy những giọt mồ hôi lấm tấm đầu ông ta, dưới lớp tóc mỏng.

      Ông bác sĩ khéo léo lật mi mắt và nhìn vào đồng tử, sau đó là đồng tử còn lại. Ông ta đo huyết áp cho Rhyme, ánh mắt xa xắm vẻ tập trung cao độ của những bác sĩ trong giây phút quan trọng.

      trở lại bình thường”, ông ta tuyên bố. “Nước tiểu thế nào?”

      “Bảy trăm cc”, Thom .

      Taylor quắc mắt. “Coi thường mọi thứ rồi à? Hay chỉ là uống quá nhiều?”

      Rhyme quắc mắt nhìn lại: “Chúng tôi bị rối trí, thưa bác sĩ. Tối nay tôi bận quá.”

      Taylor nhìn theo hướng đầu của Rhyme và đảo mắt quanh phòng, ngạc nhiên như thể ai đó đưa trộm thiết bị vào khi ông nhìn. “Tất cả những thứ này là gì?”

      “Họ cho tôi nghỉ hưu nữa.”

      Vẻ mặt nhăn nhó của Taylor biến thành nụ cười. “Đúng lúc đấy. Tôi chạy theo cậu vài tháng để bắt cậu phải làm gì đó với cuộc sống của mình. Còn tình hình bụng dạ thế nào?”

      Thom : “Khoảng mười hai, mười bốn giờ.”

      “Cậu vô tâm quá”, Taylor rầy la.

      phải lỗi của cậu ta”, Rhyme càu nhàu. “Cả ngày hôm nay nhà tôi có rất nhiều người.”

      “Tôi muốn nghe thanh minh”, ông bác sĩ quát lại. Đó chính là Peter Taylor, người bao giờ chuyện với Rhyme qua bất kỳ ai và bao giờ cho bệnh nhân bắt nạt ông.

      “Chúng ta cần chăm sóc mọi thứ chút.” Ông đôi găng tay phẫu thuật, cúi xuống thân hình Rhyme. Những ngón tay ông bắt đầu làm việc bụng Rhyme và bắt các cơ quan nội tạng phải làm công việc của mình. Thom nhấc chăn và lấy bỉm dùng lần.

      lát sau, việc xong và Thom vệ sinh cho ông chủ.

      Taylor bất ngờ : “Tôi hy vọng cậu bỏ cái thứ vớ vẩn ấy rồi chứ?” Nghiên cứu Rhyme cách kỹ lưỡng.

      Cái thứ vớ vẩn ấy...

      Ý ông ta là vụ tự tử. Liếc nhìn Thom, Rhyme : “Cũng nghĩ đến nó được lúc.”

      “Tốt.” Taylor nhìn vào các thiết bị bàn. “Đây là việc mà cậu phải làm. Có thể Sở lại trả lương cho cậu đấy.”

      “Tôi nghĩ là tôi có đủ sức khỏe.”

      “Đầu cậu thế nào?”

      “Có thể dùng tá cuốc chim để mô tả nó. Cổ tôi cũng thế. Bị hai lần chuột rút là rất tệ hại trong ngày hôm nay.”

      Taylor ra sau chiếc giường Clinitron, ấn các ngón tay của ông vào hai bên cột sống của Rhyme, chỗ mà – Rhyme nghĩ, mặc dù tất nhiên là chưa bao giờ nhìn thấy chỗ đó – có những vết sẹo ràng từ những cuộc phẫu thuật mà phải chịu đựng trong những năm qua. Taylor thành thục xoa bóp cho Rhyme, ấn sâu vào những sợi cơ căng cứng cổ và vai . Cơn đau từ từ biến mất.

      cảm thấy những ngón tay cái của bác sĩ dừng lại ở chỗ mà đoán là đốt xương sống bị vỡ.

      Còn tàu vũ trụ, con cá đuối...

      ngày nào đó họ chữa được”, Taylor . “ ngày nào đó, nó chẳng tệ hơn là gãy chân. Cậu nghe tôi. Tôi tiên đoán điều đó.”

      Mười lăm phút sau, Peter Taylor xuống cầu thang và góp mặt với những viên cảnh sát đứng vỉa hè.

      ta ổn chứ?” Amelia Sachs lo lắng hỏi.

      “Huyết áp giảm rồi. Chủ yếu là cậu ta cần được nghỉ ngơi.”

      Bác sĩ, người đàn ông trông rất bình thường, chợt nhận ra rằng mình chuyện với phụ nữ tuyệt đẹp. Ông vuốt lại mái tóc muối tiêu mỏng dần và phóng cái nhìn vào thân hình yểu điệu của . Ánh mắt ông chuyển sang những chiếc xe đặc nhiệm đỗ trước nhà và hỏi: “Cậu ta giúp các bạn vụ nào vậy?”

      Sellitto lưỡng lự, như tất cả những thám tử khác trước câu hỏi tương tự của thường dân. Những Sachs đoán Taylor và Rhyme rất gần gũi nên : “Những vụ bắt cóc. Ông có nghe về chúng ?”

      “Vụ tay lái xe taxi? Có tất cả các báo. Thế là tốt cho cậu ấy. Công việc là thứ tốt nhất có thể đến với cậu ấy. Cậu ấy cần bạn bè và cậu ấy cần mục đích.”

      Thom xuất bên cầu thang. “ ấy cám ơn, Peter. Thực ra ấy cám ơn. Nhưng ‎ ý ấy thế. Ông biết ấy mà.”

      “Với tôi thế là được”, Taylor hỏi, giọng ông ta lúc này hạ xuống, đầy toan tính. “Cậu ta còn định chuyện với họ nữa ?”

      Và sau khi Tho ”, có cái gì đó trong giọng điệu ta với Sachs là ta dối. biết điều đó là gì và nó có thể quan trọng đến đâu. Nhưng nó làm khổ sở.

      Định chuyện với họ?

      Nhưng có vẻ như Thom lừa được Taylor. Ông ta : “Ngày mai tôi quay lại, xem cậu ấy thế nào.”

      Thom ta đánh giá cao việc đó và Taylor khoác túi lên vai rồi khỏi.Viên trợ ‎l‎ý‎ ra hiệu cho Sellitto. “ ấy muốn chuyện với lúc.” Viên thám tử nhanh chóng lên cầu thang. ta biến mất vào trong phòng, sau khoảng vài phút ta và Thom cùng ra ngoài. Sellitto lúc này cũng nghiêm trang liếc nhìn . “Đến lượt đấy.” Va hất đầu về phía sau cánh cửa.





      Rhyme nằm cái giường khổng lồ, tóc rối bù, mặt hết đỏ, tay còn trắng bệch. Căn phòng bốc mùi nội tạng khắm khú. giường có vải trải giường mới và được thay quần áo mới. Lần này là bộ Pyjama màu xanh lá như bộ véc của Dellray.

      “Đây là bộ pyjama màu xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy”, . “Vợ cũ của mua đấy à?”

      “Làm thế nào đoán ra? Quà tặng kỷ niệm ngày cưới. Xin lỗi vì làm sợ.” ta , nhìn vào . ta bỗng có vẻ ngại ngùng và điều này làm khó chịu. nghĩ đến cha mình trong phòng tiền phẫu thuật ở viện Sloan-Kettering trước khi họ đưa ông vào cuộc phẫu thuật mang tính thăm dò mà sau đó ông bao giờ tỉnh lại.

      “Xin lỗi?” Câu hỏi của đáng sợ. “Đừng làm trò khỉ ấy nữa, Rhyme.”

      ngắm nhìn khoảng phút rồi : “Hai người ổn thôi.”

      “Hai chúng tôi?”

      và Lon. Tất nhiên là cả Mel nữa. Và Jim Polling.”

      “Ý là gì?”

      “Tôi rút lui.”

      cái gì?”

      “Quá nặng nề đối với hệ thống cũ kỹ. Tôi sợ là như thế.”

      “Nhưng thể rút lui dược.” vẫy tay về phía tấm áp phích Monet. “Hãy nhìn tất cả những thứ mà chúng ta tìm được về 823. Chúng ta gần lắm rồi.”

      “Thề các bạn càng cần đến tôi nữa. Tất cả những gì các bạn cần là chút may mắn.”

      “May mắn? Phải mất mười mấy năm mới tóm được Bandy. Còn tên giết người Zodiac sao? Còn Người Sói?”

      “Chúng ta có thông tin tốt. Thông tin chắc chắn. tìm được những manh mối tốt. tóm được , Sachs. Thiên thần may mắn của cất tiếng trước khi họ đưa sang Phòng Quan Hệ Công chúng. Tôi có cảm giác Đối tượng 823 trở nên tự mãn; thậm chí có thể bị tóm ngay ở nhà thờ.”

      “Trông ổn lắm”, lát sau . Mặc dù trông ta hề ổn t‎‎‎í nào.

      Rhyme cười. Sau đó nụ cười nhạt đần. “Tôi rất mệt. Và đau. Quỷ , tôi nghĩ là tôi thấy đau ở những chỗ mà bác sĩ bảo tôi thể cảm thấy đau.”

      “Làm như tôi . Ngủ lúc.”

      cố tạo ra nụ cười nhạo báng nhưng giọng rất yếu. ghét phải nhìn thấy như thế. ho , nhìn xuống cái máy kích thích thần kinh, nhăn mặt như thể cảm thấy ngượng ngùng vì mình phải phụ thuộc vào máy móc. “Sachs,… tôi nghĩ là chúng ta tiếp tục làm việc cùng nhau. Tôi chỉ muốn rằng trước mắt nghiệp sáng lạng, có những lựa chọn đúng đắn.”

      “Được rồi, tôi quay lại và gặp sau khi đá đít .”

      “Tôi cũng muốn thế. Tôi rất mừng vì hôm qua sĩ quan đầu tiên lại là . Tôi muốn đan lưới cùng ai khác. »

      “Tôi…”

      “Lincoln”, giọng vang lên. quay lại và nhìn thấy người đàn ông đứng ngoài cửa, Ông ta tò mò nhìn quanh phòng, để ‎ ý đến tất cả các loại thiết bị.

      “Ở đây trông có vẻ phấn khích quá nhỉ?”

      “Chào bác sĩ”, Rhyme . Mặt ta tươi lên thành nụ cười. “Làm ơn, vào nhà .”

      “Bác sĩ William Berger, còn đây là Amelia Sachs.”

      Nhưng Sachs có thể thấy còn tồn tại trong vũ trụ của Lincoln Rhyme nữa. Tất cả những gì còn lại cần được – và cảm thấy có điều gì đó, rất nhiều điều – phải đợi. ra cửa. Thom, đứng ở hành lang bên ngoài, đóng cửa sau lưng , và luôn đúng mực, ngừng lại gật đầu để trước ta.

      Khi Sahcs bước vào màn đêm nóng bức, nghe thấy giọng gần đó. “Xin lỗi.”

      quay lại và thấy bác sĩ Peter Taylor đứng mình dưới gốc cây bạch quả. “Tôi chuyện với phút, được ?”

      Sachs theo Taylor lên vỉa hè cách đó mấy nhà.

      “Vâng?” hỏi. Ông ta dựa vào bức tường đá và lại vô thức vuốt tóc. Sachs nhớ lại biết bao nhiêu lần dọa nạt được những người đàn ông chỉ bằng lời hay cái liếc mắt. nghĩ, ‎ ý nghĩ thường xuyên đến với : Quyền lực của sắc đẹp mới vô dụng làm sao.

      là bạn cậu ấy, đúng ?” Ông bác sĩ hỏi . “Ý tôi là làm việc với cậu ấy nhưng cũng là bạn cậu ấy chứ.”

      “Chắc rồi. Tôi đoán thế.”

      “Người đàn ông vừa vào nhà. biết ông ta là ai ?”

      “Tôi nghĩ là Berger. Ông ta là bác sĩ.”

      “Ông ta có ông ta đến từ đâu ?”

      .”

      Taylor ngẩng nhìn cửa số phòng ngủ của Rhyme trong khắc. Ông hỏi: “ có biết Hội Bến mê ?”

      , ồ, đợi … đó là nhóm ủng hộ chết theo cầu, đúng ?”

      Taylor gật đầu. “Tôi biết tất cả bác sĩ của Lincoln. Và tôi lại chưa bao giờ nghe đến Berger. Tôi vừa nghĩ biết ông ta có phải là trong số họ ?”

      “Cái gì?”

      ta vẫn chuyện với họ…

      Như vậy họ về chuyện ấy.

      có cảm giác mình trong trạng thái trọng lượng vì bị sốc. “ ấy có… trước đây ấy có nghiêm túc về chuyện này ?”

      “Ồ, có chứ.” Taylor thở dài, nhìn lên bầu trời đêm mờ sương. “Có chứ.” Rồi ông nhìn vào tấm thẻ ghi tên của . “Sĩ quan Sachs, tôi chuyện hàng giờ, thuyết phục cậu ta từ bỏ ‎ý định ấy. Hằng ngày. Nhưng tôi cũng làm việc với những bệnh nhân bại liệt nhiều năm và tôi biết họ bướng bỉnh thế nào. Có thể cậu ta nghe . Chỉ vài lời thôi… Tôi nghĩ… làm được ?...”

      “Ồ, quỷ tha ma bắt, Rhyme”, lẩm bẩm, bắt đầu rời vỉa hè và chạy, để ông bác sĩ hết câu.

      ở cổng ngôi nhà đúng lúc Thom định đóng cửa. đẩy cửa, ngang qua ta. “Tôi quên cuốn nhật k‎ý tuần tra.”

      “Của ?...”

      “Tôi quay lại ngay.”

      thể lên đó. ấy có bác sĩ.”

      “Tôi chỉ cần giây thôi.”

      ở cầu thang, trước khi Thom đuổi theo.

      Chắc ta biết đó là trò dối nên bước hai bậc . Nhưng vượt trước và đẩy tung cửa phòng Rhyme trước khi người trợ lý leo hết các bậc cầu thang.

      bước vào trong, làm cả Rhyme và ông bác sĩ giật mình. Ông ta đứng dựa lưng vào bàn, khoanh tay trước ngực. đóng rồi khóa cửa. Thom bắt đầu đập cửa. Berger quay lại phía với nét nhăn nhó, tò mò mặt.

      “Sachs”, Rhyme buột miệng.

      “Tôi phải chuyện với .”

      “Về cái gì?”

      “Về .”

      “Để sau.”

      “Để sau là bao lâu, Rhyme?” mỉa mai hỏi. “Ngày mai? Tuần sau?”

      “Ý là gì?”

      muốn tôi sắp xếp lịch hẹn, tuần sau từ thứ Tư? Liệu có làm được ? có còn đó nữa ?”

      “Sachs…”

      “Tôi muốn chuyện với . mình.”

      .”

      “Thế chúng ta dùng biện pháp mạnh.” bước tới chỗ Berger, “Ông bị bắt. Vì tội mưa giết người có trợ giúp.” Chiếc còng tay sáng loáng lên. Cách, cách, luông sáng bạc siết chặt cổ tay ông ta.

      đoán đây là nhà thờ.

      Carole Ganz nằm nềm nhà dưới tầng hầm. tia sáng lạnh lẽo xiên chéo tường, chiếu sáng bức hình Chúa Jesus bầu bĩnh và chồng truyện Sách Vàng Kinh Thánh mốc meo. nửa tá ghế xinh – cho học sinh ngoại khóa ngày Chủ nhật, đoán – được đặt giữa phòng.

      Chiếc còng và miếng băng dính dán miệng vẫn ở nguyên chỗ cũ. còn buộc vào đường ống gần tường bằng sợi dây phơi dài khoảng bốn feet.

      cái bàn cao gần đó, có thể nhìn thấy đỉnh của chiếc bình thủy tinh lớn.

      Nếu làm nó rơi xuống, có thể dùng mảnh thủy tinh cắt sợi dây phơi. Cái bàn có vẻ nằm ngoài tầm với nhưng lật nghiêng ngừoi và bắt đầu bò như con sâu về phía nó.

      Điều này làm nhớ tới Pammy lúc còn , nó xoay vòng giường, giữa và Ron; nghĩ tới con , mình trong tầng hầm kinh khủng và bật khóc.

      Pammy, gấu Pooh, ví.

      Trong giây, giây ngắn ngủi, thấy mình yếu đuối. ước gì mình chưa bao giờ rời Chicago.

      , được nghĩ thế nữa! Đừng tiếc nuối cho chính mình! Đó là việc hoàn toàn đáng làm. Mày làm thế vì Ron. Và cho cả bản thân mày nữa. tự hào vì mày. Kate với như vậy hàng nghìn lần. Và tin.

      Cố thêm lần nữa. dịch chân tới gần bàn hơn.

      Lảo đảo, thể nào suy nghĩ chính xác được.

      Cổ họng rát bỏng vì khát. Vì bụi và mốc trong khí.

      bò ra xa hơn chút, sau đó lật nghiêng, cố lấy hơi, nhìn lên bàn. Trông có vẻ vô vọng. Có ích gì chứ? nghĩ.

      hiểu Pammy nghĩ gì.

      Thằng khốn! Carole nghĩ. Vì thế tao giết mày.

      vặn vẹo, cố dịch xa hơn nền nhà. Nhưng thay vào đó, mất thăng bằng và ngã ngửa. thở hổn hển, biết điều gì sắp đến! ! Cổ tay bị gãy của phát ra tiếng kêu lớn. gào lên qua lớp băng dính. Ngất . Khi tỉnh lại, cơn buồn nôn xâm chiếm lấy .

      , , … Nếu nôn chết. Với miếng băng dính miệng, là kết thúc.

      Nén nó xuống. Nén nó xuống. Nào. Mày làm được. Đây rồi… nôn khan lần. Lần nữa.

      được! Kiểm soát nó.

      Trào lên họng.

      Kiểm soát…

      Kiểm soát nó…

      Rồi cũng làm được. Thở bằng mũi, tập trung tư tưởng vào Kate, Eddie và Pammy, cái ba lô màu vàng đựng tất cả tài sản quý giá của . Nhìn thấy nó, chụp ảnh nó dưới mọi góc độ. Cả cuộc sống của nằm trong nó. Cuộc sống mới của .

      Ron, em muốn làm hỏng chuyện này. Em đến đây vì ,

      nhắm mắt. Nghĩ: Thở sâu. Hít vào, thở ra.

      Cuối cùng cơn buồn nôn cũng qua . lát sau, thấy khá hơn và mặc dù khóc lóc vì cơn đau nơi cổ tay bị gãy, nhưng vẫn cố gắng vặn vẹo để bò được tới chỗ cái bàn. foot. Hai.

      cảm thấy đỉnh đầu và vào chân bàn. mới chỉ bám được vào nó và thể di chuyển xa hơn được nữa. ngửa đầu lấy đà, đập mạnh vào chân bàn vài lần. nghe tiếng cái bình đổ khi bị xê dịch mặt bàn. nhìn lên.

      phần của cái bình thò ra ngoài mặt bàn. Carole ngửa đầu và đập vào chân bàn lần cuối.

      ! đẩy chân bàn ra ngoài tầm với. Cái bình nghiêng chút nhưng rồi lại đứng thẳng. Carole co người, cố gắng làm chùng sợi dây phơi nhưng thể.

      Mẹ kiếp. Ôi mẹ kiếp! Khi tuyệt vọng ngẩng đầu lên nhìn cái bình bẩn thỉu, nhận ra rằng nó đựng đầy chất lỏng và thứ gì đó trôi nổi bên trong. Cái gì thế nhỉ?

      bò lùi về phía tường , hai feet và nhìn lên.

      Thứ bên trong trông giống cái bóng điện. , phải là cả cái bóng điện mà chỉ có dây tóc và đế, được xoắn vào đui đèn. sợi dây dẫn chạy từ đui đèn ra khỏi cái bình đến trong những cái đồng hồ định giờ mà ta hay dùng để tắt bật đèn khi nghỉ. Nó trông giống như…

      quả bom! Giờ nhận ra mùi xăng thoang thoảng.

      ,

      Carole bắt đầu lăn lộn tránh xa cái bàn nhanh hết mức có thể, nghẹn ngào vì tuyệt vọng. Cạnh tường có tủ hồ sơ. Nó bảo vệ cho . giơ hai chân lên cao sau khi cảm thấy cơn hoảng loạn lạnh người và vội vàng gỡ chúng ra. Cử động này làm mất thăng bằng. kinh hoàng nhận ra rằng mình bị lật ngửa thêm lần nữa. Ồ, dừng lại. Đừng… cố gắng bình tĩnh, hoàn toàn bất động lúc lâu, run rẩy trong lúc cố gắng dồn trọng lượng cơ thể về phía trước. Nhưng sau đó tiếp tục lăn, ngã đèn lên cánh tay bị còng, cổ tay gãy của chịu sức nặng của toàn cơ thể. Có thoáng đau đớn cùng cực, và ơn phước, lại ngất lần nữa.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI LĂM



      đời nào, Rhyme. thể làm thế.”

      Berger lo lắng quan sát. Rhyme cho rằng trong công việc của mình, ông ta từng nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng điên rồ xảy ra vào những lúc như thế này. Vấn đề lớn nhất của Berger phải là những người muốn chết, mà là những người muốn tất cả những người còn lại phải sống.

      Thom đập cửa.

      “Thom”, Rhyme gọi. “Được rồi. Cậu cứ để chúng tôi mình.” Sau đó với Sachs. “Chúng ta lời chia tay rồi mà. Tôi và . Còn đây là cách tồi tệ để phá hỏng ra hoàn mỹ.”

      thể làm thế.”

      Ai là người thổi còi? Có thể là Peter Taylor. Ông bác sĩ này chắc đoán được và Thom dối.

      Rhyme nhìn thấy ánh mặt lướt qua ba đồ vật bàn. Những thứ quà tặng của Magi: rượu nhắc, những viên thuốc và cái túi nhựa. Có thêm sợi dây cao su giống như những sợi dây Sachs dùng buộc giày. ( bao nhiêu lần từ trường vụ án về nhà và thấy Blaine nhìn chăm chăm vào những sợi dây buộc giày chồng mình, và hoảng sợ? “Mọi người nghĩ rằng chồng em có tiền mua giày mới. ấy phải lấy dây chun buộc để đế giày bị rơi ra. đấy, Lincoln!).

      “Sachs, tháo còng cho bác sĩ đây. Và lần cuối cùng, tôi mời ra khỏi nhà.”

      cười lên tiếng. “Tôi xin lỗi. Đây là hành vi phạm pháp ở Thành phố New York. Công tố viên quận có thể biến nó thành tội giết người nếu ông ấy muốn thế.”

      Berger : “Tôi chỉ chuyện bình thường với bệnh nhân.”

      “Đó là lý do vì sao tôi danh chỉ là mưu giết người. Cho tới lúc này. Có thể chúng tôi đưa tên và dấu tay của qua NCIC. Để xem chúng tôi tìm được gì.”

      “Lincoln”, Berger nhanh, vẻ lo lắng. “Tôi thể…”

      “Chúng tôi giải quyết việc này”, Rhyme . “Sachs, làm ơn .”

      Đứng giạng chân, hai tay chống nạnh, khuôn mặt lộng lẫy của đầy vẻ độc đoán. “ thôi”, quát viên bác sĩ.

      “Sachs, biết điều này quan trọng đến thế nào đâu.”

      “Tôi cho phép tự giết chết mình.”

      “Cho phép tôi?” Rhyme vặc lại. “Cho phép tôi? Chính xác là vì sao tôi lại cần đến cho phép của ?”

      Berger : “Này ,… sĩ quan Sachs, đấy là quyết định của ấy và quyết định này hoàn toàn có ý thức. Lincoln là người hiểu biết hơn tất cả những bệnh nhân tôi từng xử lý.”

      “Bệnh nhân? Ý ông là nạn nhân?”

      “Sachs!” Rhyme buột miệng, cố gắng giấu tuyệt vọng trong giọng . “Mất cả năm tôi mới tìm được người trợ giúp đấy, biết ?”

      “Có thể vì điều đó đúng. bao giờ nghĩ thế chưa? Sao lại là bây giờ, Rhyme? Ngay giữa vụ án?”

      “Nếu tôi lên cơn lần nữa và bị đột quỵ. Tôi có thể mất toàn bộ khả năng giao tiếp. Tôi có thể có ý thức trong bốn mươi năm nữa nhưng thể cử động. Và nếu tôi chưa bị tê liệt não, chẳng có ai trong cả vũ trụ chịu rút phích cắm. Ít nhất là lúc này, tôi vẫn còn có thể truyền đạt quyết định của mình.”

      “Nhưng tại sao?” buột miệng.

      “Sao lại ?” Rhyme trả lời. “ tôi nghe. Sao lại ?”

      “Được rồi…” Có vẻ như đối với những luận chứng chống lại việc tự sát quá ràng tới mức cảm thấy khó mà được thành lời. “Là vì…”

      “Vì sao, Sachs?”

      “Thứ nhất, vì hèn nhát.”

      Rhyme cười. “ có muốn tranh luận , Sachs? Muốn ? Được rồi. Hèn nhát là điều . Điều đó dẫn ta đến với ngài Thomas Browne: Khi cuộc sống kinh khủng hơn cái chết, những người dũng cảm nhất sống. Can đảm đối mặt với muôn vàn khó khăn… luận cứ cổ điển ủng hộ sống. Nhưng nếu điều đó đúng tại sao lại đánh thuốc mê bệnh nhân khi phẫu thuật? Bán aspirin để làm gì? Sao lại phải bó bột cánh tay bị gãy? Hà cớ gì mà Prozac lại là loại thuốc được kê nhiều nhất ở Mỹ? Xin lỗi, nhưng đau đớn chẳng có gì là tốt đẹp cả.

      “Nhưng đau đớn.”

      định nghĩa thế nào là đau đớn, Sachs? có cảm giác cũng có thể là đau đớn chứ.”

      có thể cống hiến rất nhiều. Hãy xem biết những gì. Mọi thứ về pháp y, mọi thứ về lịch sử.”

      “Luận cứ cống hiến xã hội. luận cứ phổ biến.” liếc nhìn Berger nhưng viên bác sĩ giữ im lặng. Rhyme thấy ông ta tập trung quan tâm vào khúc xương bàn – chiếc đĩa bạc thếch từ đốt sống. Ông ta nhặt nó lên, xoa vuốt nó bằng đôi bàn tay bị còng của mình. Ông ta từng là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, Rhyme nhớ lại.

      tiếp tục với Sachs: “Nhưng ai là chúng ta bắt buộc phải cống hiến gì đó cho cuộc đời? Ngoài ra, kết cuộc có thể là tôi đóng góp điều gì đó tốt. Tôi cũng có thể gây tác hại nữa chứ. Cho bản thân tôi hay cho ai đó.”

      “Nhưng cuộc sống là thế.”

      Rhyme cười. “Nhưng tôi chọn cái chết, phải cuộc sống.”

      Sachs trông thoải mái khi phải vắt óc suy nghĩ. “Chỉ có điều… cái chết tự nhiên. Cuộc sống có.”

      ? Freud đồng ý với . Ông ta từ bỏ nguyên tắc khoái lạc và bắt đầu cảm thấy còn có sức mạnh khác – hung dữ phi tình dục bản năng, đó là cách mà ông ta gọi nó. Làm việc để tháo gỡ nhưng kết nối mà chúng ta tạo dựng trong cuộc sống. phá hoại của chính chúng ta là sức mạnh thiên nhiên hoàn hảo. Mọi thứ đều chết; còn gì để tự nhiên hơn điều đó?”

      lần nữa lại phải động não.

      “Được rồi”, . “Cuộc sống đối với thách thức hơn với nhiều người khác. Nhưng tôi nghĩ… mọi thứ mà tôi nhìn thấy ở với tôi rằng người thích thác thức.”

      “Thách thức? Để tôi nghe về thách thức. Tôi nằm với ống thông phổi trong suốt năm. có nhìn thấy vết sẹo mở khí quản này cổ tôi ? Rồi nhờ các bài tập thở áp suất dương – và với sức mạnh ý chí vĩ đại nhất mà tôi có thể có – tôi thoát ra được cái máy đó. thực tế, tôi có lá phổi hoàn toàn bình thường. Chúng khỏe như phổi của . Đối với người tàn tật C4, đó là trường hợp điển hình, Sachs ạ. Điều nay tiêu tốn của tôi tám tháng cuộc đời. có hiểu tôi ? Tám tháng chỉ để xử lý chức năng động vật rất cơ bản. Tôi đến việc vẽ Nhà thờ Sistine hay chơi violin. Tôi chỉ mới về hít thởchết tiệt ấy thôi.”

      “Nhưng có thể khá hơn. Năm tới, họ có thể tìm ra cách chữa.”

      . phải năm sau. phải mười năm nữa.”

      biết việc đó. Chắc chắn là họ nghiên cứu.”

      “Chắc chắn là như thế. có muốn biết ? Tôi là chuyên gia. Cấy mô thần kinh bào thai vào mô hỏng để thúc đẩy việc tái tạo theo trục.” Những ngôn từ đó phát ra cách dễ dàng từ đôi môi đẹp của ta. “ có hiệu quả đáng kể. vài bác sĩ sử dụng phương pháp hóa học tại vùng bị ảnh hưởng để tạo ra những loài cấp cao. Những dạng thức thấp của sống cho thấy kết quả khá tốt. Nếu là con ếch lúc này chắc tôi lại được. Thôi được, hy vọng là thế.”

      “Như vậy là vãn có người nghiên cứu chuyện đó?” Sachs hỏi.

      “Tất nhiên rồi. Nhưng ai trông đợi có bước đột phá trong khoảng hai mươi hay ba mươi năm.”

      “Nếu họ trông đợi”, đối đáp, “ khi đó chẳng còn là đột phá nữa, đúng thế ?”

      Rhyme cười. ấy giỏi .

      Sachs hất lọn tóc đỏ khỏi mắt và : “ nghiệp của là thực thi pháp luật, nhớ chứ. Tự tử là bất hợp pháp.”

      “Đó còn là tội lỗi nữa”, đáp lời. “Những người da đỏ Dakota tin rằng hồn ma của những kẻ tự tử bị kéo lê mãi mãi xung quanh cái cây mà họ tự treo cổ. Nhưng điều này có dừng được việc tự tử ? . Họ chỉ dùng những cái cây bé hơn.”

      “Biết , Rhyme. Đây là luận cứ cuối cùng của tôi.” hất đầu về phía Berger, và nắm lấy sợi xích còng. “Tôi mượn và đăng ký ông ta. Phản biện lại nó .”

      “Lincoln”, Berger căng thẳng , mắt ông ta hoảng loạn.

      Sachs nắm vai ông bác sĩ và dẫn ông ta ra cửa. “Đừng. Đừng làm thế.” Ông ta .

      Nhưng Sachs mở cửa và Rhyme gọi với ra: “Sachs, trước khi làm thế, trả lời tôi mấy câu.”

      dừng lại. tay để tay nắm cửa.

      câu hỏi.”

      quay lại.

      bao giờ muốn làm thế chưa? Tự tử?”

      mở khóa cửa với tiếng tách lớn.

      : “Trả lời tôi !”

      Sachs mở cửa. đứng quay lưng lại phía . “. bao giờ.”

      có hạnh phúc với cuộc sống của mình ?”

      “Giống như những người khác thôi.”

      có bao giờ bị trầm cảm ?”

      “Tôi thế. Tôi tôi chưa bao giờ muốn tự tử.”

      với tôi là thích lái xe. Những người thích lái xe thường thích lái xe nhanh. cũng thế, đúng ?”

      “Đúng thế, đôi khi.”

      “Tốc độ nhanh nhất của là bao nhiêu?”

      “Tôi biết.”

      tám mươi?”

      nụ cười đồng tình. “Đúng.”

      trăm?”

      chỉ ngón tay cái lên .

      trăm mười? trăm hai mươi?” hỏi, cười vì quá ngạc nhiên.

      có lần lên trăm sáu mươi tám.”

      “Trời ơi, Sachs. là ấn tượng. Được rồi, lái xe nhanh như thể có nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, có chuyện gì đó xảy ra? Tay đòn hay trục xe có thể gãy, lốp có thể nổ, vết dầu đường?”

      “Cũng khá an toàn. Tôi điên.”

      “Khá an toàn. Nhưng lúc lái xe nhanh như lái máy bay cỡ cũng an toàn tuyệt đối. Đúng ?”

      mớm cung đấy.”

      , tôi mớm cung. Theo ý kiến của tôi nhé. lái xe nhanh phải chấp nhận rằng có thể gặp tai nạn và chết, đúng ?”

      “Có thể”, nhượng bộ.

      Berger, tay bị còng phía trước, sốt ruột theo dõi, tay vẫn mân mê chiếc đĩa xương sống màu vàng nhạt.

      “Như vậy, cũng đến rất gần giới hạn đó rồi, đúng ? À, biết tôi về điều gì rồi chứ. Tôi biết là hiểu – ranh giới giữa nguy cơtử vong và chắc chắn tử vong. Thấy , Sachs, nếu đem cái chết theo mình rất dễ bước qua ranh giới đó. bước ngắn là đến với chúng.”

      cúi đầu, khuôn mặt trở nên bất động khi mái tóc che lấp đôi mắt của .

      “Bỏ qua người chết”, thầm , cầu mong đừng đem Berger , biết rằng tới rất gần để đẩy vượt qua ranh giới. “Tôi đến chuyện rất nhạy cảm. muốn theo người chết đến đâu? Hơn chút, Sachs ạ. Nhiều hơn chút rất nhiều.”

      chần chừ. biết đến rất gần trái tim .

      giận dữ quay lại phía Berger, nắm lấy sợi dây còng. “ thôi.” Đẩy ông ta ra cửa.

      Rhyme gọi theo: “ biết tôi gì, đúng ?”

      dừng lại lần nữa.

      “Đôi khi… việc xảy ra, Sachs ạ. Đôi khi thể trở thành người mà phải trở thành, thể có thứ mà phải có. Và cuộc sống luôn thay đổi. Có thể chỉ chút, có thể là rất nhiều. Và đến lúc nào đó, còn đáng để tiếp tục chiến đầu, sửa những sai lầm.”

      nhìn họ đứng đó, bất động ở ô cửa. Căn phòng im lặng cách đáng sợ. quay lại và nhìn .

      “Cái chết chữa lành đơn”, Rhyme tiếp tục. “Nó chữa khỏi chứng căng cơ. Chữa khỏi những cơn ngứa.” Giống như trước đó nhìn chân , lúc này liếc nhanh những ngón tay nát nhừ của .

      thả tay khỏi chiếc còng của Berger và về phía cửa sổ. Những giọt lệ lấp lánh trong ánh sáng vàng ngoài phố.

      “Sachs, tôi thấy mệt mỏi”, cách chân thành. “Tôi thể với là tôi mệt mỏi đến thế nào. biết cuộc sống khó nhọc như thế nào khi bắt đầu với. Hàng núi gánh nặng. Rửa ráy, ăn uống, bài tiết, gọi điện thoại, cài cúc áo, gãi mũi… Rồi hàng nghìn thứ khác. Và sau đó nữa.”

      im lặng. Sau lúc lâu, : “Chúng ta thỏa thuận.”

      “Gì thế?”

      hất đầu về phía tấm áp phích. “823 giữ người mẹ và đứa bé… Giúp chúng tôi cứu họ. Chỉ họ thôi. Nếu đồng ý, tôi cho ông ta giờ để chuyện riêng với .” liếc nhìn Berger. “Với điều kiện sau đó ông ta phải biến khỏi thành phố.”

      Rhyme lắc đầu. “Sachs, nếu tôi bị đột quỵ, nếu tôi còn giao tiếp được nữa…”

      “Nếu điều đó xảy ra”, đều đều, “nếu còn được lời, thỏa thuận của chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Tôi bảo đảm để các giờ đồng hồ với nhau”. lại khoanh tay, đứng giạng chân, hình ảnh thích về Amelia Sachs đối với Rhyme. ước có thể nhìn thấy ở đường tàu sáng nay, lúc chặn đoàn tàu. : “Đó là điều tốt nhất tôi làm.”

      khoảnh khắc trôi qua. Rhyme gật đầu. “Được rồi. Thỏa thuận.” với Berger: “Thứ Hai?”

      “Được rồi, Lincoln. Cũng được.” Berger, vẫn còn run rẩy, cảnh giác nhìn Sachs khi mở còng. Có vẻ như ông ta sợ đổi ý. Khi được tự do, ông ta nhanh chóng ra cửa. Rồi nhận ra rằng mình vẫn cầm mẩu xương đốt sống, ông ta quay lại và đặt nó – gần như cung kính – bên cạnh báo cáo trường vụ án giết người đầu tiên buổi sáng hôm nay.

      “Sướng như lợn vầy bùn”, Sachs nhận xét, thả người xuống chiếc ghế mây kêu răng rắc. Đó là Sellitto và Polling, sau khi với họ rằng Rhyme đồng ý với vụ này thêm ngày nữa.

      “Đặc biệt là Polling”, . “Tôi nghĩ chàng bé này ôm lấy tôi. Đừng với ta là tôi gọi ta như thế. cảm thấy thế nào? Trông khá hơn đấy.” nhấp ngụm whisky và đặt trả chiếc cốc vào cái bàn cạnh giường, bên cạnh tủ của Rhyme.

      tệ.”

      Thom thay ga giường. “ đổ mồ hôi như tắm”, cậu ta .

      “Nhưng chỉ bên cổ”, Rhyme . “Ý tôi là đổ mồ hôi.”

      “Đúng thế à?” Sachs hỏi.

      “Đúng thế. Như thế đấy. Nhiệt kế phía dưới nổ. Tôi bao giờ phải dùng đến nước hoa cho tứ trụ.”

      “Trụ?”

      “Các chỗ lõm”, Rhyme cằn nhằn. “Nách. Viên trợ lý thứ nhất của tôi bao giờ nách. ta : ‘Lincoln, tôi cầm trụ nhấc lên.’ À, và: ‘Nếu muốn nôn, cứ thoải mái , Lincoln.’ ta tự gọi mình là ‘săn sóc viên’. ta viết cả từ này vào lý lịch. Tôi hiểu vì sao tôi lại thuê ta. Chúng tôi rất mê tín, Sachs ạ. Chúng tôi nghĩ rằng gọi thứ gì đó bằng cái tên khác có thể làm nó thay đổi. Tội phạm. Thủ phạm. Nhưng người trợ lý đó, ta chỉ là ý tá bị ngập trong phân đến tận nách. Đúng , Thom? Chẳng có gì phải ngượng ngùng. Đó là nghề cao tượng. Hỗn loạn nhưng cao thượng.”

      “Tôi lớn nhanh trong hỗn loạn. Vì thế mà tôi làm việc cho .”

      “Cậu là gì? Trợ lý hay săn sóc viên?”

      “Tôi là vị thánh.”

      “Ha, đối đáp rất nhanh. Tiêm cũng rất nhanh. Cậu ta đem tôi trở về từ cõi chết. Hơn lần rồi.”

      Rhyme đột nhiên hoảng sợ, lo rằng Sachs nhìn thấy trần truồng. Mắt chăm chú nhìn vào hồ sơ thủ phạm, hỏi: “ xem tôi có nợ lời xin lỗi nào , Sachs? có đóng vai Clara Barton(123) đấy?” căng thẳng chờ câu trả lời của , biết là còn có thể nhìn nữa nếu trông thấy.

      ”, Thom trả lời. “ mình tôi cứu . muốn bất cứ linh hồn nhạy cảm nào bị tổn thương bởi đôi mông xập xệ của .”

      Cảm ơn Thom, nghĩ. Sau đó quát: “Giờ biến . Chúng tôi phải bàn về vụ án, Sachs và tôi.”

      cần phải ngủ chút.”

      “Tất nhiên là tôi cần. Nhưng chúng tôi vẫn phải bàn về vụ này. Chúc ngủ ngon, chúc cậu ngủ ngon.”

      Sau khi Thom ra về, Sachs rót ly Macallan. cúi đầu ngửi mùi rượu hơi oi khói.

      “Ai tiết lộ?” Rhyme hỏi. “Peter?”

      “Ai?” hỏi.

      “Bác sĩ Taylor, người của SCI.”

      cố tỏ ra chần chừ để biết đó chính là Taylor. Cuối cùng : “Ông ấy rất quan tâm đến .”

      “Tất nhiên là ông ta quan tâm. Đó là vấn đề… Tôi muốn ông ta quan tâm ít chút. Ông ta có biết về Berger ?”

      “Ông ấy nghi ngờ.”

      Rhyme nhăn mặt. “Nghe này, với ông ta Berger chỉ là người bạn cũ. Ông ta… Sao?”

      Sachs chậm rãi thở ra, như thể thổi khói thuốc từ đôi môi mọng của . “ chỉ muốn tôi để tự tử mà còn muốn tôi dối với người có thể thuyết phục đừng làm việc đó.”

      “Ông ấy thuyết phục được tôi đâu”, Rhyme đáp lời.

      “Thế sao muốn tôi dối?”

      cười. “Cứ để bác sĩ Taylor hoàn toàn biết gì trong vài ngày nữa.”

      “Được rồi”, . “Lạy Chúa, là người rất khó xử lý đấy.”

      nhìn gần. “Sao điều đó với tôi?”

      “Điều gì?”

      “Ai là người chết? Những người mà vẫn chưa bỏ qua?”

      “Họ, rất nhiều.”

      “Ví dụ?”

      “Đọc báo mà xem.”

      “Thôi nào, Sachs.”

      lắc đầu, uống cạn ly whisky Scotch với nụ cười nhạt nhòa môi. “, tôi nghĩ thế.”

      coi im lặng của là do miễn cưỡng phải chuyện thân mật với người mà mới được biết có ngày. Mọi việc nghe có vẻ mỉa mai, nếu tính đến việc ngồi cạnh tá ống thông tiểu, ống kem K-Y và mộthộp Depends. Dù vậy vẫn thúc ép và thêm gì nữa. Vì thế ngạc nhiên khi bất ngờ ngẩng lên và buột miệng, “Chỉ là… chỉ là, ôi quỷ .” Khi cơn nức nở bắt đầu, đưa tay lên mặt, gạt nửa chai whisky Scotch hạng nhất đổ lênh láng ra sàn.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI SÁU




      thể tin được em lại kể điều đó với .” ngồi cuộn mình ghế, chân co lên, đôi giày chuyên dụng được tháo ra. Lệ khô, mặc dù vẫn còn đỏ ửng như màu của mái tóc.


      “Tiếp ”, khuyến khích.


      chàng mà em kể với ? Bọn em định cùng nhau mua căn hộ.”


      “Ồ, cùng với con chó giống collie. Em đó là chàng. Bạn trai của em à?”


      Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn.


      ấy từng là bạn trai của em.”


      nghĩ có thể đó là người cha mất của em.”


      . Đúng là cha em mất – ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng gia đình em biết điều đó đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng em nghĩ em sẵn sàng. Nhưng còn ick…”


      ấy bị giết?” Rhyme dịu dàng hỏi.


      Nhưng trả lời. “Nick Carelli. người trong hàng ngũ của chúng ta. cảnh sát. thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm Tội phạm Đường phố.”


      Cái tên nghe quen quen. Rhyme gì để tiếp tục.


      “Bọn em sống với nhau thời gian. đến chuyện hôn nhân.” ngừng lại, có vẻ như sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các tấm bia trong trường bắn. “ ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật về mối quan hệ của mình. ấy thể để tin đồn lan phố rằng bạn ấy là cảnh sát.” hắng giọng. “Rất khó giải thích. biết , bọn em có… thứ đó giữa hai người. Đó là… điều đó thường xuyên xảy ra với em. Quỷ , điều đó chưa bao giờ xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sâu sắc. ấy biết em phải làm cảnh sát và đó phải là vấn đề đối với ấy. Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của ấy. Như dạng… bước sóng. biết đấy, như lúc vừa hiểu được hoàn toàn về người nào đó? bao giờ cảm nhận được điều em ? Với vợ ?”


      Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. “ có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng phải với Blaine, vợ .” Và đó là tất cả những gì muốn về vấn đề này. “Hai người gặp nhau thế nào?” hỏi.


      “Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và cho nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực . Nick giảng bài về công tác mật vụ. ấy rủ em chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu tiên của bọn em là ở Rodman’s Neck.”


      “Trường bắn?”


      Sachs gật đầu, sịt mũi. “Sau đó bọn em tới nhà mẹ ấy ởBrooklyn và ăn mì ống, uống chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và em quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà em và tối hôm đó, ấy ở lại. Lần hẹn hò đầu tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc chắn nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện tốt đẹp.”


      Rhyme : “Chuyện gì xảy ra?”


      ấy…”


      ngụm lớn. “Chuyện là ấy lợi dụng. Cả quãng thời gian em biết ấy…”


      “Thế à?”


      “Ăn trộm. Trộm lớn. Em hề có bất kỳ manh mối nào. manh mối khốn kiếp nào. ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la.”


      Lincoln im lặng lúc. “ xin lỗi, Sachs. Ma túy?”


      . Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó là Liên kết Brooklyn. Báo chí.”


      Rhyme gật đầu. “Đó là lý do nhớ đến nó. Có khoảng gần tá người liên quan, đúng ? Tất cả đều là cảnh sát.”


      “Chủ yếu. số người của ICC(124) nữa.”


      “Chuyện gì xảy ra với cậu ấy? Nick ấy?”


      biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh ấy nhừ tử. rằng ấy chống cự, nhưng em biết là phải. Gãy ba xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng ấy vẫn bị tù hai mươi đến ba mươi năm.”


      “Vì tội chiếm đoạt tài sản?”


      ấy tự làm , hai vụ. Dùng súng đập lái xe, bắn người kia. Chỉ để dọa ta thôi. Em biết là chỉ để dọa ta. Nhưng quan tòa quăng ấy .” nhắm mắt, mím môi chặt.


      “Khi ấy bị bắt, bên Nội vụ theo ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. ấy thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của ấy. Nhưng vẫn cómấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế Nick gạt em ra. Ý em là ấy phải làm thế. Nếu em xuống dốc luôn cùng ấy. biết bên Nội vụ rồi đấy – lúc nào cũng là những tên thợ săn phù thủy.”


      “Chuyện gì xảy ra?”


      “Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với ấy… ấy vài câu về em.” nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. “Khi bên Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi ấy về em. Nick : ‘ À, P.D. Sachs? Tôi có chơi ta vài lần. Hóa ra ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá ta.” ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. “Biệt hiệu? P.D.”


      “Lon có với .”


      nhăn mặt. “Ông ấy có nó nghĩa là gì ?”


      “Con cớm tuần tra. Từ cha em.”


      cười uể oải. “Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó phải là cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick em là thứ vớ vẩn đến mức nó phải có nghĩa là ‘săn bướm’, bởi vì có lẽ em thích con hơn. đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào.”


      “Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs.”


      hít hơi dài. “Em thấy ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. ấy nhìn em lần và… em thể tả được điều gì trong mắt ấy. Thực là cõi lòng tan nát. ấy làm điều đó để bảo vệ em. Nhưng vẫn cứ… đúng, biết . Về đơn.”


      có ý…”


      ”, cười. “Em đánh , đánh em. Thế là công bằng. Và đúng. Emhét đơn. Em muốn ra ngoài, emmuốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em mất hứng thú với tình dục.” Sachs cười chua chát. “Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em là tuyệt vời. Em có thể chọn chàng của mình, đúng ? vớ vẩn. Những thằng cha mời em chơi là những thằng cha muốn chơi em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng dễ hơn”


      Cuối cùng Rhyme hiểu phản ứng của khi lần đầu tiên nhìn thấy . thoải mái với vì đấy là người đàn ông phải là mối đe dọa đối với . thúc ép tình dục. người mà phải phòng ngự. Có thể có chút tình đồng nghiệp nữa – như thể họ cũng thiếu mất loại gen thiết yếu.


      “Em biết đấy”, đùa, “ và em, ta cần đến với nhau và khôngđược có chuyện gì”.


      cười. “Thế kể cho em nghe về vợ . Hai người lấy nhau được bao lâu?”


      “Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và năm sau đó.”


      “Và ấy bỏ ?”


      . bỏ ấy. muốn ấy cảm thấy có lỗi trong việc này.”


      quá tốt.”


      “Cuối cùng cũng làm ấy bỏ được. tên khốn. Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của thôi.” lúc sau, hỏi. “Câu chuyện của Nick… có liên quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra ?”


      . Thực ra là có.”


      “Chim bị tên sợ cây cong?”


      Cuối cùng gật đầu. “Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi ấy. Nó còn giống như khi cha em tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ tốt hơn.”


      “Ý em là nó giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?”


      “Có thể”, nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. “Bệnh than? Đúng như thế nhưng nghiêm trọng đến mức như em giả bộ.”


      biết”, Rhyme hỏi.


      biết? Sao biết được?”


      chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra số kết luận.”


      “Đó là lý do theo vụ của em cả ngày? biết là em giả vờ?”


      theo vụ của em”, , “vì biết em giỏi hơn em nghĩ”.


      nhìn thăm dò.


      “À Sachs này, em làm nhớ đến chính mình.”


      “Thế ư?”


      “Để kể cho em nghe chuyện. làm công việc khám nghiệm trường được gần năm nhận được cuộc gọi từ Đội Trọng án. Có người chết trong ngõ hẻm ở Greenwich Village. Tất cả trung sĩ chỉ huy ra ngoài nên được chọn để khám nghiệm trường. Lúc đó, nhớ mới hai mươi sáu tuổi. tới đó, kiểm tra và phát ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid. Chắc em nhìn thấy vài tấm ảnh đó – ông ta đến trong những hộp đêm S&M(125) Phố Washington. À, quên , khi họ tìm thấy ông ta ông ta mặc bộ váy ngắn màu đen và đôi tất chân mắt lưới.


      Thế là bảo vệ trường. Bất ngờ ông đại úy xuất qua dây chắn. biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến mất đường đến phòng vật chứng nhưng lại ngây thơ tới mức quan tâm đến những tấm ảnh – chỉ quan tâm đến việc ai đó ngang qua trường.”


      “Peretti là bảo vệ trường vụ án.”


      Rhyme tặc lưỡi. “Thế là cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng ngoài hàng rào quát tháo nhân viên của Sở đến và cố gắng kết thúc việc. với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo . trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?”


      “Thị trưởng?”


      “Gần đúng. Phó Thị trưởng.”


      “Và bắt cả họ phải đứng ngoài.”


      ai vào được trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá mà phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn bắt được thủ phạm nhờ vào vài manh mối và dấu vân tay bức hình Palaroid – hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trang nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe Đại lộ Mười .”


      “Em nghĩ tới điều đó”, . “Em chỉ làm thôi. Sao lại nhìn em thế?”


      “Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các vụ Trọng án, IRD, quan trọng… Nhưng Phòng Quan hệ Công chúng ư? Ở đó em thối rữa. Đó là công việc tốt đối với số người, nhưng phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế.”


      “Ồ, thế còn đầu hàng à? Còn Berger sao?”


      “Với mọi chuyện hơi khác.”


      Cái nhìn của c dò hỏi. Đúng thế ? Rồi quanh tìm khăn giấy. Khi quay lại ghế, hỏi: “ đem xác chết nào theo đấy chứ?”


      “Cũng có khi. Nhưng giờ chúng được chôn cất rồi.”


      “Kể em nghe .”


      “Chẳng có gì cả đâu, đấy…”


      đúng. Em thấy thế. Nào, em kể cho nghe chuyện của em rồi.”


      cảm thấy cơn ớn lạnh lạ lùng. biết đấy phải cơn sai lệch phản xạ. Nụ cười của biến mất.


      “Rhyme, kể ”, dai dẳng. “Em muốn nghe.”


      “Được rồi, có vụ vài năm trước”, . “ phạm sai lầm. sai lầm tệ hại.”


      “Kể em nghe.” rót cho hai người thêm ngấn whisky Scotch nữa.


      “Đó là cuộc gọi nội địa báo giết người – tự sát. cặp vợ chồng trong căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. có nhiều thời gian khám nghiệm trường; làm rất nhanh. Và phạm sai lầm cũ rích – biết trước mình tìm thấy gì trước khi bắt đầu tìm kiếm. tìm thấy ít sợi vải mà biết đặt vào đâu nhưng giả định rằng cặp vợ chồng này lôi nó vào. tìm thấy mảnh đạn nhưng so nó với khẩu súng tìm được tại trường. nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. tìm xong, ký giấy rồi về văn phòng.”


      “Chuyện gì xảy ra?”


      trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là vụ cướp của giết người. Tên tội phạm chưa rời căn hộ.”


      “Cái gì? vẫn ở đó?”


      “Sau khi ra về bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. giết chết nhân viên pháp y và làm bị thương người trợ lý. chạy ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi 10-13. Tên tội phạm bị bắn – sau đó cũng chết – nhưng giết chết cảnh sát và làm bị thương người khác. cũng bắn gia đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá chắn.”


      “Ôi, trời ơi.”


      “Colin Stanton là tên người cha. Ông ta hề bị thương và ông ta là bác sĩ quân y – EMS ông ta có thể cứu được vợ và cả hai đứa con nếu ông ta cố gắng cầm máu, nhưng ông ta quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình.”


      “Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó phải lỗi của . …”


      “Để kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết.”


      “Chưa ư?”


      “Người chồng về nhà – ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần thời gian. Ông ta thử tự tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng mảnh giấy – bìa tạp chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy cốc nước trong phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào cổ tay. Người ta khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong bệnh viện tâm thần khoảng năm. Cuối cùng người ta cũng thả ông ra. Khoảng tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần này dùng dao.” Rhyme lạnh lùng thêm. “Lần này có kết quả.”


      biết về cái chết của Stanton nhờ tờ cáo phó được fax từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của NYPD. Ai đó gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với tờ giấy vàng dán kèm: FYI – có thể quan tâm, người sĩ quan đó viết.


      “IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay . nghĩ họ có thể đuổi việc .”


      thở dài và nhắm mắt trong giây lát. “Và với em là thấy có lỗi trong chuyện này?”


      “Hết rồi.”


      “Em tin .”


      chịu án rồi, Sachs ạ. sống với những xác chết này thời gian. Sau đó bỏ chúng . Nếu , làm sao tiếp tục làm việc được.”


      Sau lúc lâu, : “Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy bốn mươi.”


      “Rồi.”


      “Cha em , ông cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại ông. Có lãi. Nhưng biết ông còn gì với em nữa ? Ông bố đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe cẩn thận. Nhưng chạy nhanh ông hiểu. Ông với em: ‘Bố biết cảm giác của con, con ạ. Khi ta di chuyển, chúng thể bắt được ta.’”, Sachs với Rhyme. “Nếu em thể lái xe, nếu em thể chuyển động, có thể em cũng làm điều đó. Tự tử.”


      từng bộ khắp nơi”, Rhyme . “ lái xe nhiều. có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?”


      “Chẳng phải là thứ mà người Manhattan kiêu kỳ như lái đâu. chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em.”


      “Ông cho em cái máy khoan hơi? Để sửa xe, đoán thế?”


      gật đầu. “Và máy hàn hơi. bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh cóc – món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em.” Cười nhàng. “Chiếc Chevy ấy, chiếc xe với núm tay lỏng. có biết đấy là gì ? chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc như đá, như thùng trứng và em lúc nào cũng qua mặt được BMW(126).”


      đoán là em làm rồi.”


      , hai lần gì đấy.”


      “Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật”, Rhyme giải thích. “Bọn ngồi – hay nằm – trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức năng và chuyện về những thứ bọn có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe lăn là đỉnh. Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp gì cho .” liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. “ xe nhiều năm. nhớ lần cuối là khi nào cả.”


      “Em có ý”, Sachs bất ngờ . “Trước khi ông bạn của – bác sĩ Berger – quay lại, để em đưa vòng. Hay có vấn đề? Ngồi dậy? là xe lăn giúp được .”


      “À, , xe lăn thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? nghĩ chắc là được.” cười. “ trăm sáu mươi tám? Dặm giờ?”


      “Hôm ấy là ngày đặc biệt”, Sachs và nhớ lại. “Điều kiện tốt. có cảnh sát giao thông.”


      Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.


      “Chúng tôi có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này – ta trở thành tín đồ thực rồi. còn nhận ra ta nữa đâu. Ồ, mà tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên ninh Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua. Nếu xuất , chúng tôi càn quét tất cả các nhà thờ vào lúc bảy rưỡi, trong trường hợp lẩn được vào mà chúng tôi phát ra. Tôi nghĩ chúng ta tóm được , Linc ạ.” Viên thám tử , nhiệt tình cách đáng nghi ngờ so với cảnh sát của Đội Trọng án Thành phố New York.


      “Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi cử Amelia tới Trung tâm chỉ huy của .”


      Họ dập máy.


      Thom gõ cửa trước khi vào phòng.


      “Như thể cậu ta bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị.” Rhyme cười thầm.


      lý do gì nữa”, ta . “ ngủ. Ngay bây giờ.”


      3:00. Từ lâu rồi, Rhyme còn cảm giác kiệt sức. bay lượn ở đâu đó. Phía cơ thể mình. băn khoăn hiểu có phải mình gặp ảo giác hay .


      “Được rồi, thưa mẹ”, . “Sĩ quan Sachs ngủ lại đêm nay, Thom. Cậu làm ơn lấy giúp cái chăn.”


      gì?” Thom quay lại phía .


      cái chăn.”


      , trước đó cơ.” Người trợ lý hỏi. “Cái từ ấy?”


      “Tôi biết. ‘Làm ơn’?”


      Mắt Thom mở to vì cảnh giác. “ ổn chứ? có muốn tôi gọi Peter Taylor quay lại ? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác sĩ phẫu thuật?”


      “Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?” Rhyme với Sachs. “ biết là gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu.”


      “Gọi dậy lúc mấy giờ?”


      “Sáu giờ ba mươi là ổn,” Rhyme .


      Khi ta khỏi, Rhyme hỏi: “Này, Sachs, em có thích nghe nhạc ?”


      “Em thích.”


      “Loại nào?”


      “Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown… Còn sao? trông có vẻ giống chàng cổ điển.”


      “Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?”


      “Cái này hả?”


      , cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra.”


      làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là căn phòng chứa tới gần nghìn đĩa CD.


      “Giống như cửa hàng bán đĩa(127)?”


      “Có bộ dàn, em thấy nó giá ?”


      lướt tay dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.


      “Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của ”, Rhyme . “ dùng nó nữa.”


      “Sao lại ?”


      trả lời mà : “Em cho đĩa gì đó vào . Điện còn cắm ? Thế à? Tốt. Em chọn nhạc .”


      khắc sau, bước ra khỏi tủ và lại ghế sofa khi Levi Stabbs(128-) và Four Tops(129) bắt đầu hát về tình .


      Phải đến năm rồi mới lại có nhạc vang lên trong nhà, Rhyme nghĩ. im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao lại ngừng nghe nhạc. Nhưng thể.


      Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốnHiện trường vụ án.


      “Tặng em cuốn được ?” hỏi.


      “Em cứ lấy mười cuốn.”


      …”, giọng chợt ngừng lại.


      “Ký sách cho em?” cười. cười với . “ điểm chỉ, được ? Các nhà phân tích nét chữ bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của .”


      nhìn đọc chương . Mắt rũ xuống. gập sách.


      làm cho em việc, được ?” hỏi.


      “Việc gì?”


      “Đọc cho em nghe…”


      “Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên nhau…”, giọng nhạt dần.


      “Sao cơ?”


      “Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí… trong những thứ em nhớ nhất.”


      đọc rất dở”, Rhyme thú nhận. “ đọc như thể trích dẫn báo cáo khám nghiệm trường. Nhưng có trí nhớ… khá là tốt. Để kể em nghe về vài trường vụ án, được ?”


      ?”ô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang bên. Phía trong mặc chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là áo lót ngực thể thao. lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.


      Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.


      luôn thấy ngạc nhiên với trường chết chóc”, bắt đầu. “Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến phòng sản phụ ở Boston?”


      Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái “ có làm em chán ?”


      ”, . “Làm ơn đừng dừng lại.”


      “Em có biết điều làm luôn băn khoăn là gì , Sachs?”


      cho em biết


      “Điều đó làm ngạc nhiên nhiều năm rồi – Tinh thần Hiệp sĩ. Hai nghìn năm trước. Còn bây giờ, có trường vụ án mà thích khám nghiệm. biết em : Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy ? Điều mà chúng ta thực biết được là những gì nhân chứng với chúng ta. Em có nhớ là – đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những câu chuyện trong Kinh thánh là hề có thực. Bằng chứng đâu? Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập, giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay.”


      Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn, hơi thở của làm những sợi tóc đỏ nhàng bay. Ngón tay lần tìm nút tắt đèn bộ điều khiển ESU, và rồi cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.


      Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất bầu trời.


      Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép bên đầu . Pammy, con ... Rồi nghĩ tới Ron. Và tất cả tài sản của còn ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc, chiếc ba lô màu vàng...


      nghĩ tới Pammy.


      Có thứ gì đó làm cho gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy nhỉ?


      Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. xoay người chút. ...


      Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại ngập tràn trong phòng.


      Đó là thứ đánh thức . nhạc. Làn sóng nhạc ập tới. Nhà thờ bị bỏ hoang. Có người ở đây. mỉm cười. Có ai đó ...


      Điều này nhắc nhớ tới quả bom.


      Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của quả bom thứ vũ khí giết người – giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương mà ta vẫn thấy phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục… có thể chỉ là bom xịt, nghĩ. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó có vẻ nguy hiểm lắm.


      nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay đầu . Kèm theo tiếng lê chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người lại. Bụi bay ra từ rầm nhà.


      Giọng hát vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. giây lát sau, họ lại bắt đầu hát.


      Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. cố hét lên nhưng thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận tầng hầm.


      Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt lại nhìn về phía quả bom. Lúc này sáng hơn và có thể nhìn thấy cái đồng hồ hẹn giờ.


      Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!


      Đó phải là quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15. Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.


      Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet Chariot từ cao vọng xuống, ngập tràn tầng nhà thờ.




      IV


      ĐẾN TẬN XƯƠNG


      Các vị thần chỉ chối từ thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.


      ARISTOTLE

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI BẢY

      5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai



      Mùi hương làm tỉnh giấc. Như mọi khi.

      Và – cũng giống như rất nhiều buổi sáng – vội vàng mở mắt mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán xem mùi hương quen thuộc đó là gì.

      Mùi khí buổi bình minh? Giọt sương những con phố bóng như dầu? Mùi vữa ẩm? cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia Sachs nhưng thấy rằng mình thể.

      Ý nghĩ của bỏ qua và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ?

      Chất tẩy rửa? phải.

      thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?

      , nhận ra được tất cả những thứ mùi đó.

      Đó là… à, đúng rồi… mùi bút viết bảng.

      Đến lúc này có thể mở mắt – sau khi liếc nhìn Sachs vẫn ngủ để chắc chắn là chưa bỏ – và thấy mình nhìn vào tấm áp phích Monet treo tường. Mùi tỏa ra từ đó. khí nóng bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng tám này làm giấy khô và mùi xuất phát từ đó.



      ĐỐI TƯỢNG 823


      Ngoại hình

      Nơi ở

      Phương tiện lại

      Khác


      - Người da trắng,

      - Thân hình bé,

      - Quần áo đen,

      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác,

      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?

      - Găng tay tối mà.

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu = Brut,

      - Tóc phải màu nâu,

      - Có vết sẹo sâu ngón trỏ,

      - Quần áo bình thường.

      - Găng tay phai màu. Dây bẩn?

      - Có thể có nơi nấp an toàn.

      - Ở gần:

      B’way & 82nd,

      ShopRite

      B’way & 96th,

      Anderson Foods

      Greenwich & Bank,

      ShopRite

      2nd Ave., 72nd-73nd,

      Grocery World

      Battery Park City,

      J&G’s Emporium

      1709 2nd Ave.,

      Anderson Foods

      34th & Lex.,

      Food Warehouse

      8th Ave. & 24th,

      ShopRite

      Houston & Lafayette,

      ShopRite

      6th Ave. & Houston,

      J&G’s Emporium

      Greenwich & Franklin,

      Grocery World

      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng,

      - Ít nhất trăm năm tuổi, có thể là biệt thự hay cơ quan.

      - Yellow Cab,

      - Chiếc sedan đời mới,

      - Màu xám nhạt, bạc be,

      - Xe thuê, có thể bị đánh cắp,

      - Hertz, xe Taurus màu bạc, kiểu của năm nay.

      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,

      - Có thể có tiền án,

      - Hiểu biết về dấu vân tay,

      - Súng = Colt .32

      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,

      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,

      - Gọi nạn nhân là “Hana”,

      - Biết tiếng Đức cơ bản,

      - Thích những chỗ dưới lòng đất,

      - Đa nhân cách,

      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư,

      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

      - Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra.




      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường

      - Có thể có tiền án

      - Hiểu biết về dấu vân tay

      - Súng = Colt .32

      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường

      - “Cổ xưa” hấp dẫn

      - Gọi nạn nhân là “Hanna”

      - Biết tiếng Đức cơ bản

      - Thích những chỗ dưới lòng đất

      Những con số nhợt nhạt đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt quay lại chỗ tấm áp phích. thể nhìn thấy ràng, chỉ thấy những hoa văn xám nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.

      - Đa nhân cách

      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư

      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

      - Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân

      - Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra

      Những con chim ưng tỉnh giấc. cảm thấy những tiếng đập cánh run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong văn phòng của ở IRD, treo khoảng tá bảng trắng và đó ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong những vụ án lớn. nhớ lại: lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những người mà họ mô tả.

      Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây…

      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

      Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà và Lon tóm mười năm trước. Tại Central Booking, tên trộm rụt rè họ bao giờ tìm được những thứ lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân xá, cho họ biết giấu ở đâu. Rhyme trả lời: ” Được rồi, bọn tao có chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu.”

      “Chắc chắn rồi”, tên trộm .

      “Xem này”, Rhyme . “bọn tao biết tới bức tường đá trong phòng đựng than của ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa sông Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc. Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của dòng sông mà thôi”.

      Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu mà mọi người dùng để mô tả nét mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi chứ.

      Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. nghĩ.

      - Ít nhất trăm năm tuổi, có thể là biệt thự hay cơ quan

      nhìn lướt tấm áp phích lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó cảm thấy choáng váng. Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu như lửa cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.

      - “Cổ xưa” hấp dẫn

      “Sachs!” la lên. “Dậy ngay!”

      giật mình và ngồi dậy. “Cái gì? Gì thế...?”

      Cổ xưa, cổ xưa, cổ xưa...

      sai mất rồi”, cộc lốc. “Có vấn đề rồi.”

      Đầu tiên nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế nhảy khỏi ghế, vớ lấy túi cứu thương của Thom.

      , manh mối cơ, Sachs, manh mối... hiểu sai.” Hơi thở của gấp gáp, nghiến răng trong lúc suy nghĩ.

      mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay tự động đưa lên gãi đầu. “Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?”

      “Nhà thờ. Có thể nó phải ở Harlem.” nhắc lại. “ sai rồi.”

      Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.

      “Mấy giờ rồi?” hỏi.

      “Hơn sáu giờ kém mười lăm chút. Lấy tờ báo . Lịch biểu lễ nhà thờ.”

      Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó ngẩng lên. “ nghĩ gì vậy?”

      “823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu muốn nhà thờ cổ của người da đen có thể ý phải là khu phố . Philip Payton thành lập công ty bất động sản Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong thành phố. Khu trung tâm, chỗ tòa án nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là người da trắng... Ôi quỷ , nghĩ gì vậy nhỉ?”

      “San Juan Hill ở đâu?”

      “Phía bắc Hell’s Kitchen. West side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất cả những người lính da đen chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ – Tâyban nha.”

      đọc lướt qua tờ báo.

      “Các nhà thờ trong khu trung tâm”, . “Nếu ở khu Battery Park ở đó có viện Seamen. Có nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa ba ngôi. Thánh Paul.”

      “Đó phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và phía đông.”

      “Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown.”

      “Có nhà thờ Tin lành hay Phúc nào khồng?”

      , có gì ở khu này. Đây… ôi, quỷ .” Ánh mắt cam chịu, thở dài. “Ôi, .”

      Rhyme hiểu ra. “Lễ chào mặt trời.”

      gật đầu: “Tín lành bánh thánh… , Rhyme có lễ hátthánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ năm mươi chin và Mười .”

      “Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ !”

      vơ lấy điện thoại và quay số. đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc lắc đầu. “Trả lời , trả lời … Quỷ . Máy ghi . Mục sư chắc rời khỏi văn phòng.” vào ống nghe. “Đây là NYPD. Chúng tôi có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng nhanh càng tốt.” dập máy, rồi giày.

      , Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ.”

      “Em?”

      “Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi.”

      chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.

      gọi điện cho đồn.” với theo khi nhảy cầu thang, tóc như đám mây đỏ quấn quanh đầu. “Sachs này, nếu em muốn lái xe nhanh bây giờ là lúc đấy.”

      Chiếc xe RRV trượt bánh Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía tây.

      Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước khi điều khiển được chiếc xe. nhớ tới tất cả các loại thiết bị khám nghiệm trường vụ án chở phía sau. chiếc xe nặng mông, nghĩ; được quặt khi chạy với tốc độ năm mươi.

      Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái. có gì. Nhấn ga!

      thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống phía nam. Mình chỉ…

      Quỷ tha ma bắt!

      Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp.

      Phố bị cấm.

      dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố buổi sáng nay. khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các dân tộc. Tay trong tay, chúng ta là .

      Ôi trời… quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. lùi lại nửa khối nhà và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên. Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, rẽ đường qua hội chợ người. Sau hai khối nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và rẽ về hướng tây sang Phố Năm mươi chín, lao lên vỉa hè đoạn nhiều hơn muốn.

      nhà thờ cách đó khoảng trăm thước.

      Giáo dân đứng bậc cầu thang – cha mẹ, bé con mặc bộ váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng, tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.

      Từ dưới cửa sổ đường hầm, đám khói xám bốc lên.

      đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.

      Vớ lấy máy bộ đàm. “RRV Hai gọi trung tâm, nghe ?”

      Đúng lúc nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem thanh được vặn lên hết cỡ hay chưa, chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi ngõ, đúng đường của .

      cái liếc nhìn rất nhanh gia đình ngồi trong xe, mọi người mắt mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.

      Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, van xin những cái lốp xe… bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt bị mềm dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe trôi đường như tàu cánh ngầm.

      Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm giờ. Sau tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm trường bay lên , mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.

      Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. lấy tay che mặt khi chiếc xe thùng nhảy tung qua dãy xe hơi, qua cửa hiệu báo và trượt đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng vật chứng mặt đất như những người lính dù tí hon.

      Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra từ vết thương trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng nóng chảy vào xe và chảy theo tay buồn buồn. rút con dao gấp ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.

      Nào bé, ra thôi. Ra nào!

      Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng bị bẹp nên cũng có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính vỡ. co chân đạp mạnh vào lớp kính chắn gió bị nứt. ảnh hưởng gì, ngoại trừ việc suýt bong gân chân.

      Súng!

      sờ vào hông; khẩu súng rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe. Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng tay và vai, tìm kiếm điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm trường vương vãi nóc xe.

      Sau đó nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn. phủi nó và nhắm vào cửa bên.

      Làm . Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.

      Sau đó ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy ?

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI TÁM



      Năm phát, theo hình sao. Mặc dù vậy kính của chiếc General Motors vẫn y nguyên.

      Ba phát nữa, nổ inh tai trong gian chật hẹp của chiếc xe thùng. Nhưng kính vẫn vỡ.

      tiếp tục đạp. Cuối cùng cánh cửa sổ bung ra bên ngoài thành dòng thác những viên băng màu xanh. Đúng lúc vừa lăn ra ngoài, nội thất của chiếc xe thùng nổ.

      Cởi hết áo chỉ để lại áo phông, ném áo khoác và áo chống đạn ngấm xăng, ném tai nghe có mic sang bên cạnh. Cảm thấy mắt cá lung lay nhưng vẫn lao về cửa chính của nhà thờ, chạy qua những người lễ và dàn đồng ca chạy trốn. Tầng trệt đầy khói. Gần đó, phần của nền nhà bị gợn sóng, nóng lên và bùng cháy.

      Bất ngờ vị mục sư xuất , bị ngạt khói, nước mắt ròng ròng. Ông ta kéo theo người phụ nữ bất tỉnh. Sachs giúp ông ta đưa người phụ nữ ra cửa.

      “Tầng hầm ở đâu?” hỏi.

      Ông ta ho dữ dội, lắc đầu.

      “Ở đâu?” quát lên, nghĩ tới Carole Ganz và đứa con của . “Tầng hầm?”

      “Đằng kia, nhưng…”

      Phía bên kia nền nhà bốc cháy.

      Sachs gần như nhìn thấy nó, khói quá dày. bức tường đổ xuống trước mặt họ, những cái rầm và cột nhà cũ đằng sau nó kêu lách tách, phun ra những tia lửa và những luồng khí nóng vào căn phòng mù mịt khói. ngần ngại chút, rồi bắt đầu đến cửa tầng hầm.

      Mục sư nắm tay . “Đợi .” Ông ta mở kho và lấy bình cứu hỏa, giật khóa bảo vệ . “ thôi.”

      Sachs lắc đầu. “Ông phải . Ông cứ kiểm soát khu vực này. với lính cứu hỏa là có sĩ quan cảnh sát và nạn nhân khác ở dưới tầng hầm.”

      Lúc này Sachs tăng tốc.

      Khi ta di chuyển…

      nhảy qua lỗ thủng lớn nền nhà. Nhưng khói làm cho đánh giá sai khoảng cách tới bức tường, nó gần hơn tưởng nên va phải bức vách gỗ và ngã ra sau, lăn tròn khi tóc quét qua ngọn lửa, vài lọn tóc bắt lửa. Nôn khan vì hít phải mùi, dập lửa và cố gắng đứng lên. Nền nhà, bị ngọn lửa phía dưới làm yếu , vỡ ra dưới chân làm ngã đập mặt xuống nền gỗ sồi. cảm thấy lưỡi lửa dưới tầng hầm liếm cánh tay và cổ tay mình khi giật tay về.

      Lăn ra khỏi rìa lỗ thủng, đứng dậy và với tay đến cái nắm tay của cửa xuống tầng hầm. Bất ngờ dừng lại.

      Này bé, nghĩ cho kỹ vào! Hãy cảm nhận cánh cửa trước khi mở. Nếu bên trong quá nóng và mày lại để oxy lọt vào trong căn phòng siêu nóng, nó bùng nổ và hơi phản hồi thiêu cháy mày ngay. chạm vào gỗ. Nóng như thiêu.

      Sau đó nghĩ: thế mình có thể làm được gì khác nào?

      Nhổ nước bọt vào tay, nắm rất nhanh cái tay nắm cửa, xoay cho nó mở và thả tay ra trước khi bàn tay kịp bị bỏng.

      Cánh cửa mở tung, đám mây khói và tia lửa cuồn cuộn trào ra.

      “Có ai trong đó ?” gọi và bắt đầu xuống.

      Những bậc thang dưới cùng cháy. phun lượt carbon dioxide rồi nhảy xuống tầng hầm ẩm mốc. đạp gãy bậc thang gần cuối cùng, chúi người về phía trước. Bình cứu hỏa rơi loảng xoảng xuống nền nhà khi nắm vội lấy tay vịn cầu thang, vừa đúng lúc để chân bị gãy.

      Kéo mình ra khỏi bậc thang gãy, Sachs liếc nhìn qua làn khói mịt mù. Dưới này khói đến nỗi quá tệ – nó bay lên trời cao – nhưng còn lửa lại bốc cháy quanh .

      Bình cứu hỏa lăn xuống dưới cái bàn cháy. Quên nó ! chạy qua đám khói.

      “Có ai ?” la lớn.

      ai trả lời.

      Sau đó nhớ ra thủ phạm 823 thường dùng băng dính; thích những nạn nhân câm lặng.

      đá tung cánh cửa và ngó vào trong phòng nồi hơi. Có cánh cửa dẫn ra ngoài nhưng rác thải cháy chặn nó lại. Phía trong là bình nhiên liệu, lúc này bị ngọn lửa bao vây.

      nổ, Sachs nhớ lại bài học từ học viện – bài giảng về hỏa hoạn. Dầu nhiên liệu nổ. Đá rác rưởi sang bên và đẩy cửa mở ra. Dọn đường rút lui cho mình. Sau đó mới tìm người phụ nữ và đứa bé.

      chần chừ, nhìn những lưỡi lửa liếm quanh thùng dầu nhiên liệu.

      nổ, nó nổ đâu.

      bắt đầu tiến lên phía trước, lần bước ra cửa.

      ...

      Thùng nhiên liệu bất thình lình nổ bục như lon soda và nứt đôi ở đoạn giữa. Dầu phụt lên trung, bùng cháy thành đám bọt màu cam khổng lồ. bể lửa thành hình nền nhà và chảy về phía Sachs.

      nổ. Được rồi. Nhưng lại cháy tệ chút nào. nhảy lùi qua cửa, đóng sập nó lại. Đường rút lui của thế là hết.

      giật lùi về phía cầu thang, ho sặc sụa, người cúi thấp, cố gắng tìm kiếm bất kỳ dấu vết nào của Carole Ganz và Pammy. Liệu 823 có thay đổi quy luật hay ? Liệu ta có bỏ qua tầng hầm và đưa những nạn nhân này lên tầng gác mái của nhà thờ hay ?

      Rắc...

      ngẩng đầu lên nhìn rất nhanh. thanh rầm gỗ sồi, bốc lửa đùng đùng bắt đầu rơi xuống.

      Sachs nhảy sang bên với tiếng thét lớn nhưng bị vấp rồi ngã ngửa, nhìn lên thanh gỗ khổng lồ lao thẳng xuống mặt và ngực . giơ hai tay lên đỡ theo bản năng.

      tiếng động ầm ĩ phát ra khi thanh gỗ hạ cánh trúng chiếc ghế học sinh trường Chủ nhật. Nó dừng lại cách đầu chỉ vài inch. bò ra và đứng lên.

      Nhìn quanh phòng, nhìn xuyên qua lớp khói đen dần.

      Quỷ . , mình đánh mất thêm nạn nhân nào nữa. Sặc sụa, Sachs quay lại chỗ đống lửa và lần bước tới góc phòng mà chưa kiểm tra.

      Lúc chạy tới trước, cẳng chân thò ra từ phía sau tủ hồ sơ ngáng ngã .

      Tay bay tới trước, Sachs sấp mặt tiếp đất, chỉ cách bể dầu cháy vài cm. lăn nghiêng, rút súng và chĩa nó vào khuôn mặt hoảng loạn của người phụ nữ tóc vàng cố gắng ngồi dậy.

      Sachs gỡ băng dính ra khỏi miệng ta và người phụ nữ nhổ ra bãi nước nhầy màu đen. ta nôn khan lúc, phát ra những thanh trầm, chết chóc.

      “Carole Ganz?”

      ta gật đầu.

      “Con chị đâu?” Sachs la lớn.

      có… ở đây. Tay tôi! Cái còng.”

      còn thời gian đâu. nào.” Sachs lấy dao cắt dây, giải phóng mắt cá chân cho Carole.

      Sau đó nhìn thấy chiếc túi nhựa nóng chảy đối diện với bức tường gần cửa sổ.

      Manh mối để lại! Những manh mối cho ta biết đứa bé ở đâu. bước lại chỗ nó. Nhưng với tiếng nổ inh tai, phòng nồi hơi đứt làm đôi, phun ra làn sóng cao sáu inch dầu sôi lên sàn nhà, bao vây chiếc túi. Nó tan biến tức khắc.

      Sachs nhìn nó trong giây lát rồi nghe thấy tiếng thét của người phụ nữ. Cả cầu thang lúc này cháy. Sachs đá bình cứu hỏa ra khỏi gầm cái bàn ỉ cháy. Cái tay cầm và vòi phun nóng chảy, thể cầm vỏ bình kim loại vì quá nóng. dùng dao cắt mảnh áo khoác đồng phục và nắm cổ chiếc bình cứu hỏa nóng rẫy ném lên những bậc cầu thang bốc cháy. Nó dừng lại trong khắc, giống như con ky sau đó rơi xuống dưới.

      Sachs rút khẩu Glock và khi cái trục đỏ lăn được nửa đường, bắn hết băng.

      Chiếc bình cứu hỏa nổ tung; những mảnh vỏ vỡ bay qua đầu họ. đám mây hình nấm carbon dioxide và bột xuất cầu thang, ngay lập tức dập tắt phần lớn ngọn lửa.

      thôi!” Sachs la lớn.

      Họ cùng nhau nhảy ra hai bậc cầu thang , Sachs mang trọng lượng của cả người nửa của người phụ nữ, cùng nhau lao qua cửa vào hỏa ngục của tầng trệt. Họ bám vào tường lần mò bước ra cửa, trong khi đó phía họ, những cánh cửa sổ kính màu vỡ tan tạo ra cơn mưa mảnh vụn nóng bỏng – thân hình nhiều màu sắc của Jesus và Mathew, Mary và Chúa trời – xuống hai tấm lưng cúi gập của hai người phụ nữ trốn chạy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :