KẺ TẦM XƯƠNG – Jeffery Deaver(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Tôi chịu.”


      “Lóc hết da ngón tay ta. Hết sạch. Đến tận xương.’


      Rhyme nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “ ta thông minh đấy chứ?”


      “Vì sao lại là thông minh?”


      “Để đảm bảo là ai dám đến lấy chiếc nhẫn . Nó đầy máu, đúng ?”


      “Kinh lắm.”


      “Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi AIDS, viêm gan. Kể cả nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng bỏ qua món chiến lợi phẩm đó. Tên ta là gì, Lon?”


      Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, này mở cuốn sổ ghi chép của mình.


      “Tammine Jean Colfax. ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”


      Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. dạng nhẫn biểu tượng của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. có tí mùi quân đội nào ở cậu ta. ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale(19). thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này về đâu?


      Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay run lẩy bẩy. Bằng động tác , Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn bảng điều khiển ECU của công ty Everest & Jennings(20) được kẹp ở bàn tay trái của và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân lệnh chỉnh giảm điều hòa nhiệt độ. thường mất công kiểm soát những thứ như lò sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh sáng, máy tính và cái khung lật trang của . Nhưng khi phòng quá lạnh bị sổ mũi. Và đó là tra tấn thực đối với chàng như .


      có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi.


      “Chẳng có gì.”


      là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.


      “Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn nghiên cứu báo cáo trường vụ án.”


      tiếng cười nữa. “Tôi? ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể gì với ?”


      có thể cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’


      “Bây giờ ai là giám đốc IRD?”


      “Vince Peretti.”


      “Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để ta đọc .”


      khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn .”


      “Chúng tôi là ai?”


      “Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của .”


      “Thế còn, Đại úy Peretti cảm thấy ra sao với lá phiếu tín nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như bé.


      Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí. Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám định Pháp y của CRC Press(21). Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y Quốc tế.


      “Nhìn chúng này”, Rhyme . “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng phủ đầy bụi.”


      “Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao ngồi dậy mà dọn dẹp cái chuồng lợn này ?”


      Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra tràng cười mà chính bản thân cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của trượt chân và khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc cảm thấy tiếc vì và Sellitto rời xa nhau. Sau đó dập tắt ngay cái cảm giác đó. càu nhàu: “Tôi giúp được. Xin lỗi.”


      “Chúng ta có hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng tôi…”


      “Hội nghị nào?”


      “Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. có hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. có nghe về việc vừa diễn ra ở London hai ngày trước ?”


      “Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.


      “Có kẻ cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây. Ông ta muốn có tiêu đề kinh khủng nào đó tờ Bưu điện.”


      “Có vấn đề ”, Rhyme nghiêm khắc. “Đó là Tammie Jean còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”


      “Jerry, cho ta thêm vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của ta nào.”


      Banks chuyển chú ý từ chân Rhyme sang chiếc giường của , thứ mà – như chính Rhyme phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là bảng điều khiển. Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống đường tàu Amtrak gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười . Đúng ra là chúng tôi tìm thấy ta chết. ta bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn lên và thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”


      Có nghĩa là có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí ràng. chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những gì ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà ta có thể trưởng thành để thoát khỏi nó, hoặc là . Lincoln Rhyme tin rằng bản thân chưa bao giờ trẻ cả.


      “Đạn có rãnh xẻ ?” Rhyme hỏi.


      “Sáu đường gân và đường xẻ, xoáy trái.”


      “Vì thế tìm cho mình khẩu Colt”, Rhyme và liếc nhìn sơ đồ trường vụ án lần nữa.


      ”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là chúng.”


      “Cái gì?”


      “Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks , chỉ vào sơ đồ trường vụ án.


      “Có dấu chân nào cầu thang ?”


      có gì. Nó bị lau . Chúng làm rất tốt. Dấu chân ra huyệt và quay lại cầu thang. chung là phải có hai tên mới có thể kéo được nạn nhân. ta nặng hơn trăm pound(22). người thể làm được việc đó.”


      “Tiếp .”


      “Chúng kéo ta tới huyệt, vứt ta xuống, bắn và chôn ta, sau đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”


      “Bắn ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.


      “Đúng thế. hề có vết máu quanh cầu thang và đường đến huyệt.”


      Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng : “Các cần tôi làm gì?”


      Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được điều huyền bí, Linc. mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”


      sao?” Đây là trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ vật lý đều có ý nghĩa.


      “Đúng hơn là điều đó thực kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn . Tôi để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom gắn tập báo cáo vào khung lật trang.


      “Tôi có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.


      “Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme trả lời. nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng mm. chiếc đũa thần bằng cao su lật trang giấy.


      Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.


      “Ai chịu trách nhiệm về trường?”


      “Chính Peretti. Khi ta biết rằng nạn nhân là trong những hành khách taxi, ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”


      Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng phút, những từ ngữ thiếu sáng tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm quan tâm. Rồi chuông cửa reo và trái tim nhảy lên vì cơn rùng mình. Ánh mắt hướng đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy ràng là thời gian đùa bỡn chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức xuống cầu thang.


      Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.


      “Đấy là bác sĩ Berger”, Thom qua máy đàm thoại nội bộ.


      Cuối cùng. Sau bao nhiêu lâu.


      “Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi phải đề nghị các ra về. vui khi gặp lại .” nụ cười. “ vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”


      Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng đọc qua báo cáo chứ, Lincoln? cho chúng tôi những gì nghĩ chứ?”


      Rhyme : “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba chiếu. Nhưng Rhyme tránh xa các thiết bị đeo đầu. Giờ đây, khi chỉ còn rất ít sung sướng nhờ các giác quan còn lại, muốn tước thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô la của mình. Những người khách làm mệt. chỉ buổi trưa, mà lúc nào cũng buồn ngủ. Cơ cổ run rẩy vì đau đớn.


      Khi Sellitto và Banks ra đến cửa, Rhyme : “Lon, đợi .”


      Viên thám tử quay lại.


      “Có điều nên biết. mới chỉ tìm thấy nửa trường vụ án. trường quan trọng chính là nửa còn lại – trường chính. Nhà ta. Đó là nơi đến. Và rất khó tìm.”


      “Sao lại nghĩ rằng còn trường khác?”


      “Vì ta bắn nạn nhân dưới huyệt. bắn ta ở chỗ kia – tại trường chính. Và đấy có thể là nơi giữ người phụ nữ. Đó tầng hầm hay nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai. Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ – “ ta muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó phải là nơi yên tĩnh và riêng tư.”


      “Có thể dùng ống giảm thanh.”


      có dấu màng ngăn cao su hay bông viên đạn”, Rhyme ngắt lời.


      “Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?” Banks phản đối. “Ý tôi là, hề có máu vương ở trường.”


      “Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.


      “À, vâng”, Banks trả lời, nở nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà biết?”


      “Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với viên đạn cỡ .32. Ít khi chết người nếu trúng não. Với nạn nhân cỡ như vậy, đối tượng có thể dẫn ta bất cứ đâu muốn. Tôi đối tượng, số ít vì chỉ có đối tượng thôi.”


      Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thầm, như thể ta gỡ mìn.


      Rhyme thở dài. “Đế giày là . Chúng do người hai vòng để lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân về phía bắc có cùng độ sâu như những dấu chân về phía nam. Như thế là ta vác khối lượng hai trăm pound theo đường này và vác khi đường kia. Nạn nhân có phải chân đất ?”


      Banks lật nhanh ghi chép của mình. “ tất.”


      “Được rồi, thế thủ phạm giày của nạn nhân trong chuyến dạo thông minh của tới cầu thang và ngược lại.”


      “Nếu xuống cầu thang làm thế nào tới được huyệt?”


      tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”


      “Nhưng có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”


      “Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”, Rhyme tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của vài nhà kho cũ dọc Đại lộ Mười . kẻ gangster tên là Owney Madden cho đào chúng trong thời kỳ cấm rượu để có thể chuyển rượu whisky lậu lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York Albany hay Bridgeport.”


      “Thế tại sao chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm vì có thể bị nhìn thấy khi kéo chàng qua gầm cầu?”


      hết kiên nhẫn. “ biết gì với chúng ta đúng ?”


      Banks định , nhưng sau đó lắc đầu.


      phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme . “ cần ai đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao để tay nạn nhân . vẫy chúng ta. Để được chúng ta chú ý. Xin lỗi, các có thể có đối tượng nhưng lại quá thông minh để có thể là hai. Có cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy đến đó và thử tìm dấu tay. có gì đâu. Nhưng các phải làm đúng như thế. Báo chí, các biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt đầu xuất … Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”


      “Có?”


      “Đừng quên trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, phải tìm bằng được nó. Và nhanh lên.”


      “Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”


      Rhyme tất nhiên đọc và thấy họ tin vào điều dối đó. Hoàn toàn tin.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      BA



      Ông ta có cách hành xử bên giường bệnh tốt nhất mà Rhyme từng biết. Và nếu ai đó có kinh nghiệm về cách hành xử bên giường bệnh đó chính là Lincoln Rhyme. thử tính lần và thấy từng gặp bảy mươi tám bác sĩ có bằng cấp trong vòng ba năm rưỡi qua.

      “Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger , nhìn ra cửa sổ.

      “Đúng ? Đẹp .”

      Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì ngoài bầu trời mù sương phía Công viên Trung tâm. Nó – và những con chim – về cơ bản là những gì nhìn thấy từ khi chuyển từ bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi trước. Phần lớn thời gian buông rèm cửa.

      Thom bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm cách sáu, bảy giờ lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt của bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở chiếc ống thiếu cộng tác đó bằng cái que thông và kem K-Y bốn lần trong ngày.

      Bác sĩ Berger quan sát quy trình này cách chuyên nghiệp về phương diện lâm sàng và Rhyme hề để ý tới vấn đề thiếu riêng tư. trong những việc làm đầu tiên mà kẻ tàn phế cần phải vượt qua là e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển hay khám nghiệm được thực với những nỗ lực nửa vời những kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực tàn phế, rất tàn phế quan tâm. Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi bệnh nhân dự tiệc hay hò hẹn đêm trước về, tất cả những người cùng phòng lăn xe tới giường ta để kiểm tra nước giải, đó là phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc chơi. lần Rhyme chiếm được kính trọng mãi mãi của những người tàn tật ở cùng bệnh viện khi cho ra đến nghìn bốn trăm ba mươi cc.

      với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần hộ mệnh của riêng mình.”

      “Ồ, diều hâu à?”

      “Chim ưng. Thường chúng làm tổ cao hơn. Tôi hiểu vì sao chúng lại chọn sống cùng với tôi.”

      Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống. Chim chóc làm ông ta quan tâm. Ông ta to lớn nhưng trông gọn gàng, người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp trai như phát thanh viên truyền hình.

      “Đúng là cái giường.”

      “Ông thích nó chứ?”

      Cái giường của hãng Clinitron, hình chữ nhật to tướng. Đó là cái giường có đệm khí – chất lỏng và có gần tấn hạt bọc silicon. khí nén được thổi qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu có thể có cảm giác, cảm thấy như mình trôi nổi.

      Berger uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. ta đem nó lên, đảo mắt thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta quá xã giao vậy?”

      Người bác sĩ hỏi Rhyme: “ từng là cảnh sát, có đúng với tôi thế ?”

      “Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD(23).”

      bị bắn à?”

      . Tìm kiếm trường vụ án. Mấy người công nhân tìm thấy xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được cầu xử lý riêng vụ này và khi tôi tìm kiếm ở đó thanh rầm sập xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”

      “Thực là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”

      “Giết ba người và làm bị thương người. Thủ phạm cũng là cảnh sát. Dan Sherperd. trung úy trong Đội Tuần tra.”

      Berger liếc nhìn vết sẹo hồng cổ Rhyme. dấu hiệu tiêu biểu của chứng liệt tứ chi – vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – có thể dứt bỏ được ống thông khí. Giờ có hai lá phổi mà cá là có thể giúp lặn dưới nước đến năm phút.

      “Như vậy là chấn thương cổ.”

      “C4.”

      “À, vâng.”

      C4 là khu phi quân của chấn thương cột sống. SCI(24) phía đốt sống cổ thứ tư có thể giết . Dưới đốt sống cổ thứ tư có thể hồi phục phần bàn tay và cánh tay, nếu là chân. Chấn thương đốt sống cổ thứ tư mấy nổi tiếng giúp sống nhưng bị liệt hẳn tứ chi. hoàn toàn còn sử dụng được tay chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và chủ yếu thở bằng cơ hoành. có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai chút. may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống bỏ qua sợi thần kinh vận động độc nhất, xíu. Điều đó cho phép động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.

      Rhyme kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời trong năm tiếp sau tai nạn đó. tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những cái lỗ khoan vào đầu để kéo cột sống thẳng lại. Mười hai tuần dùng thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – cái tạp dề nhựa và giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để giúp phổi tiếp tục bơm khí, ống thông khí lớn được dùng trong suốt năm, sau đó là bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng và đau ở đầu các chi vốn còn cảm giác.

      Tuy vậy với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự phát.”

      Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này có thể xuất chỉ vì nguyên nhân đơn giản như táo bón.

      Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng tháng trước – nguy hiểm tới mức Taylor phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống mà đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor cảnh báo rằng, điều đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.

      Berger lắng nghe với chút thông cảm, sau đó : “Trước khi chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là công việc thay khớp và hông. Tôi biết nhiều về thần kinh. Cơ hội hồi phục ra sao?”

      “Bằng , tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme , có vẻ hơi vội vàng. thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng ?”

      “Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe điều đó.”

      Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme : “Ai cũng có quyền tự sát.”

      Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi đồng ý với điều này. Trong hầu hết các xã hội, có thể có quyền lực nhưng có quyền. Khác nhau đấy.”

      Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.”

      Lincoln Rhyme đề nghị bốn bác sĩ giết . Tất cả đều từ chối. , cũng được, tự làm và đơn giản là ăn nữa. Nhưng quá trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành tra tấn thuần túy. Nó làm cho dạ dày đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng khiếp. thể ngủ được. Vậy là bỏ ý định và sau đó trong cuộc chuyện kinh khủng, cầu Thom giết mình. Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể nhiều tình cảm đến thế – và cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối cứu sống . Nhưng cậu ta thể giết được.

      Thế rồi có phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.

      Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt đầu xuất để phỏng vấn . bài báo – trênThời báo New York– có đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:

      , tôi có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế, dự án lớn tiếp theo của tôi là tìm cách tự sát. Đây thực thách thức. Tôi cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt sáu tháng qua.”

      Dòng chữ chấn động này thu hút chú ý của dịch vụ tư vấn của NYPD và số người trước đây biết Rhyme, nhất là Blaine (người với rằng là đồ điên khi tính đến điều đó, phải ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân – giống như khi họ còn ở với nhau – và bây giờ, khi mà đến, nghĩ cần rằng, sắp tái hôn).

      Trích dẫn này cũng thu hút chú ý của William Berger, người đêm đột ngột gọi điện cho từ Seattle. Sau vài phút trao đổi xã giao,Berger ông ta đọc bài báo về Rhyme. Sau khoảng lặng trống rỗng, ông hỏi: “ bao giờ nghe đến Hội Bến mê chưa?”

      Rhyme được nghe. Đó là nhóm ủng hộ chết tự nguyện đau đớn mà cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần(25). “Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng chục vụ tự tử có trợ giúp toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi phải cố giữ bí mật.”

      Ông ta ông ta muốn xem xét cầu của Rhyme. Berger đồng ý hành động nhanh chóng và họ vài cuộc trao đổi trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của họ.

      “Vậy là có cách nào để tự mình vượt qua, phải ?”

      Vượt qua…

      “Nếu như kiểu của Gen Harrod . Và cũng có phần được chắc chắn lắm.”

      Harrod là thanh niên sống ở Boston, người tàn tật, ta muốn tự tử. tìm được người giúp đỡ, cuối cùng ta quyết định tự làm bằng cách duy nhất mà ta có thể. Với chút khả năng kiểm soát mà ta có, ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy ta lái chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. ta chết vì bỏng độ ba.

      Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết đau đớn có thể gây ra.

      Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “, như thế ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của ra sao?”

      Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn của vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng , những cái cần điều khiển bằng cằm, máy tính đọc chính tả có thể đưa ra màn hình các từ đọc.

      “Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho , đúng ?” Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của .”

      “Đúng thế.”

      Làm cho người đó cảm thấy có tội mưu giết người, cũng như ngộ sát.

      “Thiết bị của thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả ?”

      “Thiết bị nào?”

      dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”

      “Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.”

      Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu thể cười vì cái chết còn cười vì điều gì được nữa?”

      xem .”

      đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu tiên sau nhiều năm cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.

      Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra chai rượu mạnh, hành động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. lọ thuốc . chiếc túi nhựa và băng cao su.

      “Thuốc gì vậy?”

      “Seconal. còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều. Những em bé này chắc chắn làm tốt, cần thắc mắc. Giờ đây thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… có thể ngủ rất lâu nhưng rồi cuối cùng cũng tỉnh lại.”

      “Còn cái túi?”

      “À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê. Tất nhiên là phi chính thức – giống như logo của chúng ta. Nếu thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta dùng đến cái túi. Trùm lên đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó ít đá vì sau mấy phút nó khá nóng.”

      Rhyme thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại thông thường, nghĩ.

      ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và . “Phía tây Công viên Trung tâm…. có nhận trợ cấp tàn tật ?”

      “Có ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI(26). Sau tai nạn, công ty xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ có trách nhiệm gì nhưng ràng có quy tắc luật pháp quy định rằng người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến tòa để bày trò.”

      “Rồi viết cuốn sách đó, đúng ?”

      “Tôi nhận được ít tiền từ đó. nhiều. Đó là cuốn ‘bán khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”

      Berger nhặt cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of the Crime nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi trường?”

      “Năm mươi mốt.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của , vì viết cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các trường vụ án xưa cũ của Thành phố New York mà có thể nhớ được. số vụ được giải quyết, số . viết về Nhà máy Bia Cũ, căn phòng khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người liên quan đến nhau xảy ra trong đêm vào năm 1839. Viết về Charles Aubridge Deacon, người giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu năm 1863, trong cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến. đổ cho những người cựu nô lệ giết bà và gây ra cơn thịnh nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của kiến trúc sư Stanford White bên Khu vườn Quảng trường Madison và về mất tích của Thẩm pháp Crater. Về George Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.


      “Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng tính, nhà thổ khu Chinatown(27), nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm thế nào biết được tất cả những điều đó về thành phố?”


      Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, nghiên cứu rất nhiều về thành phố, nhiều như từng nghiên cứu về ngành pháp y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. : “Các nhà hình học tồn tại trong chân . càng biết nhiều về môi trường, càng ứng dụng tốt hơn…”


      Vừa nghe thấy hưởng nhiệt tình trong giọng của mình, đột ngột dừng lại.


      Tự giận dữ với bản thân vì bị mắc bẫy dễ như vậy.


      “Làm hay lắm, bác sĩ Berger”, Rhyme đầy căng thẳng.


      “Nào. Hãy gọi tôi là Bill. Làm ơn .”


      Rhyme có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này nhiều lần rồi. Hãy lấy tờ giấy to, sạch , nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy tờ giấy to, sạch , nhẵn nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi nên. Những từ như kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức trong đầu. Những từ đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”


      “Lincoln”, Berger mềm mỏng tiếp. “Tôi cần đảm bảo là ứng cử viên phù hợp cho chương trình.”


      “Ứng cử viên? Chương trình? À, độc tài của học thuyết quyền được chết đau đớn”, Rhyme cay đắng . “Này bác sĩ, tôi quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực là ngay bây giờ.”


      “Vì sao lại là hôm nay?”


      Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. thầm: “Sao lại ? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”


      Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian chuyện với , Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là thực quyết tâm tiến hành…”


      “Tôi muốn”, Rhyme . Như mọi lần, nhận ra rằng ngôn từ của chúng ta yếu ớt đến đâu khi có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. thực muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.


      cần xin phép, Berger lấy trong túi ra gói Marlboros và cái bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như chàng công tử bột trong phòng hút thuốc của trường đại học hàng đầu. “Lincoln, hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng nào?”


      Chắc chắn rồi, hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì sao trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem cái chết thể tránh khỏi đến ngay lập tức là chuyện; gần phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân thể qua khỏi kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như trường hợp của Kevorkian.


      Nhưng còn người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme năm nay bốn mươi tuổi. còn phải dùng máy thở, nếu số gen nào đó trong dòng họ Rhyme có lý do y học nào khiến thể sống đến tám mươi tuổi.


      Berger thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ chút, Lincoln. Tôi cần đảm bảo rằng đây phải là cái bẫy.”


      cái bẫy?”


      “Các công tố viên. Trước đây tôi cũng từng mắc bẫy.”


      Rhyme cười. “Chưởng lý New York là người bận bịu. Ông ta mất công nghe trộm người tàn tật tìm cho mình người ủng hộ quyền được chết đau đớn đâu.”


      Liếc nhìn bản báo cáo trường vụ án.


      … cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ đống cát trắng: cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt đầu phai màu. Sợi được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng lượng và cho thấy có chứa A2B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. tìm thấy nguồn, phân biệt được sợi. Mẫu đuợc gửi tới văn phòng PERT(28-) của FBI để phân tích.


      “Tôi phải thận trọng”, Berger tiếp. “Việc này là cả nghiệp của tôi. Tôi hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. chung, đó chỉ là công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm dứt cuộc đời họ.”


      Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba inch(29). mẩu là loại giấy báo bình thường, đó có mấy từ “3:00 PM” in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của trang sách đó có in số trang “823”. Phông chữ Garamond và được ghi ngày. Phân tích ALS(30) và phân tích ninhydrin(31) tiếp theo cho thấy dấu vết in hằn mặt giấy. thể phân loại được.


      Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó ràng. Và vì sao những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh nhau? Ở đây có gì đó ổn.


      “Lincoln?”


      “Tôi xin lỗi.”


      “Tôi là… phải nạn nhân bỏng chịu cơn đau thể chịu đựng nổi. phải là người vô gia cư. có tiền, có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của … việc đó giúp được rất nhiều người. Nếu muốn, có thể có… cuộc sống hữu ích phía trước. cuộc đời dài.”


      “Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. cuộc đời dài.” cảm thấy mệt vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. : “Nhưng tôi muốn cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”


      Berger chậm rãi : “Nếu có bất kỳ cơ hội nhất nào mà lại tiếc nuối về quyết định của mình, , xem nào, tôi là người phải sống với nó. phải .”


      “Ai mà có thể chắc chắn về điều gì đó tương tự được?”


      Ánh mắt lại quay về với bản báo cáo.


      Tìm thấy được con ốc kim loại bên các mẩu giấy. Đó là con ốc hình lục lăng, đầu có đóng các chữ “CE”. Dài hai inch, xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.


      “Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ . Đó là chiếc Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ chúng ta có khoảng tiếng. Hãy chuyện lúc, sau đó ngày nghỉ ngơi và tôi quay lại.”


      Điều gì đó hối thúc Rhyme. cơn ngứa điên người – lời nguyền của tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là cơn ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời .


      “Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi chút, được ? Bản báo cáo ở kia. có thể lật qua nó, được ? Tìm cho tôi bức hình của con ốc.”


      Berger ngần ngại. “ bức hình?”


      bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’


      Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme.


      “Ở đó. Dừng.”


      nhìn vào bức hình và cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy . Ôi, phải ở đây, phải lúc này. Làm ơn , .


      “Tôi xin lỗi, có thể lật lại trang lúc nãy được ?”


      Berger lật lại.


      Rhyme gì, chăm chú đọc.


      Những mẩu giấy…


      3:00 PM… trang 823


      Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. nghe tiếng ù ù trong tai.


      Đây là tiêu đề bài báo trong tờ báo khổ . NGƯỜI CHẾT KHI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…


      Berger chớp mắt. “Lincoln? ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người đàn ông quan sát Rhyme kỹ lưỡng.


      Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme : “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”


      Berger chậm rãi gật đầu, chắc chắn lắm. “Cuối cùng vụ này được ổn lắm, phải ?”


      Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn biết có thể cầu ông quay lại đây sau vài giờ nữa đươc ?”


      Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta coi là loại muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta rồi bay về xứ Starbucks.


      Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger : “Ngày hôm nay được. Ngày mai… . Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.”


      Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… mong chờ cuối cùng gần như nằm trong tay , điều mà mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có hay ?


      Quyết định.


      Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình : “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra nụ cười vô vọng.


      “Chính xác vấn đề là gì?”


      người cùng làm với tôi trước kia. ta muốn có lời khuyên của tôi. Tôi chưa thực quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi phải gọi cho ta.”


      , đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là cơn lo lắng.


      Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm chưa hề cảm thấy. cực kỳ vội vàng.


      “Ông có thể gọi Thom lên đây được ? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới nhà, trong bếp.”


      “Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái gì vậy? Có thể. Gần như là thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ dần dưới cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom? Thom!”

      “Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.

      “Gọi cho Lon. Bảo ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”

      Rhyme liếc nhìn đồng hồ. quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ nữa.

      BỐN



      trường vụ án bị dàn cảnh”, Lincoln Rhyme .

      Lon Sellitto phanh áo khoác, để lộ chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ. ta ngửa lưng về phía sau, khoanh tay, dựa vào cái bàn đầy sách báo.

      Jerry Banks cũng quay lại, đôi mắt xanh nhợt của ta nhìn vào mắt Rhyme; cái giường và bảng điều khiển còn làm ta quan tâm nữa.

      Sellitto nghiêm nghị. “Vậy đối tượng định gì với chúng ta?”

      trường vụ án, đặc biệt là những vụ giết người, đối tượng thường chơi đùa với PE(32) hòng lừa điều tra viên. số tên khá thông minh, nhưng phần lớn như vậy. Chẳng hạn người chồng đánh vợ mình đến chết rồi tạo trường như vụ cướp – mặc dù ta chỉ nghĩ tới việc ăn trộm đồ nữ trang của ta – mà vẫn để lại chiếc vòng cổ vàng và chiếc nhẫn kim cương hồng của mình trong ngăn kéo.

      “Điều thú vị”, Rhyme tiếp. “ phải là điều xảy ra, Lon. Mà là điều xảy ra.”

      Sellitto nghi ngờ hỏi: “Điều gì khiến nghĩ vậy?”

      “Những mẩu giấy. Chúng có nghĩa là ba giờ chiều nay.”

      “Hôm nay?”

      “Nhìn này!” Hất đầu về phía bản báo cáo, cái hất đầu thiếu kiên nhẫn.

      “Mẩu giấy đó ba giờ chiều”, Banks chỉ ra. “Nhưng mẩu kia chỉ có số trang. Tại sao nghĩ như thế có nghĩa là hôm nay?”

      “Đấy phải là số trang.” Rhyme nhướn mày. Họ vẫn chưa hiểu. “Logic! Lý do duy nhất khi bỏ lại dấu vết là để gì đó với chúng ta. Nếu đúng như vậy 823 phải có ý nghĩa gì khác hơn là số trang, vì chẳng có dấu hiệu gì để chỉ ra nó được lấy từ cuốn sách nào. Và nếu đó phải là số trang là gì được?ݍ

      Im lặng.

      Điên tiết. Rhyme quát lên: “Đấy là ngày tháng. Tám hai mươi ba. Ngày Hai mươi ba tháng Tám. Điều gì đó xảy ra lúc ba giờ chiều nay. Còn bây giờ, cuộn sợi? Đấy là abestos(33).”

      “Abestos?” Sellitto hỏi.

      “Trong bản báo cáo? Công thức? Đó là hornblende(34). Silicon dioxide. Đó là abestos. Vì sao Peretti lại gửi nó cho FBI tôi hiểu. Như vậy sao. Chúng ta có abestos lòng đường ray, nơi mà thể có được. Và chúng ta có con ốc sắt với phần đầu hoen gỉ nhưng phía dưới . Điều đó có nghĩa là con ốc này được vặn ở đâu đó rất lâu và mới được tháo ra.”

      “Có thể nó được moi từ dưới đất lên”, Banks đề xuất. “Khi ta đào huyệt?”

      Rhyme : “. Ở Midtown nền đá rất gần với mặt đất, điều đó có nghĩa là tầng ngậm nước cũng vậy. Tất cả đất từ Phố Ba mươi tư lên tới khu Harlem chứa đủ nước để làm oxy hóa sắt trong vòng vài ngày. Nếu bị chôn, nó phải gỉ hoàn toàn chứ chỉ phần đầu. phải, nó được tháo ra ở đâu đó, được đem tới trường và được bỏ lại đó. Còn cát… Nào, cát trắng làm gì đường tàu ở Midtown Manhattan? Thành phần đất ở đây là đất mùn, phù sa, đá vôi, nền cứng và đất sét mềm.”

      Banks bắt đầu nhưng Rhyme đột ngột cắt lời ta. “Và tất cả những thứ đó được tập hợp lại để làm gì? Ồ, nghi phạm của chúng ta, định điều gì đó với chúng ta. Chắc chắn là thế. Banks, còn cánh cửa để vào sao?”

      đúng”, người thanh niên . “Họ tìm thấy cánh cửa cách huyệt khoảng trăm feet về phía bắc. Bị phá từ bên trong. cũng đúng về dấu tay. Chẳng có gì. Cũng chẳng có vết lốp xe hay dấu vết nào.”

      cuộn abestos bẩn, con ốc, tờ báo rách…

      trường?” Rhyme hỏi. “Vẫn nguyên trạng chứ?”

      giải phóng rồi.”

      Lincoln Rhyme, kẻ tàn tật với lá phổi của tên sát nhân, ầm ĩ thở hắt ra, đầy kinh tởm. “Ai mắc sai lầm này?”

      “Tôi biết”, Sellitto , vẻ thuyết phục. “Có thể là người chỉ huy giám sát.”

      Đó là Peretti, Rhyme hiểu. “Giờ các kẹt với những gì các có.”

      Bất kỳ dấu vết nào để chỉ ra kẻ bắt cóc là ai và mưu tính điều gì hoặc nằm trong báo cáo, hoặc vĩnh viễn biến mất; bị chân của cảnh sát, người đến xem và nhân viên đường sắt giẫm lên. Đào bới – hỏi han dân cư xung quanh trường vụ án, phỏng vấn nhân chứng, thu thập chứng cứ, những công việc truyền thống của thám tử – được tiến hành cách nhàn nhã. Nhưng trường vụ án phải được khảo nghiệm “như sét đánh”, Rhyme thường hạ lệnh cho sĩ quan của mình ở IRD. đuổi việc vài kỹ thuật viên CSU(35), những người di chuyển được nhanh như cầu.

      “Có phải Peretti tự xử lý trường ?” hỏi.

      “Peretti và toàn thể bộ sậu.”

      “Toàn thể bộ sậu?” Rhyme hỏi chế giễu. “Toàn thể bộ sậu là cái gì?”

      Sellitto nhìn Banks, người trả lời: “Bốn kỹ thuật viên ảnh, bốn người lấy dấu. Tám nhân viên tìm kiếm. Bác sĩ khám nghiệm ME.”

      “Tám nhân viên tìm kiếm trường vụ án?”

      Trong khám nghiệm trường vụ án, có đường cong dạng chuông. Hai sĩ quan được xem là hiệu quả nhất khi khám nghiệm trường giết người. mình, có thể bỏ qua vài thứ, ba người trở lên còn đánh mất nhiều thứ hơn. Lincoln Rhyme luôn khám nghiệm trường mình. để nhân viên lấy dấu vân tay, dấn chân, chụp ảnh, quay phim. Còn luôn tự mình đan lưới.

      Peretti. Khoảng sáu, bảy năm trước Rhyme thuê người thanh niên này, con trai chính trị gia giàu có và ta chứng tỏ được mình là thám tử trường tốt, rất sách vở. Đơn vị khám nghiệm trường luôn được coi là nơi béo bở và thường phải xếp hàng khá dài để vào được đơn vị. Rhyme luôn thích thú khi được rút ngắn hàng người đợi này bằng cách cho họ xem album ảnh gia đình – bộ sưu tập những bức ảnh trường vụ án kinh khủng nhất. số sĩ quan tái mặt, số khác cười khẩy. vài người trả lại cuốn album, nhướn lông mày như muốn hỏi, sao? Và đó lại là những người mà Lincoln Rhyme thuê. Peretti là người như vậy.

      Sellitto hỏi câu. Rhyme thấy người thám tử này nhìn . Sellitto nhắc lại: “ cùng chúng tôi làm vụ này chứ, Lincoln?”

      “Làm việc với ?” Lincoln vừa ho vừa cười. “ được đâu, Lon. . Tôi chỉ đưa ra cho các vài ý tưởng thôi. có chúng rồi đấy. Dùng chúng . Thom, gọi Berger cho tôi.” nuối tiếc việc lùi cuộc gặp mặt đối mặt với bác sĩ tử thần. Có thể vẫn chưa quá muộn. thể chịu đựng nổi ý nghĩ phải chờ thêm , hai ngày nữa cho ra của mình. Và thứ Hai… muốn chết vào thứ Hai. Điều này xem ra quá tầm thường.

      “Hãy làm ơn .”

      “Thom!”

      “Được rồi”,. người trợ lý trẻ tuổi , giơ hai tay đầu hàng.

      Rhyme liếc nhìn vào điểm chiếc bàn đầu giường của , cái lọ, những viên thuốc và cái túi nhựa được đặt ở đó – quá gần, nhưng lại giống với tất cả những thứ khác trong cuộc đời này, hoàn toàn nằm ngoài tầm với của Lincoln Rhyme.

      Sellitto gọi cuộc điện thoại, nghiêng đầu khi cuộc gọi thông. ta tự giới thiệu. Chiếc đồng hồ tường chỉ 12:30.

      “Vâng, thưa ngài.” Giọng viên thám tử trầm xuống thành tiếng thầm kính trọng. Thị trưởng, Rhyme đoán. “Về vụ bắt cóc ở sân bay Kennedy. Tôi chuyện với Lincoln Rhyme… Vâng, thưa ngài, ta vài ý tưởng về việc này.” Viên thám tử bước về phía cửa sổ, nhìn chằm chằm con chim ưng cách trống rỗng và cố gắng giải thích điều thể giải thích cho người đàn ông điều hành thành phố bí nhất thế giới này. ta dập máy và quay lại phía Rhyme.

      “Ông ta và cả sếp muốn có , Linc. Họ đòi riêng . Chính Wilson.”

      Rhyme cười. “Lon. Nhìn quanh phòng xem. Nhìn tôi đây! Có giống như là tôi làm vụ này ?”

      phải vụ bình thường, . Nhưng đây là vụ bình thường lắm, phải nào?”

      “Tôi xin lỗi. Tôi có thời gian. Người bác sĩ lúc nãy. Việc điều trị. Thom, cậu gọi ông ta chưa?”

      “Vẫn chưa. gọi ngay bây giờ đây.”

      Thom nhìn Sellitto. về phía cửa, bước ra ngoài. Rhyme biết cậu ta gọi. Thế giới này tệ hại.

      Banks chạm tay vào vết sẹo cạo râu hình chấm và ngắt lời: “Hãy cho chúng tôi vài suy nghĩ của . Làm ơn . Kẻ nghi phạm đó, …”

      Sellitto xua tay để cậu ta im lặng. ta vẫn nhìn Rhyme.

      Ôi, đồ đê tiện, Rhyme nghĩ. lặng im ngày xưa cũ. Chúng ta thường ghét nó đến đâu và luôn vội vàng để lấp đầy nó. Biết bao nhiêu nhân chứng và nghi phạm nấp dưới những im lặng nóng bỏng, dày đặc như thế này. Đúng, và Sellitto từng làm việc với nhau rất ăn ý. Rhyme hiểu chứng cứ còn Sellitto hiểu con người.

      Hai người lính ngự lâm. Và nếu có người thứ ba, đó là Sellitto im lặng tinh khiết đầy nghiêm nghị.

      Ánh mắt của viên thám tử chìm sâu vào bản báo cáo trường vụ án. “Lincoln, theo nghĩ điều gì diễn ra lúc ba giờ chiều nay?”

      “Tôi có ý tưởng gì”, Rhyme tuyên bố.

      phải thế chứ?”

      “Rẻ tiền quá, Lon. Tôi trị đấy.”

      Cuối cùng, Rhyme . “ ta giết ấy – người phụ nữ chiếc taxi. Và giết cách rất tệ hại, tôi đảm bảo với các đấy. kiểu có thể sánh ngang với chôn sống.”

      “Chúa ơi”, Thom thầm phía ngoài cửa.

      Vì sao họ lại để yên? Liệu có tốt hơn khi cho họ biết về cơn đau cảm thấy ở cổ và vai? Hay là những cơn đau ma quái – yếu hơn nhiều và khó chịu hơn nhiều – lang thang khắp cơ thể xa lạ của ? Về kiệt sức mà phải chịu đựng hằng ngày khi cố gắng để làm mọi thứ, thực là thế. Về vô vọng lớn nhất – việc phải trông cậy hoàn toàn vào người khác?

      Có thể với họ về con muỗi bay vào phòng tối qua và châm chích đầu suốt tiếng đồng hồ; Rhyme chóng cả mặt khi cứ phải gật đầu để xua nó cho tới khi con côn trùng đáp xuống tai , chỗ mà chấp nhận cho nó đốt, vì đó là chỗ mà có thể dụi xuống gối cho đỡ ngứa.

      Sellitto nhướn mày.

      “Hôm nay”, Rhyme thở dài. “ ngày. Thế thôi.”

      “Cảm ơn, Linc. Chúng tôi nợ .” Sellitto kéo chiếc ghế lại gần giường. Ra hiệu cho Banks làm theo. “Còn bây giờ. Cho tôi biết suy nghĩ của . Trò chơi của thằng khốn này là gì?”

      Rhyme : “Đừng nhanh quá như thế. Tôi làm việc mình.”

      kỹ thuật viên của IRD. Người giỏi nhất trong phòng thí nghiệm. Tôi muốn ta ở đây với những thiết bị cơ bản. Và chúng ta hãy sẵn sàng với đội chiến thuật. Cấp cứu. Và tôi muốn có vài số điện thoại.” Rhyme hạ lệnh, liếc nhìn chai Scotch ngăn kéo của mình. nhớ lại chai rượu mạnh Berger có trong bộ đồ nghề của ông ta. đời nào lại ra bằng cái thứ rác rưởi rẻ tiền đó. Buổi Ra Cuối cùng của ít nhất phải là loại Lagavulin mười sáu năm hay Macallan được để vài chục năm. Hoặc – mà sao lại nhỉ? – cả hai.

      Banks rút điện thoại di động. “Số loại nào? Chỉ cần…”

      “Số cố định.”

      “Ở đây?”

      “Tất nhiên là phải rồi”, Rhyme quát lên.

      Sellitto : “Ý ta là muốn người khác gọi điện thoại. Từ Đại Bản Doanh(36).”

      “Ồ.”

      “Gọi vào thành phố”, Sellitto ra lệnh. “Bảo họ cho ta ba đến bốn điều phối viên.”

      “Lon”, Rhyme hỏi. “Ai là người khám nghiệm tử thi ngày hôm nay?”

      Banks nuốt vào nụ cười. “Những Chàng trai Dũng cảm.”

      cái liếc mắt của Rhyme tước bỏ nụ cười khỏi khuôn mặt ta. “Thám tử Bedding và Saul, thưa ngài”, chàng thanh niên vội .

      Nhưng sau đó ngay cả Sellitto cũng nhăn mặt. “Những Chàng trai Dũng cảm. Mọi người đều gọi họ thế cả. biết họ đâu, Linc. Họ làm trong Nhóm Đặc nhiệm Điều tra Trọng án của thành phố.”

      “Thứ nhất là họ trông hơi giống nhau”, Banks giải thích. “Thứ hai là kết quả của họ cũng hơi buồn cười.”

      “Tôi muốn bọn diễn viên hề.”

      , họ giỏi đấy”, Sellitto . “Những điều tra viên trường tốt nhất của chúng tôi. có biết con quái vật bắt cóc bé tám tuổi ở Queens năm ngoái ? Bedding và Saul điều tra đấy. Họ thẩm vấn toàn bộ vùng lân cận – thu được hai nghìn hai trăm lời khai. Điều đó giúp chúng tôi cứu được bé. Khi chúng tôi được biết nạn nhân sáng nay là hành khách từ sân bay JFK, sếp Wilson phái họ .

      “Giờ họ làm gì?”

      “Chủ yếu là nhân chứng. Quanh đường ray. Và đánh hơi xung quanh tìm người lái xe và chiếc taxi.”

      Rhyme quát Thom ở phía cuối hành lang: “Cậu gọi cho Berger chưa? , tất nhiên là cậu chưa gọi. Cậu có hiểu từ ‘bất tuân thượng lệnh’ ? Ít nhất hãy tỏ ra có ích chút. Hãy đưa cái báo cáo trường vụ án lại gần hơn và lật trang .” hất đầu về phía cái khung lật trang. “Cái của nợ này là của Edsel đấy.”

      “Chẳng phải hôm nay chúng ta có tâm trạng vui vẻ hay sao?” Người trợ lý đối đáp.

      “Nâng nó cao lên. Tôi bị lác đến nơi rồi.”

      đọc khoảng phút, rồi nhìn lên.

      Sellitto điện thoại, nhưng Rhyme ngắt lời ta. “Bất kể là điều gì diễn ra lúc ba giờ chiều nay, nếu chúng ta có thể tìm được nơi hắt ta tới đó cũng trường vụ án. Tôi cần ai đó khám nghiệm chỗ này.”

      “Tốt”, Sellitto . “Tôi gọi Peretti. Ném cho ta cái xương. Tôi biết là mũi ta vểnh lên vì chúng ta rón rén quanh ta.”

      Rhyme gầm gừ. “Tôi có càn đến Peretti đâu?”

      “Nhưng ta là chàng trai vàng của IRD”, Banks .

      “Tôi muốn ta”, Rhyme cằn nhắn. “ có ai đó khác mà tôi muốn.”

      Sellitto và Banks nhìn nhau. Viên thám tử lớn tuổi hơn cười, xoa tay cách vô nghĩa vào chiếc áo sơ mi nhàu nát của ta. “Bất cứ người nào muốn, Linc, có người đó. Hãy nhớ rằng hôm nay là vua.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Nhìn chằm chằm vào con mắt mờ đục.


      T.J. Colfax, kẻ trốn chạy có mái tóc đen từ vùng đồi Đông Tennessee, tốt nghiệp Trường Quản trị Kinh doanh, Đại học New York, người buôn bán tiền tệ nhanh như chớp, vừa bơi ra khỏi giấc mộng sâu. Mái tóc rối bù của vướng vào gò má, mồ hôi chảy thành dòng mặt, cổ và ngực.


      thấy mình nhìn vào con mắt đen – cái lỗ trong ống hoen gỉ, đường kính khoảng sáu inch, cái đĩa truy cập được lấy ra từ đó.


      hít thứ khí mốc meo vào mũi. Miệng vẫn bị dán chặt, có vị nhựa, chất hồ dán cay. Đắng.


      Còn John? băn khoăn. ta đâu rồi? Từ chối nghĩ tới tiếng nổ lớn trong tầng hầm đêm qua. lớn lên ở Đông Tennessee và biết tiếng súng nghe như thế nào.


      Làm ơn , cầu nguyện c sếp. Hãy để ta bình an.


      Bình tĩnh nào, nổi giận với chính mình. Mày lại sắp khóc rồi đấy, mày nhớ điều gì xảy ra mà. Trong tầng hầm, sau tiếng súng nổ, mất phương hướng hoàn tàn, suy sụp, thổn thức trong cơn hoảng loạn và gần như bị chết ngạt.


      Đúng rồi. Bình tĩnh.


      Nhìn vào con mắt đen cái ống. Tưởng như nó nháy mắt với mày. Con mắt của thiên thần hộ mệnh.


      T.J. ngồi sàn, bị hàng trăm đường ống, những đường ống dẫn, những đường cáp điện ngoằn ngoèo như rắn bao quanh. Nóng hơn cả bữa ăn tối tại nhà , nóng hơn cả cái ghế sau chiếc Nova của Jule Whelan mười năm trước. Nước xuống, stalactite(37) rơi xuống từ những cái xà nhà đầu . Khoảng nửa tá bóng đèn màu vàng xíu là nguồn chiếu sáng duy nhất. đầu – ngay đỉnh đầu – là cái biển báo. thể đọc được nó cách ràng, dù có thể nhìn thấy đường viền đỏ. Phía sau cái thông điệp gì đó có dấu chấm than to tướng.


      cố thử lại lần nữa, nhưng cái còng giữ chặt quá, chọc cả vào xương. Từ cổ họng dâng lên tiếng hét tuyệt vọng, tiếng kêu thét của thú vật. Nhưng miếng băng dính dày miệng và tiếng ồn ào nghỉ của máy móc nuốt mất thanh đó; ai có thể nghe thấy tiếng của .


      Con mắt đen tiếp tục nhìn chằm chằm. Mày cứu tao, đúng ? nghĩ.


      Bất ngờ, im lặng bị phá vỡ bởi tiếng lanh lảnh, cái chuông sắt, ở rất xa. Như cánh cửa của con tàu bị sập lại. Tiếng động đến từ cái lỗ miệng ống. Từ con mắt thân thiện của .


      thúc còng vào cái ống và cố đứng dậy. Nhưng thể di chuyển được quá vài inch.


      Được rồi, hoảng loạn. Thư giãn. Mày ổn thôi.


      Đó chính là lúc nhìn thấy ái biển báo đầu. Trong khi cố thả lỏng, đứng thẳng lên được chút và nghiêng đầu sang bên. Điều đó khiến có thể nhìn thấy hơn các từ.


      Ôi , Chúa trong tim con…


      Và nước mắt lại rơi.


      hình dung ra mẹ , tóc buộc ngược phía sau, khuôn mặt tròn, mặc bộ đồ ở nhà màu xanh – vàng râu ngô, thầm: Ổn thôi, con . Đừng lo lắng gì.”


      Nhưng tin những lời đó.


      tin vào điều mà biển báo đó .


      Rất nguy hiểm! Hơi siêu nóng dưới áp suất cao. nhấc đĩa ra khỏi ống. Gọi Edison Hợp nhất để truy cập. Rất nguy hiểm.


      Con mắt đen mở nhìn , con mắt mở vào trái tim của đường ống dẫn hơi nước. Nó nhìn thẳng vào phần thịt màu hồng ngực . Từ đâu đó tít ở sâu trong cái ống xuất tiếng kim loại đập vào kim loại, những người công nhân đập búa, vặn chặt lại những mối nối cũ.


      Trong khi Tammie Jean Colfax khóc lóc, nghe thấy tiếng va đập nữa. Sau đó là tiếng rên từ xa, rất . Và qua hàng lệ, thấy hình như cuối cùng con mắt đen nhấp nháy.


      NĂM




      “Tình hình là như thế này”, Lincoln Rhyme tuyên bố. “Chúng ta có nạn nhân bị bắt cóc và thời điểm là ba giờ chiều nay.”


      có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của Rhyme, sau đó ta quay để trả lời cuộc điện thoại gọi đến. “Jerry”, Rhyme với Banks, “tóm tắt cho họ biết về trường vụ án sáng nay”.


      Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme có nhiều người lượn lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng ủng hộ việc này. Và cũng trả lời điện thoại, ngày càng dật hơn, trôi dần vào đơn. dành nhiều thời gian cho việc viết sách và khi còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào nữa, đọc. Khi chán đọc có phim thuê, truyền hình trả tiền và nhạc. Rồi sau đó bỏ cả ti vi và dàn thanh, chuyển sang ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức tranh này cũng được hạ xuống.


      độc.


      Đó là tất cả những gì cầu xin, và bây giờ nhớ nó biết bao.


      Jim Polling lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan phụ trách vụ án, nhưng những kiện như thế này cần có đại úy chỉ huy và Polling tình nguyện làm việc đó. Vụ này là quả bom hẹn giờ và có thể phá tung nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội truyền thông của sở sẵn sàng để ta đứng ra chắn đạn. Họ thực hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt động, những cuộc họp báo của họ được rắc đầy những từ như kiểu ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ nhanh chóng liếc sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào thế giới cũng có thể tình nguyện làm công việc đó trong vụ như thế này.


      Polling là người kỳ lạ. con người tự khai phá đường cho mình qua khu vực Bắc Midtown như trong những thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành phố. Nổi tiếng nóng tính, ta gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết chết nghi phạm có vũ khí. Nhưng kỳ lạ là ta lại có thể khôi phục nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears(38-) để đổi lấy những bộ vét sang trọng của Brooks Brothers (hôm nay ta mặc bộ Calvin Klein màu xanh hải quân) – và bắt đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên góc văn phòng xa hoa ở One Police Plaza.


      sĩ quan khác dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng cao chắc chắn, Bo Haumann là đại úy và chỉ huy ESU(39). Đội đặc nhiệm SWAT(40) của NYPD.


      Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết thúc cuộc điện đàm của ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.”


      “Có thêm thông tin gì về chiếc taxi ?” Polling hỏi.


      có gì. Họ vẫn đập bụi.”


      “Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ ta ngủ với ai đó mà ta nên hay ?” Polling hỏi. “Có thể là thằng bạn trai thần kinh?”


      . có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy chàng. Trông có vẻ như có ai theo đuổi.”


      có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi.


      .”


      Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.


      Rhyme nhìn về phía những giọng lại gần.


      khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn sĩ quan cảnh sát mặc cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại gần áng chừng ta khoảng ba mươi tuổi. ta cao và có vẻ đẹp “vênh váo” của những người đàn bà trang bìa của các tạp chí thời trang.


      Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể của họ. quan sát chiều cao của , cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá. Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này đến. Điều làm ấn tượng là cái nhìn trong mắt .


      ngạc nhiên – ràng rồi, chắc ai đó báo trước là người tàn tật – nhưng là cái gì đó khác. biểu mà trước đó chưa hề nhìn thấy. Tựa như hoàn cảnh của lại làm thấy thoải mái. Hoàn toàn trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể vào phòng và thư giãn.


      “Sĩ quan Sachs?” Rhyme .


      “Vâng thưa ngài”, , tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra. “Thám tử Rhyme.”


      Sellitto giới thiệu với Polling và Haumann. cũng biết hai người này, ít nhất qua uy tín của họ nếu phải vì điều gì khác nữa, giờ ánh mắt lại càng tỏ ra thận trọng.


      quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn trong những bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn. Nighthawks(41), tác giả Edward Hopper. Những người đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. trong những bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.


      Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy thoáng gì đó trong ánh mắt , cái gì nhỉ? sợ hãi? Ghê tởm?


      Jerry Banks, những ngón tay lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ chẳng phải cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của hấp dẫn và nở nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp lời duy nhất của Sellitto cho thấy ở đây hề có việc mối mai nào cả. Và có lẽ bao giờ có.


      Polling : “Có thể đây là cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là quả bom.”


      “Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai . “Vì sao lại tạo ra t những rắc rối đó? Nếu muốn giết tên cớm chỉ việc tìm lấy tên và bắn chết toi.”


      khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó Rhyme bị thương.


      Nhưng lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, tiếp tục: “Tôi đồng ý với Lon. Nhưng tôi với tất cả nhóm S&S(42) và nhóm HRT(43) phải đề phòng mai phục. chàng của chúng ta có vẻ viết ra quy tắc riêng cho mình.”


      Sachs nhìn bức tranh của Hopper lần nữa. Rhyme dõi theo ánh mắt . Có thể những người trong bữa ăn tối thực đơn, ngẫm nghĩ, trông họ đều rất hài lòng.


      “Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme tiếp. “Vật chứng chuẩn. Những thứ mà nghi phạm muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay, có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến trường thứ nhất. Đây là nơi ta sống.”


      “Hay là hang ổ lẩn trốn của ”, Sellitto gợi ý. “ chỗ ở tạm.”


      nơi nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là đúng đấy, Lon. cần nơi để hành động.” tiếp tục: “Sau đó là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – với chúng ta ngày tháng – chúng ta có con ốc, cuộn asbestos và cát.”


      cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc cắt ngắn của mình. ta trông vẫn giống chàng trung sĩ tập mà Rhyme còn nhớ.


      “Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp là ta có khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.


      “Tôi nghĩ thế, có thể.”


      Viên đại úy gọi điện thoại và về phía góc phòng để chuyện. Khi dập máy ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp ngồi với ông ấy. cuộc họp báo sau tiếng nữa và tôi phải đến đó để đảm bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn có gì để thêm với họ nữa ?”


      Sellitto liếc nhìn Rhyme, lắc đầu.


      “Chưa có gì đâu”, viên thám tử .


      Polling cho Sellitto số di động của ta và ra, đúng hơn là chạy ra khỏi cửa.


      khắc sau, người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc thư thả lên gác. Mel Cooper là người mà lúc nào cũng có vẻ ngớ ngẩn, nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong vở hài kịch tình thế. sau ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món hàng nặng nề của mình xuống và ra về.


      “Mel.”


      “Thám tử.” Cooper tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của . tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của , Rhyme ghi nhận. và Cooper từng làm việc cùng nhau trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo pháp lý – và phân tích vật chứng.


      “Nhà hình học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper hỏi .


      Rhyme cảm thấy giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được báo chí gắn cho mấy năm trước, sau khi bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI chọn cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập PERT của họ. thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng viên gọi Rhyme là “nhà hình học”.


      Thuật ngữ này thực ra tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ cho Paul Leland Kirk(44) huyền thoại, người điều hành Trường Hình học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi các kỹ thuật viên toàn quốc rụt rè làm quen với các tóc vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình học thay vì là những nhà khoa học pháp y.


      “Ác mộng của mọi người”, Cooper , “ vào taxi nhưng hóa ra lại có thằng khùng lái xe. Cả thế giới quan sát Quả Táo Lớn(45) vì cái hội nghị đó. Tôi lấy làm lạ nếu họ lôi ra khỏi chỗ nghỉ hưu vì việc này.”


      “Mẹ thế nào?” Rhyme hỏi.


      “Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”


      Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong ngôi nhà ở Queens, nơi ta sinh ra. Niềm đam mê của ta là khiêu vũ dạ hội – tango là hàng độc của ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu hướng giới tính của ta. Rhyme quan tâm đến cuộc sống cá nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng ngạc nhiên như những người khác khi gặp Greta, bạn lâu năm của Cooper, phụ nữ Bắc Âu lộng lẫy dạy toán tại Columbia.


      Cooper mở cái rương lớn lót nhung. ta lấy ra các bộ phận của ba cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.


      “Ồ, điện trong nhà.” ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính gọng kim loại cao hơn lên mũi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :