KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Vì đây là ngôi nhà mà, Mel.”


      “Tôi giả định rằng sống trong cái phòng thí nghiệm. Liệu điều đó có quá ngạc nhiên ?”


      Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập. Giống như những thiết bị từng ở cùng trong hơn mười lăm năm. cái kính hiển vi tiêu chuẩn và cái dùng ánh sáng phân cực. Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết bị thí nghiệm của Thầy Phù thủy. Trong thoáng, ngôn từ trở lại với Rhyme, những ngôn từ từng là phần trong vốn từ vựng hằng ngày của . Những cái ống lấy máu chân EDTA(46), acetic acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, tượng màu tím Ruhemann…


      Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng trước kia của . Làm thế nào mà có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây? Ví dụ, tôi muốn có ít gian ở đây.”


      “Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme nhìn thấy nhiều năm qua.


      Sellitto nhìn bản báo cáo trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”


      Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn số . Số nào cũng được.”


      Banks đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”


      “Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.”


      Sellitto viết con số này vào bản báo cáo.


      “Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”


      Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía .


      “Tôi phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”


      “Sĩ quan Sachs…”, ngay lập tức quên mất . “ là sĩ quan đầu tiên đến trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường ray.”


      “Đúng thế. Tôi nhận cuộc gọi.” với Thom.


      “Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc , cố gắng kiểm soát cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta với qua người khác, qua những người khỏe mạnh, tức giận.


      xoay đầu lại rất nhanh và biết bài học được tiếp thu. “Vâng, thưa ngài”, . Trong giọng mềm mại, nhưng trong mắt là băng giá.


      “Tôi giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”


      “Liệu có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được ?”


      “Thế nghĩa là sao?” hỏi.


      “Lý do đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi suy nghĩ. Nếu muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi viết. Có điều là tôi bị muộn cho nhiệm vụ mới và tôi có cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.”


      “Xin lỗi?” Rhyme hỏi.


      “Vấn đề là tôi hề có kinh nghiệm thực tế về trường vụ án. Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”


      gì thế?”


      “Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười . Chính vì lỗi của tôi mà ngài thượng nghị sĩ kịp phát biểu ở New Jersey và vài quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc đến kịp cuộc họp từ sân bay Newark.”


      Rhyme chặc lưỡi. “ có biết tôi là ai ?”


      “À. Tôi cũng có nghe về . Tôi nghĩ là …”


      chết?” Rhyme hỏi.


      , ý tôi phải như vậy.” Dù ý đúng là như vậy. nhanh chóng tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của trong học viện. Nhưng chúng tôi nghe nhiều về . Ý tôi là về chuyện cá nhân…” nhìn lên bức tường và căng thẳng : “Theo suy nghĩ của tôi, như sĩ quan đầu tiên đến trường, tốt nhất là phải chặn đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ trường. Và đó chính là điều tôi làm, thưa ngài…”


      “Gọi tôi là Lincoln. Và là…”


      “Tôi…”


      “Tên ?”


      “Amelia.”


      “Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?”


      . cái họ.”


      “Amelia, tôi muốn lời xin lỗi. đúng và Vince Peretti sai.”


      Sellitto nhúc nhích khi thấy vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme quan tâm. Cuối cùng trong số vài người thế giới có thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. tiếp tục: “Peretti khám nghiệm trường như thể Thị trưởng nhòm qua vai ta, và đó là cách thức số để làm hỏng việc. ta có quá nhiều người, ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao thông chuyển động; ta bao giờ được giải phóng trường sớm như ta làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm thấy hóa đơn thẻ tín dụng với cái tên ở đó. Hay là dấu vân tay đẹp.”


      “Có thể”, Sellitto tế nhị . “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.” Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt ta quay về phía Sachs, Cooper và Jerry Banks trẻ tuổi.


      Rhyme phì ra nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, bắt gặp nhìn chân và cơ thể dưới tấm chăn màu vàng mơ, như Jerry Banks sáng nay. với : “Tôi gọi đến đây để xử lý trường tiếp theo cho chúng tôi.”


      “Cái gì?” Lần này phải qua người phiên dịch.


      “Làm việc cho chúng tôi”, ngắn gọn. “ trường vụ án tiếp theo.”


      “Nhưng…” cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội Tuần tra. Tôi chưa bao giờ làm công việc xử lý trường.”


      “Đây là vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto với . Nó thực là kỳ quặc. Đúng , Lon? Đúng, nếu đó là vụ cổ điển, chúng tôi cần . Nhưng trong vụ này chúng tôi cần cặp mắt mới.”


      liếc nhìn Sellitto, ta chẳng gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”


      “Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn . “ nhé?”


      gật đầu.


      “Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu đường ray để bảo vệ trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”


      “Cảm ơn vì cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…”


      Rhyme ngắn gọn. “Lon.”


      “Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “ có lựa chọn nào ở đây. được phân công vào vụ này để trợ giúp tại trường vụ án.”


      “Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu lực cách đây giờ.”


      “Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.


      ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân .


      “Tôi bị viêm khớp.”


      “Đúng thế à?” Rhyme hỏi.


      “Viêm khớp mãn tính.”


      “Tôi rất tiếc.”


      nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm phải nằm ở nhà. Tôi định làm việc đó.”


      “Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme . “Giờ ta hãy nghiên cứu số bằng chứng.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      SÁU




      “Con ốc.”


      Nhớ lại nguyên tắc nghiên cứu trường vụ án cổ điển: Phân tích bằng chứng bất thường nhất đầu tiên.


      Thom liên tục xoay xoay cái túi nhựa tay khi Rhyme nghiên cứu cái đinh vít, nửa gì nửa . Cùn. Mòn.


      chắc về dấu vân tay chứ? dùng, chất thử vi hạt chưa? Đó là loại tốt nhất cho các vật chứng bị tiếp xúc với các nguyên tố.”


      “Đúng”, Mel Cooper khẳng định.


      “Thom”, Rhyme hạ lệnh, “bỏ cái tóc này khỏi mắt tôi! Trả nó lại chỗ cũ. Tôi với cậu chải lại nó sáng nay rồi”.


      Người trợ lý thở dài và chải mớ tóc đen rối bù. “Cẩn thận”, ta thầm oán giận với ông chủ của mình và Rhyme lại hất đầu cách thô bạo, làm cho tóc càng rối hơn. Amelia Sachs sưng sỉa ngồi ở góc phòng. Chân đặt dưới ghế trong tư thế xuất phát của vận động viên chạy nước rút, và chắc chắn là ta trông như thể chờ tiếng súng xuất phát.


      Rhyme quay lại với con ốc.


      Khi còn lãnh đạo IRD, Rhyme bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu. Ví dụ như chỉ mục sơn xe hơi liên bang hay hồ sơ thuốc lá BATF(47). thiết lập hồ sơ tiêu chuẩn đạn, sợi, vải, lốp xe, giày, công cụ, dầu xe, dầu hộp số. dành hàng trăm giờ biên soạn các danh mục, đặt chỉ mục và tham chiếu chéo.


      Dù vậy, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền mê đắm của Rhyme, IRD cũng chưa bao giờ lập catalog cho dụng cụ. băn khoăn tại sao lại làm như vậy, tự giận mình vì dành thời gian để làm, và còn tức giận Peretti hơn nữa vì ta cũng nghĩ tới điều đó.


      “Ta phải gọi cho tất cả các nhà sản xuất và buôn bán ốc vít khu Đông Bắc. , cả nước. Hỏi xem họ có làm loại ốc nào như thế này và họ bán nó cho ai. Hãy gửi fax các bản miêu tả và ảnh của con ốc cho nhân viên điều phối của chúng ta ở Phòng Truyền thông.”


      “Quỷ , có thể phải là hàng triệu”, Banks . “Từng cửa hàng Ace Hardware và siêu thị Sears toàn quốc.”


      “Tôi nghĩ vậy”, Rhyme trả lời. “Đó phải là dấu tích có ý nghĩa. để nó lại nếu nó vô dụng. Nguồn cung cấp những con ốc này chắc cũng có hạn thôi. Tôi cá với đấy.”


      Sellitto gọi điện và ngẩng lên sau vài phút. “Tôi có điện thoại viên cho rồi đây, Lincoln. Bốn người. Chúng tôi lấy danh sách các nhà sản xuất ở đâu?”


      “Cho nhân viên tuần tra đến Phố Bốn mươi hai.” Rhyme trả lời. Thư viện công cộng. Ở đó họ có danh bạ điện thoại của các công ty. Trước khi lấy được nó, hãy để điện thoại viên của chúng ta dùng Những Trang Vàng Kinh Doanh.”


      Sellitto nhắc lại vào điện thoại.


      Rhyme nhìn đồng hồ. giờ ba mươi.


      “Còn bây giờ là sợi abestos.”


      Trong khoảnh khắc, từ này rực sáng trong đầu . cảm thấy choáng váng – nơi mà thể cảm thấy choáng váng được. Abestos có gì quen thuộc nhỉ? Điều gì đó mà vừa mới đọc hay nghe được – mới đây thôi, mặc dù Lincoln Rhyme còn tin tưởng vào cảm nhận thời gian của mình nữa. Khi ta nằm đông cứng chỗ từ tháng này qua tháng khác, thời gian trôi chậm chạp gần như chết. có thể nghĩ tới số thứ mà đọc được cách đây hai năm.


      “Ta biết gì về abestos?” đăm chiêu. ai trả lời câu hỏi này, nhưng quan trọng; tự trả lời. Như vẫn thường thích làm. Abestos là phân tử phức hợp, polime sillic. Nó cháy, vì giống như kính, nó bị oxy hóa hoàn toàn.


      Khi khám nghiệm trường vụ án của những vụ giết người ngày trước – làm việc với các nhà pháp y học, nhân chủng học và các bác sĩ nha khoa – Rhyme thường thấy mình ở trong các tòa nhà được bao bọc abestos. nhớ cái vị đặc biệt của những chiếc mặt nạ họ phải đeo trong khi dọn dẹp abestos ở ga tàu điện ngầm City Hall ba năm rưỡi trước, tại đó nhân viên tìm thấy xác của trong những cảnh sát bị Dan Shepherd giết và vứt vào phòng máy nổ. Khi Rhyme chậm chạp cúi xuống để nhặt sợi từ chiếc áo khoác màu xanh dương nhạt của viên sĩ quan, nghe thấy tiếng gãy và tiếng rắc của thanh xà gỗ sồi. Chiếc mặt nạ có thể cứu bị ngạt thở đến chết trong đám bụi bặm và bùn đất xung quanh.


      “Có thể đưa ta đến công trường phá dỡ”, Sellitto .


      “Có thể”, Rhyme đồng ý.


      Sellitto ra lệnh cho người trợ lý trẻ tuổi của mình. “Gọi EPA(48-) và Sở Môi trường Thành phố. Tìm xem có công trường phá dỡ nào được tiến hành ngay lúc này .”


      Viên thám tử gọi điện.


      “Bo”, Rhyme gọi Haumann, “đội của cậu sẵn sàng triển khai chưa?”


      “Sẵn sàng chiến đấu.” Viên đội trưởng ESU khẳng định. “Dù vậy tôi vẫn phải rằng chúng tôi chỉ có nửa lực lượng vì phải phục vụ cho hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Họ bị Ủy ban Mật vụ và An ninh của Liên Hiệp Quốc mượn.”


      “Tôi có vài thông tin về EPA ở đây.” Banks ra hiệu cho Haumann và họ ra góc phòng. Họ dẹp sang bên vài chồng sách. Khi Haumann trải trong những tấm bản đồ chiến thuật New York của ESU lên bàn, có thứ gì đó rơi xuống nền nhà.


      Banks nhảy dựng lên. “Chúa ơi.”


      Từ góc nhìn nơi nằm, Rhyme thể thấy cái gì vừa bị rơi. Haumann chần chừ giây, sau đó cúi xuống để nhặt lên đoạn xương sống bạc màu và đặt nó lên mặt bàn.


      Rhyme cảm thấy ánh mắt vài người nhìn nhưng gì về khúc xương. Haumann cúi người nhìn tấm bản đồ, Banks cũng vậy, nghe điện thoại và cung cấp cho Haumann thông tin về các công trường thu dọn abestos. Viên chỉ huy đánh dấu chúng bằng bút sáp. Có vẻ như có rất nhiều công trường, tản mát ở khắp năm quận của thành phố. Tình hình mấy khả quan.


      “Ta phải tiếp tục khoanh vùng gọn hơn. Xem nào, cát”, Rhyme với Cooper. “Phóng đại lên xem. cho tôi biết nghĩ gì.”


      Sellitto chuyển cái phong bì đựng vật chứng cho kỹ thuật viên, này đổ những thứ bên trong vào cái khay khám nghiệm tráng men. Chất bột lóng lánh để lại đám mây bụi . Ở giữa có hòn đá, bị bào mòn, nó lăn vào giữa đống cát.


      Cổ họng Lincoln Rhyme nghẹn lại. phải vì những gì thấy – vẫn chưa biết nhìn vào cái gì – nhưng vì xung thần kinh đứt đoạn phóng ra từ não và tắt ngấm nửa đường khi đến cánh tay phải vô dụng, thúc bách cầm lấy cái bút chì và thử. Lần đầu tiên trong thời gian khoảng năm, cảm thấy thúc bách đó. Điều này suýt làm phát khóc và niềm an ủi duy nhất của là ký ức về cái lọ đựng Seconal, cái túi nhựa mà bác sĩ Berger mang theo, những hình ảnh bay lượn trong phòng như thiên thần hộ mệnh.


      hắng giọng. “Lấy thử dấu tay .”


      “Cái gì?” Cooper hỏi lại.


      “Hòn đá.”


      Sellitto nhìn dò hỏi.


      “Hòn đá ở đó hợp”, Rhyme . “Táo và cam. Tôi muốn biết vì sao. Lấy dấu .”


      Sử dụng cái kẹp có đầu bằng sứ, Cooper nhấc hòn đá lên và nghiên cứu nó. ta đeo kính, dùng chiếc đèn PoliLight chiếu vào hòn đá – bộ đèn có ắc quy lớn như ắc quy xe hơi với cây đũa thần gắn ở đó.


      “Chẳng có gì”, Cooper .


      “VMD?”


      VMD, lắng chân kim loại là kỹ thuật hiển thị vân tay những bề mặt xốp. Nó làm bay hơi vàng hay kẽm trong buồng chân có chứa đối tượng cần kiểm tra; kim loại phủ lên dấu vân tay , làm thấy hoa tay và những điểm đỉnh.


      Nhưng Cooper đem theo máy VMD.


      “Vậy có gì?” Rhyme hỏi, vẻ vui.


      “Sudan đen, thuốc tráng phim ổn định, iodine, amido đen, DFO và thuốc nhuộm chữa bỏng, Magna-Brush.”


      ta còn đem theo ninhydrin để phát dấu tay những bề mặt xốp và khuôn Keo Siêu dính cho những bề mặt nhẵn. Rhyme nhớ lại những tin tức chấm động tràn qua cộng đồng giám định vài năm trước: kỹ thuật viên làm việc trong phòng thí nghiệm giám định của quân đội Mỹ ở Nhật bản dùng Keo Siêu dính để sửa chiếc máy quay bị vỡ của mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ chất keo dính làm ra dấu tay tốt hơn phần lớn các loại hóa chất được tạo ra cho mục đích này.


      Đó chính là phương pháp Cooper sử dụng. Dùng cái kẹp, ta đặt hòn đá vào hộp thủy tinh và rỏ ít keo vào cái đĩa nóng đặt bên trong. Vài phút sau, ta lấy hòn đá ra.


      “Ta có gì đó rồi đây này”, ta phủ lớp bụi UV bước sóng dài lên hòn đá và dùng đèn PoliLight soi vào nó. Có thể nhìn thấy ràng dấu vân tay. Đúng trung tâm. Cooper chụp ảnh nó bằng cái máy Palaroid CU-5, tỷ lệ 1:1. ta đưa bức ảnh cho Rhyme.


      “Đưa nó lại gấn hơn tí nữa.” Rhyme liếc mắt khi xem bức ảnh. “Đúng rồi! ta xoay nó.”


      Dấu vân tay xoay – xoa ngón tay lên bề mặt – tạo ra ấn tượng khác so với khi nhặt vật thể đó lên. Đó là khác biệt rất – ở chiều rộng giữa các đường vân tại những điểm khác nhau của sơ đồ vân tay – nhưng là khác biệt mà Rhyme có thể nhìn thấy rất .


      “Nhìn này, cái gì đây?” đăm chiêu. “Đường kẻ này.” Có dấu hiệu hình vòng cung mờ nhạt bên dấu vân tay.


      “Nó trông giống như là…”


      “Đúng thế”, Rhyme , “móng tay của ấy. Thường ta có dấu hiệu này. Nhưng tôi cá là đặt hòn đá để người ta nhặt nó. Nó để lại vết hằn nhờn dầu. Giống như vân tay.”


      “Vì sao làm thế?” Sachs hỏi.


      Lại phật ý vì xem ra chẳng có ai hiểu ra vấn đề nhanh như mình, Rhyme cục cằn giải thích: “ với ta hai điều. Thứ nhất, muốn ta biết nạn nhân là phụ nữ. Trong trường hợp ta liên kết được ta với các xác sáng nay.”


      làm thế để làm gì?” Banks hỏi.


      “Trộn đỗ với thóc.” Rhyme .”Để làm ta toát thêm ít mồ hôi. cho ta biết có người phụ nữ gặp nguy hiểm. đánh giá nạn nhân – như tất cả chúng ta làm – kể cả khi chúng ta là chúng ta làm vậy.” Rhyme tình cờ nhìn vào tay Sachs. ngạc nhiên khi thấy rằng, người phụ nữ đẹp như Sachs mà các ngón tay lại xấu tệ hại. Bốn đầu ngón tay dán băng Band-Aid và mấy ngón khác bị gặm đến tận thịt. Lớp biểu bì ở ngón bị phủ lớp máu nâu. còn nhận thấy da dưới lông mày bị viêm đỏ, do bị kéo, đoán. Và dấu xước cạnh tai . Tất cả những thói quen tự hủy hoại. Có hàng triệu cách để phê, ngoài thuốc và rượu Armagnac.


      Rhyme : “Có điều nữa với chúng ta mà tôi cảnh báo trước với các . biết chứng cứ. . Đừng quan tâm đến những vật chứng pháp lý thông thường. Tôi cũng để lại gì. Tất nhiên đó là điều nghĩ. Nhưng chúng ta tìm thấy gì đó. Tôi cá là chúng ta thấy.” Đột nhiên Rhyme nhăn mặt. “Bản đồ! Ta cần bản đồ. Thom!”


      Người trợ lý buột miệng: “Bản đồ nào?”


      “Cậu biết ý tôi cái bản đồ nào mà.”


      Thom thở dài. “Tôi chịu, Lincoln.”


      Nhìn ra cửa sổ và , nửa là với chính mình, Rhyme đăm chiêu. “Cầu vượt qua đường ray, đường hầm buôn rượu lậu và những cánh cửa ra vào, abestos – đều là những thứ cũ. thích New York lịch sử. Tôi muốn bản đồ Randel.”


      “Ở đâu?”


      “Hồ sơ nghiên cứu cho cuốn sách của tôi. Còn ở đâu được nữa hả?”


      Thom lục lọi trong đống cặp hồ sơ và lấy ra bản sao của tấm bản đồ Manhattan dài, nằm ngang. “Cái này à?”


      “Cái đó, đúng rồi!”


      Đó là Khảo sát của Randel, vẽ năm 1811 cho các ủy viên Hội đồng thành phố quy hoạch mạng lưới phố xá của Manhattan. Tấm bản đồ được in ngang, với Công viên Battery, phía nam, bên trái và Harlem, phía bắc, sang phải. Vẽ theo cách này, hòn đảo tạo thành con chó nhảy lên, cái đầu hẹp của nó ngẩng lên, chuẩn bị tấn công.


      “Gắn nó lên đây. Tốt.”


      Trong khi viên trợ lý làm, Rhyme : “Thom, chúng ta cử cậu làm đại diện. Đưa cho ta cái phù hiệu bóng loáng hay cái gì đó , Lon.”


      “Lincoln”, cậu ta lắp bắp.


      “Chúng tôi cần cậu. Nào. Chẳng phải là lúc nào cậu cũng muốn trở thành Sam Spade(49) hay Kojak(50) đó sao?”


      “Chỉ là Jury Garland(51) thôi.” Người trợ lý đáp lời.


      “Thế là Jessica Fletcher(52) vậy. Cậu viết hồ sơ. Làm , lấy cái bút Mont Blanc lúc nào cũng dính trong túi áo cậu ra .”


      Chàng tha đảo mắt khi cậu ta lấy cái bút Parker ra và nhặt cuốn sổ màu vàng từ chồng sách vở dưới cái bàn.


      , tôi có ý hay hơn”, Rhyme tuyên bố. “Treo trong những bức tranh kia lên. Những bức tranh nghệ thuật ấy. Xoay ngược nó lại rồi viết ra mặt sau bằng bút đánh dấu. Viết to vào. Để tôi còn đọc được.”


      Thom chọn bức tranh hoa huệ tây của Monet, dán lên tường.


      cùng”, nhà hình học , “viết ‘Đối tượng 823’ sau đó kẻ bốn cột. ‘Ngoại hình. Nơi ở. Phương tiên lại. Khác.’ Đẹp rồi. Giờ bắt đầu thôi. Chúng ta biết gì về ta?”


      Sellitto : “Phương tiện lại… ta có chiếc Yellow Cab.”


      “Đúng thế. Và trong cột ‘Khác’ cần thêm ta biết quy trình khám nghiệm trường.”


      Sellitto : “Điều đó có thể có nghĩa là từng gặp chuyện rắc rối.”


      “Thế nghĩa là gì?” Thom hỏi.


      “Có nghĩa là có thể có tiền án.” Viên thám tử giải thích.


      Banks : “Ta có cần thêm là có khẩu Colt cỡ .32 ?”


      “Mẹ kiếp, có”, sếp của ta khẳng định.


      Rhyme đóng góp: “Và biết về FRs…”


      “Cái gì?” Thom hỏi.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Vân ma sát – dấu vân tay. Cậu biết đấy, đó là những đường vân bàn tay và chân chúng ta để tạo ma sát. Và viết thêm là có thể ta có khả năng hành động từ nơi nấp an toàn. Tốt lắm, Thom. Nhìn cậu ta này. Cậu ta quả là người thực thi pháp luật nhà nòi.”


      Thom đỏ mặt, rời khỏi bức tường, phẩy mạng nhện vương chiếc áo sơ mi.


      “Đây rồi, em”, Sellitto . “Hình ảnh đầu tiên của chúng ta về Ngài 823.”


      Rhyme quay về phía Mel Cooper. “Còn bây giờ là cát. Chúng ta có thể gì về nó nhỉ?”


      Cooper kéo cái kính lên vầng trán nhợt nhạt của ta. ta đổ mẫu vào thanh trượt, đẩy nó xuống dưới cái kính hiển vi ánh sáng phân cực rồi điều chỉnh núm điều khiển.


      “Hừm. Lạ . thấy có khúc xạ đúp.”


      Kính hiển vi phân cực cho thấy khúc xạ đúp của tinh thể hay sợi và số vật liệu khác. Cát bãi biển có tính khúc xạ đúp lớn.


      “Thế phải cát”, Rhyme lẩm bẩm. “Đó là thứ bị xay có thể nhận dạng cá thể được ?”


      Nhận dạng cá thể… Mục tiêu của nhà hình học. Phần lớn vật chứng có thể được nhận dạng. Nhưng ngay cả khi ta biết được đó là gì, nó có thể xuất phát từ hàng trăm hay hàng nghìn nguồn. Vật chứng được nhận dạng cá thể là thứ mà chỉ có thể xuất phát từ nguồn hay số lượng nguồn rất hạn chế. dấu vân tay, hồ sơ DNA, mẩu sơn vừa vào chỗ tróc xe của nghi phạm giống như mảnh của bức tranh đố ghép hình.


      “Có thể”, kỹ thuật viên trả lời. “Nếu tôi có thể xác định được đó là cái gì.”


      “Bột kính nghiền?” Rhyme gợi ý.


      Kính về bản chất là cát bị nung chảy nhưng quá trình chế tạo kính thay đổi cấu trúc tinh thể. Bột kính nghiền khúc xạ đúp. Cooper cẩn thận nghiên cứu mẫu.


      , tôi nghĩ đó là kính. Tôi biết nó là cái gì. Giá mà tôi có EDX(53) ở đây.”


      công cụ thông dụng trong phòng thí nghiệm hình là kính hiển vi quét điện tử kết hợp với thiết bị tia X phân tán năng lượng; nó xác định thành phần hóa học của các mẫu dấu vết được tìm thấy tại trường vụ án.


      “Tìm cho ta cái”, Rhyme ra lệnh cho Sellitto, sau đó nhìn quanh phòng. “Chúng ta cần thêm thiết bị. Tôi muốn có thêm cả thiết bị lấy dấu vân tay chân kim loại. Và GC-MS(54).” loại máy sắc ký khí dùng để phân tách các hợp chất thành những nguyên tố thành phần và quang phổ kế ánh sáng để nhận dạng từng nguyên tố. Những thiết bị này cho phép các nhà hình học kiểm tra mẫu chưa biết với khối lượng tới phần triệu g và tìm kiếm nó trong cơ sở dữ liệu hàng trăm nghìn các hợp chất biết, được phân loại theo nhận dạng và tên nhãn hiệu.


      Sellitto gọi điện tới phòng thí nghiệm CSU thông báo danh mục thiết bị cần thiết.


      “Nhưng ta thể đợi tới khi có đồ, Mel. phải làm theo cách truyền thống thôi. cho tôi thêm chút về cái thứ cát rởm của chúng ta nào.”


      “Nó lẫn ít bụi. Có đất mùn, những đốm thạch , chất feldspar và mica. Có rất ít mảnh lá cây và thực vật phân rã. số đốm có thể là bentonite.”


      “Bentonite.” Rhyme thỏa mãn. “Đó là tàn tro núi lửa mà các nhà xây dựng sử dụng trong hồ xi măng khi họ đào móng trong những vùng có nước của thành phố, nơi nền đá ở rất sâu. Dùng chống xói mòn. Vậy chúng ta phải tìm những công trường xây dựng gần nước, có thể ở phía nam Phố Ba mươi tư. Phía Bắc, vùng đó nền đá khá gần mặt đất nên họ cần dùng hồ xi măng.”


      Cooper xê dịch thanh trượt. “Nếu phải đoán, tôi rằng đó chủ yếu là calcium. Đợi chút, ở đây có gì đó dạng sợi.”


      Cái núm lại bị xoay và Rhyme trả mọi thứ để có thể được nhìn vào cái ống ngắm kia. Nhớ lại tất cả những buổi tối dán mắt vào cái viền ống ngắm cao su màu xám, quan sát sợi hay những mẩu vỏ bào kim loại trôi ra trôi vào tiêu điểm.


      “Ở đây còn mấy thứ nữa. Hạt lớn. Ba lớp. giống như cái loa kèn. Sau đó là hai lớp calcium. Màu sắc hơi khác nhau. Những mẩu khác trong suốt.”


      “Ba lớp?” Rhyme giận dữ quát lên. “Của nợ, đấy là vỏ sò.” cảm thấy bực tức với bản thân. phải nghĩ tới điều đó chứ.


      “Đúng rồi, nó đấy.” Cooper gật đầu. “Tôi nghĩ là con hàu.”


      Những bãi hàu quanh thành phố chủ yếu nằm ngoài bờ biển Long Island và New Jersey. Rhyme hy vọng là nghi phạm hạn chế khu vực địa lý cần tìm kiếm trong Manhattan – nơi nạn nhân được tìm thấy sáng nay. lẩm bẩm: “Nếu mở rộng ra cả thành phố việc tìm kiếm là vô vọng.”


      Cooper : “Tôi nhìn thấy thứ khác. Tôi nghĩ đấy là đá vôi. Rất cổ. Dạng hạt.”


      “Có thể là bê tông.” Rhyme gợi ý.


      “Có thể. Đúng.”


      “Thế tôi hiểu vỏ sò”, Cooper thêm, vẻ trầm ngâm. “Những bãi sò quanh New York đầy bùn và thực vật. Thứ này bị trộn lẫn với bê tông và thực hề có chất gì liên quan đến thực vật.”


      Bất thình lình Rhyme quát lên: “Cạnh! Cạnh của cái vỏ sò ấy như thế nào, Mel?”


      Nhân viên kỹ thuật nhìn vào ống ngắm: “Đứt đoạn, bị mòn. Nó bị tán vụn dưới áp lực. bị nước bào mòn.”


      Ánh mắt Rhyme trượt sang tấm bản đồ Randel, quét từ phải sang trái. Tập trung vào vùng mông con chó nhảy.


      “Có rồi!” hét lên.


      Năm 1913, F.W. Woolworth xây cấu trúc sáu mươi tầng đến bây giờ vẫn còn mang tên ông, bọc gốm, được bao phủ bởi miệng máng xối và điêu khắc gothic. Trong suốt mười sáu năm, đó là tòa nhà cao nhất thế giới. Vì nền đá ở khu vực này của Manhattan nằm cách Broadway ba mươi mét, những người công nhân phải đào đường trục rất sâu để neo tòa nhà. lâu sau khi động thổ, những người công nhân tìm thấy thi hài của nhà công nghiệp Manhattan, Talbott Soames, người bị bắt cóc năm 1906. Xác của ông ta bị chôn trong bãi dày, thứ trông giống như cát nhưng thực ra là vỏ sò bị nghiền nát, việc mà báo chí lá cải làm ầm ĩ, nhắc đến đam mê của nhà tư bản đối với đồ ăn ngon. Vỏ sò rất phổ biến dọc theo mũi thấp phía đông Manhattan đến mức chúng được sử dụng để lấn biển. Đó cũng là lý do Phố Pearl(55) lại được đặt tên như vậy.


      ta ở đâu đó trong khu trung tâm.” Rhyme tuyên bố. “Có thể ở phía đông. Cũng có thể gần phố Pearl. ta ở dưới lòng đất, sâu khoảng năm đến mười lăm feet. Có thể là công trường xây dựng, có thể là tầng hầm. tòa nhà cũ hay đường hầm.”


      “Kiểm tra chéo bản đồ của EPA Jerry”, Sellitto ra lệnh. “Những chỗ họ dọn dẹp abestos.”


      phố Pearl? có gì.” Viên sĩ quan trẻ nâng tấm bản đồ mà ta và Haumann nghiên cứu lên. “Có khoảng ba tá công trường phá dỡ – ở Midtown, Harlem và Bronx. Nhưng ở trung tâm có gì.”


      “Abestos… abestos…”, Rhyme lại trầm ngâm. Có gì đó rất quen ở đây.


      là 2:05.


      “Bo, ta phải thôi. Hãy đưa người của tới đó và bắt đầu tìm kiếm. Tất cả các tòa nhà dọc theo Phố Pearl. Cả Phố Water nữa.”


      “Trời”, viên cảnh sát thở dài, “thế rất nhiều.” ta ra đến cửa.


      Rhyme với Sellitto: “Lon, tốt hơn là cũng nên . là cuộc chạy đua sát nút đấy. Họ cần tất cả những nhân viên truy tìm mà họ có thể có. Amelia, tôi muốn cả cũng .”


      “Nhưng này, tôi nghĩ xem…”


      “Sĩ quan”, Sellitto quát, “đây là mệnh lệnh…”.


      ánh hồng nhạt đảo qua khuôn mặt xinh đẹp của .


      Rhyme hỏi Cooper: “Mel, đến đây bằng xe bus à?”


      “RRV(56)”, ta trả lời.


      Những chiếc xe bus thành phố dành cho trường vụ án lớn là những chiếc xe tải lớn – chứa đầy thiết bị và vật tư phục vụ cho việc thu nhập chứng cứ, được trang bị tốt hơn phòng thí nghiệm của những thành phố . Nhưng khi Rhyme điều hành IRD, đặt mua những chiếc xe phục vụ trường vụ án hơn – những chiếc xe kiểu wagon – với những thiết bị thu nhập và phân tích cơ bản nhất. Những chiếc RRV trông bình thường nhưng Rhyme bắt Phòng Vận chuyển gắn cho chúng động cơ turbo của Đội Cảnh sát Cơ động. Chúng thường vượt xe của Đội Tuần tra để đến trường trước; có lần sĩ quan đầu tiên đến trường lại là những kỹ thuật viên trường dày dạn. Đó chính là giấc mơ của mọi công tố viên.


      “Đưa chìa khóa cho Amelia.”


      Cooper đưa chìa khóa cho Sachs, lườm , sau đó ra khỏi phòng và chạy xuống cầu thang. Ngay cả tiếng bước chân của nghe cũng có vẻ giận dữ.


      “Được rồi, Lon. nghĩ gì?”


      Sellitto nhìn hành lang trống rỗng và lại gần Rhyme. “ thực muốn có P.D cho vụ này à?”


      “P.D?”


      “Ý tôi là ta. Sachs. P.D là biệt hiệu.”


      “Cho cái gì?”


      “Đừng điều đó với ta. Bỏ ta . Cha ta là cảnh sát tuần tra trong bốn mươi năm. Đó là lý do vì sao ta được gọi là P.D (Con cớm tuần tra).”


      nghĩ rằng tôi nên chọn ta?”


      . Tôi nghĩ thế. Vì sao lại muốn ta?”


      “Vì ta trèo xuống bờ ngăn cao ba mươi feet để bảo vệ trường vụ án. ta phong tỏa đại lộ chính và đường ray của Amtrak. Đó là sáng kiến.”


      “Thôi nào, Linc. Tôi biết hàng chục cảnh sát làm như thế.”


      “Được rồi, ta là người tôi muốn.” Rhyme ném cho Sellitto cái nhìn nghiêm nghị, nhắc nhở ta, tế nhị tranh cãi, về những điều khoản trong thỏa thuận của họ.


      “Điều tôi muốn là”, viên thám tử , “tôi vừa mới chuyện với Polling. Peretti cay cú vì bị gạt sang bên và nếu – , tôi là khi nào – biết ai đó trong Đội Tuần tra xử lý trường khi đó rắc rối to.”


      “Chắc là vậy”, Rhyme nhàng, vẫn nhìn vào tấm áp phích hồ sơ, “nhưng tôi có cảm giác đó là ngày ít rắc rối nhất của chúng ta”.


      ngửa cái đầu mệt mỏi của mình xuống chiếc gối dày phía dưới.




      ĐỐI TƯỢNG 823



      Ngoại hình


      Nơi ở


      Phương tiện lại


      Khác





      - Có thể có nơi nấp an toàn.


      - Yellow Cab.


      - Hiểu biết quy trình khám nghiệm trường,


      - Có thể có tiền án,


      - Hiểu biết về dấu vân tay,


      - Súng = Colt .32

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BẢY




      Chiếc xe lao nhanh vào khe núi tăm tối, bẩn thỉu của Phố Wall, trung tâm New York.


      Ngón tay Amelia Sachs nhàng nhảy múa vô lăng khi cố gắng hình dung nơi T.J. Colfax có thể bị giam giữ. Việc tìm kiếm ta xem ra vô vọng. Quận Tài chính mà tiến đến gần, chưa bao giờ trông nó lại lớn đến vậy, đầy những ngõ ngách, đầy những miệng cống, đầy những cửa ra vào và những tòa nhà lấm tấm những ô cửa sổ màu đen.


      Quá nhiều chỗ để giấu con tin.


      nhớ lại cái cảnh mà nhìn thấy, bàn tay thò ra từ lỗ huyệt bên cạnh đường ray. Chiếc nhẫn kim cương ngón tay máu me, xương xẩu. Sachs nhận ra kiểu nữ trang đó. gọi chúng là những chiếc nhẫn an ủi – kiểu nhẫn mà những giàu có, đơn hay mua cho mình. Kiểu nhẫn mà đeo nếu giàu có.


      Lao nhanh xuống phía nam, vượt qua những người đưa tin xe đạp và những chiếc taxi.


      Ngay cả trong buổi chiều chói chang này, dưới ánh mặt trời bực bội, đây vẫn cứ là vùng kinh khủng của thành phố. Những tòa nhà tỏa bóng râm kinh dị và bị bao phủ bởi bóng tối khủng khiếp như máu khô.


      Sachs rẽ với tốc độ bốn mươi, trượt bánh xe mặt đường nhựa mềm như bọt biển và lại nhấn ga để tăng tốc độ lên sáu mươi.


      Động cơ hết ý, nghĩ. Và quyết định thử xem chiếc xe tuyệt như thế nào khi điều khiển với tốc độ bảy mươi.


      Nhiều năm trước, trong khi cha ngủ – ông thường làm ca từ ba giờ tới mười giờ – thiếu nữ Amie Sachs thường lấy chìa khóa chiếc Camaro của ông, với mẹ là mua đồ và hỏi xem mẹ có muốn mua gì ở cửa hiệu thịt lợn Fort Halminton hay . Trước khi mẹ kịp trả lời: “, nhưng con tàu thôi, được lái xe đâu nhé”, biến mất ngoài cửa, khởi động xe và lao về phía tây.


      Về nhà sau ba tiếng, có thịt lợn, Amie lẩn lên cầu thang để rồi phải đối mặt với người mẹ vô cùng giận dữ với trò tiêu khiển của con mình, bà lại giảng giải cho về nguy cơ mang thai và chuyện đó phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người mẫu nhờ khuôn mặt xinh đẹp của như thế nào. Rồi cuối cùng, khi biết được rằng ngủ lang đâu đó mà chỉ lái xe với tốc độ trăm dặm giờ đường cao tốc Long Island, bà lại càng giận dữ và tiếp tục giảng giải cho về việc làm hỏng mất khuôn mặt xinh đẹp và chuyện đó phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người mẫu như thế nào.


      Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nữa khi có bằng lái xe.


      Còn bây giờ Sachs bị kẹp giữa hai chiếc xe tải hai tầng, hy vọng hành khách hay tài xế nào lại tự nhiên mở cửa. Trong nháy mắt, vượt qua họ.


      Khi ta di chuyển, chúng thể bắt được ta…


      Lon Sellitto xoa khuôn mặt béo tròn của ta bằng những ngón tay chuối nắn và buồn để ý đến việc lái chiếc Indy 500. Ông chuyện với đối tác của mình về vụ án như kế toán viên về bảng cân đối lỗ lãi. Còn Banks, ta đắm đuối nhìn trộm đôi mắt và cặp môi của Sachs nữa mà bắt đầu nhìn tốc kế mỗi phút lần.


      Họ trượt trong cú cua điên dại khi qua cầu Brooklyn. lại nghĩ về việc giam giữ người phụ nữ, hình dung ra những chiếc móng tay dài, lịch thiệp của T.J. khi gõ tay mình lên vô lăng. ta lại lên trong tâm trí , hình ảnh đó chịu biến mất: cánh tay như nhánh cây thò ra khỏi lỗ huyệt ẩm ướt. cái xương máu me.


      ta có vẻ hơi điên điên”, đột nhiên , để đổi hướng suy nghĩ.


      “Ai?” Sellitto hỏi.


      “Rhyme.”


      Banks thêm: “Hỏi tôi đây này, ta trông giống em của Howard Hughes(57).”


      “Đúng, điều đó làm tôi thấy ngạc nhiên”, viên thám tử lớn tuổi hơn công nhận. “Trông ổn lắm. từng là chàng đẹp trai. Nhưng mọi người biết đấy. Sau tất cả những gì ta phải trải qua. Làm thế nào mà lại lái xe như thế, Sachs, là cảnh sát tuần tra à?”


      “Khi tôi bị chỉ định. Họ cầu. Họ với tôi.” Giống như vừa làm xong, nghĩ. “ ta có thực giỏi như thế ?”


      “Rhyme? Giỏi hơn thế. Hầu hết các chàng CSU ở New York xử lý khoảng hai trăm cái xác năm. Tối đa. Rhyme làm gấp đôi. Ngay cả khi ta điều hành IRD. Ví dụ như Peretti, ta là người tốt nhưng ta chỉ ra ngoài hai tuần lần và chỉ ở những vụ lên báo. nghe thấy tôi điều đó đấy chứ, sĩ quan?”


      . Thưa ngài.”


      “Nhưng Rhyme tự khám nghiệm trường. Có khi ta khám nghiệm trường ta ra ngoài và dạo.”


      “Làm gì?”


      “Chỉ dạo thôi. Ngắm nghía mọi thứ. ta bộ hàng cây số. khắp thành phố. Mua bán, nhặt nhạnh, sưu tập các thứ.”


      “Những thứ gì?”


      “Tiêu chuẩn chứng cứ. Bùn đất, thức ăn, tạp chí, nắp tròn đậy trục bánh xe, giày, sách y học, thuốc, cây cối… ta tìm và ghi chúng vào mục lục. biết đấy – khi có vật chứng nào đó xuất ta có thể có ý tưởng ràng hơn về việc thủ phạm có thể ở đâu hay ta làm gì. Nếu tìm ta, có thể ta ở Harlem hay Lower East Side hay Hell’s Kitchen.”


      “Cảnh sát từ trong máu?”


      . Cha ta là nhà khoa học ở phòng thí nghiệm quốc gia hay gì đó kiểu thế.”


      “Rhyme học ngành đó à? Khoa học ấy?”


      “Đúng. Học ở Champaign-Urbana, nhận được , hai cái bằng nào đấy. Hóa học và lịch sử. Mà tôi chẳng hiểu tại sao. Ông cụ nhà ta mất từ khi tôi biết ta, trời ạ, có thể mười lăm năm rồi. Và ta chẳng có chị em gì cả. ta lớn lên ở Illinois. Vì thế mà có tên là Lincoln.”


      muốn hỏi ta lập gia đình chưa, nhưng lại thôi. hỏi: “ ta có thực là cái thứ…”


      cứ , sĩ quan.”


      “Củ chuối?”


      Banks phá lên cười.


      Sellitto : “Mẹ tôi có cách diễn đạt thế này. Bà ai đó ‘có đầu óc’. Câu ấy mô tả đúng Rhyme. ta là người có đầu óc. Có lần cậu kỹ thuật viên ngu ngốc phun luminol – cái chất thử máu ấy – lên dấu vân tay, thay vì dùng ninhydrin. Làm hỏng hết dấu vân tay. Rhyme đuổi việc ta ngay lập tức. Lần khác, cảnh sát giải tại trường và giật nước bồn cầu. Trời ạ, Rhyme phát khùng, với ta xuống ngay tầng hầm và đem tất cả những gì có ở chỗ chắn cống lên.” Sellitto cười. “Tay cảnh sát, cũng là dạng có cấp bậc, : ‘Tôi làm việc đó, tôi là trung úy.’ Và Rhyme đáp: ‘ nghe. Còn bây giờ là thợ sửa ống nước.’ Tôi có thể kể mãi được. Mẹ kiếp, sĩ quan, chạy với tốc độ tám mươi đấy à?”


      Họ lao qua Đại Bản Doanh và đau đớn nghĩ, đó là chỗ đáng ra bây giờ mình có mặt. Gặp các sĩ quan thông tin đồng , ngồi trong lớp đào tạo, hít thở khí có điều hòa.


      Chúa ơi, nóng. Nóng, bụi bặm, nóng châm chích, nóng thiêu đốt. Giờ tệ hại của thành phố. Tâm trạng bùng phát như dòng nước màu xám phụt ra từ những cái vòi cứu hỏa ở Harlem. Hai Giáng sinh trước, và bạn trai có ngày nghỉ lễ ngắn – từ mười giờ tối đến nửa đêm, thời gian rỗi trùng nhau duy nhất mà những ca trực của họ cho phép – trong buổi tối lạnh bốn độ. và Nick, ngồi ở Trung tâm Rockefeller, bên ngoài, gần sân trượt băng, cùng uống cà phê và rượu brandy. Họ đồng ý rằng chẳng thà chịu tuần lạnh giá còn hơn là ngày tháng Tám nóng bức.


      Cuối cùng, khi lao nhanh phố Pearl, nhìn thấy trạm chỉ huy của Haumann. Để lại dấu phanh trượt dài gần tám feet, Sachs đưa chiếc RRV vào giữa xe của ta và chiếc xe bus EMS.


      “Mẹ kiếp, lái xe siêu quá.” Sellitto chui ra. Vì lý do nào đó thấy vui khi nhìn dấu tay đầy mồ hôi của Jerry Banks để lại, kính cửa sổ khi ta mở cửa hậu của xe.


      Các sĩ quan EMS và đồng phục của Đội Tuần tra ở khắp nơi, có đến năm mươi hay sáu mươi người. Và còn những người khác đến. Có vẻ như toàn bộ tâm trí của One Police Plaza tập trung vào trung tâm New York. Tự nhiên Sachs nảy ra ý nghĩ nếu ai đó muốn vụ ám sát hay chiếm Biệt thự Gracie hay lãnh quán nào đó, có lẽ bây giờ là lúc thích hợp nhất.


      Haumann chạy đến chỗ chiếc xe. ta với Sallitto: “Chúng tôi khám từng nhà, xem xét từng công trường xây dựng Phố Pearl. Chẳng ai biết gì về công trường dọn asbestos và ai nghe thấy tiếng kêu cứu cả.”


      Sachs sửa soạn ra khỏi xe, nhưng Haumann : “, sĩ quan. Nhiệm vụ của là ở lại đây với chiếc RRV.”


      vẫn bước ra.


      “Vâng, thưa ngài. Ai ra lệnh đó vậy?”


      “Thám tử Rhyme. Tôi vừa chuyện với ông ấy. phải gọi điện đến Trung tâm khi ở CP(58-).”


      Haumann khỏi. Sallitto và Banks vội vàng chạy tới trạm chỉ huy.


      “Thám tử Sallitto”, Sachs gọi.


      ta quay lại. : “Tôi xin lỗi, thưa thám tử. Vấn đề là ai là người chỉ huy giám sát của tôi? Tôi phải báo cáo với ai?”


      ta ngắn gọn: “ báo cáo cho Rhyme.”


      phá lên cười: “Nhưng tôi thể báo cáo với ta.”


      Sallitto nhìn trống rỗng.


      “Ý tôi là, ở đây có vấn đề gì như kiểu trách nhiệm hay sao? Luật pháp? ta là dân thường. Tôi cần ai đó, cái khiên, để tôi còn báo cáo.”


      Cuối cùng, Sellitto : “Nghe này, sĩ quan. Tất cả chúng ta đều báo cáo với Lincoln Rhyme. Tôi quan tâm ta là dân thường hay ta là sếp hay tên Thập Tự Chinh khốn kiếp. Hiểu chưa?”


      “Nhưng…”


      “Nếu muốn than phiền, làm văn bản và ngày mai hãy làm.”


      ta mất. Sachs nhìn theo ta lúc rồi sau đó quay lại chiếc ghế trước của xe, gọi điện đến Trung tâm báo cáo 10-84(59) tại trường. Chờ chỉ thị.


      cười nhăn nhó khi giọng phụ nữ vang lên: “Mười-bốn, 5885. Hãy chú ý. Thám tử Rhyme liên lạc lại sớm. Nghe .”


      Thám tử Rhyme.


      “Mười-bốn, nghe .” Sachs trả lời và nhìn ra đằng sau chiếc xe, băn khoăn hiểu trong cái vali đen có gì.


      2:40.


      Điện thoại nhà Rhyme reo. Thom trả lời. “Điều phối viên từ sở chỉ huy.”


      “Nối máy .”


      Điện thoại tải loa bắt đầu hoạt động. “Thám tử Rhyme, nhớ tôi nhưng tôi làm việc cho IRD khi còn ở đấy. Dân thường. Làm chi tiết điện thoại. Emma Rollins.”


      “Tất nhiên, tôi nhớ. Các con thế nào, Emma?” Rhyme nhớ lại người phụ nữ da đen to béo, vui vẻ, làm hai công việc để nuôi năm đứa con. nhớ những ngón tay chuối mắn của bấm nút mạnh đến nỗi có lần làm hỏng chiếc điện thoại công.


      “Jeremy vào đại học sau hai tuần nữa và Dora vẫn đóng kịch, hoặc nó nghĩ là nó đóng kịch. Bọn trẻ con đều ổn cả.”


      “Lon Sellitto gọi cho , đúng ?”


      . Tôi biết làm vụ này và tôi đuổi vài cậu làm 911. Emma làm việc này, tôi với họ thế.”


      có gì cho chúng tôi nào?”


      “Chúng tôi lập danh mục những công ty sản xuất ốc vít. Và cuốn sách liệt kê những nơi họ bán buôn. Và đây là thứ chúng tôi tìm được. Đó là nhờ những chữ cái. Những chữ cái đóng con ốc. CE. Họ chế tạo riêng cho Công ty Con Ed.”


      Quý . Tất nhiên rồi.


      “Chúng được đánh dấu như thế vì chúng có kích thước khác với phần lớn ốc vít do công ty này bán – đường kính mười lăm inch sáu phần mười, và thân dài hơn hầu hết các con ốc khác. Đó là công ty Michigan Tool và Die ở Detroit. Họ dùng chúng trong những đường ống cũ chỉ có ở New York. Những đường ống được làm sáu mươi, bảy mươi năm trước. Cách các thành phần của đường ống gắn với nhau làm cho chúng phải được gắn chặt. Phải gắn chặt hơn dâu chú rể trong đêm tân hôn, chàng ấy với tôi thế. Cố làm tôi đỏ mặt.”


      “Emma, tôi chị. Chị trực, đúng ?”


      “Chắc chắn rồi.”


      “Thom!” Rhyme hét. “Cái điện thoại này dùng được. Tôi phải tự gọi điện. Chức năng kích hoạt bằng tiếng trong máy tính, tôi sử dụng nó, được ?”


      bao giờ đặt mua nó đâu.”


      “Tôi chưa?”


      “Chưa.”


      “Vậy tôi cần nó.”


      “Nhưng chúng ta có.”


      “Làm gì . Tôi muốn gọi điện thoại.”


      “Tôi nghĩ là có bộ ECU điều khiển bằng tay ở đâu đó.” Thom đào bới trong cái hộp cạnh tường. ta tìm thấy màn hình điện tử , cắm đầu vào điện thoại và đầu kia vào que điều khiển gắn cạnh má Rhyme.


      “Cái này kinh quá.”


      “Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Nếu chúng ta gắn hồng ngoại lên lông mày như tôi gợi ý có thể gọi điện thoại sex từ cách đây hai năm rồi.”


      “Nhiều dây dợ quá thể”, Rhyme quát.


      Cổ bất ngờ đau thắt và làm rơi cái điều khiển ra khỏi tầm với. “Mẹ kiếp.”


      Chính phút đó, Lincoln thấy nhiệm vụ – chưa đến sứ mệnh của họ – tự nhiên có vẻ bất khả thi. kiệt sức, cổ đau, đầu . Nhất là mắt . Chúng nhức nhối – và điều đó càng làm đau đớn hơn – có nhu cầu khẩn thiết dụi lưng bàn tay lên đôi mắt nhắm. cử chỉ thư giãn xíu mà phần còn lại của thế giới làm hằng ngày.


      Thom đặt lại cái cần điều khiển. Rhyme lấy lại được kiên nhẫn từ đâu đó và hỏi người trợ lý: “Cái này hoạt động thế nào?”


      “Có màn hình. thấy nó bộ điều khiển chứ? Chỉ cần dịch cần điều khiển tới con số cần quay, đợi giây và nó được nhớ. Sau đó, quay số tiếp theo giống như thế. Khi có được bảy số, ấn cái cần vào đây để gọi.”


      thử. “ hoạt động.”


      “Phải tập chứ.”


      “Chúng ta có thời gian!”


      Thom càu nhàu: “Tôi trả lời điện thoại hộ quá lâu rồi đấy.”


      “Được rồi”, Rhyme hạ giọng – đó là cách xin lỗi. “Tôi tập sau. Cậu có thể gọi tới Con Ed giúp tôi được ? Tôi cần chuyện với giám sát viên.”


      Sợi dây làm đau, cái còng làm đau nhưng chính tiếng động lại làm hoảng sợ nhất.


      Tammie Jean Colfax cảm thấy mồ hôi của cả cơ thể chảy mặt , ngực , tay khi cố kéo sợi xích của cái còng tay tới lui con ốc gỉ. Cổ tay tê dại, nhưng có vẻ cắt được phần sợi xích.


      dừng lại, kiệt sức và bẻ tay xuôi ngược để bị chuột rút. lại lắng nghe. Đó là tiếng công nhân bắt ốc và đóng các cấu kiện lại với nhau. Những tiếng búa cuối cùng. hình dung họ kết thúc công việc đường ống và chuẩn bị về nhà.


      Đừng , gào thầm. Đừng bỏ tôi. Chừng nào họ còn làm việc, còn được an toàn.


      Tiếng đập cuối cùng, sau đó là im lặng tuyệt đối.


      Ra khỏi đó thôi, con . Nào.


      Mẹ ơi…


      T.J. khóc mất vài phút, nghĩ về gia đình ở Đông Tennessee. Mũi dính đặc, nhưng khi bắt đầu ngạt, hỉ mũi mạnh và cảm thấy được rất nhiều nước mắt và nước mũi. Sau đó lại thở được. Điều đó là cảm thấy tự tin. Sức mạnh. Và tiếp tục cưa.


      “Tôi hiểu khẩn cấp của ngài, thưa thám tử. Nhưng tôi biết tôi có giúp được gì cho ngài . Chúng tôi dùng ốc vít khắp nơi trong thành phố. Đường ống dầu, đường ống gas…”


      “Được rồi”, Rhyme cộc lốc và hỏi giám sát viên của Con Ed tại trụ sở chính của công ty Phố Mười bốn. Các chị có dùng asbestos để cách nhiệt đường ống ?”


      chút ngần ngừ.


      “Chúng tôi dọn tới chín mươi phần trăm loại này rồi”, người phụ nữ chắc chắn. “Chín mươi nhăm”.


      Người ta có thể khó chịu đến mức ấy được ư. “Tôi hiểu. Tôi chỉ cần biết asbestos còn được dùng bọc đường ống ở đâu nữa thôi.”


      ”. ta cách cứng rắn. “Vâng, bao giờ dùng cho điện. Chỉ cho hơi nước và đó là phần nhất trong dịch vụ của chúng tôi.”


      Hơi nước!


      Đó là tiện ích ít nổi tiếng nhất và hiếm hoi nhất của thành phố. Con Ed đun nước lên nghìn độ sau đó thổi nó qua mạng đường ống hàng trăm dặm nằm dưới Manhattan. Luồng hơi nước nóng bỏng được đun lên rất nóng – khoảng ba trăm tám mươi độ – và lao qua thành phố với tốc độ bảy mươi lăm dặm giờ.


      Rhyme nhớ lại bài báo. “Có phải tuần trước các chị có chỗ bị thủng đường ống ?”


      ”Vâng, thưa ngài. Nhưng có asbestos bị rò rỉ. Chỗ này được dọn nhiều năm trước.”


      “Nhưng trong các đường ống của các chị ở khu trung tâm vẫn còn asbestos, đúng ?”


      ta ngần ngừ. “À…”


      “Chỗ ống thủng ấy ở đâu?” Rhyme nhanh chóng tiếp tục.


      “Broadway. Cách Chambers khối nhà lên phía bắc.”


      “Có phải có bài tờ Thời báo về điều đó?”


      “Tôi biết. Có thể. Vâng.”


      “Bài báo ấy có nhắc đến asbestos ?”


      “Có”, ta khẳng định, “nhưng nó chỉ là trước đây việc ô nhiễm asbestos từng là vấn đề.”


      “Đường ống thủng ấy… chạy qua hay có chạy qua phía nam Phố Pearl ?”


      “Để tôi xem. Có, nó có chạy qua đó. Ở Phố Hanover. Phía bắc.”


      hình dung ra T.J. Colfax, người phụ nữ có những ngón tay thon và móng tay dài, sắp phải chết.


      “Và hơi nước được bơm lại lúc ba giờ?”


      “Đúng thế. Bất kỳ lúc nào.”


      được.” Rhyme quát. “Có người can thiệp vào đường ống. Các chị được bơm hơi nước!”


      Cooper ngẩng đầu lên khỏi cái kính hiển vi của mình.


      Nhân viên giám sát : “À, tôi biết…”


      Rhyme quát Thom. “Gọi Lon, bảo ta là ấy trong tầng hầm ở Phố Hanover và Phố Pearl. Phía bắc.” với cậu ta về hơi nước. “Gọi đội cứu hỏa đến đấy nữa. Mặc quần áo chống nhiệt.


      Rhyme quát vào điện thoại. “Gọi đội công nhân! Ngay bây giờ! Họ được bơm hơi nước lại. Họ thể!” nhắc lại từng từ cách trống rỗng, ghê tởm tưởng tượng kỳ dị của mình, trong đó hình ảnh về da thịt người phụ nữ chuyển thành màu hồng, rồi đỏ, sau đó bị xé nát dưới đám mây hơi nước trắng, dữ dội, nóng bỏng cứ quay vòng kết thúc.


      Cái bộ đàm trong xe kêu lục cục. Lúc này là 2:57 theo đồng hồ của Sachs. trả lời cuộc gọi.


      “5885, nghe …”


      “Quên thủ tục , Amelia”, Rhyme . “Chúng ta có thời gian đâu.”


      “Tôi…”


      “Chúng tôi nghĩ rằng mình biết ấy ở đâu. Phố Hanover và Phố Pearl.”


      liếc nhìn qua vai và thấy mấy chục sĩ quan ESU ra sức chạy đến tòa nhà cũ.


      có muốn tôi…”


      “Họ tìm ấy. Còn hãy sẵn sàng khám nghiệm trường.”


      “Nhưng tôi có thể giúp…”


      . Tôi muốn ra sau xe. Ở đó có cái va li đánh dấu 02. Hãy đem nó theo. Và trong cái hộp chiếc đèn PoliLight. thấy nó trong phòng tôi. Mel dùng nó. Lấy cả chiếc đèn nữa. cái va li đánh dấu 03 thấy cái tai nghe và mic. Cắm nó vào bộ đàm Motorola của rồi tới tòa nhà chỗ những sĩ quan làm việc. Gọi lại cho tôi khi trang bị đủ. Kênh ba mươi bảy. Tôi dùng điện thoại cố định nhưng cuộc gọi của được chuyển đến tôi.”


      Kênh ba mươi bảy. Tần số cho các nhiệm vụ đặc biệt toàn thành phố. Tần số ưu tiên.


      “Cái gì?…” hỏi. Nhưng bộ đàm trả lời.


      cây đèn halogen dài màu đen đeo ở thắt lưng nên để chiếc đèn pha mười hai volt cồng kềnh lại xe, vơ chiếc đèn PoliLight và cái va li nặng trịch. Nó phải nặng tới hai mươi lăm pound. Đúng là thứ mà đám khớp xương của nợ của mình cần. nắm tay, nghiến răng lại vì đau, chạy vội tới chỗ giao lộ.


      Sellitto chạy như muốn đứt hơi về phía tòa nhà. Banks chạy theo họ.


      nghe thấy chưa?” Viên thám tử già hỏi. Sachs gật đầu.


      “Nó đấy à?” hỏi.


      Sellitto gật đầu về phía con đường. “ phải đưa ta theo lối này. Dưới sảnh có trạm bảo vệ.” Họ chạy con đường rải sỏi phủ bóng râm, nóng như thiêu, bốc mùi nước tiểu và rác rưởi. Cạnh đó là những cái thùng rác màu xanh, méo mó.


      “Đằng kia”, Sellitto quát. “Mấy cái cửa kia kìa.”


      Các nhân viên cảnh sát chạy tản ra. Ba trong số bốn cánh cửa bị khóa chặt từ bên trong.


      Cánh cửa thứ tư được mở bằng xà beng và giờ nó bị khóa bằng xích. Khóa và dây xích vẫn còn mới.


      “Đây rồi!” Sellitto vươn tay chạm vào cánh cửa, hơi ngần ngừ. Có thể ta nghĩ đến dấu tay. Sau đó, ta nắm lấy tay nắm và giật mạnh. Cánh cửa hé mở mấy inch nhưng sợi xích giữ nó lại. ta cho ba sĩ quan mặc đồng phục vòng cổng trước để xuống tầng hầm từ bên trong. người cảnh sát nhặt viên sỏi đường và bắt đầu đập vào nắm đấm cửa. Vài cú đập mạnh, thêm vài cú nữa. ta nhăn mặt khi tay đập phải cánh cửa, máu phun ra từ ngón tay rách toạc của ta.


      nhân viên cứu hỏa ôm dụng cụ Halligan chạy tới – đó là tổ hợp giữa cuốc chim và xà beng. ta ấn đầu vào sợi xích và kéo tung ổ khóa. Sellitto nhìn Sachs chờ đợi. chằm chằm nhìn lại.


      “Được rồi, thôi sĩ quan!” ta quát lên.


      “Cái gì?”


      ta với à?”


      “Ai?”


      “Rhyme.”


      Khỉ , quên cắm tai nghe. lần mò tìm kiếm, cuối cùng cũng cắm được nó vào. Và nghe thấy: “Amelia, …”


      “Tôi đây.”


      có ở tòa nhà ?”


      “Có.”


      “Vào trong . Họ khóa hơi nước nhưng tôi biết có còn kịp hay . Hãy đem theo nhân viên y tế và sĩ quan ESU. Hãy vào phòng nồi hơi. Có lẽ nhìn thấy ta ngay, Colfax ấy. Hãy đến gần ta, nhưng đừng thẳng từ cửa đến chỗ ta. Tôi muốn làm mất dấu chân nào mà ta có thể để lại. Hiểu chứ?”


      “Vâng.” gật đầu dứt khoát, nghĩ rằng ta nhìn thấy . Ra hiệu cho nhân viên y tế và sĩ quan ESU theo, Sachs bước vào cái hành lang bẩn thỉu, bóng tối khắp nơi, tiếng rên rẩm của máy móc, nước giọt.


      “Amelia”, Rhyme gọi.


      “Có.”


      “Chúng tôi tới cuộc phục kích ở đây. Từ những gì mà tôi biết về ta lúc này, tôi nghĩ như vậy. Như thế phi lý. Nhưng cứ sẵn sàng tay súng nhé.”


      Phi lý.


      “Được rồi.”


      thôi! Nhanh lên!”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      TÁM




      cái hang u. Nóng bức, đen tối và ẩm ướt.


      Ba người họ nhanh chóng dọc theo hành lang bẩn thỉu về phía cánh cửa duy nhất mà Sachs có thể nhìn thấy. cái biển viết PHÒNG NỒI HƠI. sau viên sĩ quan ESU được trang bị đầy đủ áo giáp chống đạn và đội mũ bảo hiểm. Nhân viên y tế sau cùng.


      Khớp ngón phải và vai nhói lên dưới sức nặng của chiếc va li. chuyển nó sang tay trái, suýt đánh rơi và phải điều chỉnh lại cái tay cầm. Họ tiếp về phía cánh cửa.


      Đến nơi, viên sĩ quan SWAT lao vào trong và chĩa súng quanh căn phòng sáng lờ mờ. Chiếc đèn pin gắn ở nòng súng chiếu tia sáng nhợt nhạt vào những luồng hơi nước. Sachs ngửi thấy mùi ẩm mốc. Và thứ mùi khác, ghê sợ.


      Cách. “Amelia?” Giọng như tiếng nổ của Rhyme làm hết hồn. “ ở đâu thế, Amelia?”


      Tay run run, vặn tiếng .


      “Bên trong”, hổn hển.


      ta còn sống ?”


      Sachs đung đưa hai chân, nhìn chằm chằm vào cảnh tượng đó. nhìn nghiêng, chắc chắn mình nhìn gì. Rồi hiểu ra.


      “Ôi, .” thầm. Cảm thấy buồn nôn.


      Mùi thịt luộc kinh khủng thoảng quanh . Nhưng đó vẫn chưa phải là điều tệ hại nhất. Cũng phải là hình ảnh da của người phụ nữ, đỏ tươi, gần như màu cam, bị tróc ra từng mảng lớn. Hay khuôn mặt bị lột hết da. , điều kinh dị nhất là cái góc do cơ thể T.J. Colfax tạo ra, tay chân và thân hình vặn xoắn khi ta cố thoát khỏi luồng hơi nóng tàn phá.


      ta hi vọng nạn nhân chết. Vì chính nạn nhân…


      ta còn sống ?” Rhyme nhắc lại.


      .” Sachs thầm . “Tôi thấy có cách nào… .”


      “Căn phòng an toàn chưa?”


      Sachs nhìn viên sĩ quan, người nghe thấy cuộc điện đàm và gật đầu.


      trường an toàn.”


      Rhyme với : “Tôi muốn sĩ quan ESU ra ngoài, sau đó và nhân viên y tế xem xét ta.”


      nôn khan lần nữa vì mùi thịt rồi ép mình kiểm soát phản xạ. và nhân viên y tế theo đường chéo tới chỗ đường ống. ta nghiêng người về phía trước cách vô cảm rồi sờ tay vào cổ người phụ nữ. ta lắc đầu.


      “Amelia?” Rhyme hỏi.


      Xác chết thứ hai trong ca trực. Cả hai trong cùng ngày.


      Nhân viên y tế : “DCDS(60).”


      Sachs gật đầu, vào mic: “ chết. Khẳng định chết tại trường.”


      “Chết do bỏng?” Rhyme hỏi.


      “Có vẻ như thế.”


      “Bị trói vào tường?”


      “Đường ống. Bị còng, tay sau lưng. Chân bị trói bằng dây phơi. Miệng bị dán băng dính. mở đường ống hơi nước. ta chỉ cách đó có mấy bước. Chúa ơi!”


      Rhyme tiếp tục: “Cho nhân viên y tế ra theo đường các vị vào. Ra đến cửa. Để ý bước chân.”


      làm theo, vừa nhìn vào cái xác. Làm sao mà da lại có thể đỏ thế được nhỉ? Như cua luộc.


      “Được rồi, Amelia. khám nghiệm trường. Mở cái va li ra.”


      gì, vẫn tiếp tục nhìn.


      “Amelia, có đứng ở cửa ?... Amelia?”


      “Cái gì?” quát lên.


      có đứng ở cửa ?”


      Giọng của ta bình tĩnh quá thể. Hoàn toàn khác biệt với giọng xỏ xiên, đòi hỏi mà còn nhớ trong phòng ngủ. Bình tĩnh… và còn gì đấy khác nữa. biết là gì.


      “Có. Tôi đứng ở cửa. biết đấy, chuyện này điên rồ.”


      “Cực kỳ điên khùng”, Rhyme đồng ý, gần như vui vẻ. “Cái va li mở ra chưa?”


      bật mở nắp và nhìn vào trong. Kìm và kẹp, cái gương quay cái cán, những viên bông, thuốc mắt, kéo răng cưa, ống hút, bàn xẻng, dao mổ…


      Những thứ này là cái gì?


      … Ống thổi bụi, vải màn, phong bì, màng lọc, chổi lông, kéo, những cái túi bằng nhựa và bằng giấy, những cái hộp sắt, chai lọ – năm phần trăm nitric acid, ninhydrin, silicone, iodide, đồ lấy dấu vân tay.


      thể được. vào mic: “Tôi nghĩ là tin tôi, thám tử. Tôi thực biết gì về công việc khám nghiệm trường.”


      Mắt nhìn về cơ thể bị tàn phá của người phụ nữ. Nước xuống từ cái mũi bị lột da của ta. khoảng màu trắng – xương – chìa ra má. Còn khuôn mặt ta bị biến dạng thành kiểu cười đau khổ. Giống hệt như nạn nhân sáng nay.


      “Tôi tin , Amelia”, ta cách thô bạo. “Còn bây giờ mở va li ra chưa?” bình tĩnh và giọng ta nghe… thế nào nhỉ. Đúng rồi, đúng cái tông ấy. Quyến rũ. ta như người tình.


      Mình ghét ta, nghĩ. sai trái khi ghét người tàn tật. Nhưng mình căm ghét ta.


      trong tầng hầm, phải ?”


      “Vâng, thưa ngài.”


      “Nghe này, phải gọi tôi là Lincoln. Chúng ta rất hiểu nhau khi vụ này kết thúc.”


      Tối đa là khoảng sáu mươi phút.


      thấy mấy sợi dây cao su trong va li, nếu như tôi nhầm.”


      “Tôi thấy mấy sợi.”


      “Đeo chúng quanh giày của . Chỗ gót chân ấy. Nếu có bị lẫn lộn dấu chân biết dấu nào là của .”


      “OK. xong.”


      “Lấy mấy cái túi vật chứng và phong bì. Bỏ vào túi khoảng tá. có biết dùng đũa ?”


      vừa gì?”


      sống ở thành phố, đúng ? có bao giờ tới Phố Mott chưa? Để ăn món thịt gà của Tướng Tso(61)? Mì nguội, có vị vừng?”


      Bụng dâng lên khi nghe đến thức ăn. cố nhìn người phụ nữ đung đưa trước mặt mình.


      “Tôi biết dùng đũa”, giọng lạnh băng.


      “Hãy nhìn vào va li. Tôi chắc có có tìm thấy chúng . Họ luôn để chúng ở đấy khi tôi khám nghiệm trường.”


      “Tôi chẳng thấy đôi nào.”


      “Thế tìm mấy cái bút chì vậy. Cho chúng vào túi. Bây giờ đan lưới. Từng inch . sẵn sàng chưa?”


      sẵn sàng.”


      “Đầu tiên cho tôi biết nhìn thấy gì?”


      căn phòng lớn. Khoảng hai mươi nhân ba mươi. Đầy ống gỉ. Nền xi măng nứt. Tường gạch. Mốc.”


      “Có cái hộp nào ? Có gì sàn ?”


      , chẳng có gì. Trừ những cái ống, hộp dầu, nồi hơi. Có cát – vỏ sò, đống cát bị văng ra từ vết nứt tường. Và có thứ gì đó màu xám nữa…”


      “Thứ gì đó?” ta chớp lấy. “Tôi nhận ra từ này. Thứ gì là cái gì?”


      cơn giận bùng lên trong . bình tĩnh lại và : “Đấy là asbestos, nhưng phải gói bùi nhùi như sáng nay. Đây là dạng tấm bị vỡ vụn.”


      “Tốt. Còn bây giờ là lần quét thứ nhất. tìm kiếm dấu chân và bất kỳ dấu vết nào mà để lại cho chúng ta.”


      nghĩ có để lại thêm à?”


      “Ồ, tôi cá đấy”, Rhyme . “Đeo kính vào và dùng đèn PoliLight . thấp. Đan lưới khắp phòng. Từng inch . biết cách đan lưới chứ?”


      “Biết.”


      “Như thế nào?”


      nổi giận. “ cần phải kiểm tra tôi.”


      “À, thế đùa với tôi . Như thế nào?”


      “Tiến và lùi theo hướng. Sau đó tiến và lùi theo hướng vuông góc.”


      “Từng bước , bước dài quá foot.”


      biết điều này. “Tôi biết”, .


      “Làm thôi.”


      Cây đèn PoliLight tỏa ra thứ ánh sáng ma quái từ thế giới khác. biết cái đó gọi là ALS, nó làm cho dấu tay, tinh dịch, máu và số dấu giày tỏa sáng. Ánh sáng xanh màu mật rực rỡ làm cho những cái bóng nhảy nhót múa may và mấy lần suýt nữa bắn vào hình thù đen ngòm mà hóa ra lại là con ma bóng tối.


      “Amelia?” Giọng Rhyme sắc ngọt. lại giật bắn mình.


      “Có? Cái gì?”


      có nhìn thấy dấu chân nào ?”


      tiếp tục nhìn chăm chăm xuống sàn. “Tôi, à, . Tôi có nhìn thấy mấy vệt đất. Hay là cái gì đó.” co rúm lại khi nghe những lời sơ suất này. Nhưng Rhyme, giống Peretti sáng nay, để ý. ta : “Vậy à. Sau đó quét rồi.”


      ngạc nhiên. “Đúng thế, là nó! Vết chổi. Làm sao mà biết được?”


      Rhyme cười – thanh làm Sachs gai người trong cái nấm mồ này – rồi : “ đủ thông minh để xóa dấu vết của mình vào buổi sáng hôm nay; có lý do gì để ngừng lại. chàng này giỏi đấy. Nhưng chúng ta cũng giỏi. Làm tiếp .”


      Sachs cúi xuống, khớp xương bốc lửa, bắt đầu tìm kiếm. tìm từng bước chân sàn. “ có gì ở đây. Hoàn toàn có gì.”


      nhận thấy dấu hiệu muốn chấm dứt trong giọng của . “Chúng ta mới bắt đầu thôi, Amelia. trường vụ án có ba chiều. Hãy nhớ điều đó. Hãy bắt đầu từ điểm cách xa luồng hơi nước nhất và tìm từng inch .”


      từ từ vòng quanh con rối ghê sợ ở giữa phòng. nghĩ về trò chơi Maypole – cây nêu ngày mùng tháng Năm từng chơi trong những lần vui chơi phố Brooklyn lúc mới khoảng sáu, bảy tuổi, khi cha tự hào đem phim về nhà. vòng quanh chậm. Đấy là căn phòng nhưng có hàng nghìn chỗ để tìm kiếm.


      Vô vọng… thể.


      Nhưng phải như vậy. gờ tường, cách sàn nhà khoảng sáu feet, tìm thấy nhóm chứng cứ tiếp theo. bật ra tràng cười nhanh. “Tôi tìm được gì rồi này.”


      cụm chứ?”


      “Đúng thế. mảnh gỗ lớn màu đen.”


      “Đũa.”


      “Cái gì?” hỏi.


      “Dùng bút chì . Lấy bút chì để nhặt nó lên. Nó có bị ướt ?”


      “Mọi thứ ở đây đều ướt.”


      “Chắc chắn rồi, phải thế mà. Hơi nước. Cho nó vào trong túi vật chứng bằng giấy. Nhựa giữ bọn vi khuẩn lại và trong cái nóng như thế này vi khuẩn hủy hoại dấu vết vật chứng. Ở đó còn gì nữa?” hăng hái hỏi.


      “Đó là, tôi biết, lông. Tôi nghĩ thế. Ngắn, được cắt. nắm lông.”


      “Rời nhau hay bị dính vào da?”


      “Rời nhau.”


      “Trong va li có cuộn băng dính rộng. Nhãn 3M. Dùng nó để lấy lông lên.”


      Sachs nhặt gần hết nắm lông lên, đặt chúng vào cái phong bì giấy. nghiên cứu chỗ gờ tường quanh nắm lông. “Tôi thấy có mấy vết bẩn. Trông như gỉ sắt hay là máu.” nghĩ nên soi chỗ đó bằng đèn PoliLight. “Chúng phát sáng.”


      có thể làm bài thử giả định máu ?”


      .”


      “Cứ giả sử đó là máu. Có thể là máu của nạn nhân ?”


      giống thế. Chỗ này quá xa và dẫn đến chỗ xác ta.”


      “Nó có dẫn đến đâu ?”


      ”Có vẻ như vậy. Tới viên gạch tường. Viên gạch này lỏng lẻo. đó có dấu tay. Tôi sang bên cạnh. Tôi – ôi Chúa ơi!” Sachs hổn hển, vội lùi lại khoảng hoặc hai feet, bị vấp và suýt ngã.


      “Cái gì thế?” Rhyme hỏi.


      nghiêng người ra phía trước, tin vào mắt mình.


      “Amelia. với tôi nào.”


      cái xương. cái xương máu me.”


      “Xương người?”


      ”Tôi biết”, trả lời. “Làm sao mà tôi…? Tôi biết.”


      “Vụ giết người vừa rồi?”


      “Có vẻ thế. Dài khoảng hai inch và hai inch đường kính. đó vẫn còn máu với thịt. Nó bị cưa đứt. Thằng khốn nào có thể làm thế được…”


      “Đừng cuống lên.”


      “Nếu lấy cái xương này từ nạn nhân khác sao?”


      chúng ta lại càng phải tìm ra nhanh. Amelia, cho nó vào túi . Túi nhựa để đựng xương.”


      Trong khi làm, ta hỏi: “Có dấu tích dàn cảnh nào khác ?” ta có vẻ lo lắng.


      .”


      “Chỉ có thê thôi à? Lông, cái xương và mảnh gỗ. thể để cho việc đó quá dễ dàng, đúng ?”


      “Tôi có cần đem nó về… văn phòng của ?”


      Rhyme cười. “ muốn chúng ta đem nó . Nhưng chưa đâu. Ta vẫn chưa xong. Hãy tìm hiểu thêm chút nữa về Đối tượng 823 nào.”


      “Nhưng ở đây chẳng có gì.”


      “Ồ, có đấy Amelia. Ở đó có địa chỉ và số điện thoại của , hy vọng và cảm hứng của . Mọi thứ đếu ở quanh .”


      điên người vì giọng lưỡi giáo sư của ta nhưng vẫn giữ im lặng.


      có đèn ?”


      “Tôi có cái đèn halogen được cấp…”


      ”, ta càu nhàu. “Đèn pin được cấp chiếu quá hẹp. cần cây đèn mười hai volt có vùng chiếu rộng hơn.”


      “Thế à, tôi đem theo rồi”, phản ứng. “Liệu tôi có phải quay lại lấy ?”


      có thời gian đâu. Kiểm tra đường ống .”


      tìm kiếm khoảng mười phút, leo lên trần nhà, và dùng cây đèn rất sáng soi vào những điểm mà có lẽ chưa từng được soi sáng trong cả năm mươi năm rồi. “, tôi chẳng nhìn thấy gì cả.”


      “Quay ra cửa . Nhanh lên.”


      ngần ngừ rồi quay lại.


      “Được rồi. Tôi ở đây.”


      “Bây giờ nhắm mắt lại. ngửi thấy gì nào?”


      ”Mùi? Có phải vừa mùi ?” ta có điên nhỉ?


      “Lúc nào cũng phải ngửi khí ở trường vụ án. Nó có thể với nhiều điều.”


      vẫn mở mắt và hít vào. : “Nhưng tôi biết tôi ngửi thứ gì?”


      “Đó phải câu trả lời được chấp nhận.”


      thở ra cách bực tức và hy vọng tiếng rít có thể đến ống nghe của ta vừa ầm ĩ vừa ràng. nhắm chặt hai mắt, hít vào và lại cảm thấy buồn nôn. “Mùi mốc, mùi nước nóng từ đám hơi nước.”


      biết nó từ đâu đến. Cứ tả nó thôi.”


      “Nước nóng. Mùi nước hoa của người phụ nữ.”


      có chắc đấy là nước hoa của ta ?”


      “À, .”


      có dùng nước hoa ?”


      .”


      “Nước hoa dùng sau khi cạo râu sao? Nhân viên y tế? Sĩ quan ESU?”


      “Tôi nghĩ vậy. .”


      “Tả nó xem.”


      “Khô. Như rượu gin.”


      “Đoán thử xem, mùi nước dùng sau khi cạo râu của đàn ông hay nước hoa phụ nữ.”


      Nick dùng gì nhỉ? Arrid Extra Dry?


      “Tôi biết”, . “Loại đàn ông.”


      đến chỗ cái xác .”


      liếc nhìn đường ống, sau đó nhìn xuống sàn.


      “Tôi…”


      ”, Lincoln Rhyme .


      . Da bị lột trông giống như gỗ bulô đỏ và đen.


      “Ngửi cổ ta xem.”


      “Nó… Ý tôi là, còn nhiều da ở đó nữa đâu.”


      “Tôi xin lỗi, Amelia, nhưng phải làm thế. Ta phải xem đó có đúng là nước hoa của ta ?”


      làm theo, hít vào. Nôn khan, suýt nôn thốc ra.


      Mình nôn mất, nghĩ. Giống như lần mình và Nick trong cái đêm ở Pancho, say mềm vì hỗn hợp rượu rum đông lạnh chết tiệt. Hai cảnh sát cứng cựa uống cạn thứ đồ uống nhạt thếch có con cá kiếm nhựa màu xanh bơi lội bên trong.


      có ngửi thấy mùi nước hoa ?”


      Nó đến rồi… lại nôn khan.


      . được! nhắm mắt, tập trung vào các khớp xương đau nhức của mình. Phần đau nhất – đầu gối. Và thần kỳ, cơn buồn nôn lại qua . “Đó phải là nước hoa của ta.”


      “Tốt. Có thể chàng của chúng ta đủ kiêu ngạo để bôi nhiều nước hoa dùng sau khi cạo râu. Đó có thể là dấu hiệu của giai tầng xã hội. Hoặc có thể muốn che giấu thứ mùi gì đó mà có thể để lại. Tỏi, xì gà, cá, whisky. Ta phải xem. Giờ nghe kỹ đây, Amelia.”


      “Cái gì?”


      “Tôi muốn ta.”


      Ồ. Thằng điên thối tha. Đúng là thứ mình cần.


      “Tôi thực nghĩ rằng ta có thời gian cho việc này.”


      bao giờ có đủ thời gian cho khám nghiệm trường”, Rhyme dịu dàng tiếp. “Nhưng điều đó ngăn được chúng ta. Chỉ cần vào trong đầu . nghĩ theo cách chúng ta nghĩ. Giờ tôi muốn nghĩ theo cách nghĩ.”


      “Vậy à. Tôi phải làm thế nào?”


      “Hãy dùng trí tưởng tượng. Đó là lý do Chúa đem nó đến cho chúng ta. Rồi, giờ . còng và bịt miệng ta. đưa ta đến căn phòng ở đó. còng ta vào đường ống. dọa ta. tận hưởng điều đó.”


      “Làm sao biết tận hưởng điều đó?”


      tận hưởng. phải là . Làm sao mà tôi biết được? Vì chẳng có ai lại đâm đầu vào ngần ấy rắc rối để làm những việc ta thấy thích. Giờ biết đường rồi. Trước kia tới đây chưa?”


      “Sao lại nghĩ thế?”


      cần kiểm tra trước – để tìm chỗ hoang vắng với đường ống dẫn trong hệ thống hơi nước. Và để lấy những thứ manh mối mà đàlại đường ray.”


      Sachs bị thôi miên bởi giọng êm ái, của ta. hoàn toàn quên mất rằng cơ thể của ta bị hủy hoại. “Ồ. Đúng rồi.”


      tháo bỏ nắp đường ống dẫn hơi. nghĩ gì vậy?”


      “Tôi biết. Tôi chỉ muốn làm cho xong. Ra ngoài.”


      Nhưng những lời đó chưa kịp bật ra khỏi miệng trước khi nghĩ: Sai rồi. Rồi ngạc nhiên khi nghe tiếng Rhyme tặc lưỡi trong tai nghe. “ có thực nghĩ thế ?” ta hỏi.


      . Tôi muốn nó kéo dài.”


      “Đúng! Tôi nghĩ đó đúng là điều muốn. nghĩ xem hơi nước làm gì ta. còn cảm thấy gì nữa?”


      “Tôi…”


      ý nghĩ hình thành trong đầu . Mờ nhạt. nhìn thấy người phụ nữ vật lộn để thoát thân. Nhìn thấy thứ gì đó khác nữa… ai đó khác nữa. , nghĩ. Đối tượng 823. Nhưng sao? gần như hiểu ra. Cái gì… cái gì? Nhưng đột nhiên ý nghĩ tan biến. Mất hút.


      “Tôi biết”, thầm.


      có cảm thấy vội vàng ? Hay thấy thích những điều mình làm?”


      “Tôi vội. Tôi phải . Cảnh sát tới đây bất cứ lúc nào. Nhưng tôi vẫn…”


      “Cái gì?”


      “Suỵt”, ra lệnh. Rồi quét căn phòng lần nữa, tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể gieo mầm lại cho ý nghĩ vừa biến mất trong đầu .


      Căn phòng bơi, đêm đen đầy sao. Những vòng xoáy của bóng tối và khoảng cách, ánh sáng vàng vọt. Chúa ơi, đừng để con bị ngất.


      Có thể


      Kia! Đúng rồi. Ánh mắt Sachs chạy theo đường ống dẫn hơi. nhìn vào cái nắp nằm sâu trong hốc tường tối của căn phòng. Đó có thể là chỗ trốn tốt hơn cho – ta thể nhìn thấy nó từ ô cửa nếu ta ngang qua – và cái nắp thứ hai chỉ có bốn con ốc đó, phải tám, như cái chọn.


      Tại sao phải cái ống kia?


      Rồi chợt hiểu.


      muốn…Tôi chưa muốn bỏ vội vì tôi còn muốn để mắt tới ta.”


      “Sao nghĩ vậy?” ta hỏi, bắt chước lời lẽ của vài phút trước đó.


      “Có cái ống khác mà tôi có thể xích ta vào, nhưng tôi chọn cái ở chỗ trống trải.”


      “Để có thể nhìn thấy ta?”


      “Tôi nghĩ thế.”


      “Tại sao?”


      “Có thể để chắc chắn là ta chạy mất. Có thể để bảo đảm là miệng ta được dán chặt… Tôi biết.”


      “Tốt. Amelia. Nhưng điều đó nghĩa là gì? Chúng ta sử dụng việc này như thế nào?”


      Sachs nhìn quanh phòng để tìm kiếm chỗ ta có thể nhìn nhất mà bị trông thấy. Hóa ra đó là khoảng bóng tối giữa hai thùng dầu đốt nóng.


      “Đúng rồi!” phấn khích , nhìn xuống nền nhà. “ ở đây”. Quên mất trò chơi đóng vai. “ quét nhà.”


      quét khu vực đó bằng ánh sáng xanh mật của chiếc đũa thần PoliLight.


      có dấu chân”, đầy thất vọng. Nhưng khi nhấc cây đèn lên để tắt nó , vết mờ mờ tỏa sáng cái thùng.


      “Tôi có dấu tay rồi!” tuyên bố.


      dấu tay?”


      nhìn thấy hơn nếu vươn người ra trước và dựa vào cái thùng. Đó là điều làm. Tôi chắc chắn thế. Có điều, kỳ quặc. Lincoln. Nó bị… biến dạng. Tay ấy.” rùng mình khi nhìn vào bàn tay ác quỷ.


      “Trong vali có bình xịt dán nhãn DFO. Đó là thuốc nhuộm huỳnh quang. Phun nó vào chỗ dấu tay, chiếu đèn PoliLight vào đó rồi chụp ảnh bằng máy Polaroid tỷ lệ 1:1.”


      Khi xong việc, báo với Lincoln. ta : “Còn bây giờ hút bụi chỗ giữa hai cái thùng. Nếu ta may mắn có thể đánh rơi sợi tóc hay cắn móng tay.”


      Thói quen của mình, Sachs nghĩ. Đó là trong những thứ phá hoại nghiệp người mẫu của – móng tay dây máu, hàng lông mày lo lắng. cố thử, thử và thử ngừng lại. Nhưng cuối cùng đành đầu hàng, chán nản, điên cuồng vì chỉ thói quen nhặt làm thay đổi hẳn định hướng cuộc đời .


      “Cho bộ lọc chân vào túi.”


      “Túi giấy?”


      “Đúng rồi, túi giấy. Giờ đến thi thể, Amelia.”


      “Cái gì?”


      “À, phải xử lý thi thể.”


      Tim chùng xuống. Ai đó khác chứ, làm ơn . Để ai đó khác làm việc ấy . : “Nhưng được làm trước khi khám nghiệm pháp y. Đó là quy định.”


      “Hôm nay có quy định, Amelia. Chúng ta đặt quy tắc cho mình. Đội khám nghiệm pháp y nhận ta sau chúng ta.”


      Sachs lại gần người phụ nữ.


      biết quy trình chứ?”


      “Vâng.” bước lại gần cơ thể bị hủy hoại.


      Rồi đông cứng. Cánh tay chỉ cách lớp da nạn nhân vài inch.


      Tôi làm được. rùng mình. Tự nhủ phải tiến lên. Nhưng thể; cơ bắp tuân lệnh.


      “Sachs, có đấy ?”


      thể trả lời.


      “Tôi làm được…Chỉ đơn giản thế thôi. thể. Tôi chịu.”


      “Sachs?”


      Và rồi nhìn sâu vào trong con người mình, bằng cách nào đó nhìn thấy cha mình, mặc đồng phục, khom thấp người vỉa hè nóng bức, lồi lõm ở Phố Bốn mươi hai Tây, vòng tay ôm kẻ say rượu hèn hạ để đưa ta về nhà. Rồi nhìn thấy Nick của lúc cười và uống bia với tên cướp máy bay trong quán rượu khu Bronx, kẻ lập tức giết nếu biết là cảnh sát chìm. Hai người đàn ông trong cuộc đời , làm việc họ cần phải làm.


      “Amelia?”


      Hai hình ảnh đó lấp loáng trong ý nghĩ của , và vì sao chúng làm bình tĩnh lại, hay bình thản đó đến từ đâu, thể biết. “Tôi đây”, trả lời Lincoln Rhyme và làm công việc như được huấn luyện. Cạo móng tay, chải lấy lông và tóc – đầu và mu. Tường thuật với Rhyme những gì làm lúc thực điều đó.


      Lờ đôi nhãn cầu mờ đục…


      Lờ phần thịt đỏ ngầu.


      Cố lờ cái mùi đó.


      “Lấy quần áo của ta”, Rhyme . “Cắt mọi thứ. Trước hết lót phía dưới tờ báo để lấy tất cả các mảnh vụn rơi ra.”


      “Tôi có cần kiểm tra túi ?”


      , ta kiểm tra ở đây. Gói các thứ vào giấy.” Sachs cắt cái váy và chiếc áo dài tay ra, quần áo lót. vươn tay định lấy cái mà tưởng là chiếc áo ngực, đung đưa trước ngực người phụ nữ. Cảm giác kỳ lạ, nó như rã ra trong tay . Sau đó, như bị cái tát, nhận ra mình cầm thứ gì và thét lên. phải vải, mà là da.


      “Amelia? ổn chứ?”


      “Vâng!” hổn hển. “Tôi ổn.”


      “Hãy tả lại những thứ dùng để giam hãm ta.”


      “Miệng bị dán băng dính, rộng hai inch. Còng số tám loại chuẩn để còng tay, dây phơi để trói chân.”


      “Soi đèn PoliLight vào cơ thể ta. có thể dùng bàn tay trần để chạm vào người ta. Tìm dấu tay xem.”


      làm theo. “ có gì.”


      “Được rồi. Bây giờ cắt sợi dây phơi – nhưng cắt vào nút, được chứ. Cho nó vào túi. Túi nhựa.”


      Sachs làm theo. Sau đó Rhyme : “Ta cần cái còng.”


      “Được rồi. Tôi có chìa khóa còng đây.”


      . Amelia. Đừng mở còng”


      “Cái gì?”


      “Cơ chế khóa còng là trong những cách tốt nhất để lấy dấu vết từ nghi phạm.”


      “Thế làm thế nào để tôi tháo nó ra mà cần chìa?” cười.


      “Trong va li có lưỡi cưa sắt.”


      muốn tôi cưa cái còng à?”


      Rhyme dừng chút rồi : “, phải cái còng đâu, Amelia.”


      “Thế muốn tôi làm gì… nghiêm túc đấy chứ? nghiêm túc đấy chứ? Tay ta?”


      phải làm.” ta khó chịu vì ngần ngại của .


      Được rồi, thế thôi. Sellitto và Polling chọn thằng khùng làm cộng . Có thể nghiệp của họ gặp rắc rối, nhưng mình theo họ.


      “Quên .”


      “Amelia, đó chỉ là cách thu thập vật chứng thôi mà.”


      Vì sao ta lại nghe có lý đến vậy? gắng sức nghĩ ra lý do. “Cái còng dính đầy máu nếu tôi cắt…”


      “Tim ta ngừng đập rồi. Ngoài ra…”, ta như đầu bếp truyền hình, “máu bị nấu đông lại rồi.”


      Bụng lại dâng đầy lên.


      “Nào, Amelia. Đến chỗ cái va li . Lấy cái cưa. nắp ấy.” ta lãnh đạm thêm: “Làm ơn.”


      “Thế vì sao lại bắt tôi cạo móng tay ta? Tôi có thể đem về cả bàn tay cho cơ mà!”


      “Amelia, ta cần cái còng. Ta phải mở nó ra ở đây và ta thể đợi đội khám nghiệm pháp y được. Cần phải làm việc này.”


      quay lại cửa. Tháo sợi dây, nhấc cái cưa trông xấu xí ra khỏi hộp. nhìn chăm chăm vào người phụ nữ đông cứng ở giữa phòng trong tư thế bị tra tấn.


      “Amelia? Amelia?”


      Bên ngoài, bầu trời vẫn bao phủ bởi thứ khí vàng vọt, tù đọng. Những ngôi nhà bên cạnh bị bọc bởi lớp xút như những cái xương bị thiêu cháy thành than. Nhưng Sachs lại chưa bao giờ vui như lúc này, khi được ở ngoài khí của thành phố. Va li khám nghiệm trường ở tay, tay kia là chiếc cưa sắt, cái tai nghe câm lặng đong đưa quanh cổ . Sachs bỏ qua đám đông cảnh sát và những người tò mò nhìn , thẳng về phía chiếc xe.


      Khi ngang qua Sellito, đưa cho ta cái cưa mà buồn dừng lại, đúng ra là quẳng nó cho ta. “Nếu Rhyme thực muốn làm việc đó, với ta là ta có thể xuống đó mà tự làm lấy.”


      II


      NGUYÊN TẮC LOCARD


      Trong đời thực, chỉ có cơ hội tại trường vụ án giết người.


      VERNON J. GEBERTH


      TRUNG ÚY CHỈ HUY ( NGHỈ HƯU)


      SỞ CẢNH SÁT NEW YORK

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :