KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHÍN


      4:00 PM đến 10:15 PM thứ Bảy




      “Tôi gặp rắc rối, thưa ngài.”


      Người đàn ông ngồi phía bên kia của chiếc bàn làm việc trông giống như hình mẫu lý tưởng về ngài phó chánh thanh tra cảnh sát thành phố lớn trong chương trình truyền hình. Mà đấy chính là cấp bậc của ông ta. Tóc trắng, xương hàm trông cá tính, kính gọng vàng, tư thế tuyệt hảo.


      “Vấn đề gì vậy, sĩ quan?”


      Phó Chánh thanh tra Randolph C. Eckert nhìn dọc theo cái mũi dài của ông với cái nhìn mà Sachs lập tức nhận ra; việc chấp nhận bình quyền của ông ta có nghĩa là phải đối xử nghiêm khắc với các nữ sĩ quan như các nam sĩ quan.


      “Tôi có khiếu nại, thưa ngài”, căng thẳng . “Ngài nghe về vụ bắt cóc chiếc taxi rồi chứ ạ?”


      Ông gật đầu. “À, vụ đưa cả thành phố vào tình trạng khó hiểu.”


      tin rằng đó là trò nhảy dây bình thường ở trường học, nhưng muốn sửa lời của ngài phó chánh thanh tra.


      “Cái hội nghị chết tiệt của Liên Hiệp Quốc”, ông ta tiếp, “cả thế giới theo dõi. công bằng. Người ta đến tội ác ở Washington. Hay Detroit. Ừ, họ có về Detroit . Còn Chicago. bao giờ. , chính New York là nơi người ta chõ mũi vào. Năm ngoái Richmond, Virginia có tỷ lệ giết người tính đầu người nhiều hơn chúng ta. Tôi điều tra rồi. Và tôi thà nhảy dù có vũ khí vào Trung tâm Harlem còn hơn là mở cửa sổ trong lúc lái xe qua khu Đông Nam thủ đô vào bất kỳ ngày nào.”


      “Vâng, thưa ngài.”


      “Tôi hiểu rằng người ta tìm thấy chết. Có tất cả các báo. Bọn nhà báo này…”


      “Ở trung tâm. Vừa mới xong.”


      đáng tiếc.”


      “Vâng, thưa ngài.”


      “Chúng chỉ giết ta thôi ư? Thế thôi ư? cầu tiền chuộc hay gì đó à?”


      “Tôi nghe gì về tiền chuộc cả.”


      “Khiếu nại của là gì?”


      “Tôi là sĩ quan đầu tiên tại trường vụ giết người có liên quan sáng nay.”


      là sĩ quan tuần tra?” Eckert hỏi.


      “Tôi là sĩ quan tuần tra. Tôi dự kiến được thuyên chuyển sang Phòng Quan hệ công chúng từ trưa nay. Để tham gia khóa đào tạo.” giơ hai bàn tay dán băng Band-Aids lên, rồi thả chúng rơi xuống đùi. “Nhưng họ bắt cóc tôi.”


      “Ai?”


      “Thanh tra Lon Sellitto, thưa ngài. Đại úy Haumann. Và Lincoln Rhyme.”


      “Rhyme?”


      “Vâng, thưa ngài.”


      phải chàng gánh vác IRD mấy năm về trước đấy chứ?”


      “Vâng, thưa ngài. Đúng là ta.”


      “Tôi tưởng ta chết rồi.”


      Những kẻ tự phụ như thế chẳng bao giờ chết.


      “Vẫn còn sống khỏe mạnh, thưa ngài.”


      Ngài phó chánh thanh tra nhìn ra ngoài cửa sổ. “ ta còn phục vụ trong lực lượng nữa. Thế ta liên quan gì đến chuyện này?”


      “Chắc là cố vấn, thưa ngài. Đây là vụ của Lon Sellitto. Đại úy Polling làm giám sát. Tôi chờ đợi lần thuyên chuyển này tám tháng. Nhưng họ bắt tôi khám nghiệm trường. Trước đây, tôi chưa bao giờ khám nghiệm trường. Nó chẳng có ý nghĩa gì và thực là tôi ghét bị bắt phải làm việc mà mình chưa được đào tạo.”


      trường vụ án?”


      “Rhyme ra lệnh cho tôi khám nghiệm toàn bộ trường vụ án. Tự tôi.”


      Eckert hiểu. Những ngôn từ đó được chấp nhận. “Tại sao dân thường lại ra lệnh được cho sĩ quan mặc cảnh phục làm bất cứ điều gì?”


      “Ý kiến cá nhân của tôi, thưa ngài”. kéo cần. “Ý tôi là, tôi giúp đỡ đến mức độ nào đó. Nhưng tôi sẵn sàng xẻ nạn nhân…”


      “Sao?”


      chớp mắt như thể ngạc nhiên vì ông ta nghe ra. kể lại chuyện cái còng.


      “Chúa thiên đường, họ nghĩ cái quái quỷ gì vậy? Xin lỗi tiếng Pháp. Chẳng lẽ họ biết là cả nước theo dõi hay sao? Suốt cả ngày CNN phát vụ bắt cóc này. Cắt tay ta? có đúng là con của Herman Sachs ?”


      “Đúng thế.”


      sĩ quan giỏi. sĩ quan xuất sắc. Tôi trao tặng bằng khen cho ông. Đó thực cảnh sát khu vực mẫu mực. Nam Midtown, đúng ?”


      “Hell’s Kitchen. Khu của tôi.”


      Khu cũ của tôi.


      “Herman Sachs có lẽ ngăn chặn được nhiều tội ác hơn cả sư đoàn cảnh sát làm trong năm. Chỉ cần làm mọi việc bình ổn, biết đấy.”


      “Đúng là cha tôi. Chắc rồi.”


      “Tay ta?” Eckert khịt mũi. “Gia đình kiện chúng ta. Ngay khi họ phát ra điều đó. Người ta kiện chúng ta vì mọi thứ. Có tên hiếp dâm kiện chúng ta vì bị bắn vào chân khi cầm dao lao vào sĩ quan. Luật sư của ta đưa ra cái lý thuyết gọi là ‘lựa chọn ít chết chóc nhất’. Thay vì bắn, ta phải phang hay dùng gậy. Hay phải hỏi chúng cách lịch , tôi biết. Tôi chắc phải cảnh báo sếp và Thị trưởng về việc này. Tôi gọi vài cuộc, sĩ quan.” Ông ta nhìn lên đồng hồ treo tường. Hơn bốn giờ chút. “Phiên của hôm nay hết rồi, phải ?”


      “Tôi phải tới nhà ở của Lincoln Rhyme. Đó là nơi chúng tôi làm việc.” nghĩ đến cái cưa sắt. lạnh lùng . “Thực ra là phòng ngủ của ta. Đó là trung tâm chỉ huy của chúng tôi.”


      “Phòng ngủ của dân thường là trung tâm chỉ huy của ?”


      “Tôi đánh giá cao tất cả những gì ngài có thể làm, thưa ngài. Tôi đợi lần thuyên chuyển này rất lâu rồi.”


      “Cắt tay ta. Lạy Chúa lòng lành!”


      đứng dậy, ra cửa và vào trong những cái hành lang mà sắp sửa trở thành nhiệm vụ mới của . Có điều cảm giác nhõm đến với muộn hơn mong đợi.


      đứng cạnh khung cửa sổ kính vỏ chai, nhìn xuống đàn chó hoang rình mò bãi đất bên kia phố.


      ở tầng của tòa nhà cũ kỹ này, tòa nhà kiểu liên bang được lát đá cẩm thạch, xây dựng từ những năm 1800. Được bao quanh bởi những bãi đất trống và những tòa nhà – số bị bỏ hoang, số được thuê mặc dù phần lớn là bị chiếm dụng bất hợp pháp – tòa nhà cũ kỹ này bị bỏ trong nhiều năm.


      Kẻ Tầm Xương nhặt mẩu giấy ráp lên và tiếp tục đánh. nhìn xuống cái sản phẩm thủ công của mình. Sau đó lại nhìn ra ngoài cửa sổ.


      Tay xoay trong những chuyển động tròn đều chính xác. Mẩu giấy ráp xíu khẽ kêu suỵt, suỵt… Như tiếng người mẹ nựng con.


      thập kỷ trước, trong những ngày đầy hứa hẹn của New York, nghệ sĩ điên khùng chuyển đến ở đây. Ông ta chất đầy những thứ đồ cổ vỡ nát và gỉ sét vào tòa nhà hai tầng nhớp nháp này. Những cái chấn song sắt uốn, những gờ tường hình vương miện, những ô kính hình vuông bẩn thỉu chằng chịt như tơ nhện, những cột trụ nứt nẻ. vài tác phẩm của nghệ sĩ này vẫn còn được treo tường. Những bức bích họa lớp vữa cũ: những bức tranh tường chẳng bao giờ được hoàn thành vẽ những người công nhân, trẻ em, những đôi tình nhân đầy lo lắng. Những khuôn mặt tròn trịa, vô cảm – chủ đề con người – những cái nhìn trống rỗng như thể linh hồn bị lôi ra khỏi cơ thể nhẵn nhụi của họ.


      Người họa sĩ chưa bao giờ quá thành công, thậm chí là sau những ý tưởng tiếp thị cứng rắn nhất – vụ ông ta tự sát – và ngân hàng tịch thu tòa nhà này mấy năm trước.


      Suỵt…


      Kẻ Tầm Xương tìm thấy nơi này vào năm ngoái và ta ngay lập tức nhận ra rằng đó chính là nhà mình. cách biệt của khu nhà hàng xóm chắc chắn rất quan trọng đối với ta – và ràng đó là điều cần thiết. Nhưng còn nhiều hấp dẫn khác, riêng tư hơn: khu đất trống bên kia phố. Trong lần đào bới vài năm trước, máy xúc đào lên được nhiều xương người. Hóa ra đó là trong những nghĩa trang cũ của thành phố. Những bài báo viết về việc này cho rằng, những nấm mồ có thi hài chỉ của những người New York Liên bang và Thuộc địa mà còn cả của những người da đỏ Manate và Lenape.


      Lúc này đặt sang bên thứ mà mài bằng giấy ráp – khối xương bàn tay tinh tế – rồi nhặt lên khúc xương cổ tay mà ta rất thận trọng tách ra từ xương khuỷu và xương ngón đêm trước khi ra sân bay Kennedy để bắt những nạn nhân đầu tiên. Nó được phơi khô hơn tuần và bong gần hết thịt, nhưng vẫn phải cố gắng lắm mới tách được các nhóm xương gắn kết với nhau. Chúng tách nhau ra với tiếng rơi tõm nhạt nhòa, như tiếng cá quẫy mặt hồ.


      Ồ, bọn cớm, chúng giỏi hơn trông đợi rất nhiều. theo dõi khi chúng tìm kiếm Phố Pearl, băn khoăn hiểu chúng có tìm ra nơi giấu người phụ nữ từ sân bay ? ngạc nhiên khi thấy chúng chạy đến đúng tòa nhà. đoán chúng chỉ có thể cảm nhận được manh mối sau hai hay ba nạn nhân. Tất nhiên là chúng cứu được ta. Nhưng chúng có thể. Chỉ cần sớm , hai phút là mọi chuyện khác .


      Cũng giống như nhiều thứ khác trong cuộc đời.


      Xương thuyền, xương lưỡi liềm, xương móc câu, xương đầu…những chiếc xương đan chéo vào nhau như cái vòng đố ghép hình kiểu Hy Lạp, tách rời nhau ra dưới sức mạnh ngón tay . nhặt những mẩu thịt và gân ra khỏi chúng. chọn mẩu đa giác lớn hơn – chỗ từng là gốc ngón tay cái – và lại bắt đầu mài.


      Suỵt…


      Kẻ Tầm Xương nheo mắt nhìn ra ngoài và hình dung nhìn thấy người đàn ông đứng bên cạnh trong những ngôi mộ cũ. Đó chắc là hình dung của vì người đàn ông đó đội cái mũ chơi bowling và mặc bộ quần áo vải gabardine màu vàng nhạt. ta đặt mấy bông hồng cạnh bia mộ và quay , vừa vừa phải tránh xe ngựa con đường dẫn tới cây cầu uốn cung tao nhã bên nhánh hồ Collect ở Phố Canal. ta đến thăm ai vậy? Cha mẹ? người em? Gia đình người đó có thể bị chết vì lao phổi hay trong những đợt dịch cúm tàn phá thành phố vừa qua…


      Vừa qua?


      , tất nhiên là phải vừa qua. trăm năm trước… đó là ý .


      nheo mắt và nhìn thêm lần nữa. có dấu hiệu nào của xe ngựa hay ngựa. Hay của người đàn ông đội mũ chơi bowling. Mặc dù trông họ thực như bằng xương bằng thịt.


      Bất kể là họ thực đến đâu.


      Suỵt, suỵt.


      Quá khứ lại tràn về. nhìn thấy những việc xảy ra trước đây, những điều xảy ra sau đó, cứ như chúng xảy ra lúc này. có thể kiểm soát điều đó. biết là có thể.


      Nhưng khi nhìn ra cửa sổ nhận ra rằng, tất nhiên là chẳng có tương lai cũng như quá khứ. dành cho . trôi ngược xuôi theo thời gian, ngày, năm năm, trăm năm hay hai trăm năm, như chiếc lá khô trong ngày trời gió.


      nhìn xuống đồng hồ. Đến giờ phải rồi.


      Đặt khúc xương lên mặt lò sưởi, rửa tay kỹ càng – như bác sĩ phẫu thuật. Sau đó, lăn chiếc lô phủi lông thú vật áo khoảng năm phút để làm sạch hết bụi xương hay bụi bẩn hay lông cơ thể có thể dẫn cớm đến chỗ .


      qua bức tranh vẽ dở tên đồ tể mặt tròn mặc cái tạp dề màu trắng máu me để tới chỗ nhà để xe ngựa. Kẻ Tầm Xương bắt đầu chui vào taxi nhưng lại thay đổi ý định. Bất định là cách phòng thủ tốt nhất. Lần này xe ngựa… chiếcsedan, chiếc Ford. khởi động, lái xe vào phố, đóng và khóa cửa ga ra phía sau .


      có trước đây hay sau này…


      Khi ngang qua nghĩa địa, đàn chó ngẩng lên nhìn chiếc Ford rồi quay lại ẩu đả trong bụi cây, tìm chuột và làm ầm ĩ khi tranh nhau nước trong cái nóng thể chịu đựng nổi.


      có sau đó hay bây giờ…


      lấy ra chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi găng tay từ trong túi, đặt chúng xuống ghế bên cạnh trong khi lao ra khỏi khu dân cư cũ. Kẻ Tầm Xương săn mồi.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI



      Có thứ gì đó trong phòng thay đổi, nhưng chưa thể xác định ngay được nó là gì.

      Lincoln Rhyme nhìn thấy điều ấy trong mắt .

      “Chúng tôi nhớ , Amelia”, ta bẽn lẽn . “Chuyện vặt vãnh à?”

      tránh nhìn ta. “ ràng có ai với chỉ huy mới của tôi là hôm nay tôi làm. Tôi nghĩ ai đó phải chứ.”

      “À, ừ.”

      nhìn vào tường, dần dần hiểu ra điều đó. Ngoài những thiết bị căn bản mà Mel Cooper đem đến, trong phòng còn có cái kính hiển vi điện tử quét với bộ phận chiếu X-quang, các bộ ống kính nổi và hot-stage để thử kính, kính hiển vi so sánh, ống đo biến thiên mật độ để thử đất và cả trăm ống nghiệm, bình, lọ, hóa chất.

      Ở giữa phòng là niềm tự hào của Cooper – máy sắc ký khí điều khiển bằng máy tính và bộ phổ kế thường thấy. Và cái máy tính khác, nối mạng với bộ xử lý trung tâm của chính Cooper tại phòng thí nghiệm ở IRD.

      Sachs bước qua những sợi cáp trườn xuống dưới cầu thang – nguồn điện trong nhà cũng ổn, đúng, nhưng dòng điện quá trong ổ cắm phòng ngủ. Với những bước tao nhã, được luyện tập ấy, Rhyme thấy đẹp. Chắc chắn là người phụ nữ đẹp nhất trong sở cảnh sát.

      Trong khoảnh khắc, thấy hấp dẫn. Người ta rằng tình dục là trong đầu ta và thấy đúng. Cắt dây cắt đứt được thèm muốn. nhớ lại, vẫn còn chút kinh hoàng về đêm, sáu tháng sau tai nạn. và Blaine thử. Chỉ để xem điều gì xảy ra, họ vậy, chỉ thử thôi mà. có vấn đề gì lớn.

      Hóa ra lại là chuyện lớn. Trước hết, tình dục là chuyện rắc rối, nhưng khi ta thêm vào phương trình này cả ống và túi thông tiểu ta phải có sức khỏe tốt, tính hài hước và nền tảng tốt hơn người khác. Nhưng chủ yếu điều làm cụt hứng rất nhanh là vẻ mặt của . nhìn thấy nụ cười gắng gượng, khó khăn mặt Blaine Chapman Rhyme, nụ cười rằng làm việc đó chỉ vì thương hại và điều đó đâm thủng tim . Hai tuần sau nộp đơn li dị. Blaine có phản đối nhưng ký ngay đợt đầu.

      Sellitto và Banks quay lại và sắp xếp vật chứng do Sachs thu thập. nhìn họ làm, chỉ hơi có vẻ quan tâm.

      Rhyme với : “Đơn vị Ngầm chỉ tìm được tám chứng cứ hoàn chỉnh khác, nhưng chúng lại thuộc về hai người công nhân bảo trì trong tòa nhà.”

      “Thế à.”

      gật đầu mạnh. “Chỉ có tám.”

      ta khen đấy.” Thom giải thích. “Tận hưởng . Nhiều nhất cũng chỉ nhận được từ ấy ngần ấy thôi.”

      cần phiên dịch, Thom, nhưng cảm ơn.”

      trả lời: “Tôi vui vì giúp được.” Cảm thấy vui.

      Ồ, cái gì thế nhỉ? Rhyme nghĩ lao vào phòng và ném cái túi vật chứng lên giường . Có thể là cả cái cưa, thậm chí cả cái túi nhựa đựng hai bàn tay hư hại của nạn nhân. chờ bị đánh gục, lôi khỏi sàn đấu; người ta hiếm khi bỏ găng tay khi họ đánh nhau với kẻ tàn tật. nghĩ về cái nhìn trong mắt khi gặp , có thể đó là bằng chứng của giống nhau mơ hồ nào đó giữa họ.

      Nhưng , giờ thấy là sai. Amelia cũng giống như những người khác – xoa đầu và tìm lối ra gần nhất.

      Trong phút chốc, trái tim đông cứng. như thể với lớp mạng nhện giăng trần và những bức tường phía xa. “Chúng tôi về thời hạn cho nạn nhân tiếp theo, thưa sĩ quan. có vẻ gì là có thời gian xác định cả.”

      “Điều chúng tôi nghĩ là”, Sellitto tiếp, “bất kể tên quái vật này có kế hoạch gì cho nạn nhân tiếp theo điều đó cũng diễn ra. biết chính xác khi nào nạn nhân chết. Lincoln nghĩ có thể chôn vài tên khốn ở đâu đó, nơi mà có rất ít khí”.

      Mắt Sachs nheo lại phút khi nghe câu này. Rhyme nhận thấy điều đó. Chôn sống. Nếu ta phải có nỗi sợ hãi, nó giống như bất cứ thứ gì.

      Câu chuyện của họ bị hai người đàn ông mặc bộ vét màu xám làm gián đoạn. Họ lên cầu thang và vào phòng như thể họ sống ở đây.

      “Chúng tôi có gõ cửa”, người .

      “Chúng tôi có bấm chuông”, người kia .

      ai trả lời.”

      Họ khoảng bốn mươi tuổi, người cao hơn chút nhưng cả hai đều có mớ tóc màu cát như nhau. Họ cùng nở nụ cười giống nhau và trước khi giọng lè nhè vùng Brooklyn kịp phá hỏng hình ảnh mà Rhyme nghĩ: Những chàng nhà quê. người có lớp bụi tàn nhang kiểu trung thực với Chúa sống mũi nhợt nhạt của ta.

      “Các quý ông.”

      Sellitto giới thiệu Những Chàng trai Dũng cảm: hai thám tử Bedding và Saul, nhóm điều tra. Kỹ năng chính của họ là vận động – phỏng vấn những người sống gần trường vụ án để tìm nhân chứng và dấu vết. Đây là nghệ thuật nhưng Rhyme chưa bao giờ học được, và có ý định học. hài lòng với việc phát trần trụi và chuyển chúng cho các sĩ quan như họ, những người khi được trang bị các dữ liệu này trở thành cái máy sống phát dối có thể phá tan những câu chuyện bịa đặt hay nhất của nghi phạm. ai trong số họ cảm thấy chuyện phải báo cáo với thường dân ốm liệt giường là kỳ quặc.

      Saul, viên thám tử cao hơn, người có tàn nhang : “Chúng tôi tìm thấy ba mươi sáu…”

      “tám, nếu tính cả hai thằng nghiện. Nhưng tính. Tôi có.”

      “… đối tượng. phỏng vấn tất cả bọn họ. may mắn lắm.”

      “Hầu hết họ đều mù, điếc hay quên. biết đấy, như lệ thường.”

      có dấu hiệu gì của chiếc taxi. Chúng tôi lùng sục ở West Side. Zero. Vèo.”

      Bedding: “Nhưng cho họ biết tin tốt .”

      “Chúng tôi tìm được nhân chứng.”

      nhân chứng?” Banks phấn chấn hỏi. “Tuyệt vời.”

      Rhyme, kém nhiệt tình hơn nhiều, : “Tiếp .”

      “Vào khoảng thời gian nạn nhân chết sáng nay ở gần đường tàu.”

      ta nhìn thấy người đàn ông dọc theo Đại lộ Mười , rẽ…”

      “Bất thình lình, ta thế…”, Bedding, mặt tàn nhang thêm.

      “… và qua con đường dẫn tới cầu vượt đường sắt. đứng đó lúc…”

      “Nhìn xuống.”

      Rhyme bị điều đó làm cho lo lắng. “ có vẻ giống như chàng của chúng ta. quá thông minh để bị nhìn thấy như vậy.”

      “Nhưng…”, Saul tiếp tục, giơ ngón tay lên và liếc nhìn đối tác của mình.

      “Chỉ có cửa sổ trong toàn khu vực mà từ đó ta có thể nhìn thấy chỗ ấy.”

      “Và đó là chỗ nhân chứng của ta đứng.”

      “Dậy sớm, cầu Chúa phù hộ cho quả tim ta.”

      Trước khi nhớ lại là bực mình với , Rhyme hỏi: “Amelia, thấy thế nào?”

      “Xin lỗi?” chuyển chú ý khỏi cửa sổ.

      “Đúng”, Rhyme . “ khóa Đại lộ Mười , phải Đại lộ Ba mươi bảy.”

      biết phải trả lời thế nào nhưng ngay lập tức Rhyme quay trở lại với hai em sinh đôi. “Miêu tả?”

      “Nhân chứng của chúng ta thể được nhiều.”

      “Say khướt rồi.”

      ta đó là chàng người. có màu tóc. Chủng tộc…”

      “Có lẽ là người da trắng.”

      “Mặc gì?” Rhyme hỏi.

      “Thứ gì đó tối màu. ta chỉ được đến thế.”

      “Và làm gì?” Sellitto hỏi.

      “Tôi trích dẫn: ta chỉ đứng đấy và nhìn xuống. Tôi nghĩ là ta nhảy. biết đấy, vào đầu tàu. Nhìn đồng hồ mấy lần.”

      “Sau đó bỏ . Nhân chứng ta tìm kiếm gì đó xung quanh. Trông có vẻ như muốn bị ai nhìn thấy.”

      ta làm gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Xem nạn nhân chết? Hay đó là lúc trước khi chôn xác, kiểm tra xem nền đường có ai ?”

      Sellitto hỏi: “ bộ hay lái xe?”

      bộ. Chúng tôi kiểm tra tất cả các bãi đỗ xe...”

      “Và ga ra.”

      “... trong vùng lân cận. Nhưng nơi đó gần trung tâm hội nghị nên chỗ đỗ xe ngập đến tận tai. Có nhiều chỗ đỗ đến nỗi nhân viên bãi đỗ đứng ngoài phố, cầm cờ vàng để vẫy cho xe vào.”

      “Nhưng do hội nghị nên đến bây giờ nửa bãi đỗ đầy xe. Chúng tôi có danh sách khoảng chín trăm biển số.”

      Sellitto lắc đầu. “Các theo tiếp vụ này nhé...”

      nhận”, Bedding .

      “... nhưng tôi dám cá là đối tượng để xe trong bãi.” Viên thám tử tiếp. “Hay mua vé để xe.”

      Rhyme gật đầu đồng tình và hỏi: “Tòa nhà ở Phố Pearl?”

      người hay cả hai em sinh đôi đồng thanh: “Điều tiếp theo trong danh sách của chúng tôi. Chúng tôi đường.”

      Rhyme nhìn thấy Sachs xem đồng hồ, cái đồng hồ đeo cổ tay trắng trẻo gần những ngón tay hồng hào của . cầu Thom thêm những đặc điểm mới đó của nghi phạm vào sơ đồ hồ sơ.

      có muốn phỏng vấn chàng đó ?” Banks hỏi. “ chàng đứng cạnh đường ray ấy.”

      , tôi tin tưởng nhân chứng”, Rhyme đầy kiêu hãnh. “Tôi muốn quay lại với công việc.” nhìn Mel Cooper. “Lông, máu, xương và mẩu gỗ. Cái xương đầu tiên”, Rhyme hạ lệnh.

      Morgen(62)...

      Monelle Gerger trẻ tuổi mở mắt và chậm rãi ngồi dậy chiếc giường đệm trũng. Suốt thời gian hai năm ở Greenwich Village, thể làm quen được với buổi sáng.

      Thân hình tròn trịa hai mươi mốt tuổi của nghiêng về phía trước và luồng ánh sáng tàn nhẫn buổi sáng tháng Tám chiếu thẳng vào đôi mắt lờ mờ của . “Mein Gott(63)...”

      rời câu lạc bộ lúc năm giờ, về nhà lúc sáu giờ và làm tình với Brian đến bảy giờ...

      Giờ là mấy giờ nhỉ?

      Sáng sớm, chắc chắn thế.

      nhăn mặt nhìn đồng hồ. Ôi. 4:30.

      phải früh morgens(64) lắm.

      Cà phê hay giặt đồ?

      Vào khoảng thời gian này thường lang thang tới Dojo để ăn sáng với bánh kẹp nhân rau và ba cốc cà phê đặc. Ở đó, gặp những người biết, những người chơi đêm như – những người trong trung tâm thành phố.

      Nhưng vừa rồi bỏ nhiều thứ, những thứ đồ trong nhà. Vì thế, mặc hai cái áo phông lụng thụng để giấu thân hình tròn trịa của mình, đeo năm sáu chuỗi xích quanh cổ và nhặt giỏ đồ bẩn, đổ Wisk(65) vào.

      Monelle tháo ba con ốc chặn cửa. nhấc giỏ đồ bẩn lên và xuống cái cầu thang tối tăm của khu chung cư. dừng lại ở tầng hầm.

      Irgendwas stimmt hier nicht(66).

      Cảm thấy ổn, Monelle nhìn quanh cầu thang người, hành lang tối tăm.

      Có cái gì đó khang khác phải?

      Ánh sáng, đúng rồi! Những cái bóng đèn trong hàng lang bị cháy. nhìn kỹ hơn – chúng bị mất. Bọn trẻ con mất dạy lấy trộm mọi thứ. chuyển tới đây, Deutsche Haus – vì về nguyên tắc, đây là nơi cư trú cho các nhạc công và nghệ sĩ Đức. Nhưng hóa ra đấy chỉ là tòa nhà bẩn thỉu, giá thuê quá cao ở khu East Village, giống như tất cả các tòa nhà cho thuê khác ở đây. khác biệt duy nhất là có thể chửi rủa người quản lý bằng tiếng mẹ đẻ của .

      tiếp qua cánh cửa tầng hầm vào phòng đốt rác, tối tăm đến mức phải sờ soạng lần đường dọc theo bờ tường để chắc chắn bị vấp vào rác thải sàn nhà.

      Đẩy cửa mở ra, bước vào lối hành lang dẫn đến phòng giặt đồ.

      Có tiếng lê bước. Tiếng bước chân lướt nhanh sàn.

      quay lại nhanh nhưng nhìn thấy gì ngoài những cái bóng bất động. Mọi tiếng động mà nghe thấy là tiếng xe cộ, tiếng rên rỉ của tòa nhà cũ kỹ.

      qua bóng tối lờ mờ. qua những chồng hộp và đám bàn ghế cũ hỏng. Những dây cáp ngầm bị bao bọc bởi lớp bụi nhớp nháp. Monelle tiếp tục đến phòng giặt đồ. Ở đây cũng chẳng có bóng đèn. cảm thấy thoải mái, nhớ đến điều gì đó xảy ra với trong nhiều năm. bộ cùng cha theo con đường hẹp bên ngoài Lange Strasse, gần Obermain Brücke, đường đến vườn bách thú. Lúc đó chắc năm hay sáu tuổi gì đó. Bất ngờ cha bóp vai , chỉ về phía cây cầu và kể với , giọng đầy nghiêm trọng, về những người khổng lồ độc ác đói bụng phía dưới. Khi họ qua cầu về nhà, ông nhắc phải nhanh. Lúc này cảm thấy gợn sóng của cơn hoảng loạn dựng lên theo cột sống lan tới tận mái tóc vàng hoe cắt ngắn của .

      ngu xuẩn. Người khổng lồ ư…

      tiếp tục xuống lối hàng lang tăm tối, lắng nghe tiếng rền rền của mấy thứ thiết bị điện. Xa hơn nữa, nghe thấy bài hát của những người em thù hận ở Oasis(67).

      Phòng giặt đồ tối om.

      Được, nếu những cái bóng đèn này mà cháy nữa, thế là hết. chạy lên gác, đập cửa phòng Herr Neischen cho tới khi phải bỏ chạy. cho ta trận vì những cái bản lề gãy ở cửa trước, cửa sau và vì những đứa trẻ lu bù bia bọt mà ta bao giờ đuổi ra khỏi cửa. cũng cho ta trận vì những cái bóng đèn cháy này nữa.

      thò tay vào trong và bật công tắc.

      Ánh sáng chói chang. Ba cái bóng đèn lớn cháy sáng như mặt trời cho thấy căn phòng bẩn thỉu nhưng trống rỗng. Monelle tới chỗ bốn cái máy giặc và vứt đồ trắng vào cái, đồ màu vào cái. chọn ra mấy đồng hai mươi lăm cent, nhét chúng vào khe và kéo cần gạt.

      Chẳng thấy gì.

      Monelle lắc lắc cái cần gạt. Rồi đá vào cái máy giặc. có phản ứng.

      “Chết tiệt. Cái tòa nhà gottverdammte(68-) này.”

      Sau đó nhìn thấy dây điện. Thằng ngu nào đó rút dây điện khỏi máy. biết đấy là ai rồi. Neischen có thằng con trai mười hai tuổi, là thủ phạm của hầu hết các vụ rắc rối quanh tòa nhà. Năm ngoái khi khiếu nại vụ gì đó thằng trời đánh này cố đá .

      nhặt sợi dây lên, bò xuống, vươn ra sau chiếc máy và tìm ổ điện. cắm phích.

      Và cảm thấy hơi thở của người đàn ông nơi cổ mình.

      Nein(69)!

      ta đứng kẹp giữa bức tường và mặt sau cái máy giặt. Gào lên tiếng, thoáng thấy cái mặt nạ trượt tuyết và bộ quần áo đen khi cánh tay ta kẹp chặt tay như hàm răng thú vật. mất thăng bằng và dễ dàng hất ra phía trước. ngã xuống nền nhà, đập mặt vào nền bê tông và nuốt tiếng thét thành hình trong cổ họng.

      ngồi lên ngay lập tức, gí chặt tay xuống sàn, dán miếng băng dính dày màu xám vào miệng .

      Hilfe(70)!

      Nein, bitte nicht(71).

      Bitte nicht.

      to lớn nhưng khỏe. dễ dàng lật nằm sấp xuống và rồi nghe thấy tiếng lạch xạch của chiếc còng khóa cổ tay mình.

      Sau đó ta đứng lên. lúc lâu im lặng, chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng nước giọt, tiếng thở hổn hển của Monelle, tiếng động của động cơ đâu đó trong tầng hầm.

      chờ đợi bàn tay sờ soạng cơ thể mình, xé toang quần áo mình. nghe tiếng ta ra cửa nhìn để chắc chắn họ chỉ có mình.

      Ồ, được riêng tư hoàn toàn, biết, điên cuồng với chính ; trong số ít những người thuê nhà sử dụng phòng giặt quần áo. Phần lớn họ tránh sử dụng vì nó rất trống trải, rất gần với cửa hậu và cửa sổ, rất xa giúp đỡ.

      quay lại và lật ngửa ra. thầm điều gì đó nghe . Rồi: “Hanna.”

      Hanna? Nhầm rồi. nghĩ mình là người khác. lắc đầu mạnh, cố làm hiểu điều đó.

      Nhưng sau đó, khi nhìn vào mắt , ngừng lại. Ngay cả lúc đeo mặt nạ trượt tuyết, ràng là có điều gì đó đúng. bực mình. quét cơ thể , lắc đầu. nắm những ngón tay đeo găng của quanh cánh tay bụ bẫm của . Bóp mạnh vai , véo véo mỡ. rùng mình vì đau.

      Đó chính là điều nhìn thấy: thất vọng. bắt được nhưng lúc này chắc là có muốn hay .

      cho tay vào túi và chầm chậm rút tay ra. Tiếng động của con dao tựa như cơn sốc điện. Nó khởi đầu cho cơn thổn thức.

      Nein, nein, nein!

      Tiếng thở xẹt qua kẽ răng nghe như cơn gió thổi qua hàng cây trong mùa đông. cúi xuống , suy nghĩ.

      “Hanna”, thầm. “Mình làm gì bây giờ?”

      Thế rồi đột nhiên quyết định. cất con dao và kéo đứng dậy, dắt ra phía hành lang qua cửa hậu – cánh cửa có ổ khóa bị hỏng mà từng bắt Herr Neischen phải sửa.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI




      Nhà hình học là con người của thời kỳ Phục Hưng.


      ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học, hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu ta hiểu thực tế – ví dụ như tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là “con dao” và những người Ethiopia khi ăn tối dùng dụng cụ ăn mà chỉ dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên phải, thể được bắn ra từ khẩu súng ngắn Colt – nếu ta biết được những điều đó, ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi phạm vào trường vụ án.


      lĩnh vực mà tất cả các nhà hình học đều biết là giải phẫu. Và đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì giành ba năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.


      Lúc này nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà Jerry Banks đung đưa tay và tuyên bố: “Xương chân. phải xương người. Vì thế phải của nạn nhân tiếp sau.”


      Đó là vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn. những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.


      con thú cỡ vừa”, Rhyme tiếp tục. “ con chó lớn, hay cừu, dê. Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng trăm pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có thể là máu nạn nhân.”


      có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn nhân. Bản thân Rhyme gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được dùng là xương đầu gối bò, cái xương chân hươu và trong trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.


      Mel Cooper thực phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu. “Chúng ta phải đợi lúc mới có kết quả”, ta giải thích, vẻ có lỗi.




      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé.


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Yellow Cab.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32





      “Amelia”, Rhyme , “chắc giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp và xem xét kỹ cái xương. xem thấy gì?”.


      phải kính hiển vi à?” hỏi. nghĩ phản đối nhưng lại tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.


      “Phóng đại nhiều quá”, Rhyme giải thích.


      đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.


      “Những vết cắt”, Rhyme . “Chúng mấp mô hay phẳng?”


      “Chúng khá là phẳng.”


      cái cưa khỏe.”


      Rhyme băn khoăn biết con thú có còn sống khi làm việc đó hay .


      thấy gì bất thường ?”


      nhìn chăm chăm lúc vào cái xương, : “Tôi biết. Tôi nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như khúc xương bình thường.”


      Chính lúc đó Thom ngang qua và nhìn vào cái khay. “Đó là dấu vết của các vị à? Buồn cười .”


      “Buồn cười”, Rhyme . “Buồn cười?”


      Sellitto hỏi: “ có ý kiến gì chăng?”


      “Chẳng có ý kiến gì.” ta cúi xuống ngửi khúc xương. “Đây là osso bucco.”


      “Cái gì?”


      “Chân bê. Tôi nấu món này cho lần rồi, Lincoln. Món osso bucco. Món chân bê om.” ta nhìn Sachs và nhăn mặt. “ ta chê nó nhạt.”


      “Mẹ kiếp.” Sellitto kêu to. “ mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!”


      “Nếu ta may mắn ...”, Rhyme , “ mua nó ở cửa hàng thực phẩm của ”.


      Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy tính với máu người mẫu được Sachs đem về. “Có thể đó là máu bò”, ta .


      “Nhưng định gì với chúng ta nhỉ?” Banks hỏi.


      Rhyme biết. “Hãy tiếp tục . À, có gì khóa móc và xích ?”


      Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. “Giờ còn ai khắc tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta may mắn rồi. Cái khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó an toàn lắm và chắc chắn phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để phá nó?”


      “Mất ba giây”, Sellitto .


      “Thấy chưa. có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa hàng kim khí cả nước.”


      “Khóa chìa hay khóa số?” Rhyme hỏi.


      “Khóa số.”


      “Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong đợt hàng nào và đến đâu ?”


      Banks huýt sáo. “Ôi giời, xa quá.”


      Cái nhìn của Rhyme làm mặt chàng đỏ lựng. “ nhiệt tình trong giọng của cho thấy, thưa thám tử, đúng là người phù hợp để làm việc đó.”


      “Vâng, thưa ngài.” Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. “Tôi làm đây.”


      Rhyme hỏi: “Có vết máu xích ?”


      Sellitto : “Của trong những người của ta. ta tự làm mình bị thương khá nặng lúc phá khóa.”


      “Như vậy là nó bị ô nhiễm.” Rhyme cau có.


      ta cố cứu ấy thôi”, Sachs với Rhyme.


      “Tôi hiểu. ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi.” Rhyme nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. “Dấu tay?”


      Cooper ta kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto dây xích.


      “Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem.”


      “Tôi làm rồi”, Sachs nhanh. “Tại trường.”


      P.D., Rhyme nhớ lại. nàng có vẻ giống như biệt hiệu. Những người đẹp ít khi thế.


      “Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn”, Rhyme và ra lệnh cho Cooper. “Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag.”


      “Cái gì?” Banks hỏi.


      “Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet.”


      Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa và chiếu tia laser lên đó. ta đeo kính và xem xét nó cách cẩn trọng. “ có gì.”


      ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là miếng gỗ dài khoảng sáu inch, màu tối. đó có vết bẩn, giống như nhựa đường và bị dính đầy bụi. ta cầm nó bằng cái kẹp.


      “Tôi biết Lincoln thích dùng đũa”, Cooper . “Nhưng khi đến Ming Wa(72) tôi luôn gọi dĩa.”


      có thể làm vỡ tế bào”, nhà hình học càu nhàu.


      “Tôi có thể. Nhưng tôi làm vỡ”, Cooper đáp lời.


      “Loại gỗ gì?” Rhyme băn khoăn. “Có cần chạy máy phân tích tàn tro ?”


      cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế.”


      “Có dấu cưa hay bào gì ?” Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ cổ bị co thắt, thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột rút. hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng cơn đau cũng bớt.


      “Lincoln?” Sellitto hỏi. “ ổn chứ?”


      Rhyme thở sâu: “Tốt rồi. có gì đâu.”


      “Đây này.” Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại lên mắt cho Rhyme.


      Rhyme kiểm tra mẫu vật. “Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa khung. Vết cắt rất đều. Vì thế tôi đoán đây là cây cột hay xà nhà được xẻ hơn trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa nó lại gần hơn chút , Mel. Tôi muốn ngửi nó.”


      ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.


      “Có tẩm creozot – dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà vẹt…”


      “Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt”, Sellitto . “Hãy nhớ đến đường ray sáng nay.”


      “Có thể”, Rhyme ra lệnh. “Kiểm tra ép tế bào , Mel.”


      ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. “Nó được ép rất tốt. Nhưng ép dọc theo thớ. phải ngược lại. phải tà vẹt. Đấy là cột chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng…”


      khúc xương… cái cột gỗ cũ…


      “Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có với chúng ta thứ gì ?”


      Cooper trải tờ báo lớn lên bàn, xé bìa . ta cầm mẩu gỗ tờ báo và chải ít bụi từ khe nứt mẩu gỗ. ta xem xét những chấm tờ giấy trắng – chòm sao ngược.


      có đủ để thử biến thiên mật độ ?” Rhyme hỏi.


      Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào cái ống chứa những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất phân rã ra và mỗi hạt lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương ứng. Rhyme thiết lập thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật độ của đất từ cả năm khu. may là phép thử này chỉ có tác dụng khi ta có đủ lượng đất nhất định; Cooper nghĩ rằng họ có đủ đất. “Ta có thể sử nhưng phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác.”


      Rhyme bảo ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó GC-MS.


      Tay kỹ thuật viên chải ít đất vào bàn trượt. ta nhìn nó vài phút qua kính hiển vi. “Lạ , Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng.” ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới mắt ta vì tỳ vào ống ngắm. nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá kỹ thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được chào đón với dàn hợp xướng Rocky Raccoon(73).


      “Đốt nó lên”, Rhyme ra lệnh.


      Cooper đặt mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy và phát ra tiếng xì xì. “Đợi , hai phút.”


      “Trong khi ta chờ”, Rhyme , “cái xương… tôi vẫn băn khoăn về cái xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel”.


      Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. ta nghiên cứu nó rất kỹ càng. “Ồ, có thứ gì đây này.”


      “Cái gì?”


      “Rất . Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu”, Cooper với Sachs, hất đầu về phía cái kẹp bấm. đưa nó cho ta và ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. ta nhặt thứ gì đó lên


      mẫu cellulose tái chế”, Cooper tuyên bố.


      “Là giấy bóng kính”, Rhyme . “Cho tôi biết thêm .”


      “Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể ta cố tình để nó lại; có cạnh nào bị cắt. Nó mâu thuẫn với giấy bóng kính bền”, Cooper .


      mâu thuẫn.” Rhyme cau có. “Tôi thích kiểu phòng vệ của .”


      “Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme.” Cooper tươi tỉnh .


      “Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét mâu thuẫn.”


      “Rất nhiều khả năng”, Cooper . “Khả năng gần nhất của tôi là giấy bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. phải Saran Wrap. Chắc chắn phải giấy gói của thương hiệu vô danh.”


      Jerry Banks từ hàng lang vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra chúng ngẫu nhiên.”


      “À.”


      “Nhưng điều thú vị là họ họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi của cảnh sát về sản phẩm của họ và là người đầu tiên nghĩ tới việc truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”


      “Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và quay về phía Mel Cooper, ta lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS. “Gì thế?”


      “Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa. Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng nhiều mẫu hơn.”


      Rhyme bảo ta làm. Ánh mắt quay lại phía khúc xương. “Mel, con vật bị giết lâu chưa?”


      Mel xem xét vài mảnh dưới kính hiển vi điện tử.


      “Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”


      “Như thế là mới mua nó”, Rhyme .


      “Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.


      ”, Cooper . “Nó bị đông lạnh. có vết biểu bì bị tinh thể băng phá hoại. Và nó ở trong tủ lạnh quá lâu. bị khô; tủ lạnh đại làm thức ăn bị khô.”


      “Dấu vết tốt đấy”, Rhyme . “Hãy điều tra thêm chút .”


      “Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý là chúng ta gọi điện cho tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai bán xương bê à?”


      ”, Rhyme . “Mà là trong hai ngày qua.”


      có cần gọi Những Chàng trai Dũng cảm ?”


      “Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem ấy còn làm việc ? Và nếu , gọi ấy quay lại văn phòng cùng với những điều phối viên khác để họ làm ngoài giờ. Đưa cho ấy danh sách tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố. Tôi cá là chàng của chúng ta mua thực phẩm cho gia đình bốn người, vì thế với Emma giới hạn danh sách xuống những người chỉ mua dưới năm thứ.”


      “Lệnh bắt?” Banks hỏi.


      “Hễ có ai đó giật mình, ta có lệnh bắt”, Sellitto . “Nhưng cứ thử có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực cộng tác. Người ta với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”


      “Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai mua chân bê?” Sachs hỏi. còn lơ đãng như trước. Trong giọng của có chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu khó chịu của có phải là triệu chứng của điều mà chính đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình học phải là có quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.


      “Kiểm tra máy quét”, Rhyme . “Họ đăng ký giao dịch bán hàng máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, . Tôi thấy hình như có điều gì đó trong đầu cậu? ra . Lần này tôi đẩy cậu Siberia nữa đâu.”


      “Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng chuỗi mới có máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi . “Có hàng trăm cửa hàng riêng lẻ và hàng thịt có máy quét.”


      “Ý hay. Nhưng tôi nghĩ đến cửa hàng . mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”


      Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và với Emma những gì họ cần làm.


      “Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme với Cooper.


      Người kỹ thuật viên đặt mẫu này vào kính phân cực, sau đó đặt máy ảnh Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là tấm ảnh màu, chiếc cầu vồng với vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng lên điều gì với họ, nhưng có thể so sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng nguồn gốc hay .


      Rhyme nảy ra ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn trương.”


      “Tới đây?” Sellitto hỏi.


      “Chúng ta chuẩn bị chiến dịch.”


      chắc chứ?” Viên thám tử hỏi.


      “Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”


      “Được rồi.” ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.


      “Còn bây giờ những dấu vết để lại khác sao – mấy sợi lông mà Amelia tìm thấy.”


      Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính hiển vi đối pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào đối tượng, luồng ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn chút – lệch pha – sao cho mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.


      phải của người”, Cooper . “Tôi có thể ngay với như vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, phải lông phía dưới.”


      Ý ta là nó từ bộ lông của động vật.


      “Con gì? Chó?”


      “Con bê?” Banks đề xuất, lần nữa đầy nhiệt tình và trẻ trung.


      “Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý là những vảy tạo thành lớp vỏ ngoài sợi lông.


      Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que đầy vảy ra màn hình. “Nhờ đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở dữ liệu ?”


      Ở IRD, Rhyme tập hợp bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà cho chúng vào máy tính được?”


      “Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”


      Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ vượt qua Rhyme. lạ lùng...


      Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về điều băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ lên: Vì sao lại có những dấu vết? Con người tuyệt vời nhưng hết đó chỉ là – con thú. con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ nhưng luôn luôn hành động có lý do – động cơ đẩy con thú đến với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme tin vào tình cờ, hay ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và biết phải có lý do gì đó để Đối tượng 823 chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu như vậy.


      Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị cạo.”


      “Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks . “Có hàng triệu con chuột trong thành phố. Nó dẫn tới chỗ nào cả. định gì với chúng ta vậy?”


      Sellitto nhắm mắt khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs nhận thấy cái gì đó. tò mò liếc nhìn Rhyme. ta ngạc nhiên là nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng ta gì. thấy có lý do gì phải chia sẻ phần kiến thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.


      Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu nhớ nhầm, trong số đó có thiên thần bé O’Connor, là vợ của người nhập cư cần cù, người xây căn nhà giản dị gần Phố Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.


      Chính nhờ dũng cảm của người phụ nữ may mắn này mà cảnh sát phát ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong cộng đồng gần gũi ở đó , chồng và sáu đứa con của họ ( đứa mất khi sinh) sinh sống.


      Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo biển hạn chế tốc độ dù biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông New York chặn ai lại vì lý do như lái xe vượt quá tốc độ.


      dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên tấm bảng dán thông cáo của Liên Hợp Quốc khác. Mắt nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười, nhạt nhẽo – như những khuôn mặt ghê sợ được vẽ tường của khu nhà lớn – rồi nhìn ra xa, thành phố quanh . Đôi khi thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và thấy những tòa nhà to lớn, những mái đua bằng đá cao, kính phẳng, những chiếc xe đẹp và con người tầm thường. Thành phố mà biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh có ở khắp nơi – số tên chỉ mới mười hay mười tuổi – có thể đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính là thành phố của Kẻ Tầm Xương.


      Đôi khi thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL màu bạc bảnh của mình con đường nhựa êm ái nghe đài WNYC(74) và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố cho ta rẽ phải khi có đèn đỏ.


      nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức ai có thể nghe thấy chống cự của Hanna.


      Đèn xanh.


      Tất nhiên đó là kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ thoát khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu phố vào buổi tối, có quý ông kèm; và ngày nay điều này còn đặc biệt hơn nữa. Nhưng vào cái đêm may mắn ấy, Hanna còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc lát. Đứa con út của bị sốt và chồng thành tâm cầu nguyện trong nhà thờ gần đó, lao vào bóng đêm mua thuốc đắp cho cái trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, nó với con cả của mình.


      “Đóng cửa chặt con nhé. Mẹ về sớm.”


      Nhưng, Chúa ơi, lời của thành thực. Ngay sau đó gặp James Schneider.


      Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này – gần nơi chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland, ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.


      ngửi thấy mùi phân bón và ngạc nhiên khi bống dưng nhìn thấy con ngựa lồng lên trước mặt.


      Sau đó nhận thấy con vật đó phải là ma quỷ từ những năm 1800 mà là con ngựa được thắng vào chiếc xe ngựa hai bánh chạy trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa của họ đặt ở đây.


      cười với chính mình. Mặc dù đó là thanh ghê rợn.


      Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì xảy ra, vì chẳng có nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá ràng khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ cố chống cự vào con đường , đâm , ý định dã man của ta là chưa giết ngay ta mà chỉ khuất phục , đó là thói quen của . Nhưng với sức mạnh trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình chắc chắn phải trở về với những đứa con còn non nớt của làm con quái thú ngạc nhiên khi liên tục tấn công ; đấm liên tục vào mặt , rứt tóc đầu .


      Ngay lập tức thoát được và từ miệng vang lên tiếng thét khủng khiếp. Schneider hèn nhát đánh thêm , hai cú nữa rồi bỏ chạy.


      Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó chết tay viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.


      Câu chuyện xuất trong cuốn sách lúc này nằm trong túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York(75). thể giải thích được hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với . Nếu phải miêu tả mối quan hệ của với cuốn sách, có thể nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình trạng rất tốt, hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và vật ban phước lành cho . tìm thấy nó trong nhánh của thư viện công cộng và thực trong những vụ ăn cắp hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra khỏi tòa nhà.


      đọc trong chương về Schneider hàng trăm lần và gần như thuộc lòng.


      Lái xe từ từ. Họ gần đến nơi.


      Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể còn sức sống của , ta nhìn vào mặt : lần cuối trước khi người ta đưa đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và ta nhận thấy gò má trắng như sứ của có vết thâm tím mang hình biểu tượng lạ lùng. Đấy là biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía .


      Cảnh sát rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để lại khi đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử nhờ đến giúp đỡ của nghệ sĩ và ta phác thảo hình ảnh bản gốc (Bạn đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta thẩm vấn số thợ kim hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ số người mua chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý ông mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài nghi ngờ, vì người là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong trường đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là người đàn ông mà từ lâu cảnh sát nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là James Schneider.


      Quý ông này từng có ảnh hưởng trong số tổ chức từ thiện của Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm của cảnh sát khi vài người lớn tuổi trong các nhóm biến mất lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi tầm ngắm.


      Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết cách tàn bạo, có cuộc truy tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hề e sợ; thảm kịch thực , chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát tàn khốc xảy đến với thành phố nằm trong bàn tay ghê tởm của .


      Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố . mở cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào đường hầm dài.


      Sau khi chắc chắn nơi này có ai, ra sau xe. mở cốp và lôi Hanna ra. ta đầy thịt, béo, như cái bao vải mềm oặt. lại càng giận dữ và lôi ta xềnh xệch xuống đường hầm rộng khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy đầu họ. nghe tiếng ta khò khè và định giơ tay tháo miếng băng dán miệng cảm thấy ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển vì phải cố gắng kéo ta, đặt ta xuống nền đường hầm và nới lỏng miếng băng dính dán miệng ta. khí yếu ớt giọt vào trong. ta có bị ngất ? lắng nghe tim ta. Hình như nó vẫn đập tốt.


      cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân ta, nghiêng về phía trước và thầm : “Hanna, kommen Sie mit mir mit(76)”, Hanna, Goldschmidt...”


      “Nein”, ta lẩm bẩm, giọng ta dần rồi im bặt.


      cúi gần hơn, tát vào mặt ta. “Hanna, phải cùng tôi.”


      ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna(77).” Rồi đánh trúng hàm .


      chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu nhảy sang bên cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng chạy rất nhanh theo . bắt được khi chạy chưa được mười thước(78-). ngã rất mạnh, ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.


      nằm nghiêng khoảng phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở, tóm áo ta vì ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, ta cố gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, ta nhấc chân đạp rất mạnh vào tay . cơn đau nhói xuyên suốt người và làm găng tay tuột ra. ta lại nhấc chân lên, thoát được gỠgiày của ta chỉ vì ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi nếu trúng chắc chắn gãy xương.


      “So nicht!(79)” gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng ta, bóp mạnh cho tới khi ta quằn quại van xin, rồi còn quằn quại van xin được nữa. ta giật giật vài cái rồi bất động.


      Khi nghe tim ta tiếng đập rất yếu. Lần này là . nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo qua đường hầm để chỗ cái cột trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng . Khi tỉnh lại, bàn tay lang thang cơ thể . Đầu tiên kinh ngạc sau đó co rúm lại khi chăm chút phần thịt sau tai . Khuỷu tay , quai hàm . người có nhiều chỗ làm thích động chạm. ta như cái bị thịt... điều này làm thấy ghê tởm.


      Nhưng phía dưới lớp da... nắm chân chặt. Đôi mắt mở to nhìn lần tìm trong túi lấy ra lưỡi dao. chút chần chừ, luồn con dao xuyên qua da sâu, tới tận đoạn xương màu vàng trắng. thét lên qua lớp băng dính, tiếng khóc điên dại, đá mạnh nhưng chân bị trói chặt. Thích , Hanna? sụt sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế phải nghiêng tai xuống tận chân để nghe tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đưa lại đoạn xường. Kí... t...


      Rồi cầm tay .


      Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát thảm hại lắc đầu, thầm van xin. Ánh mắt rơi xuống cánh tay mập mạp của , và nhát cắt tiếp theo cũng sâu.. Cả người cứng lại vì đau. Thêm tiếng thét man dại, câm lặng nữa. lần nữa cúi đầu như nhạc sĩ, lắng nghe tiếng lưỡi dao cạo xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... lúc sau nhận ra bất tỉnh.


      Cuối cùng cũng dứt được mình ra và về phía chiếc xe. đặt những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe cây chổi và cẩn thận quét hết dấu chân của họ. lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại, vẫn để động cơ chạy và xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh xe.


      dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn ta, chỉ nhìn thôi. Bất ngờ, nụ cười thoáng môi Kẻ Tầm Xương. ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên xuất . tá những cặp mắt tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với chút tò mò... và có thể cả đói nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của ; Chúa biết, những hình ảnh đó cũng đủ ràng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI HAI




      “Mel, nghiên cứu chỗ quần áo của Colfax xem. Amelia, làm ơn giúp ấy tay, được chứ?”


      vui vẻ gật đầu với ta, kiểu gật đầu lịch . Rhyme nhận ra là khá giận .


      Theo hướng dẫn của kỹ thuật viên, đeo găng tay cao su, nhàng mở đống quần áo, đặt phía dưới tờ báo lớn và dùng bàn chải lông ngựa chải vải. Mấy mảnh vụn rơi xuống. Cooper dùng băng dính nhặt chúng lên và soi dưới kính hiển vi.


      có gì nhiều”, ta báo cáo. “Hơi nước xóa hầu hết dấu vết. Tôi thấy ít đất, đủ để làm D-G. Đợi chút... Tuyệt vời. Tôi có , hai sợi vải. Nhìn chúng này...”


      Tôi chịu, Rhyme giận dữ nghĩ.


      “Màu xanh hải quân, vải pha len và acrylic, tôi đoán thế. Nó đủ thưa để làm thảm và cong. Như vậy đây là vải quần áo.”


      “Trời nóng thế này chắc tất dày và mặc áo len. Mặt nạ trượt tuyết?”


      “Tôi cũng cá vậy”, Cooper .


      Rhyme suy tư: “Như vậy rất nghiêm túc trong việc cho ta cơ hội cứu họ. Nếu nghiêng về việc giết chóc, việc họ nhìn thấy hay cũng quan trọng.”


      Sellitto thêm: “Còn có nghĩa là thằng khốn này nghĩ có thể chạy thoát. hề có ý định tự sát. Chỉ cho chúng ta thêm ít quyền lực đàm phán nếu bắt con tin khi ta tóm .”


      “Tôi thích lạc quan của , Lon ạ”, Rhyme .


      Thom ra mở cửa khi nghe tiếng chuông, khắc sau Jim Polling leo lên cầu thang, trông có vẻ phờ phạc và mệt nhọc. Được rồi, phải chạy qua chạy lại giữa các cuộc họp báo, văn phòng ngài thị trưởng và tòa nhà kiểu liên bang làm ta ra nông nỗi này.


      “Cá hồi tệ quá”, Sellitto với ta. Sau đó giải thích cho Rhyme: “Jimmy của chúng ta là trong những người câu cáthực thụ. Tự mắc mồi và làm những thứ khác. Còn tôi, tôi lên thuyền dự dạ hội với sáu lon bia và tôi thấy vui.”


      “Ta phải tóm thằng khốn này trước rồi nghĩ tới cá mú sau.”, Polling , uống ly cà phê Thom để lại bậu cửa sổ. ta nhìn ra ngoài và chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy hai con chim lớn nhìn mình. ta quay lại phía Rhyme và giải thích vì có vụ bắt cóc mà ta phải hoãn chuyến câu cá ở Vermont. Rhyme chưa bao giờ câu – chưa bao giờ có thời gian hay xu hướng tìm cho mình bất kỳ mối quan tâm nào khác – nhưng thấy ghen tị với Polling. bình yên khi câu cá hấp dẫn . Đó là môn thể thao mà có thể chơi mình. Thể thao của người tàn tật thường là những môn đối mặt. Đối kháng. Chứng minh cho cả thế giới... và cho chính mình. Bóng rổ, xe lăn, tennis, cuộc chạy marathon. Rhyme quyết định nếu cần phải chơi môn thể thao nào là câu cá. Dù quăng dây câu bằng ngón tay có thể vẫn nằm ngoài tầm của công nghệ đại.


      Polling nó: “Báo chí gọi ta là tên bắt cóc hàng loạt.”


      Nếu đúng thế, Rhyme suy tư.


      “Thị trưởng phát điên. Muốn gọi cho những nhân viên FBI. Tôi thuyết phục sếp làm gì trong vụ này. Nhưng chúng ta thể đánh mất thêm nạn nhân nữa.


      “Chúng tôi cố hết sức” Rhyme chua cay .


      Polling hớp ngụm cà phê đen và đến gần chiếc giường. “ ổn chứ, Lincoln?”


      Rhyme : “Ổn cả.”


      Polling đánh giá thêm chút nữa, sau đó gật đầu với Sellitto. “Hãy tóm tắt cho tôi. Chúng ta cuộc họp báo nữa, trong vòng nửa tiếng. Cậu thấy cuộc họp trước chưa? Nghe những câu hỏi của nhà báo chưa? Chúng ta nghĩ gia đình nạn nhân cảm thấy thế nào khi ta bị hấp đến chết?”


      Banks lắc đầu. “Trời ạ.”


      “Tôi suýt chút nữa đánh thằng khốn đó.”, Polling .


      Ba năm rưỡi trước, Rhyme nhớ lại, trong vụ điều tra sát hại cảnh sát, viên đại úy này đập vỡ máy quay mới của nhân viên quay phim khi phóng viên hỏi rằng, có phải Polling quá xông xáo trong cuộc điều tra vì nghi phạm, Dan Shepherd, là nhân viên trong lực lượng hay ?


      Polling và Sellitto về phía góc phòng và viên thám tử báo cáo với ta. Khi viên đại úy xuống cầu thang, Rhyme nhận ra, sôi nổi của ta còn được nửa.


      “Được rồi”, Cooper tuyên bố. “Ta có được sợi tóc. Trong túi ta.”


      “Nguyên cọng?” Rhyme hỏi, hy vọng nhiều lắm và ngạc nhiên khi thấy Cooper thở dài. “Xin lỗi, có chân tóc.”


      có chân tóc cùng, sợi tóc được xem như chứng cứ cá nhân; nó còn chưa chắc phải là loại vật chứng. Ta thể dùng nó để kiểm tra DNA và gắn nó với nhân vật cụ thể nào. Nhưng nó vẫn có giá trị thử nghiệm tốt. Nghiên cứu nối tiếng của Canadian Mounties mấy năm trước kết luận rằng nếu tóc để lại trường trùng với tóc của nghi phạm, xác suất là người để lại sợi tóc chỉ khoảng 4.500/1. Vấn đề của tóc là ta thể tìm được nhiều thông tin về chủ nhân của nó. thể xác định giới tính qua tóc, cũng thể xác định chính xác chủng tộc. Chỉ có thể ước lượng qua tóc của trẻ vị thành niên. thể tin được màu tóc vì các loại thuốc nhuộm và màu trang điểm, và ai cũng rụng mỗi ngày mấy chục sợi tóc nên thể được nạn nhân có bị hói đầu hay .


      “So sánh với tóc nạn nhân xem. Đếm kích thước và so sánh màu tóc gốc’, Rhyme ra lệnh.


      khắc sau, Cooper ngẩng đầu lên khỏi kính hiển vi, , “ phải tóc của Colfax.”


      “Miêu tả?” Rhyme hỏi.


      “Nâu nhạt. xoăn nên tôi có thể phải người da đen. Màu tóc gốc rằng phải người châu Á.”


      “Vậy là người da trắng”, Rhyme , gật đầu về phía sơ đồ tường. “Khẳng định điều nhân chứng . Tóc hay lông cơ thể?”


      “Có rất ít biến đổi trong phân bố đồng dạng hạt màu tóc. Tôi đó là tóc.”


      “Chiều dài?”


      “Ba cm.”


      Thom hỏi ta có cần thêm vào hồ sơ là tóc tên bắt cóc màu nâu hay .


      Rhyme . “Ta đợi thêm những chứng cứ chắc chắn hơn. Chỉ cần viết là ta biết đeo mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân. Cạo móng tay có gì , Mel.”


      Cooper xem xét dấu vết nhưng tìm thấy gì hữu ích.


      “Dấu tay mà tìm thấy. tường ấy. Hãy nhìn nó . Amelia, cho tôi xem, được ?”


      Sachs ngần ngừ chút, sau đó đem bức hình Polaroid ra chỗ ta.


      “Con quái vật của ”, Rhyme . Đó là bàn tay to lớn, biến dạng, thực kỳ quái, có những đường rẽ nhánh và xoắn ốc thanh lịch của vân tay mà là hình hoa văn lốm đốm với những đường thẳng xíu.


      bức tranh tuyệt đẹp – gần như là Edward Weston(80) rồi, Amelia. Nhưng đáng tiếc đấy phải là bàn tay. Kia phải vân tay. Đấy là găng tay. Da. cũ. Đúng , Mel?”


      Tay kỹ thuật viên gật đầu.


      “Thom, hãy viết là đôi găng tay cũ”, Rhyme với những người khác. “Chúng ta bắt đầu có vài ý tưởng về . để lại dấu vân tay của trường. Nhưng để lại dấu găng tay. Nếu tìm thấy đôi găng tay do sở hữu, chúng ta vẫn có thể đưa vào trường. nhanh trí. Nhưng chưa thông minh.”


      Sachs hỏi: “Những tên tội phạm thông minh mặc đồ gì?”


      “Đồ da lộn vải bông”, Rhyme . Sau đó hỏi: “Cái túi lọc đâu? Của máy hút bụi?”


      Tay kỹ thuật viên đổ những thứ trong bộ lọc hình nón – trông như bộ lọc trong máy pha cà phê – ra tờ giấy trắng.


      Vật chứng dấu vết...


      Công tố viên, các nhà báo và quan tòa thích những chứng cứ ràng. Những đôi găng đẫm máu, dao, những khẩu súng vừa nhả đạn, các bức thư tình, tinh dịch và dấu vân tay. Nhưng chứng cứ thích của Rhyme là dấu vết – bụi hay những thứ phát sinh từ trường vụ án, rất dễ bị bọn tội phạm bỏ qua.


      Nhưng máy hút bụi hút được gì hữu ích.


      “Được rồi”, Rhyme . “Ta tiếp tục nào. Hãy nhìn cái còng tay.”


      Sachs cứng người khi Cooper mở cái túi nhựa và đổ chiếc còng lên tờ báo. Như Rhyme dự kiến, có rất ít máu. Bác sĩ lưu động từ văn phòng giám định y khoa dùng cái cưa sắt, sau khi luật sư của NYPD fax giấy phép đến Phòng Giám Định Y khoa.


      Cooper xem xét cái còng rất cẩn thận. ”Hãng Boy & Keller. Loại hạng bét. có số thứ tự.” ta phun chrome với DFO lên đó và chiếu đèn PoliLight. ” có có dấu tay, chỉ có vết bẩn dây từ găng tay.”


      “Mở nó ra xem sao.”


      Cooper dùng chìa khóa đa năng mở còng. ta dùng khí nén rửa kính thổi vào ổ khóa.


      vẫn giận tôi đấy à, Amelia?” Rhyme . “Về vụ hai bàn tay ấy.”


      Câu hỏi làm bất ngờ. “Tôi giận.” sau lúc. “Tôi nghĩ thế là chuyên nghiệp. Cái điều bảo tôi làm.”


      có biết Edmond Locard là ai ?”


      lắc đầu


      người Pháp. Sinh năm 1877. Ông ta sáng lập Viện Hình học của trường Đại học Tổng hợp Lyon. Ông ta phát minh ra quy tắc mà tôi luôn tuân thủ khi điều hành IRD. Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Ông ta nghĩ rằng bất cứ khi nào hai người tiếp xúc với nhau, thứ gì đó từ người được trao đổi với người khác và ngược lại. Có thể là bụi, tế bào da, bùn đất, sợi, mạt kim loại. Nhưng việc trao đổi này có xảy ra – vì thế chúng ta có thể bắt được nghi phạm.”


      Câu chuyện này chẳng làm quan tâm tí nào.


      may mắn đấy”, Mel Cooper với Sachs mà nhìn lên. “ ta định bắt và bác sĩ xem xét những thứ trong dạ dày của ta đấy.”


      “Điều đó có thể có ích”, Rhyme , tránh ánh mắt .


      “Tôi thuyết phục ta thôi đấy”, Cooper .


      “Khám nghiệm tử thi”, Sachs và thở dài, tựa như chẳng có điều gì mà Rhyme có thể làm cho ngạc nhiên.


      Tại sao, thậm chí ta còn chẳng ở đây nữa, giận dữ nghĩ. Đầu óc ta lơ lửng cách đây hàng nghìn dặm.


      “À”, Cooper . “Tôi tìm thấy gi này. Tôi nghĩ đó là mẩu găng tay.”


      Cooper đặt mẩu lên kính hiển vi. Xem xét nó.


      “Da. Nhuộm đỏ. mặt được đánh bóng.”


      “Màu đỏ, thế là tốt”, Sellitto . Với Sachs, ta giải thích: “Quần áo của bọn chúng càng man dại, càng dễ tìm ra chúng. Họ dạy điều này trong học viện, tôi cá là như thế. Lúc nào đó tôi kể nghe chúng tôi tóm cổ Jimmy Plaid, trong băng nhóm của Gambino như thế nào. Cậu còn nhớ chuyện đó chứ, Jerrry?”


      “Ta có thể phát cái quần đùi đó cách hàng dặm”, viên thám tử trẻ tuổi .


      Cooper tiếp: “Da bị khô. có nhiều dầu trong hạt. đúng khi đôi găng cũ.”


      “Da gì vậy?”


      “Tôi đấy là cừu non. Chất lượng cao.”


      “Nếu đôi găng tay mới, điều đó có thể có nghĩa là ta giàu”, Rhyme lẩm bẩm. “Nhưng vì đấy là găng cũ, có thể tìm thấy chúng hoặc mua hàng dùng rồi. Có vẻ là thể suy luận được từ đồ phụ kiện của nghi phạm 823. Được rồi, Thom, thêm vào hồ sơ đôi găng tay da cừu đó. Ta còn có thêm gì nữa nhỉ?”


      sử dụng nhoa dùng sau dao cạo râu”, Sachs nhắc .


      “Tôi quên mất. Tốt. Có thể dùng để che giấu mùi khác. Đôi khi bọn tội phạm cũng làm thế. Viết , Thom. Nó có mùi như thế nào, Amelia? tả xem nào.”


      . Như rượu gin.”


      “Dây phơi sao?” Rhyme hỏi.


      Cooper xem xét sợi dây. “Trước đây tôi từng thấy loại này rồi. Dây nhựa. Bện từ vài tá dây làm từ sáu tới mười loại nhựa khác nhau và phải, hai sợi dây kim loại.”


      “Tôi muốn có nhà sản xuất và nguồn.”


      Cooper lắc đầu. “ được. Quá chung chung.”


      “Mẹ kiếp”, Rhyme lẩm bẩm. “Nút thắt sao?”


      “Đây là thứ khác thường. Rất hiệu quả. Xem nó được quấn vòng hai lần như thế nào này. Dây là từ nhựa PVC là loại dây khó thắt nút nhất, nhưng cái nút này tuột được.”


      “Họ có cơ sở dữ liệu nút thắt ở trung tâm nhỉ?”





      thể tha thứ được, nghĩ.


      “Thưa ngài?”


      Rhyme quay về phía Banks.


      “Tôi từng lái thuyền buồm...”


      “Ở Westport”, Rhyme .


      “À, ra là đúng như vậy. Sao biết?”


      Nếu ta điều tra pháp lý về xuất xứ của Jerry Banks, kết quả là Connecticut. “Đoán mò ấy mà.”


      “Nó thuộc hàng hải. Tôi nhận ra nó.”


      tốt khi biết điều đó. Treo nó lên kia .” Rhyme hất đầu về phía bức tường, bên cạnh tấm hình Polaroid của miếng giấy bóng kính và bức tranh của Monet. “Ta nghiên cứu nó sau.”


      Chuông cửa reo và Thom biến mở cửa. Rhyme cảm thấy chút tệ hại khi nghĩ đó là bác sĩ Berger trở lại để với rằng ông ta còn quan tâm đến việc trợ giúp trong “dự án” của họ nữa.


      Nhưng tiếng bốt giẫm nặng nề với Rhyme ai đến.


      Những sĩ quan của Đội Đặc nhiệm, tất cả đều to lớn, tất cả đều u ám, mặc đồng phục chiến đấu, lịch vào phòng, gật đầu chào Sellitto và Banks. Họ là những người đàn ông hành động và Rhyme cá là phía sau hai mươi con mắt bất động kia là mười phản ứng rất tệ hại trước hình ảnh người đàn ông phải nằm ngửa vĩnh viễn.


      “Các quý ông, các biết về vụ bắt cóc tối qua và cái chết của nạn nhân chiều nay”, tiếp tục bằng giọng khẽ khàng nhưng chắc chắn. “Nghi phạm của chúng ta có nạn nhân khác. Chúng tôi có số dấu vết cho vụ này và tôi cần các đến mấy nơi quanh thành phố để lấy vật chứng. Lập tức và đồng thời. Mỗi người, chỗ.”


      “Ý là...”, sĩ quan để ria mép hỏi chắc chắn, “ có yểm trợ?”.


      cần đến.”


      “Với tất cả tôn trọng, thưa ngài. Tôi định tham gia vào bất cứ tình huống chiến thuật nào mà có yểm trợ. Ít nhất phải có công chứ.”


      “Tôi nghĩ có đấu súng. Mục tiêu là chuỗi những cửa hàng thực phẩm lớn trong thành phố.”


      “Cửa hàng thực phẩm?”


      phải tất cả. Chỉ cần cửa hàng nằm trong chuỗi các cửa hàng J&G’s, ShopRite, Food Warehouse,...”


      “Chính xác là chúng tôi làm gì?”


      “Mua chân bê.”


      “Cái gì?”


      gói từ mỗi cửa hàng. Tôi e là tôi phải cầu các tự trả tiền, thưa các quý ông. Nhưng thành phố thanh toán cho cách . Ồ, mà chúng tôi cần nó càng sớm càng tốt.”


      nằm nghiêng, bất động.


      Mắt quen với bóng tối lờ mờ của đường hầm và có thể nhìn thấy những con vật khốn khiếp lại gần hơn. đặc biệt để mắt đến con.


      Chân Monelle đau ghê gớm, nhưng cơn đau chính lại nằm ở cánh tay, chỗ cắt sâu vào da thịt. Vì tay bị còng ra sau nên nhìn thấy vết thương, biết mình chảy bao nhiêu máu. Nhưng chắc là rất nhiều; cảm thấy rất uể oải và có thể cảm nhận được vết thương rỉ máu dinh dính tay và bên sườn.


      Có tiếng cào – những cái móng hình kim cào nên xi măng. Những khối màu nâu xám hối hả lao trong bóng tối. Những con chuột cống tiếp tục giật cục về phía . Chúng phải có đến hàng trăm con.


      bắt mình nằm im và theo dõi con chuột đen. Schwarzie, đặt tên cho nó. Nó đứng ngay trước mặt, tới lui, nghiên cứu .


      Monelle Gerger vòng quanh thế giới hai lần khi mới mười chín tuổi. nhờ xe dọc Sri Lanka, Campuchia và Pakistan. qua Nebraska, nơi những người đàn bà nhìn bộ ngực áo lót và những cái vòng đeo lông mày của với vẻ khinh miệt. qua Iran, nơi những người đàn ông nhìn cánh tay trần của như lũ chó động đực. ngủ trong công viên thành phố ở Thành phố Guatemala và ở ba ngày với lực lượng nổi loạn ở Nicaragua lúc bị lạc đường khi đến khu bảo tồn động vật hoang dã.


      Nhưng chưa bao giờ hoảng sợ như lúc này.


      Mein Gott.


      Và điều hoảng sợ nhất chính là điều sắp làm với bản thân mình.


      con chuột chạy tới gần, thân thể màu nâu của nó lao tới trước, lùi lại sau, rồi lại tiến lên mấy inch. Bọn chuột sợ, nghĩ vậy, vì chúng chuyển động giống bò sát hơn bọn gặm nhấm. cái mũi rắn, cái đuôi rắn. Và những cặp mắt đỏ ngầu khốn khiếp.


      Đằng sau đó là Schwarzie, to gần bằng con mèo . Nó đứng hai chân sau nhìn thứ làm nó phấn khích. Quan sát. Chờ đợi.


      Thế rồi con chuột con tấn công. Vội vàng bốn cái chân nhọn hoắt, lờ tiếng thét bị bóp nghẹt của , nó lao tới, nhanh và thắng. Nhanh như sóc, nó rứt miếng thịt từ cái chân bị cắt của . Vết thương nhói lên như bị bỏng. Monelle kêu ré lên – vì đau, và vì giận dữ. Tao cần mày. đạp gót giày rất mạnh lên lưng nó với tiếng rắc khô khốc. Nó giãy cái rồi nằm im.


      con khác xông lên cổ , rứt miếng rồi chạy lui, nhìn chằm chằm vào , nháy nháy mũi như thế nó liếm mép, hưởng thụ mùi vị của .


      Dieser Schmerz(81)...


      rùng mình vì cơn đau rát tỏa ra từ vết cắn. Dieser Schmerz! Đau quá! Monelle bắt mình nằm im.


      Kẻ tấn công tí hon định lao lên lần nữa, nhưng rồi động đậy và quay . Monelle biết tại sao. Schwarzie cuối cùng tiến lên hàng đầu. Nó lấy cái nó muốn.


      Tốt, tốt.


      Nó là con chuột chờ đợi. Vì có vẻ như nó quan tâm đến máu thịt ; cách đây hai mươi phút nó tới gần, phấn khích với miếng băng dính màu bạc dán miệng .


      Con chuột bé hơn vội vàng chạy đến nhập đàn khi Schwarzie tiến lên những cái chân tí hon, bẩn thỉu. Dừng lại. Lại tiến lên. Sáu feet, năm.


      Rồi ba.


      nằm im như chết. Thở hết mức có thể, sợ hơi thở của mình làm con chuột sợ hãi.


      Schwarzie dừng lại. Rồi tiến lên. Sau đó dừng hẳn. Cách đầu hai feet.


      được động đậy.


      Lưng nó vồng cao, môi nó liên tục đưa đẩy hàm răng nâu vàng. Nó tiến lên thêm foot nữa và dừng lại, mắt đảo điên. Ngồi dậy, xoa hai cái chân đầy móng vuốt vào nhau, rồi lại tiến lên.


      Monelle Gerger giả chết.


      Chỉ còn sáu inch nữa thôi. Vorwärts(82)!


      Nào!


      Thế rồi nó đến sát mặt . ngửi thấy mùi rác rưởi và dầu mỡ cơ thể nó, mùi phân, mùi thịt thối. Nó đánh hơi và cảm thấy những cái râu của nó cù mũi buồn chịu nổi khi những cái răng xíu thò ra khỏi miệng và bắt đầu gặm miếng băng dính.


      Nó gặm quanh miệng tới năm phút. Có lúc, con chuột khác xông tới, cắn vào mắt cá chân của . nhắm mắt và cố quên cơn đau. Schwarzie đuổi nó rồi đứng trong bóng tối nghiên cứu .


      Vorwärts, Schwarzie! Nào!


      Nó từ từ quay lại chỗ . Lệ ròng ròng má, Monelle miễn cưỡng hạ thấp miệng mình xuống cho nó.


      Gặm, gặm…


      Nào!


      cảm thấy hơi thở nóng bức, ghê tởm của nó trong miệng mình khi nó cắn xuyên qua lớp băng dính và bắt đầu rứt ra những miếng nhựa lớn lấp loáng màu bạc. Nó kéo những mẫu nhựa từ miệng ra, tham lam kẹp chúng giữa hai chân trước.


      hiểu đủ lớn chưa? tự hỏi.


      Phải thế thôi. thể chịu nổi nữa.


      chậm rãi nhấc đầu lên, từng mm . Schwarzie nháy mắt và nghiêng về phía trước, vẻ tò mò.


      Monelle há rộng miệng và nghe thấy thanh tuyệt vời khi miếng băng dính rách toang. hít khí sâu vào phổi. lại thở được rồi!


      có thể kêu cứu.


      “Bitte, helfen Sie mir!(83)”


      Schwarzie lùi lại, giật mình vì tiếng hú dựng tóc gáy của , đánh rơi cả miếng băng dính bạc quý báu của nó. Nhưng nó chạy xa. Nó dừng và quay lại, đứng lên hai chân sau béo mập.


      Lờ cái cơ thể gù đen ngòm của nó, đá cái cột mà bị trói vào. Bụi và bùn đất rơi xuống như màn tuyết nâu nhưng cây cột gỗ động đậy. la hét cho tới khi họng bỏng rát.


      “Bitte!(84)”


      Dòng xe cộ nhớp nháp nuốt chửng thanh đó.


      Bất động lúc. Sau đó Schwarzie bắt đầu lại phía . Lần này nó mình. đàn chuột gian xảo theo nó. Run rẩy, căng thẳng. Nhưng cương quyết tiến lên khi ngửi thấy mùi máu hấp dẫn của .


      Xương và gỗ, gỗ và xương.


      “Mel, có gì đằng kia thế?” Rhyme hất đầu về phía cái máy tính gắn với máy GC-MS. Cooper thử lại chỗ bụi họ tìm thấy trong mẫu gỗ.


      “Vẫn rất giàu nitrogen. Vượt ngưỡng.”


      Ba lần thử riêng biệt, kết quả như nhau. Kiểm tra chẩn đoán cho thấy thiết bị làm việc tốt. Cooper suy tư rồi : “Nhiều nitrogen như vậy có thể là nơi sản xuất súng hoặc đạn dược.”


      “Thế phải là Connecticut, phải Manhattan.” Rhyme nhìn đồng hồ. 6:30. Ngày hôm nay thời gian trôi nhanh. Ba năm rưỡi qua nó trôi mới chậm làm sao. cảm thấy như thức nhiều ngày liền.


      Viên thám tử trẻ tuổi miệt mài tấm bản đồ Manhattan, đẩy miếng xương đốt sống nhợt nhạt vừa rơi xuống nền nhà lúc nãy sang bên.


      Cái đĩa đó là do chuyên gia cột sống của Rhyme, Peter Taylor, để lại. Trong lần gặp trước với ta. Người bác sĩ lành nghề khám cho , sau đó ngồi vào chiếc ghế mây kêu sột soạt và lấy thứ gì đó trong túi ra.


      “Thời gian để diễn và ”, người bác sĩ .


      Rhyme liếc nhìn bàn tay mở rộng của Taylor.


      “Đây là đốt sống thứ tư. Giống như đốt sống ở cổ . Cái đốt sống bị vỡ. có thấy mẩu đuôi bé ở đây ?” Tay bác sĩ xoay khúc xương lại lúc rồi hỏi. “ nghĩ gì khi nhìn thấy nó?”


      Rhyme kính trọng Taylor – người đối xử với như đứa trẻ hay thằng dở hơi hay bất tiện lớn – nhưng ngày hôm đó có tâm trạng chơi trò gây cảm hứng. trả lời.


      Taylor vẫn tiếp: “Vài bệnh nhân của tôi nghĩ nó giống như con cá đuối. số khác cho rằng đó là tàu vũ trụ. Hoặc cái máy bay. Hay xe tải. Bất cứ lúc nào tôi hỏi câu này, người ta thường so sánh nó với cái gì đó to lớn. ai : ‘Ồ, mẩu calcium và magnesium.’ Thấy , họ thích ý tưởng là thứ gì đó rất tầm thường như thế lại biến cuộc sống của họ thành địa ngục.”


      Rhyme nhìn lại ông ta với vẻ nghi ngờ nhưng ông bác sĩ tóc bạc, điềm tĩnh này là tay cứng rắn với các bệnh nhân SCI nên ông ta lịch : “Đừng làm tôi cụt hứng chứ, Lincoln.”


      Taylor đưa cái đĩa lại gần mặt Rhyme. “ nghĩ rằng công bằng khi thứ thế này có thể đem đến cho nhiều đau khổ đến vậy. Nhưng quên nó . Quên nó . Tôi muốn nhớ những điều trước khi xảy ra tai nạn. Những điều tốt và điều xấu trong cuộc đời . Hạnh phúc, khổ đau… có thể cảm thấy những điều này lần nữa.” Khuôn mặt ông bác sĩ chuyển thành bất động. “Nhưng thành thực mà , tất cả những gì tôi nhìn thấy lúc này là kẻ đầu hàng.”


      Taylor để khúc xương lại cái bàn đầu giường. Có vẻ như tình cờ. Nhưng sau đó Rhyme nhận thấy trong hành động này có tính toán. Mấy tháng qua, khi Rhyme cố quyết định có nên tự tử hay , thường nhìn cái đĩa đó. Nó trở thành biểu tượng cho luận điểm của Taylor – luận điểm ủng hộ cuộc sống. Nhưng cuối cùng phía này thua; những lời của ông bác sĩ, có đúng đến đâu chăng nữa cũng thể vượt qua được gánh nặng của những cơn đau, đau đầu và kiệt sức mà Lincoln Rhyme phải chịu đựng ngày này qua ngày khác.


      Lúc này tránh nhìn chiếc đĩa – quay sang Amelia Sachs – và : “Tôi muốn nghĩ lại về trường lần nữa.”


      “Tôi với mọi thứ tôi nhìn thấy.”


      phải là nhìn thấy. Tôi muốn biết tất cả những gì cảm thấy.”


      Rhyme nhớ lại hàng nghìn lần khám nghiệm trường. Đôi khi phép màu cũng xảy ra. có thể nhìn ngó xung quanh và bằng cách nào đó các ý tưởng về đối tượng đến với . thể giải thích được nó như thế nào. Những nhà hành vi học về việc lập hồ sơ như thể chính họ là người sáng chế ra nó. Nhưng các nhà hình học lập hồ sơ từ hàng trăm năm nay. Đan lưới, ở chỗ , tìm những thứ để lại, nghĩ ra đem gì theo – và ta rời khỏi trường với hồ sơ ràng như bức chân dung.


      tôi biết”, hỏi. “ cảm thấy gì?”


      “Khó chịu. Căng thẳng. Nóng bức.” nhún vai. “Tôi biết, tôi thực biết. Xin lỗi.”


      Nếu có thể di chuyển, Rhyme nhảy ra khỏi giường, nắm lấy vai mà lắc. Hét lên: Nhưng biết tôi gì mà! Tôi biết là biết. Tại sao làm việc với tôi?… Tại sao lờ tôi ?


      Nhưng hiểu ra điều gì đó… Hiểu rằng ở đó, trong cái tầng hầm ngột ngạt. Cúi người xuống cơ thể bị phá nát của T.J. Ngửi thứ mùi ghê tởm. nhìn thấy điều đó trong ngón tay cái bị cậy đến bật máu của , nhìn thấy điều đó trong cách giữ khoảng cách lịch giữa họ. ghê tởm việc có mặt trong cái tầng hầm kinh khủng đó và căm thù nhắc nhở rằng, phần của vẫn còn ở đó.


      ngang qua phòng”, .


      “Tôi thực nghĩ rằng tôi có thể giúp gì thêm.”


      “Chơi thôi mà”, , cố dẹp cơn giận. cười. “ cho tôi biết nghĩ gì?”


      Khuôn mặt bất động và : “Chỉ là… những ý nghĩ. Những ấn tượng ai cũng có.”


      “Nhưng ở đó. Mọi người . cho chúng tôi nghe .”


      “Kiểu như… rất đáng sợ.” và cảm thấy hối tiếc vì những từ ngữ vụng về.


      Nghiệp dư.


      “Tôi cảm thấy…”


      “Ai đó nhìn ?” hỏi.


      Điều đó làm ngạc nhiên. “Đúng. Chính xác là thế.”


      Rhyme cũng từng cảm thấy như vậy. Nhiều lần. cảm thấy điều đó ba năm rưỡi trước, khi cúi mình xuống cơ thể phân hủy của người cảnh sát trẻ tuổi, nhặt sợi vải bộ cảnh phục. chắc chắn có ai đó ở gần. Nhưng chẳng có ai – chỉ là cái rầm gỗ sồi lớn chọn đúng khoảnh khắc đó để gầm lên, tăng tốc và rơi trúng đốt sống cổ thứ tư của Lincoln Rhyme với sức nặng của cả quả đất.


      còn nghĩ gì nữa, Amelia?”


      chống cự nữa. Môi thư giãn, mắt trôi theo bức tranh Nighthaws – những người ăn tối, đơn hay đơn độc cách mãn nguyện. : “Được rồi, tôi nhớ là tôi với chính mình: ‘Trời ạ, chỗ này cổ .’ Nó giống như những bức tranh mà ta nhìn thấy ở đó các nhà máy trong giai đoạn chuyển giao thế kỷ. Và tôi…”


      “Đợi ”. Rhyme quát lên. “Hãy nghĩ về điều này xem. Cổ xưa…”


      Ánh mắt lướt qua tấm bản đồ Randel Survey. Trước đó nhận xét về quan tâm của nghi phạm về New York lịch sử. Tòa nhà nơi T.J. chết cũng là tòa nhà cổ. Và đường hầm nơi họ tìm thấy xác chết đầu tiên cũng vậy. Tàu hỏa Trung tâm New York từng chạy mặt đất. Có quá nhiều tai nạn gây thương vong đến mức Đại lộ Mười được đặt tên là Đại lộ Death và tuyến đường sắt cuối cùng bị bắt buộc phải ngầm.


      “Và Phố Pearl”, lẩm bẩm mình, “là con đường vòng chính của New York trước kia. Vì sao lại quan tâm đến những thứ đồ cổ?”. hỏi Sellitto: “Terry Dobyns còn làm việc cho chúng ta ?”


      “Ồ, chàng bác sĩ tâm thần? Còn. Chúng tôi cùng làm vụ năm ngoái. Nhân tiện, ta có hỏi . ta có gọi điện , hai lần, và bao giờ…”


      “Được rồi, được rồi, được rồi”, Rhyme . “Gọi ta đến đây. Tôi muốn ta suy nghĩ về khuôn mẫu của 823. Còn bây giờ, Amelia, còn nghĩ gì nữa?”


      nhún vai nhưng tỏ ra rất lãnh đạm. “Chẳng có gì.”


      có?”


      Thế có giữ lại cảm giác của mình ? băn khoăn, nhớ lại điều gì đó mà Blaine có nhắc tới lần khi nhìn thấy người phụ nữ đẹp bước Đại lộ Năm: Hàng càng đẹp càng khó mở.


      “Tôi biết…Được rồi, tôi nghĩ tôi có nhớ việc tôi nghĩ đến. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó giống như quan sát, thế nào nhỉ, chuyên nghiệp.”


      Chuyên nghiệp…


      tệ hại khi tự mình đặt tiêu chuẩn cho mình, phải Amelia?


      “Hãy cứ nghe xem thế nào”, với ta.


      “Khi với tôi hãy giả vờ tôi là ? Và tôi tìm thấy chỗ mà đứng để nhìn ta?”


      “Tiếp tục .”


      “Tôi nghĩ…” Trong khoảnh khắc có vẻ như lệ sắp tràn lên đôi mắt đẹp của , nhận thấy chúng có sắc xanh óng ánh. Ngay lập tức kiểm soát được mình. “Tôi băn khoăn biết ta có nuôi chó . Colfax ấy mà.”


      “Chó? Tại sao lại băn khoăn về điều đó?”


      ngừng lại lát rồi : “Bạn tôi… vài năm trước. Chúng tôi có chuyện mua con chó khi, đúng hơn là nếu, chúng tôi dọn đến ở với nhau. Tôi luôn muốn có con. con chó giống collie. buồn cười. Đó là giống chó mà bạn tôi cũng rất thích. Thậm chí trước cả khi chúng tôi biết nhau.”


      con chó.” Tim Rhyme nổ bục như con ruồi lao đầu vào cửa kính mùa hè. “Và?”


      “Tôi nghĩ rằng người phụ nữ đó…”


      “T.J.” Rhyme .


      “T.J.” Sachs tiếp tục. “Tôi chỉ nghĩ buồn nếu ta có con vật cưng nào mà thể về nhà và chơi đùa với chúng nữa. Tôi hề nghĩ về chồng hay bạn trai ta. Tôi chỉ nghĩ về bọn thú cưng.”


      “Nhưng vì sao lại là ý nghĩ đó? Chó, những con vật cưng? Tại sao?”


      “Tôi biết tại sao.”


      Im lặng.


      Cuối cùng : “Tôi hình dung tôi nhìn ta bị trói ở đó…Và tôi nghĩ cách đứng tránh sang bên để nhìn ta. Đứng giữa những cái thùng dầu. Giống như đứng nhìn con vật ở bãi chăn được rào kín.”


      Rhyme nhìn những sơ đồ sóng hình sin màn hình máy tính GC-MS.


      Thú vật…


      Nitrogen…


      “Phân!” Rhyme kêu lên.


      Mọi người quay lại nhìn .


      “Đấy là phân.” Nhìn chằm chằm vào màn hình.


      “Đúng, tất nhiên rồi!” Cooper vò đầu . “Toàn nitrogen. Đấy là phân bón. Và là loại phân bón cũ.”


      Thình lình Rhyme có cảm giác về trong những khoảnh khắc mà trước đây gặp. ý nghĩ vừa lao vào đầu . Hình ảnh của những con cừu.


      Sellitto hỏi: “ ổn chứ?”


      con cừu, lang thang trong phố.


      Giống như đứng nhìn con vật…


      “Thom”, Sellitto , “ ấy ổn chứ?”


      … ở bãi chăn được rào kín.


      Rhyme có thể hình dung ra con vật vô tư. quả chuông treo cổ, hàng chục con khác theo sau.


      “Lincoln”, Thom cách gấp gáp, “ đổ mồ hôi đấy, ổn chứ?”


      “Suỵt…”, nhà hình học ra lệnh.


      cảm thấy cơn ngứa lan xuống mặt. Cảm hứng và trụy tim; triệu chứng giống nhau cách kỳ lạ. Nghĩ, nghĩ


      Xương, cột trụ gỗ và phân bón…


      “Rồi!” thầm. Con cừu Judas(85), dẫn đàn của mình đến chỗ chết.


      “Trại chăn nuôi”, Rhyme với cả phòng. “ ta bị nhốt ở trong trại chăn nuôi.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI BA




      “Nhưng ở Manhattan có cái trại chăn nuôi nào cả.”


      “Trước đây, Lon ạ”, Rhyme nhắc ta. “Những thứ cổ xưa làm phấn khích. Làm cho máu chảy. Ta phải nghĩ đến những trại chăn nuôi cũ. Càng cũ càng tốt.”


      Khi nghiên cứu để viết cuốn sách của mình, Rhyme đọc về vụ giết người mà tên tội phạm quý tộc Owney Madden bị kết tội: bắn chết đối thủ bán rượu lậu ngay bên ngoài nhà tại Hell’s Kitchen. Madden bao giờ bị kết án – dù sao nữa cũng phải vì vụ án mạng ngoại lệ. đứng lên, bằng giọng đầy nhịp điệu, giảng bài cho phòng xử án về phản bội. “Toàn bộ vụ này là do đối thủ của tôi vu cáo, những người dối về tôi. Thưa quý tòa, các ngài có biết điều đó khiến tôi nhớ đến cái gì ? Trong khu tôi sống, ở Hell’s Kitchen, những đàn cừu được dẫn qua phố đến lò mổ Phố Bốn mươi mốt. Ngài có biết ai dẫn dắt chúng ? phải chó, phải người. Mà là trong số chúng. con cừu Judas với cái chuông đeo quanh cổ. Nó dẫn đàn cừu con đường đó. Nhưng sau đó nó dừng lại và những con còn lại vào trong. Tôi là con cừu vô tội và những nhân chứng chống lại tôi, chúng là những con cừu Judas.”


      Rhyme tiếp tục. “Banks, gọi điện cho thư viện. Họ chắc nhà sử học.”


      Viên thám tử trẻ tuổi mở điện thoại di động và gọi. Giọng ta hạ thấp dần khi . Sau khi điều mình cần, ta dừng lại và nhìn vào tấm bản đồ thành phố.


      “Gì vậy?” Rhyme hỏi.


      “Họ tìm ai đó. Họ có…”, ta cúi đầu khi có người trả lời và lặp lại cầu của mình.




      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác



      - Người da trắng,


      - Thân hình bé,


      - Quần áo đen,


      - Găng tay cũ, da cừu đỏ,


      - Nước hoa dùng sau ki cạo râu: dùng để che dấu mùi khác


      - Mặt nạ trượt tuyết? Màu xanh hải quân?


      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Yellow Cab.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32


      - Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường,


      - “Cổ xưa” hấp dẫn





      ta bắt đầu gật đầu và với cả phòng: “Tôi có hai chỗ… phải, ba.”


      “Ai đấy?” Rhyme cục cằn hỏi. “Cậu chuyện với ai đấy?”


      “Người phụ trách việc lưu trữ của thành phố… Ông ta trước đây có khoảng ba trại chăn nuôi chính tại Manhattan. ở West Side, quanh Phố sáu mươi… ở Harlem, trong những năm 1930 hoặc 1940. Và ở Lower East Side trong thời kỳ Cách mạng.”


      “Ta cần địa chỉ, Banks. Địa chỉ!”


      Lắng nghe.


      “Ông ta chắc chắn.”


      “Sao ông ta lại tìm được. với ông ta tìm .”


      Banks trả lời: “Ông ta nghe thấy ngài rồi, thưa ngài… Ông ta : Ở đâu? Tìm chúng ở đâu? Khi đó họ vẫn chưa có Những Trang Vàng. Ông ta nhìn vào cổ xưa…”


      “Bản đồ dân số của khu vực thương mại có tên phố”, Rhyme càu nhàu. “ ràng quá, cứ để ông ta đoán.”


      “Đúng là ông ta làm thế. Ông ta đoán.”


      Rhyme : “Ta cần ông ta đoán nhanh lên.”


      Banks lắng nghe, gật đầu.


      “Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?”


      “Quanh Phố Sáu mươi và Mười.” Viên sĩ quan trẻ tuổi . khắc sau: “Lexington gần sông Harlem…và sau đó…trang trại Delancey ở đâu? Có phải gần phố Delancey ?...”


      “Tất nhiên rồi. Từ Tiểu Ý con đường thẳng xuống sông Đông. Rất nhiều khu vực. Hàng dặm. Ông ta có thể thu hẹp lại chút, được ?”


      “Quanh Phố Catherine. Lafayette…Walker. Ông ta chắc.”


      “Gần tòa án”, Sellitto và bảo Banks. “Gọi đội của Haumann. Chia họ ra. Khám xét tất cả ba khu vực.”


      Viên thám tử trẻ tuổi gọi điện, sau đó ngẩng đầu lên. “Giờ sao?”


      “Chúng ta đợi”, Rhyme .


      Sellitto càu nhàu: “Tôi ghét phải đợi.”


      Sachs hỏi Rhyme: “Tôi dùng điện thoại của , được ?”


      Rhyme hất đầu về phía cái bàn đầu giường.


      ngần ngừ. “ có cái nào ở ngoài kia ?” chỉ ra phía hàng lang.


      Rhyme gật đầu.


      Với dáng hoàn hảo, bước ra khỏi phòng ngủ. có thể nhìn thấy trong tấm gương ở hành lang, khoan thai gọi cuộc điện thoại quý giá. Ai vậy? băn khoăn. Bạn trai, chồng? Trung tâm chăm sóc ban ngày? Vì sao lại chần chừ trước khi nhắc đến “người bạn” của , lúc với họ về con chó giống collie? Chắc là có câu chuyện đằng sau, Rhyme đoán thế.


      Người gọi có ở đó. thấy mắt biến thành những viên cuội màu xanh thẫm khi thấy ai trả lời. ngẩng đầu lên và bắt gặp Rhyme nhìn qua tấm gương bụi bặm. quay lưng lại. Điện thoại trượt xuống cái giá đỡ và quay lại phòng .


      Yên lặng trong năm phút. Rhyme cơ chế mà ai cũng có để làm giảm tình trạng căng thẳng. người tính khí thất thường khi còn lại được, điều đó làm cho mọi sĩ quan trong IRD phát khùng. Lúc này, mắt hăng hái quét tấm bản đồ Randel khi Sachs đưa tay lên mũ tuần tra để gãi đầu.


      Mel Cooper vô hình sắp xếp vật chứng, bình tĩnh như bác sĩ phẫu thuật.


      Tất cả, trừ người trong phòng, đều nhảy bật lên khi nghe điện thoại của Sellitto reo. ta nghe, mặt mũi nhăn nhó.


      “Được rồi!” trong những sĩ quan của Haumann ở Phố Mười và Sáu mươi. Họ nghe thấy tiếng thét của phụ nữ ở đâu đó quanh đấy. Họ biết chắc chắn là ở đâu. Họ tìm kiếm từng nhà.”


      giày chạy của vào”, Rhyme ra lệnh cho Sachs.


      thấy mặt xịu xuống. nhìn điện thoại của Rhyme, như thể nó có thể đổ chuông với cuộc gọi ân xá từ văn phòng Thị trưởng vào bất kỳ lúc nào. Sau đó nhìn Sellitto, lúc này cúi người bản đồ chiến thuật ESU của West Side.


      “Amelia”, Rhyme , “ta mất người. Thế là quá tệ. Nhưng chúng ta phải mất thêm ai nữa.”


      “Nếu nhìn thấy ấy”, thầm. “Nếu mà nhìn thấy làm gì với ấy…”


      “Ồ, nhưng tôi có thấy, Amelia”, đều đều, ánh mắt nghiêm khắc và thách thức. “Tôi thấy điều gì xảy đến với T.J. Tôi nhìn thấy điều gì xảy đến với những cơ thể bị để cả tháng trong cốp xe nóng nực. Tôi nhìn thấy điều mà nửa cân C4 làm với tay, chân và mặt. Tôi khám nghiệm đám cháy tại Happy Land. Hơn tám mươi người bị bỏng đến chết. Chúng tôi chụp ảnh Polaroid mặt nạn nhân hoặc những gì còn lại của họ để gia đình họ nhận dạng – vì chẳng có ai sau khi qua những hàng xác chết đó mà bị điên. Ngoại trừ chúng tôi. Chúng tôi có lựa chọn nào khác.” hít vào, chống lại cơn đau tràn qua cổ. “Thấy , nếu muốn tồn tại được trong cái ngành này, Amelia… Nếu muốn tồn tại trong cuộc đời, phải học được cách bỏ qua người chết.”


      Từng người trong phòng dừng công việc mình làm và nhìn về phía họ.


      lời xã giao từ Amelia Sachs. nụ cười lịch . Trong khắc, thử tạo ra cái nhìn trở nên bí . Nhưng nó chỉ trong suốt như thủy tinh. Cơn giận của tương xứng với những nhận xét của ta – chọc giận lại ; khuôn mặt dài của gập lại vì sức mạnh đen tối. hất mớ tóc đỏ lười biếng sang bên và nhặt cái tai nghe bàn. dừng lại phía cầu thang và nhìn ta với cái nhìn khinh miệt, nhắc nhở Rhyme rằng, chẳng có gì lạnh lùng hơn nụ cười lạnh lùng của người phụ nữ đẹp.


      Và vì lý do nào đó, thấy mình nghĩ: Chào mừng quay trở lại, Amelia.


      có gì vậy? có bánh kẹo, câu chuyện, có những bức hình?”


      Scruff ngồi trong quán rượu phía East Side, Manhattan, Đại lộ Ba – với thành phố nó giống như khu mua bán ở vùng ngoại thành. Đó là quán rượu bẩn thỉu, sắp sửa tràn ngập đám dân công sở trẻ nửa mùa. Nhưng lúc này nó là nơi trú ngụ của những người dân địa phương ăn mặc tồi tàn, ăn bữa tối với món cá đáng ngờ và món sa lát héo rũ.


      người đàn ông gầy gò, có làn da giống như gỗ mun lốm đốm mặc áo sơ mi rất trắng và bộ vét màu xanh lá. ta nghiêng lại gần Scruff hơn. “ có tin, có mã bí mật, có thư ? có phân ?”


      “Này. Ha”


      cười khi : ha”, Fred Dellray , thực ra là D’Ellret vài thế hệ trước. ta cao sáu feet bốn, hiếm khi cười ngay cả với chuyện đùa Jabberwocky và là nhân viên sáng giá trong văn phòng FBI ở Manhattan.


      đâu. Tôi cười.”


      “Thế có gì?” Dellray bóp chặt đầu mẩu điếu thuốc ở bên tai trái.


      “Mất thời gian đấy ông bạn”, Scruff, người đàn ông thấp bé, vừa gãi mái tóc nhờn của mình vừa .


      “Nhưng có thời gian đâu. Thời gian rất quý báu, thời gian trôi , và thời gian là thứ mà . . Có.”


      Dellray cho bàn tay to lớn của mình xuống dưới gầm của cái bàn có hai ly cà phê bên , bóp đùi Scruff mạnh đến nỗi phải rên rỉ.


      Sáu tháng trước, chàng trắng trẻo, thó đó bị tóm khi cố bán mấy khẩu M16 tự động cho mấy tên điên cánh hữu, mà họ – bất kể có phải như thế hay – lại là nhân viên mật của BATF.


      Tất nhiên nhân viên an ninh liên bang muốn Scruff, của nợ thó tóc nhờn. Họ muốn bắt những kẻ cung cấp súng cho ta. ATF(86) lội ngược dòng khá xa nhưng tìm được gì đáng giá, vì thế họ giao ta cho Dellray, nhân viên quản lý đặc tình Numero Uno số của Cục, để xem ta có đem lại lợi ích gì ? Nhưng cho tới lúc này, ta vẫn chỉ tỏ ra là gã khó chịu, thứ chuột bọ gầy nhẳng, mà ràng chẳng có tin tức, mã bí mật, thậm chí l phân cho nhân viên liên bang.


      “Cách duy nhất có thể thoát án, mọi bản án, là phải cung cấp cho chúng tôi thứ gì đó vừa đẹp lại vừa dính. Chúng ta đồng ý vụ này chứ?”


      “Lúc này tôi chẳng có quái gì cho các , đó là điều tôi . Ngay lúc này.”


      đúng, đúng. Mày có gì đó rồi. Tao có thể nhìn thấy điều đó mặt mày. Đúng là mày biết điều gì đó, thằng hâm.”


      Chiếc xe bus đỗ xịch bên ngoài, tiếng phanh hơi rin rít. đám người Pakistan trèo ra khỏi cửa.


      bạn, cái hội nghị khốn kiếp của Liên Hiệp Quốc”, Scruff lẩm bẩm, “họ đến đây làm chó gì thế? Thành phố này quá đông rồi. Cái lũ ngoại quốc ấy.”


      “Hội nghị khốn kiếp. Đồ chết đói, đồ đê tiện”, Dellray cắn cảu. “Mày có gì phản đối hòa bình thế giới thế?”


      “Chẳng có gì.”


      “Thế cho tao điều gì đó hay ho .”


      “Tao chẳng biết điều gì hay ho cả.”


      “Mày chuyện với ai đây?” Dellray độc ác nhăn mặt. “Tao là loài thằn lằn. Tao có thể cười vui vẻ, nhưng tao cũng có thể chơi trò bóp cẳng đấy.”


      “Đừng bạn, đừng”, Scruff ré lên. “Mẹ kiếp, đau quá. Thôi ngay .”


      Nhân viên quầy bar nhìn họ và cú liếc ngắn của Dellray buộc ta quay lại công việc đánh bóng cốc chén của mình.


      “Được rồi, có lẽ là tao biết việc. Nhưng tao cần giúp đỡ. Tao cần…”


      “Bóp thêm tí nữa phải ?”


      “Mẹ mày. Con mẹ mày.”


      “Ồ, đó là cuộc chuyện rất thông minh”, Dellray đáp trả. “Mày như bọn trong mấy bộ phim tệ hại, mày biết đấy, người tốt và kẻ xấu cuối cùng cũng gặp nhau. Như Stallone gặp kẻ khác. Và tất cả mọi điều chúng có thể với nhau là ‘con mẹ mày’, ‘, con mẹ mày’, ‘, con mẹ mày cơ’. Bây giờ mày tao nghe điều gì đó hữu ích. Đồng ý ?”


      Và nhìn chằm chằm Scruff cho đến khi ta đầu hàng.


      “Ok, đây. Tôi tin đấy, bạn. Tôi…”


      “Rồi. Rồi. Rồi. Mày có gì?”


      “Tôi vừa chuyện với Jackie. biết Jackie chứ?”


      “Tao biết Jackie.”


      “Và với tôi.”


      gì với mày?”


      với tôi là nếu tôi có đến đó, đến hoặc đâu đó trong tuần này, đừng có bằng máy bay.”


      “Vậy cái gì đến hoặc ? Lại thêm 16s nữa à?”


      “Tôi với rồi, bạn. Tôi chẳng có gì cả. Tôi chỉ với điều Jackie…”


      với mày.”


      “Đúng rồi, bạn. Rất chung chung, biết chứ?” Scruff mở to mắt nhìn Dellray. “Tôi có cần dối ?”


      “Đừng có bao giờ đánh mất phẩm giá”, viên đặc vụ long trọng cảnh cáo, chỉ ngón tay cứng như đá vào ngực Scruff. “Bây giờ, có gì ở sân bay? Sân bay nào? Kennedy? La Guardia?”


      “Tôi biết. Tất cả những gì tôi biết là có tin đồn có ai đó ở sân bay. Ai đó rất tệ.”


      “Cho tao cái tên.”


      có tên.”


      “Jackie ở đâu?”


      biết. Nam Phi. Tôi nghĩ thế. Có thể ở Liberia.”


      “Tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì?” Dellray bóp điếu thuốc của ta lần nữa.


      “Tôi đoán có khả năng sắp có điều gì đó xảy ra, biết đấy, như kiểu lại có hàng về.”


      “Mày đoán.” Scruff rúm người, nhưng Dellray có ý định tiếp tục tra tấn chàng thó này thêm nữa. ta nghe thấy chuông báo động: Jackie – tên buôn vũ khí mà cả Cục biết đến khoảng năm – có thể nghe được điều đó từ trong những khách hàng của ta, những người lính ở châu Phi và Trung Âu, những đơn vị dân quân ở Mỹ, về tên khủng bố tấn công sân bay. Thường Dellray nghĩ về điều đó, ngoại trừ vụ bắt cóc ở sân bay JFK đêm qua. ta chú ý lắm đến điều này – đó là việc của NYPD. Nhưng lúc này lại nghĩ đến vụ nổ lựu đạn thành công tại cuộc họp của UNESCO ở London hôm trước.


      chàng của mày thêm gì nữa à?”


      , bạn ạ. còn gì nữa. Mà này, tôi đói. Chúng ta có thể ăn gì chứ?”


      ”Nhớ tao gì với mày về phẩm giá ? Đừng rên rỉ nữa”. Dellray đứng dậy. “Tao phải gọi điện.”


      Chiếc RRV phanh kít Phố Sáu mươi.


      Sachs nhặt chiếc vali khám nghiệm trường, cây đèn PoliLight và cây đèn pin mười hai volt to tướng.


      “Các đến đúng lúc chứ?” Sachs hỏi binh sĩ ESU. “ ấy có sao ?”


      Đầu tiên ai trả lời. Sau đó nghe thấy tiếng thét.


      “Có chuyện gì thế?” lẩm bẩm, chạy đứt hơi về phía cánh cửa lớn vừa bị ESU phá vỡ. Cảnh cửa mở ra con đường rộng dẫn xuống tòa nhà gạch bị bỏ hoang. “ ấy vẫn còn ở đó?”


      “Đúng thế.”


      “Tại sao?” Amelia Sachs bị sốc, hỏi lại.


      “Họ bảo chúng tôi được vào.”


      được vào? ấy gào thét kìa. Các nghe thấy à?”


      Viên cảnh sát ESU : “Họ bảo chúng tôi đợi .”


      Họ. , phải là họ. Lincoln Rhyme. Thằng khốn.


      “Chúng tôi chỉ phải tìm ta thôi”, viên sĩ quan . “ là người phải vào trong.”


      bật tai nghe. “Rhyme!” quát. “ ở đâu?”


      trả lời…Đồ hèn nhát.


      Bỏ qua người chết… Đồ chó. Giận dữ như lúc vừa chạy xuống cầu thang nhà ta mấy phút trước, nhưng lúc này cơn giận dữ tăng gấp đôi.


      Sachs liếc nhìn ra sau và nhận thấy nhân viên y tế đứng cạnh chiếc xe EMS.


      kia, với tôi.”


      ta bước tới bước và nhìn thấy rút súng. ta dừng lại.


      “Ấy, từ từ ”, nhân viên y tế . “Tôi cho tới khi khu này được an toàn.”


      ngay! thôi!” quay ngoắt lại, chắc là ta nhìn thấy nhiều nòng súng hơn ta muốn. ta nhăn mặt và vội vã chạy theo .


      Từ phía dưới lòng đất họ nghe tiếng kêu: “Aiiiii! Hilfe!” Sau đó là tiếng thổn thức.


      Lạy Chúa. Sachs bắt đầu chạy về phía cánh cửa tối tăm, cao mười hai feet, bên trong tối như hũ nút.


      nghe thấy giọng ta trong đầu mình: ta, Amelia. nghĩ gì vậy?


      Biến , thầm .


      Nhưng Lincoln Rhyme biến mất.


      vừa là tên giết người vừa là kẻ bắt cóc, Amelia. đâu, chạm vào cái gì?


      Quên ! Tôi đến để cứu ta. Mặc kệ trường vụ án…


      “Mein Gott! Nàm ơn . Có ai ? Nàm ơn giúp tôi!”


      thôi, Sachs. Chạy nhanh! có ở đây. Mày an toàn rồi. Cứu ta , nào…


      tăng nhịp bước, dây lưng khí tài của kêu lanh canh theo từng bước chạy. Khi chạy được khoảng hai mươi feet trong đường hầm, dừng lại. Tự tranh luận. Bên nào thắng cũng thích.


      “Ôi, mẹ kiếp”, quát lên. đặt cái vali xuống rồi mở ra. với nhân viên y tế: “Này, tên là gì?”


      Chàng thanh niên căng thẳng trả lời: “Tad Walsh. Ý tôi là, điều gì xảy ra thế?” ta nhìn vào bóng tối.


      “Ôi… Bitte, helfen Sie mir!”


      “Yểm trợ cho tôi”, Sachs thầm .


      “Yểm trợ cho ? Đợi chút, tôi làm đâu.”


      “Cầm lấy súng , được ?”


      “Tôi yểm trợ cho khỏi cái gì mới được chứ?”


      Nhét khẩu tự động vào tay ta, quỳ xuống. “Chốt an toàn mở rồi đấy, cẩn thận.”


      nhặt hai đoạn băng cao su, bọc giày. Lấy lại súng, bảo ta làm theo.


      Tay run rẩy, ta đeo băng cao su vào.


      “Tôi nghĩ…”


      “Im lặng. Có thể vẫn còn ở đây.”


      “Đợi chút, thưa ”, nhân viên y tế thầm . “Cái này có trong phần công việc của tôi.”


      “Của tôi cũng chẳng có. Cầm lấy đèn này.” đưa ch ta cái đèn pin.


      “Nhưng mà nếu ở đây, có thể bắn vào chỗ sáng. Ý tôi là, nếu là tôi, tôi bắn như vậy.”


      “Thế nâng cao nó lên. vai tôi đây này. Tôi trước. Và nếu có ai đó dính đạn, người ấy là tôi.”


      “Lúc ấy tôi làm gì?” Tad hỏi như cậu bé.


      “Tôi chạy như điên”, Sachs lầm bầm. “Giờ theo tôi. Và giữ đèn cho chắc vào.”


      Tay trái kéo lê cái va li CS, súng giương trước mặt, nhìn xuống nền đất khi bước vào trong bóng tối. lại nhìn thấy vết chổi quen thuộc, giống như tại trường lúc trước.


      “Bitte nicht, bitte bicht, bitte…”, tiếng thét ngắn, sau đó im lặng.


      “Có chuyện quái quỷ gì ở đây thế?” Tad thầm .


      “Suỵt”, Sachs ngăn lại.


      Họ bước từ từ. Sachs thổi vào các ngón tay nắm chặt khẩu Glock – để làm khô mồ hôi – và thận trọng ngắm nhìn những mục tiêu ngẫu nhiên là những cây cột gỗ, bóng tối và bỏ qua những thứ máy móc bị cây đèn pin ổn định trong tay Tad chiếu sáng.


      tìm thấy dấu chân nào.


      Tất nhiên là rồi. thông minh.


      Nhưng ta cũng thông minh, nghe thấy Lincoln trong đầu. bảo ta câm .


      Giờ chậm hơn.


      Năm feet nữa. Dừng lại. Rồi chậm chạp tiến lên phía trước. Cố để ý đến tiếng rên la của . lại cảm thấy nó – cái cảm giác bị theo dõi, những móng vuốt trơn trượt của cái nhìn sắt đá theo dõi mình. Áo giáp thể chống lại được đạn vỏ kim loại. nửa bọn người xấu dùng đạn Black Talons – vì thế phát súng vào tay hay vào chân cũng giết chết ngon lành như phát vào ngực. Mà còn đau đớn hơn rất nhiều. có lần Nick với rằng, trong những viên đạn như vậy có thể xé tung cơ thể; trong những đồng của chết tay khi bị hai viên đạn ác hiểm này bắn trúng.


      Phía và đằng sau…


      Nghĩ đến , nhớ lại đêm, nằm dựa vào lồng ngực vững chãi của Nick, nhìn ngắm khuôn mặt Italia đẹp trai của gối, khi kể cho nghe về cuộc tấn công giải cứu con tin – “Nếu ai đó bên trong muốn hạ khi vào, làm điều đó từ phía và đằng sau…”


      “Mẹ kiếp.” khom người quỳ xuống, quay người lại, chĩa khẩu Glock lên trần, sẵn sàng nhả hết băng đạn.


      “Gì thế?” Tad rúm người lại thầm . “Gì thế?”


      Cảm giác trống rỗng tóm lấy .


      có gì.” Hít thở sâu, đứng dậy.


      “Đừng làm thế.”


      Có tiếng ríu rít đằng trước họ.


      “Lạy Chúa”, giọng the thé của Tad lại vang lên. “Tôi ghét chuyện này.”


      Thằng cha này tệ , nghĩ. Mình biết thế vì cứ ra mọi điều mà chính mình cũng muốn ra.


      ngừng lại. “Chiếu đèn vào đây. Phía trước.”


      “Ôi, lạy Chúa tôi…”


      Sachs ngay lập tức hiểu được đám lông mà tìm thấy tại trường lần trước là gì. nhớ đến cái nhìn mà Sellitto và Rhyme trao đổi với nhau. ta biết điều đối tượng chuẩn bị. ta biết điều này xảy ra với ta – nhưng ta vẫn bắt đội ESU phải đợi. lại càng ghét ta hơn.


      Trước mặt họ là tròn trĩnh nằm vạ vật sàn nhà, giữa vũng máu. ta nhìn về phía ánh sáng bằng ánh mắt đờ đẫn rồi ngất . Vừa lúc đó, con chuột đen khổng lồ – to như con mèo nhà – bò lên bụng ta rồi tiếp tục hướng về phía cổ họng. Nó nhe những chiếc răng bẩn thỉu, chuẩn bị cắn vào cằm .


      Sachs nhàng nâng khẩu Glock cồng kềnh lên, bàn tay trái đỡ báng súng. ngắm cẩn thận.


      Bắn súng cũng giống như hít thở.


      Hít vào, thở ra. Bóp cò.


      Đó là lần đầu tiên bắn kể từ lúc bắt đầu làm. Bốn phát. Con chuột khổng lồ đứng ngực nổ tung. bắn con khác ở phía sau sàn và con nữa, trong cơn hoảng loạn nó lao về phía Sachs và chàng nhân viên y tế. Những con khác lặng lẽ biến mất, như nước thấm xuống cát.


      “Lạy Chúa”, chàng nhân viên y tế . “ có thể bắn cả ta đấy.”


      “Cách ba mươi feet ư?” Sachs . “Khó lắm.”


      Máy bộ đàm lên tiếng và Haumann hỏi có phải họ bị bắn hay .


      ”, Sachs trả lời. “Chỉ bắn vài con chuột thôi.”


      “Nghe .”


      lấy chiếc đèn pin từ chàng nhân viên y tế, chiếu nó xuống thấp và tiến lên phía trước.


      “Ổn rồi”, Sachs . “Em ổn thôi.”


      mở mắt, quay đầu sang hai bên.


      “Bitte, bitte…”


      Trông ta rất nhợt nhạt. Đôi mắt xanh của ta dán vào mắt Sachs, cứ như ta sợ phải nhìn ra chỗ khác. “Bitte, bitte, nàm ơn ...”


      ta điên dại khóc lóc rồi bắt đầu sụt sùi và run rẩy vì hoảng sợ khi chàng nhân viên y tế băng những vết thương cho ta.


      Sachs đỡ mái đầu vàng óng, đầy máu của , nựng nịu: “Em ổn thôi, em bé, em ổn thôi…”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :