KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI CHÍN



      Năm 1911, thảm họa khủng khiếp giáng xuống thành phố của chúng ta.

      Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ làm việc hăng say trong xưởng may, trong nhiều xưởng may nổi tiếng với tên gọi “Cửa hiệu mồ hôi” ở Greenwich Village, trung tâm Manhattan.

      Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ cho các đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ còn được hưởng. Họ cho rằng thể tin tưởng để công nhân được nhanh chóng vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.

      Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của . qua xe cảnh sát, nhưng luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm bao giờ chú ý tới .

      Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà, chỉ trong vòng vài phút lan ra khắp nhà máy. Những người công nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá sợ lửa lao ra ngoài trung, cách mặt sỏi trăm feet và chết khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.

      trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát rất ngạc nhiên khi thể tìm được nạn nhân, người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà vài nhân chứng nhìn thấy, tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng tám. nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu xảy đến với ? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố để gia đình tới nhận diện, người ta tìm được Weinraub tội nghiệp.

      Có những báo cáo về con ma cà rồng, người đàn ông vác cái túi lớn ra khỏi trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới mức họ bắt đầu cuộc tìm kiếm thầm nhằm vào người đàn ông.

      Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đem lại kết quả. Hai người dân sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ nhìn thấy người đàn ông vác túi nặng “trông như tấm thảm” vai và rời khỏi trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của và theo đến phía tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn tự do.

      Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới nơi đổ nát tại con ngõ ở Hell’s Kitchen, cách bãi chăn Phố Sáu mươi xa. Khi họ tiến vào, mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ…

      lái xe qua chỗ đám cháy Triangle – có thể vô thức dẫn đến đây. Tòa nhà Asch – cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước kia là nhà máy định mệnh – biến mất, và mảnh đất đó lúc này là phần của Đại học New York. Quá khứ và tại… Kẻ Tầm Xương ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngᴬ rơi xuống chết quanh ta như những bông tuyết.

      Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách thấy cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng thương – (hay là những gì còn lại) – được tìm thấy dưới tầng hầm. Schneider thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm để có thể kể ra ở đây.

      Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra căn phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt vị lóc hết thịt. Dưới giường của Schneider, cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của . “Xương” – Schneider viết – “là cốt lõi tối thượng của con người. Nó thay đổi, lừa dối, đầu hàng. khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt dối trá. Nó là vĩnh cửu.”

      Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn nhân. thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật ăn và dìm nước.

      Nhưng có phương pháp được thích nhất cho hành động rùng rợn này. “Cách tốt nhất, theo kết luận của tôi” – (tiếp tục nhật ký của ) – “là chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại gây ít nghi ngờ nhất vì bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn sống, lý do tôi thể chắc chắn”.

      Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ họ thực còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng lên tột cùng đau khổ của họ.

      Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho Schneider cái tên làm nổi tiếng mãi cho tới sau này – “Kẻ tầm xương”.

      lái xe tiếp, suy nghĩ của trở lại với người phụ nữ nằm trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của ta, xương đòn thanh tú của ta như đôi cánh chim. tăng tốc, thậm chí vượt hai đèn đỏ. thể chờ đợi thêm nữa.

      “Tôi mệt”, Rhyme cáu kỉnh.

      “Mệt hay mặc kệ, phải nghỉ ngơi.”

      , tôi muốn uống.”

      Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper vác hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi chiếc ghế mây, nhưng ta nhiều. ta vừa kết luận rằng, Rhyme Lincoln hề say.

      Thom : “Tôi chắc là huyết áp của lại lên đấy. cần phải nghỉ ngơi.”

      “Tôi muốn uống”.

      Quỷ tha ma bắt , Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà hiểu vì sao.

      phải bỏ . Uống chẳng có ích gì cho cả.”

      Được rồi, tôi bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch bước.

      “Rót cho tôi cốc nữa”, ra lệnh.

      Nhưng thực muốn.

      .”

      “Rót ngay cho tôi!” Rhyme cáu kỉnh.

      .”

      “Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?”

      “Tôi…”

      Thom : “ ta được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế này, thể chịu nổi ta. Chúng ta đầu hàng ta”.

      “Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy.”

      “Thoải mái .”

      “Lạm dụng người tàn tật! Tôi cho cậu ra tòa! Bắt ta ngay, Lon.”

      “Lincoln”, Sellitto xoa dịu.

      “Bắt ta!”

      Viên thám tử ngạc nhiên vì hằn học trong lời của Rhyme.

      “Này bạn, cậu làm ơn nhàng hơn chút, được ?” Sellitto .

      “Ôi, lạy Chúa”, Rhyme rên rỉ. bắt đầu rên ầm ĩ.

      Sellitto buột miệng: “Gì thế?” Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.

      “Gan của tôi.” Rhyme nhăn nhó. “Có thể là xơ gan.”

      Thom quay lại, giận dữ. “Tôi vào tròng với cái trò ấy đâu. Được chưa?”

      , ổn…”

      Giọng phụ nữ vang lên từ ô cửa: “Chúng ta có nhiều thời gian.”

      “… tí nào.”

      Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy môi mình dính nước bọt. quá tức giận. Vì nhìn thấy nước dãi. Vì mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì . Và vì tuyệt vọng muốn được đơn, mãi mãi, đơn trong yên bình bất động – nơi là hoàng đế. phải vua ngày. Mà là hoàng đế mãi mãi.

      Nước bọt chảy ra cù buồn buồn. cố co gân cổ rất đau đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút tờ giấy lau trong hộp, lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.

      “Sĩ quan Sachs”, Thom . “Xin chào. ví dụ tiêu biểu của trưởng thành. Ta thấy điều đó nhiều ngay lúc này.”

      đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của thả rơi xuống cổ. Mái tóc này làm ai gặp khó khăn khi phân tích dưới kính hiển vi.

      “Mel cho tôi vào”, , hất đầu về phía cầu thang.

      “Quá giờ ngủ của phải , Sachs?”

      Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ.

      “Tôi vừa ở văn phòng FBI”, với Sellitto.

      “Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?”

      “Họ tóm được rồi.”

      “Cái gì?” Sellitto hỏi. “Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện ấy rồi à?”

      “Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. là tài xế taxi. sinh ra ở đây, nhưng cha là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ đòi công lý với Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đến đấy.”

      “Họ làm thế nào nhỉ?” Rhyme hỏi. “Tôi đoán đó là nhờ dấu tay.”

      gật đầu.

      “Tôi nghĩ rằng điều này quá ràng. tôi nghe, họ quan tâm tới nạn nhân tiếp theo đến đâu?”

      “Họ có quan tâm”, đều đều. “Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm đối tượng.”

      “À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ moi ra chỗ nạn nhân tiếp theo sau khi họ tóm được .”

      đúng.”

      “Chắc cần chút cố gắng đấy”. Rhyme . “Tôi có thể đưa ra nhận định này mà cần đến chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm thay đổi ý định vậy? Sao quay lại?”

      “Bởi vì bất kể Dellray có xích được hay tôi cũng nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp theo.”

      “Ồ, nhưng chúng ta bị giải tán, chưa nghe à? Đóng cửa, phá sản.” Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc có được chải ?

      đầu hàng?” hỏi.

      “Sĩ quan”, Sellitto bắt đầu, “ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó, chúng ta cũng có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất…”

      “Tôi có.”

      “Cái gì?”

      “Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV.”

      Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.

      Sachs tiếp tục: “Từ trường cuối cùng. Từ tất cả mọi trường.”

      có nó?” Rhyme hỏi. “Sao thế được?”

      Nhưng Sellitto cười phá: “Mẹ kiếp, Lincoln, ta cướp chúng.”

      “Dellray cần tới chúng”, Sachs chỉ ra. “Trừ khi dùng cho việc xử án. Họ có đối tượng, chúng ta cứu nạn nhân. Cũng được, phải ?”

      “Nhưng Mel Cooper vừa về rồi.”

      , ta dưới cầu thang. Tôi bảo ta đợi.” Sachs bắt tréo tay. nhìn đồng hồ. Quá mười giờ. “Ta có nhiều thời gian”, nhắc lại.

      cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, mệt. Thom đúng; cả năm nay chưa bao giờ thức khuya như vậy. Nhưng thấy ngạc nhiên – , đúng hơn là bị sốc – khi thấy rằng ngày hôm nay có thể giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng những giây phút vừa qua hề đặt lên tâm hồn gánh nặng nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.

      “Được rồi, hết ý.” Rhyme bật tràng cười. “Thom? Thom!Chúng ta cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau giờ nữa. Và gọi cái bóng của đến đây , Lon. Cái chàng có tên như cầu thủ bóng chày ấy.”

      Chiếc xe tải màu đen lao nhanh phố.

      Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết ta làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đường vòng, tránh những con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát. Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đầu, siết chặt dây khóa dán Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.

      ta nhìn những căn hộ bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là khi còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray mua trăm ba mươi bảy pound cocaine của gã Puerto Rican thó, nhưng chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp người mua hàng của mình. cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể nhặt mớ rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi kịp hồi tỉnh, để lại cho Dellray choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là ta suýt bị giết vì tên tội phạm thực tin vào màn kịch của viên điệp vụ – tin rằng ta là tên buôn ma túy, phải cớm.

      “ETA(110), còn bốn phút’, người lái xe nhắc.

      Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. ta lấy làm tiếc xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng ta có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên – mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ , chính là nhóm của ta tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ khai thác nó đúng lúc). Ngày xưa, trước tai nạn, ta thể đánh bại được Lincoln Rhyme nếu như ta muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào lừa được ta.

      Lúc này Rhyme là thứ đồ chơi hỏng. buồn khi điều tệ hại đó xảy ra cho ta, khi ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray vào phòng của ta – phòng ngủ của ta – và chơi ta vố đau. Đau hơn mức cần thiết.

      Có thể ta gọi. ta có thể….

      “Giờ diễn”, người lái xe thông báo và Dellray quên hết mọi thứ về Lincoln Rhyme.

      Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác mà họ qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia hay điếu thuốc lá, cố gắng có được , hai ngụm khí mát mẻ. Nhưng con phố này tăm tối và vắng vẻ.

      Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; người giấu nhanh chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.

      Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng vàng nhợt nhạt.

      Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thầm với Dellray: “Perkins đấy.” Gõ vào tai nghe của ta. “ ta chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?”

      “Là tôi”, con Kỳ nhông cáu kỉnh. ta quay lại nhóm của mình. “Tôi muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn công. Tất cả chưa?”

      Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.

      Tay ôm lấy , dẫn người phụ nữ nửa tỉnh nửa mê vì cú đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, quăng xuống nền nhà bụi bặm và nhìn chăm chăm.

      Esther…

      Mắt ngước lên nhìn . Tuyệt vọng, van xin. hề nhận thấy. Những gì thấy chỉ là cơ thể . bắt đầu cởi quần áo , bộ quần áo chạy thể dục màu tía. thể tin được là bây giờ phụ nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. nghĩ Esther Weinbraub là con điếm. ta là công nhân, may áo sơ mi với giá xu năm cái.

      Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của ta nhô ra nơi cổ họng. Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của ta, ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.

      làm gì vậy?” ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.

      Kẻ Tầm Xương nhìn ta kỹ, nhưng thứ mà thấy phải là người phụ nữ còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng, môi quá dày với làn da như cát bẩn. nhìn thấy phía dưới những thứ hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể ta.

      săn sóc thái dương , nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt, làm ơn

      ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng – dưới này khói mù mịt, mặc dù gần như nhận thấy chúng.

      “Đừng đánh tôi nữa”, ta thầm, đầu lắc lư. “Đừng đánh tôi. Làm ơn”.

      lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của ta. ta nhìn thân thể lõa lồ của mình.

      muốn à?” ta gần đứt hơi. “Được, có thể chơi tôi. Được.”

      Khoái lạc thân xác, nghĩ… đúng rồi.

      kéo ta đứng lên và ta giãy ra khỏi như điên rồi tập tễnh chạy ra cánh cửa ở gần tầng hầm. phải chạy, thực cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi, vươn tay ta vẫy về phía cửa.

      Kẻ Tầm Xương, nhìn ta, bị mê hoặc bởi cái dáng chậm chạp, đáng thương của ta.

      Ô cửa, từng mở hướng ra đường máng đổ than, giờ đây dẫn đến đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của tòa nhà bị bỏ hoang cạnh đó.

      Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. ta trèo vào bên trong.

      Chưa đến phút sau ta nghe thấy tiếng la thét rền rĩ. Nối tiếp là những tiếng thét đứt hơi, giật giọng: “Trời ơi, , , …” Còn những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.

      Rồi từ đường hầm ta chạy ra, nhanh hơn, phủi tay khắp người như thể ta cố gắng giũ bỏ những thứ ta vừa nhìn thấy.

      Đến với ta nào, Esther.

      Loạng choạng nền nhà bụi bặm, nức nở.

      Đến với ta.

      Chạy thẳng tới bệnh nhân của , những cánh tay chờ đợi, ôm chầm lấy . siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI




      Tuần trăng, chiếc lá, thứ đồ lót quỷ quái, bụi. Cả nhóm quay lại phòng ngủ của Rhyme, trừ Polling và Haumann; để đại úy chỉ huy tham gia vào chiến dịch ràng là hợp lệ, thử thách quá lớn đối với lòng trung thành của NYPD.


      “Cậu G-C chất lỏng đồ lót rồi phải , Mel?”


      “Phải làm lại thôi. Chúng ta bị cắt ngang trước khi có kết quả.”


      ta thấm mẫu chất lỏng và bơm nó vào máy sắc ký khí. Khi chạy máy, Sachs giả vờ nhìn vào các đỉnh và đáy của đồ thị lên màn hình.Giống như chỉ số chứng khoán. Rhyme nhận ra đứng gần , hình như lân la lại gần khi nhìn. hẠgiọng . “Tôi…”


      “Vâng?”


      “Tôi lỗ mãng hơn tôi nghĩ. Ý tôi là lúc trước. Tôi rất nóng tính. Tôi hiểu sao tôi lại như thế. Nhưng tôi làm vậy.”


      đúng", Rhyme .


      Họ dễ dàng chấp nhận ánh mắt của nhau và Rhyme nghĩ tới những lúc cùng Blaine chuyện nghiêm chỉnh. Khi , họ luôn tập trung vào vật nằm giữa họ – con ngựa sứ do sưu tầm, cuốn sách, chai vang Merlot hay Chardonnay gần cạn.


      : “Tôi có cách khám nghiệm trường giống với các nhà hình khác. Tôi cần người có định kiến. Nhưng tôi cũng cần người biết tự suy nghĩ.”


      Những phẩm chất đối nghịch mà người ta tìm thấy ở những cặp tình nhân hoàn hảo. Mạnh mẽ và yếu đuối, cân bằng nhau.


      : “Khi tôi chuyện với Eckert, tôi chỉ muốn được chuyển công việc. Đó là tất cả những gì tôi muốn. bao giờ tôi nghĩ rằng câu chuyện có thể đến tai nhân viên của Cục và họ lại lấy mất vụ này.”


      “Tôi biết.”


      “Tôi vẫn để mình giận dữ. Tôi xin lỗi.”


      “Đừng thụt lùi, Sachs. Tôi cần có ai đó với tôi rằng, tôi là đồ ngốc khi tôi ra vẻ như vậy. Thom làm thế. Nên tôi thích cậu ta.”


      “Đừng có lấy lòng tôi, Lincoln.” Thom với lại, từ phía phòng bên kia.


      “Chưa có ai nặng lời với tôi. Lúc nào họ cũng nâng như nâng trứng. Tôi ghét bị như thế.”


      “Có lẽ gần đây mấy người đến chuyện với .”


      lúc sau, : “Đúng thế.”


      màn hình máy sắc ký khí – phổ kế những đỉnh và đáy thôi chuyển động và trở thành trong những chữ ký nhiều vô hạn độ của thiên nhiên. Mel Cooper gõ bàn phím và đọc kết quả. “Nước, dầu diesel, phosphate, sodium, dấu vết của khoáng chất… hiểu nó có ý nghĩa gì.”


      Thông điệp gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Là chiếc quần lót? Là chất lỏng? : “Tiếp tục , tôi muốn xem chỗ bẩn.”


      Sachs đem cái túi đến chỗ . Nó đựng ít cát màu hồng, có ít đất sét và đá cuội.


      “Gan bò”, tuyên bố. “Hỗn hợp đá và cát. Ở ngay bên nền của Manhattan. Có lẫn sodium silicate ?”


      Cooper chạy máy sắc ký khí. “Có. Nhiều lắm.”


      “Thế ta phải tìm nơi ở trung tâm, cách mép nước khoảng mười lăm thước…” Rhyme cười to khi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Sachs. “Chẳng có phép lạ gì đâu. Tôi chỉ làm bài tập ở nhà thôi. Các nhà thầu thường trộn sodium silicate với gan bò để gia cố nền đất trước khi đào móng ở những khu vực nền đá sâu gần nước. Điều đó có nghĩa là nó phải ở trung tâm. Còn giờ hãy xem cái lá”.


      giơ cái túi lên.


      “Chẳng hiểu nó là cái gì”, Rhyme . “Tôi cho là mình chưa bao giờ nhìn thấy cái lá nào như vậy. phải ở Manhattan.”


      “Tôi có danh mục các trang web về nghề làm vườn”, Cooper , vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tôi phải lướt web tí.”


      Rhyme đôi lúc cũng lên mạng, lang thang Internet. Cũng như với sách vở, phim ảnh và áp phích, mối quan tâm của với Internet cuối cùng cũng tiêu tan. Có thể vì thế giới của chính quá ảo, mà mạng cũng vậy, rốt cuộc lại trở thành nơi đau khổ đối với Rhyme.


      Màn hình của Cooper nhấp nháy, nhảy múa khi ta bấm những đường siêu liên kết và thâm nhập vào trang web. “Tôi tải mấy file về. Có lẽ mất khoảng mười đến hai mươi phút.”


      Rhyme : “Được rồi. Những manh mối còn lại mà Sachs tìm thấy… Những manh mối phải được để lại. Những thứ khác. Chúng có thể cho ta biết ở đâu. Hãy xem thử vũ khí bí mật của chúng ta, Mel.”


      “Vũ khí bí mật?” Sachs hỏi.


      “Chứng cứ dấu vết.”


      Đặc vụ Fred Dellray tổ chức đợt xâm nhập mười người. Hai đội cộng thêm nhóm S&S. Mấy đặc vụ mặc áo chống đạn đứng trong bụi cây đổ mồ hôi như tắm. Bên kia phố, tầng gác tòa nhà bỏ hoang bằng đá nâu, nhóm S&S có máy nghe trộm và máy quay hồng ngoại chiếu vào nhà nghi phạm.


      Ba thiện xạ nằm mái nhà cùng những khẩu Remingtons vĩ đại, lên đạn và sẵn sàng. người quan sát cầm ống nhòm quỳ cạnh họ như những bà mụ.


      Dellray – mặc áo gió FBI và quần bò thay vì bộ vét màu xanh lá Leprechaun – lắng nghe qua tai nghe.


      “Giám sát báo cáo chỉ huy. Chúng tôi có kết quả hồng ngoại trong tầng hầm. Dưới đó có người lại.”


      “Cảnh tượng thế nào?” Dellray hỏi.


      nhìn thấy gì. Cửa sổ bẩn quá,”


      mình ? Có nạn nhân ở đó ?” Có thể sĩ quan Sachs đúng; lúc này chắc tóm được ai đó rồi.


      biết. Chúng tôi chỉ thu được chuyển động và nhiệt.”


      Dellray cử sĩ quan khác chạy qua bên cạnh ngôi nhà. Họ báo cáo: “ có bóng dáng ai ở tầng và tầng hầm. Ga ra bị khóa.”


      “Thiện xạ?” Dellray hỏi. “Báo cáo.”


      “Xạ thủ báo cáo chỉ huy. Tôi chiếm được cửa trước. Hết.”


      Những ngưới khác vào hành lang và phòng ở tầng . “Sẵn sàng.”


      Dellray rút khẩu tự động ra.


      “Được rồi, ta có giấy tờ”, Dellray . Có nghĩa là giấy phép. Họ cần phải gõ cửa. “ nào! Nhóm , nhóm hai dàn trận, dàn trận, dàn trận.”


      Nhóm đầu tiên phá cửa trước bằng thanh gỗ trong khi nhóm thứ hai có cách thức văn minh hơn là phá cửa sổ sau nhà rồi mở chốt. Họ tràn vào, Dellray theo sĩ quan cuối cùng trong nhóm vào căn nhà cũ kỹ, bẩn thỉu. Mùi thịt thối kinh khủng, và Dellray, mặc dù quá quen với những trường vụ án cũng phải nuốt khan, cố gắng nôn thốc nôn tháo.


      Nhóm thứ hai chiếm được tầng trệt, sau đó xông lên cầu thang tới phòng ngủ, trong khi nhóm thứ nhất chạy xuống tầng hầm, tiếng giày nện ầm ầm cầu thang gỗ.


      Dellray chạy xuống tầng hầm bốc mùi ghê sợ. ta nghe thấy tiếng cửa bị phá đâu đó phía dưới và nghe tiếng thét: “ động đậy! Đặc vụ liên bang đây. Đứng im. Đứng im. Đứng im!”


      Nhưng khi đến cửa tầng hầm, ta nghe thấy vẫn tiếng đặc vụ đó cáu kỉnh quát nhưng với giọng hoàn toàn khác. “Quái quỷ gì thế này? Ôi, lạy Chúa.”


      “Mẹ kiếp”, đặc vụ khác . “Kinh quá!”


      “Thối như cứt”, Dellray la lên, bị nghẹt thở khi bước vào trong. Cố gắng nuốt khan vì mùi quá kinh khủng.


      xác người nằm sàn, chảy ra thứ nước đen. Cổ họng bị cứa đứt. ta chết, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà nhưng thân hình ta trông có vẻ động đậy – phồng lên, dịch chuyển. Dellray sởn gai ốc, ta chưa bao giờ miễn dịch được với cảnh tượng nhung nhúc những côn trùng. Số lượng giòi bọ cho thấy nạn nhân chết ít nhất được ba ngày.


      “Vì sao hồng ngoại lại dương tính?” đặc vụ hỏi.


      Dellray chỉ con chuột cùng những vết răng chuột và cạnh mạng sườn sưng vù của nạn nhân. “Chúng chắc chỉ loanh quanh đâu đây. Ta làm gián đoạn bữa trưa của chúng.”


      “Chuyện gì xảy ra vậy? nạn nhân hạ được ?”


      gì thế?” Dellry cáu kỉnh.


      , phải đấy ư?”


      , đó phải là ta”, Dellray nổi giận, mắt nhìn vết thương thân thể nạn nhân.


      người trong nhóm với vẻ nghiêm trọng.: “Này Dellray. Đúng là đấy. Ta có ảnh . Chính là Pietrs.”


      “Tất nhiên đấy là thằng Pietrs chết tiệt. Nhưng phải đối tượng của chúng ta. hiểu à?”


      , ý cậu là gì?”


      Mọi thứ trở nên ràng với ta. “Thằng khốn.”


      Điện thoại của Dellray rung làm ta nhảy lên. ta mở nó ra, nghe khoảng phút. “ ta làm cái gì? Cứ như là tôi cần lắm… Chưa, vẫn chưa tóm được thằng khốn đó.”


      ta nhấn phím tắt, chỉ ngón tay giận dữ vào hai đặc vụ SWAT. “Các cậu với tôi.”


      “Có gì thế, Dellray?”


      “Chúng ta chuyến viếng thăm. Khi đến đó chúng ta như thế nào?” Hai đặc vụ nhìn nhau, cau mày. Nhưng Dellray có câu trả lời: “Chúng ta tử tế chút nào cả.”






      Mel Cooper đổ những thứ bên trong phong bì lên tờ báo. Dùng kính lúp kiểm tra đám bụi. “Được rồi, có bụi gạch. Và ít đá kiểu khác. Tôi nghĩ là đá cẩm thạch.”


      ta để mẩu lên thanh trượt và xem xét nó dưới kính hiển vi. “Đúng rồi, đá cẩm thạch. Màu hồng.”


      “Trong đường hầm ở bãi chăn, chỗ tìm thấy người Đức ấy, có tí đá cẩm thạch nào ?”


      ”, Sachs trả lời.


      Cooper gợi ý có thể chúng từ nơi ở của Monelle, chỗ ta bị Đối tượng 823 bắt.


      , tôi biết khu Deutsche Haus. Đó chỉ là mấy tòa nhà East Village được chuyển đổi. Loại đá tốt nhất ở đó chỉ là đá hoa được đánh bóng. Có thể, chỉ có thể thôi, đây là mẩu từ hang ổ của . Nó có gì đặc biệt ?”


      “Dấu đục.” Copper , vẫn cúi mình kính hiển vi,


      “Thế à, tốt. Có ?”


      lắm. đều.”


      “Như vậy là máy cắt đá hơi nước cũ.”


      “Ừ, tôi đoán thế.”


      “Viết , Thom.” Rhyme chỉ thị, hất đầu về phía tấm áp phích. “Trong nhà có đá cẩm thạch. Cẩm thạch cũ.”


      “Nhưng tại sao ta lại phải quan tâm đến nơi nấp an toàn của nhỉ?” Banks vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ. “Đặc vụ liên bang đến đây bất kỳ lúc nào.”


      “Thông tin bao giờ đủ, đúng , Banks. Nhớ lấy điều đó. Ta còn gì nữa nào?”


      mẩu găng tay nữa. Da màu đỏ. Cái gì thế này?” hỏi Sachs, giơ cái túi nhựa đựng mẩu gỗ lên.


      “Mẫu nước hoa dùng sau khi cạo râu. Chỗ chạm vào cột.”


      “Tôi có phải đọc lại bài cũ ?” Cooper băn khoăn.


      “Để tôi ngửi thử ”, Rhyme .


      Sachs đưa cái túi lại chỗ . Trong đó là mẩu gỗ hình tròn. mở túi và ngửi khí bên trong.


      “Tuyệt. Sao mình có thể bỏ qua được nhỉ? Thom, viết thêm là bạn của chúng ta dùng nước hoa bán trong cửa hàng.


      Cooper tuyên bố: “Ta có thêm sợi lông nữa.” Kỹ thuật viên gắn nó lên kính hiển vi so sánh. “Rất giống với thứ ta tìm thấy trước đây. Có thể từ cùng nguồn. Lincoln, cái này cho đấy. Tôi có thể nó giống nhau. Màu nâu.”


      “Đoạn cuối bị cắt hay gãy tự nhiên?”


      “Bị cắt.”


      “Tốt rồi. Ta có kết luận về màu tóc”, Rhyme .


      Thom viết màu nâu đúng lúc Sellitto : “Đừng viết vội.”


      “Sao thế?”


      ràng đây phải màu nâu”, Rhyme tiếp.


      “Tôi nghĩ…”


      “Thứ gì đó nhưng thể là màu nâu. Màu vàng, màu cát, đen, đỏ…”


      Viên thám tử giải thích: “Trò rất cũ. Cậu đến ngõ phố, lấy mấy sợi tóc trong cửa hiệu cắt tóc. Vứt chúng quanh trường.”


      “Ồ”, Banks cất điều này vào đâu đó trong bộ óc đầy nhiệt huyết của ta.


      Rhyme : “Được rồi. Đám sợi.”


      Cooper đưa nó vào kính hiển vi phân cực. ta trong khi điều chỉnh các nút vặn: “Khúc xạ đúp .053.”


      Rhyme thốt lên: “Nylon 6. Trông nó thế nào, Mel?”


      “Rất thưa. Mặt cắt dạng thùy. Xám nhạt.”


      “Thảm.”


      “Được rồi. Tôi kiểm tra cơ sở dữ liệu.” lúc sau ta ngẩng đầu lên. “Sợi Hampstead Textile 118B.”


      Rhyme thở dài, vẻ chán nản.


      “Sao thế?” Sachs hỏi.


      “Vải bọc cốp xe thông dụng nhất nước Mỹ. Có ở hơn trăm loại xe trong suốt năm mươi năm. Vô vọng… Mel, có gì trong cái sợi ấy ? Dùng SEM(111) nhé.”


      Kỹ thuật viên bật kính hiển vi điện tử quét. Màn hình bật lên ánh sáng xanh dương – xanh lá ma quái. Mẩu sợi trông như sợi dây khổng lồ.


      “Có gì đây này. Tinh thể. Rất nhiều. Họ dùng titanium dioxide để làm cho thảm mất độ bóng. Có thể là nó đấy.”


      “Đốt nó lên. Quan trọng đấy.”


      đủ, Lincoln. Tôi phải đốt tất cả sợi.”


      “Thế đốt .”


      Sellitto tế nhị : “Mượn chứng cứ liên bang là chuyện. Còn phá hủy nó? Tôi biết, Lincoln. Nếu như có xử án…”


      “Ta phải làm.’


      “Trời ơi”, Banks .


      Sellitto miễn cưỡng gật đầu và Cooper gắn mẫu vào máy. Chiếc máy rít lên. lúc sau màn hình nhấp nháy, các đồ thị cột ra. “Đây này, đây là phân tử polyme chuỗi dài. Nylon. Nhưng đường sóng này là thứ khác. Chlorine, chất tẩy… Đó là chất giặt tẩy.”


      “Nhớ rằng Đức chiếc xe có mùi sạch . Hãy tìm xem đó là loại gì.” Rhyme .


      Cooper nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu tên thương hiệu. “Sản phẩm của Pfizer Chemicals. Nó được Baer Automotive Products bán với thương hiệu Tidi-Kleen ở Teterboro.”


      “Tuyệt hảo!” Lincoln Rhyme la lên. “Tôi biết công ty này. Họ bán sỉ cho các đội xe. Phần lớn là các công ty cho thuê xe. Đối tượng của ta dùng xe thuê.”


      đủ điên để lái chiếc thuê đến trường gây án, đúng ?” Banks hỏi.


      “Xe đánh cắp”, Rhyme lẩm bẩm, như thể người thanh niên hỏi hai cộng hai bằng mấy. “Và nó có biển xe ăn cắp. Emma vẫn làm với chúng ta chứ?”


      “Giờ này chắc ta về nhà rồi.”


      “Gọi ta dậy, bảo ta tìm kiếm kẻ đánh cắp của Hertz, Avis, National và Budget.”


      làm”, Sellitto , dù thoải mái lắm, có thể vì ta ngửi thấy mùi vật chứng liên bang bị hỏa thiêu phảng phất trong khí.


      “Dấu chân?” Sachs hỏi.


      Rhyme nhìn bức hình tĩnh điện do đem về.


      “Giày bị mòn kiểu khác thường. Hãy xem phần đế giày dưới ngón chân cái bị vẹt này?”


      “Ngón quặp?” Thom thành tiếng.


      “Có thể, nhưng lại thấy phần mòn tương ứng của gót chân.” Rhyme nghiên cứu vết chân. “Tôi nghĩ có thể ta là người đọc sách.”


      người đọc sách?’


      ngồi xuống ghế ở kia”, Rhyme với Sachs. “Cúi xuống bàn, vờ như đọc sách.”


      ngồi xuống, rồi ngẩng lên hỏi: “Và?”


      “Giả vờ lật trang .”


      làm theo, vài lần. Lại ngẩng lên.


      “Tiếp tục . đọc Chiến tranh và hòa bình.”


      Tiếp tục lật trang, đầu hơi cúi. Sau lúc, nghĩ ngợi, bắt tréo chân. Phần tiếp xúc duy nhất với mặt đất là cạnh ngoài của chiếc giày.


      Rhyme chỉ ra điều này. “Đưa nó vào hồ sơ Thom. Nhưng đánh dấu hỏi.”


      “Giờ hãy xem đường vân.”


      Sachs lấy được được dấu tay tốt, dấu tay họ có thể dùng nhận dạng đối tượng. “Nó vẫn trong tòa nhà kiểu liên bang.”


      Nhưng Rhyme quan tâm đến dấu tay đó. Mà là dấu tay khác, dấu Kromekote mà Sachs lấy được da người Đức. muốn xem nó.


      quét được”, Cooper tuyên bố. “Thậm chí được loại C. Tôi phát biểu gì nếu như tôi phải có ý kiến.”


      Rhyme : “Tôi quan tâm đến nhận dạng. Tôi quan tâm đến đường này.” Đó là đường hình trăng lưỡi liềm nằm ngay giữa ngón tay.


      “Cái gì thế?” Sachs hỏi.


      “Tôi nghĩ là vết sẹo”, Cooper . “Từ vết cắt cũ. Rất sâu. Có vẻ sâu đến tận xương.”


      Rhyme nhớ lại những dấu vết và dị dạng da mà nhìn thấy trong nhiều năm qua. Thời gian trước, khi công việc còn chưa phải chủ yếu là sắp xếp giấy tờ và gõ bàn phím, có thể đoán được người làm nghề gì chỉ nhờ nhìn tay ta: những ngón tay biến dạng vì đánh máy, những vết đâm của máy khâu và kim khâu da, vết mực và dấu quản bút tay người ghi tốc ký và kế toán viên, những mẩu giấy từ xưởng in, những vết sẹo của người cắt khuôn, những vết chai khác biệt từ các loại hình lao động chân tay khác nhau….


      Nhưng vết sẹo kiểu này chẳng với họ điều gì.


      Ít nhất là chưa phải lúc này. Chưa phải tới lúc họ có được bàn tay của nghi phạm để kiểm tra.


      “Còn gì nữa? Dấu đầu gối. Tốt. Cho ta biết mặc gì. Giơ nó lên , Sachs. Cao lên. Quần thụng. Có vết ly rất sâu, vì thế đó là sợi tự nhiên. Với thời tiết thế này tôi nghĩ rằng đó là vải bông. phải len. Ngày nay người ta mặc quần thụng lụa nhiều nữa.”


      , phải vải bông chéo”, Cooper .


      “Bộ đồ thể thao”, Rhyme kết luận. “Thêm điều đó vào hồ sơ của ta , Thom.”


      Cooper quay lại màn hình máy tính và nhập thêm dữ liệu. “ may mắn lắm với cái lá. trùng hợp với bất cứ thứ gì ở Smithsonian(112).”


      Rhyme ngả đầu xuống gối? Họ còn được bao nhiêu thời gian? giờ? Hai giờ?


      Mặt trăng. Bụi bẩn. Nước biển…


      liếc nhìn Sachs đứng mình ở góc nhà. cúi đầu, mái tóc đỏ dài xuôi xuống nền nhà. nhìn cái túi chứng cứ, vẻ mặt nghiêm nghị, hoàn toàn tập trung. biết bao nhiêu lần Rhyme đứng trong tư thế ấy, gắng sức để…


      “Tờ báo!” la lớn, ngẩng nhìn. “Cái mẩu giấy báo đâu rồi?” Ánh mắt đầy phấn khích khi tìm kiếm những mặt bàn. “Báo hôm nay?”


      “Gì thế, Sachs?” Rhyme hỏi.


      giật tờ Thời báo New York từ Jerry Banks và nhanh chóng lướt qua.


      “Thứ chất lỏng… từ đồ lót”, với Rhyme. “Có thể là nước biển được ?”


      “Nước muối?” Cooper cúi nhìn đồ thị GC-MS. “Tất nhiên rồi! Nước, natrium và những khoáng chất khác. Dầu và phosphate. Đó là nước biển bị ô nhiễm.”


      Mắt gặp mắt Rhyme và họ đồng thanh : “Thủy triều!”


      giương tờ báo, được lật đến bản đồ thời tiết. Nó có sơ đồ tuần trăng giống với sơ đồ được tìm thấy tại trường. Phía dưới là sơ đồ thủy triều. “Còn bốn mươi phút nữa thủy triều lên.’


      Mặt Rhyme nhăn nhó vì khó chịu. chưa bao giờ giận chính mình đến thế. “ dìm chết nạn nhân. Họ ở dưới cầu cảng ở trung tâm.” nhìn vô vọng vào bản đồ Manhattan với bờ biển dài nhiều dặm. “Sachs, đến lúc đua xe rồi. và Banks đo theo hướng tây. Lon, sao về hướng đông? Vòng quanh cảng South Street. Còn Mel, nghĩ xem cái lá là cái quái quỷ gì thế!”


      con sóng thình lình vỗ vào đầu ông gục xuống ngực.


      William Everett mở mắt và phì mạnh chỗ nước lạnh ngắt từ mũi ra. Nó lạnh như đá và ông cảm thấy trái tim đau yếu của mình đập thình thịch khi nó gắng sức bơm luồng máy ấm trong cơ thể ông.


      Ông suýt ngất lần nữa, như lúc tên khốn đó bẻ ngón tay của ông. Rồi ông tỉnh lại, nghĩ đến người vợ quá cố của mình – và các lý do cho những lần họ du lịch cùng nhau. Họ đến Giza. Và đến Guatemala. Nepal. Teheran ( tuần trước khi đại sứ quán bị chiếm).


      Chiếc máy bay của hãng hàng Đông Nam Trung Quốc hỏng trong hai động cơ, sau giờ cất cánh từ Bắc Kinh, Evelyn cúi đầu, trong tư thế khẩn cấp, chờ chết nhưng mắt vẫn đọc bài báo trong tờ tạp chí máy bay. Bài báo cảnh báo nên uống chè nóng ngay sau bữa ăn. Sau đó, khi ngồi trong quán rượu Raffles ở Singapore, bà kể lại cho ông nghe chuyện này. Họ cười như điên, cười đến chảy cả nước mắt.


      Ông nghĩ tới ánh mắt lạnh lùng của tên bắt cóc. Răng, đôi găng tay thô thiển của .


      Bây giờ, trong cái nhà mồ ướt át ghê rợn này, cơn đau chịu nổi trườn theo tay ông lên tới cằm.


      Do ngón tay gãy hay cơn suy tim? Ông băn khoăn.


      Có thể là mỗi thứ chút.


      Everett nhắm mắt cho tới khi cơn đau dịu . Ông nhìn xung quanh. Cái cống nơi ông bị còng nằm dưới cầu cảng hôi thối. vành gỗ thò từ bờ rìa cầu cảng xuống mặt nước, lúc này còn cách nó khoảng sáu inch. Ánh sáng từ những con thuyền sông và những nhà máy của Jerseyphản chiếu rạch nước hẹp. Nước ngập tới cổ ông và mặc dù nóc cầu cảng còn ở cách đầu ông mấy feet, nhưng cái còng tay giữ chặt ông tại chỗ.


      Cơn đau tràn qua ngón tay ông, đầu Everett giãy giụa trong cơn hấp hối, rơi xuống nước khi ông ngất . Nước đầy mũi và cơn ho khốn khổ khiến ông tỉnh lại.


      Mặt trăng kéo nước dâng cao thêm. Với tiếng oạp ẩm ướt, cái cống bị tách khỏi dòng sông bên ngoài. Căn phòng tối om. Ông nghe thấy tiếng gầm gừ của những con sóng và tiếng rên rỉ đau đớn của chính mình.


      Ông biết mình chết, biết mình chẳng thể giữ đầu cao hơn mặt nước nhầy nhụa được quá vài phút nữa. Ông nhắm mắt, úp mặt vào cây cột đen đúa, trơn tuột.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI MỐT



      “Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs”, giọng Rhyme vang lên trong máy bộ đàm.

      nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố theo Xa lộ West Side. Lạnh như băng, tăng tốc lên ám mươi(113).

      “Được, tuyệt”, Jerry Banks .

      Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, cú ngoặt cháy đường gần bến phà chở rác Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận bán thịt, chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường . Thay vì đạp phanh, đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và tiếng còi hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.

      “Ối chà”, Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường về phía nam. với Rhyme: “ lại . Tôi bỏ mất đoạn này.”

      Giọng yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của : “Vào trung tâm là tất cả những gì tôi có thể với . Cho tới khi chúng tôi tìm ra ý nghĩa của chiếc lá.”

      “Chúng tôi đến Battery Park City”.

      “Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều lên”, Banks nhắc nhở.

      Có thể đội của Dellray xác định được vị trí chính xác của ta. Họ có thể lôi Ngài 823 vào con hẻm nào đó với túi táo. Nick có với về cách họ thuyết phục bọn tội phạm “hợp tác”. Lấy túi hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà để lại dấu vết. Khi ở tuổi trưởng thành, thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể làm như vậy. Nhưng giờ thấy được khác biệt.

      Banks đập vai . “Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ”

      Gỗ thối, bẩn thỉu. Những nơi chốn rùng rợn.

      Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước.

      có đấy , Rhyme?”

      với tôi nào, Sachs. ở đâu?”

      cái cầu cảng phía bắc Battery Park City.”

      “Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. ta tìm thấy gì.”

      “Vô vọng lắm”, . “Có khoảng tá cầu cảng. Cả đoạn đường bộ nữa... Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở Battery Park... Ta cần đến ESU.”

      “Ta có ESU mà, Sachs. Họ còn ỏ phe ta nữa rồi.”

      Hai mươi phút nữa là thuỷ triều lên.

      Mắt đảo quanh mép nước. Vai trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm súng, lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.

      “Cho tôi thứ gì đó về cái lá , Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra .”

      Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy tính.

      Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.

      “Nó có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả.”

      “Nó già rồi”, Rhyme . “Bao nhiêu tuổi?”

      Cooper lại nhìn vào cái lá. “ biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán khoảng trăm năm, hoặc ít hơn thế chút.”

      “Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong trăm năm qua?”

      “Cây cối bị tuyệt chủng trong hệ sinh thái nhưManhattan. Chúng luôn tái sinh.”

      tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. gần nhớ ra điều gì đó. vừa thích vừa ghét cảm giác này. có thể tóm lấy ý nghĩ như tóm con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm cụt hứng.

      Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.

      Ý nghĩ đó là gì nhỉ? nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó...

      Cái gì thế nhỉ? Nghĩ !

      Cầu cảng... những con tàu... bốc dỡ... hàng hoá.

      Bốc dỡ hàng hoá.

      Mắt bật mở. “Mel, đấy có phải cây trồng ?”

      “Ôi, quỷ . Tôi tìm những trang về cây hoang dại, phải loại cây trồng.” ta gõ máy tính quá lâu.

      “Thế nào?”

      “Chờ , chờ . Đây là danh sách mã nhị phân được mã hoá.” ta quét nó. “Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc lá...”

      “Thuốc lá! Thử nó xem.”

      Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp ra màn hình.

      “Đúng nó!”

      “Tháp trung tâm Thương mại Thế giới.” Rhyme tuyên bố. “Mảnh đất phía bắc từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu cho cuốn sách của tôi – tôi muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo Haumann dùng để tìm những nơi dọn dẹp asbestos. Đặt lên bàn, cạnh nhau.”

      Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ cách thô thiển, tấm bản đồ cũ cho thấy phần phía bắc của thành phố – cụm phía dưới hòn đảo – là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme nhìn vào bản đồ thành phố tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp biến mất, các cầu tàu cũng vậy, nhưng bản đồ tại cho thấy cái cầu tàu bị bỏ hoang ở đúng vị trí cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.

      Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn từ phía cầu thang, nghe thấy tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào bên trong. Kính vỡ tan.

      Thom xuống cầu thang.

      “Tôi muốn gặp ta.” Có giọng nhát gừng tràn ngập hành lang.

      “Chỉ là...” Người trợ lý bắt đầu.

      . phải chờ phút. phải chờ giờ. Mà là ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ.”

      “Mel”, Rhyme thầm, “giấu chứng cứ ngay, tắt máy.”

      “Nhưng...”

      “Làm !”

      Rhyme lắc đầu mạnh, giằng rời cái míc tai nghe. Nó rơi xuống cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm cầu thang.

      Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy ta giật lùi để lên cầu thang.

      Chúa phù hộ cho ta, chỉ trong năm giây, Cooper tháo tung cái kính hiển vi điện tử và bình thản tháo dỡ linh kiện với quan tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme. Những cái túi đựng vật chứng được nhét xuống gầm bàn và phủ lên bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.

      “À, Dellray”, Rhyme hỏi, “Tìm được đối tượng rồi chứ?”

      “Sao với chúng tôi?”

      với các cái gì?”

      “Rằng dấu tay ấy là đồ giả.”

      “Có ai hỏi tôi đâu?”

      “Đồ giả?” Cooper ngạc nhiên hỏi.

      “Thực ra đó là dấu tay ”. Rhyme như thể đó là điều ràng. “Nhưng phải của đối tượng. chàng của chúng ta cần chiếc taxi để câu. Và thế là ta gặp – tên ta là gì nhỉ?”

      “Victor Pietrs”, Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.

      “Rất hay”, Rhyme với chút ngưỡng mộ thực .

      “Nhặt chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi hiểu phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823 giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của ta. Cắt ngón tay. giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, để lại trường dấu tay đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này phát huy tác dụng.”

      Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.

      “Sao biết?” Dellray nhìn những tấm bản đồ nhà Rhyme, nhưng ơn Chúa, ta quan tâm đến chúng.

      “Dấu tay khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. tìm thấy nó trong tầng hầm phải ? Tôi đoán đúng chứ? Nơi chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân.”

      Dellray lờ và đánh hơi quanh phòng y như con chó săn khổng lồ. “ giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?”

      “Chứng cứ? Tôi biết gì. , có phá cửa nhà tôi ? Lần trước vào mà gõ cửa. Lần này phá cửa.”

      “Này Lincoln, tôi có ý định xin lỗi rồi đấy...”

      rộng lượng, Fred.”

      “Nhưng giờ tôi sắp tóm cổ .”

      Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống lủng lẳng nền nhà. hình dung giọng Sachs thỏ thẻ tai nghe.

      “Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. biết là gặp rắc rối thế nào đâu.”

      “Thom”, Rhyme chậm rãi , “đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh rơi cái tai nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được chứ?”.

      Người trợ lý đoán ý rất nhanh. ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme, khỏi tầm mắt Dellray.

      “Cảm ơn”, Rhyme với Thom. Rồi thêm. “Cậu biết đấy tôi vẫn chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?”

      “Tôi băn khoăn biết lúc nào cầu”. Thom , như diễn viên bẩm sinh.

      “Rhyme, . Lạy Chúa, ở đâu?”

      Thế rồi nghe thấy giọng trong tai nghe. Giọng của Thom. Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó ổn.

      “Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy”, Thom .

      “Trông cũng được đấy”, Rhyme trả lời.

      “Rhyme?” Sachs cáu kỉnh. “Chuyện quái gì thế?”

      “Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi lật lại đấy?

      Những giọng khác vang lên trong tai nghe, nhưng phân biệt được.

      Sachs và Banks chạy theo mép nước, nhìn xuống những chiếc cầu cảng vươn ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. ra hiệu để Banks dừng lại, gập người cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nước bọt xuống sông. Cố gắng lấy lại hơi thở.

      nghe tiếng qua tai nghe: “... lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho chúng tôi.”

      “...chúng tôi đợi, phản đối chứ?”

      “Tôi phản đối", Rhyme . "Tôi muốn được riêng tư chút?”

      “Rhyme, có nghe tôi ?” Sachs tuyệt vọng gọi. ta làm cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?

      . có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng.”

      Dellray! ta ở trong phòng Rhyme. Thế xong rồi. Xong đời nạn nhân.

      “Tôi muốn lấy lại vật chứng”, viên đặc vụ cáu kỉnh .

      “Thế à, thứ mà có được chỉ là toàn cảnh người đàn ông tắmbọt biển thôi, Dellray.”

      Banks định , nhưng vẫy tay bảo ta im lặng.

      Mấy người vài câu hiểu.

      Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.

      Sau đó là giọng bình thản của Rhyme: “... biết Dellray, trước kia tôi hay bơi lắm. Ngày nào cũng bơi.”

      “Ta còn chưa đến mười phút”, Sachs thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.

      Dellray lầm bẩm gì đó.

      “Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều. Ý tôi là nước rất sạch.”

      Đường truyền có vấn đề. lảng .

      “...cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích còn nữa. Chỗ đó trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, có nghe về bọn chúng ? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery Park City bây giờ. Trông có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với à? Cái cầu nằm giữa North Moore và Chambers. Tôi nhảy xuống nước, bơi quanh cầu cảng...”

      “North Moore và Chambers!” Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua nó vì họ quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ tại của họ khoảng phần tư dặm. có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu lở loét, miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.

      giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau.

      “Cậu biết bơi ?” hỏi.

      “Tôi ấy hả? Chỉ , hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi.”

      Họ làm được rồi.

      Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.

      Nước dâng gần đến mũi ông.

      con sóng vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào, dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát ra thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.

      , lạy Chúa... làm ơn đừng để con...

      Ông lắc cái còng tay mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép màu những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.

      Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng – đau như ngón tay gãy của ông – vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp khí mỏng manh ngay bên mặt.

      Ông được nghỉ lát.

      Rồi con sóng nữa, cao hơn...

      Và thế là hết.

      Ông thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, lời tạm biệt...

      William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi, đầy đồ thải và cọng rong biển.

      Rồi kinh hoàng tỉnh lại. , ...

      ở đây. Tên bắt cóc. quay lại.

      Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và chìa con dao về phía ông.

      , ...

      Dìm ông chưa đủ, còn muốn đâm ông chết. nghĩ ngợi gì,Everett lao về phía . Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước… và sau đó, soạt tiếng, tay Everett được tự do.

      Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt nước, gấp gáp hít khí, giật tung mảnh băng dán miệng. Hổn hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía , nhưng ông cười lớn. “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa...”

      Sau đó, xuất khuôn mặt khác… Cũng trùm đầu, trong tay là ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ cầm dao mà là kìm sắt cắt. người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett và ông hít vào hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.

      Người thợ lặn vòng tay ông quanh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu cảng.

      “Hít sâu nào, phút nữa là ta thoát khỏi đây.”

      Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng cách ma quái. Chuyến ngắn nhưng khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên qua lớp nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách rời nhau trong khắc. Nhưng với cú quạt nước, William Everett quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi mình dòng nước bập bềnh của sông Hudson chỉ còn là chuyện .

      có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.

      Nhưng Pammy quá mệt mỏi vì thiếu ngủ – cả hai người thức suốt từ năm giờ sáng – và cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được ngủ ngay, nó rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra, chính Carole cũng thể đợi tới khi họ đến Manhattan – chỉ là gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong bốn mươi mốt năm, và ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.

      Carole lấy hành lý của và họ về phía cửa ra. kiểm tra để chắc chắn mình quên gì khi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm đó.

      Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.

      Đủ hết.

      Bạn bè cảnh báo về thành phố. Eddie : "Họ xô đẩy cậu. Bọn trộm ví, móc túi...”

      "Đừng chơi bài ngoài phố”, Kate thêm, như mẹ dặn con.

      "Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn chơi bài”, Carole cười, nhắc bạn mình. "Thế sao tớ lại chơi bài đường phố củaManhattan?”

      Nhưng trân trọng quan tâm của họ. Gì gì, cũng tới nơi, người đàn bà goá và đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc – chưa bao giờ nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ , nhiều người ở chỗ cùng lúc như ở đây.

      Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm phòng đó sẵn sàng và chờ họ. ta gặp sau khoảng bốn mươi nhăm phút nữa.

      Họ qua cánh cửa tự động, khí mùa hè làm họ sốc đến ngột thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. tay nắm chặt tay Pammy, tay kia chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu vai .

      Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi bến đỗ.

      Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viếtChào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang trí tệ hại, nhưng vẫn nhìn nó lúc lâu; người đó giống Ronnie.

      thời gian, sau khi mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ đều gợi cho nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của mình. lái xe qua McDonald và nhớ thích Big Macs. Những diễn viên trong phim chẳng giống chút nào, nhưng họ có thể có cách nghiêng đầu giống . Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, nhớ thích cắt cỏ cho mảnh sân xíu cuả họ ở Arlington Heights.

      Nước mắt lại trào ra. Và quay lại dùng Prozac(114) hay imipramine(115). Nằm cả tuần giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề nghị của Kate, đến nhà của ấy và Eddie đêm. Hay tuần. Hay tháng.

      Nhưng khóc nữa. đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. đau khổ giờ ở lại phía sau.

      Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. nhìn quanh, cố tìm chút gì đó của Manhattan. Nhưng chẳng nhìn được gì ngoài xe cộ chạy đường, những cái đuôi mây bay và biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.

      Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. hy vọng Pammy đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành phố.

      "Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta , con ?”

      "Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm ơn cho con ít được ?”

      Làm ơn... Từ này mới đây. bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch cha mẹ. Carole cười: "Mẹ mua cho con ngay thôi.”

      Cuối cùng họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.

      Pammy, gấu Pooh, ví...

      Người lái hỏi: “Ta đâu?” Carole cho ta địa chỉ khách sạn Midtown Residence, phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.

      Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong lòng mình.

      “Ta có qua trụ sở Liên Hiệp Quốc ?” hỏi.

      Nhưng người đàn ông tập trung để chuyển làn đường và nghe thấy .

      “Tôi đến tham dự hội nghị", giải thích. “Hội nghị Liên Hiệp Quốc.”

      Vẫn thấy trả lời.

      tự hỏi có phải ta thạo tiếng hay . Kate cảnh báo rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. (“Lấy mất việc làm của người Mỹ”, Eddie gầm gừ. “Nhưng đừng để tôi đến chuyện này.”). nhìn người lái xe qua tấm kính ngăn xước xát.

      Có thể ta chỉ thích chuyện.

      Họ quành vào con đường cao tốc khác – và bất thình lình, nó kia rồi, ngay trước mặt , đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. cụm khổng lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng, màu bạc nằm giữa hòn đảo và cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả những gì mà Carole từng nhìn thấy trong đời; trong khoảnh khắc, hòn đảo trông như con tàu khổng lồ.

      “Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông đẹp, phải con?”

      khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc và quành nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà xây bằng gạch.

      Carole nghiêng người ra trước. “Có đúng đường này về thành phố ?”

      Lại trả lời.

      đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. “ đúng đường đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi !”

      “Mẹ ơi, có chuyện gì thế?” Pammy và bắt đầu khóc.

      đâu thế?” Carole quát.

      Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe – bình thản, đèn đỏ nào cũng dừng, bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi rẽ vào bãi đỗ xe trống trải phía sau nhà máy tối tân, bỏ hoang, vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.

      Ôi ... !

      đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. lại phía sau, đưa tay mở cửa. Nhưng rồi ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng xuống. cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.

      lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở vườn bách thú. nhìn người mẹ và con lúc lâu trước khi mở cửa.

      ĐỐI TƯỢNG 823


      Ngoại hình

      Nơi ở

      Phương tiện lại

      Khác


      - Người da trắng,

      - Thân hình bé,

      - Quần áo đen,

      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác,

      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?

      - Găng tay tối màu.

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu = Brut,

      - Tóc phải màu nâu,

      - Có vết sẹo sâu ngón trỏ,

      - Quần áo bình thường.

      - Có thể có nơi nấp an toàn.

      - Ở gần:

      B’way & 82nd,

      ShopRite

      B’way & 96th,

      Anderson Foods

      Greenwich & Bank,

      ShopRite

      2nd Ave., 72nd-73nd,

      Grocery World

      Battery Park City,

      J&G’s Emporium

      1709 2nd Ave.,

      Anderson Foods

      34th & Lex.,

      Food Warehouse

      8th Ave. & 24th,

      ShopRite

      Houston & Lafayette,

      ShopRite

      6th Ave. & Houston,

      J&G’s Emporium

      Greenwich & Franklin,

      Grocery World

      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

      - Yellow Cab,

      - Chiếc sedan đời mới,

      - Màu xám nhạt, bạc be,

      - Xe thuê, có thể bị đánh cắp.

      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,

      - Có thể có tiền án,

      - Hiểu biết về dấu vân tay,

      - Súng = Colt .32

      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,

      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,

      - Gọi nạn nhân là “Hana”,

      - Biết tiếng Đức cơ bản,

      - Thích những chỗ dưới lòng đất,

      - Đa nhân cách,

      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư,




      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI HAI


      làm thế nào hả, Sachs?”

      Đứng cạnh sông Hudson hôthối, chuyện với Rhyme qua máy bộ đàm. “Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park. Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút. Trời ạ, phải xem cái tàu ấy chạy! ngày nào đó tôi cũng muốn lái thử cái.”

      Rhyme kể với về người lái xe taxi cụt ngón.

      “Thằng chó chết!” , tặc lưỡi ghê tởm. “Con chồn ấy lừa tất cả chúng ta.”

      phải tất cả chúng ta”, Rhyme rụt rè nhắc .

      “Tức là Dellray biết tôi lấy chứng cứ. ta có tìm tôi ?”

      ta ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định xem bắt ai trong chúng ta trước. trường ở đó thể nào, Sachs?”

      “Tệ lắm”, báo cáo. “ đỗ xe sỏi...”

      “Tức là có dấu chân.”

      “Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ đỗ xe bây giờ ngập nước.”

      “Quỷ ”, Rhyme lẩm bẩm.” dấu vết, dấu tay, chẳng có gì. Họ để ông ta trong bệnh viện , hai ngày.”

      “Ông ta cho chúng ta biết thông tin gì ư?”

      Sachs đến chỗ Banks. ta phỏng vấn William Everett.

      to lắm”, người đàn ông nghiêm trọng , cẩn thận quan sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. “ ta được khoẻ lắm, phải là người có cơ bắp. Nhưng khoẻ hơn tôi. Tôi tóm nhưng kéo tay tôi ra.”

      “Mô tả?” Banks hỏi.

      Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là tất cả những gì ông có thể nhớ được.

      “Tôi phải với cậu việc”, Everett giơ cánh tay băng bó của mình lên. “ rất ác. Tôi với cậu là tôi tóm lấy . Tôi nghĩ ngợi gì – đơn giản là tôi hoảng loạn. Nhưng lên cơn điên thực . Vì thế bẻ ngón tay tôi.”

      “Trả thù à?” Banks hỏi.

      “Tôi đoán thế. Nhưng đó phải là phần kỳ quặc.”

      ?”

      “Kỳ quặc là lắng nghe.”

      Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.

      ép tay tôi chặt vào tai và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy. Như thế lắng nghe. Và thích thú.”

      có nghe thấy , Rhyme?”

      “Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn biết điều này nghĩa là gì. Ta phải suy nghĩ về nó.”

      “Có dấu hiệu nào của vật chứng ?”

      “Vẫn chưa.”

      “Đan lưới Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân.”

      “Quần áo? Tôi bảo ông ta rồi. Tôi – Rhyme, ổn chứ?” nghe thấy tiếng ho.

      Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. giây sau trở lại. “ có đấy , Rhyme? Mọi việc ổn chứ?”

      “Ổn cả”, nhanh. “ thôi. Đan lưới .”

      ĐỐI TƯỢNG 823


      Ngoại hình

      Nơi ở

      Phương tiện lại

      Khác


      - Người da trắng,

      - Thân hình bé,

      - Quần áo đen,

      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác,

      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?

      - Găng tay tối màu.

      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu = Brut,

      - Tóc phải màu nâu,

      - Có vết sẹo sâu ngón trỏ,

      - Quần áo bình thường.

      - Có thể có nơi nấp an toàn.

      - Ở gần:

      B’way & 82nd,

      ShopRite

      B’way & 96th,

      Anderson Foods

      Greenwich & Bank,

      ShopRite

      2nd Ave., 72nd-73nd,

      Grocery World

      Battery Park City,

      J&G’s Emporium

      1709 2nd Ave.,

      Anderson Foods

      34th & Lex.,

      Food Warehouse

      8th Ave. & 24th,

      ShopRite

      Houston & Lafayette,

      ShopRite

      6th Ave. & Houston,

      J&G’s Emporium

      Greenwich & Franklin,

      Grocery World

      - Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

      - Yellow Cab,

      - Chiếc sedan đời mới,

      - Màu xám nhạt, bạc be,

      - Xe thuê, có thể bị đánh cắp.

      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,

      - Có thể có tiền án,

      - Hiểu biết về dấu vân tay,

      - Súng = Colt .32

      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,

      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,

      - Gọi nạn nhân là “Hana”,

      - Biết tiếng Đức cơ bản,

      - Thích những chỗ dưới lòng đất,

      - Đa nhân cách,

      - Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư,

      - Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

      - Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân.




      khảo sát trường được những ngọn đèn halogen của ESU soi sáng. khó chịu. ở đây. con đường trải sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể có để lại vật chứng gì chúng nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. chậm rãi kiểm tra nền đất. Lui và tới.

      “Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể bị cuốn mất rồi.”

      đâu, quá thông minh để tính đến thuỷ triều. Manh mối chỗ đất khô đâu đó.”

      “Tôi có ý”, bất ngờ . “ đến đây .”

      “Cái gì?”

      “Khám nghiệm trường cùng tôi, Rhyme.”

      Im lặng.

      “Rhyme, nghe tôi ?”

      với tôi đấy à?” hỏi.

      trông giống như De Niro(116). diễn giỏi như De Niro. biết ? cảnh trong phim Taxi Driver?”

      Rhyme cười. : “Lời thoại là: Mày nhìn tao đấy à? chứ phải với tao.”

      Sachs tiếp tục, chút bối rối. “Tới đây . Khám nghiệm trường với tôi.”

      “Tôi sải đôi cánh của mình. , tốt hơn là tôi tự phóng tôi ra đó. Thần giao cách cam, biết rồi đấy.”

      “Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy.”

      “Tôi...”

      “Chúng tôi cần . Tôi thể tìm được manh mối để lại.”

      “Nhưng mà chúng ở đó. chỉ cần cố thêm chút nữa thôi.”

      “Tôi đan lưới hai lần rồi.”

      “Thế khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục . 823 vẫn chưa kết thúc đâu, phải bây giờ.”

      đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với.”

      “Bằng cách nào?” Rhyme hỏi. “Tôi làm việc ấy bằng cách nào?”

      “Tôi có người bạn cũng gặp khó khăn”, bắt đầu, “và ta...”.

      “Ý là, ta là người tàn tật”, Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng nhưng chắc chắn.

      tiếp tục: “Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt ấy vào xe lăn và ấy tự lái xe khắp nơi. xem phim, ...”

      “Những cái xe lăn ấy...”, giọng Rhyme uể oải vang lên. “ có tác dụng gì với tôi...”

      ngừng .

      tiếp tục: “Vấn đề phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu tôi lên xe lăn rất nguy hiểm. Nó có thể...” – ngần ngại – “làm cho mọi chuyện xấu ”.

      “Tôi xin lỗi. Tôi biết.”

      lúc sau : “Tất nhiên là biết.”

      Hỏng mất vụ này rồi. Ôi trời. Người em...

      Nhưng Rhyme có vẻ gì tệ hơn sau lời hớ của . Giọng ta vẫn đều đặn, vô cảm. “Nghe này, phải tiếp tục tìm kiếm. Đối tượng của chúng ta khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng phải là thể... Tôi có ý. là người dưới lòng đất, đúng ? Có thể chôn chúng.”

      nhìn lên trường.

      Có thể ở kia... nhìn thấy ụ đất và lá cây trong khóm cỏ cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ như mới được đắp lên.

      Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng cái bút chì gạt lá ra.

      quay mặt sang trái, thấy mình nhìn vào cái đầu vươn cao, đầy răng nanh...

      “Lạy Chúa tôi”, hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội vàng lần tìm vũ khí.

      ...

      Rhyme thét lên: “ sao chứ?”

      Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng hai tay run rẩy. Jerry Banks chạy tới, khẩu Glock của ta được rút ra. ta dừng lại. Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.

      “Trời ạ”, Banks thầm.

      con rắn – ra là bộ xương rắn”, Sachs với Rhyme. “Con rắn chuông. Mẹ kiếp.” cất súng. “Nó được gắn vào cái bảng.”

      con rắn?Hay đấy.” Giọng Rhyme có vẻ tò mò.

      “Đúng rồi. Thực là thú vị”, lẩm bẩm. đeo đôi găng cao su và nhấc những cái xương bị cuộn tròn. lật ngược nó lại. " biến hình"

      “Cái gì?”

      "Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604 Broadway.”

      Rhyme : “Tôi bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? tôi nghe về manh mối .”

      Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong cái túi. Tim đập mạnh khi quỳ xuống b cái túi.

      cuốn sách bằng diêm”, .

      “Được rồi, có thể nghĩ tới việc đốt nhà. đó có in gì ?”

      . Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều nó bốc mùi.”

      “Tốt, Sachs – luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta chắc chắn lắm. Có điều cần chính xác hơn.”

      cúi xuống gần hơn.”Ối...”

      “Thế là chính xác.”

      “Có thể là lưu huỳnh.”

      “Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex(117). Có phải màu xanh dương ?”

      , trắng như sữa.”

      “Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp. Loại ổn định. Còn gì nữa ?”

      mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây.”

      “Cái gì, Sachs? Tên , địa chỉ của , thư điện tử?”

      “Giống như giấy từ tờ tạp chí. Tôi thấy bức ảnh đen trắng . Giống như phần của toà nhà nhưng nhìn thấy được là phần nào. Dưới đó có dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng Năm năm 1906.”

      “Năm, hai mươi, -sáu. hiểu có phải mã gì . Hay là địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa ?”

      nghe thấy ta thở dài.”Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi thức muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì.”

      Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi nhất trong lịch sử thành phố.

      Tất nhiên là nhiều thứ biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng bị biến thành “The Collect”, miêu tả chính xác hơn cái ao ô nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng – trong những năm 1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất thế giới – nơi mà chỉ toà nhà cho thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai, ba trăm tên giết người mỗi năm.

      Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ – những toà nhà cho thuê từ thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường Baroque, vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. số khác bị bỏ hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai, toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và Yiddish Gomorra nổi tiếng – tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra những hình thái như vậy thể chết cách dễ dàng.

      Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ nữ gầy gò và con của ta đến.

      Thấy cảnh sát theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống đất, như con rắn, tìm kiếm nơi nấp – người ta nghi ngờ là ở trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố (mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là “nhà trọ” vẫn còn rất thịnh hành). Và im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.

      Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình phải là Manhanttan của những năm 1990 – những quán ăn nhanh Hàn Quốc, những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng – mà là thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, khí tràn ngập mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi kinh tởm.

      Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, mỏi mệt nào đó bên trong thúc giục phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép ra khỏi nơi lẩn trốn để tìm kiếm người công dân lương thiện nữa; thanh niên mới tới thành phố để hợc đại học.

      Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi từng là chỗ trú ngụ của gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào nghìn khu nhà đổ nát. Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ – màu của những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng phải vậy, Manhattan xưa kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và màu vàng.

      Schneider lẩn lút theo sau chàng trai và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát xuất đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi việc này xảy ra. Nhưng dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía Brooklyn; họ nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng nghiệp phía Manhattan.

      Schneider, mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn cách trèo lên thành cầu. hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên loạn, kết tội họ phá hoại cuộc đời . Từ ngữ của ngày càng điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, nhảy từ thành cầu xuống sông. tuần sau, người hoa tiêu phát ra thi thể bờ đảo Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa làm việc rất cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc xương mà từng tôn thờ.

      đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng lại trước toà nhà. kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng có ai vào nhà. chuyển động bất ngờ làm giật mình và lại nghetiếng gầm gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. lần tay tìm khẩu súng ngắn nhưng chúng bất ngờ quay , vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo con mèo hay con chuột trong ngõ.

      nhìn thấy ai vỉa hè nóng bức. mở khoá cửa nhà để xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc Taurus.

      Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của cho thấy giết tám công dân lương thiện của thành phố. cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố của được coi là thực) xâm hại số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. nạn nhân nào sỉ nhục ; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, vẫn thấy mình có lỗi. Thực , có vẻ hoạt động với ảo tưởng điên rồ rằng, ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.

      dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm ngửa. kéo người phụ nữ và đứa con ra khỏi cốp xe, vào gạt ra. Cuối cùng cũng còng được họ.

      “Thằng khốn nạn!” ta rống lên. “ được động vào con tao. Mày mà động vào nó, tao giết mày.”

      ôm chặt quanh ngực ta và dán miệng ta lại. Sau đó cũng làm thế với đứa bé con.

      “Thịt da có thể khô héo và yếu ớt” – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô bạo nhưng chắc chắn ) – “xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể. Da thịt chúng ta có già , nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó là mục tiêu cao quý của tôi, tôi hiểu tại sao lại có người muốn tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi lấy họ đến tận xương”.

      kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà, đứa con ở cạnh ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây phơi. Sau đó quay lên cầu thang.

      nhặt chiếc ba lô màu vàng của ta ở sau xe taxi, qua cánh cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. định vứt chúng vào góc nhà nhưng vì lý do nào đó lại thấy tò mò về những đồ vật này. ngồi xuống trước bức bích hoạ – bức tranh vẽ tên đồ tể, tay cầm dao, tay cầm khúc thịt bò.

      đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa chữ? băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. lục lọi cái ba lô. thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn đô la. nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.

      tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, gói đất nặn, bộ đồ chơi Mr. Potato Head(118-). Trong đó còn có máy chơi nhạc dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu Sony.

      nhìn mấy bức ảnh. Ảnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. số, trông ta có vẻ vui hơn. có ảnh nào có cả Carole và chồng dù ta đeo nhẫn cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với cặp – người đàn bà to béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và người đàn ông hói, để râu, mặc áo sơ mi vải flanenl.

      Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.

      Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, bé mỏng manh chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của bé, như cảnh sát phỏng đoán, là bắt gặp James Schneider khi phi tang trong những nạn nhân của mình.

      bé, cư dân khu “Hell's Kitchen” nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều súc vật chết. Bọn trẻ ở đây quen với việc đan lông đuôi ngựa thành nhẫn và vòng đeo cổ – đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.

      Da và xương, da và xương.

      đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương làm dở sáng nay và số thứ ăn trộm ở cửa hàng nơ tìm thấy con rắn.

      Người ta ngờ rằng Schneider thấy Maggie gần hang ổ của chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi giết trong những nạn nhân. hạ bé nhanh hay chậm, điều này ta đoán được. Nhưng giống như những nạn nhân khác của , những người mà cuối cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy – thi thể của Maggie O'Connor yếu đuối bao giờ được tìm thấy.

      Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.

      giật tấm băng dính miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít khí, nhìn với cơn giận dữ lạnh lùng. “Mày muốn gì?” ta the thé hỏi. “Cái gì?”

      ta gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, ta giống Hanna Goldschmidt chút nào. có thể nhìn thấy nhiều tâm hồn ta. Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu xương chậu – kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu. Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.

      Con bé con vặn vẹo người. nghiêng người ra trước và đặt tay lên đầu nó. Xương sọ phát triển từ miếng xương duy nhất mà từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh tam giác mái vòm sân Astrodome. chạm vào xương chẩm và xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích của quanh hốc mắt – xương bướm và xương sàng.

      “Thôi !” Carole lắc đầu giận dữ. “Tránh xa con bé ra.”

      “Suỵt...” đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. nhìn con bé con, nó khóc và ép chặt người vào mẹ.

      “Maggie O'Connor”, thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. “Maggie bé bỏng của ta.”

      Người phụ nữ giận dữ nhìn .

      “Con có mặt đúng lúc, đúng nơi rồi. Con nhìn thấy ta làm gì rồi?”

      Trẻ trung đến tận xương cốt.

      “Mày gì thế?” Carole thầm. chuyển chú ý sang .

      Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.

      “Chồng đâu?”

      ấy chết rồi.” cục cằn . Sau đó nhìn đứa con và nhàng hơn. “ ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con tôi thôi. Nó thể bất cứ điều gì về với người khác. Này kia... có nghe tôi ? Làm gì thế?”

      tóm tay Carole và nhấc lên.

      gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay – những ngón tay xíu. Bóp vào xương.

      , đừng làm thế. Tôi thích thế. Làm ơn !” Giọng vang lên trong cơn hoảng loạn.

      mất tự chủ và thích cảm giác này chút nào. Nếu muốn thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của phải chiến thắng ham muốn xâm chiếm – cơn điên kéo sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.

      Trước đây và sau đó...

      cần đến tất cả trí tuệ và khéo léo của mình để kết thúc những gì bắt đầu.

      Và lúc này... lúc này...

      ta nhắn, ta hoàn hảo. nhắm mắt và hình dung lưỡi dao cào xương ống chân ta hát lên như mã vĩ của cây đàn violin cổ.

      thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.

      Cuối cùng, khi mở mắt thấy mình nhìn vào đôi giày của . có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô gia cư bị bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng xương, ngón chân họ bị những đôi giày vừa chân làm hỏng.

      “Tôi muốn thoả thuận với ”, nghe thấy mình .

      nhìn xuống con . ép chặt hơn vào người .

      “Tôi thoả thuận. Tôi để nếu để tôi làm mấy việc.”

      “Việc gì?” Carole thầm .

      “Cho tôi bóc da .”

      chớp mắt.

      thầm . “Cho phép tôi. Làm ơn ? chân. Chỉ chân thôi. Nếu làm thế tôi để .”

      “Cái gì...?”

      “Đến tận xương.”

      hoảng sợ nhìn chằm chằm. Nuốt nước bọt.

      Điều đó có ý nghĩa gì? nghĩ. Kiểu gì ta cũng gần đó lắm rồi, gầy, góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở ta – như những nạn nhân khác.

      cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với tiếng động làm giật mình.

      động đậy, ánh mắt trượt xuống đứa con . Quay lại phía .

      “Mày để bọn tao ?”

      gật đầu: “ chưa nhìn thấy mặt tôi. biết đây là đâu.”

      lúc lâu. nhìn quanh tầng hầm. lẩm nhẩm cái tên. Ron hay Rob.

      Mắt vẫn nhìn , giơ chân ra và đưa về phía . kéo giày ra khỏi chân .

      nắm lấy chân . Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.

      ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên cổ đẹp. Mắt nhắm chặt. chăm sóc da bằng lưỡi dao.

      Tay nắm chắc con dao.

      nhắm mắt, hít vào và phát ra tiếng khóc yếu ớt. “Làm ”, thầm . Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó chặt.

      Kẻ Tầm Xương hình dung ra trong bộ quần áo thời Victoria, váy lồng đăng ten đen. thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico hay Đại lộ Năm. nhìn thấy Maggie bé cùng với họ, mặc bộ váy diêm dúa, dùng gậy đánh vòng khi họ qua cầuCanal.

      Ngày đó và bây giờ…

      đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân .

      “Mẹ ơi!” Con bé hét lên.

      Có điều gì đó trong người bật ra. bàng hoàng lúc vì khiếp sợ điều làm. Sợ chính .

      ! thể làm điều đó. phải với ta. Với Esther hay Hanna được. Hay với người tiếp theo. Nhưng phải ta.

      Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má . lại dán miệng bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân .

      “Nào”, lẩm bẩm.

      vùng vẫy hết sức nhưng giữ chặt đầu và kẹp mũi cho tới khi ngất . Sau đó vác lên vai và lên cầu thang, thận trong nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. muốn nó rơi. Lên cầu thang. Chỉ dừng lại lần để nhìn Maggie O’Conner bé , tóc quăn ngồi bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI BA



      ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.

      Nhanh như rắn, Jerry Banks bê cạnh sườn, như món quà từ Santa Fe.

      Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. ta tuyên bố với vẻ thoải mái: “Có tin mới đây, bé . bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ thuộc quản lý của chính phủ Mỹ.”

      Lincoln Rhyme nhầm. Dellray hề về tòa nhà kiểu liên bang. ta theo dõi chỗ ở của .

      Banks đảo mắt. “Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi cứu được nạn nhân.”

      “Con giai, con làm được việc tốt rồi đấy. Nếu , chúng ta kết án con tội giết người.”

      “Nhưng chúng tôi cứu được ông ta”, Sachs . “Còn .”

      “Vớ vẩn.”

      “Còng quý trẻ tuổi này lại”, con Kỳ nhông bất ngờ với đặc vụ lực lưỡng đứng cạnh ta.

      bắt đầu. “Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. bắt được nạn nhân khác. Tôi biết chúng ta còn bao nhiêu thời gian.”

      “À, còn phải mời cả bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ.” Dellray hất đầu về phía Banks. nữ đặc vụ FBI tiến lại chỗ ta, còn ta có vẻ như nghĩ đến việc đánh nhau với ta.

      Dellray vui vẻ: “Đừng, đừng, đừng. Cậu muốn thế đâu.”

      Banks miễn cưỡng chìa tay ra.

      Sachs giận dữ nở nụ cười lạnh lùng với viên đặc vụ. “Chuyến đến MorningsideHeights của thế nào?”

      giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân.”

      “Và đó là tất cả những gì họ tìm thấy”, Sachs . “Đối tượng này biết về trường vụ án tốt hơn và tôi.”

      “Về trung tâm.” Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. có quyền được yên lặng. có…”

      “Được rồi’, giọng vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn thấy Jim Polling sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình, tối màu ta mặc nhàu nát. Giống như là ta mặc nó khi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của ta rằng mấy ngày nay ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được cạo và mái tóc thực rối bù của ta.

      Dellray chớp mắt cách khó chịu, phải viên cảnh sát làm ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam ở phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.

      “Được rồi, Fred. Để họ .” Giọng của viên chưởng lý.

      Con Kỳ nhông bằng giong nam trung của phát thanh viên chương trình nhạc đài FM: ” ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài. ta...”

      “Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi”, Sachs .

      “Nghe này...”, Dellray bắt đầu.

      ”, Polling , hoàn toàn làm chủ. hề có hưởng giận dữ. “, chúng tôi nghe.” ta quay sang Sachs và cáu kỉnh: “Còn đừng cố làm trò.”

      , thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài.”

      Viên chưởng lý với Dellray: ”Fred, hành động theo suy luận và thất bại. Đó là .”

      đầu mối tốt”, Delllray .

      “Chúng tôi thay đổi hướng điều tra”, viên chưởng lý tiếp tục.

      Perkins : “Chúng tôi họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử Rhyme và Sellitto là đúng.”

      “Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó xảy ra tại sân bay. Và đó phải là thứ mà ta thích lắm.”

      “Chúng ta quay lại chuyện đó, Fred”, viên chưởng lý cộc lốc. “Bất kể là tên khốn này muốn gì nhóm của Rhyme cũng cứu được nạn nhân.”

      Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm, nhưng sau đó lại mở ra: “Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài. Nhưng...”

      “Đặc vụ Dellray, chúng tôi quyết định rồi.”

      Khuôn mặt đen bóng – hăng hái khi điều binh khiển tướng trong toà nhà kiểu liên bang – lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong khắc, chàng mê nhạc jazz biến mất. “Vâng, thưa ngài.”

      “Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs can thiệp”, viên chưởng lý .

      “Là sĩ quan Sachs, thưa ngài”, chỉnh lại. “Vả lại phần lớn là nhờ Lincoln Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của ta thôi. Có thể như vậy.”

      “Vụ này trả về thành phố”, viên chưởng lý tuyên bố. “A-T của Cục vẫn tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm, theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. hiểu chứ?”

      “Vâng, thưa ngài.”

      “Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay.”

      Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. ta ra chỗ chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng lên, nhìn thấy ta đứng mình bên rìa vệt sáng đèn đường, đằng sau xe của ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó quay lại chạy lên cầu thang, hai bậc , theo sau Jerry Banks và con rắn chuông của ta.

      “Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết.”

      Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc đưa ra tuyên bố ny. ta khá hài lòng với bản thân.

      “Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này.”

      giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. nhiều như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến thấy như ở nhà.

      tôi nghe”, .

      “Ngày mai là Chủ Nhật… xin lỗi – hôm nay là Chủ nhật. đốt nhà thờ.”

      “Làm thế nào mà nghĩ ra được?”

      “Ngày tháng.”

      mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?”

      bao giờ nghe tới những người vô chính phủ chưa?”

      “Những người Nga bé mặc áo choàng mang theo những quả bom trông như quả bóng bowling phải ?” Banks .

      “Từ chàng đọc truyện tranh” Rhyme khô khan nhận xét. “Cội-rễ-truyện-tranh-sáng-thứ-Bảy của ta thể đây, Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là phong trào xã hội cũ kêu gọi loại bỏ chính phủ. người vô chính phủ – Enrico Malatesta – có tuyên ngôn ‘tuyên truyền bằng hành động’. Dịch ra là giết người và gây lộn xộn. trong những kẻ theo gót ông ta, người Mỹ tên là Eugene Lockworthy, sống ở New York. buổi sáng Chủ nhật, ta khóa cửa nhà thờ ở Upper East Side(119) ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám người lễ.”

      “Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?” Sachs hỏi.

      “Đúng.”

      “Tôi hỏi làm thế nào mà nghĩ ra được.”

      Rhyme nhún vai. “ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch , đúng ? cho ta vài que diêm để với ta rằng, lên kế hoạch cho vụ hỏa hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố – Triangle Shirtwaist, Crystal Palace(120), du thuyền Tướng Slocum… tôi xem lại ngày tháng – Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ First Methodist.”

      Sachs hỏi: “Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?”

      “Tôi nghĩ là phải”, Sellitto . “Bây giờ chỗ đó là cao ốc thương mại, 823 thích những chỗ mới. Tôi có vài người dự phòng nhưng ta chắc là nhà thờ.”

      “Và chúng ta nghĩ”, Rhyme thêm, “ đợi cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”

      “Vì sao?”

      “Có điều, vì đó là cách Lockworthy làm”, Sellitto tiếp tục. “Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns với chúng ta – tăng tiền cược. Nhiều nạn nhân hơn.”

      “Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”

      Rhyme nhìn lên trần nhà. “Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?”

      “Hàng trăm cái.”

      “Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là – chúng ta tiếp tục xem xét manh mối. phải thu gọn còn vài cái thôi.”

      Tiếng chân bước cầu thang.

      Lại là hai em sinh đôi.

      “Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia.”

      ta chẳng thân mật chút nào.”

      “Hay vui vẻ.”

      “Ôi trời, nhìn này.” Saul – Rhyme tin rằng đó là Saul ; ta quên mất ai là người có tàn nhang – hất đầu về phía con rắn. “Trong đêm, tôi phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy.”

      “Rắn?” Rhyme hỏi.

      “Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là…”

      “… chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. chàng kỳ quặc. Các chắc cũng đoán được.”

      “Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình đến đấy tối đó”, Bedding tiếp.

      “Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng…”

      “Dài tới năm inch.”

      “… và có những con quái vật như con này.” Sachs hất đầu về phía con rắn.

      “Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp.”

      “Thôi được, khoảng tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem cái gì bị mất? bộ xương rắn chuông.”

      “Họ có báo ?” Rhyme hỏi.

      “Có.”

      “Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng trăm đô la. Vì thế Larceny muốn lôi tất cả mọi người vào, các biết đấy.”

      “Nhưng với họ.”

      Sachs gật đầu. “Con rắn phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm còn lấy mấy chục cái xương.”

      “Xương người à?” Rhyme hỏi.

      “Đúng. Người chủ nghĩ điều đó hài hước. Những con côn trùng...”

      “Quên năm inch , số con dài tới tám inch. Dễ.”

      “...chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn và xương.”

      “Có xương nào đặc biệt ?”

      nhóm. Giống như mẫu Whitman của .”

      ta thế, phải chúng tôi.”

      “Chủ yếu là xương . Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai cái.”

      ta chắc lắm.”

      “Có báo cáo trường nào ?”

      “Cho xương bị đánh cắp? đâu.”

      Những Chàng trai Dũng cảm lại ra, vào thành phố, tới trường cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.

      Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm ? Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist ? Nếu bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan những công trình phát triển thành phố từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và quét dọn chúng ra khỏi đảo rồi. có chơi chữ rắn hay chuông ?”

      Bất ngờ Rhyme tin rằng ta hiểu ra. “Con rắn là dành cho chúng ta.”

      “Chúng ta?” Banks cười.

      cái tát vào mặt.”

      “Mặt ai?”

      “Tất cả những ai tìm . Tôi nghĩ đây là chuyện đùa độc địa.”

      “Tôi cười quá to đâu”, Sachs .

      “Câu của khá là buồn cười đấy.” Banks nhăn mặt.

      “Tôi nghĩ chúng ta khá hơn tưởng và thích điều này. phát điên và đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta . nhạo báng chúng ta.”

      Điện thoại của Sellitto đổ chuông. ta nghe và trả lời. “Emma thân . có gì thế?” ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng lên và thông báo. “Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis biến khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, chiếc ở Midtown. Chúng để ở ngoài vì màu đúng: đỏ, xanh và trắng. có tính dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan – chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, chiếc từ Midtown và chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và – có thể đây là nó – cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains. Đó là bầu chọn của tôi.”

      “Đồng ý”, Rhyme tuyên bố. “White Plains.”

      “Làm sao biết?” Sachs hỏi. “Monelle có thể nó màu be hay màu bạc.”

      “Vì chàng của chúng ta ở trong thành phố”, Rhyme giải thích, “và nếu ta lấy thứ to như chiếc xe hơi làm việc đó càng xa hang ổ của càng tốt. chiếc xe Ford, vừa thế à?”

      Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. “Taurus. Kiểu của năm nay. Nội thất màu xám tối. Biển số trùng.”

      Rhyme gật đầu. “Thứ đầu tiên mà thay đổi là biển số xe. Hãy cảm ơn ấy và bảo ấy chợp mắt chút. Nhưng đừng rời điện thoại quá xa.”

      “Tôi có gì này, Lincoln”, Mel Cooper gọi.

      “Gì thế?”

      “Mớ hỗn độn. Tôi chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu.” ta bật màn hình. “Tham chiếu chéo… Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng.”

      phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta đến Harlem, các có nghĩ thế ? Thu hẹp số lượng nhà thờ cách đáng kể.” Banks lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh bạ của ba tờ báo thành phố. “Tôi đếm được hai mươi ba.”

      “Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?”

      “Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. nơi vào lúc chín rưỡi. Còn lại vào mười hay mười giờ.”

      ta đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. cho chúng ta vài giờ để tìm kiếm chỗ này rồi.”

      Sellitto . “Tôi bảo Haumann tập hợp các chàng ESU của chúng ta lại.”

      “Còn Dellray sao?” Sahcs . hình dung ra viên đặc vụ đáng thương đứng mình trong góc phố phía bên ngoài.

      ta sao?” Sellitto lẩm bẩm.

      “À,cho ta nhập cuộc với. ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy.”

      “Perkins ta phải giúp đỡ”, Banks khuyến nghị.

      thực muốn có ư?” Sellitto nhăn nhó hỏi.

      Sachs gật đầu. “Chắc chắn.”

      Rhyme đồng ‎ý. “Được rồi, ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có nhóm ngay lập tức. Tất cả các lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó xa. Tôi muốn đánh động . Ta có thể bắt quả tang .”

      Sellitto nhận cuộc gọi. ta ngẩng lên, mắt nhắm. “Lạy Chúa.”

      “Ồ, ”, Rhyme lẩm bẩm.

      Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. “Trung tâm nhận được cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở khu nào đó? Khách sạn Midtown Residence? người phụ nữ và con ta gọi cho ta từ La Guardia, rằng họ bắt đầu lên taxi đến. lúc trước; nhưng họ lại đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, ta nghĩ ta nên gọi điện. Tên ta là Carole Ganz. Đến từ Chicago.”

      “Quỷ ”, Bank lẩm bẩm. “Có cả đứa bé . Chắc là ta phải dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được .”

      Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu điên đảo. nhớ lại lúc khám nghiệm trường tại nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra từ ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm dấu vết đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.

      Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. “Thư điện tử”, ta và mở thông điệp. ta đọc những dòng chữ xíu.

      “Họ phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy khúc xương ở trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với loại giấy bóng kính mà họ sử dụng.”

      “Tốt”, Rhyme . hất đầu về phía tấm áp phích. “Gạch bỏ tất cả cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite . Ta còn những địa điểm nào.”

      nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn.

      B’way & 82nd

      Greenwich & Bank

      8th Ave. & 24th

      Houston & Lafayette

      “Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và Lower East Side.”

      “Nhưng có thể đến bất cứ đâu để mua.”

      “Chắc chắn là có thể rồi, Sachs. có thể mua chúng ở White Plains khi ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi thăm mẹ . Nhưng nghe nay, có điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với lừa dối của chúng và chúng còn quan tâm đến việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn – hay lười biếng – ném khẩu súng còn bốc khi xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến . Những kẻ thông mình ném nó vào thùng Spackle rồi vứt vào Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh, chắc chắn rồi. Nhưng cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác trong lịch sử thế giới. cũng có giới hạn. Tôi cá là nghĩ chúng ta có thời gian hay ý định tìm kiếm hay hang ổ của vì chúng ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hoàn toàn sai lầm. Đó chính xác là cách chúng ta tìm ra . Còn bây giờ, hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hay ? Mel, có gì trong quần áo của nạn nhân từ trường vừa rồi ?”

      Những đợt sóng thủy triều giặt sạch hầu hết mọi thứ quần áo của William Everett.

      là họ có đánh nhau, phải Sahcs? Nghi phạm và ông Everett này.”

      vụ đánh nhau. Everett tóm áo .”

      Rhyme tặc lưỡi. “Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó tôi bảo cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước vẫn có chỗ...”

      “Đây này, và chìa ra hai cái túi nhựa.”

      có cạo?”

      gật đầu.

      “Nhưng sao lại hai túi?”

      Nhấc lần lượt từng cái lên, : “Tay phải, tay trái.”

      Mel Cooper bật cười. “Ngay cả cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt.”

      Rhyme gầm gừ. “Phân tích hai tay c khả năng cùng có giá trị giám định.”

      “Ôi trời”, Cooper vẫn cười. “Thế có nghĩa là ta nghĩ đó là ý tuyệt vời và ta tiếc rằng mình phải là người đầu tiên nghĩ ra nó.”

      Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. “Ở đây có ít gạch.”

      “Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài trường”, Sachs .

      “Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi biết đấy là thứ gì.”

      Banks hỏi: “Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn ? Ở đó có rất nhiều gạch, đúng ?”

      “Và tất cả xuất phát từ Annie Oakley(121) đây”. Rhyme , buồn bã hất đầu về phía Sachs. “, nhớ lại , thủ phạm bỏ trước khi ta rút súng sáu.” Sau đó nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra phía trước. “Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. kính hiển vi. Có cách nào ?”

      Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. “Tôi nghĩ ta có thể làm gì đó.” ta kéo sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới máy tính của ta và sau đó đào bới trong cái va li. ta lôi ra sợi cáp to, dây màu xám. “Đây là cáp nối tiếp”. ta kết nối hai máy tính với nhau và truyền phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà Cooper nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của ta.

      Đôi mắt của nhà hình học quét qua mẩu gạch, được phóng đại khổng lồ. cười thành tiếng. “ ta tự đánh bẫy mình. Có thấy những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch ?”

      “Cái gì đấy?” Sellitto hỏi.

      “Trông giống như hồ dán”, Cooper đề xuất.

      “Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật quần áo. Những tên tội phạm thực cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của . Như vậy ta biết đó là từ nơi nấp an toàn của . Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên.”

      “Mẩu gạch ấy có cho ta biết điều gì ?” Sachs hỏi.

      “Nó cũ. Và đắt tiền – gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi nghĩ chỗ của có thế là cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu có. Tòa nhà ít nhất trăm năm. Có thể cổ hơn.”

      “À, đây rồi”, Cooper . “Có vẻ là mẩu găng tay nữa. Nếu thứ này cứ tiếp tục phân rã chẳng bao lâu nữa chúng ta có dấu vân tay của thôi.”

      Màn hình của Rhyme nhấp nháy và khắc sau nhận thấy có mẩu da xuất màn hình. “Có thứ trông buồn cười này”, Cooper .

      phải màu đỏ”, Rhyme nhận xét. “Như mẩu kia. Mẩu này lại màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem.”

      Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của ta. “Đó là da. Nhưng thuốc nhuộm khác. Có thể nó bị dây bẩn hoặc phai màu.”

      Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da màn hình và nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.

      “Này, ổn chứ?” Sachs chính là người thốt lên.

      Rhyme trả lời. Cổ và cằm bắt đầu rung bần bật. cảm giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống gãy của và lan lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và gai ốc biến mất, bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra mặt và cù buồn phát điên.

      “Thom!” thầm. “Nó đến đấy.”

      Sau đó thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành hộp sọ. nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn cơn đau thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì. Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức phản ứng của là chạy trốn khỏi nó, chạy đôi chân bại liệt nhúc nhích được trong nhiều năm.

      “Lincoln!” Sellitto la lớn.

      “Nhìn mặt ấy kìa”, Sachs hổn hển, “nó đỏ rực”.

      Còn tay trắng bệch như ngà voi. Cả người dước kinh độ C4(122) thần kỳ trắng bệch. Máu của Rhyme, trong sứ mệnh tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, dồn lên những ống mao dẫn não , khiến chúng dãn ra, đe dọa làm nổ tung những mạch máu yếu ớt.

      Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được Thom vươn người , kéo tung cái chăn ra khỏi giường. vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng của co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng nhìn thấy trước khi bóng tối trùm xuống là con chim ưng tung bay ra khỏi bờ tường đôi cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ trong phòng, tìm kiếm quên lãng dễ dàng trong làn khí nóng bỏng bên những con phố trống vắng của thành phố.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :