KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI BỐN




      Trong văn phòng, cao phía trung tâm Manhattan, nhìn xuống khu Jersey. Những thứ vớ vẩn trong khí càng làm cho buổi hoàng hôn trở nên tuyệt đẹp.


      “Ta phải làm.”


      thể được.”


      “Phải làm”, Fred Dellray nhắc lại và nhấp ngụm cà phê – tệ hơn cả cà phê của nhà hàng mà Scruff và ta vừa ngồi cách đây lúc. “Lấy của họ . Họ chấp nhận.”


      “Đây là vụ của địa phương”, đặc vụ FBI, người phó phụ trách văn phòng Manhattan đáp lời. ASAC là người đàn ông kỹ tính, người thể hoạt động nằm vùng – vì chỉ cần nhìn thấy ta, người ta nghĩ ngay, ô kìa, đặc vụ FBI.


      “Đây phải vụ địa phương. Họ coi nó như vụ địa phương thôi. Nhưng đây là vụ lớn.”


      “Chúng ta bị mất tám mươi người vào vụ Liên Hiệp Quốc.”


      “Nhưng việc này có liên quan”, Dellray . “Tôi chắc chắn.”


      “Thế ta thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Để mọi người…Thôi nào, đừng có nhìn tôi thế.”


      “Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Này, có biết từ mâu thuẫn nghĩa là gì ?... Billy, xem tấm ảnh chưa? trường vụ án sáng nay ấy? cái tay thò lên khỏi mặt đất, ngón tay bị lột hết da? Cái thằng khốn bệnh hoạn đó vẫn còn lang thang ngoài kia.”


      “NYPD vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho ta”, ASAC . “Ta để Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại nếu họ muốn.”


      “Lạy Chúa Thánh giá thiêng liêng. ‘Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại’? Ta phải tóm thằng sát nhân ấy, Billy. Bắt . phải đoán xem định làm trò gì.”


      lại tôi nghe xem đặc tình của gì?”


      Nếu hòn đá có kẽ nứt Dellray nhận ra và để nó có cơ hội liền lại. Giờ là lúc tăng hỏa lực: về Scruff và Jackie ở Johannesbug hoặc Monrovia và những lời đồn đại trong vụ buôn lậu vũ khí về điều gì đó diễn ra tại sân bay New York trong tuần này nên phải tránh xa chỗ đó ra. “Đấy là ta”, Dellray . “Chắc chắn thế.”


      “NYPD thành lập nhóm đặc nhiệm.”


      phải Đội Chống khủng bố (A-T). Tôi gọi điện. Chẳng có người nào trong A-T biết tí gì về chuyện này. Đối với NYPD : khách du lịch bị giết có nghĩa là quan hệ công chúng kém. Tôi muốn vụ này, Billy.” Sau đó Fred Dellray hai từ mà ta chưa bao giờ thốt ra trong suốt tám năm làm mật vụ chìm. “Làm ơn.”


      có căn cứ gì ?”


      “Ôi giời, hỏi vớ vẩn”, Dellray , chỉ tay như thầy giáo quở trách học sinh. “Xem nào, chúng ta bộ luật chống khủng bố là bảnh. Nhưng nếu thấy thế vẫn chưa đủ, chắc còn muốn quyền hạn pháp lý? Tôi cho quyền hạn pháp lý. Trọng tội Bang. Bắt cóc. Tôi có thể lý luận rằng thằng khốn ấy lái taxi nên nó có thể ảnh hưởng đến thương mại liên bang. Chúng ta phải chơi những cái trò ấy chứ, phải Billy?”


      chẳng nghe gì cả, Dellray. Tôi có thể trích dẫn Luật Hoa Kỳ ngay khi ngủ, cảm ơn . Tôi muốn biết nếu chúng ta làm vụ này, chúng ta gì để mọi người hài lòng? Vì hãy nhớ rằng, sau khi đối tượng này quậy phá chúng ta phải tiếp tục làm việc với NYPD. Tôi đưa đại ca của tôi chiến đấu với đại ca của họ mặc dù tôi có thể làm thế. Bất kỳ lúc nào tôi muốn. Lon Sellitto điều tra vụ án và ta là người tốt.”


      tay trung úy?” Dellray khịt mũi nghi ngờ. ta cầm điếu thuốc gắn sau tai đưa lên mũi ngửi.


      “Jim Polling chịu trách nhiệm.”


      Dellray ngửa người ra sau, giả vờ hoảng sợ. “Polling? Chàng Adolph Nhí? Cái chàng Polling luôn dọa dẫm: Mày có quyền im lặng vì tao sắp đập vỡ mẹ cái đầu mày ra. ta đấy à?”


      ASAC đáp lại. ta : “Sellitto giỏi. con người thực . Tôi làm việc với ta trong hai đội đặc nhiệm OC.”


      “Tên này giết người lung tung và rất có thể ta mở đường lên .”


      “Nghĩa là gì?”


      “Trong thành phố có thượng nghị sĩ, có hạ nghị sĩ, có lãnh đạo Nhà nước. Tôi cho rằng ta giết những người vừa rồi chỉ là để thực tập.”


      chuyện với Chuyên gia về Hành vi mà cho tôi biết?”


      “Đó là điều tôi đánh hơi thấy.” Dellray sờ mũi.


      ASAC thở ra. “Người đưa tin là ai?”


      Dellray cho rằng Scruff là người đưa tin đáng tin cậy, nghe cứ như trích đoạn trong tiểu thuyết của Dashiell Hammett(87).


      Phần lớn bọn đưa tin đều là những bộ xương, có nghĩa là bọn trộm vặt gầy nhẵng, kinh tởm. Hoàn toàn phù hợp với Scruff.


      là đồ mạt rệp”, Dellray công nhận. “Nhưng Jackie, chàng mà nghe được tin rất chắc chắn.”


      “Tôi biết muốn vụ này, Fred. Tôi hiểu.” ASAC với chút thông cảm. Vì ta biết chắc chắn đằng sau cầu của Dellray là gì.


      Kể từ khi còn là cậu bé ở Brooklyn, Dellray muốn làm cớm. Kiểu cớm gì quan trọng, chỉ cần ta có thể dành hai mươi tư giờ trong ngày để mà làm cớm. Nhưng ngay sau khi vào cục, ta tìm được nghề nghiệp đích thực của mình – cớm chìm.


      Cùng với cộng thẳng thắn và thiên thần hộ mệnh của mình là Toby Dolittle, Dellray đưa nhiều tên tội phạm vào tù với thời gian rất dài – tổng cộng lên tới cả nghìn năm (“Này Toby-o, bọn chúng gọi mình là Đội Thiên Niên Kỷ đấy”, có lần ta tuyên bố với người cộng của mình như vậy). Mấu chốt thành công của Dellray là biệt hiệu của ta, “Kỳ nhông”. Biệt hiệu này được đặt cho ta khi chỉ trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ta óng giả tên nghiện say thuốc trong tiệm ma túy tại Harlem và ngay sau đó là quan chức Haiti trong buổi dạ tiệc tại tòa lãnh Panama, với chiếc băng đỏ vắt chéo qua ngực và giọng Haiti sai biệt tí nào. Họ thường xuyên được điều sang làm việc cho ATF và DEA(88-), đôi khi cho cả các sở cảnh sát. Ma túy và vũ khí là chuyên môn của họ, mặc dù thỉnh thoảng họ cũng làm vài vụ buôn lậu.


      mỉa mai của nghề cớm chìm là càng giỏi càng về hưu sớm. Tin đồn lan truyền, vì thế những ông lớn, những tên tội phạm đáng giá khó bị bịp hơn. Dolittle và Dellray thấy mình còn làm nhiều ngoài trường nữa mà chuyển sang quản lý đặc tình và mật vụ. Đó chẳng phải là lựa chọn hàng đầu của Dellray – chẳng có gì khiến ta phấn khích hơn đường phố – đường phố vẫn lôi ta khỏi văn phòng thường xuyên hơn tất cả các đặc vụ khác trong Cục. Chưa bao giờ ta nghĩ tới chuyện chuyển đổi.


      Cho tới hai năm trước – buổi sáng tháng Tư ấm áp ở New York. Đúng lúc Dellray chuẩn bị rời văn phòng để bắt chuyến bay ở sân bay La Guardia ta nhận được cuộc gọi của trợ lý giám đốc Cục từ Washington. FBI là mớ hỗn độn các thứ bậc và Dellray chẳng hình dung ra vì sao chính ông lớn lại gọi điện. Cho tới khi ta nghe thấy giọng u sầu của giám đốc điều hành cho biết tin Toby Dolittle cùng trợ lý công tố viên đến từ Manhattan có mặt ở tầng trệt của tòa nhà liên bang Thành phố Oklahoma vào buổi sáng hôm ấy, chuẩn bị cho buổi hỏi cung mà Dellray đến.


      Ngày hôm sau thi thể của họ được đưa về New York.


      Đó cũng là ngày Dellray nộp lá đơn RFT-2230 đầu tiên của mình đề nghị được thuyên chuyển sang A-T của Cục.


      Với Fred Dellray, người luôn coi thường mọi vấn đề liên quan đến chính trị và triết học, vụ đánh bom này lại là tội ác của mọi tội ác. ta cho rằng lòng tham và thác loạn chẳng phải là những thói quen xấu của người Mỹ – này, những thói quen đó được khuyến khích ở khắp mọi nơi, từ Phố Wall cho tới Capital Hill. Và nếu như những kẻ làm ăn bằng lòng tham và thác loạn đôi khi vượt quá biên giới của luật pháp Dellray sẵn sàng theo họ đến cùng – nhưng ta chẳng bao giờ làm việc đó chỉ vì lòng thù hận cá nhân. Còn giết người vì niềm tin của họ – mẹ kiếp, giết cả trẻ con trước khi chúng biết mình tin điều gì – lạy Chúa, đó là nhát dao đâm vào trái tim đất nước. Ngồi mình trong căn hộ hai phòng thoáng đãng của mình ở Brooklyn sau đám tang của Toby, Dellray có quyết định đó chính là loại tội ác mà ta muốn săn đuổi.


      Nhưng may là tiếng tăm của Kỳ nhông vượt trước ta. Cớm chìm giỏi nhất của Cục giờ đây là người quản lý tốt nhất của họ, điều hành mật vụ và đặc tình của cả vùng East Coast. Các sếp của ta thể để ta chuyển sang trong những phòng ban yên ả hơn của FBI. Dellray là truyền thuyết hơn, người đem đến những vụ thành công lớn nhất mới đây của Cục. Vì vậy, cầu tha thiết của ta bị từ chối với tiếc nuối lớn.


      ASAC biết về câu chuyện của Dellray, và lúc này ta rất chân thành: “Fred, tôi ước tôi có thể giúp được . Tôi xin lỗi.”


      Nhưng trong những lời đó, Dellray lại thấy vết nứt rộng hơn. Con Kỳ nhông biến màu, nhìn chăm chăm vào ông chủ của mình. ta ước mình vẫn còn chiếc răng vàng giả. Gã đàn ông đầu đường xó chợ Dellray là thằng cha khó trị, có cái nhìn hung dữ của tay chị. Trong cái nhìn đó chứa đựng thông điệp mà bất kỳ tên giang hồ nào cũng hiểu ngay tức khắc: Tao hầu mày, giờ đến lượt mày hầu tao.


      Cuối cùng ASAC cũng ấp úng nịnh bợ: “Chỉ là chúng tôi cần có thứ gì đó?”


      “Thứ gì đó?”


      “Móc”, ASAC , “chúng tôi cần cái móc.”


      Ý ta là lý do để lôi vụ này ra khỏi NYPD.


      Chính trị, chính trị, chính trị mẹ nó ấy.


      Dellray cúi đầu, nhưng đôi mắt, nâu như xi giày, rời ASAC mm. “Billy, sáng nay lóc da tay nạn nhân. Đến tận xương. Rồi chôn sống ta.”


      Hai tay chống cằm, ASAC chậm rãi : “Tôi có ý. Phó thanh tra NYPD. Tên là Eckert. biết ông ta chứ? Ông ta là bạn tôi.”


      nằm cáng, nhắm mắt, tỉnh táo, nhưng váng vất. Vẫn nhợt nhạt. Ống tiếp đường gắn vào cánh tay. Sau khi được tiếp đường, suy nghĩ mạch lạc hơn và bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên, sau mọi chuyện vừa rồi.


      Sachs quay lại những cánh cổng địa ngục và đứng đó nhìn xuống khung cửa màu đen. bấm bộ đàm gọi Lincoln Rhyme. Lần này ta trả lời.


      trường trông thế nào?” Rhyme hỏi cách tự nhiên.


      trả lời cộc lốc. “Chúng tôi đưa ấy ra, nếu như quan tâm.”


      “À, tốt. ta thế nào?”


      ổn.”


      “Nhưng còn sống chứ?”


      “Gần chết.”


      tức giận vì bọn chuột, phải Amelia?”


      trả lời.


      “Vì tôi cho người của Bo vào ngay. còn đó , Amelia?”


      “Tôi ở đây.”


      “Có năm yếu tố làm ô nhiễm trường”, Rhyme giải thích. nhận thấy ta lại chuyển sang cách chậm rãi, đầy quyến rũ. “Thời tiết, gia đình nạn nhân, đối tượng, những kẻ săn tìm đồ lưu niệm. Nhưng yếu tố cuối cùng là tệ hại nhất. đoán xem đó là gì?”


      tôi nghe.”


      “Cảnh sát. Nếu tôi để ESU vào, họ có thể phá hủy mọi dấu vết. Giờ biết cách xử lý trường rồi. Tôi cá là giữ mọi thứ trong tình trạng tốt.”


      Sachs cần phải : “Tôi nghĩ là ấy hồi phục như xưa sau vụ này. Lũ chuột bò đầy lên người ấy.”


      “Đúng. Tôi có thể hình dung ra bọn chúng. Đấy là bản chất của chúng mà.”


      Bản chất của chúng…


      “Nhưng năm hay mười phút có khác biệt gì đâu. ấy…”


      Cách.


      tắt bộ đàm, ra chỗ Walsh, chàng nhân viên y tế.


      “Tôi muốn phỏng vấn ta. ta có quá váng vất ?”


      đến mức thế. Chúng tôi gây mê tại chỗ cho ấy – để khâu những vết rạch và vết cắn. Khoảng nửa tiếng nữa ấy cần thuốc giảm đau.”


      Sachs mỉm cười và quỳ xuống cạnh : “Chào em, em thế nào?”


      , béo nhưng rất đẹp, gật đầu.


      “Tôi hỏi em vài câu, được ?”


      “Được. Nàm ơn. Em muốn chị tóm được .”


      Sellitto đến và bước thong thả đến chỗ họ. ta mỉm cười với , người nhìn lại ta bằng ánh mắt trống rỗng. ta đưa cho ta xem cái thẻ mà ta thèm quan tâm và xưng danh.


      ổn chứ, thưa ?”


      nhún vai.


      Đổ mồ hôi ròng ròng trong cái nóng oi bức, Sellitto gọi Sachs sang bên. “Polling đến đây chưa?”


      nhìn thấy ta. Có thể ta ở nhà Lincoln.”


      , tôi vừa gọi điện đến đó. Chắc ta phải đến ngay Tòa Thị chính.”


      “Có chuyện gì thế?”


      Sellitto hạ giọng, khuôn mặt bềnh bệch của ta nhăn nhúm. “Chuyện tệ hại – liên lạc của chúng ta đúng ra phải được mã hóa an toàn. Nhưng bọn nhà báo khốn kiếp hiểu làm thế nào mà giải mã được. Chúng nghe thấy chúng ta vào ngay để cứu nạn nhân.” ta hất đầu về phía .


      “Ừ. Chúng ta vào ngay”, Sachs cay nghiệt trả lời. “Rhyme bảo ESU chờ tôi đến.”


      Viên thám tử cau mày. “Trời ơi, tôi hy vọng họ ghi lại được câu đó. Ta cần Polling để kiểm soát thiệt hại.” ta gật đầu với . “ phỏng vấn ta chưa?”


      “Chưa. Tôi vừa bắt đầu.” Với chút tiếc nuối, Sachs bấm nút bộ đàm và nghe giọng khẩn cấp của Rhyme.


      “… có đấy ? Cái thứ chết tiệt này …”


      “Tôi đây”, Sachs lạnh lùng .


      “Có chuyện gì thế?”


      “Nhiễu sóng, chắc thế. Tôi ở cùng nạn nhân.”


      chớp mắt khi nghe cuộc trao đổi và Sachs mỉm cười.


      “Chị chuyện mình chỉ cái mic. “Trụ sở cảnh sát. Tên em là gì?”


      “Monelle. Monelle Gerger.” ta nhìn cánh tay bị cắn xé xủa mình, kéo lớp băng bó và kiểm tra vết thương.


      “Phỏng vấn ta nhanh”, Rhyme hạ lệnh, “sau đó khám nghiệm trường.”


      Lấy tay che mic, thầm giọng gắt gỏng với Sellitto: “Làm việc với ông này khó chịu quá. Thưa ngài.”


      “Đùa với ta , sĩ quan.”


      “Amelia!” Rhyme quát. “Trả lời tôi !”


      “Chúng tôi phỏng vấn ấy, được chưa?” đáp trả.


      Sellitto hỏi: “ có thể chúng tôi biết điều gì xảy ra được chứ?”


      Monelle bắt đầu , câu chuyện rời rạc về phòng giặt là của khu chung cư tại East Village. nấp đợi .


      “Khu chung cư nào?” Sellitto hỏi.


      “Deutsche Haus. Ông biết đấy, ở đó chủ yếu là sinh viên và người nhập cư Đức.”


      “Sau đó chuyện gì xảy ra?” Sellitto hỏi tiếp. Sachs nhận thấy mặc dù viên thám tử to lớn trông có vẻ thô lỗ hơn, xấu tính hơn Rhyme, nhưng thực ra ta lại là người tử tế.


      ném tôi vào cốp xe và chở đến đây.”


      có nhìn thấy ta ?”


      nhắm mắt lại. Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nhìn thấy; ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân, đúng như Rhyme đoán.


      “Und(89) găng tay.”


      tả lại đôi găng tay .”


      Màu tối. ta nhớ chính xác là màu gì.


      “Có điều gì bất thường ? Tên bắc cóc ấy?”


      . là người da trắng. Em có thể chắc với chị như thế.”


      có nhìn thấy biển số của chiếc taxi ?” Sellitto hỏi.


      “Was(90)?” hỏi lại bằng tiếng mẹ đẻ.


      có nhìn thấy…”


      Sachs nhảy dựng lên khi Rhyme cắt ngang. “Das Nummernschild(91).”


      Nghĩ thầm: Thế quái nào mà ta biết hết mọi thứ được nhỉ? nhắc lại câu đó, lắc đầu sau đó hé mắt nhìn. “Ý là gì, taxi?”


      “Chẳng phải là lái chiếc Yellow Cab hay sao?”


      “Taxi? Nein. . chiếc xe bình thường.”


      “Nghe thấy , Lincoln?”


      “Rồi. chàng của chúng ta có chiếc xe khác. cho ta vào cốp xe, có nghĩa đó phải là xe van hay loại hatchback.”


      Sachs nhắc lại câu đó. gật đầu. “Giống như chiếc sedan.”


      có ý tưởng gì về chất liệu hay màu sắc ?” Sellitto tiếp tục.


      Monelle trả lời. “Tôi nghĩ là màu sáng. Có thể là màu bạc hay màu xám. Hoặc là, màu gì ý nhỉ? Nâu sáng.”


      “Màu be.”


      ta gật đầu.


      “Có thể là màu be”, Sachs thêm hộ Rhyme.


      Sellitto hỏi: “Có gì trong cốp xe ? Bất kỳ thứ gì? Dụng cụ, quần áo, va li?”


      Monelle có gì. Cốp xe trống rỗng.


      Rhyme hỏi. “Trong cốp xe có mùi gì ?”


      Sachs chuyển tiếp câu hỏi.


      “Tôi biết.”


      “Mùi dầu mỡ?”


      . Nó có mùi… sạch .”


      “Thế có thể là xe mới”, Rhyme đoán.


      Trong khắc, Monelle bật khóc. Sau đó ta lắc đầu. Sachs cầm tay ta và ta tiếp tục. “Chúng tôi rất lâu. Có vẻ như rất lâu.”


      “Em làm tốt lắm, em bé ạ”, Sachs .


      Giọng Rhyme cắt ngang. “Bảo ta cởi quần áo ra.”


      “Cái gì?”


      “Cởi quần áo ta ra.”


      đâu.”


      “Bảo nhân viên y tế đưa cho ta cái áo choàng dài. Ta cần quần áo của ấy, Amelia.”


      “Nhưng”, Sachs thầm. “ ấy khóc.”


      “Làm ơn ”, Rhyme khẩn khoản . “Quan trọng lắm đấy.”


      Sellitto gật đầu và Sachs, môi mím chặt, giải thích cho chuyện quần áo và thấy ngạc nhiên khi Monelle gật đầu. Hóa ra ta cũng rất muốn thoát khỏi bộ quần áo đẫm máu. Để ta được riêng tư, Sellitto ra chỗ khác chuyện với Bo Haumann. Monelle mặc chiếc áo choàng do nhân viên y tế đưa và thám tử chìm bọc ta lại bằng cái áo khoác thể thao của ta. Sachs cho chiếc quần bò và cái áo phông vào túi.


      “Tôi lấy được rồi”, Sachs vào máy bộ đàm.


      “Bây giờ ta phải cùng khám nghiệm trường với ”, Rhyme .


      “Cái gì?”


      “Nhưng phải chắc là ta sau . Để ta làm ô nhiễm vật chứng.”


      Sachs nhìn người phụ nữ trẻ tuổi nằm cáng lăn cạnh hai chiếc xe bus EMS.


      ấy có khả năng làm việc đó đâu. cắt ấy đến tận xương. ấy bị mất máu và bị chuột cắn.”


      ta có lại được ?”


      “Có thể. Nhưng có biết ấy vừa trải qua điều gì ?”


      ta có thể dẫn theo đường họ . ta có thể với , nơi đứng.”


      ấy phải được cấp cứu. ấy mất rất nhiều máu.”


      chút ngần ngừ. ta , vẻ vui mừng: “Hỏi ta xem.”


      Nhưng vui mừng của ta đầy giả tạo, điều mà Sachs nghe thấy chỉ là nôn nóng. có thể Rhyme là người quen với việc chiều chuộng người khác, là người phải chiều chuộng người khác. ta là người quen với việc làm theo cách của mình.


      ta dai dẳng: “Chỉ cần đan lưới lần thôi.”


      Chết mẹ , Lincoln Rhyme.


      “Việc này…”


      “Quan trọng. biết mà.”


      Từ đầu dây bên kia chẳng có gì.


      nhìn Monelle. Sau đó nghe thấy giọng , , giọng của chính với : “Chị xuống dưới kia tìm chứng cứ. Em có với chị ?”


      Ánh mắt của đâm sâu vào tim . Lệ tuôn trào: “, , . Em đâu. Bitte nicht, oh, bitte nicht…”


      Sachs gật đầu, nắm chặt tay . bắt đầu vào mic, lên tinh thần để đáp lại phản ứng của ta. Nhưng Rhyme làm ngạc nhiên khi : “Được rồi, Amelia. Thế thôi. Chỉ cần hỏi ta khi họ đến đó chuyện gì xảy ra?”


      kể lại đá như thế nào và chạy vào đường hầm kề bên.


      “Em đá lần nữa”, với chút hài lòng. “Đánh rơi cả găng tay. Sau đó nổi điên và bóp cổ em. …”


      đeo găng tay?” Rhyme thốt lên.


      Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle : “Vâng.”


      “Dấu tay, tuyệt vời!” Rhyme hét, giọng ta lạc trong mic. “Chuyện ấy xảy ra lúc nào? Cách đây bao lâu?”


      Monelle đoán khoảng tiếng rưỡi trước.


      “Chết tiệt”, Rhyme lầm bầm. “Dấu tay da chỉ tồn tại khoảng tiếng hoặc chín mươi phút là cùng. có lấy được dấu tay da , Amelia?”


      “Tôi chưa bao giờ làm.”


      “Thế hả. Thế giờ làm. Nhưng nhanh lên. Trong va li CS có cái gói dán nhãn Kromekote. Lấy cái thẻ ra.”


      tìm thấy chồng thẻ bóng nhoáng, kích thước năm nhân bảy, trông giống giấy ảnh.


      “Có rồi. Tôi có cần phun bụi vào cổ ấy ?”


      . Đè cái thẻ, mặt bóng xuống dưới, lên da ta, chỗ mà ta nghĩ chạm vào. Giữ nó khoảng ba giây.”


      Sachs làm theo, trong khi đó Monelle nhìn vô định lên trời. Sau đó, theo chỉ thị của Rhyme, phun bụi kim loại lên tấm thẻ bằng ống thổi Magna-Brush.


      “Thế nào?” Rhyme sốt ruột hỏi.


      tốt. Có hình dạng của ngón tay, nhưng thấy vân tay ràng. Tôi vứt nó được chứ?”


      bao giờ vứt bất kỳ thứ gì từ trường vụ án, Sachs”, Rhyme lạnh lùng lên lớp. “Đem nó về, đằng nào tôi cũng muốn xem nó.”


      “Có việc mà em nghĩ là em quên”, Monelle . “ chạm vào em?”


      Sachs dịu dàng hỏi: “Ý em là quấy rối em. Hiếp dâm?”


      , . theo kiểu tình dục. chạm vai em, mặt, mông, tai em. Khuỷu tay. bóp em. Em hiểu vì sao?”


      nghe thấy chứ, Lincoln? chạm vào ấy. Nhưng có vẻ việc đó làm cho được thỏa mãn.”


      “Ừ.”


      “Und… em quên việc nữa.” Monelle . “ được tiếng Đức. tốt lắm. Giống như có học ở trường. Và gọi em là Hanna.”


      “Gọi ấy là gì?”


      “Hanna”, Sachs nhắc lại vào mic. “Em có biết vì sao ?” hỏi .


      . Nhưng chỉ gọi em thế thôi. có vẻ thích gọi cái tên ấy.”


      nghe được chứ, Lincoln.”


      “Có, tôi nghe được. Giờ khám nghiệm trường. Thời gian bị lãng phí đấy.”


      Khi Sachs đứng lên, Monelle bất ngờ vươn tay nắm lấy cổ tay .


      “Chị… Sachs, chị có phải người Đức ?”


      mỉm cười trả lời. “Lâu lắm rồi. Vài thế hệ trước.”


      Monelle gật đầu. ép tay Sachs lên má: “Vielen Dank(92)]. Cám ơn chị, Sachs. Danke schön(93).”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI LĂM




      Ba cây đèn halogen của ESU bật sáng, chiếu luồng ánh sáng trắng ma quái vào đường hầm tăm tối.


      Đơn độc tại trường, Sachs nhìn xuống sàn trong khắc. Có gì đó thay đổi. Gì vậy?


      lại rút súng, khom người xuống. “ ở đây”, thầm , bước ra sau cây cột.


      “Cái gì?” Rhyme hỏi.


      quay lại. Lúc nãy ở đây có mấy con chuột chết, giờ chúng đâu hết rồi.”


      nghe tiếng Rhyme cười.


      “Có gì buồn cười vậy?”


      , Amelia. Bạn bè chúng đem xác chúng rồi.”


      “Bạn bè chúng?”


      “Có vụ ở Harlem. cái xác bị cẴ rời, phân rã. Có rất nhiều xương bị giấu trong vòng tròn lớn xung quanh thân thể. Sọ trong cái trống dầu, ngón chân cái ở dưới đống lá… Nó làm cho cả khu hoảng loạn. Báo chí viết về những người thờ phụng quỷ Sa tăng, những kẻ giết người hàng loạt. Nhưng cuối cùng, thủ phạm là ai, biết ?”


      “Chịu”, căng thẳng .


      “Chính là nạn nhân. Đó là vụ tự tử. Chồn hôi, chuột và sóc xử lý thi hài. Như chiến lợi phẩm. ai biết vì sao nhưng chúng thích đồ lưu niệm của chúng. Còn bây giờ, ở đâu?”


      “Phía dưới đoạn đường dốc.”


      thấy gì?”


      đường hầm rộng. Hai đường hầm bên cạnh, hẹp hơn. Trần nhà phẳng, được chống bằng cột gỗ. Các cây cột đều bị mòn và có khía. Sàn nhà bằng bê tông cũ, phủ đầy bụi.”




      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé,


      - Quần áo đen,


      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác


      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?


      - Găng tay tối màu.


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Yellow Cab.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32


      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,


      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,


      - Gọi nạn nhân là “Hana”,


      - Biết tiếng Đức cơ bản.





      “Và phân bón?”


      “Trông giống thế. Ở giữa, ngay trước mặt tôi là cây cột mà ta bị trói vào.”


      “Cửa sổ?”


      có. Cũng có cửa.” nhìn xuyên qua đường hầm rộng, nền nhà biến vào vũ trụ đen cách hàng nghìn dặm. cảm thấy nanh vuốt của thất vọng. “Quá rộng! Diện tích phải khám nghiệm quá rộng.”


      “Amelia. Thư giãn .”


      “Tôi tìm được bất cứ thứ gì ở đây.”


      “Tôi biết việc này có vẻ quá sức. Nhưng hãy nhớ rằng chỉ có ba loại vật chứng chúng ta quan tâm. Vật thể, vật chất cơ thể và ấn tượng. Thế thôi. Nếu nghĩ thế bớt nản chí.”


      dễ.


      “Còn trường cũng rộng như vẻ bề ngoài. Chỉ cần chú ý vào những nơi họ qua. Đến chỗ cây cột .”


      Sachs con đường. Mắt nhìn xuống.


      Đèn ESU sáng chói nhưng chúng cũng làm cho những cái bóng lộ hơn, cho thấy vài chỗ tên bắt cóc có thể lẩn trốn. cơn lạnh chạy dọc sống lưng . Đừng rời xa, Lincoln, miễn cưỡng nghĩ. Tôi bực mình, chắc chắn rồi, nhưng tôi muốn nghe thấy . Hơi thở hay gì đó.


      dừng lại, chiếu đèn PoliLight lên sàn nhà.


      “Mọi thứ bị quét sạch rồi à?” ta hỏi.


      “Đúng vậy. Giống như vụ trước.”


      Áo giáp siết ngực , mặc dù mặc áo ngực thể thao, áo lót và cũng nóng như bên ngoài, nhưng ở trong này thể chịu đựng được. Da nhức nhối và cảm thấy thèm được thò tay dưới áo để gãi ghê gớm.


      “Tôi đến chỗ cột rồi.”


      “Hút bụi chỗ ấy để tìm dấu vết.”


      Sachs bật máy Dustbuster(94). ghét tiếng ồn. Nó át tiếng bước chân đến gần, tiếng bóp cò súng, tiếng rút dao. Tự nhiên miễn cưỡng nhìn ra sau lưng, lần, hai lần. Suýt đánh rơi máy hút bụi khi tay lần tìm khẩu súng.


      Sachs nhìn vào dấu vết do cơ thể của Monelle để lại lớp bụi. Mình là ta. Mình kéo ta theo. ta đá mình. Mình vấp…


      Monelle chỉ có thể đá theo hướng, ngược với phía đường dốc. Đối tượng bị ngã, ta thế. Có nghĩa là tiếp đất bằng chân. Sachs bước sâu vào bóng tối khoảng , hai thước.


      “Trúng rồi!” Sachs hô lên.


      “Gì thế? tôi nghe?”


      “Dấu chân. bỏ qua chỗ quét.”


      phải dấu chân của ta chứ?”


      . ấy giày chạy. Còn đây là loại giày đế phẳng. Giống như giày dạ hội. Hai dấu giày rất . Chúng ta biết giày cỡ nào.”


      , dấu giày với ta về cỡ chân. Đế giày có thể to hay bé hơn phần . Nhưng nó vẫn có thể với ta điều gì đó. Trong va li CS có máy in tĩnh điện. Đó là cái hộp với cây đũa bên . có mấy tờ giấy acetate bên cạnh. Tách giấy ra, đặt acetate lên dấu chân và quét cây đũa lên .”


      tìm thấy thiết bị đó và in được hai bức hình dấu chân. Thận trọng cho chúng vào cái phong bì giấy.


      Sachs quay lại chỗ cây cột. “Ở đây có vài cọng từ cái chổi.”


      “Từ cái gì?...”


      “Xin lỗi”, Sachs nhanh. “Ta biết những cái cọng đó từ đâu rơi ra. mẩu cọng rơm. Tôi nhặt nó lên và cho nó vào túi.”


      Ngày càng sử dụng bút chì thành thạo hơn. Này, Lincoln, đồ khốn nạn, có biết ta làm gì để ăn mừng ngày xa rời vĩnh viễn trường vụ án ? Ta ăn đồ Tàu.


      Những ngọn đèn halogen của ESU chiếu được trong đường hầm mà Monelle chạy vào. Sachs ngừng lại ở ranh giới sáng tối, rồi lao vào trong bóng tối. Chùm sáng của cây đèn quét nền nhà phía trước .


      với tôi , Amelia.”


      nhìn thấy gì nhiều. quét cả ở đây. Lạy Chúa, tính trước mọi điều.”


      nhìn thấy gì?”


      “Chỉ có dấu đất.”


      Mình chặn ta lại. Vật ta xuống. Mình phát khùng. Điên cuồng. Mình bóp cổ ta…


      Sachs nhìn xuống nền nhà.


      “Có gì đó ở đây này – dấu đầu gối. Khi bóp cổ ta chắc chắn là phải kẹp eo ta. Dấu đầu gối trái của bỏ qua quét.”


      “Dùng máy in tĩnh điện .”


      làm theo, lần này nhanh hơn. quen với thiết bị. Khi đưa bản in vào phong bì có gì đó khiến chú ý. vết nữa đất.


      Cái gì thế nhỉ?


      “Lincoln… Tôi nhìn chỗ ở đây,… có vẻ như cái găng bị rơi ở đây. Khi họ đánh nhau.”


      bấm đèn PoliLight. Và thể tin vào mắt mình.


      dấu tay. Tôi có dấu vân tay!”


      “Sao?” Rhyme ngạc nhiên hỏi. “ phải của ta đấy chứ?”


      , thể là dấu tay ấy. Tôi có thể nhìn thấy bụi chỗ ấy nắm. Tay ấy lúc nào cũng bị còng. Đây là chỗ nhặt găng tay. Có thể nghĩ quét nhưng vẫn bỏ quên mất chỗ đó. cái dấu tay, to, đẹp hết ý!”


      “Rắc bụi, chiếu sáng và chụp ảnh cỡ - thằng chó ấy .”


      chỉ cần chụp hai lần là có được tấm hình Polaroid nét. thấy mình như vừa nhặt được tờ trăm đô la ngoài phố.


      “Hút bụi chỗ đó rồi quay lại chỗ cây cột. Đan lưới ”, với .


      chậm rãi tới lui sàn nhà. Từng foot .


      “Nhớ nhìn lên ”, ta nhắc . “ có lần tôi tóm được thủ phạm chỉ nhờ sợi tóc trần nhà. nạp đạn .357 vào khẩu .38 và phản lực thổi sợi tóc của dính lên phào trần.”


      “Tôi tìm. Đây là mái ngói. Bẩn thỉu. Chẳng có gì khác. Chẳng có chỗ nào để giấu. gờ tường, khung cửa.”


      “Thế còn dấu tích dàn cảnh?” hỏi.


      Tới, lui. Năm phút trôi qua. Sáu, bảy.


      “Có thể lần này để lại gì”, Sachs đề xuất. “Có thể Monelle là nạn nhân cuối cùng.”


      ”, Rhyme chắc chắn.


      Sau đó phía sau cây cột, chớp sáng lọt vào mắt .


      “Có gì đấy trong góc… Đúng rồi. Chúng đây rồi.”


      “Chụp ảnh trước rồi hãy động vào nó.”


      chụp ảnh, sau đó dùng bút chì nhấc lên búi vải trắng. “Đồ lót phụ nữ. Ướt.”


      “Tinh dịch?”


      “Tôi biết”, . Băn khoăn hiểu ta có bắt ngửi .


      Rhyme ra lệnh. “Thử đèn PoliLight. Protein phát sáng.”


      nhặt cây đèn, bật lên. Chỗ vải tỏa sáng, nhưng chất lỏng .


      “Cho nó vào túi. Túi nhựa. Còn gì nữa?” ta thiết tha hỏi.


      cái lá. Dài, mỏng, đầu nhọn.”


      Nó bị cắt lâu, khô và ngả sang màu nâu.


      nghe tiếng Rhyme thở dài thất vọng. “Có khoảng tám nghìn loại cây lá rụng ở Manhattan”, ta giải thích. “ có ích mấy. Có gì phía dưới cái lá?”


      Vì sao ta lại nghĩ phía dưới có gì?


      Nhưng hóa ra lại có. mẩu giấy báo. mặt trắng trơn, mặt bên kia in các tuần trăng.


      “Mặt trăng?” Rhyme trầm ngâm. “Có chữ gì ? Thử phun ninhydrin và quét sáng nhanh xem sao?”


      Chùm sáng cây đèn PoliLight phát được gì.


      “Tất cả chỉ có vậy.”


      khắc im lặng. “Những manh mối đó được đặt cái gì?”


      “Ồ. Tôi biết.”


      phải biết.”


      “À, nền nhà”, trả lời thăm dò. “Bụi bặm.” Chúng còn được đặt cái gì nữa nhỉ?


      “Có giống bụi quanh đấy ?”


      “Có.” Sau đó nhìn kỹ hơn. Khỉ , có khác. “À, hẳn thế. Nó khác màu.”


      ta lúc nào cũng đúng.


      Rhyme ra lệnh: “Cho vào túi. Túi giấy.”


      Khi xúc lên. ta : “Amelia?”


      “Sao?”


      ở đấy đâu”, Rhyme chắc chắn.


      “Tôi đoán thế.”


      “Tôi nghe thấy có gì đó trong giọng .”


      “Tôi ổn”, ngắn gọn. “Tôi ngửi khí. Tôi ngửi thấy mùi máu. Mùi mốc và nấm. Và cả mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.”


      “Giống lần trước?”


      “Đúng thế.”


      “Đến từ đâu?”


      Vừa ngửi khí, Sachs vừa theo hình xoắn ốc, lại là Maypole, cho tới khi đến cây cột gỗ khác.


      “Ở đây. Đúng là chỗ này có mùi nhất.”


      “Chỗ này là cái gì, Amelia. vừa là chân, vừa là mắt của tôi. nhớ chứ?”


      trong những cái cột gỗ ấy. Như cái cột mà ấy bị trói vào. Cách đó khoảng mười lăm feet.”


      “Có thể dựa vào đấy. Có dấu tay, dấu chân gì ?”


      phun ninhydrin lên đó và chiếu sáng.


      . Nhưng mùi rất mạnh.”


      “Lấy mẫu từ cái cột, chỗ có mùi mạnh nhất. Có cái MotoTool trong vali. Màu đen. cái khoan tay. Hãy dùng mũi khoan lấy mẫu – giống như mũi khoan lỗ – và gắn nó vào máy khoan. Có thứ gọi là cái bàn cặp. Đó là…”


      “Tôi có cái máy khoan bàn”, cộc lốc.


      “Ồ”, Rhyme .


      khoan ra mẫu cột gỗ, sau đó lau mồ hôi trán. “Cho nó vào túi nhựa?” hỏi. ta đồng ý. cảm thấy choáng váng, cúi đầu xuống để lấy hơi. Trong này chẳng có tí khí nào cả.


      “Còn gì nữa ?” Rhyme hỏi.


      còn gì mà tôi có thể nhìn được.”


      “Tôi tự hào vì , Amelia. Hãy đem kho báu của về đây nào.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI SÁU




      “Cẩn thận tí chứ”, Rhyme quát.


      “Tôi là chuyên gia cơ mà.”


      “Mới hay cũ đấy?”


      “Suỵt”, Thom .


      “Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?”


      “Đừng thở... À, đây rồi. Nhẵn như mông em bé.”


      Họ khám nghiệm mà trang điểm.


      Thom cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. ta cũng gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.


      Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường tiểu cho và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn : “Trông tệ lắm. có thấy thế ?”


      “Tôi quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?”


      Bất ngờ phát ra có quan tâm.


      “Cạo râu, được ?” Chành thanh niên hỏi.


      “Ta có thời gian.”


      quan ngại thực của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy chỉnh tề quá, có thể ông ta muốn tiếp tục vụ tự tử. bệnh nhân nhếch nhác là bệnh nhân nản lòng.


      “Và tắm rửa nữa.”


      .”


      “Lincoln, chúng ta có khách đấy.”


      Cuối cùng Rhyme cũng càu nhàu: “Được rồi.”


      “Và thay luôn bộ pyjama chứ? thấy thế nào?”


      “Có gì ổn đâu?”


      Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng, Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý giơ trước mặt .


      “Cất nó .”


      “Tốt hơn rất nhiều.”


      Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. “Tôi dạo chút trước khi họ đến”, tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn với vẻ mặt khó hiểu.


      “Trong đầu ấy”, Thom giải thích.


      “Đầu ?”


      “Tôi tưởng tượng”, Rhyme tiếp.


      trò ảo thuật”,Cooper .


      “Tôi có thể qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà bao giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi muốn. bát phố Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy chưa chắc có ở đó. Nhưng thế sao? Sao trời cũng thế mà.”


      “Như thế nào?” Cooper hỏi.


      “Ánh sáng của các vì sao mà ta nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất những ngôi sao dịch chuyển. Chúng còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa.” Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. “Tôi cho rằng trong số chúng có cả những vì sao cháy hết và biến mất.” nhắm mắt.


      làm mọi thứ khó khăn hơn đây.”


      nhất thiết”, Rhyme trả lời Lon Sellitto.


      Sellitto, Banks và Sachs vừa từ trường trại chăn nuôi trở về.


      “Đồ lót, mặt trăng và cây cối”, Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ . “Chính xác là bản đồ đường .”


      “Cả bụi bẩn nữa”, Rhyme nhắc, luôn coi trọng bùn đất.


      có ý tưởng gì về ý nghĩa của chúng ?” Sellitto hỏi.


      “Vẫn chưa”, Rhyme .


      “Polling đâu nhỉ?” Sellitto lẩm bẩm. “ ta vẫn chưa trả lời tin nhắn.”


      thấy ta đâu”, Rhyme .


      bóng người xuất ô cửa.


      “Vẫn sống và hít thở”, giọng nam trung mượt mà vang lên.


      Rhyme gật đầu ra hiệu cho người đàn ông lênh khênh vào phòng. Trông ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của ta nở nụ cười ấm áp, trông có vẻ hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. ta học cùng với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và khoa học pháp y.


      Nhà tâm lý học này opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme tỉnh dậy trong bệnh viện ba năm rưỡi trước đây, Dobyns ngồi cạnh , nghe vở Aïda máy Walkman. ta dành ba giờ sau đó để thực phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn thương của Rhyme.


      “Giờ tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách về những người trả lời điện thoại?”


      “Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu nghe về đối tượng của chúng ta rồi chứ?”


      chút”, Dobyns , quan sát Rhyme. ta phải bác sĩ nhưng ta hiểu về cơ thể học. “Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi xanh xao đấy.”


      “Hôm nay tôi có chỉnh trang chút”, Rhyme thừa nhận. “Tôi có ngủ trưa. Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ.”


      “Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về tội phạm và hiểu vì sao tôi lại ở giường. Có chuyện gì thế? Cậu tìm hồ sơ à?”


      “Bất kỳ thứ gì cậu có thể với chúng tôi đều có ích.”


      Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme hồi còn làm việc cùng nhau, bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của ta.


      Nhà tâm lý học đến trước bản sơ đồ treo tường, thỉnh thoảng liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử .


      ta giơ ngón tay lên chặn Sellitto. “Nạn nhân, nạn nhân… Tất cả bọn họ đều được phát dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm, trong đường hầm của trại chăn nuôi.”


      “Đúng thế”, Rhyme khẳng định.


      “Tiếp .”


      Sellitto tiếp tục về vụ giải cứu Monelle Gerger.


      “Tốt, được rồi”, Dobyns các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi quay lại nhìn sơ đồ tường lần nữa. ta giạng chân, tay chống nẮh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832. “ tôi nghe suy nghĩ của , về việc thích những cổ xưa ấy.”


      “Tôi biết điều đó có đem lại gì . Cho tới nay những manh mối về đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước.”


      Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. “Hanna. tôi nghe về Hanna.”


      “Amelia?” Rhyme hỏi.


      với Dobyns việc đối tượng gọi Monelle Gerger là Hanna mà lý do ràng nào cả. “ ấy thích gọi cái tên đó. Và với ấy bằng tiếng Đức.”


      “Và cũng tranh thủ sờ soạng ta, đúng ?” Dobyns nhận xét. “Taxi, sân bay – an toàn đối với . Nhưng nấp trong phòng giặt là… ta chắc chắn phải có động lực thực để bắt người Đức.”


      Dobyns xoáy búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.


      “Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất… đó là chìa khóa. Nó với tôi rằng là người giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh.”


      ta có vẻ cuồng loạn”, Sellitto . “ cực kỳ bình tĩnh và tính toán.”


      phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là kiểu rối loạn tâm lý. Triệu chứng biểu khi có chấn thương xảy ra trong cuộc đời bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành thứ khác. Đó là cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống của chứng cuồng loạn, thấy những triệu chứng bệnh lý – buồn nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta xử lý vấn đề có liên quan. phân tách – đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ phải thể xác. Chứng quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân cách.”


      “Jekyll và Hyde(95)?” Mel Cooper vờ là gã đồng tính, đấm Banks.


      “À, tôi nghĩ thực có bệnh đa nhân cách”, Dobyns tiếp. “Đây là triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn chàng của các cậu.” ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ tường. “ ta khéo léo và thông minh. kẻ tấn công ràng và có tổ chức.” Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ lát. “Thú vị đấy, Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình nhân cách khác khi nó phù hợp với ta – khi ta muốn giết người – và đó là điều rất quan trọng.”


      “Vì sao?”


      “Hai lý do. Thứ nhất, điều đó cho ta vài điều về nhân cách chính của . người được đào tạo – có thể trong công việc, có thể khi học – để giúp người khác, phải làm họ tổn thương. thầy tu, luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là tìm được cho mình bản đồ chi tiết. Nếu các tìm ra nó là gì, có thể các tìm được manh mối dẫn tới .”


      “Bản đồ chi tiết kiểu gì?”


      “Có thể muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hành động cho tới khi tìm cho mình hình mẫu. Có thể là cuốn sách hay bộ phim. Hoặc ai đó biết. Nếu đó là người mà có thể bị đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ cấp cho giấy phép giết chóc. Còn chỗ này tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng…”


      “Tiếp ”, Rhyme : “Tiếp .”


      đam mê đối với lịch sử của với tôi rằng nhân vật của là ai đó trong quá khứ.”


      “Đời thực?”


      “Tôi chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể phải. Hanna, bất kể ta là ai, phải là nhân vật trong câu chuyện đâu đó. Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức.”


      “Cậu có biết điều gì đó có thể làm ra như vậy?”


      “Freud đó là – còn gì được nữa? – xung đột tình dục trong giai đoạn Oedip(96). Ngày nay, mọi người nhất trí rằng vấp váp mang tính phát triển chỉ là trong những nguyên nhân – bất kỳ chấn thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó nhất thiết chỉ là kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, loạt thất vọng về cuộc sống cá nhân hay nghiệp. Khó .” Mắt ta chăm chú nhìn hồ sơ. “Nhưng tôi rất hy vọng cậu tóm được , Lincoln. Tôi rất muốn được làm việc với trong mấy tiếng đồng hồ.”


      “Thom, cậu ghi lại cả chưa?”


      “Rồi, bwana.”


      “Nhưng có câu hỏi”, Rhyme bắt đầu.


      Dobyns ngoảnh lại. “Tôi đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao để lại manh mối, đúng thế ?”


      “Đúng vậy. Tại sao?”


      “Nghĩ xem làm gì… chuyện với cậu. dông dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac(97). bị tâm thần phân liệt. giao tiếp – bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn ngữ pháp y. Vì sao?” lại lại, mắt ta nhìn lên tấm áp phích. “Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là muốn chia sẻ tội lỗi. Giết chóc đối với rất khó khăn. dễ dàng hơn nếu lôi chúng ta vào. Nếu chúng ta cứu được nạn nhân họ chết, phần là do lỗi của chúng ta.”


      “Nhưng thế tốt, đúng ?” Rhyme hỏi. “Thế có nghĩa là tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu , nếu câu đó quá khó, chia sẻ được gánh nặng.”


      “Ừ, đúng vậy”, Dobyns , nụ cười tắt. “Nhưng vẫn còn những yếu tố khác nữa.”


      Sellitto đưa ra câu trả lời: “Tăng cường hoạt động liên tục.”


      “Đúng thế”, Dobyns khẳng định.


      “Làm sao có thể tấn công thường xuyên hơn được?” Banks lẩm bẩm. “Ba giờ lần chưa đủ nhanh hay sao?”


      tìm được cách”, nhà tâm lý học tiếp. “Chủ yếu là nhắm tới nhiều nạn nhân.” Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. “Thế nào Lincoln, cậu ổn chứ?”


      Trán nhà hình học lấm tấm mồ hôi, ta liếc mắt nhìn. “Mệt. Quá nhiều điều phấn khích trong ngày cho kẻ tàn tật già nua.”


      điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng chủ yếu săn trong ao da trắng nên điều này có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với những gì ta biết, ta thể lần ra được vì sao lại chọn những người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu trước .”


      “Cám ơn, Terry”, Rhyme . “Ở lại lúc nữa nhé.”


      “Được thôi, Lincoln. Nếu cậu muốn.”


      Sau đó Rhyme hạ lệnh. “Hãy xem vật chứng từ trường trại chăn nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?”


      Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ trường. ta nhìn cái túi đựng đồ lót. “Loại D’Amore của hãng thời trang Katrina”, ta tuyên bố. “Bông trăm phần trăm, dây chun. Vải dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan.”


      “Chỉ cần nhìn mà biết ngay ư?” Sachs ngạc nhiên hỏi.


      , tôi đọc thôi”, ta trả lời, chỉ vào cái mác.


      “Ồ…”


      Mấy viên cảnh sát cười rộ.


      “Có thể với chúng ta rằng, bắt được người phụ nữ khác chăng?” Sachs hỏi.


      “Có khả năng.” Rhyme .


      Cooper mở cái túi. “Tôi biết chất lỏng đó là gì. Tôi đo sắc ký.”


      Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. thận trọng nghiên cứu nó. mẩu giấy như vậy là bằng chứng xác lập cá thể tuyệt vời. có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ có tờ báo nguyên bản. tự hỏi, biết họ có thể tìm được nó hay . Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi xé mẩu giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng làm thế. muốn hình dung ra nó ở đâu đó. đợi tìm thấy. Theo cách mà luôn hình dung ra bằng chứng gốc: mẩu sơn xe hơi bị cào rớt, ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này – luôn ở gần đối tượng – có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme. Chúng có thể hống hách hay độc ác.


      Hay bí hiểm.


      Tuần trăng.


      Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hoạt động theo chu kỳ hay .


      . Giờ phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn ngày.”


      “Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác.”


      “Có thể ngay từ đầu nó cũng có nghĩa là mặt trăng”, Sachs .


      Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. : “Ý hay đấy, Amelia. Có thể về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình học. Hành tinh…”


      Rhyme nhận ta nhìn . Có thể vừa nhận thấy cạo râu và chải tóc, thay quần áo.


      Tâm trạng của ta là gì? tự hỏi. Giận , hay quan tâm? đoán được. Lúc này Amelia cũng bí như Đối tượng 823.


      Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay lại với hai tờ giấy.


      “Từ Emma Rollins”, ta . ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể nhìn thấy.


      “Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong hai ngày qua có mười cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít hơn năm món hàng.” ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay lại nhìn Rhyme: “Tên các cửa hàng?”


      “Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo.”


      Thom viết lên bản hồ sơ.




      B’way & 82nd,


      ShopRite


      B’way & 96th,


      Anderson Foods


      Greenwich & Bank,


      ShopRite


      2nd Ave., 72nd-73nd,


      Grocery World


      Battery Park City,


      J&G’s Emporium


      1709 2nd Ave.,


      Anderson Foods


      34th & Lex.,


      Food Warehouse


      8th Ave. & 24th,


      ShopRite


      Houston & Lafayette,


      ShopRite


      6th Ave. & Houston,


      J&G’s Emporium


      Greenwich & Franklin,


      Grocery World




      “Như thế là cả thành phố còn gì”, Sachs .


      “Kiên nhẫn”, Lincoln Rhyme bồn chồn .


      Mel Cooper xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. “Chẳng có gì đặc biệt.” ta ném nó sang bên.


      “Nó còn mới ?” Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong ngày.


      Nhưng Cooper : “Tôi nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng hoặc lâu hơn.” ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống quần áo của Đức xuống tờ báo.


      “Có mấy thứ ở đây”, ta trong khi soài người tờ báo. “Bụi bẩn.”


      “Có đủ để phân tích biến thiên mật độ ?”


      . Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ trường.”


      Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà ta chải ra được từ đám quần áo máu me.


      “Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?”


      “Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch.”


      bắn chúng? Tại trường?” Rhyme cau mày.


      Sachs chống cự: “Vâng, đúng thế. Nhưng chúngò đầy người ấy.”


      Tức giận, nhưng bỏ qua. Chỉ : “Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc…”


      “Đây này… mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và… ta có mẩu sợi. mẫu khác.”


      Các nhà hình học rất thích sợi. Đó là nhúm sợi xíu, rất khó nhìn thấy bằng mắt thường.


      “Tuyệt vời”, Rhyme . “Còn gì nữa?”


      “Và đây là ảnh trường”, Sachs , “và dấu tay. cổ họng ở chỗ nhặt găng tay”. giơ chúng lên.


      “Tốt”, Rhyme và xem xét chúng cẩn thận.


      khuôn mặt tỏa sáng ánh hào quang của chiến thắng miễn cưỡng – cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì là kẻ chuyên.


      Rhyme nghiên cứu tấm ảnh Polaroid nghe thấy tiếng bước chân cầu thang và Jim Polling đến. ta vào phòng ra vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ Sellitto.


      “Tôi vừa ở trường vụ án”, ta . “Các bạn cứu được nạn nhân. Làm rất tốt.” ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là ta tính cả trong đó. “Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?”


      “Hoặc chuẩn bị tóm”, Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.


      “Chúng tôi nghiên cứu manh mối”, Banks .


      “Jim, tôi cố tìm ”, Sellitto . “Tôi thử gọi đến cả văn phòng Thị trưởng.”


      “Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp Quốc.”


      “Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta có vấn đề. Điều gì đó xảy ra tại trường cuối cùng…”


      giọng cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng. “Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng ? hề có vấn đề nào hết.”


      Rhyme nhìn lên, người đàn ông cao gầy ngưỡng cửa. ta đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. “Dellray.”


      “Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim Polling nữa này, công việc thế nào, bạn?”


      Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những sĩ quan có mặt trong phòng, chú ý của ta bùng lên khắc khi thấy Sachs rồi tan biến.


      muốn gì?” Polling hỏi.


      Dellray : “Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị bị loại. Chúng tôi đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI BẢY




      người trong chúng ta.


      Đó là cách Dellray nhìn Lincoln Rhyme khi ta bước vòng quanh giường. Vài người làm thế. Bại liệt là câu lạc bộ trong đó họ tổ chức dạ hội với chuyện đùa, những cái gật đầu, nháy mắt. biết là tôi mến mà, vì ti trêu đùa với .


      Lincoln Rhyme biết rằng thái độ này biến mất nhanh chóng.


      “Nhìn này”, Dellray vừa vừa chỉ Clinitron. “Cảnh trong Star Trek. Chỉ huy Riker, lên tàu ngay.”


      “Biến , Dellray”, Polling . “Đây là vụ của chúng tôi.”


      “Tình hình bệnh nhân của ta ra sao, bác sĩ Crusher?”


      Viên đại úy tiến lên phía trước, viên đặc vụ FBI cao kều cúi người xuống. “Dellray, nghe tôi ? Biến .”


      “Ái chà, Rhyme, tôi cố kiếm cho mình cái giường thế này. Nằm xem thế nào cũng tệ. Nghiêm chỉnh đấy, Lincoln, thế nào? Mấy năm rồi còn gì.”


      “Họ có gõ cửa ?” Rhyme hỏi Thom.


      , họ chẳng buồn gõ cửa.”


      “Các gõ cửa”, Rhyme . “Thế tôi khuyên các nên ra.”


      “Tôi có giấy phép đây”, Dellray lẩm bẩm, búng búng vào tờ mớ giấy tờ trong túi áo ngực.


      Móng tay trỏ của Amelia Sachs cậy ngón tay cái của tới mức gần bật máu.


      Dellray nhìn quanh phòng. ràng là ta bị ấn tượng bởi phòng thí nghiệm ngẫu hứng của họ nhưng lại nhanh chóng che đậy cảm giác đó. “Xin lỗi. Chúng tôi tiếp quản vụ này.”


      Trong hai mươi năm làm cảnh sát, chưa bao giờ Rhyme gặp tình huống tiếp quản bắt buộc như vụ này.


      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé,


      - Quần áo đen,


      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác


      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?


      - Găng tay tối màu.


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Ở gần:


      B’way & 82nd,


      ShopRite


      B’way & 96th,


      Anderson Foods


      Greenwich & Bank,


      ShopRite


      2nd Ave., 72nd-73nd,


      Grocery World


      Battery Park City,


      J&G’s Emporium


      1709 2nd Ave.,


      Anderson Foods


      34th & Lex.,


      Food Warehouse


      8th Ave. & 24th,


      ShopRite


      Houston & Lafayette,


      ShopRite


      6th Ave. & Houston,


      J&G’s Emporium


      Greenwich & Franklin,


      Grocery World




      - Yellow Cab,


      - Chiếc sedan đời mới,


      - Màu xám nhạt, bạc be.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32


      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,


      - “Cổ xưa” hấp dẫn ,


      - Gọi nạn nhân là “Hana”,


      - Biết tiếng Đức cơ bản.





      “Mặc mẹ nó, Dellray”, Sellitto bắt đầu. “ chuyển vụ này rồi mà.”


      Viên đặc vụ quay khuôn mặt đen bóng của mình lại cho tới khi ta nhìn xuống viên thám tử.


      “Chuyển? Chuyển? Tôi hề nghe gì về vụ này. có gọi điện cho tôi ?”


      .”


      “Thế ai thả xu(98-)?”


      “Thế …”, Sellitto ngạc nhiên, liếc nhìn Polling. ta : “ác có tư vấn. Đó là mọi thứ chúng tôi phải gửi cho .” Lúc này ta cũng chống chế.


      “Tư vấn. Được đấy. Này, mà nó được chuyển thế nào nhỉ? Có phải bằng Pony Ex-press(99) ? Hay qua đường bưu điện? tôi nghe, Jim, tư vấn qua đêm có ích lợi gì cho chiến dịch triển khai?”


      Polling : “Chúng tôi thấy nhu cầu.”


      “Chúng tôi?” Dellray hỏi nhanh. Như phẫu thuật gia tìm thấy khối vi u.


      “Tôi thấy cần thiết”, Polling vặc lại. “Tôi với ngài Thị trưởng nên giữ vụ này như vụ của địa phương. Chúng tôi kiểm soát được nó. Giờ biến , Dellray.”


      “Và nghĩ có thể làm xong nó cho kịp bản tin mười giờ?”


      Rhyme giật mình khi Polling quát: “Chúng tôi nghĩ gì phải việc của , khốn kiếp. Vụ chết tiệt này là của chúng tôi.” biết tính khí nổi tiếng của viên đại úy, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến.


      “Thực… ra, bây giờ vụ chiết tiệt này là của chúng tôi.” Dellray ngang qua cái bàn đặt thiết bị của Cooper.


      Rhyme : “Đừng làm thế, Fred. Chúng tôi nắm được thằng cha này. Hãy làm việc cùng chúng tôi, nhưng đừng lấy vụ này. Đối tượng giống với bất kỳ kẻ nào gặp.”


      Dellray mỉm cười. “Hãy xem, tin mới nhất mà tôi nghe được từ vụ ‘chết tiệt’ này là gì? Các để thường dân xét nghiệm pháp y.” Viên đặc vụ ném cái nhìn về phía chiếc giường Clinitron. “Các để cảnh sát tuần tra khám nghiệm trường. Các bắt quân lính mua thực phẩm.”


      “Tiêu chuẩn chứng cứ, Frederick”, Rhyme nghiêm khắc nhắc nhở. “Đấy là SOP(100).”


      Dellray trông có vẻ thất vọng. “Nhưng đó là ESU, Lincoln? Tiền của người nộp thuế cả đấy. Rồi còn cưa người ta ra, cứ như trong Texas Chainsaw(101) vậy…”


      Thế quái nào mà tin này lại rò rỉ ra được? Tất cả mọi người thề là bảo vệ bí mật vụ cưa cắt này rồi cơ mà.


      “Rồi tôi còn nghe quân của Haumann tìm thấy nạn nhân nhưng vào cứu ta ra ngay, đúng ? Kênh Năm có mic đó. Nghe được ta kêu gào tới năm phút trước khi các cho người vào.” ta ném cho Sellitto cái liếc nhăn nhở. “Lon, bạn tôi, đây có phải làvấn đề mà ta vừa đến ?”


      Họ khá xa, Rhyme nghĩ. Họ cảm nhận được , bắt đầu học được ngôn ngữ của . Bắt đầu nhìn thấy . Với chút ngạc nhiên hiểu ra rằng, lần nữa làm những gì thích. Sau bao nhiêu năm. Nhưng bây giờ có người muốn tước đoạt điều đó từ . Cơn giận dữ dâng lên trong .


      “Lấy vụ này , Fred”, Rhyme gầm gừ. “Nhưng đừng gạt chúng tôi ta. Đừng làm thế.”


      “Các mất hai nạn nhân”, Dellray nhắc.


      “Chúng tôi chỉ mất ”, Sellitto sửa lại. ta nhìn Polling lúc này cáu kỉnh. “Chúng tôi chẳng làm gì được với nạn nhân đầu tiên. ta là quân bài hạ.”


      Dobyns đứng khoanh tay, quan sát cuộc cãi vã. Nhưng Jerry Banks nhảy vào: “Chúng tôi nắm được cách thức hoạt động của . Chúng tôi để mất thêm ai nữa.”


      “Các đánh mất nếu các tiếp tực để đội ESU ngồi nghe nạn nhân la hét.”


      Sellitto : “Đó là…”


      “Quyết định của tôi”, Rhyme . “Của tôi.”


      “Nhưng là dân thường, Lincoln. Như vậy, thể là quyết định của được. Đó có thể là gợi ý của . Đó có thể là khuyến nghịcủa . Nhưng tôi nghĩ đó là quyết định của .”


      Dellray lại chuyển chú ý sang Sachs. Mắt nhìn , ta với Rhyme: “ bảo Peretti đừng khám nghiệm trường? ngạc nhiên đấy, Lincoln. Sao lại làm điều như thế nhỉ?”


      Rhyme : “Tôi giỏi hơn ta.”


      “Peretti hài lòng lắm đâu. hề. ta và tôi chuyện với Eckert.”


      Eckert? Phòng Truyền thông? Ông ta dính dáng gì ở đây?


      hiểu ra khi liếc nhìn Sachs, nhìn vào đôi mắt xanh được bao bọc bởi những lọn tóc đỏ rối bù cố tình lảnh tránh ánh mắt .


      Rhyme đóng đinh bằng cái nhìn mà nhanh chóng lờ . Và với Dellray: “Xem nào… Peretti? Chẳng phải ta là người cho thông xe qua chỗ đối tượng đứng nhìn nạn nhân đầu tiên của ? Chẳng phải ta là người giải phóng trường trước khi chúng tôi có cơ hội thu thập được dấu vết quan trọng nào đó? trường mà Sachs của tôi ở đây nhìn thấy trước là phải chặn đường giao thông. Sachs của tôi làm đúng trong khi Vince Peretti và những người khác làm sai hết. Đúng thế, ấy đúng.”


      nhìn chăm chăm ngón tay cái, cái nhìn cho thấy cảnh tượng quen thuộc, rồi cho tay vào túi lấy ra tờ giấy thấm quấn quanh ngón trỏ đẫm máu.


      Dellray tổng kết: “Đáng ra các phải gọi cho tôi ngay từ đầu.”


      “Cút ngay”, Polling lầm bầm. Có gì đó xuất trong mắt ta và ta cao giọng. “Cút ngay khỏi đây!” ta gào lên.


      người bình tĩnh như Dellray cũng phải giật mình lùi lại phía sau vì nước bọt bắn ra từ miệng viên đại úy.


      Rhyme nhăn mặt vì Polling. Rất có thể họ cứu vớt được chút gì trong vụ này, nhưng hỏng hết nếu Polling lên cơn giận. “Jim…”


      Viên đại úy lờ . “Cút!” ta quát lên lần nữa. “Các được lấy vụ này!” Mọi người trong phòng đầu giật bắn mình, Polling lao lên, tóm ve áo màu xanh lá của viên đặc vụ FBI rồi dồn ta vào tường. Sau khắc im lặng ngạc nhiên, Dellray đẩy viên đại úy ra, đơn giản chỉ bằng ngón tay và móc chiếc điện thoại di động. ta đưa nó cho Polling.


      “Gọi cho Thị trưởng. Hay sếp Wilson.”


      Polling lùi xa ra khỏi Dellray theo bản năng – người thấp luôn giữ khoảng cách với người cao. “Nếu muốn vụ này, có mẹ nó rồi đấy.” Viên đại úy bước ra cầu thang và xuống. Cửa trước sập mạnh.


      “Lạy chúa, Fred”, Sellitto , “làm việc với bọn tôi. Chúng ta có thể tóm thằng khốn đó.”


      “Chúng ta cần A-T của Cục”, Dellray , giọng ta nghe đầy thuyết phục. “Các chưa nhìn từ góc độ khủng bố.”


      “Góc độ chống khủng bố nào?” Rhyme hỏi.


      “Hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc. Đặc tình của tôi , có tin đồn rằng có gì đó xảy ra tại sân bay. Chỗ ta tóm nạn nhân.”


      “Tôi cho rằng ta là khủng bố”, Dobyns . “Bất kể điều gì diễn ra trong con người đều có động cơ tâm lý. có vấn đề ý thức hệ.”


      “Nhưng, là Quantico và chúng tôi nghĩ về theo cách. Tôi đánh giá cao việc các nghĩ khác. Nhưng đây là cách chúng tôi xử lý vụ này.”


      Rhyme đầu hàng. mệt mỏi làm nản chí. ước gì sáng nay Sellitto và viên trợ lý mặt sẹo của ta đến đây. ước gì gặp Amelia Sachs. ước gì mặc cái áo sơ mi bảnh bao ngớ ngẩn này, nó chỉ làm thấy nghẹt cổ và tạo ra cảm giác như có gì dưới nó.


      nhận thấy Dellray với mình.


      “Xin lỗi?” Rhyme nhướn mày.


      Dellray hỏi: “Ý tôi là, liệu chính trị có thể là động cơ của ?”


      “Tôi quan tâm tới động cơ”, Rhyme trả lời. “Tôi chỉ quan tâm tới chứng cứ.”


      Dellray nhìn vào cái bàn của Cooper lần nữa. “Như vậy vụ này là của chúng tôi. Mọi người nhất trí chứ?”


      “Lựa chọn của chúng tôi là gì?” Sellitto hỏi.


      “Các hỗ trợ người tìm kiếm cho chúng tôi. Hoặc các có thể dừng hoàn toàn. Tất cả chỉ còn lại có thế. Giờ , nếu các phiền, chúng tôi lấy vật chứng được rồi chứ?”


      Banks ngần ngừ.


      “Đưa cho họ ”, Sellitto ra lệnh.


      Viên cảnh sát trẻ tuổi nhặt những cái túi đựng vật chứng thu lượm được từ trường mới đây lên, cho chúng vào trong cái túi nhựa to. Dellray chìa tay ra. Banks nhìn vào những ngón tay gầy guộc rồi ném cái túi xuống bàn, sau đó ra góc xa của căn phòng – phía cảnh sát. Lincoln Rhyme là khu phi quân phân cách họ, Amelia Sachs đứng như trời trồng cạnh chân giường của Rhyme.


      Dellray với : “Sĩ quan Sachs?”


      Sau khoảng lặng trả lời, mắt vẫn nhìn Rhyme: “Có?”


      “Trưởng ban Eckert muốn cùng chúng tôi để báo cáo về các trường vụ án. Ông ta có gì đó về việc bắt đầu công việc mới vào thứ Hai.”


      gật đầu.


      Dellray quay lại phía Rhyme và chân thành : “ đừng lo,Lincoln. Chúng tôi tóm được . Lần sau được nghe là bị bêu đầu ngoài cổng thành phố.”


      ta gật đầu ra hiệu cho những cộng của mình, họ đóng gói vật chứng và xuống cầu thang. Từ ngoài hành lang, Dellray gọi Sachs. “ luôn chứ, sĩ quan?”


      đứng đó, hai tay nắm vào nhau như học trò tại buổi dạ hội mà ta thấy hối hận vì đến.


      “Tôi ngay.”


      Dellray biến mất dưới cầu thang.


      “Bọn quái vật”, Banks lẩm bẩm, vứt quyển sổ ghi chép của mình xuống bàn. “ thể tin được, phải ?”


      Sachs đung đưa gót chân.


      “Amelia, nên hơn”, Rhyme . “Xe đợi .”


      “Lincoln.” lại gần giường.


      “Được rồi”, . “ làm điều phải làm.”


      “Tôi chẳng có gì liên quan đến khám nghiệm trường”, buột miệng. “Tôi bao giờ thích.”


      “Và còn phải làm nữa. Như mong muốn, phải nào?”


      bắt đầu ra cửa, nhưng quay lại và thốt lên: “ chẳng quan tâm đến cái gì khác ngoài chứng cứ, đúng ?”


      Banks và Sellitto bồn chồn, nhưng Sachs lờ họ .


      “Này, Thom, cậu tiễn Amelia, được ?”


      Sachs tiếp tục. “Với đây chỉ là trò chơi, đúng ?Monelle…?”


      “Ai?”


      Mắt tóe lửa. “Đó. Thấy chưa? còn nhớ cả tên ta. Monelle Gerger. trong đường hầm... ấy chỉ là phần trong câu đố của . Chuột bọ bò đầy người ấy, còn : ‘Đấy là bản chất của chúng? Đấy là bản chất của chúng? ấy bao giờ trở lại được như xưa, còn chỉ quan tâm đến mấy thứ chứng cứ quý báu của ?”


      “Khi những nhân chứng còn sống”, lên giọng đều đều, dạy dỗ, “vết cắn của loài gặm nhấm chỉ là những vết thương bề mặt. Ngay khi những con vật đó nước dãi vào ta là ta phải tiêm phòng dại. Vậy thêm mấy vết cắn nữa cũng có quan trọng ?”


      “Sao hỏi ý kiến ấy?” Nụ cười của Sachs lúc này khác . Nó trở nên độc địa, như nụ cười của những hộ lý và trợ lý trị liệu, những kẻ căm ghét người tàn tật. Họ lúc nào cũng lượn quanh khu hồi phục chức năng với kiểu cười như vậy. Ừ, đằng nào cũng thấy hài lòng với Amelia Sachs lịch ; muốn người nóng tính...


      “Trả lời tôi chứ, Rhyme. Thực vì sao lại muốn tôi?


      “Thom, vị khách của chúng ta còn được chào đón nữa. Cậu làm ơn...”


      “Lincoln”, người trợ lý .


      “Thom”, Rhyme cáu kỉnh, “tôi bảo cậu làm việc đấy”.


      “Vì tôi chẳng biết cái con khỉ gì, đúng ?” Sachs buột miệng. “Chính thế đấy! muốn kỹ thuật viên CS thực vì lúc đó có quyền. Còn tôi, có thể bắt tôi ra đây, ra kia. Tôi làm đúng những thứ cần, hề than vãn hay oán trách.”


      “À, binh biến...”, Rhyme , ngước mắt lên trần nhà.


      “Nhưng tôi phải lính. Ngay từ đầu tôi muốn thế.”


      “Tôi cũng muốn. Nhưng giờ ta ở đây. giường với nhau. Ồ, ít nhất là người trong chúng ta.” biết, nụ cười lạnh lùng của băng giá gấp nhiều lần nụ cười lạnh lùng nhất của .


      “Vì sao, Rhyme, chỉ là đứa trẻ hỗn xược được nuông chiều mà thôi.”


      “Này sĩ quan, hết giờ rồi đấy”, Sellitto quát.


      Nhưng vẫn tiếp tục: “ còn làm công việc khám nghiệm trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng làm ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và tôi như thế vớ vẩn.” vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi phòng.


      nghĩ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng chỉ có tiếng va , rồi im lặng.


      Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập trung thái quá, Sellitto : “Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi...”


      sao”, Rhyme , ngáp dài, hy vọng làm cho trái tim nhức nhối của bình ổn. “Hoàn toàn sao.”


      Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong im lặng đáng sợ, sau đó Cooper : “Gói ghém thôi.” ta nhấc hộp kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với chăm chút của nhạc công tháo cây kèn saxophone của mình.


      “Được rồi, Thom”, Rhyme . “Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế nghĩa là gì ? Các quầy bar mở cửa.”


      Phòng chiến trận của họ ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của Rhyme.


      Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao là từ đầu tiên xuất trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi bẩn và tế bào của đám súc vật chết hàng trăm năm.


      hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc quay cuồng với hàng nghìn điều muốn , ước gì , bắt mình tập trung vào những gì diễn ra xung quanh.


      đặc vụ cao mặc bộ vét xám chê vào đâu được hội ý với Dellray – hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. tin rằng ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan, nhưng chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của nhân viên Đội Tuần tra cũng nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân viên bán bảo hiểm. ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo tường. Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với ta, sau đó ta bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống nhóm đặc vụ và bắt đầu .


      “Mọi người làm ơn chú ý… Tôi vừa chuyện với giám đốc và chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân bay Kennedy. Đây là hồ sơ bình thường. Bắt cóc, có yếu tố tình dục, thường đó phải động cơ giết người hàng loạt. thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những kiện tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta phối hợp với trụ sở trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất.”


      SAC nhìn Dellray : “Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD nhưng chúng ta dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực. Chúng ta có sĩ quan trường vụ án tại đây để báo cáo về trường.” Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. còn là ngày Nhặng nữa.


      đăng ký vật chứng chưa?” Perkins hỏi Sachs.


      Sachs thừa nhận chưa làm. “Chúng tôi bận cứu nạn nhân.”


      Điều này làm SAC khó chịu. Nếu khi xử án, những vụ ngon ăn thường bị đình trệ vì đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà luật sư của tội phạm tóm lấy.


      “Nhớ làm trước khi ra về.”


      “Vâng, thưa ngài.”


      Vẻ mặt Rhyme tệ khi ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc họ phải đóng cửa. tệ…


      Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn trường…


      lại cậy móng tay. Thôi , nhủ thầm như vẫn thường làm, và lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn tốt. Đó là điều mà bác sĩ trị liệu bao giờ hiểu.


      SAC : “Đặc vụ Dellray? có thể báo cáo với mọi người cách chúng ta làm ?”


      Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: “Tại thời điểm này chúng ta có đặc vụ trường đánh tất cả các nhóm khủng bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ ngầm. Điều đó có nghĩa ta làm tổn thương số chiến dịch tại, nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro.”


      “Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các được chia thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối nào. Các phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy.”


      “Thưa ngài”, Sachs .


      Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. ràng ai có quyền làm gián đoạn buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. “Có việc gì thế, sĩ quan?”


      “À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân sao, thưa ngài?”


      “Ai? người Đức? nghĩ chúng ta phải thẩm vấn ta lần nữa à?”


      , thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo.”


      Perkins trả lời: “Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể có những mục tiêu khác.”


      Sachs tiếp: “ có rồi.”


      ?” SAC liếc nhìn Dellray nhún vai. Perkins hỏi Sachs: “Làm sao biết?”


      “À, chính xác tôi biết, thưa ngài. Nhưng ta để lại manh mối ở trường cuối cùng và làm thế nếu có nạn nhân khác. Hoặc chuẩn bị bắt nạn nhân.”


      ghi nhận, thưa sĩ quan”, SAC tiếp tục. “Chúng ta huy động mức nhanh nhất có thể để bảo đảm có chuyện gì xảy ra với họ.”


      Dellray với : “Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ yếu vào con quái vật.”


      “Thám tử Sachs…”, Perkins bắt đầu.


      “Tôi phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra.”


      “Được rồi”, SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. “Nếu có thể, hãy cho chúng tôi số điểm chính, rất hữu ích.”


      Ba mươi đặc vụ nhìn . Có hai phụ nữ.


      “Cứ cho chúng tôi nghe những gì nhìn thấy”, Dellray , cắn điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.


      đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của tại trường cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm thấy lo lắng về phương thức MO(102) kỳ lạ của đối tượng.


      “Như trò chơi chết tiệt”, đặc vụ lẩm bẩm.


      người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được thông điệp chính trị nào ?


      “Thưa ngài, thực chúng tôi cho rằng là kẻ khủng bố”, Sachs khăng khăng.


      Perkins chuyển chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. “Cho phép tôi hỏi, sĩ quan, công nhận là thông minh, đúng ?”


      “Rất thông minh.”


      có thể bịp hai lần ?”


      “Ý của là gì?”


      ... Tôi phải rằng NYPD nghĩ trường hợp tâm thần. Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải đủ thông minh để khiến nghĩ thế hay ? Trong khi có thể điều gì khác diễn ra.”


      “Điều gì?”


      “Manh mối để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?”


      , thưa ngài. Đó là hướng dẫn”, Sachs . “Dẫn chúng tôi đến chỗ nạn nhân.”


      “Tôi hiểu”, Thomas Perkins nhanh trí . “Nhưng cũng có thể làm thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của , đúng nào?”


      chưa nghĩ tới điều này. “Tôi cho rằng cũng có thể.”


      “Sếp Wilson cũng cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể làm mọi người bị phân tán để tự do thực thi sứ mạng thực của .”


      Sachs nhớ lại là trước đây cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn thấy những nhân viên tìm kiếm Phố Pearl. “Và mục tiêu đó có thể là Liên Hiệp Quốc?”


      “Chúng tôi nghĩ vậy”, Dellray . “Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ đánh bom UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa.”


      Có nghĩa là Rhyme theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm gánh nặng của đôi chút.


      “Sĩ quan, giờ có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?”


      Dellray đưa cho bảng danh sách mọi thứ tìm được và đọc từng hạng mục. Khi chuyện, nhận thấy những hoạt động sôi sục quanh mình – vài đặc vụ nhận điện thoại, số đứng thầm với người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, thêm: “Tôi có lấy được dấu vân tay của tại trường cuối cùng”, nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. nhìn lên. Mọi khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào như cơn sốc vừa qua – nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.


      bất lực nhìn Dellray, ta ngẩng đầu lên. “Có phải bảo vớ được dấu tay?”


      “Vâng, đúng như thế. bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối cùng, khi nhặt lên tay quét xuống sàn.”


      “Ở đâu?” Dellray hỏi nhanh.


      “Lạy Chúa”, đặc vụ kêu lên. “Sao chẳng gì?”


      “À, tôi…”


      “Tìm . Tìm nó ngay !” người khác kêu lên.


      Tiếng xì xầm lan khắp phòng.


      Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. ta giơ nó lên, nhìn cẩn thận. Đưa cho người mà đoán là chuyên gia về dấu tay xem. “Tốt”, đặc vụ này . “Chắc chắn là loại A.”


      biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các cơ quan thực thi pháp luật chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm kêu hãnh của về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình bị đập tan bởi chê bai mang tính tập thể của họ khi nhắc tới điều đó sớm hơn.


      Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho đặc vụ, người này vội chạy đến chỗ cái máy tính phức tạp ở góc văn phòng và đặt nó lên bề mặt cong lớn của cỗ máy có tên gọi Optic-Scan. đặc vụ khác bật máy tính và gõ lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. ta sốt ruột giậm chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia trả lời điện thoại.


      “Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần cắt tất cả các cầu AFIS(103) từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho đây… Tôi có Perkins ở đây. ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi gọi cho người ở Washington… Việc có liên quan đến Liên Hiệp Quốc.”


      Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ thống Dellray lúc này dừng lại.


      Đặc vụ ngồi máy tính : “Quét rồi. Chúng tôi gửi .”


      mất bao lâu?”


      “Mười, mười lăm phút.”


      Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn .”


      Xung quanh cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố. Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.


      Perkins nghe điện, chuyện với những người giải cứu con tin hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được? Sachs với Dellray: “Tôi biết là dấu tay lại quan trọng đến thế.”


      “Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó.”


      đùa a?”


      , đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. tìm khan – tức là khi chẳng có đối tượng nào – tìm khan theo kiểu thủ công, kỹ thuật viên mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu tay. đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng , hai phần trăm. Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý như vàng đấy. cho Rhyme biết chưa?”


      ta biết, chắc chắn thế.”


      “Thế mà ta khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, chàng này trượt dốc.”


      “Này, sĩ quan”, SAC Perkins gọi, giữ tay điện thoại. “Tôi muốn điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho PERT.”


      PERT. Sachs nhớ Lincoln từng là người được Cục thuê để làm việc này.


      “Tôi làm. Chắc chắn rồi.”


      “Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. có bút , sĩ quan?”


      “Có.”


      theo hai sĩ quan sang văn phòng , căng thẳng bấm cây bút bi trong khi họ tìm kiếm và quay lại với xấp biểu đăng ký vật chứng do Cục ban hành. ngồi xuống, mở gói.


      Giọng vang lên đằng sau là của Dellray phiền muộn. nhân cách cố gắng bật ra. đường đến đây, ai đó gọi ta là Kỳ nhông và dần hiểu ra lý do.


      “Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. phải là ‘dick(104)’ như hiểu đâu. ‘Dict’ như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho ta. ta thông minh, hơn thế nữa dây của ta có thể giật đến tận Washington, là chỗ cần giật trong những vụ như thế này.” Dellray đưa điếu thuốc là lên mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. “ biết sĩ quan, gian như cáo khi làm điều làm đấy.”


      “Là gì?”


      “Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. muốn nó đâu.” Khuôn mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi gặp ta. “Việc tốt nhất từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó có ích và công việc biến thành bụi. Chắc chắn đấy là điều xảy ra. Công việc biến thành bụi.”


      trong những nạn nhân cuối cùng chịu áp bức điên loạn của James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của kẻ theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó năm) làm cho công việc làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này biến mất khi tới thành phố chưa được tuần. Người ta thấy ta lần cuối cùng là trước cửa quán rượu ở khu West Side, các cơ quan chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng ta lại là nạn nhân khác của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là thực.


      Kẻ Tầm Xương lượn xe phố khoảng mười lăm phút quanh Đại học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè. Trẻ trượt ván. khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm nhớ đến “bảo tàng” dưới Phố Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên phải là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của Pháp cho tới những mẩu gỗ Thánh giá thiêng liêng.


      ta chậm lại hai lần nhưng có ai cần taxi, hoặc đủ tiền để taxi. quay về phía nam.


      Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega(105) và lăn ta xuống dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá biến cơ thể ta thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi ta biến mất và người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay . Tuy nhiên, người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider tàn bạo cắt ngắn dây trói để cho mặt của Señor Ortega chỉ cách mặt nước vài inch – tay ta chắc chắn điên loạn khua khoắng khi ta nhìn tầng khí cứu tinh bên .


      Kẻ Tầm Xương nhìn thấy chàng thanh niên bệnh hoạn đứng vỉa hè. AIDS, nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe – và hoàn mỹ. Xương cốt của mày sống mãi... ta cần taxi v khi xe ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn ta qua kính chiếu hậu.


      quay lại đúng lúc để vòng xe tránh người đàn ông đứng tuổi vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe. Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít, vượt qua ông ta rồi dừng lại.


      Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. “ phải nhìn xem mình đâu chứ.” Ông ta câu này như lời hướng dẫn. chút giận dữ.


      “Xin lỗi”, Kẻ Tầm Xương , vẻ hối lỗi.


      Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ chút, nhìn quanh phố nhưng thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.


      Cánh cửa đóng sập.


      Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt xương như lụa.


      đâu đấy?” .


      “East Side.”


      “Có ngay”, trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.




      III


      CON CỚM TUẦN TRA


      Đảo lộn, đảo lộn, đảo lộn! Đó là châm ngôn của New York... Xương cốt của tổ tiên chúng ta được phép nằm yên trong phần tư thế kỷ, và thế hệ con cháu cố tình dỡ bỏ tất cả những di vật của những người trước.


      PHILIP HONE


      THỊ TRƯỞNG NEW YORK, NHẬT KÝ, 1845

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI TÁM


      10:15 PM thứ Bảy đến 5:30 AM Chủ nhật




      “Rót thêm , Lon.”


      Rhyme uống bằng ống hút, Sellitto uống bằng cốc. Cả hai đều uống whisky pha. Viên thám tử ngồi chiếc ghế mây kêu kin kít và Rhyme cho rằng ta trông hơi giống Peter Lorre trong phimCasablanca.


      Terry Dobyns về sau khi đưa ra vài nhận định tâm lý gay gắt về bệnh tự bản thân và về những người được chính phủ liên bang thuê mướn, Jerry Banks cũng ra về. Mel Cooper vất vả tháo và đóng gói thiết bị của ta.


      “Này Lincoln, ngon quá.” Sellitto nhấp ly whisky Scotch của mình. “Mẹ kiếp, tôi làm gì có tiền mua cái thứ này. Nó bao nhiêu tuổi?”


      “Tôi nghĩ loại này khoảng hai mươi năm.”


      Viên thám tử nhìn chất rượu nâu óng. “Quý , nếu đây là đàn bà, ta trưởng thành, rồi sau đó.”


      tôi nghe chuyện, Lon. Polling? Cơn điên của ta ấy mà. Câu chuyện đó là thế nào nhỉ?”


      “Bé Jimmy?” Sellitto cười. “Giờ ta gặp rắc rối. ta là người can thiệp để loại Peretti ra khỏi vụ này và giữ nó xa tầm tay của FBI. Thực ta liều mạng. ta cũng đòi cả , việc này tốn chút công sức. Cần phải tác động mấy chỗ. Tôi phải . Chỉ là thường dân trong vụ nóng thế này.”


      “Polling cầu tôi à? Tôi tưởng đấy là sếp.”


      “Đúng. Nhưng Polling làm thầy dùi cho ông ta ngay từ đầu. ta gọi ngay khi nghe về vụ bắt cóc và ở trường lại có mấy vật chứng ma.”


      ta muốn có mình? Rhyme băn khoăn. lạ. Rhyme có liên hệ gì với Polling suốt mấy năm qua – từ vụ giết cảnh sát mà bị thương. Polling làm vụ này và cuối cùng cũng tóm được Dan Shepherd.


      “Cậu có vẻ ngạc nhiên”, Sellitto .


      “Về việc ta cầu tôi? Có chứ. Chúng tôi hợp nhau lắm. Ít nhất là trước đây.”


      “Sao lại thế?”


      “Tôi 13-43(106) ta.”


      Mẫu đơn khiếu nại của NYPD.


      “Năm, sáu năm trước khi ta còn là viên thiếu úy, tôi thấy ta thẩm vấn nghi phạm ngay tại trường được bảo vệ. Làm nó bị ô nhiễm. Tôi nổi đóa. Cho chuyện này vào báo cáo và nó được trích dẫn trong lần đánh giá nội bộ của ta – lần ta bắn nghi phạm có vũ khí.”


      “Thế à, thế tôi nghĩ cậu được tha thứ, vì ta rất cần cậu.”


      “Lon, làm ơn gọi điện giúp tôi được chứ?”


      “Tất nhiên.”


      ”, Thom vừa vừa lấy chiếc điện thoại tay viên thám tử. “Cứ để ta tự làm.”


      “Tôi có thời gian học sử dụng nó.” Rhyme , hất đầu về phía thiết bị quay số ECU mà Thom nối lúc trước.


      dành thời gian. Khác biệt lớn đấy. gọi cho ai?”


      “Berger”


      , gọi”, Thom . “Muộn rồi.”


      “Tôi nhìn đồng hồ”, Rhyme lạnh lùng trả lời. “Gọi cho ông ấy. Ông ấy ở One Police Plaza.”


      .”


      “Tôi bảo cậu gọi cho ống ấy.”


      “Đây.” Người trợ lý quăng mẩu giấy xuống cạnh bàn ở xa nhưng Rhyme có thể đọc dễ dàng. Chúa có thể tước của Lincoln Rhyme nhiều thứ, nhưng Ngài ban tặng cho đôi mắt của chàng trai. quay số điện thoại bằng cằm và cái cần điều khiển. Dễ hơn nghĩ nhưng cố tình rình rang và lầm bầm khi làm. Bực mình, Thom lờ và xuống cầu thang.


      Berger có nhà. Rhyme bỏ máy, điên tiết vì thể dập được điện thoại mạnh.


      “Có vấn đề à?” Sellitto hỏi.


      ”, Rhyme càu nhàu.


      Ông ta đâu nhỉ? Rhyme bực mình nghĩ. Muộn rồi. Lúc này Berger phải về phòng khách sạn rồi mới đúng. Rhyme bị châm chọc bởi cảm giác lạ lùng – ghen tị vì ông bác sĩ tử thần của giúp người khác được chết.


      Sellitto bất ngờ nhàng chép miệng. Rhyme ngước nhìn. Viên cảnh sát ăn thanh kẹo. quên mất rằng đồ ăn sẵn là thực đơn chính của chàng khổng lồ này khi họ còn làm việc với nhau. “Tôi nghĩ. nhớ Bennie Ponzo ?”


      “Đội đặc nhiệm OC, mười năm trước?”


      “Có.”


      Rhyme thích làm việc với tội phạm có tổ chức. Bọn này là đội chuyên nghiệp. trường vụ án đầy thách thức. Nạn nhân cũng hiếm khi vô tội.


      “Ai thế?” Mel Cooper hỏi.


      tay giết thuê từ Bay Ridge”, Sellitto . “ có nhớ sau khi ta tóm , bánh kẹp kẹo.”


      Rhyme cười, gật đầu.


      “Chuyện thế nào?” Cooper hỏi.


      Sellitto : “Được rồi. Khi đó chúng tôi ở Central Booking. Lincoln, tôi và mấy người nữa. Và Bennie, cậu nhớ , chàng to lớn, ngồi gập cong người, đói meo. Bất ngờ : ‘Này chúng mày, tao đói. Tao muốn cái bánh kẹp kẹo.’ Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, rồi tôi hỏi: ‘Bánh kẹp kẹo là cái gì?’ nhìn tôi như thể tôi vừa rơi Sao Hỏa xuống rồi : ‘Thế mày nghĩ nó là cái mẹ gì? Mày lấy thanh kẹo Hersey, mày kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì rồi chén. Đấy là bánh kẹp kẹo.”


      Họ cười vang. Sellitto đưa thanh kẹo cho Cooper, ta lắc đầu, sau đó đưa cho Rhyme. Tự nhiên thấy muốn cắn miếng. năm nay rồi chưa được ăn chocolate. tránh những thức ăn loại này – đường, kẹo. Những thức ăn rắc rối. Những thứ nhặt trong cuộc đời trở thành gánh nặng lớn nhất, những thứ làm kiệt sức và đau khổ nhất. Được, chẳng bao giờ còn được lặn hay leo núi Alps. Thế sao? Bao nhiêu người khác cũng chẳng làm những trò này. Nhưng mọi người đều đánh răng. Và đến nha sĩ, hàn răng, đón tàu về nhà. Mọi người xỉa răng để moi mẩu lạc giắt trong răng hàm ra khi ai để ý.


      Tất cả mọi người, trừ Lincoln Rhyme.


      lắc đầu với Sellitto và hút hơi dài whisky Scotch. Ánh mắt quay lại màn hình máy tính, nhớ tới bức thư tạm biệt viết cho Blaine khi Sellitto và Banks làm bị gián đoạn sáng hôm đó. vẫn còn muốn viết thêm vài bức thư.


      Người mà dừng viết cho nữa là Peter Taylor, chuyên gia cột sống. Phần lớn thời gian, Rhyme và Taylor chuyện về tình hình bệnh nhân mà họ về cái chết. Ông bác sĩ này là người phản đối kịch liệt việc chết tự nguyện có trợ giúp. Rhyme thấy nợ ông ta bức thư giải thích vì sao quyết định tự tử.


      Và Amelia Sachs?


      Con cớm tuần tra cũng nhận được lời nhắn, quyết định thế.


      Người tàn tật rộng lượng, người tàn tật tử tế, người tàn tật sắt đá…


      Người tàn tật chẳng là gì nếu tha thứ…


      Amelia thân mến:


      Amelia thân mến của tôi:


      Amelia:


      Sĩ quan Sachs thân mến:


      Vì chúng ta có vinh dự được làm việc cùng nhau, tôi muốn nhân dịp này để rằng mặc dù tôi coi là tên Judas phản bội nhưng tôi tha thứ cho . Hơn nữa, tôi chúc thành công trong nghiệp tương lai của với tư cách là kẻ hôn đít báo chí…




      “Chuyện của ta như thế nào, Lon? Sachs ấy mà.”


      “Ngoài việc ta có tính cách kinh khủng mà tôi biết ra?”


      ta kết hôn chưa?”


      . Khuôn mặt và dáng người như thế chắc chắn nghĩ ta chàng đẹp giai nào đó rồi. Nhưng ta thậm chí còn chưa có người . Chúng tôi nghe vài năm trước ta có chàng, nhưng chẳng bao giờ ta đến chuyện đó.” ta hạ giọng: “Có tin đồn ta l ô môi. Nhưng tôi biết gì hơn thế – cuộc sống xã hội của tôi chỉ là bắt ở hiệu giặt đồ vào tối thứ Bảy. Này, có tác dụng đấy. Tôi còn gì được nữa?”


      phải học cách bỏ qua người chết...


      Rhyme nghĩ về vẻ mặt khi điều đó với . Như thế là thế nào nhỉ? Sau đó thấy giận dữ với bản thân vì tốn thời gian nghĩ đến . Và làm thêm hớp whisky lớn nữa.


      Chuông cửa reo, sau đó là tiếng chân bước cầu thang. Rhyme và Sellitto nhìn ra cửa. Tiếng giày bốt của người đàn ông cao lớn, mặc quần bó do thành phố cấp và đội chiếc mũ bảo vệ màu xanh dương. trong những cảnh sát chọn lọc của NYPD. ta đưa cho Sellitto chiếc phong bì kềnh càng và quay xuống cầu thang.


      Viên thám tử mở phong bì. “Hãy nhìn chúng ta có gì này.” ta đổ những thứ bên trong ra bàn. Rhyme bực dọc ngước lên. Ba hoặc bốn tá túi nhựa đựng chứng cứ, tất cả đều dán nhãn. Những cái túi đựng mẩu giấy bóng kính từ túi đựng chân bê mà họ gửi đội ESU mua.


      tin nhắn từ Haumann.” ta đọc: “Gửi: L. Rhyme, L. Sellitto. Từ: B. Haumann, TSRF.”


      “Cái quái gì thế?” Cooper hỏi. Sở cảnh sát là tổ của các loại chữ viết tắt và rút gọn. RMP – tuần tra di động từ xa, thực ra là xe tuần tra. IED – thiết bị nổ ứng tác, tức là quả bom. Nhưng TSRF là chữ viết tắt mới. Rhyme nhún vai.


      Sellitto tiếp tục đọc, vừa đọc vừa chặc lưỡi. “Đội đặc nhiệm chiến thuật siêu thị. Về việc: Chân bê. Lần tìm kiếm toàn thành phố phát được bốn mươi sáu đối tượng, tất cả đều bị bắt và bị vô hiệu hóa với nỗ lực tối thiểu. Chúng tôi đọc cho chúng nghe quyền của mình và chuyển chúng đến nơi giam giữ là nhà bếp của mẹ sĩ quan T.P.Giancarlo. Sau khi thẩm vấn, nửa tá nghi phạm được chuyển cho các giám hộ. được đun nóng ba trăm năm mươi độ trong ba mươi phút.”


      Rhyme cười. Sau đó thêm ngụm whisky, thưởng thức mùi vị. Đó là điều nhớ, hơi thở ám khói của rượu. (Mặc dù trong bình yên của giấc ngủ vô cảm, làm thế nào mà ta nhớ được điều gì đó? Giống như chứng cứ, lấy tiêu chuẩn tối thiểu, thế là chẳng còn gì để đánh giá mất mát của mình; mãi mãi an toàn.)


      Cooper xòe mấy mẫu ra. “Bốn mươi sáu mẫu giấy bóng kính. Mỗi chuỗi siêu thị và các cửa hàng độc lập lớn mẫu.”


      Rhyme nhìn các bản mẫu. Những thứ này rất tốt để phân loại. Phân loại đơn lẻ giấy bóng kính có thể là công việc rất khó khăn – mẩu giấy được tìm thấy trong manh mối xương bê chưa chắc trùng với các mẫu giấy này. Tuy nhiên, vì các công ty mẹ thường mua vật tư tương đồng cho các cửa hàng trong chuỗi của họ, có thể biết 823 mua thịt bê ở chuỗinào và thu hẹp được các khu vực sinh sống của . Có thể phải gọi nhóm vật chứng của Cục và…


      , . Nên nhớ: bây giờ đấy là vụ chết tiệt của họ.


      Rhyme ra lệnh cho Cooper: “Gom chúng lại và gửi cho những người em liên bang của chúng ta.”


      Rhyme định tắt máy tính nhưng ngón tay đôi khi vụng về của lại bấm nhầm nút. Loa phóng thanh phát ra tràng thanh khóc dài ầm ĩ.


      “Mẹ kiếp”, Rhyme lầm bầm khó chịu. “Máy móc chết tiệt.”


      thoải mái với cơn giận bất ngờ của Rhyme, Sellitto liếc nhìn cốc của mình và đùa: “Quỷ , Rhyme, rượu ngon thế này chắc phải làm say đấy.”


      “Tin mới đây”, Thom chua chát trả lời. “ ta say rồi.”


      đỗ xe gần đường ống thoát nước khổng lồ.


      Lúc trèo ra khỏi xe, có thể ngửi thấy mùi nước hôi thối, nhầy nhụa, chín nẫu. Họ ở trong ngõ cụt dẫn đến ống dẫn nước thải rộng chạy từ Xa lộ West Side xuống sông Hudson. Ở đây ai có thể nhìn thấy họ.


      Kẻ Tầm Xương quay xe lại, tận hưởng cảnh tượng người tù nhân lớn tuổi của . Như tận hưởng cảnh tượng bị trói trước đường ống hơi nước. Và cánh tay lắc lư cạnh đường ray sáng sớm ngày hôm nay.


      Nhìn chăm chăm vào đôi mắt hoảng sợ. Người đàn ông này gầy hơn nghĩ. Tóc bạc hơn. Tóc rối bù.


      Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ…


      Người đàn ông co rúm tránh xa , hai cánh tay bắt chéo phòng vệ trước bộ ngực lép của ông ta.


      Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn ông.


      “Xin ông”, tù nhân của thầm, giọng ông ta run run. “Tôi có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi …”


      “Ra ngoài.”


      “Xin ông đừng hại tôi.”


      Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró, hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.


      “Sao ông làm thế?”


      Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay dày nên phải mất vài giây mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc còng tay ra, nghĩ có nhìn thấy chiếc thuyền bốn buồm chạy sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây mạnh như sông Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để từ cầu tàu East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. liếc mắt. phải, từ từ – đấy phải thuyền buồm mà chỉ là chiếc tàu có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.


      Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ mình. “Xin ông. Tôi đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị đau ngực.”


      “Câm mồm.”


      Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi mồi nắm lấy cổ và vai bóp mạnh. cơn đau lan tỏa từ chỗ móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với cơn bực tức bùng phát, giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.


      Dán miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương kéo ông ta con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính khoảng bốn feet. dừng lại, xem xét người đàn ông.


      Lột mày đến tận xương là dễ.


      Xương cốt… chạm vào nó. Nghe tiếng nó.


      nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại , môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay (ước gì có thể tháo găng tay, nhưng dám). Sau đó nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.


      “Gì thế?...”


      Bàn tay trái nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho đến khi nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. thanh ngọt ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng băng dính. Và rơi xuống đất.


      Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông bước vấp váp xuống tới miệng ống. đẩy người đàn ông lên phía trước.


      Họ nổi lên phía dưới cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. nơi kinh tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá thối rữa, rác rưởi những hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là đám rong biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như người béo phì. Mặc dù cả thành phố phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại lạnh như ngày tháng Ba.


      Señor Ortega…


      dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương thận trọng những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. quay lại, ngừng chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. quan tâm liệu cớm có tìm được những nạn nhân khác hay . Hanna, người đàn bà taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng kịp thời tìm được ông ta. Thực là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để có thể quay lại sau hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay .


      Quay lại con đường trải sỏi, tháo mặt nạ và để lại manh mối cho trường tiếp theo, cách nơi đỗ xe xa. giận dữ, điên cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này giấu manh mối . Và còn để lại điều ngạc nhiên đặc biệt. thứ mà luôn giữ cho chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.


      Gió thổi , mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.


      Nghe như tiếng giấy ráp cọ xương.


      dừng lại và lắng nghe thanh đó, ngẩng đầu như thể nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất người phụ nữ chạy rất nhanh đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa va vào .


      Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy sang bên để tránh đường . ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi mặt. Dáng đẹp – bắp thịt căng đầy – nhưng xinh. Mũi khoằm, miệng rộng, da lem nhem.


      Nhưng phía dưới


      được… nên đỗ xe ở đây. Đây là đường chạy…”


      Giọng ta dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt , ánh mắt chuyển từ mặt sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết vo viên trong tay .


      ta biết là ai. mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của ta nổi lên.


      Mắt cá chân phải của ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy . Nhưng tóm được ta trước. vờ cúi xuống để chặn ta. ta thét lên tiếng, hạ tay xuống để cản , Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu tay vào thái dương . tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.


      ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp xuống đỡ lấy đầu ta. ta rên rỉ: “, , …” Giận dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực đau khổ vì có thể làm vỡ hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và khuôn mặt tầm thường.


      Amelia Sachs điền thêm thẻ COC(107) nữa rồi đề nghị giải lao. tạm dừng, tìm máy bán hàng tự động và mua cốc cà phê có mùi vị kinh khủng. quay lại cái văn phòng cửa sổ, nhìn những chứng cứ mà thu lượm được.


      Có thể vì những điều phải trải qua để thu thập chứng cứ – các khớp xương của đau nhức và vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh tượng thi thể bị chôn sáng nay, cánh tay máu me, cảnh tượng da thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay vật chứng có ý nghĩa gì với . Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.


      , Amelia Sachs là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá tôn trọng pháp luật – như cha làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của .


      Đó là con người mà muốn trở thành.


      nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà tìm thấy trong đường hầm bãi chăn gia súc. trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái quần lót. nhớ ra đặc vụ liên bang lấy vật chứng trước khi Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký khí? tự hỏi chất lỏng lớp vải bông đó là gì?


      Nhưng những ý nghĩ đó dẫn đến Lincoln Rhyme và ta lại là nhân vật mà hề muốn nghĩ tới lúc này. tiếp tục đăng ký nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc phát được trường cho tới khi xử án. Sachs có vài lần chuyển giao vật chứng và tên cũng xuất các tấm thẻ COC. Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.


      nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.


      sờ vào chiếc lá này. . Kẻ giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này tìm kiếm nạn nhân khác – nếu như chưa tóm được ai.


      Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi ta vẫy tay cầu xin lòng nhân từ mà bao giờ nhận được.


      nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp, ai cũng chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay . Và hầu hết mọi người lại biết đến điều này.


      Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này ? tế bào da? giọt mồ hôi? ngạc nhiên khi cảm thấy rung động của niềm phấn khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân ở ngay đây, trong căn phòng xíu thiếu khí này cùng với .


      Quay lại với những tấm thẻ COC. điền chúng trong khoảng mười phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng cánh cửa bật mở làm giật mình. quay lại.


      Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của ta xộc xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. “Ra ngoài , hai phút được , sĩ quan. Thời điểm thanh toán tới. Tôi nghĩ cũng muốn có mặt ở đó.”


      Sachs theo ta vào hành lang ngắn, cách chàng nhảy cẫng lên này hai bước.


      có kết quả AFIS.” Dellray .


      Phòng chiến trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ mặc áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí – những khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá đặc vụ đặc tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy Opti-Scan.


      Sachs thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng buộc phải công nhận đằng sau cái vẻ ngoài của chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ, Dellray là cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ – trẻ cũng như già – đến hỏi ý kiến ta và ta kiên nhẫn trả lời họ. ta giật điện thoại, phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ ta cần. Thi thoảng, ta nhìn quanh căn phòng sôi sục và gầm lên: “Ta tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta tóm được nó”. Và mọi người ném cho ta những cái nhìn khó chịu, nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được , người đó phải là Dellray.


      “Đây rồi, có rồi đây”, đặc vụ .


      Dellray quát: “Tôi muốn có đường dây mở đến DMV(108-) New York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS nữa. Bảo họ chờ cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi.”


      Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại.


      Màn hình máy tính có tín hiệu.


      thể tin rằng Dellray lại có thể thực chắp tay cầu nguyện.


      Im lặng tuyệt đối trong phòng.


      “Có rồi!” Đặc vụ ngồi bên bàn phím la lên.


      còn nghi phạm nữa rồi”, giọng Dellray như hát, ta cúi nhìn màn hình. “Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở đây, năm 1948. Cha mẹ ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C cung cấp. có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có vụ giết người. lĩnh án. Được rồi, nghe này – có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan. Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.


      ta nhìn lên. “Ai làm việc với các công ty điện thoại?”


      Vài đặc vụ giơ tay.


      “Gọi điện ”, Dellray ra lệnh.


      Năm phút dài như vô tận.


      có ở đây. có trong danh bạ điện thoại New York.”


      “Chẳng có gì ở New Jersey, đặc vụ khác .


      “Connecticut, có gì.”


      “Mẹ kiếp”, Dellray lầm bầm. “Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do trả tiền.’


      Trong mấy phút, giọng dâng khắp nơi như thủy triều lên.


      Dellray lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người ta lại khẳng khiu như vậy.


      Bất ngờ đặc vụ la lớn: “Tìm thấy rồi”.


      Mọi người quay đầu lại nhìn.


      “Tôi liên lạc với New York DMV(109)”, đặc vụ khác gọi. “Họ tìm thấy . Tin đến đây… lái taxi. Dùng bằng giả.”


      “Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?” Dellray lẩm nhẩm. “Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?”


      “Morningside Height. Cách con sông khối nhà.” Nhân viên đặc vụ viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray qua lấy. “Tôi biết khu này. Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy.”


      đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của ta. “Được rồi, kiểm tra… ngôi nhà cũ. Thuộc về ngân hàng. Chắc thuê nhà.”


      cần HRT chứ?” đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng sôi sục. “Tôi có Quantico nghe điện đây.”


      còn thời gian”, Dellray tuyên bố. “Ta dùng đội SWAT trực chiến. Bảo họ chuẩn bị .”


      Sachs hỏi: “Thế còn nạn nhân tiếp theo sao?”


      “Nạn nhân tiếp theo nào?”


      tóm được ai đó. biết ta có manh mối được khoảng , hai tiếng. bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. lúc trước.”


      có báo cáo mất tích”, đặc vụ . “Nếu tóm được họ, có thể họ ở nhà .”


      , họ ở đó.”


      “Sao ?”


      “Họ thu nhặt quá nhiều vật chứng.” . “Lincoln Rhyme nơi nấp an toàn.”


      “Được rồi, khi bắt được , cho ta biết họ ở đâu.”


      đặc vụ khác : “Ta phải thuyết phục.”


      thôi”, Dellray gọi. “Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia Sachs. ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó.”


      đỏ mặt. có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, thấy giày của mình có những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, nhận ra mình vẫn còn đeo những dải băng cao su.


      Khi ngẩng lên nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông nghiêm nghị kiểm tra vũ khí và ra cửa khi họ liếc nhìn . Như người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, nghĩ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :